Về Nguyễn
văn Trung: Thằng khờ được việc
Đọc hồi ký của Nguyễn Văn
Trung, từ một
cái "link", trên trang của Trần Hữu Dũng, với một cái note, “post lại
không có nghĩa là đồng ý với tác giả”, cho thấy có cái gì lộm cộm ở đây.
Những hồi ký kiểu như của Nguyễn Văn Trung, đúng ra, chúng phải biến
thành tro
than, cùng với cuộc phần thư của VC vào năm 1975 rồi.
Đâu có khác gì những hồi ký của mấy ông tướng VNCH.
*
Gấu chưa từng gây sự, hay cà khịa với ông Nguyễn Văn Trung lần nào.
Nhưng, nghe
một người bạn ở Cali cho biết, ông có lần nhắc tới Gấu, trên tờ Văn Học
của
Nguyễn Mộng Giác, và phán, Gấu này chẳng biết gì về hiện sinh.
Lần đó, Gấu có hơi ngạc nhiên, vì thú thực, Gấu chưa hề giờ vỗ ngực,
xưng tên,
hay khoe khoang, rành về hiện sinh.
Gấu có viết về văn chương dấn thân, trên tờ Nghệ Thuật, hồi thập niên
1960,
nhưng chưa hề viết về triết học hiện sinh.
Thành thử, Nguyễn Văn Trung, hay, sau này Đào Trung Đạo, đã lầm, khi
nhè Gấu mà
cà khịa, không biết gì về hiện sinh, không phải giới khoa bảng.
Nói rõ hơn, Gấu đọc Sartre, theo cái kiểu một đứa mới lớn, thèm đọc,
thèm viết,
chứ không phải thèm làm thầy người khác.
Cũng biết một vài chuyện về ông Khoa Trưởng Đại Học Văn Khoa Nguyễn Văn
Trung
này, nhưng người trong cuộc chẳng thèm để ý, mắc mớ gì tới Gấu, mà lôi
ra?
Do Nguyễn Văn Trung nhắc tới Phạm Công Thiện, Gấu nhớ tới Hố Thẳm của
Tư Tưởng
của Phạm Công Thiện, và nhân đọc lại một số trang của Heidegger viết về
“Tại
sao thi sĩ trong thời điêu đứng”, nên tính lèm bèm về thơ, về thời điêu
đứng,
và thi sĩ thời điêu đứng...
*
Đâu có cần đến NVT viết hồi ký, độc giả Miền Nam mới biết đến một PCT
ai cũng
chửi.
Gấu này cũng đã bị mắc hợm ông
một lần,
khi đọc ông chê Simone Weil, khiến Gấu đâm coi thường Bà, dù chưa từng
đọc, chỉ
mãi đến khi ra hải ngoại, mới may mắn gặp được, qua Steiner giới thiệu.
Nhưng như vậy mà hay. Giả như gặp trước, chưa chắc đã đọc nổi Bà.
Làm sao có cơ may quen được 'đệ tử' của Bà?
Giữa hai ông NVT và PCT, nếu
nói về tài
năng, và nếu phải chọn, chắc là Gấu sẽ bỏ phiếu cho PCT. Vì nhửng gì
của chính
ông, do ông viết ra, chứ không phải đi cóp nhặt của người khác, rồi
chửi toáng
lên.
Ông Phạm Công Thiện này cũng đã
từng phạng
Gấu, về cái thói quen, từ tiệm sách Xuân Thu bước ra, mắt dính vào tờ
L'Express
đang mở rộng, nách kẹp một cuốn Livre de poche, bước vài bước, là tới
Quán
Chùa, lấy cái trán đẩy cái cửa, rồi tới cái bàn quen thuộc của mình.
Đấy là
cảnh thường xẩy ra vào buổi chiều, khi tan sở.
*
Những tác phẩm của Sartre lão hoá một cách khủng khiếp. Llosa viết về
Sartre.
Chúng ta cũng có thể nói như vậy, về những tác phẩm của NVT, một thứ
phó sản,
từ Sartre mà ra.
*
They have aged terribly; today we can see that there was little
originality in
these works. Incommunication, the absurd, had been expressed in Kafka
in a more
tremulous and ddisturbing way; the technique of fragmentation came from
John
Dos Passos, and Malraux had written about political topics with a
vitality that
one never feels, even in the best story of that sort that Sartre wrote:
'The
Childhood of a leader".
Mario Vargas Llosa: The Mandarin
[“Chúng có tuổi một cách khủng khiếp; ngày này, chúng ta có thể nhìn
thấy,
chẳng có mấy tí uyên nguyên, đồ zin, đồ xịn nào ở trong những tác phẩm
đó. Sự
không thể cảm thông, sự phi lý, đã được Kafka diễn tả bảnh hơn nhiều,
nhức nhối
hơn nhiểu, kỹ thuật viết từng mảnh vụn, thuổng Dos Passos, và Malraux
viết về
những đề tài chính trị sống động, như thể trước ông chưa từng có người
nào viết
được như thế, thứ số một của Sartre, thí dụ như truyện ngắn Thời thơ ấu
của tay
trùm, cũng chỉ đáng xách dép.
Những tác phẩm như thế đem đến cho tuổi mới lớn Mỹ Châu La Tinh cái gì?
Chúng kéo nó ra khỏi mùi vị tỉnh lẻ, cái vẻ mục nát, gỉ sét, khiến nó
bất bình
với cái mầu mè địa phương...”]
Gấu nghĩ, NVT, như là một thứ phó sản của Sartre, đã đem đến cho tuổi
trẻ Miền Nam
cùng một
thứ như vậy.
Gấu đọc ông, khi đã đi làm, vì
Gấu ra
trường sớm, và nhận ngay ra, những tác phẩm của ông, nhất là những bài
viết
Nhận Định, đều từ Sartre mà ra. Ông giản dị hóa Sartre, theo cái kiểu
phóng tác
Sartre ra tiếng Việt, để cho đám học sinh, sinh viên không biết tiếng
Pháp đọc.
Và ông thật sự nổi tiếng trong đám họ.Với một người có thể đọc thẳng
nguyên
tác, họ sẽ không đọc ông. Gấu không đọc những bài viết có tính chính
trị, hay
tôn giáo của NVT nên miễn bàn về khoản này. Riêng về mặt văn chương,
phê bình
văn học, và luôn cả triết học hiện sinh, NVT chỉ lập lại Sartre. Một
cách đơn
giản hơn, dễ hiểu hơn, gạt bỏ tất cả những gì khó hiểu ở Sartre.
Thành thử, bây giờ, sau bao nhiêu năm, sau một cuộc chiến tàn khốc như
thế, mà
vẫn nhắc tới những vinh quang dởm hão như vậy, thì thật khó hiểu. Ngay
cả những
chuyện đụng độ giữa NVT và PCT, cũng chẳng nên nhắc lại. VC đã làm được
một
việc tốt, là chặn đứng những chuyện đó, bằng cú phần thư, bằng cách đưa
đi cải
tạo, đi tù... tại sao khi có dịp ra hải ngoại, lại lôi ra? Uổng cả công
lao
cách mạng!
*
Viết tới đây, chợt nhớ tới những lời bình loạn của triết gia, giáo sư,
khoa trưởng
Đại Học Văn Khoa, Nguyễn Văn Trung về mấy ông mấy bà nhà văn VC như Bảo
Ninh,
Dương Thu Hương, trên trang net Thông Luận.
Thành thực mà nói, ông triết
gia giáo sư
khoa trưởng không biết cái thú đọc tiểu thuyết, hay nói rộng ra, giả
tưởng.
Gấu tin ông này không hề đọc thơ.
Do thiếu, hoặc quá nghèo trí tưởng tượng.
Ngay cả viết bình loạn, điểm sách, biên khảo... cũng không biết viết
luôn.
Mấy bài viết của ông ta sao mà nó luộm thuộm quá thể.
Tuy nặng về hồi ký, tha thứ hay không tha thứ, đó là vấn đề, nhưng nghe
ra có
mùi phân bua, khoe khoang, và nhất là, cái mùi chạy tội.
*
Sau khi Sartre qua đời (1980) tờ Le Monde ở Pháp ra số đặc biệt, trong
đó kê
khai những tác phẩm của Sartre kể cả kịch, được dịch trình diễn ở Liên
Xô các
nước Đông Âu làm cho tôi ngạc nhiên, vì ở Miền Nam trước 1975 Sartre
cũng không
được dịch nhiều như thế.
Nguyễn Văn Trung [Thông Luận]
*
Thú thực, đọc, chỉ một câu ngắn trên, là thấy ông Trung này bị mát!
Sartre vốn mê Cộng Sản đến tận xương tận tuỷ, làm sao mà được dịch
nhiều ở Miền
Nam, so với ở Liên Xô và Đông Âu? Trước cuộc chiến Quốc Cộng, nếu đám
trí thức
Miền Nam, khuynh tả hay không tả, đọc Sartre, thì cũng chỉ như là một
tham chiếu,
bên lề một cuộc chiến, chứ đâu có phải để bợ đít Cộng Sản.
Sartre đã từng tuyên bố, bất cứ
một tên
chống Cộng đều là một con chó. Làm sao được dịch nhiều?
Nguồn
Quan trọng nhất, theo Gấu, Sartre được đọc, như là một nhà văn dấn
thân, bởi
gần như tất cả những nhà văn trên thế giới, vào lúc Sartre đang trên
đài danh
vọng. Grass chẳng đã thú nhận, chọn Camus, thay vì Sartre, qua hình ảnh
nhà văn
vác đá lên núi, cho lăn xuống, rồi lại vác lên: Phải tưởng tượng hắn ta
[Sisyphe] sung sướng!
Llosa chẳng đã coi hai ông ảnh hưởng nhất thời mới lớn của ông là
Faulkner và
Sartre.
Thanh Tâm Tuyền, qua nhân vật Tâm trong Bếp Lửa, chẳng đã nhắc tới cô
bạn Đầm ở
Paris, làm thiện nguyện viên đi bán báo Đảng, và mê gặp Sartre để chất
vấn?
Heidegger mà còn ghen với Sartre, ông ta đa tài quá, viết văn, kịch,
tiểu luận,
phê bình, triết... đủ thứ!
Nguyễn Văn Trung khoe khoang,
sau 1975,
được Đảng và nhà nước giao trách nhiệm viết về Sartre, và ông khiêm tốn
tự hỏi,
sao không tin cậy mấy người khác, sao Đảng lại chọn Nguyễn Văn Trung
này... Gấu
đọc mà thấy tội nghiệp cho ông quá đi mất.
Nghe mà rửa tai, thì thà rằng đừng nghe, người xưa đã dậy.
Bất cứ một kẻ sĩ của Miền Nam, chưa nói một ông khoa trưởng, không nói
những
tên nằm vùng, khi VC thắng trận, là, lập tức nghĩ rằng, thời của mình,
như là
của một kẻ sĩ, đã hết. Chọn nghề khác mà sống.
Hì hục viết cho Đảng, Đảng cho tí tiền, nhưng ném bài vô thùng rác, vậy
mà cũng
khoe. Quái đản thật!
Quái đản nhất, là, ông ta đã từng nghĩ, vậy là Đảng đã biết đến ta, và
đã từng
tin, Đảng sẽ cho đăng bài này trên trang nhất Tạp Chí Cộng Sản!
Hay báo Nhân Dân.
Kẹt lắm, thì cũng Đại Đoàn Kết!
Đúng ra, NVT phải biết ơn VC, không đăng, vứt vô thùng rác, bài của
ông. Vả
chăng, đó là lẽ tất nhiên, làm sao có thể khác. Sau bao nhiêu năm, vào
thời
điểm này, bài của Trùm VC đã hết thời, Víp Va Ka, mà còn bị thiến nữa
là vào
thời điểm 1975, [1988, thời kỳ Đổi Mới, do Nguyễn Khắc Viện order], bài
của một
tên Ngụy.
*
Cuốn sách mỏng manh, non nớt và chưa thành hình này của một người mới
lớn lên.
Hắn lớn lên trong một thành phố đã mất, thành phố bị vây hãm như một
hòn cù lao
nổi chờ ngày tan rã không để lại dấu vết. Hắn đọc Marx tìm thấy giấc
mộng
"biến cải thế giới", đọc Rimbaud tìm thấy giấc mộng "thay đổi
cuộc đời", đọc Dostoievski tìm thấy thái độ "tất cả hay không có gì
hết", đọc Gide tìm thấy "đời sống thành khẩn trung thực", đọc
Malraux tìm thấy hào quang của trí tuệ dối đầu với Định Mệnh, đọc
Sartre tìm
thấy "cuộc hiện sinh tự do và chọn lựa". Hắn lớn lên cùng bè bạn,
vượt qua mau tuổi trẻ để suy nghĩ và mơ ước hành động. Mỗi đứa một lối
lăn mình
theo mối cám dỗ lớn lao của hư vô (1). Hắn lìa bỏ quê hương, chia tay
với bè
bạn, dấn mình vào lịch sử, đuổi theo giấc phiêu lưu của trí tuệ: sự
thật được
tạo nên từ niềm hư vô của tuổi trẻ bị tước đoạt.
TTT: Tựa [BếpLửa]
Nguyễn Văn Trung không cho ông, cái quyền chọn lựa như trên. Ông chọn
đặc
quyền: Đi du học.
Nghe nói chẳng cần có bằng Tú Tài.
Gấu nghe chuyện này, qua một người đã từng là giáo sư Đại Học Văn Khoa.
Ông cho
biết, đám nhân viên hành chánh của Đại Học, khi làm lương cho NVT, đã
than,
không có bằng Tú Tài, thì làm sao làm lương đây!
Làm Bưu Điện, Gấu đã từng có những ông Sếp kỹ sư như vậy. Con nhà giầu,
chạy đi
du học, khi không đậu nổi bằng Tú Tài. Qua Tây, ghi danh học Đại học
tư, cũng
có bằng kỹ sư, về làm việc cho Bưu Điện. Chẳng biết một tí gì về kỹ
thuật,
ngoài mớ lý thuyết xuông.
Nguyễn Văn Trung chắc cũng rứa.
Đừng nghĩ là Gấu bới lông tìm vết, hay gì gì đó. Cái thái độ của bạn,
khi đó,
là rất quan trọng, như Sartre đã từng nói, một câu để đời, Gấu đọc và
lập tức
ghim vào bụng:
Vào mỗi thời đại, con người nhận ra mình, khi đối diện tha nhân, tình
yêu, và
cái chết.
Đây là điều thiệt thòi, và sẽ là một dấu chàm, trên lương tâm, của bất
cứ một
ai, chọn cho mình... đặc quyền.
Chính vì thế, mà chẳng ai hy vọng gì vào đám VC con, đi du học hải
ngoại về, sẽ
ngó xuống dân chúng khốn khổ khốn nạn, vì Đảng, và con của Đảng.
*
Nguyễn Văn Trung chê Gấu chẳng biết gì về hiện sinh. Có thể như thế
thật.
Nói rõ hơn, Gấu đọc hiện sinh, qua những tác giả như Camus, Sartre, là
vì mê
sống, mê đọc, và mê viết, chứ không phải mê triết hiện sinh, như những
sinh
viên mê triết học, học triết... Chính vì thế, khi TTT hỏi Gấu, "cậu"
hiểu được cuốn [La Nausée] đó hả, ông muốn biết, liệu Gấu hiểu được
những đoạn
viết về sự thừa mứa của hiện sinh, về contingency, về
pour soi, en soi... Và nếu như thế, Gấu không hiểu thật, vào thời điểm
đó.
Gấu ngộ ra La Nausée, khi, chỉ đọc một câu, ở trong đó, ngay ở đoạn mở
đầu,
đoạn không ngày tháng.
Gấu đã kể về chuyện này rồi. Roquentin trong La Nausée, cũng ngộ ra La
Nausée,
và Sartre cũng viết ra được La Nausée, là từ câu văn đó. Câu văn chấm
dứt đoạn
không ngày tháng, mở ra nhật ký của Roquentin (1)
(1) Cái tình cảnh xui khiến Gấu "dám" cầm cây viết, và ti toe viết, y
chang anh chàng Roquentin, ở ngay đầu cuốn La Nausée, [đoạn khép lại
những
trang không ghi ngày tháng, và sau đó, Nhật Ký bắt đầu]. Lúc đó là
10.30 tối.
Anh chàng đang trong cơn "khủng hoảng hiện sinh", và, thế rồi, ông ta
đây rồi, anh chàng nghe tiếng chân ông Rouen bước lên cầu thang, cảm
thấy an
tâm, và tự hỏi, cớ làm sao mà lại sợ hãi một thế giới đều đặn như thế?
Anh
chàng cảm thấy khỏi bịnh, và bắt đầu viết La Nausée.
[Le voilà. Eh bien, quand je l'ai entendu monter l'escalier, ca m'a
donné un
petit coup au coeur, tant c'était rassurant: qu'y-a-t-il à craindre
d'un monde
si régulier? Je crois que je suis guéri.]
Nguồn
*
Roquentin, trong Buồn Nôn (La Nausée) của Sartre, tới thư viện thành
phố
Bouville để tra cứu tài liệu viết một cuốn sách về cuộc đời hầu tước
Rollebon.
Anh gặp Autodidacte, một nhân vật đọc sách theo vần abc, cuối cùng bị
viên quản
thủ thư viện "cấm cửa", vì giở trò "ve vuốt" một em nhỏ.
"Tôi sẽ chẳng bao giờ đến đây nữa", anh ta nói trong khi máu chẩy dài
xuống áo và cổ. Roquentin cũng giã từ thiên đàng. Anh có cảm tưởng đã
sống cạn
đời mình với giấc mơ nhân bản. Anh cũng quá chán lịch sử, luận đề này
nọ và
cuối cùng được cứu vớt, nhờ "tiểu thuyết". Anh mơ tưởng sẽ viết một
câu chuyện "như nó có thể xẩy ra, đẹp, cứng như thép và sẽ làm mọi
người
hổ thẹn vì cuộc sống của họ".
Đẹp và cứng như thép và sẽ làm mọi người hổ thẹn vì cuộc sống của họ.
*
Thằng khờ
được việc
Bùi Hồng Sĩ
cũng đã từng bị VC bắn... hụt. Gấu mới biết vụ này, nhân đọc "Sám
Hối" [chữ của Gấu], của Nguyễn Văn Trung trên Thông Luận. Xin post lại
đoạn ông viết lên quan tới Bùi Hồng Sĩ, và Ngô Thế Vinh.
[Trích]
Khi về Saigon hồi 1995, tôi gặp mấy sinh viên cũ cho biết anh Bùi Hồng
Sĩ có về
Việt Nam
và gặp lại người ám sát hụt anh. Trước 1975 những nhóm quyết tử của
Thành Đoàn
gồm sinh viên học sinh đã ám sát các nhà văn, nhà báo như Từ Chung, Chu
Tử.
Hiện tôi còn giữ một danh sách cảnh cáo một số sinh viên các phân khoa
mà ông
gác dan trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn trao cho tôi. trong đó có Ngô
Thế Vinh,
sinh viên y khoa. Bùi Hồng Sĩ, chủ tịch sinh viên niên Văn Khoa bị bắn
nhưng
chỉ bị thương. Rất tiếc Chu Tử đã chết hồi 1975; nếu ông còn sống đến
1985, đọc
sách của Thành Đoàn kể lại thành tích, thì mới biết là mình đã nhận
định sai
lầm, vì ông viết trong Không Hận Thù rằng ông không tin cộng sản bắn
ông, vì
nếu cộng sản bắn thì phải là những tay súng chuyên nghiệp. Nhưng sự
thực là học
sinh, sinh viên trong tố ám sát đã bắn hụt vì họ không phải là những
tay súng
chuyên nghiệp.
Sang Hoa Kỳ, gặp lại Bùi Hồng Sĩ, tôi hỏi và anh xác nhận có về gặp
người đã
bắn hụt anh. Tôi không hỏi thêm vì tôn trọng sự gặp gỡ này và muốn để
cho những
người trong cuộc thuật lại sự hòa giải giữa họ. Tôi cũng gặp lại Bs Ngô
Thế
Vinh, sau 1975 đi học tập cải tạo rồi được đi Hoa Kỳ. Anh nhắc tôi đọc
bài anh
viết “Rực rỡ mùa Thu” trong Thế Kỷ 21, số 70 (tháng 11/94). Bài báo
được viết
dưới dạng sáng tác tiểu thuyết: 3 nhân vật tiêu biểu cho ba thái độ
trước vấn
đề: về hay không về giúp Việt Nam
về y tế. Chính và Trường cùng thế hệ, đỗ bác sĩ ra trường trước 75,
người đi tị
nạn ở Hoa Kỳ, người ở lại Việt Nam, chỉ sang Mỹ lúc ung thư máu vào
giai đoạn
chót, nhưng khác nhau về thái độ của người thầy thuốc đối với bịnh
nhân; Toàn
con Chính, bác sĩ thuộc thế hệ sau gần gũi với Trường, bạn của bố, tình
nguyện
về Việt Nam chữa bệnh. Chính, chủ tịch hội Y Sĩ Việt Nam Hải Ngoại có
một lập
trường dứt khoát: không làm gì hết cho tới thời hậu cộng sản. Hơn nữa
còn phải
ở thế tấn công vận động duy trì cấm vận, chống bang giao. Thái độ của
Chính
không biết đã gây tổn thất nào cho cộng sản, nhưng trước mắt Chính đã
hy sinh
cả bạn lâu năm của mình, cưỡng bách họ ra khỏi hội chỉ vì cái tội tiếp
đón một
nghệ sĩ từ Saigon qua bị chụp mũ thân cộng. Hành động của Chính gây một
nỗi cay
đắng của người tị nan cộng sản ngay từ 75 nay lại phải nghĩ tới một
cuộc di tản
lần thứ hai để tránh khỏi lằn đạn của chính những người bạn hướng tới
từ phía
sau lưng mình. Sinh viên Ngô Thế Vinh thoát được ám ảnh bị bạn học sát
hại
trước 75 vì chống cộng, nay bác sĩ Ngô Thế Vinh lại bị ám ảnh sát hại
cũng bởi
đồng nghiệp vì cổ võ về quê nhà thể hiện tinh thần trách nhiệm của
người thầy
thuốc là tiếp tay cho cộng sản.
Nguyễn Văn Trung viết:
Hành động của Chính gây một nỗi cay đắng của người tị nan cộng sản ngay
từ 75
nay lại phải nghĩ tới một cuộc di tản lần thứ hai để tránh khỏi lằn đạn
của
chính những người bạn hướng tới từ phía sau lưng mình. Sinh viên Ngô
Thế Vinh
thoát được ám ảnh bị bạn học sát hại trước 75 vì chống cộng, nay bác sĩ
Ngô Thế
Vinh lại bị ám ảnh sát hại cũng bởi đồng nghiệp vì cổ võ về quê nhà thể
hiện
tinh thần trách nhiệm của người thầy thuốc là tiếp tay cho cộng sản.
Người phán như thế, nhưng không cho biết, "cuộc di tản lần thứ hai để
tránh
làn đạn..." là đi đâu?
Hay là hồi chánh?
*
"Anh nhắc tôi đọc bài anh viết..."
"Bài anh viết", "Rực rỡ mùa Thu", Gấu chưa đọc, tuy nhiên,
nếu đúng như ông Nguyễn Văn Trung viết, 'dưới dạng sáng tác tiểu
thuyết', và
nếu như thế, nó là một giả tưởng.
Chính vì thế đoạn sau, ông giải thích nó, "Thái độ của Chính.... ",
chỉ là một cảm nghĩ của ông, như là một độc giả, [với "thiên kiến",
về hồi chánh là đúng] khi đọc chuyện.
Không thể từ một cảm nghĩ, của riêng ông, rồi suy ra, đây là thái độ
của tất cả
những người di tản...
*
Theo Gấu, ông Nguyễn Văn Trung không biết thưởng thức giả tưởng. Ông
lầm giả
tưởng với thực tại.
Đọc kiểu đó, thì khổ cho ông nhà văn Ngô Thế Vinh, người đã từng chọn
binh
chủng Biệt Cách để phục vụ, sau khi ra trường.
Chọn Biệt Cách không phải theo nghĩa Chống Cộng, mà là thực sự tham dự
cuộc
chiến, có thể.
Ông đọc những tác giả VC như Bảo Ninh, Dương Thu Hương, y chang đọc Ngô
Thế
Vinh.
Ông không sợ nhà văn nhớn Ngô Thế Vinh bị "hội" làm thịt?
Nguyễn Văn Trung quá ngây thơ, và quá đơn giản, khi nhìn vấn để về hay
không
về, hận thù hay không hận thù.
Đừng bao giờ nghĩ, những người chủ trương không về, là hận thù Cộng Sản
đến tận
xương tận tuỷ.
Ngay cả chuyện Bùi Hồng Sĩ về, gặp lại kẻ đã từng giết hụt anh, thì
cũng đâu có
thể từ đó suy ra là, hai ông đã ôm lấy nhau mà khóc lóc, mà hòa giải?
Cái việc đó, đúng ra, là phải xẩy ra vào ngày 30 Tháng Tư.
Nếu nó không xẩy ra vào thời điểm đó, thì đành chịu thua VC, và bỏ chạy
xuống
biển, như Miền Nam đã từng làm.
Đọc một cái truyện ngắn, viết theo kiểu ẩn dụ cởi truồng, Mùa Thu Rực
Rỡ,
[không viết có phải một mùa thu năm qua cách mạng tiến ra?], rồi suy ra
thái độ
của bao nhiêu con người đành đoạn bỏ chạy quê hương, rồi còn giả đò lo
lắng cho
họ, biết di tản đâu bây giờ, thì, hoặc quá ngây thơ, cù lần, hoặc thổi
ống đu
đủ quá tệ!
*
Những phê bình văn học của phê bình gia Nguyễn Văn Trung, khi đọc một
số nhà
văn Miền Bắc, như Bảo Ninh, Dương Thu Hương, mới thật là thê thảm. Ông
không
chỉ đóng vai phê bình gia, mà còn, nhà đạo đức, khi chỉ trích thái độ
của Dương
Thu Hương, với chế độ đã nuôi dưỡng bà, và với những bạn văn cũ.
Cũng thế, là cách ông nhìn Xuân Sách
Ông còn tiên đoán hậu vận cho Dương Thư Hương nữa mới ghê.
Đọc ông Trung, Gấu tưởng tượng ra cái cảnh Staline xoa đầu Gide, khi
còn mê
Liên Xô: "Bồng, bồng, thằng khờ được việc".
Nhưng đến khi Gide, được đi thăm thiên đường, về, chửi toáng lên, Xì
đổi giọng,
con rắn độc dâm đãng!
Nhưng mũi lõ bảnh hơn mũi tẹt nhiều.
*
Đọc tiểu thuyết, truyện ngắn... nói chung, giả tưởng, là phải đinh ninh
ở trong
đầu, giả đấy, không phải thật đâu.Tiểu thuyết phán: Tớ là lời dối trá
nói lên
sự thực.
Nguyễn Văn Trung đọc Dương Thu Hương, và hết sức bất bình về những đoạn
bôi nhọ
người lính VNCH. Nhưng, đặt ngược lại vấn đề, giả như bà viết khác đi,
có thể
không? Không thể, theo tôi. Đó là do sự hạn chế về hiểu biết xã hội
Miền Nam
của tất cả,
tôi lập lại, tất cả, nhà văn Miền Bắc. Cũng thế với Bảo Ninh. Trần Hoài
Thư
cũng đã từng phê phán những đoạn viết về lính thám báo ở trong Nỗi Buồn
Chiến
Tranh. Khi viết những dòng như thế, họ đinh ninh như thế.
Nếu như thế, tại sao lại 'ca tụng' họ?
*
Theo tôi, ở trong cả hai tác giả, đã ló lên, cái mầm sự thực, về bản
chất của
cuộc chiến, và về giá trị nhân bản của từng con người.
Trong tiểu thuyết Miền Bắc trước họ, một con người, không có, chỉ có
tập thể,
chỉ có Đảng. Đến họ, yếu tố con người, như một cá thể xuất hiện. Những
người
lính ở trong Nỗi Buồn Chiến Tranh, trước khi lâm trận, sợ chết, cũng
phi cần sa
[cỏ hồng hoang, tương tự cần sa] như điên. Một chi tiết như thế, không
thể có,
trước họ.
Đây là cái điều mà Viện Hàn Lâm Thụy Điển nắm chặt lấy, để vinh danh
Cao Hành
Kiện: Chỉ đến khi có ông ta, thì văn chương mới tái sinh, như là câu
chuyện của
một con người, chiến đấu, nhằm đánh bại câu chuyện của cả đám đông, cả
nhân
loại, cả lịch sử.
Anh bộ đội Cụ Hồ không hề biết sợ chết.
*
Chính chúng ta, Miền Nam,
cũng thế, cũng mù tịt về chế độ Miền Bắc, và đó là lý do thất trận.
Ngày 30 Tháng Tư, đối với những tác giả như Bảo Ninh, Dương Thu Hương,
là ra
khỏi cái hang Plato, còn chúng ta thì chui vô!
Nếu không tin tưởng, như Miền Bắc đã từng tin tưởng, chúng ta đã không
hăng
hái, hồ hởi đi đăng ký trình diện học tập cải tạo 10 ngày.
Chỉ 10 ngày phù du, rồi sau đó, là thơ thới hân hoan ra về, là cùng
đồng bào
ruột thịt Miền Bắc, cả nước xúm nhau xây dựng cái nhà Việt Nam.
*
Bởi vậy, khốn kiếp nhất, là đám
bỏ chạy,
là đám VC nằm vùng.
Chúng chưa hề nói được một câu
nào cho ra
người, về cái vụ thằng khờ được việc, của chúng.
*
Cái vụ NVT đụng độ học trò VC
của ông,
trên tờ Văn Học, của NMG cách đây 13 năm, và bây giờ trò khui ra, gọi
là một vụ
sỉ nhục, như vậy chắc cũng cùng thời gian Thầy chê học trò hụt của
Thầy, là
thằng cha Gấu này, chẳng hiểu hiện sinh là cái cóc khô gì hết. Chắc
cùng loạt
bài viết?
Quả có thế thật, nếu ‘hiểu’ là
hiểu theo
kiểu của NVT, khi viết về hiện sinh.
NVT là thầy, là giáo sư, khi ông đọc hiện sinh, là cũng theo nghĩa đó.
Đọc,
hiểu, và truyền bá điều ông hiểu tới những đệ tử của ông. Ông cố tóm
gọn nó,
rồi trình bầy nó, cho sinh viên. Đọc những bài trong Nhận Định của ông
là thấy
rõ. Có thể sự hiểu biết của ông sâu thẳm hơn, cứ giả dụ như vậy, nhưng
sinh
viên của ông chỉ cần như vậy. Quá nữa, họ không hiểu được.
Cách đọc của Gấu khác hẳn, và
có lẽ cũng
nên trình ra đây, chắc cũng có ích cho người trẻ tuổi, khi nhìn vào
rừng sách,
làm sao tìm ra cái cây mình cần.
Cứ đọc tưới, là thể nào cũng kiếm ra thầy của mình. Tuy nhiên, giá có
người
"mét" nước, đọc cuốn này, nếu mày muốn viết văn, đọc cuốn kia, nếu
muốn làm thầy dậy văn, thì cũng được đấy chứ!
Cách đọc của Gấu, là để kiếm Thầy cho mình, của mình.
Bởi vì bạn không thể viết văn nếu không có Thầy.
Đây là một chân lý tối hậu của văn chương!
*
Cái sự đọc và hiểu, một cuốn sách, nó cũng liên quan tới mắt xanh mắt
trắng
nữa.
Có câu văn, chỉ một câu, chờ tri âm của nó, chứ chưa cần cả cuốn sách.
Cái tình cảnh xui khiến Gấu
"dám" cầm cây viết, và ti toe viết, y chang anh chàng Roquentin, ở
ngay đầu cuốn La Nausée, [đoạn khép lại những trang không ghi ngày
tháng, và
sau đó, Nhật Ký bắt đầu]. Lúc đó là 10.30 tối. Anh chàng đang
trong cơn
"khủng hoảng hiện sinh", và, thế rồi, ông ta đây rồi, anh chàng nghe
tiếng chân ông Rouen bước lên cầu thang, cảm thấy an tâm, và tự hỏi, cớ
làm sao
mà lại sợ hãi một thế giới đều đặn như thế? Anh chàng cảm thấy khỏi
bịnh, và
bắt đầu viết La Nausée.
[Le voilà. Eh bien, quand je
l'ai entendu
monter l'escalier, ca m'a donné un petit coup au coeur, tant c'était
rassurant:
qu'y-a-t-il à craindre d'un monde si régulier? Je crois que je suis
guéri.]
*
Đây là một, trong một vài câu, mở ra "cõi văn chương" của Gấu.
Qu' y a- t- il à craindre d' un monde si régulier? Je crois que je suis
guéri.
[Có gì mà sợ một thế giới bình thường như vậy? Tôi nghĩ là tôi đã khỏi
bệnh].
Câu này nằm ngay ở một trong những trang đầu, "những trang không ngày
tháng",
mở ra nhật ký Roquentin, hay cuốn Buồn Nôn, của Sartre.
Nói đúng hơn, nó mở ra truyện ngắn đầu tay của Gấu: Những Con Dã Tràng.
Nhật ký Tin Văn
*
Bãi biển vắng. Trước mặt tôi, mấy đứa con trai đang chuyền banh. Bất
chợt trái
banh rớt gần chân tôi. Tôi đá trở lại, và cười gượng gạo cùng lũ trẻ.
Tôi nín
cười và bỏ đi. Nhiều tiếng cười đuổi theo sau lưng. Một người ăn mày
ngồi trên
bãi cát, chìa tay chờ đợi. Tôi cho tay vào túi quần. Những đồng tiền lẻ
kêu nhè
nhẹ trong túi. Tôi để yên tay trong túi quần, và bỏ đi. Một người Tây
già nằm
trên chiếc ghế vải. Tôi định tới gần châm điếu thuốc, nhưng ngần ngại.
Điếu
thuốc trên tay người Tây già chậm
chạp vẽ
những đường cong đều đặn, tay còn lại bỏ thõng xuống cát, buổi chiều
sắp tàn,
tất cả những cái đó gọi là sự ngần ngại của tôi. Những con dã tràng
lăng quăng
bò trên cát. Tôi đi theo một con. Khi con vật chui xuống một lỗ nhỏ,
tôi dừng
lại chờ. Tôi không hiểu tôi chờ gì. Tôi chờ con vật chui ra khỏi lỗ
cát, hay
chờ một gì đó sẽ xẩy ra. Tôi bỏ đi, chẳng còn gì nữa, buổi chiều hết
rồi.
Về tới cổng, tôi gặp bà chủ nhà cùng cô con gái lớn. Bà mẹ tỏ vẻ hy
vọng, tôi
sẽ thích nơi này. Bà kể chuyện, có một đứa con trai trai chết vì bịnh
lao phổi
cách đây ít lâu (nó khoảng tuổi cậu, rất ham học, thật tội nghiệp).
Người con
gái lớn đứng im lặng, nhìn ra biển. Tôi bỗng nói, tôi không thể làm
sống lại
người đã chết, tóc xõa che lấp cả khuôn mặt, và hơn nữa, tôi không muốn
ngồi
vào chỗ của người khác, cúi xuống nhặt một viên sỏi, ném ra xa, cử chỉ
lạnh
lùng, người đàn bà (bà mẹ) ngạc nhiên nhìn tôi. Tôi nói thêm, tôi không
thể xin
lỗi bà ta, và thất thểu trở về phòng.
Những
con dã tràng
Đúng cái giọng khật khừ của Roquentin trong thành phố Cảng, Le Havre! (1)
Còn Gấu, trong thành phố Nha Trang.
Chính vì thế, sau này đọc lại Gấu ngộ ra điều này, và viết:
"Villa trông ra biển. Tường
phía
trước thấp...", truyện ngắn "Những con dã tràng", truyện đầu tay
của tôi được viết ra từ cát, biển Nha Trang, nhưng thực ra là từ cái
không khí
"chết người" của Kẻ Xa Lạ, của Buồn Nôn: Tôi tự hỏi cớ sao lại sợ hãi
một thế giới bình thường như vậy.." (Sartre. La Nausée).
Một
Người Anh
(1) Bạn đọc chương chót Bếp
Lửa, khi Tâm
ra Cảng Hải Phòng, thăm bạn, thì bạn đã đi rồi, cũng y chang Roquentin,
trong
Buồn Nôn.
TTT, Thạch Chương, trong Sáng Tạo, đều chê thái độ “à uôm”, chữ của
Thạch
Chương, “đứng ở lưng chừng trời” [TTT], lo làm Kẻ Trung Thực, Le Juste,
của
Camus.
Cả hai, lúc đó, thời kỳ Sáng Tạo, còn tin vào chính nghĩa Chống Cộng
của Miền Nam?
Sự chọn lựa, hoặc Camus hoặc
Sartre, ảnh
hưởng tới rất nhiều nhà văn thời kỳ này, trên toàn thế giới. Llosa chọn
Sartre,
Grass chọn Camus, thí dụ.
Gấu thích Camus hơn Sartre, vào lúc hai ông TTT, và TC chê!
Và luôn cả bây giờ!
NQT
Note:
V/v những bài viết của TTT, TC xin
đọc talawas.
*
NVT làm sao đọc La Nausée, giống như cách Gấu đọc nó?
Ông đọc để đi dậy học. Gấu, để mong khỏi bịnh. Khác nhau.
*
Cái chuyện trò tố thầy thì thật quá khốn nạn. Nên nhớ, những ông thầy
dậy văn
khoa không giống như những ông thầy khác, như bên khoa học, thí dụ.
Sinh viên
khoa học, học kiến thức. Sinh viên văn khoa, học đạo đức, rồi mới học
kiến
thức. Sĩ đứng đầu thiên hạ, sĩ nông công thương... , muốn con hay chữ
thì yêu
lấy thầy, là như vậy. Học yêu, học sống, học chết, học triết là học
chết, là
cũng theo nghĩa đó. Que
philosopher, c’est apprendre à mourir.
NVT đã từng sử dụng địa vị khoa trưởng văn khoa, viết thư đề nghị tướng
TVT,
Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, yêu cầu ông này tống một sĩ quan ra
chiến
trường, vì có thù riêng với ông sĩ quan và còn là một thi sĩ. Vụ này
Gấu rất
rõ, vì được chính nhà thơ kể cho nghe, và ngay khi đó, Gấu đã mừng
thầm, may
quá mình không học Thầy NVT!