Tạp Ghi
DTL
vs GNV
|
DTL vs ST
DTL vs ST
Đọc bài viết
của Du Tử Lê về nhà thơ Tô Thùy Yên, thật
khó mà xếp TTY vào 1 trong những tiếng
thơ lớn của 20 năm văn chương Miền Nam.
Bởi vì những
bài thơ xác định thời của ông, thì bị DTL bỏ đi.
Thí dụ, chỉ hai bài, ai
cũng
biết, là Chiều Trên Phá Tam Giang,
và Ta Về, một trước 1975, và
một, sau.
Có vẻ như
DTL quên hẳn cuộc chiến vừa rồi! (1)
(1) Sorry,
DTL có nhắc tới mấy bài thơ hành quân của TTY, nhưng đây không phải là
trọng điểm
của bài viết của anh. NQT
TTY, 1 giọng
thơ lớn của Miền Nam, đúng, vì, đúng như Brodsky phán, thơ của TTY,
tuổi
nào ra
tuổi đó: Phải có cái tâm linh ‘siêu hình, hiu quạnh lớn, hư vô lớn’,
thì mới
chuyên chở nó vào những bài thơ lính [TTT có thể ‘tự hào’, chưa từng
bắn 1 phát
súng, nhưng TTY, không!]
Lính chiến, thứ thực như
ông, sau khi đi tù VC về, vẫn
thản nhiên bàn chuyện giải oan cho cuộc chiến, thế mới ghê, thế mới
lớn, chứ chẳng
lẽ lớn, vì mấy bài thơ được DTL trích dẫn, rồi lớn giọng lèm bèm về kỹ
thuật làm
thơ ư?
"Thiên
tài của
một thời điểm, kinh nghiệm, nơi chốn đặc biệt". Nadine Gordimer thổi
Kis, [dưới đây ]cũng có thể áp dụng cho TTY, hay TTT...
Đây cũng là cái nhìn của Quỳnh
Giao, cô học trò của TTT, về thơ TTT:
“Thơ Thanh Tâm Tuyền phải được
đặt trong vị trí 'di cư' và 'chiến tranh' của một thành phố mở ra thế
giới bên ngoài là Sài Gòn. Không có hoàn cảnh hay khung cảnh ấy, người
ta khó cảm hay yêu thơ của ông.” (1)
(1)
Ngày 22 tháng 3 năm nay, 2010, là đúng 5 năm nhà thơ từ giã chúng ta.
Trong những
nhận xét về thơ của ông, có của Quỳnh Giao, theo người viết, thật độc
đáo:
“Thơ Thanh Tâm Tuyền phải được đặt trong vị trí 'di cư' và 'chiến
tranh' của một
thành phố mở ra thế giới bên ngoài là Sài Gòn. Không có hoàn cảnh hay
khung cảnh
ấy, người ta khó cảm hay yêu thơ của ông.”
Năm năm đã qua, liệu đã đến lúc chúng ta giải phóng nhà thơ ra khỏi
thời của
ông, như cách nhìn của Steiner về nhà văn và thời của người đó, rằng,
tất cả
văn chương lớn thì giầu có hơn, và vượt ra ngoài vòng ôm của một thời,
that all
literature is richer than any single subsequent time could possibly
appreciate
in full.
Đây cũng là ý của Bakhtin, khi ông trả lời một tờ báo Nga về tương lai
của môn
nghiên cứu văn học Nga: “Tác giả và những người đồng thời với họ nhìn,
công nhận,
và đánh giá, chủ yếu về điều gần gụi với những ngày của chính họ. Tác
giả bị cầm
tù bởi thời của anh ta, bởi sự hiện diện của chính anh ta. Thời tiếp
thời và những
thời kế tiếp nhau như thế sẽ giải phóng anh ta ra khỏi sự cầm tù, và
giới học
giả được vời tới để tham sự vào sự giải phóng này” (1)
(1) Reading George Steiner, [Đọc Steine], Nathan A.
Scott, Jr.
and Ronald A. Sharp biên tập, The Johns Hopkins University Press.
Sở dĩ Gấu
này phải đợi 5 năm nhà thơ ra đi, là để được hân hạnh tham dự vào cái
công cuộc
giải phóng nhà thơ ra khỏi câu phán tuyệt vời trên, nó đóng chặt nhà
thơ vào thời
của ông, và sự hiện diện của chính ông!
*
Tại sao đám
Bắc Kít, thí dụ, Sến cô nương, [và TTT, tất nhiên], mê Dos; hay nói
rộng ra, mê
văn học Nga?
Câu trả lời đúng nhất,
chắc là của Steiner, qua Joseph Macé-Scaron, tay viết
bài éditorial cho số về Dos, trên Le
Magazine Littéraire:
Tại Nga, nhà văn, chỉ nhà văn, là một nhà nước đổi
chiều, un “État alternatif”.
Trong một trò chơi phức tạp và tàn nhẫn chẳng thay đổi chi kể từ thế kỷ
18, những
nhà văn lớn lao Nga, trước khi trở thành tài sản quốc gia, luôn luôn bị
Điện Cẩm
Linh truy đuổi, tàn sát.
Steiner, trong tuyển tập
những bài viết cho tờ Người Nữu Ước,
cho rằng, tất cả
văn chương Nga, [ngoại trừ những bản văn lễ bái, tất nhiên!] thì, phải
có tính
chính trị như là nền tảng của nó, bởi vì, chỉ có nó, là cái thứ hành
động chống
lại sự vô trật tự được an bài.
Chỉ có nó
dám nói không với nhà nước, thứ nhà nước băng hoại.
Đây cũng là quan điểm của Brodsky, khi ông cho rằng chính trị mới là
đỉnh cao của
văn học.
Mỹ là mẹ của đạo hạnh.
Viết văn càng bảnh bao nhiêu thì cái tâm càng sáng theo bấy nhiêu!
Rất "nhân hậu,
và cảm động", là vậy.
Hà, hà!
[Tks U. NQT]
*
(1)
It is a
routine observation-the Russians are the first to offer it-that all of
Russian
literature (with the obvious exception of liturgical texts) is
essentially
political. It is produced and published, so far as it can be, in the
teeth of
ubiquitous censorship. One can scarcely count a year in which Russian
poets,
novelists, or dramatists have worked in anything approaching normal,
let alone
positive, conditions of intellectual freedom. A Russian masterpiece exists in
spite of the regime. It enacts a subversion, an ironic
circumlocution, a direct
challenge to or ambiguous compromise with the prevailing apparatus of
oppression, be it czarist and Orthodox ecclesiastical or
Leninist-Stalinist. As
the Russian phrase has it, the great writer is "the alternative
state." His books are the principal, at many points the only, act of
political opposition. In an intricate cat-and-mouse game that has
remained
virtually unchanged since the eighteenth century, the Kremlin allows
the
creation, and even the diffusion, of literary works whose fundamentally
rebellious character it clearly realizes. With the passage of
generations, such
works-Pushkin's, Turgenev's, Chekhov's-become national classics: they
are
safety valves releasing into the domain of the imaginary some of those
enormous
pressures for reform, for responsible political change, which reality
will not
allow. The hounding of
individual writers, their incarceration, their
banishment, is part of the bargain.
Steiner: Under Eastern Eyes
*
Trong bài viết Thời giết người, Killing Time, về cuốn 1984
của
Orwell, cho tờ Người Nữu Ước, Steiner cho biết, cuốn sách còn
một cái
tít nữa, là The Last Man in Europe, Người cuối cùng ở Âu Châu,
nhưng sau
cùng, tác giả và nhà xb, còn là bạn thân của Orwell, đã chọn cái tít
1984. Bản
thảo cuốn sách được hoàn tất tháng 11 năm 1948, và Orwell đã giản dị
đảo ngược
48 thành 84.
“Nó là một cuốn sách mà tôi không tính đánh bạc với nó trên phạm vi
lớn” [It
isn’t a book that I would gamble on for a big scale], ông viết thư cho
nhà xb
vào Tháng Chạp 1948.
Thành công của cuốn sách vượt quá sự tưởng tượng của mọi người, như
chúng ta đều
biết. Nhưng nhận định của Steiner về nó, mới thật là tuyệt cú mèo: Bằng
cách gọi
như thế, Orwell đã xén thời gian, lấy một mẩu cho riêng ông (1). Và như
thế,
theo Steiner, 1984 bảnh không thua gì K mẫu tự của Kafka:
Kafka nhận xét, vào năm 1914: "Tôi nhận thấy mẫu tự (letter) K tởm lợm,
hầu
như phát mửa; tuy nhiên tôi viết nó ra, nó phải có một đặc trưng của
tôi."
Trong bảng mẫu tự cảm tính và tri giác của nhân loại, chữ cái K vĩnh
viễn thuộc
về, chỉ một người.
Ui chao, nếu
nhìn như vậy, thì cuốn Bếp Lửa có lẽ còn một cái tít thật bảnh
cho nó
là: 1954!
Và như thế câu phán của Quỳnh Giao lại quá quá thần sầu!
Nguồn
*
Lớn là lớn
như thế chứ!
Còn bài Trường
Sa Hành, thì VC, sau cú Thiên Triều chiếm mẹ hòn đảo, bèn khen um lên,
vờ cái
chuyện đã từng bỏ tù TTY.
Ai khen?
Đọc trên
blog Nguyên Đầu Bạc, người sành điệu, chịu chơi, thì biết!
*
Tô Thùy Yên tên thật là Đinh
Thành Tiên sinh năm 1938 tại Gò Vấp, Gia Định, học
qua Petrus Ký và Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, cấp
bậc Thiếu Tá trong
quân đội Miền Nam trước 1975. Sau 1975 ông đã bị giam giữ cải tạo hơn
mười năm.
Hiện ông sống tại Houston (Mỹ).
Tô Thùy Yên, Mai Thảo, Thanh
Tâm Tuyền, cùng với các họa sĩ Duy Thanh, Ngọc Dũng, là những người
nòng cốt
của nhóm Sáng Tạo. Một nhóm sáng tác đã từng được biết đến với phong
trào khai
sinh "Thơ Tự Do" trên văn đàn
Miền Nam
vào thập niên 1960. Cả hai tập thơ Tuyển Tập Thơ Thùy Yên (1995) và
Thắp Tạ
(2004) đều được xuất bản ở Mỹ sau khi ông đến định cư ở quốc gia này
vào năm
1993.
Bài thơ Trường Sa hành Tô
Thùy Yên viết tháng 3/1974, chắc là sau một chuyến hành quân công vụ
của ông ra
vùng đảo này. Xin nhớ là, hai tháng trước thời điểm bài thơ ra đời,
Trung Quốc
đã cho quân đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa (19/1/1974). Chính quyền Việt
Nam Cộng
Hòa khi đó đã điều quân đội ra đánh trả. Máu binh lính Việt Nam đã đổ xuống trên vùng biển vùng đảo
của tổ
quốc để quyết giữ trọn vẹn giang sơn bờ cõi Việt Nam.
Trường Sa hành
Toujours
il y eut cette
clameur
toujours il y eut cette
fureur... (1)
Saint-John Perse: Exil
Trường
Sa! Trường Sa! Đảo
chếnh choáng!
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn
bề.
Lính thú mươi người lạ sóng
nước,
Đêm nằm còn tưởng đảo trôi
đi.
Mùa
đông bắc, gió miên man
thổi
Khiến cả lòng ta cũng rách
tưa
Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh Lớn
Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ.
Đảo
hoang, vắng cả hồn ma
quỷ,
Thảo mộc thời nguyên thủy lạ
tên
Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn
lạnh
Lên xác thân người mãi đứng
yên.
Bốn
trăm hải lý nhớ không tới
Ta khóc cười như tự bạo hành
Dập giận, vác khòm lưng nhẫn
nhục,
Đường thân thế lỡ, cố đi
nhanh.
Sóng
thiên cổ khóc, biển tang
chế.
Hữu hạn nào không tủi nhỏ
nhoi?
Tiếc ta chẳng được bao nhiêu
lệ
Nên tưởng trùng dương khóc
trắng trời.
Mùa gió
xoay chiều, gió khốc
liệt,
Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi.
Đám cây bật gốc chờ tan xác
Có hối ra đời chẳng chọn nơi?
Trong
làn nước vịnh xanh lơ
mộng
Những cụm rong óng ả bập bềnh
Như những tầng buồn lay động
mãi
Dưới hồn ta tịch mịch long
lanh.
Mặt
trời chiều rã rưng rưng
biển
Vầng khói chim đen thảng thốt
quần,
Kinh động đất trời như cháy
đảo...
Ta nghe chừng phỏng khắp châu
thân.
Ta ngồi
bên đống lửa man rợ,
Hong tóc râu, chờ chín miếng
mồi,
Nghe cây dừa ngất gió trùng
điệp
Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi.
Chú em
hãy hát, hát thật lớn
Những điệu vui, bất kể điệu
nào
Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ
Cho mái đầu ta chớ cúi sâu.
Ai hét
trong lòng ta mỗi lúc
Như người bị bức tử canh
khuya
Xé toang từng mảng đời tê
điếng
Mà gửi cùng mây, đỏ thảm thê.
Ta nói
với từng tinh tú một
Hằng đêm tất cả chuyện trong
lòng
Bãi lân tinh thức, âm u sáng
Ta thấy đầu ta cũng sáng
trưng.
Đất
liền, ta gọi, nghe ta
không?
Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu
trùng.
Mở, mở giùm ta khoảng cách
đặc.
Con chim động giấc gào cô
đơn.
Ngày.
Ngày trắng chói chang
như giũa.
Ánh sáng vang lừng điệu múa
điên.
Mái tóc sầu nung từng sợi đỏ
Kêu giòn như tiếng nứt hoa
niên.
Ôi! Lũ
cây gầy ven bãi sụp,
Rễ bung còn gượng cuộc tồn
sinh,
Gắng tươi cho đến ngày trôi
ngã
Hay đến ngày bờ tái tạo xanh.
San
hô mọc tủa thêm cành
nhánh
Những nỗi niềm kia cũng mãn
khai
Thời gian kết đá mốc u tịch
Ta lấy làm bia tưởng niệm
Người.
3. 1974
(Tạp chí Văn, Sài Gòn)
[Blog Phạm Xuân Nguyên]
(1)
Luôn luôn tiếng la ó đó
Luôn luôn, cơn
giận dữ đó
Saint-John Perse: Lưu Vong
When
Saint-John Perse named one
of his poems Exile, Blanchot says, "he named the poetic
condition as well... The poem is exile and the poet who belongs to it
belongs to the dissatisfaction of exile. He is always lost to himself,
[hors de lui-même], outside, far from home [hors de son lieu natal]; he
belongs to the foreign, the outside which knows no intimacy or limit,
and to the separation which Holderlin names when in his madness he sees
rythm's infinite space.
Khi Saint-John Perse đặt tên một trong những bài thơ của ông, là Lưu
Vong, Blanchot giải thích, đó là ông còn đặt tên cho số phận thơ…
Thơ là lưu vong và thi sĩ thuộc về sự bất bình lưu vong. Anh ta luôn
luôn ở ngoài anh ta, ở ngoài nơi sinh, thuộc cõi lạ, cõi ngoài, một cõi
không thân quen hay giới hạn, thuộc về sự chia lìa, phân ly, Hiu Quạnh
Lớn như là Holderlin gọi, khi, trong cơn điên, nhà thơ nhìn thấy cõi vô
cùng của nhịp điệu.
[Cái note này, thấy trong hồ sơ cũ, chỉ có vậy… Gõ Google, ra trang
này]
Có vẻ như những dòng trên, viết về Thơ Ở Cõi Ngoài, Xứ Xở Của Kẻ Lang
Thang Thi Sĩ, Đêm Khác, Other Night, là, để 'giải thích' bài thơ của
TTY?
Nhưng, liệu ông có tiên tri ra được nỗi tù đầy, và lưu vong sau đó, khi
đứng trước cơn la hét, giận dữ của biển, và chắc hẳn, còn là của ông?
Ghi chú
trong ngày
DTL
vs GNV
DTL vs ST
Cái trò ‘thấy
trên mạng’, ‘quang phổ’, spectrum này, nếu có ai để ý, và làm 1 cú kết
toán, và
từ đó, suy ra, thì qua đó, là cả 1 cuộc chiến bửn thỉu giữa đám Bắc
Kít, nào là
Bắc Kít vô Miền Nam trước 1954, với sau 1954, rồi tới sau 1975, ở trong
và ngoài
nước.
Xin đan cử vài trường hợp minh họa:
Khi GNV về
trong nước, và được Thầy Hiến trao cho bản tuyên ngôn ‘tớ xin lỗi’, tức
bài viết
“miễn cho xong 1 show”, vì “lỡ” đã nhận tiền của Mẽo qua chương trình
WJC, 1 ông
nhà văn Bắc Kít hải ngoại, gốc di cư 1954, thấy Thầy Hiến ca mình tới
chỉ quá,
bèn chớp liền, khoe um lên, nhưng đi 1 đường thanh minh, tôi không được
cái hân
hạnh quen biết, hay gặp gỡ gì tên VC này, mà tôi đọc thấy trên mạng bài
viết ông
ta thổi tôi.
Ở đâu?
Việt Báo
online!
Bài đó GNV đưa
lên mạng, trên trang TV, và đồng thời cho đăng trên VB. Ông này, Bắc
Kít di cư,
đếch ưa thằng cha GNV, cũng Bắc Kít di cư, tao đéo thèm nhắc đến mày,
tao đéo
thèm cám ơn mày, được không?
Trường hợp
SCN, cũng thế. Thấy trên mạng, bài của GNV, viết về thi sĩ bạn của Gấu,
là
Joseph Huỳnh Văn, ở trên Việt Báo, thay vì thấy ở trên TV!
Đám khốn kiếp
tinh anh Miền Nam bỏ chạy bợ đít VC, ở Paris này, cũng Bắc Kít di cư,
sau khi ăn
cướp Miền Nam xong, Bắc Bộ Phủ đếch cho về, đám này thù Bắc Kít Di Cư
Chống Cộng Điên
Cuồng khủng khiếp, chúng là tác giả của những cái từ thật khốn nạn, cờ
ba que,
thí dụ, chúng làm sao ưa nổi 1 ông thi sĩ DTL, cũng Bắc Kít di cư, có
nợ máu với
nhân dân, như chính “bạn ta” thú nhận, đã từng bị VC nằm vùng hăm làm
thịt, những
ngày hỗn quân hỗn quan trước 30 Tháng Tư, may chạy thoát ra hải ngoại,
không 1
ngày cải tạo, và đã từng hối cải, về trong nước xin yết kiến đao phủ
thủ HPNT,
kết thân với thi sĩ Bắc Kít Bộ Đội Cụ Hồ, NTT… thế là chúng đành chờ
bài viết
nhảm nhí về ST của DTL đăng trên blog NTT, đến lúc đó, chúng mới ‘thấy
trên mạng’!
Còn mi, thì
sao?
Thằng khốn này “khoanh vùng” còn dã man hơn cả Nhà Nước và Đảng Ta!
NHÀ VĂN – NHỮNG
SỨ GIẢ KHÔNG BIÊN GIỚI
Posted on
26.06.2010 by nhathonguyentrongtao
NGUYỄN TRỌNG TẠO
Trái sang: Tô
Nhuận Vĩ, Kevin Bowen, Nguyễn Trọng Tạo,
Nguyễn Bá Chung, Trần Đăng Khoa
Blog NTT
Note:
Không biên giới mà
đếch thấy GNV
Ngụy
Note: Đếch
thấy bạn ta đang vấn an đao phủ thủ đâu cả! (1)
Blog HHT
(1)
Nguyễn Trọng
Tạo: Tôi đọc thơ Du Tử Lê từ trước 1975 do tình cờ có được những tờ báo
Sài Gòn
in thơ anh, rồi sau là đọc tập thơ anh được giải thưởng. Nhưng mãi đến
năm 1993
tôi mới gặp anh (cùng đi với 2 người phụ nữ gốc Huế). Anh từ Mỹ về Huế
tìm tôi
và Hoàng Phủ Ngọc Tường. Anh nói rằng, định tìm lần trước nhưng
ngại, nay liều
gõ cửa. Anh đến nhà tôi, và như đã quen từ lâu lắm. Các nhà thơ
với nhau
vẫn thế. Tôi bày tiệc rượu đón anh, mời cả Hoàng Phủ Ngọc Tường
đến. Chúng
tôi ngồi với nhau đến khuya mới tiễn khách về bằng xe máy. Anh Tường
chở Du Tử
Lê, tôi chở 2 cô gái Huế bạn anh. Đến ngã tư cầu Tràng Tiền thì bị công
an huýt
còi. Nhận ra tôi, một anh công an nhắc vui: Lần sau anh Tạo chỉ nên
chở 1 o
thôi kẻo xe quá tải cháy máy đó.
Sau đó tôi chuyển ra Hà Nội. Nhiều lần về nước Du Tử Lê thường gọi cho
tôi, rồi
chúng tôi gặp nhau khi ở nhà tôi, khi ở khách sạn anh ở. Và tôi rất vui
khi vẽ
bìa “Du Tử Lê Thơ Tình” cho anh. Vợ anh bảo, đó là cái bìa thích
nhất trong
40 bìa sách của anh Lê. Tiếc là cuốn sách đó phát hành ở Việt Nam
không được
suôn sẻ.
Blog
DTL
Anh từ Mỹ về
Huế tìm tôi và Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Quái thật! Đọc
câu này, Gấu lại nhớ đến Bố Già, lần gặp tên Đường Thổ, từ chối làm
business ma
tuý, và ông con cả sủa bậy một câu, tiền nhiều lắm đấy; khách vừa ra,
là ông bố
mắng thằng con, [mắng sao nhỉ?], và ra lệnh cho tên sát thủ số 1 tìm
đường lặn
vô Ngũ Đại Gia nằm vùng.
Cả cuốn truyện
mở ra từ chi tiết này.
Biết đâu đấy,
cái cú "thi sĩ của chúng ta" đi gặp đại sát thủ có khi lại hàn gắn được
vết thương Mậu Thân!
Mong lắm
thay!
Mong cái con
khỉ!
Chán quá,
thì có!
Chán cả hai
thằng!
Thằng đi gặp,
và thằng kể lại cái cú “nhà thơ của chúng ta” xin yết kiến đại sát thủ!
Sự thực, như
đã trình bày ở trên, sự có mặt của tạp chí Sáng Tạo, một dấu mốc quan
trọng của
20 năm văn học miền Nam, chỉ là một tình cờ. Như bất cứ một tình cờ nào
khác
trong dòng sống.
Sự thực, chẳng
có một ông Mai Thảo / Nguyễn Đăng Quý nào được CIA tuyển dụng. chọn
trước.
“Cài, cấy.” Sự thực, cũng chẳng có một ông Duy Thanh nào vì tế nhị phải
“chối từ”
thân thế.
Sự thực, đôi
khi đơn giản tới mức độ gây “buồn lòng” cho những người thích thêu dệt,
với óc
trinh thám, tiểu thuyết.
Sự thực chỉ
là: Nếu không có người mẫu Trúc Liên, không có “Thiếu nữ từ tranh bước
ra” thì,
chưa chắc đã có Graham Tuckers. Mà, không Graham Tuckers, phải hiểu,
đồng nghĩa
với việc không có Sáng Tạo!
Nguồn
DTL.com
Ông bạn thi
sỡi Du Tử Lê này, thú thực, đúng thứ ngây thơ cụ. Cái chuyện Xịa tài
trợ làm tờ
Sáng Tạo, thì rõ như ban ngày, nhưng những ông như Duy Thanh, Thanh Tâm
Tuyền,
và có thể cả Mai Thảo, khi ngửa tay nhận tiền, cũng không hề biết đó là
tiền của
Xịa.
Đây là trường
hợp đã xẩy ra cho rất nhiều tờ báo rất uy tín, với không biết bao nhiêu
là nhà
văn nhà
thơ Tây Phương, toàn những thứ hách xì xằng, cộng tác, không ai biết,
tờ báo do
Xịa chi tiền!
Người phịa
ra mặt trận chống tư bản, chống phát xít trước, hướng về cái nôi Cách
Mạng là Điện
Cẩm Linh, là Ilya Ehrenburg. Trên TV có giới thiệu.
Koestler, nhân
đó, mới đề nghị Mẽo mở ra Mặt Trận Bảo Vệ Văn Hóa Tự Do, nhưng sau ông
cũng bị
Mẽo đá đít. Vụ này lý thú lắm, để thủng thẳng, Gấu trình bày tài liệu,
dẫn chứng.. sau!
Tờ HL cũng
có đóng góp của Xịa đấy, và của cả VC nữa, đấy. Còn KT đó, thử hỏi anh
ta thì
biết! Hỏi NT, hay NMG, cũng được. Vụ này, GNV nghe qua NMG, hình như
cũng đã lèm
bèm trên TV rồi. NTV hỏi lại KT, xừ luỷ xác nhận có. Tờ TC cũng được
đưa đề nghị,
nhưng một tay trong tòa soạn, [không phải NTV mà là TDT], từ chối,
không nhận.
Tiền VC tài
trợ HL, là danh sách độc giả dài hạn, do đám bỏ chạy bợ đít VC đóng
góp.
Người "sáng tạo"
ra cái ý nghĩ dùng tiền Xịa nuôi báo văn nghệ, không hề đòi hỏi, mi
phải chống
Cộng, chỉ cần viết thứ văn chương ra văn chương [thế là chống Cộng rồi]
là me
xừ Koestler.
Đây nè, ông
ta đang nói chuyện bữa khánh thành cái cơ quan, mà sau này, chi tiền
luôn cho cả
VP làm bộ VHMN, lẽ dĩ nhiên là dưới 1 cái ô dù khác, nhưng vẫn là đô la
Mẽo!
Ngay cả quỹ WJC gì gì đó,
chi tiền cho VC viết văn hàn gắn vết thương
chiến
tranh, xây dựng bộ mặt lưu vong Mít, theo 1 nghĩa nào đó, là cũng tiền
Xịa, nếu
chúng ta hiểu đúng đắn ý tưởng của Koestler, khi đề nghị Mẽo mở ra cái
gọi là Hội
Nghị vì Tự Do Văn Hoá.
Czeslaw
Milosz, thi sĩ, Nobel văn chương, cũng rất rành vụ này. Ông đã từng bốc
phét,
dư sức viết cả 1 cuốn sách về đề tài này, nhưng đếch thèm viết. Trên TV
cũng có
nhắc tới, để thủng thẳng, tìm coi nó ở đâu!
Cái vụ ra đời
của HL cũng ly kỳ và ‘cần thiết’ y chang cái vụ Koestler đẻ ra Hội nghị
Văn hóa
Tự Do [1950]. Số là, lúc đó, Đảng ta quá cần 1 tờ báo của phe ta, ở hải
ngoại,
mà phải 1 tên Ngụy, thứ thiệt, làm chủ thì mới ăn khách. Vớ được ngay
ông KT, còn
gì bằng, lính Ngụy thứ thiệt, ba gai ba ghiếc chẳng sợ thằng nào hết.
Thế là Đảng ra
lệnh cho Vịt Kìu iêu nước giúp nó 1 tay, tao ra mặt không tiện! Nhưng,
Xịa cũng
có ý nghĩ đó, mạt cưa mướp đắng gặp nhau là vậy. Thế là cũng vẫy vẫy
KT, đến đây
tao chi cho tí tiền.
Khổ 1
nỗi, Đảng
không khứng chuyện bắt cá hai tay như vậy. Và anh Xịa thì cũng không
tin KT làm
nên trò trống gì [dân lính tráng i tờ rít biết gì về văn chương, mấy
anh Xịa chắc
nghĩ thế], thế là bèn cho 1 tên agent qua VN thăm thú tình hình, coi tờ
HL có về
được trong nước hay không. Bị ngay VC tóm, chụp hình hồ sơ tài
liệu, rồi thả.
Đến khi NT về gặp ông em lo xb Đất Tầu Đất Ta, bị anh cớm VC tóm,
đưa
cho coi hồ sơ nhận tiền Xịa, và ra lệnh, đừng có về nữa, không, tao bắt
luôn, chứ
không đá đít ra khỏi cửa khẩu như Thầy Cuốc.
NT đâu có dám
về nữa!
Hà, hà!
*
Note: Bài viết
của DTL, mới thấy đăng lại trên Blog NTT, và chỉ đến khi đăng ở 1 blog
trong nước,
như thế, đám bợ đít VC ở Paris, [VC đếch cho về!], mới post lại ["Thấy
trên mạng", trước đó chúng không
thấy] trên báo của chúng.
Tởm đến như thế.
Chúng không dám để nguồn
DTL.com, rồi
còn thêm mấy câu cò mồi:
Bài này cho
biết về sự ra đời của "Sáng Tạo". Một mốc quan trọng trong lịch sử
văn học Việt Nam nói chung, bất kể việc "tuỳ viên văn hoá Mỹ" Graham
Tuckers - người tài trợ 400 đôla (3000 $ giá trị hiện nay) mỗi tháng
cho Mai Thảo
để làm báo Sáng Tạo - có mục đích gì.
Một tên cớm
thì lúc nào cũng hành xử như cớm.
Chúng đâu cần phải chờ đợi như thế?
Ngay khi
dtl.com post là TV đã đi 1 đường bình loạn rồi, và liên kết với cú ra
đời của Người Mỹ Trầm Lặng,
rồi tới Hội Nghị Văn Hóa Tự Do, để cho thấy đây là
tiền của
Xịa.
Bất kể.. có
mục đích gì, cái con khỉ!
*
GNV cũng không
tin là, Mai Thảo, khi nhận tiền của me -xừ Tuckers, biết, tiền của Xịa!
Bởi vì ngay
Koestler, khi nhận tiền của Mẽo dựng lên cái gọi là Hội nghị vì Tự do
văn hóa,
cũng không biết, đó là tiền của Xịa, như trong cuốn tiểu sử K, của
Michael Scammell,
cho biết.
K nghĩ tiền của Bộ Ngoại Giao hay [Chương Trình] Marshall Fund. Và
theo ông, không đủ chi xài, vì vậy, ông kêu gọi những nhà văn góp vốn
thêm!
Làm gì có
chuyện MT là nhân viên của Xịa, chuyện "cài cấy", và, sự
thực cũng đâu có đơn giản như DTL ngây thơ
viết.
Sự thực, là,
tiền của Mẽo, và Mẽo ở đây, là Xịa!
Tuy nhiên, đọc
những 'phát giác' của DTL, thì chúng ta lại nhớ tới Graham Greene: Ông
nhà văn này
cũng gặp một tay “Tuckers” tương tự, trên chuyến đi từ Bến Tre về Sài
Gòn, trên
chiếc du thuyền của Hùm Xám Bến Tre, Le Roy, và tay này kể cho ông
nghe, về
mission của hắn ta, tìm 1 tay Mít, thuộc lực lượng thứ ba, để đưa…
tiền, làm… chiến tranh, không phải làm báo
như MT!
DTL
vs GNV
Hội Nghị Tự
Do Văn Hoá, The Congress for Cultural Freedom, do Koestler thành lập,
được tờ L’Observateur của
Tây gọi là KKK: Koestler’s Kultur Kongress. Và
ông cũng được CIA tuyển mộ,
và ăn lương hàng tháng, on the payroll of the CIA, như… MT, đối với đám
VC quốc
tế!
Thanh Xuân
Gấu có lần ngồi ăn phở
với đấng bạn quí NXH tại Tiểu Sài Gòn.
Khi đó bạn quí dọn lên San
Jose rồi, nghe tin
Gấu qua, bèn xuống thăm, hoặc, nhân xuống thăm Tiểu Sài Gòn, nghe Gấu
qua, bèn
gặp.
Cùng lèm bèm về thơ DTL.
Gấu có phán: Bạn DTL có rất
nhiều
đòn.
Nếu ra đòn, ‘anh yêu em’
không ăn, thì đánh vào "người chị, người mẹ, cô em gái, hay bậc nữ
thánh, nữ bồ
tát chuyên
cứu vớt kể lầm lạc", ở nơi người phụ nữ, là thế nào cũng gục!
Bạn quí phì cười, gật gù:
Đúng,
đúng quá!
|
|