Có thể nói, Gấu này cũng có, cùng hai ông thầy, Faulkner và Sartre, như
Llosa, [ông hơn Gấu một tuổi, sinh 1936, cùng tuổi TTT], khi tập
tành viết lách. Nhưng sự vỡ
mộng của ông, đối với Sartre, theo Gấu, là do, ông đọc Sartre khác Gấu.
Trong bài viết
The Mandarin, ông
không hề nhắc đến cuốn bảnh nhất của Sartre,
Buồn Nôn. La Nausée. (1)
*
"Tôi không nghĩ đến thân phận giai cấp mình, tôi muốn nghĩ đến thân
phận
giai cấp
khác, thân phận ngay chính giai cấp vô sản"
TTT: Bếp Lửa
Llosa giải thích, thời của ông, cũng là thời của TTT:
Hoàn cảnh bi thương của đám trí thức tiến bộ những năm 1950 và 60, có
thể tóm tắt bằng câu của Sartre, trong một tiểu luận, viết năm 1960:
"Hợp tác với Đảng Cộng Sản, thì, cùng một lúc, liền tù tì, vừa cần
thiết, vừa bất khả."
*
Đó không phải là cách đọc Sartre của đám Gấu, và đồng bọn, thường được
coi là nhóm 'tiểu thuyết mới" ở Miền Nam.
Một cách nào đó, đám Gấu đọc Sartre từ
La Nausée, và cũng bắt đầu viết, từ
đó, từ những phát giác văn chương, của Sartre, nhưng do quá mê chính
trị, ông đã bỏ qua.
Gấu đã từng kể kinh nghiệm đọc
La
Nausée của Gấu, và của ông bạn HPA. Có những xen, hai đứa đọc,
trong những tình huống, thời điểm khác nhau, nhưng, phản ứng, có thể
nói, y hệt nhau.
HPA tại nhà
ở Sài Gòn
cc 2001
Tôi "biết" Sài-gòn, phần lớn là
qua "ông thầy" Huỳnh Phan Anh. "Thằng chả" dậy tôi chơi banh bàn, bi
da. Quán bi da nổi tiếng mà lâu ngày tôi quên mất tên, ở khu Ngô Tùng
Châu, gần trường Nguyễn Bá Tòng, là nơi hai đứa nhiều ngày đứng suốt
buổi, khi ra khỏi quán hai chân rã rời, kéo nhau băng qua đường, leo
lên gác xép ngủ. Nhà Huỳnh Phan Anh là nơi lần đầu tiên tôi nhìn thấy
cái bàn ăn "dã chiến", khi ăn mở ra, ăn xong xếp lại. Đứa em trai nói
ngọng. Mấy chị em là nguồn kinh tế của hai đứa chúng tôi. Rồi thằng chả
dậy tôi "xóm" nghĩa là gì.
Sau này học
trò vượt ông thầy. Tôi sa xuống mãi đáy Sài-gòn, những nơi chốn mà bạn
tôi đã từng căn dặn chớ mò tới. Cái trò đọc sách trong một quán chệt,
chỉ cần một ly cà phê túi, hoặc ly hồng xà (hồng trà), rồi cứ thế ngồi
suốt buổi, là cũng do anh truyền cho tôi. Và hai đứa chia nhau kinh
nghiệm đọc, nhờ nó. Có lần anh kể cho tôi nghe, bữa trước đọc Buồn Nôn,
La Nausée, tới đoạn Roquentin đi trong thành phố Bouville, "một mình mà
như cả một đoàn quân đang xuống phố"; "đọc tới đây, thú quá tao cũng bỏ
ra ngoài đường lang thang một hồi...", và có lần cũng cảm thấy, như
Roquentin, "tương lai đang chờ đợi ở một ngã tư đầu đường". Tôi cũng có
những kinh nghiệm y hệt như vậy.
Qua anh tôi có
được quá nhiều bạn: Dương Văn Ba, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Đồng, Hoàng
Ngọc Biên, Đặng Phùng Quân, Nguyễn Nhật Duật... Có thời gian tôi "cộng
tác" với báo Điện Tín, là do anh. Thân nhất, có lẽ là lúc anh đang học
Sư Phạm Đà Lạt. Tuần nào tôi cũng nhận được thư. Anh vốn là một con
người rất cứng rắn, "dur", ít khi bộc lộ tình cảm. Những lá thư là một
Huỳnh Phan Anh "đích thực", đối với tôi.
Lần đầu tiên
tôi biết Đà Lạt là lần lên thăm anh. Đúng vào dịp Giáng Sinh, với một
người bạn. Cả ba đi lang thang ngoài đường đến gần sáng, say, hát, la,
rống dọc theo những con dốc. Lần đó, tôi có cảm tưởng sống lại Hà-nội,
và mơ hồ hiểu được tâm trạng của những người lính lê dương nhớ nhà, say
sưa giữa thành phố, giữa cuộc chiến "không phải của họ".
Với Huỳnh Phan
Anh, tôi chỉ ân hận một điều, anh dậy tôi nhiều quá, còn tôi, chỉ có
một bài học, đúng ra là một kinh nghiệm, mà không làm sao nói lại cho
anh hiểu: tại sao bỏ vào Nam.
Nhưng câu hỏi
đó, cho đến nay tôi cũng vẫn chưa trả lời được, cho chính tôi.
Chợ Đũi, Huỳnh Phan Anh, và tôi
*
Milosz không ưa Sartre, lẽ
dĩ nhiên,
vì Sartre mê Cộng Sản, mà ông từ phía đó bỏ chạy qua Paris.
Ông hợp với Camus, và cả hai rất thông cảm nhau, về cái tai ương
của nhân loại: Cái Ác Mầu Đỏ đó.
Sau đây là "đầu vào" [input, entry], về Camus của ông trong ABC.
Camus, Albert. Tôi
theo dõi chuyện xẩy ra cho ông, sau khi xuất bản Con Người Nổi Loạn, L'homme révolté.
Ông viết như một con người tự do [like a free man], nhưng hoá ra là
điều này không được phép, bởi vì đụng vô lằn ranh "chống-đế quốc" [có
nghĩa, chống Mỹ, và ủng hộ Xô Viết]. Chiến dịch thô bỉ nhằm phạng Camus
của Sartre, và Francis Jeanson, trên tờ Thời Đại Mới, được a dua
[joined] bởi Simone de Beauvoir, cú này trùng hợp với thời điểm tôi
đoạn tuyệt [break] với Varsaw vào năm 1951. Đây cũng là thời điểm mà
Sartre viết về Camus:
"Nếu bạn không ưa cả Cộng Sản lẫn Tư Bản, thì chỉ còn có một chỗ cho
bạn dung thân là Quần Đảo Galapagos".
Camus thò tay ra, bắt tay tôi, vào thời điểm đó, thật
quan trọng, thật chí tình.
Milosz viết về bạn tình, bạn đường, của Sartre.
Beauvoir, Simone
de. Tôi chẳng hề gặp, nhưng chuyện không ưa nổi bà ta thì không hề
giảm, sau khi bà mất, và ngay cả cho tới bi giờ, khi bà chỉ còn là một
cái tiểu chú về thời của bà... Thì cứ thú nhận, thẳng ra ở đây,
một thằng nhà quê miệt vườn, làm sao mà ưa cho nổi một bà lớn [grande
dame]... Tôi không thể tha thứ cho bà ta về những trò hạ cấp,
cùng Sartre, nhắm bề hội đồng Camus.
Nói tới Camus, Gấu tôi nhớ, có lần ngồi Pagode, nhà thơ TTT chê Kẻ Xa Lạ, khi so sánh đoạn tử tội
Meursault gặp ông thầy tu, với cũng một xen như vậy, trong Đỏ và Đen, thì Camus không đáng là
học trò của Stendhal.
Ấy là mấy chục năm sau, thằng em diễn lại câu phán của ông anh, qua...
tưởng tượng.
Quả thế thực, nhưng theo Gấu tôi, phải tính tới cái tuổi của người đọc,
khi đọc bất cứ một tác giả.
Stendhal là phải già già một chút mới đọc được. Còn me-xừ Meursault
không kịp có tuổi già. Những nhân vật như thế, là phải "chết non", mượn
lại từ của ông anh.
Và có những tác phẩm, bạn không nên đọc sớm quá, và nên để dành! Lời
khuyên của ông bà chúng ta, chớ đọc Phan Trần, chớ đọc Thuý Vân Thuý
Kiều, là có thiện ý chứ không liên quan tới đạo đức. Cái cảnh, "Rõ ràng
trong ngọc trắng ngà, Rành rành trước mắt một tòa thiên nhiên", chỉ
'trở thành hiện thực', khi bạn vừa đọc xong câu đó, là bèn thực
hành liền!
Theo nghĩa đó, một độc giả của tờ TLS [số tháng Hai, 2004, mục Sổ Tay]
sung sướng la lên rằng, may quá, tới hơn nửa đời người, mới đọc Hamlet.
Đúng là một món quà quí báu dành để đọc vào lúc xế bóng về chiều, mái
tóc muối tiêu [a mid-life gift to himself].
Sự nổi tiếng của một số tác giả ở trong nước, sau 1975 thí dụ như NHT,
DTH, BN, có dư luận hải ngoại cho rằng, họ ảnh hưởng văn chương miền
nam trước 1975. Tôi nghĩ, có. Chiến thắng miền nam, và thực thế phũ
phàng sau đó, làm sao không ảnh hưởng lên bất cứ một người viết?
Đoạn cuối Nỗi Buồn Chiến Tranh,
đọc, thấy phảng phất Tiếng Động của
Thanh Tâm Tuyền. Tướng Về Hưu có
không khí hiện sinh của một thời hậu chiến ở bên... Tây. Thiếu,
là thiếu một tiếng hát, của Gréco, và một điệu Jazz, thí dụ, some of these days... Một ngày nào,
anh sẽ nhớ em... của La
Nausée.
Thiệp có thể "mơ hồ" cảm nhận ra sự thiếu sót đó, và thay bằng tiếng
hát... nữ thuỷ thần.
Kinh nghiệm đọc Buồn Nôn
Có thể nói, Gấu này cũng có, cùng hai ông thầy, Faulkner và Sartre, như
Llosa, [ông hơn Gấu một tuổi, sinh 1936, cùng tuổi TTT], khi tập
tành viết lách. Nhưng sự vỡ
mộng của ông, đối với Sartre, theo Gấu, là do, ông đọc Sartre khác Gấu.
Trong bài viết
The Mandarin, ông
không hề nhắc đến cuốn bảnh nhất của Sartre,
Buồn Nôn. La Nausée. (1)
Kinh nghiệm đọc Buồn Nôn
"Je serai ta femme".
LH 16.8.1967
... sự sống sót của chàng là một
điều xúc phạm tới tình yêu thiêng liêng: Chàng vẫn sống và nàng đã
chẳng tới được nhà thương đêm đó.
Thời gian
Hình chụp tại Đài Liên Lạc VTĐ số 5 Phan Đình Phùng Sài Gòn.
Bàn giấy ông trưởng đài, có cái bảng tên của ông: TBT.
Gấu làm quen với tờ Văn bằng
truyện ngắnThời gian. Truyện
thứ nhì, sau truyện đầu tay
trên Nghệ Thuật. Những Ngày ở Sài
Gòn.
NĐT order,
ngay lần đầu gặp, tại phở 44, Phan Đình Phùng.
*
Gấu sống, là nhờ được thay máu. Đêm đầu tiên, nằm phòng hậu-giải phẫu,
đau quá, Gấu lăn lộn,
vết thương nứt, máu chảy thành vũng dưới sàn giường. Sáng sớm, vừa
cho phép thân nhân vô phòng, bà cụ lao vội vô, thấy thằng cu Gấu nằm
ngay đơ,
sợ quá la lên, y tá tới, tiếp máu liền tù tì, may thoát.
*
Đêm thứ nhì sau vụ mìn nổ,
khi chàng tỉnh táo, nhận ra những khuôn mặt thân thương trong gia đình,
chàng cố gắng cất tiếng nói nhưng không thể, và chàng cảm thấy thật rõ
ràng một điều, chàng sẽ chết trong đêm, và trước khi chết, chàng sẽ
được gặp nàng lần cuối cùng. Trước khi chết, chàng sẽ còn đủ thì giờ để
nói với nàng, rằng chàng yêu nàng vô cùng, và tình yêu đó chẳng liên
can gì đến đời sống hoặc cái chết, rằng nó phải như vậy, nếu không đã
chẳng thể nào có nàng và chàng ở trên đời, và điều chàng ân hận, là
chàng đã yêu nàng nhiều quá, như một lần chàng đã viết, "Chúng ta không
sợ chúng ta không yêu thương nhau mà chỉ sợ chúng ta yêu thương nhau
nhiều quá." Chàng cảm thấy đời chàng sẽ kết thúc như vậy, và chẳng thể
nào khác.
Sáng sớm hôm sau, khi chàng nhận thấy đã chống cự
nổi, và thắng cả thần chết, đã lừa dối được định mệnh, đồng thời chàng
cũng nhận ra một sự thật thảm thương, là sự sống sót của chàng như có
một điều chi bất thường, giống như một nốt nhạc sai, dư, thừa, bất
toàn, một giọng hát lạc giữa một bài ca, sự sống sót của chàng là một
điều xúc phạm tới tình yêu thiêng liêng: Chàng vẫn sống và nàng đã
chẳng tới được nhà thương đêm đó.
Trong khi lần hồi sống lại, trong những lần nàng vào
nhà thương Grall thăm chàng, nghe nàng kể chuyện, khi được tin, nàng đã
khóc và không dám giụi mắt, vì sợ mắt sẽ đỏ, và người trong nhà sẽ
biết. Chàng nghe kể lại, vừa cảm động vừa hổ thẹn...
Thời gian
*
Bây giờ, sắp xuống lỗ, Gấu nhận ra, không phải đêm thứ nhì sau vụ
mìn nổ, mà là đêm đầu tiên, nằm phòng hậu giải phẫu trên.
Thời gian Gấu
nằm nhà thương Đô Thành, LH không tới thăm.
Tức là cái đêm tí nữa thì đi, đúng như định mệnh phán bảo, nhưng do LH
không làm sao kiếm cớ ra khỏi nhà, nên định mệnh lại phán tiếp, thôi
tha cho nó!
*
Gấu ăn tới hai trái claymore của mấy ông biệt động thành. Cú thứ
nhất, gẫy cánh tay trái, giống như một nhánh cây bị bẻ, gập đôi lại. Cú
thứ nhì, thủng bụng. Khi được đưa vô nhà thương Đô Thành, bác sĩ băng
bó tạm cánh tay, lo giải phẫu vết thương bụng. Tay, cùng lắm thì cưa
bỏ, bụng để lâu là đi. Một tay bác sĩ người Đức mổ.
Trong khi chờ vết thương bụng lành dần, cánh tay bốc mùi, kiến bu đen
kịt mớ băng dính đầy máu. Đúng lúc đó, tổng giám đốc Bưu Điện, cũng là
thầy của Gấu, ông Nguyễn Văn Điều, vô thăm, ông lắc đầu, ra lệnh, cho
nó
vô Grall liền. Tao trả tiền. Grall là nhà thương tư của Pháp. Cỡ Gấu
không làm sao vô đó nổi.
Tao trả tiền, có nghĩa, nhà nước trả tiền, trừ dần vào lương Gấu
sau đó. Chỉ có ông mới quyết định được chuyện này.
Thành ra, "tha cho nó", còn sướng như vậy nữa!
Khi nằm nhà thương Đô Thành, tay Dirck Halstead, sếp UPI của Gấu vô
thăm, hỏi nhà thương, hết bao nhiêu. Và anh xỉa tiền cho Gấu. Gấu bỏ
túi. Đúng là "tha cho nó"!
Nhưng qua tới nhà thương Grall, UPI Nữu Ước lắc đầu, mày là nhân viên
part time của chúng tao, không phải staff. Ít thì tao cho, nhiều quá,
để VNCH, tức Bưu Điện của mày lo!
Không có thầy Điều, thì cũng thành độc thủ đại hiệp. Độc thủ, độc nhãn,
thành Lưỡng Độc Đại Hiệp!
Ông TBT, trưởng đài, sếp của Gấu, may được một anh MP Mẽo, thường lên
Đài nói chuyện với gia đình ở Mẽo, nhận ra, gọi xe cứu thương đưa liền
vô bệnh viện của Mẽo. Sau đó, anh cũng qua Grall, nhưng chỉ để nằm chờ
cho vết thương lành lặn. Anh kể lại, tao thấy tay bác sĩ Danney [hay
Daney], vô phòng mổ ngay sáng sớm, tới đâu 4, hay 5 giờ chiều mới ra,
đi không nổi, bước loạng choạng!
Phòng của anh nằm ngay phiá bên ngoài phòng mổ.
*
Vào thời kỳ Gấu ăn mìn claymore, nhân loại chưa phát minh ra chất inox.
Để thay cho khúc xương bị mìn claymore thổi bay biến vào hư vô, bác
sĩ sử dụng một thanh kim loại, không biết chất gì, nhưng được mạ bằng
platine, tức vàng trắng. Gấu sau đó phải trả mấy năm mới hết nợ nhà
nước.
Gấu lần đầu làm quen morphine, là do những ngày nằm nhà thương, sau vụ
mìn nổ.
*
Thú thực, Gấu này chưa từng thấy, một quốc gia nào làm nhục người dân
của nó, như đám VC trong nước.
Những người cầm viết, nếu có một chút lương tri, là cảm thấy nhục nhã,
hơn lên, không biết bao nhiêu ngàn lần.
Không phải người cầm bút thì khác người dân thường. Nhưng, vì đã chọn
cái nghề cầm bút như là nghiệp của mình, thì thường là, nhạy bén hơn,
trong cái việc cảm thấy nhục nhã.
Và thường hay bị con bọ lương tâm cắn rứt hơn!
Lấy trường hợp Gấu, làm trang Tin Văn, một mình một chợ, muốn viết gì
thì viết, và khi viết, chỉ phải đối diện với lương tâm của mình. Lỡ
viết câu nào không đặng, đọc lại, nghe lương tâm phán, câu này không
được, là delete.
Bịt miệng người dân, cho cả thế giới nhìn thấy, rồi sau đó bào chữa,
làm vậy không đúng, vậy mà còn có kẻ thổi ống đu đủ, Ngài Chủ Tịch nước
thật là "bản lãnh", mới dám 'nhận lỗi' như vậy!
*
Tin Văn xuất hiện như vậy là cũng được vài niên, từ 17, Tháng Năm 2003,
không kể thời gian ăn nhờ ở đậu bên VHNT của PCL trước đó. Vậy mà, duy
nhất chỉ có một lần, cơ quan quản lý tên miền gửi email, nhắc nhở, này,
có gì thay đổi không đấy, nếu vũ như cẩn, thì OK, khỏi phải trả lời.
Sắp tới sinh nhật Gấu, nên đi vài đường cảm khái, mong bạn đọc, và VC,
thông cảm! NQT
*
Réfugiés
« Le malheur ? Ils s'en
accommodaient. L'environnement hostile ?
Ils l'acceptaient. Comme la tempête, le froid, la sécheresse. La haine,
la cruauté, la mort: on s'y habituait. Tout cela faisait partie de
l'exil. Puisqu'il fallait vivre, autant se familiariser avec ses
obstacles. »
Elie Wiesel
*
Bernard Kouchner - đại ân
nhân của người Việt tị nạn, nhờ có ông mà có
con thuyền cứu người vượt biển Đảo Ánh Sáng, ông còn là người sáng lập
cơ quan "Y sĩ không biên giới", bất cứ người tị nạn nào đều biết tới,
hoặc đã từng chịu ơn - mở ra chương
Tị
nạn, Réfugiés, trong cuốn
Bất
hạnh của những kẻ khác, Le malheur des autres, bằng câu trên,
của Elie Wiesel, Nobel hòa
bình, sống sót Lò Thiêu.
"Bất hạnh ư? Họ làm quen.
Môi trường thù nghịch ư? Chấp luôn. Chấp
luôn, nào bão tố, nào lạnh lẽo, nào khô cằn. Thù hận, độc ác, cái chết,
làm quen luôn. Tất cả những thứ đó, thuộc về lưu vong, làm nên lưu
vong. Và, bởi vì phải sống, thì phải làm quen với đủ thứ trở ngại."
*
Ông lập luận, nếu nhân loại tranh đấu, để loài vật,
thí
dụ loài voi, không bị tận diệt, thì cũng vậy, tị nạn
cần được bảo vệ.
Ông vinh danh Sartre, sau khi hết còn bị Cộng Sản
bỏ bùa mê, đã cùng với ông tranh đấu cho con thuyền Đảo Ánh Sáng, với
câu nói tuyệt vời:
"Trước tiên hãy lo cứu
những xác người!" ["D'abord sauver les corps"].
Quả là tuyệt vời, bởi vì đây là câu Sartre mượn Camus.
Một người bạn, và cũng là, kẻ thù, của ông.
*
Năm di cư thứ hai mươi [1974], khi viết bài
Tử
Địa, nghĩ đến những đứa con tư sinh của đất Bắc ở cả hai miền
lúc ấy, tôi đã mở bài bằng câu trích đề của Anh, tuyên xưng nó là câu
văn bất hủ. [Người ta có thể nghĩ tôi quá lời, sử dụng "ngoa ngôn".
Nabokov còn "ngoa" hơn nhiều khi ông bảo: "Cả sự nghiệp của triều đại
Sa Hoàng Đại Đế sánh không bằng nửa vần thơ của Pushkin."]
TTT:
Trong đất trời
Liệu Gấu này có ngoa ngôn, khi dõng dạc phán: Cả một sự nghiệp 'đường
ra trận...', 'mãi mãi tuổi hai mươi', cả một 'nhật ký họ Đặng'... sánh
không bằng 'nửa' lời ca của Trần Thiện Thanh: Trong khói súng xây
thành, mắt quầng thâm mất ngủ... Sao không hát cho những bà mẹ già,
những người còn mải mê, những người vừa nằm xuống chiều qua? (1)
Nếu phải nhìn lại cuộc chiến, thì, một điều hiển nhiên, giải thích thái
độ chống đối nhà nước VC, của cộng đồng hải ngoại, là do những gì xẩy
ra sau đó, và tiếp tục xẩy ra cho đến ngày nay, đối với dân chúng ở cả
hai miền.
Từ đó, suy ra: tất cả những ai dung thứ cho chế độ đó, đều là VC hoặc
những kẻ cùng hưởng lợi với họ.
(1) Trong cuốn DVD tưởng niệm Trần Thiện Thanh, người ta được biết, bản
nhạc Rừng Lá Thấp, có những lời ca như trên, được Trần Thiện Thanh sáng
tác trong vụ Mậu Thân, nhân cái chết của một bạn thân, sĩ quan VNCH.
Nhật Ký
*
Chống Cộng điên cuồng?
Nhưng Cộng nào, mới là vấn đề.
Trước 1975, gần như không có chống Cộng, đừng nói Chống Cộng điên
cuồng, trừ một thiểu số, có thân nhân bị họ giết hại, hay một đấng tiên
tri, hiểu hơn hết cả mọi người, nếu Cộng thắng, là sẽ khủng
khiếp lắm, là sẽ xẩy ra hiện tượng Chúa Sẩy Thai.
Sau 1975, Chống Cộng điên cuồng như thế, vẫn chưa đủ.
Phải làm sao y hệt như trước 1975, nhưng ngược lại, nghĩa là, cả nước,
cả trong lẫn ngoài, cả ở trên trời lẫn dưới đất, cả ở thiên đường, lẫn
địa ngục, đều Chống Cộng điên cuồng!