Tạp Ghi
Phần
1
1 2 3 4 5 6 7 8 9
10 11 12
Phần 2
1 2 3 4 5 6 7 8 9
10
Phần Ba
1 2 3 4 5 6 7 8 9
10
Oanh kích
vs Pháo
kích
|
Martin Amis
Gấu có gần như đủ những tác phẩm của ông, nhưng chẳng hề đọc.
Không phải thứ Gấu thích, ngay lần đầu mua cuốn đầu tiên của ông, vậy
mà cứ tiếp tục mua tiếp, không phải khi sách vừa mới ra lò, mà là loại
second-hand.
Kỳ cục là, Gấu vẫn cứ đinh ninh, một ngày đó, chúng, những cuốn sách
của Amis, sẽ tìm đến gặp Gấu, hoặc ngược lại. Đúng y chang.
Đó là cái ngày Gấu đọc bài điểm cuốn Nhà Hội của ông, trên tờ Người Kinh
Tế.
Và bèn mò lại những cuốn đã mua trước đó.
Đây là cuốn sách, kể kinh
nghiệm mà bất cứ một anh tù VC nào cũng đã từng trải qua. Một tác phẩm
mà anh nào cũng muốn đọc và muốn là tác giả của nó ! House of Meetings: Nhà Hội. Nơi gặp
gỡ giữa trại viên và thân nhân đi thăm nuôi, và, nếu là bà xã đi thăm,
thì trại viên sẽ được qua đêm tại đó.
Tay giữ mục điểm sách của tờ Người Kinh Tế này, phải là bậc
thầy! Đọc nhiều, viết ngắn, gọn, đúng thứ nhà nghề, mở ra thường bằng
một trích dẫn, y chang cái vòng hoa đầu tiên mà "Quỹ Nobel" choàng lên
vị tân Nobel, tức cái thông báo dành cho báo chí.
Câu mở của bài trên chẳng hách xì xằng sao?: Phê bình gia thứ thiệt,
Nabokov có lần đưa ra nhận xét, là người đọc, không phải với cái đầu,
mà bằng xương sống lưng của anh ta.
Hắn ta, giống như Gấu, đọc, đến giây phút diệu kỳ, giọt lệ trời biến
thành giọt lệ người, [Giọt mưa trời khóc] bỗng thấy
một làn hơi hạnh phúc từ huyệt bách hội ở trên đỉnh đầu, theo xương
sống lưng chạy xuống, rồi tỏa ra khắp cơ thể, tới từng lỗ chân lông, và
cứ thế tê lịm người đi, và thế là biết liền tù tì, đây là thơ thần.
*
-Phách lối vừa vừa thôi, cha nội. Bộ mi nghĩ, mi là phê bình gia thứ
thiệt?
-Phê bình gia thứ thiệt hay không, chưa cần biết. Nhưng giây phút tê
lịm người thì có thiệt.
*
Date: Sun, 23 Jan 2005 11:41:44 -0800 (PST)
From:
Subject: hey
To:
Hey ong Gau, ong la cai gi tren doi nay ma viet van phach loi , hay tu
kiem diem lai xem minh co xung dang khong?
Mot doc gia
*
Anne Applebaum, tác giả cuốn 'chung quyết', definitive, về Gulag, [Gulag: A History] cho rằng Amis
là nhà văn Tây Phương đầu tiên viết về Gulag, về cuộc đời ông Trùm Đỏ
Koba, tức Stalin. Amis, tuy cùng thế hệ nhà văn trẻ, với những Rushdie,
Ishiguro... nhưng
không được lòng cho lắm, với cả hai giới độc giả lẫn phê bình. Có một
độc giả đòi tự sát, nếu Amis được coi là nhà văn số một hiện đang còn
sống của xứ Ăng Lê [Guardian]. (1) Tuy nhiên, cố chịu sự bực
mình, và
đừng ném sách của ông vào thùng rác, sau mấy dòng đầu, là thể nào cũng
mê ông ta! Gấu đã được cái sự tưởng thưởng này rồi!
*
(1) Martin Amis, tác giả Nhà Hội,
cũng từ lò Granta, như những
Salman Rushdie, Kazuo Ishiguro, là một thứ "enfant terrible" của văn
chương Anh.
Khi ông được mời làm giáo sư đã gây kinh ngạc trong giới giang hồ,
và giới học đường, nhưng khi tờ Guardian
coi ông
là nhà văn Anh vĩ đại nhất hiện đang còn sống thì độc giả của chính
tờ báo, có người giận điên lên và đe dọa tự tử! (1)
(1) One agitated reader was moved to write to the paper - and
threatened the ultimate sanction: "If the media refer to Martin Amis as
' Britain's greatest
living author' once more," wrote Kathy Love from south London, "I shall
kill myself."
Ngay tờ Người Kinh Tế cũng
không khoái ông này, chỉ đến khi Nhà
Hội xuất hiện: Người
trở lại, Comeback man. Nhà Hội
là một chiến thắng [triumph] đặc thù, bảnh đến mức tuyệt hảo, mãnh liệt
chẳng thua gì Ô Nhục, Disgrace của
Coetzee. Đây là một cuốn tiểu thuyết không thể không đọc, nhất là những
ông nào đã từng ở tù VC.
Và nhất là khi bạn yêu chung, một người yêu, với ông anh, hoặc ông em
của bạn!
Nhà Hội thuật
câu chuyện hai anh em, cùng mẹ khác cha, cùng yêu một cô gái Do Thái.
Cô gái lấy ông em. "Em trai tôi tới trại tù vào năm 1948", câu chuyện
bắt đầu. "Tôi thì đã ở trong đó rồi."
*
The Observer Books Interview
' It's the death of others that kills
you'
Martin Amis
on politics, mortality - and snoozing in front of the snooker
Sunday September 8, 2002
The Observer
Koba the Dread: Laughter
and the Twenty Million is a polemical account of the Soviet
experiment. The book is a catalogue of Stalin's crimes, followed by an
open letter to Christopher Hitchens, close friend and former
Trotskyist. Finally, Amis reflects on the
death of his sister, and attempts to reconcile personal bereavement
with the death of millions - to Stalin a mere 'statistic'. [The death
of one person is tragic, the death of a
million is mere 'statistic' .
Stalin: Cái chết của một
người là bi thương, của triệu người, chỉ là "thống kê"].
Chính là
cái chết của những người khác giết bạn.
Bị Neal Ascherson chê,
nhưng theo John Banville, Koba The
Dread [ Koba là nick
của Stalin khi làm chó săn cho cảnh sát Nga Hoàng] phải được đọc song
song với Nhà Hội, tuy
cuốn sau là tiểu thuyết, còn cơn tức giận đạo đức ở trong Koba, là từ
Robert Conquest. Koba còn là
một thách đố giới trí thức Tây Phương, trong có cả ông bố của Martin,
[Kingsley Amis], ngay từ khi còn trẻ, đã thất bại, trong nhiều năm,
trong việc tố cáo những ghê rợn của những chính quyền Stalin kế tiếp
nhau, và cả trong việc tống Stalin vào Địa Ngục, cùng một xà lim với
Hitler.
Cái tít Nhà Hội, là từ cuốn Gulag:
Một Lịch Sử, của Anne Applebaum, 2004 Pulitzer, non-fiction,
trong đó, bà có viết về những cuộc thăm viếng nhọc nhằn, và, tốn kém,
những người tù, của thân nhân. Điều này thì mấy bà vợ sĩ quan Miền Nam
chẳng cần đọc Gulag: Một Lịch
Sử. Còn nhà hội, như bà này cho biết, ở bìa trại tù, qua
một người sống sót trại tù mô tả, "Túp lều lý tưởng, có cái giường uyên
ương. Có cả một cái bóng đèn điện với cái chụp đèn, ôi mới tuyệt vời,
mới trưởng giả làm sao, đối với trại viên sống năm này qua tháng nọ
trong những lán, những lều, giữa những bạn bè cùng số phận. Những giấc
mơ cuộc đời tự do của chúng tôi được dựa trên cái nền, là căn phòng đó"
[Our dreams of life at liberty were based on that room].
Cũng chứng nhân đó, nhà viết tiểu thuyết người Ba Lan Gustav Herling
ghi nhận, những cuộc hội ngộ như thế, thường là hỏng cả, theo nghĩa, vô
cùng phũ phàng, rất ít khi xuông xẻ. Bởi vì mấy ông chồng, sau bao
nhiêu năm không sử dụng đến khẩu súng, không còn biết lên đạn ra làm
sao nữa, và thường bắn trật mục tiêu, hoặc không đúng thời điểm, thường
là sớm sủa quá ! Còn những bà vợ, sau những ngày tháng vạn lý bắc
chinh, đi ngược con đường "Trường Sơn", đến khi gặp được ông chồng thì
đã mệt nhoài, hết hơi. Herling, thật là thê thảm, viết: "Tôi đi đến kết
luận rằng thì là, nếu hy vọng, thường xuyên được coi là cái ý nghĩa sau
cùng còn lại của cuộc đời, và nếu như vậy, thì, sự thực hiện nó, đôi
khi có thể thật là đau thương, đến không thể chịu đựng được."
Câu chuyện Nhà Hội tiến
diễn theo ba từng, level, thời gian khác nhau - hiện tại của người kể
chuyện, quá khứ trước và sau chiến tranh, cuộn vào nhau, kỹ năng tiểu
thuyết khiến, mặc dù sự ngắn ngủi của cuốn truyện, độc giả có ảo tưởng
là đã trải qua cả thế kỷ 19, trong đó còn có cuộc tình trái khoáy. "Hai
chúng tôi là anh em một nửa, mỗi thằng một họ, tính tình chẳng giống
nhau. Kể thật gọn. Cha tôi, một Cô Zắc, còn cha Lev, Dimitri, một ông
nhà quê, đúng ra, một tên ku lắc." Còn cô gái, Zoya, một "nhan sắc lớn"
của thành phố Moscow trước chiến tranh. Cô và ông anh cùng học Học Viện
của Hệ Thống [The Institute for the Systems ?], khi ông anh 25 tuổi, cô
gái 19.
"Lev hả, nhờ ơn Trời, còn đang đi học".
Và quả là một cú sốc, khi, vào mùa đông năm 1948, Lev, chưa tới tuổi
hai mươi, nhập trại tù cùng với ông anh, và báo tin, Zoya bi giờ là vợ
của em, anh ạ.
Tiền Kiếp
của Gấu
Hà
Nội của Anh Môn
Em
cứ hẹn nhưng em đừng đến… nhé!
Như
bài thơ mang theo cùng chuyến đi sau cùng của bạn tôi.
Như
Hà Nội chẳng bao giờ tới được…
Merde!
*
Chưa từng có nhà văn nào
viết về thành phố tuổi thơ thê
lương như thế này:
Un
étranger dans une ville étrangère
Một kẻ lạ trong một thành phố lạ
Je ne sais
pas écrire sur le feu et le sang. Si j'écris jamais quelque chose sur
cette
guerre, je ne parlerai pas du feu et du sang, mais de la sueur et de la
vomissure, du pus et de la pisse.
Tớ đếch biết thứ văn chương
viết bằng máu và lửa. Cứ giả như, có khi nào viết một cái gì đó, về
cuộc chiến này, thì cũng không phải là những dòng "đường ra trận mùa
này
đẹp lắm", mà sẽ là một thứ văn chương viết bằng mồ hôi, bằng
ói mửa, bằng mủ lậu tim la hột xoài, bằng cứt đái.
*
A l’âge de neuf ans, j'ai connu le siège et le bombardement
de Jérusalem. C'était la première fois que je voyais un cadavre. Un
obus tiré
depuis le poste d'artillerie de la Légion arabe sur Nebi Samhil frappa
un Juif
religieux et lui ouvrit le ventre. Je le vis, allongé dans la rue.
C'était un
petit homme avec une barbe hirsute. Son visage était pâle et étonné
tandis
qu'il agonisait. Cela se passait en juin 1948. Je détestai longtemps
cet homme
parce qu'il apparaissait dans mes rêves et me terrifiait. Je savais que
Jérusalem
était environnée de forces qui souhaitaient ma mort.
Plus tard, je quittai la ville. Je l'aime encore comme on
aime une femme qui vous dédaigne. Quelquefois, quand je n'avais rien de
mieux à
faire, j'y allais pour la courtiser. Certains chemins et allées me
connaissent
bien, même s'ils font semblant de m’ignorer.
Năm 9 tuổi, tôi biết thế nào là bị vây hãm, và bom đạn, ở Jérusalem. Đó
là lần đầu tiên tôi nhìn thấy một xác chết.... Tôi ghét kẻ chết đó
trong nhiều năm, vì ông ta cứ hiện ra trong những giấc mơ của tôi, và
hăm dọa tôi..
Sau đó, tôi rời bỏ thành phố. Tôi vẫn còn yêu thành phố, như bạn yêu
một người đàn bà, và người đàn bà này thì khinh khi bạn. Đôi khi chẳng
có gì hay hơn để làm, tôi trở về ve vãn thành phố. Vài con phố, vài lối
đi, biết thật
rành về tôi, ngay cả khi chúng làm bộ vờ...
*
Mai, Mai, để
anh kể cho em nghe về một thành phố mà anh vừa
biết yêu nó thì phải rời bỏ, một quãng đời của anh, bây giờ nhớ lại
thấy đâu đó
trong quá khứ những trái sấu vàng vương vãi, tiếng lá vàng xào xạc,
tiếng còi
mười giờ chạy dọc theo con phố Tràng Tiền. Mùa Thu, màu thu Hà Nội,
những lá
cây vàng úa, hàng cây hai bên đường hình như cao thêm, thành phố trang
nghiêm
và buồn rầu như đang trầm ngâm suy nghĩ, buổi sáng trong suốt không vẩn
một hạt
bụi, tiết trời lành lạnh người ta quên đi, rồi đột nhiên nhớ lại, và
chút giá
lạnh đã len vào tâm hồn; buổi chiều sẽ bất chợt trở về, những con đường
sẽ im
lìm và trầm lặng hơn như giấu giếm một tiếng thở dài; chúng như bị bỏ
quên, trừ
một hai cặp tình nhân đi lại, hoặc một hai đứa nhỏ tha thẩn… Để anh kể
cho em
nghe về một thành phố mùa thu có những hạt mưa nhỏ như những hạt bụi
bay trong
gió, mùa hè vàng nắng đã qua đi từ lâu cùng những buổi tắm sông, nằm
trên cát
nóng bỏng, nhìn thẳng vào mặt trời. Hà Nội, thành
phố có hương thơm và mặt trời ve vuốt, thành
phố mà Cẩn nói, được dựng lên cho những nhớ nhung và mơ tưởng của một
thời trẻ
dại, "con đường Trường Thi, hai hàng me bên đường vào khoảng tháng sáu,
tháng bẩy như thế này, lá me bắt đầu rụng để lộ những nhánh cây nhỏ,
những đứa
trẻ háu ăn đã vô ý tưởng là những quả me, và ngó lên bằng cặp mắt thèm
thuồng.
Mùa hè vàng nắng không còn, nhưng những ngày cuối mùa nóng, người dân
Hà Nội có
thói quen trước khi ngủ mở tất cả những cánh cửa sổ để đón gió mát, đột
nhiên
trong đêm khuya, có những cơn gió lạ từ đâu chợt tới, thổi thốc những
chiếc lá
khô bay phấp phới, và người lớn vội vàng trở dậy đóng bớt cửa sổ, "đó
là
những dấu hiệu đầu tiên báo hiệu mùa thu trở về."
Những ngày ở
Sài Gòn (1965)
*
Ôi chao, hoá ra những dòng trên làm tan vỡ mối tình của Gấu với BHĐ.
Hoá ra nàng ghen. Ghen với "Mai, Mai để anh kể cho em nghe...",
và ghen cả với... Hà Nội.
Chỉ đến khi BHĐ đi xa rồi, Gấu này mới hiểu, nhất là khi nghe một độc
giả chửi, sao ngu thế, đàn bà yêu người nào, là chỉ muốn sở hữu một
mình, chỉ muốn ăn tươi nuốt sống...
*
Nhưng có lẽ không phải như vậy. Và nếu yêu là như thế, BHĐ không yêu
Gấu, đúng như thánh nữ đã có lần phán, ta yêu mi bởi vì mi yêu ta nhiều
quá. Cái thứ tình yêu đầy đam mê của mi đó, ta không có.
Kiểu câu kệ dài thòng, trong văn Mít, trước Gấu, chưa
hề có.
Lần đầu đọc Faulkner, Gấu, như Bác Hồ, lần đầu đọc Lenin, la lớn, nó
đây rồi!
Bác Hồ thì nhìn ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc Mít, Gấu nhìn
ra con đường giải phóng văn chương Mít!
Bác cháu ta là nhất, là số một, thưa Bác!
Đây là câu chuyện tiền kiếp của Gấu, mê một em nhà giầu, đài gương
chẳng thèm soi đến dấu bèo, bèn bịnh đến đi tầu suốt, trước khi đi, chỉ
xin được hửi tay người đẹp, đến mãi mãi kiếp sau sau, đúng vào khi xẩy
ra cuộc chiến Việt Nam, trước khi lừng lững khốc liệt đi vô Trung Tâm
Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ, thì được toại nguyện.
*
Đài Gương Soi Đến Dấu Bèo
Về cái ẩn dụ thơ rất ư là bay bướm 'đài gương soi đến dấu bèo" này, Gấu
có một kỷ niệm rất ư là đau thương, và cũng rất ư là thú vị. Đúng là
thú đau thương.
Hồi mới ra trường Bưu Điện, 1960 hay 61, Gấu làm việc tại Ty Trung Ương
Cơ Xưởng Vô Tuyến Điện, số 11 Phan Đình Phùng.
Từ phía cổng cơ xuởng trông ra là con đường Phạm Đăng Hưng. Bên phải,
building số 5, hết hai năm tập sự tại Cơ Xưởng, Gấu chuyển qua bên đó,
lên thượng lầu, làm việc tại Đài Liên Lạc VTĐ thoại quốc tế. Đó là nơi
viết Những ngày ở Sài Gòn,
sau khi ăn hai trái claymore của VC tại nhà hàng Mỹ Cảnh. [Biết rồi khổ
lắm nói mãi].
Khi đó, chưa có trường Bưu Điện. Bọn Gấu phải học nhờ nơi trường Quốc
Gia Thương Mại, ngay đầu đường Phạm Đăng Hưng. Nhà thờ Phan Xi Cô cũng
ngay đầu đường.
Phiá bên trái cổng cơ xuởng, là khu nhà của các ông lớn Bưu Điện, đa số
là sếp, và thầy của Gấu. Phía bên kia đường, là con đường Phan Kế Bính,
chạy song song với Phạm Đăng Hưng, cả hai đều đụng với đường Phan Đình
Phùng, làm thành hai ngã ba. Cả hai đều là hai con dốc, ngắn đổ xuống
đường Phan Thanh Giản. Thư viện Văn Hoá Bình Dân nằm trên đường Phan Kế
Bính, quán Làng Văn nằm trong khuôn viên thư viện, hình như vậy. Đó là
nơi cô bạn tổ chức tiệc cuới, vào một đêm Gấu trực tại Đài, cũng gần
đó, đang trực, kêu đệ tử coi Đài, xách xe Honda, đi dự, nửa chừng bỏ ra
về, rồi xách xe Honda cứ thế chạy miết. Quá chút nữa tới đường Đinh
Tiên Hoàng, quẹo phải đi một chút tới quán Con Ve Sầu, vừa là nhà hàng
ăn, vừa có sàn nhẩy, lâu lâu, Gấu có ghé, nhưng lần trực đêm. Khu này
là giang sơn của Gấu, Gấu Đa Kao, thì cứ gọi vậy cho tiện.
Cơ Xưởng có ba tòa nhà. Từ cổng nhìn vô, toà nhà bên phải là khu
Réception, chuyên sửa máy nhận tin từ các đài địa phương. Tòa nhà bên
trái, khu hành chính. Giữa là sân, bên trong là xưởng Cơ Khí.
Toà nhà Réception sau được phá đi, để xây trường Quốc Gia Bưu Điện cho
các lớp đàn em của Gấu.
Đám Gấu phải chuyển sang phía tòa nhà bên trái làm việc.
Khi đó, Gấu là cán sự kỹ thuật Bưu Điện. Dưới trướng cũng có một hai đệ
tử, dân thợ. Một gã tên Hùng. Một anh nhóc, chẳng biết một tí gì về
nghề thợ Bưu Điện. Ông bố trước làm Bưu Điện, về hưu, gửi gấm đám bạn,
cho nó vô vừa học nghề, vừa có luơng. Anh cu Hùng này đẹp trai, nghề
chơi còn rành hơn Gấu nhiều.
Thời gian trường Bưu Điện đang xây cất đó, Gấu làm việc bên này, nhìn
qua, thấy trong đám thợ hồ có một em xinh thật là xinh. Thế là cứ rảnh
việc một tí, là thò đầu ra cửa sổ để ngắm em. Rảnh hơn thì ra hẳn bên
ngoài, ngó cho đã con mắt.
Thế rồi, một bữa, được em ngó lại. Ôi chao, hạnh phúc nào bằng.
Cho đến một ngày đẹp trời, em vẫy tay cho phép gặp.
Gặp, em thẹn thùng đưa cho một lá thư mầu xanh, thẹn thùng nói, xin nhờ
anh làm con chim xanh, [mấy từ con chim xanh này là của ern, không phải
của Gấu], đưa thư xanh này cho cái anh nho nhỏ đẹp trai, hay đứng kế
anh, giùm em.
Trong thư, có câu, đài gương soi đến dấu bèo này chăng?
Đài gương, là ông nhóc đệ tử Gấu. Dấu bèo là thánh nữ của Gấu.
Ông già làm chung, ông Lân, còn phạng thêm cho một câu, nó là thợ hồ,
làm sao dám ngó lên tới đài gương, là ông cán sự Bưu Điện!
Nào, đâu
thư viện Văn Hóa Bình Dân, Đa-Kao, nơi có câu lạc bộ...
... nào,
đâu, con đường Trường Thi, Hà-nội, và bóng dáng một chú bé chạy vội
chạy vàng tới thư viện Pháp, cho kịp giờ chiếu phim. Chỉ là những phim
thời sự đen trắng của hãng Gaumont, vậy mà cũng có bữa phải lủi thủi ra
về, không phải vì đến trễ, mà vì không được người gác cửa giơ ngón tay
như cây đũa thần vẫy vẫy... nào, đâu, thư viện Gia Long, thư viện Văn
Hóa Bình Dân, Đa-Kao, nơi có câu lạc bộ, có quán cà phê Làng Văn, đêm
nào đang bữa tiệc bỏ ra về, chẳng thể làm thơ, và cũng chẳng bao giờ là
thi sĩ, và Du Tử Lê khi đó chưa làm giùm hai câu:
Em đi áo lụa mềm lưng phố
Có động lòng thương kẻ cuối đường...
*
Cái sự kiện Gấu gặp
Faulkner, rồi, như NMG gặp Dos, thờ Faulkner làm
thầy, những ngày đầu mới tập viết, mỗi khi bí, là mang bí kíp của thầy
ra tụng, tìm cơ hội, chôm một câu, một ý tưởng làm mồi... mãi sau này,
ra hải ngoại, trong một lần trò chuyện, bên ông Tây Martell, với một
ông bạn, và nhân nói chuyện trên, ông bạn lắc đầu, phán, cái chuyện mày
khám phá ra và mê, và thờ Faulkner làm thầy, tao sợ nó rắc rối hơn
nhiều, và chỉ Freud mới giải mã nổi: Trong mi có một tên Yankee mũi tẹt
muốn ăn cướp Miền Nam, và mày sợ chuyện đó!
Chỉ đến mãi sau này, khi đọc Sebald, ông này mới nói rõ cái tâm trạng
của Gấu, của tất cả những con người đành đoạn phải bỏ chạy quê hương,
và không thể nào nói tốt được cho nó. Sebald, chẳng làm điều gì xấu cho
nước Đức, nhưng, sau Lò Thiêu, lúc nào cũng tởm nước Đức, có thể như
vậy, và ông coi Hebel, như là tri kỷ của mình, trong bài cảm tạ nước
Đức, khi, không những chấp nhận khúc ruột ngàn dậm, mà còn phát cho nó
một cái chức ông Hàn:
Một lần tôi nằm mơ, và cũng như Hebel, tôi mơ giấc mơ của mình ở trong
thành phố Paris, ở đó, tôi bị lột mặt nạ, và trơ ra, là một tên phản
bội quê nhà, và một tên lừa đảo.
Sebald by David Levine, NYRB
Tưởng Niệm
Phát biểu
khi là ông Hàn
Sân Trường Cũ
Sebald tởm
những gì người
dân Đức đã làm đối với dân Do Thái. Còn da vàng làm thịt da vàng,
thì sao? Đó là lý do người dân Mít thù VC, chứ không phải thù trong
nước. Có một sự lập lờ ở đây. Làm gì có bất đồng chính kiến?
Chỉ có sự thù hận cái xấu, cái độc, cái ác mà VC đang giáng lên đầu
nhân dân trong nuớc.
|