Gấu,
nhà văn
Nhà Hội
Gấu đọc bài
thơ của Hoàng
Hưng, cùng lúc đọc Nhà Hội, House of
Meetings của Amis, cũng viết về xứ sở đó, và cùng lúc, nhớ
những ngày Gấu đã ở đó.
Câu thơ "Vợ khóc một đêm" làm Gấu nhớ tới, một trong những câu mở ra Nhà Hội.
Đây là chuyện tình tay ba, giữa hai anh em cùng mẹ
khác cha,
cùng yêu một cô gái. Cô gái lấy người em, và người em đi tù, cô
từ
Moscow đi thăm nuôi chồng, ở mãi Biển Bắc, thuộc Bắc Cực, và được ngủ
lại với chồng tại nhà hội. Đêm đó là đêm tân hôn của họ, tuy đã lấy
nhau từ bao năm. Ông anh chồng cũng bị tù tại đó, và ông anh lo dọn
giuờng, trang hoàng nhà hội cho đêm tân hôn của hai vợ chồng!
Ông em bị bắt, chỉ vì ca ngợi Mẽo, America, trong
khi, sự thực, Mẽo, America, là "code name" của Zoya, cô bạn gái người
Do Thái mà hai anh em cùng
yêu. [Lý do Hoàng Hưng bị bắt không "thơ mộng" như ở đây. Xin xem ông
trả lời phỏng vấn trên RFA]
It's a love story. So of course I must begin with the House of Meetings.
Đây là một câu chuyện tình. Và như thế, lẽ tất nhiên, tôi phải bắt đầu
bằng Nhà Hội.
*
... in his new novel, House of Meetings, the first since the
widely criticized Yellow Dog (2003), Amis has subjected himself to a
decided
cooling-off. House of Meetings is short, the prose is controlled, the
humor
sparse, while the characters strike us as real, or at least possible,
people. It
is a remarkable achievement, a version of the great Russian novel done
in
miniature, with echoes throughout of its mighty predecessors. There is
the
Dostoevskyan struggle between ill-matched brothers carried on against a
vast
and unforgiving Tolstoyan landscape; there is a star-crossed Zhivagoan
love
that endures a lifetime; there are immense journeys, epic sufferings,
agonized
renunciations, unbearable losses; there is even a revelatory letter,
kept for
twenty years and only read on the brink of death, as well as a homely
sister,
called Kitty, whose task it is to fill in this or that necessary detail
of the
narrative.
The book tells the story of two half-brothers, both of whom
are in love with the same woman, Zoya, and both of whom spend terrible
years together
in one of the labor camps of the Gulag. The unnamed narrator, a
decorated hero
of the war against Hitler, who defected to America in the 1980s and
made his
fortune through the invention of an item of prosthetic gadgetry, has
returned
to Russia to revisit the place in the far north of Siberia where he and
his
brother, Lev, were held as slave workers from the late 1940s until well
into
the 1950s, after Stalin had died. Neither of them had committed any
crime. The
narrator was arrested, like many Russian veterans who fought in Germany, on suspicion of having been
exposed to
fascist and Western influences while outside the USSR.
Lev was convicted for having
been heard "praising America"
in his college cafeteria line (in fact, he had been praising "The
America's,"
his code name for Zoya)...
Trong cuốn tiểu thuyết mới, cuốn đầu tiên kể từ cuốn bị phạng tơi bời Chó Vàng (2003), Amis tự ép mình
vào một văn phong thư giãn, không nặng nề như những cuốn
trước. Ông tự nhận ông là một thứ nhà văn tập trung cao độ, a 'sock'
writer. Thế
nào là một nhà văn 'sốc'? Ngay trong thư mở ra Nhà Hội, ông giải thích: Vào thập
niên 1930, có một người thợ mỏ tên Aleksei Stakhanov, mà theo như một
số người, đã đào được hơn một trăm tấn than - chỉ tiêu là 7 tấn -
chỉ trong một ca. Từ đó có thuật ngữ, "sự thờ phụng những Stakhanov",
"the cult of the Stakhanovites", hay những "sock-workers." Và cũng từ
đó, ra thuật ngữ "sock-writers": Những nhà văn được lấy ra khỏi đội lao
động, và được huấn luyện, để viết như điên, những bài văn tuyên truyền,
ngụy trang
thành những cuốn tiểu thuyết. Ông viết, tôi là một "sock" writer như
thế, nhưng mà để nói ra sự thực.
Nhà Hội
ngắn,
giọng văn được kiềm chế, hài, hề sơ sơ, trong khi những nhân vật đập
vào mắt độc giả, như người thực, hoặc cố như thực. Một thành tựu đáng
kể: một ấn bản của thứ đại tiểu thuyết của Nga được thu nhỏ lại, trong
đó vang vọng lên những bậc tiền nhân, là những đại tiểu thuyết gia Nga.
Ở trong đó, có cuộc chiến đấu, đúng kiểu của Dos, giữa hai anh em chẳng
có tí tị gì hợp nhau, cùng đâu lưng chống lại một phong cảnh rộng lớn
bao la không thể nào tha thứ, đúng kiểu của Tolstoy, trong đó có một
cuộc tình, đúng kiểu Bác sĩ Zhivago
của Pasternak, thứ tình yêu sao quả tạ chiếu mệnh kéo dài cả một đời
người...
John Banville:
Bài Ca Của
Tên Đao Phủ
*
Những nhà văn
được lấy ra khỏi đội lao động, để viết như điên... Ui
chao, thôi đành vậy, đành phải bắt chước nhà văn nhớn Nobel văn chương,
Gunter Grass, nghĩa là, đành phải thú tội trước bàn thờ:
Gấu này, trong
hai năm lao động khổ sai tại nông trường Đỗ Hải, được
lấy ra khỏi đội lao động, là cũng để làm một sock-writer. Cứ gần đến
ngày lễ lớn của dân tộc, là viết như điên, để ca ngợi Đảng và Nhà Nước
VC.
*
Gấu ở trại tù Đỗ Hải trên hai năm trời, "sống sót" mùa này mùa nữa (1),
là nhờ mấy trăm bạc ông trustie nghĩ tình tha không bỏ túi.
Ông khuyên, hãy bỏ tiền mua một chức trustie, thế là Gấu trở thành ông
y tế trưởng của Đội Sản Xuất số 3, logo của nó, không phải tinh thần
thế giới như của me-xừ Đinh Tuấn Anh, mà là: Đội Ba Kiên Trì, Vững
Tiến, Tiến, Tiến.
Tiến mãi, mệt quá, biến thành ... Tiền.
Ấy là vì tay Đội Trưởng, từ Thanh Niên Xung Phong qua, tên Lưu Minh
Sơn, được đội viên thân ái gọi bằng cái tên Lưu Manh Sơn, rất mê tiền!
Chính vì mê tiền mà ra cái logo "...Tiến, Tiến... Tiền" đó!
Ông con trai, một thằng cu tí chừng hai, hay ba tuổi, tên Lưu Minh
Giang, gọi theo tiếng Nam, thành Lưu Manh Gian
Nguồn
*
Me-xừ trustie thương tình không vồ mấy trăm bạc Gấu Cái bỏ vô cái bị
cói đựng gạo, đã từng đọc Gấu, đúng ra, đọc mấy cuốn sách Gấu dịch,
trong có cuốn "Khách lạ ở thiên đường", của nhà văn kiêm y sĩ Anh
gốc Scotlands, A.J. Cronin. Tay này rất mê Cronin. Rất tâm đắc cuốn
Chìa
Khoá Vương Quốc, The Keys of the Kingdom, Gấu đã từng
kể chuyện này.
Anh khuyên Gấu, lấy mấy trăm bạc đó mua một chức trustie. Thế là Gấu
trở thành tay trưởng y tế của Đội Ba, công việc thường ngày, ngay
buổi tối hôm trước, đi từng "nóc gia", coi có tay nào khai bệnh, nếu
"thích" thì ghi vô danh sách, sáng mai, sau giờ chào cờ, kêu tên cho
phép nghỉ buổi lao động, và sau đó dắt lũ bệnh nhân qua bên bệnh xá
khám bệnh, xin thuốc điều trị. Được nghỉ thêm nữa, là do tay trưởng
bệnh xá, ngoài thẩm quyền của Gấu.
Trường hợp đặc biệt, gặp tay nào Gấu "thích" quá, nghĩa là mới thăm
nuôi, địa nhiều, đồ ăn đồ uống nhiều, thì Gấu 'nói nhỏ' với trưởng
bệnh xá, xin thêm cho một hai bữa nữa, ở nhà, khỏi lao
động, tha hồ mà phục vụ Gấu, và đồng bọn trusties khốn kiếp!
Nhưng tay "đồng-độc giả" Cronin có hậu ý. Anh
nói nhỏ với Gấu, chân trưởng y tế Đội của mày chỉ là cách chữa
lửa tạm thời thôi. Nếu có một thằng khác, mới thăm nuôi, chi địa nhiều
hơn cho ông đội trưởng Lưu Manh Sơn, là mày ra rìa.
Thành thử, mày phải
trổ tài viết văn thì mới chắc ăn được. Chỉ có cách đó mới không bị hất
văng ra khỏi bộ chỉ
huy Đội.
Ui chao trong đời Gấu, có hai tay rất tin tưởng vào Gấu, ngay cả những
lúc Gấu hết còn tin tưởng ở mình, đó là Châu Văn Nam, nhiếp ảnh viên
UPI. Nhờ anh, Gấu chạy trốn, và thoát, quê hương. Nhưng trước đó, nếu
không có tay trustie tin vào tài văn của Gấu, thì làm sao thoát được
trại tù Đỗ Hải.
*
Đọc
Nhà Hội,
Gấu nhận ra, Gấu
đã bỏ uổng phí những ngày ở Đỗ Hải, và bây giờ, cố gắng chuộc tội, bằng
cách nhẩn nha nhớ ra dần dần những chuyện thường ngày ở tù.
Gấu như nhận ra cái nhìn nghiêm khắc của tay trustie, tao cứu mày, là
để mày viết ra những chuyện đó, chứ đâu phải để cho mày viết như điên,
vào những dịp lễ lạc, để ca ngợi Bác và Đảng?
*
Cái vụ việc, Gấu cứ chần chừ không viết về những ngày ở Đỗ Hải, nó có
nhiều nguyên nhân, nhiều lý do lắm.
Một trong những lý do, là do... di truyền!
Trong
Tự
Truyện Gấu có kể về người bà nội. Bà có nồi cá kho, cứ để dành,
lâu lâu mới dám lôi ra cho mấy đứa con nếm, ngửi một tí, rồi lại cất
đi, sau cùng nồi cá biến thành ròi.
*
Bà Nội anh, chồng chết sớm, ở vậy nuôi hai người con trai. Mẹ anh có
lần nói về sự hà tiện của cụ. Câu chuyện chắc do cha anh kể lại. Cụ kho
một nồi cá, không dám cho con ăn một lần, cứ bắt để dành, sau cùng nồi
cá biến thành ròi.
Những ngày cuối cùng cụ bị bán thân bất toại, không một người con trai,
con dâu nào kế bên, ngoài hai đứa cháu nội còn nhỏ, ham chơi. Tôi không
hiểu bằng cách nào anh vẫn còn nhớ ước muốn cuối cùng của cụ.
Cụ thèm một tô phở Trung Hà (tên một thị trấn địa đầu tỉnh Sơn Tây,
tiếp giáp Phú Thọ). Tôi nghĩ khi còn trẻ, phải chạy ngược chạy xuôi,
buôn bán tảo tần nuôi con ăn học, chắc cụ đã có lần được thưởng thức
một bát phở của một tay đầu bếp nhà nghề ở nơi thị tứ đông đúc đó. Đó
là hương vị cuối cùng cụ còn giữ được của thế gian này.
Tự
Truyện
*
Di truyền tới Gấu, nó khiến Gấu không dám viết về Đỗ Hải. Chỉ muốn để
dành!
Viết ra rồi, thì là hết!
Cái tính đó, còn được mô tả trong
Mùa Hè Miền Nam.
Chuyện một thằng nhỏ,
mỗi lần bữa ăn có tí thịt, tí cá, là dím thật kỹ, tận dưới đáy
chén cơm, chờ đến
giây phút cuối cùng, mới dám nhâm nhi, thưởng thức.
Cái nỗi sợ hết, cố gắng để dành, không dám đụng tới đó, sau ảnh hưởng
đến cuộc
tình của Gấu với Bông Hồng Đen.
Gấu không nhận ra điều này, nhưng tay Doãn Dân, nhà văn, đã tử trận,
nhận ra.
Gấu không quen anh, cuốn sách Những Ngày Ở Sài Gòn, anh có được, là do
một người bạn thân của Gấu, thay mặt Gấu, tặng.
Anh đọc, và phán, thằng cha này tội nghiệp thật, thằng cha này
thảm quá, khi nó được yêu, nó còn sợ hơn là không được yêu!
Chỉ sợ mất. Chỉ sợ hết.
Anh ta lôi một đoạn ra để chứng minh.
Quả thế thật.
Đó là đoạn sau đây, trong
Tứ Tấu
Khúc về Lan Hương và Sài Gòn.
Lần hẹn nhau trong thành phố lạnh và xa, Đà Lạt, nàng thi đậu Tú Tài
phần thứ nhất, và đã lên đó trước, chàng là công chức nên còn ở Sài Gòn
làm việc, chiều thứ bẩy, chàng ra bến xe đò, vượt khoảng đường mấy trăm
cây số, chàng bỗng nhiên có cảm tưởng, nàng đang ở trong Hà Nội, nàng
đã trở về Hà Nội trước chàng, và chiến tranh đã hết, chàng đang trở về
thành phố thời ấu thơ, nay đang gìn giữ hạnh phúc của đời chàng. Khi
nhìn thấy bóng dáng nàng từ đầu phố tất tả vội vã chạy lại (nàng dến
trễ, vì còn phải tìm cách nói dối Vi, Vi nhất định đòi đi cùng), chàng
bỗng run lên vì sợ. Chàng run lên vì sợ hãi, vì sung sướng, vì hạnh
phúc, chàng sợ thực sự, sợ nàng, sợ hạnh phúc, sợ khổ sở, sợ cô đơn, sợ
tất cả...
Thời Gian
*
Mùa Hè Miền Nam,
là một toan tính khổng lồ, dù chỉ có hai đoạn ngắn, cụt thun lủn.
Đặc chất Miền
Nam
của "văn" Faulkner, với những câu dài lê thê, cộng thêm cái chất nóng
của Miền Nam Việt Nam.
Gấu đọc lại và nhận ra, đây là một hoá thân của
Gấu, vào một anh chàng Miền Nam, đứa em trai của cô Thu, bạn học BHĐ.
Anh chàng này, mê BHĐ, có lần đánh bạo hỏi, chị có bạn trai chưa. Nói,
có rồi. Mới dán con tem lên, nhưng chưa có đóng dấu.
Anh chàng nói, gỡ
ra mấy hồi.
Đọc lại, Gấu bồi hồì, không thể nghĩ, có những ngày Gấu mê... Faulkner
đến
như vậy, vậy mà cuối cùng, chẳng có một cuốn tiểu thuyết nào lận lưng.
Mùa Hè Miền Nam quá
xứng đáng, để mở ra một cuốn truyện dài!
Hay là bi giờ, bắt đầu?
*
Căn nhà gỗ, vách ván, nền tráng xi
măng, mái thấp, đứng ở ngoài hiên, hơi kiễng chân có thể lùa tay dọc
theo con máng, lùa mớ lá khô, rồi sau đó, lấy rẻ ướt vét sạch lớp bụi
cát do những chuyến xe đò chạy trên đường lộ lùa tới, lưu cữu dưới lòng
máng sâu, mùi xăng nhớt lẫn trong luồng hơi nóng bị vách ván cùng những
cánh cửa sổ đóng kín, ngăn chặn, quanh quẩn trong hiên, đánh thức những
giấc ngủ trưa chập chờn, bài hoải trên chiếc ghế bố ở cuối hiên, đánh
thức luôn những xúc động nhỏ nhặt, những ước muốn mơ hồ, không rõ
rệt... Một lần giở một khúc máng gỉ nát tính sửa chữa, tình cờ tìm lại
được cả một tập thư tình viết cho L.H. Những bức thư tình viết đầu tiên
trong đời, trong đêm khuya, dưới ánh đèn lén lút chiếu sáng vừa đủ
trang giấy, lo sợ, không phải ánh sáng đèn, nhưng mà là những xúc động
rồn rập (nhiều lúc làm nghẹt thở), làm mọi người thức giấc; càng về
khuya, chữ càng thêm nặng nề, nhưng vẫn không thể nói hết, thỉnh thoảng
viết được một vài điều thật cảm động, (những kể lể sướt mướt, những lời
nói họa hoằn của nàng vẫn còn đọng lại, tiếng cười, cử chỉ của nàng khi
vẫy tay từ giã, hẹn kỳ hè tới sẽ gặp lại...), vội vã tắt đèn, ngồi yên
lặng trong bóng tối, sợ hãi chính nỗi xúc động của mình, chúng có thể
gây nên những tiếng động lịch kịch như tiếng bàn ghế di chuyển, làm
ngọn đèn cháy sáng trở lại, nỗi xúc động giống như nỗi cô đợn nhiều khi
đột nhiên thái quá, làm ngây ngất, khó chịu. Những bức thư viết nhưng
không bao giờ gửi, không phải sự sợ hãi, không phải quá rụt rè khi gặp
nàng, nhưng mỗi lần tính đưa, thì một cử chỉ vô tình của nàng làm khựng
lại, ngay chính người đưa thư cũng nhận ra sự vô ích, thừa thãi, nhưng
tại sao vẫn.... Tưởng tượng nếu nàng đọc những bức thư đó, có cảm giác
chết cứng vì tủi hổ, nỗi cô đơn đột nhiên bị tước đoạt, cảm giác trần
truồng trước mặt nàng, trước người khác... Những bức thư được giấu kỹ
trong đống sách vở, ở dưới đệm giường, ở dưới lòng máng, chỗ an toàn
nhất không sợ chị Thu lục lọi ngăn kéo hộc bàn tìm mẩu viết chì, thỏi
gôm, lật những cuốn tập, vô tình thấy, tò mò đọc, chắc chắn sẽ cười
cợt, chế giễu, nhưng có thể sẽ thương hại; xấp giấy được giấu kỹ như
những món quà, bánh được ba má chia đều cho hai chị em, thường để dành,
tìm chỗ cất giấu, nhiều khi mải chơi, quên luôn, khi nhớ tìm lại, kiến
bu quanh, hoặc chuột đã tha đi đâu mất tích, xấp giấy nay cũng bị gián
nhấp tả tơi, chữ thiếu hụt, chỗ còn mất, nước mưa làm nhiều chỗ trở nên
trắng bệch, mất cả buổi sáng tìm cách vá víu, chắp nối, nhưng không
thể, quá khứ...
Mái lợp ngói nâu, vẻ cũ kỹ, mốc thếch,
vườn cây vây quanh nhà, con kinh đào dẫn nước luân lưu khắp vườn, sau
cùng đổ những trái dừa, trái cam hư thối ra nhánh sông sau nhà, một
chiếc xuồng lập úp, vùi giữa đống lá dưới bóng một thân cây lớn, chủ
nhật hay ngày lễ, nhất là vào dịp nghỉ hè, L. H. từ Sài Gòn lên vườn
thăm chị Thu, sẽ đưa nàng đi chơi xuồng, cả hai len lỏi giữa những vùng
trời nước im lặng, tiếng mái chèo đập nước làm át tiếng tim đập mạnh,
giả đò thở hổn hển vì mệt chứ không phải vì quá xúc động... hoặc đậu
xuồng dưới đám lá cây dầy đặc che hết ánh nắng (nàng bỏ kính che mắt,
trong bóng mát, ánh mắt chợt long lanh, có thể nàng biết... tinh nghịch
nhúng tay xuống nước, bóng nàng vỡ ra từng mảnh, chụm dần lại... biết
tôi đang đăm đăm, ngơ ngẩn nhìn....), hoặc chìm mất giữa đám sậy nhỏ,
những lần đi quá xa, tiếng chị Thu từ trên bờ gọi trở về dùng cơm vọng
nước tới làm tắt ngấm những lời dự định nói, cuối cùng vẫn chỉ là những
lời vu vơ, những hỏi han về việc học, về thành phố Sài Gòn đã lâu chưa
có dịp xuống chơi, về một vài dự tính trong tương lai (nàng nói, sẽ học
y khoa, chữa bệnh cho mọi người nhưng không cho riêng ai, tâm sự của
mỗi người cũng chỉ là một chứng bệnh, rồi sẽ qua đi, chẳng cần chữa
trị...), tất cả những gì còn lại được giấu kín như những bức thư chẳng
bao giờ gửi, như những lần tự nhủ, trước khi nhập ngũ, sẽ gặp nàng một
lần, và sau đó sẽ bỏ đi, sẽ mất tích trong cuộc chiến, hoặc cũng chẳng
cần cuộc chiến, sẽ cố gắng quên hết, cố gắng làm lại từ đầu, giả sử như
chưa từng gặp nàng, như những lần lang thang nơi khu phố nàng ở, (gần
một ngã sáu, khu trung tâm thành phố, sinh hoạt đông đảo, một cửa tiệm
bán sách vở, dụng cụ văn phòng, nàng thường ngồi sau một chiếc bàn lớn
ở gần phía bên ngoài, gần cửa ra vào, phóng xe qua thật nhanh, hơi nhìn
ngang, có thể thoáng thấy nàng ngồi chăm chú, viết, hoặc lơ đãng nhìn
ra bên ngoài, làm sao nàng có thể nhận ra...), hoặc ghé xe bên lề
đường, mua tờ báo, bao thuốc, hoặc ngồi uống cà phê ở quán Tầu phía bên
kia đường, ngó những đứa trẻ đánh giầy chia nhau tiền bạc, giành giật
khách, hay mẩu thuốc, khi ra về thường quá khuya, vòng xe qua con đường
phía sau nhà nàng, ngó nhìn lên, có thể bóng dáng nàng sẽ hiện ra nơi
khung cửa sổ trên lầu cao, che bớt ánh đèn lạnh toát, thỉnh thoảng bị
mưa, ướt sũng, run lập cập, cần nhất là không bao giờ kể lể than khóc
với nàng về ba chuyện đó, và nàng cũng chẳng bao giờ biết, hoặc hiểu
được, nàng đến từ phía bắc, từ một thành phố có mưa phùn, có gió bấc,
có rét mướt, băng giá, và nàng mang theo cùng với nàng chút giá băng,
lạnh lùng, một chút tẻ nhạt, nàng đứng ở bên ngoài đời sống cô đơn, rực
lửa, quạnh hiu của tôi, ở ngoài những nao nức, những băn khoăn, những
mơ mộng của cả một thời niên thiếu, ở ngoài sự kiêu ngạo muốn đạp đổ
tất cả, muốn xua đẩy nỗi giá băng, lòng lo lắng sợ sệt, muốn được nàng
an ủi, vỗ về, nàng đứng ở đâu đó ở bên ngoài cuộc đời của tôi, như một
người đứng ở chỗ sáng ngó vào chỗ tối, nàng không thể thấy, không thể
biết, nhưng thôi, thôi, Ngọc, Ngọc, cố gắng quên đi, cố gắng đừng thủ
dâm nữa, đừng nói gì cả....
Sơ Dạ Hương.
Nỗi sợ, hết, để dành, không
dám đụng tới đó, sau ảnh hưởng
đến cuộc
tình của Gấu với Bông Hồng Đen.
Gấu không nhận ra điều này, nhưng tay Doãn Dân, nhà văn, đã tử trận,
nhận ra.
Gấu không quen anh, cuốn sách Những Ngày Ở Sài Gòn, anh có được, là do
một người bạn thân của Gấu, thay mặt Gấu, tặng.
Anh đọc, và phán, thằng cha
này tội nghiệp thật, thằng cha này
thảm quá, thằng cha này yếu xìu, khi nó được yêu, nó còn sợ hơn là
không được yêu!
Chỉ sợ mất. Chỉ sợ hết.
Anh ta lôi một đoạn ra để chứng minh.
Quả thế thật.
*
Mùa Hè Miền Nam
là một toan tính khổng lồ, Gấu bây giờ bồi hồi nhớ lại, dù chỉ hai
đoạn cụt thun lủn.
Đặc chất Miền
Nam
của "văn" Faulkner, với những câu dài lê thê, (1) cộng cái nóng
hừng hực của mùa hè Miền Nam.
Được manh nha, liền sau chuyến đi cùng BHĐ lên nhà cô Thu, ở Bình
Dương, và gặp cả đám bạn của BHĐ, từ Sài Gòn cùng hẹn gặp nhau vào dịp
cuối tuần.
Một lũ nhóc. Thảm, chúng nhìn
Gấu thương hại, như có ý hỏi, anh già này sao lạc vô đây?
Gấu đọc lại và nhận ra, đây là một hoá thân của
Gấu, vào một anh chàng Miền Nam, đứa em trai của cô Thu, bạn học BHĐ.
Anh chàng này, mê BHĐ, có lần đánh bạo hỏi, chị có bạn trai chưa. Nói,
có rồi. Mới dán con tem lên, nhưng chưa có đóng dấu.
Anh chàng nói, gỡ
ra mấy hồi.
Đọc lại, Gấu bồi hồì, không thể nghĩ, có những ngày Gấu mê... Faulkner
đến
như vậy, vậy mà cuối cùng, chẳng có một cuốn tiểu thuyết nào lận lưng.
Mùa Hè Miền Nam quá
xứng đáng, để mở ra một cuốn truyện dài!
Hay là bi giờ, bắt đầu?
*
(1) Câu văn của Kafka cũng dài lê thê: "The style [of
The Next Village ]... is the
characteristic Kafka-like interminable sentence containing parenthetic
digressions and seeming never to want to end. Like life itself which it
comprehens, this sentence is labyrinthine and at the same time lucid,
abstract, yet concrete, a realistic determination without pathos".
[Tạm dịch: Văn phong [của Làng Kế Bên] là đúng kiểu Kafka, dài lê thê,
với những trật đường rầy, và có vẻ như chẳng muốn chấm dứt. Như cuộc
đời, chính nó, mà câu văn cưu mang, đồng cảm, câu văn này tựa mê cung,
và cùng lúc, trong sáng, trừu tượng, tuy nhiên cụ thể, đúng là một
quyết tâm hiện thực, chẳng cần thống thiết]
Johannnes Urzidil:
There goes Kafka,
nguyên tác tiếng Đức. Bản tiếng Anh của Harold A. Basilius [nhà xb
Wayne State University,1968].
Claude Simon, nhà văn Tây, Nobel văn chương, đẩy văn phong Faulkner
thêm lên một bực nữa, với những câu văn giống như những đường hầm,
những tuyệt lộ.
Sở dĩ văn Việt Nam, câu ngắn, là muốn giữ dạng "nói" của ngôn ngữ. [Tất
cả mọi cách viết đều có tính đóng lại, và tính này xa lạ với ngôn ngữ
nói: Toutes les écritures présentent un caractère de clôture qui est
étranger au langage parlé. Roland Barthes:
Không độ của cách viết. Le Degré zéro de
l'écriture. Écritures politiques.]
Theo nghĩa đó, chúng ta chưa có văn viết!
*
Làng kế bên.
Nội tôi thường nói: "Đời vắn chi đâu. Như nội đây, nhìn lại nó, thấy
đời như co rút lại, thành thử nội không hiểu nổi, thí dụ như chuyện
này: làm sao một người trẻ tuổi có thể quyết tâm
rong ruổi sang làng kế bên, mà không e ngại - bỏ qua những tai nạn -
một đời thọ như thế, hạnh
phúc như thế, cũng không đủ thời gian cần thiết cho một chuyến đi như
vậy."
Bản tiếng Anh: The next village.
My
grandfather used to say: "Life is astoundingly short. To me, looking
back over it, life seems so foreshorthened that I scarcely understand,
for instance, how a young man can decide to ride over to the next
village without being afraid that – not to mention accidents – even the
span of a normal happy life may fall far short of time needed for such
a journey".
*
Urzidil, trong
There
goes Kafka, đã sử dụng ngụ ngôn thứ 80 trong
Đạo Đức Kinh, của Lão Tử, để giải
thích
Làng Kế Bên. Ông dành
một chương để viết về nó:
The Realm of
the Unattainnable: Cõi của Sự Không Thể Nắm Bắt , Không Thể Tới Được.
*
Khi chiến tranh xẩy ra, Graham Greene [1904-1991] làm Bộ Ngoại Giao,
rồi làm mật vụ, phục vụ Nữ Hoàng, nhân viên MI.6, bí số 59200. Đệ tử
Kim Philby. Tay này sau phản bội nước Anh, và chạy qua Liên Xô.
Trò gặp lại thầy ở Moscow, mãi sau đó.
Thầy biểu trò: "Graham, cấm lời bàn Mao Tôn Cương [pas de commentaire]."
-Em chỉ hỏi thầy một câu thôi: "Thầy bi giờ nói thạo tiếng Nga chưa?"
(1)
*
Ôi chao, đọc tới đây, Hai Lúa bất giác lại nhớ đến câu, một em út Bắc
Kỳ chưởi cái thằng Bắc Kỳ di cư 1954 là Hai Lúa, hơn nửa thế kỷ sau, về
lại Hà Nội:
-Anh là người Nam, sao bầy đặt nói giọng Bắc? Hay ho gì cái giọng Bắc?
Lạ một điều, cô gái rất là bực vì chuyện này!
Chính thái độ bực tức của cô gái làm khổ Hai Lúa, mỗi khi nhớ lại.
*
Ui chao, Gấu như nhìn thấy, cái nhìn bực mình, dò hỏi, ngay lần đầu gặp
BHĐ, khi cô bé chỉ mới 11 tuổi:
-Nè, coi chừng lầm, anh yêu tui hay là yêu Hà Nội?
Anh đọc, và phán, thằng cha này tội nghiệp thật,
thằng cha này thảm quá, thằng cha này yếu xìu, khi nó được yêu, nó còn
sợ hơn là không được yêu!
Chỉ sợ mất. Chỉ sợ hết.
Anh ta lôi một đoạn ra để chứng minh.
Quả thế thật.
Tone — sardonic, despair — authentic.
Always en route,
from Mexico to Venice,
lover and crusader,
who campaigned
ceaselessly for his
unlikely party
(name: Poetry
versus the Infinite,
or PVI, if you
prefer abbreviations).
Âm điệu - mỉa mai, chán
chường - chân thực.
Anh một đời rong ruổi ,
[Em tay bế tay bồng]
từ Mexcio tới
Venice,
người tình, kẻ không
ngừng cổ võ cho đảng của mình
[tên là: Thơ Chống Vô
Cùng
hay TCVC, nếu bạn thích
viết tắt]
Đề tài:
Brodsky
*
Hồi nhỏ, Gấu có một cái tật,
đi coi phim, gặp phim coi rồi, cứ bô bô kể toáng lên, những gì sắp sửa
xẩy ra, một lần bị một anh chàng ngồi hàng ghế sau, nhổm lên phía
trước, tóm cổ Gấu, nhắc lên, nói thật nhỏ vô tai, mày mà còn nói ra
trước, làm mất hứng của tao, là tao bợp cho mấy cái!
Anh chàng nói thật nhỏ, như không muốn cho ai biết, và đó mới là bài
học tuyệt vời của anh ta, rằng, những gì sắp sửa xẩy ra trên màn ảnh, y
chang như những gì tao đang nói nhỏ cho mày nghe đây.
Gấu, phải đến già mới ngộ ra được bài học nho nhỏ đó, sau bao lần tự
hỏi, tại làm sao đang bực như thế, mà anh chàng lại nhỏ nhẻ nói vô tai
Gấu, cái điều mà chỉ mình Gấu mới... cần nghe?
Còn một bài học nữa, là từ ông thầy Xuân, dậy Anh văn, hồi học lớp Đệ
Lục trường Nguyễn Trãi, Hà Nội.
Ông đi coi phim. Bữa sau, vô lớp, kể, thầy mới học được một bài học, ở
nhà cầu [WC] rạp Majestic. Thầy thấy họ viết một cái bảng: Cấm trẻ con
đái bậy!
Ui chao, cái anh chàng nào viết mấy dòng đó mới tuyệt vời làm sao. Cấm
trẻ con đái bậy. Người lớn khỏi cấm.
Vì người lớn, làm sao đái bậy được?
Cả hai kỷ niệm trên, sau trở thành kinh nghiệm viết văn của Gấu.
Có thể nói, Gấu này cũng có, cùng hai ông thầy, Faulkner và Sartre, như
Llosa, [ông hơn Gấu một tuổi, sinh 1936, cùng tuổi TTT], khi tập
tành viết lách. Nhưng sự vỡ
mộng của ông, đối với Sartre, theo Gấu, là do, ông đọc Sartre khác Gấu.
Trong bài viết
The Mandarin, ông
không hề nhắc đến cuốn bảnh nhất của Sartre,
Buồn Nôn. La Nausée. (1)
Gấu tin rằng, sau này, hậu thế vưỡn không thể bỏ qua
La Nausée, và, tất nhiên, một số
câu văn thật hách xì xằng của Sartre.
Thí dụ như câu sau đây, của
Sartre, mà chẳng tiên tri sự ra đời, của dân tộc đi thuyền,
the boat people, hay sao?
"La vie humaine commence
de l'autre côté du désespoir"
["Cuộc sống của con người
bắt đầu ở bờ bên kia của sự tuyệt vọng"].
Gấu đọc câu trên, do Bernard Kouchner, chủ tịch
Hội Y sĩ không biên giới, trích
dẫn, trong cuốn viết về tị nạn,
Sự
bất hạnh của những người
khác, Le Malheur des Autres.
Cái tít này, chắc cũng từ một câu
nói nổi tiếng của Sartre,
Địa ngục là
những kẻ khác, mà
ra.
(1) Thú vị nhất, là, ngay từ năm 1973, Gấu đã nhận ra điều này,
(2), khi
viết về TTT, trong bài
Bếp Lửa trong
văn chương, nhân số Văn đặc biệt về ông:
Phải chăng
Bếp Lửa cũng gặp
một 'tao ngộ" ly
kỳ như cuốn
La Nausée của
Sartre? Sartre, suốt đời đam mê, theo đuổi cách mạng, đến khi có dịp
'làm cách mạng" ông lại để lỡ: Cuộc cách mạng văn chương ở Pháp, với sự
ra đời của trào lưu tiểu thuyết mới, bắt đầu từ
La Nausée, từ những
điều Sartre phát hiện, nhưng lại bỏ qua!
Bếp
Lửa trong văn chương 1
Bếp Lửa
trong văn chương 2
(2)
Nhận lại những thứ thuộc về mình
mà ngơ ngác nửa đời người. NNT:
Đi một vòng đời, tạp văn.
Nguồn
*
Cái tình cảnh xui khiến Gấu "dám" cầm cây viết, và ti toe viết, y chang
anh chàng Roquentin, ở ngay đầu cuốn
La
Nausée, [đoạn khép lại những trang không ghi ngày tháng, và sau
đó, Nhật Ký bắt đầu]. Lúc đó là 10.30 tối. Anh chàng đang trong
cơn "khủng hoảng hiện sinh", và, thế rồi, ông ta đây rồi, anh chàng
nghe tiếng chân ông Rouen bước lên cầu thang, cảm thấy an tâm, và tự
hỏi, cớ
làm sao mà lại sợ hãi một thế giới đều đặn như thế? Anh chàng cảm thấy
khỏi bịnh, và bắt đầu viết
La Nausée.
[Le voilà.
Eh bien, quand je l'ai
entendu monter l'escalier, ca m'a donné un petit
coup au coeur, tant c'était rassurant: qu'y-a-t-il à craindre d'un
monde si régulier? Je crois que je suis guéri.]
*
Đây là một, trong một vài câu, mở ra "cõi văn chương" của Gấu.
Qu' y a- t- il
à craindre
d'
un monde si régulier? Je crois que
je suis guéri.
[Có gì mà sợ một thế giới bình thường như vậy? Tôi nghĩ là tôi đã khỏi
bệnh].
Câu này nằm ngay ở một trong những trang đầu, "những trang không ngày
tháng", mở ra nhật ký Roquentin, hay cuốn Buồn Nôn, của Sartre.
Nói đúng hơn, nó mở ra truyện ngắn đầu tay của Gấu:
Những Con Dã Tràng
*****
Về cuốn
Buồn Nôn, Gấu có vài
kỷ niệm.
Một lần, ông anh rể của Gấu, Hiếu
Chân, tức Nguyễn Hoạt - còn là thầy kèm Pháp văn tại gia cho Gấu, thời
gian học Đệ Tứ trường Thành Công, ở Hoà Hưng. Giáo sư Pháp văn của Gấu
là Chu Tử. Ông còn là hiệu trưởng - hỏi thằng em:
-Mày có cuốn Buồn Nôn, đưa tao xem thử coi.
Đó là thời gian Sài Gòn đang lên cơn sốt hiện sinh. Ông anh thấy thằng
em coi bộ lậm, bèn kiểm tra!
Đọc chưa hết mấy trang không ngày tháng, ông quẳng Buồn Nôn lại cho
thằng em, phán:
-Thằng này viết, tao chẳng hiểu gì cả!
Kỷ niệm thứ nhì, với nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, trong một lần ngồi quán
Cái Chùa, Gấu đã kể ra rồi, trong bài viết "Sartre, Huỳnh Phan Anh, và
Gấu".
Ông nhà thơ trợn mắt hỏi thằng em đang tập tễnh, đua
đòi "viết văn":
-Cậu 'hiểu' nó hả?
Thằng em thu hết can đảm, nói:
-Em nghĩ là em hiểu!
Ông anh nhà thơ thở dài, ra ý hồ nghi, nhưng cũng có tí tò mò, biết đâu
còn có tí "thán phục":
-Thế thì cậu hơn tớ rồi!
*
Nhưng những kỷ niệm tuyệt vời nhất, đều thấp
thoáng
một bông hồng.
Bông Hồng Đen.
Bạn cứ thử tưởng tượng, Gấu, ngồi trong một quán cà phê
túi của Sài
Gòn, nơi Chợ Đũi, đọc Sartre, và, vừa đọc xong câu, "'Vào mỗi
thời đại, con người nhận ra mình, khi đối mặt tha nhân, tình
yêu, và cái chết" [A chaque époque, l'homme se choisit en face
d'autrui, de l'amour, et de la mort], ngẩng đầu lên, nhìn thấy cả ba
nhập thành một, và là Bông
Hồng Đen, xuất hiện
trước mắt.
Cái còn lại, là cả một trời Sài Gòn hạnh phúc.
Những đứa con hoang của Sartre