Dòng sông trong tất cả những tình trạng của nó
Của nước và gió
Tôi từ giã căn nhà cũ đúng
mùa nước rong. Chị tôi nói, may, nếu còn ở lại lội nước mệt xỉu. Con
sông sau
nhà bắt đầu đầy khi gió chướng gió Nam hui hút giành ngọn.
Sóng vỗ ì
oạp vào sàn nhà mỗi khi có chiếc tàu nhỏ chạy qua. Một bữa ngồi viết ba
cái
lăng nhăng, thòng chân xuống định đứng lên vặn vẹo người cho đỡ mỏi thì
chủm,
chân dầm trong nước. Sông đã lặng lẽ dời bờ vô hơn nửa… nhà. Mắc cười,
tôi nhắn
tin cho người bạn ở xa, “nước sông dâng tới chỗ tui ngồi viết”. Không
hiểu sao
tôi nghĩ tin nhắn của mình sẽ làm anh bạn chạy tới tủ sách lôi những
cuốn của
nhà văn Đoàn Giỏi, Sơn Nam, Nguyễn Quang Sáng… ra đọc lại, cho đỡ thèm,
đỡ nhớ
phương Nam.
Tôi
không nhớ trong những
cuốn sách đó có bao nhiêu trang, bao nhiêu câu chuyện liên quan đến con
nước
rong. Dường như là không có câu văn nào về dòng sông sau nhà tôi. Chảy
qua
thành phố với cái tên xa lạ, dòng sông nhỏ bị che khuất bởi những dãy
nhà ken
dày hai bên bờ, và cứ vậy, nó chảy thầm suốt một mùa mưa. Người ta sống
trên nó,
rửa chân và vất rác lên nó nhưng quên lãng nó. Và một buổi sáng mở cửa
sau,
sông bỗng tràn đầy trong mắt.
Sự trở
lại lẫm liệt và rực rở
tới mức người ta phải kêu lên, trời đất ơi, nước rong. Nước tràn trên
những con
đường trong thành phố. Tôi lâu không ngước nhìn trăng bỗng gặp trăng
sóng sánh
dưới chân mình. Chị tôi kê tủ giày, thùng gạo, mấy vật dụng bằng sắt
lên cao,
sóng đánh vói theo. Hết rằm, con nước tự bò ra khỏi nhà, nhưng vẫn đầy
lấp ló.
Tôi quét nhà, trong mấy hốc kẹt còn sót lại nhiều rác rưởi, cùng những
trái
mắm, trái đước lên mầm. Tôi thả chúng vào sông, hơi lo, với mớ rễ đã
khô se,
chúng có đủ sức sống để mọc lên ở một bãi bùn xa xôi nào. Và trên những
con
sông gần biển, lũ cá dứa chắc không còn nhiều nữa, nên những trái mắm
mới trôi
dạt đến nơi này.
Hơn hai
phần ba số lượng
những con sông của Cà Mau không có lục bình. Chúng chỉ mang những trái
mắm, hay
đước, vẹt, bẹ dừa nước, lưỡi mèo phèn… trong lòng nước ngầu đục phù sa
của
mình. Những lúc thôi nhìn chữ nghĩa, ra ngó sông, thấy trái dừa chuột
khoét
lừng lửng trôi ngang qua, tôi vui như gặp bạn cũ. Nước càng đầy thì
cuộc trôi
giạt càng đông đúc, là những trái mắm như trái tim sắp vỡ ra từng lớp,
là cái
bắp chuối đỏ, là những bông tra vàng, trái quao cong... Cái đầu mơ mộng
của tôi
nghĩ tụi nó đang nói với nhau, nước rong tính ra chợ sống, nhưng kiếm
không ra
cục sình cắm rễ, thôi về. Chúng không dừng lại. Cuộc diễu hành của sự
sống đồng
bãi như vô tận, như không bao giờ chấm dứt.
Và
không có gì ngăn chặn được
những cuộc trôi đi khi mà gió chướng càng thổi sâu vào mùa, nước càng
đầy. Sông
vào những ngôi nhà ven sông đòi lại đôi bờ đã bị con người xâm chiếm.
Rác của
con người vất xuống, sông thản nhiên trả lại cho người. Nhưng trong
sông vẫn
còn sự tử tế, thay vì dâng lên nhà người cái dòng chảy ô nhiễm đen
ngòm, sông
liếm láp đôi chân tôi bằng thứ nước lợn cợn phù sa.
Nhưng
vào cái mùa sông đẹp
nhất, tôi chuyển nhà đi. Giờ thì mở cửa sau không còn mênh mông nước,
dù tối ra
đường vẫn xẻ trăng dưới bánh xe lăn. Tôi nhìn gió. Gió trong suốt vô
hình.
Nhưng có thể nhìn thấy chúng trên bãi lau sậy bát ngát sau nhà. Sậy
đang mùa
bạc đầu, tôi vẫn thường cầm trái ổi ngồi nhai chèm chẹp trong khi bông
sậy già
bị gió thổi bay lả tả chung quanh. Bông sậy li ti, phải nhìn qua tia
nắng xiên
mới thấy chúng bồng bềnh, nhẹ nhỏm, chênh chao giữa không trung. Ngồi
nhìn cái
chậu rửa chén váng bông sậy trên mặt, thấy bình an đến nỗi không dám
nhúng tay
vào.
Chỗ bãi
sậy người ta định xây
trường mẫu giáo. Nhưng trẻ con chưa thấy đã hoa cỏ mọc đầy. Gió chướng
được một
chỗ chạy chơi, với tất cả sự hoang dã và mơ mộng của mình. Ở đâu đó,
các con
sông đang trình diễn cuộc nổi trôi thì gió cũng trình diễn cơn phiêu
bạt. Mang
trong mình sự cám dỗ mang mùi đất, gió thổi làm bông sậy lay lắt, bông
tràm
chút bay chút đậu, và những hạt cỏ đã khô se trên ngọn cũng lăn đi.
Không biết
chúng sẽ theo gió tới tận đâu, tôi bỏ chữ một bên ra nhìn, và lại hỏi
thầm.
Nhưng
để được trọn vẹn lời
đáp những hoa cỏ đã đậu lại ở đâu, đã chết khô hay nảy mầm sống mãnh
liệt, chỉ
có gió chướng mới biết. Tôi chỉ có một phần của câu trả lời khi mưa
xuống trên
bãi cỏ hoang. Lau sậy đã loang ra xa. Có vài cây lứt mọc sát bìa rào,
và một
bữa nào tôi đi công tác về, chợt nhìn giữa xanh cỏ dại là tím biếc của
hoa mua.
Nhìn
hoa, bỗng nhớ lại mùa
trôi giạt trên dòng sông cũ. Những trái mắm héo queo ở góc nhà khi về
với đồng
bãi, biết đâu đã sống đàng hoàng, xanh lá.
Tôi lại
nhắn tin cho người
bạn xa mấy câu thơ của nhà thơ Đinh Trầm Ca “Bèo bữa trước vì sông mà
trôi
giạt. Chợ chở hoa về rợp bóng quê nhà. Thì sá gì cuộc nổi trôi ta”. Bạn
nói,
bao giờ gió chướng thì cho hay, bạn về.
Thì
đây, bây giờ đây. Mùa của
cuộc rong chơi. Mùa đi.
Nguyễn
Ngọc Tư
Nguồn
*
sông
liếm láp đôi chân
khi mà gió chướng càng thổi
sâu vào mùa, nước càng đầy
thấy bình an đến nỗi không
dám nhúng tay vào.
Đinh Trầm Ca....
Ở đâu
đó, các con sông đang
trình diễn cuộc nổi trôi thì gió cũng trình diễn cơn phiêu bạt.
*
GNV lại nhớ tới... Faulkner, và
bài viết "Những cuộc đời của Faulkner", của Pierre Assouline, trong đó,
ông nhắc tới một câu của Nabokov: Tiểu sử nhà văn là lịch sử văn phong
của
người đó.
Ở đây,
phải đẩy câu phán của
Nabokov đến tận cực điểm, và chúng ta thấy, thay vì một văn phong, thì
là một
"dòng sông, trong tất cả những trạng thái của nó", "mượn" cái
tít một bài viết, trong cùng số báo Le Magazine Littéraire, số đặc biệt
về Sex,
Tháng Chạp 2007, có bài của Pierre Assouline về Faulkner, đã dẫn.
La
pluie dans tous ses états
Martin
Page, khách mời trong
tháng của tờ báo, điểm cuốnTừ điển mưa, của Patrick Boman.
*
Dòng
sông trong tất cả những
tình trạng của nó
Thì Gấu
này chẳng đã từng lèm
bèm, văn phong, cách kể chuyện, của Nguyễn Ngọc Tư, là cách chuyển động
của
những sông rạch của một miền đất.
*
Nhân
đọc, một số bài viết,
của toàn mấy tay sừng sở trên chốn giang hồ, trên một diễn đàn, [ta là
Gấu ư?],
về NNT, Gấu mới ngộ ra một điều, là, ngay trong cái giới sùng kính bà,
không kể
mấy anh bỏ chạy, vẫn có những ông Hai Trầu!
Hóa ra
cái sự khen chê ở trên
đời, đều là hỏng cả!
Rõ
ràng, thì là, cái ông phán
thật hách - "Nguyễn Ngọc Tư sẽ mãi mãi là một 'nhà văn học trò' đã có
một
cuốn truyện 'best seller' nho nhỏ" - đã từng viết văn, có thể, khi
'chưa
có' Nguyễn Ngọc Tư, và, viết văn, làm thơ, dịch văn, dịch thơ, có thể,
trước cả
Gấu, vậy mà cho tới lúc này, chưa từng có được 'một' câu văn, câu thơ,
ra hồn!
Đừng nghĩ Gấu cáu, phán sảng!
Y hệt
ông số 2 - xin xem bài
Tự Kiểm - Gấu đã tưởng mình may mắn, đi chót đời, không phải nhắc đến
tên ông,
đâu ngờ, vẫn không thoát!
Mô
phỏng ông, Gấu này cũng
xin chờ, ở ông ta, một câu văn, một câu thơ, 'giản dị', thí dụ như câu
này:
Tôi lâu
không ngước nhìn
trăng bỗng gặp trăng sóng sánh dưới chân mình.
Gấu
thực sự tin rằng, ông này
không đọc nổi câu trên, nói chi chuyện viết ra được.
Có khi,
ông ta lại nghĩ, đây
chỉ là một câu văn biền ngẫu, đối xứng, một thứ câu đối, đẹp, nhưng
rỗng tuếch!
*
Nếu nói
có "dịch" [như dịch hạch]
NNT, thì đó là do mấy kẻ, hoặc đố kỵ, hoặc ngu đần, hoặc quá sùng bái
bà, gây
nên.
*
Câu
văn, tưởng rất đỗi bình
thường, như câu trích dẫn trên, cái phần chìm của nó, mới dữ dội làm
sao, bởi
thế, có văn chương, có nhà văn, khi gặp loài tục tử, bèn giương cặp mắt
trắng
dã, ra, để mà tạ khách.
Ông nhà
văn nhà thơ nhà giáo
trên, vốn là bạn quí của bạn quí của Gấu, còn có mấy ông bạn nữa, cũng
y hệt
nhau, viết lách từ khi còn ở truồng, vậy mà già rồi, vẫn chưa có nổi
một câu
văn câu thơ cho ra hồn, Gấu, phải đến khi về già, mới giải nổi bài toán
hắc búa
này, và nhân đó, còn ngộ ra một điều, họ là những kẻ, vừa đẻ ra, là đã
bị vong
thân trong tiếng Việt rồi. Vừa đẻ ra, là đã muốn chui trở vô, vừa chui
vô, vừa
nói với bà mụ Trời, cho tớ ra đời bằng một cửa ngôn ngữ khác, thí dụ,
cửa Đầm
mũi lõ.
Chính
nhờ mấy đấng Mít học
trường mũi lõ, mà Gấu ngộ ra chân lý: Con người, bất cứ con người nào,
khi học
thêm một thứ ngôn ngữ không phải tiếng mẹ đẻ, là để nói thật rành, hiểu
thật
thấu đáo, tiếng mẹ đẻ!
*
The River Between, by James
Ngugi [later Ngugi Wa Thiongo] redoes Heart of Darkness, by inducing
life into
Conrad's river on the very first page. "The river was called Honia,
which
meant cure, or bring-back-to-life. Honia river never dried: it seemed
to
possess a strong will to live... "
Sông
Nội viết lại Trái Tim
Của Bóng Đen... "Con sông được gọi là Honia, có nghĩa chữa lành, hay
mang-đời-sống-trở-lại: nó chỉ muốn sống, không bao giờ khô cạn".
Edward
W. Said: Themes of
Resistance Culture, Những đề tài về văn hóa kháng cự, trong Văn Hóa và
Chủ
nghĩa đế quốc.
*
Thú
thực, thoạt đầu, Gấu
không thể hiểu được, tại làm sao cái ông nhà văn nhà thơ nhà giáo có
thể phán,
NNT là nhà văn học trò, với một cuốn best seller nho nhỏ, nhưng sau,
nhớ ra là,
ông và các bạn của ông, chưa từng có tác phẩm bán được, dù chỉ một hai
cuốn, mơ
gì chuyện best seller. Ông và bạn ông, in sách, đều "chỉ để" phổ biến
hạn chế, xử lý nội bộ, trong vòng thân hữu, và chính cái sự cay đắng
này khiến
ông phán sảng.
Gấu
nói, phán sảng, ấy là vì,
cỡ như ông ta và bạn của ông ta, không thể nào viết nổi, dù chỉ một câu
văn
Mít, cho có tí hồn.
Còn nhớ
lần ông quảng cáo cho
một cuốn sách dịch, sắp ra lò, bằng lời phán của bà chủ quán, tại một
cái chợ
cá, khi ông gửi bản thảo xin bà hạ cố đi cho vài lời.
Bà này
mới thẳng thắn làm
sao, tuy hơi độc miệng, chắc cũng kiểu nhà văn Oe, dưới đây.
Bà
biểu, đếch ngửi được.
Không phải văn Mít!
*
Nhất
bên trọng, nhất bên
khinh. Lần đó, ngoài lời phán của bà chủ sạp chợ cá, còn một, của một
ông Mít,
chuyên viết văn bằng tiếng Anh. Ông này khen um lên. Có vẻ như ông nhà
văn nhà
thơ nhà giáo định đi cả hai đường quảng cáo, trên cuốn sách sắp ra lò,
ra cái
điều sòng phẳng với văn chương, nhưng sau, chắc thấy bên "khinh"
[khinh còn có nghĩa là nhẹ], nặng quá, bèn bỏ, chỉ giữ lại lời khen nức
nở của
ông bạn quí viết văn không phải bằng tiếng Mít.
Ông bạn
của ông, [không phải
ông viết văn bằng tiếng Anh], bảnh hơn nhiều. Người đầu tiên giới thiệu
một nhà
thơ bỏ chạy nước Nga, tại Việt Nam.
Nhất định chấp nhận làm nhà văn nhà thơ lưu vong. Đi là đi một lèo,
nhất định
không về.
Nhưng
đi đâu?
Ông cho
ông nhà thơ lưu vong
này đi qua nước Mít, cầm súng AK xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước Mít,
diệt đuợc
không biết bao nhiêu là Mỹ Ngụy!
*
Ông
này, Gấu có quen, những
ngày còn Quán Chùa. Quen qua ông bạn quí HPA. Đã có thời, Gấu cứ nghĩ,
ông coi
Gấu là bạn của ông ta.
Đã có
thời, theo nghĩa, suốt
cả một thời. Thời chinh chiến.
Chỉ đến
khi ra hải ngoại, về
già, Gấu mới chưng hửng, ông đếch coi Gấu là bạn, và cùng lúc đó, nhận
ra một
sự thực lớn lao hơn nhiều: Tất cả những ông bạn quí của Gấu, cũng chẳng
coi Gấu
là bạn. Bạn thường, chứ không phải bạn quí!
*
Ui
chao, đang một mình chống
lại giang hồ, may thay, có "ông bạn nhà văn VC", Nguyên Ngọc, phụ một
tay, trong cái việc thanh minh thanh nga cho nhà văn học trò NNT!
Tôi đã có lần nói rồi, và lần
này xin nói lại, và trước khi nói tất nhiên phải xin lỗi tất cả những
người cầm
bút: Để mà tính chuyện đi ra thế giới, tức là cái mà người ta gọi là mở
rộng
không gian văn học, và như thế cũng tức là không gian đất nước, ra với
thế
giới, với bàng dân thiên hạ, tức là cái sự bây giờ được gọi một cách
nghiêm
trang và hơi lo sợ là “hội nhập”, mà không phải sợ bất cứ ai hết, thì
theo tôi
trong văn học hiện đại ta có thể có mấy cái: Số đỏ của Vũ Trọng Phụng
là một,
một số truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp là hai, Nỗi buồn chiến tranh
của Bảo
Ninh là ba, và nay là Cánh đồng bất tận. Tôi nói thế này mà không sợ
quá đáng
đâu: Với Cánh đồng bất tận, văn chương ta bước vào toàn cầu hoá hôm nay
một
cách đàng hoàng, cùng và ngang bằng với những giá trị nghệ thuật và
nhân văn
của toàn cầu, chẳng phải nể ai hết. Nó đưa văn chương, và như thế cũng
là con
người của ta, ra toàn cầu, để cho toàn cầu biết rằng ta cũng là con
người chẳng
hề thua gì họ.
*
Bảnh,
bảnh thật!
Đúng là
thứ thầy!
Thiên
hạ có bốn bồ chữ, ta có
đủ bốn, còn sợ gì thằng Tây nào nữa!
*
Thời
Cao Bá Quát, có ba bồ, nhờ
net, có thêm một bồ. Thời Cao Bá Quát, ông một bồ, bà con của ông, một
bồ, còn
bồ thứ ba, cho người dưng.
Thời bi
giờ, ngoài một bồ Số
Đỏ, Vũ Trọng Phụng, còn ba bồ, trong nước xơi cả ba. Hải ngoại trơ mắt
ếch ra.
Ngài Vũ
Thư Hiên, đã từng
hạch, lại có thứ văn chương hải ngoại ư?, là theo nghĩa đó.
Chính
vì lý do đó mà Nguyên
Ngọc mới phải rào đón, "tất nhiên phải xin lỗi tất cả những người cầm
bút."
Khéo
quá, khéo quá!
Khoan
nói tới Số Đỏ, ba bồ
còn lại, và cái thế chia ba thiên hạ của chúng, có tính, hoặc hỗ tương,
hoặc
nhân quả, hoặc, nếu không cả ba thì cũng ít ra, giữa Tướng Về Hưu và
Nỗi Buồn
Chiến Tranh. Một cách nào đó, Nỗi Buồn Chiến Tranh và Tướng Về Hưu là
hai mặt
tiêu cực, của cuộc chiến, chúng đều chửi bố chân lý Đường ra trận mùa
này đẹp
lắm.
Cánh
Đồng Bất Tận là hậu quả
tất yếu, biện chứng, của mặt tích cực của cuộc chiến. Thay vì Cái Nhà
Việt Nam
thì Cánh Đồng Bất Tận!
*
Với
Cánh đồng bất tận, văn
chương ta bước vào toàn cầu hoá hôm nay một cách đàng hoàng, cùng và
ngang bằng
với những giá trị nghệ thuật và nhân văn của toàn cầu, chẳng phải nể ai
hết. Nó
đưa văn chương, và như thế cũng là con người của ta, ra toàn cầu, để
cho toàn
cầu biết rằng ta cũng là con người chẳng hề thua gì họ.
Nguyên
Ngọc.
*
Hình
ảnh chúng ta về Dos,
"đau cái đau", của sự thái quá, đến biến thành sáo rỗng. Chúng ta
nhìn Dos như là một nhà tâm lý học, tâm thần học của những hoàn cảnh
cực điểm,
một tiểu thuyết gia, với những nhân vật, mà Borges đã từng khôi hài, bị
đẩy tới
tình trạng sướng quá, hạnh phúc quá, đến đành phải tự tử!
Nhưng
chúng ta còn biết, điều
quan trọng này, về Dos: ông là nhà văn quá mẫn cảm về sự hiện hữu của
cái ác,
và sự phạm tội. Chính vì điểm này mà Ivanov [tác giả cuốn Dostoevsky,
Tragédie,
Mythe, Religion], đã so sánh ông với Dante: cái giải pháp độc nhất cho
nỗi đau
khổ của con người, chỉ có thể là: Thượng Đế.
Có một
Dos khác, ít người để
ý: Một Dos của Nước Nga Thánh [la Sainte Russie].
Nguyễn
Ngọc Tư là một nhà văn
quá mẫn cảm về sự hiện hữu của một cái ác, và sự phạm tội?
Và nếu
như thế, câu của
Nguyên Ngọc, thiếu: ... để cho toàn cầu biết rằng ta cũng là con người
chẳng hề
thua họ, về cái độc, cái ác.
*
Văn
chương ta có hai đỉnh
cao. Một, 1954, với Nhân Văn. Và gần như cùng một lúc, đám Bắc Kỳ Di Cư
làm
trời ở Sài Gòn, với nhóm Sáng Tạo, và sau đó, với "cái gọi là" nhóm
Tiểu Thuyết Mới, tức băng đảng Gấu và các bạn quí của nó!
*
Nhưng,
bất ngờ nhất, là sự
xuất hiện của Nguyễn Ngọc Tư, đúng vào lúc lịch sử của dân Mít đang từ
đỉnh cao
lao xuống vực thẳm.
Bất ngờ
nhất, không thể nghĩ
là sẽ có được, và khi có được, mới thấy cần thiết là biết bao, và chỉ
còn biết
cám ơn cái gọi là thiên tài của nơi chốn, hay Ông Thần Đất.
*
Nhân
nhắc đến Ông Thần Đất,
thiên tài của nơi chốn, địa linh nhân kiệt.
Số báo
Le Magazine Littéraire
mới nhất, về Simone de Beauvoir, trong mục thường xuyên của nó, Sổ Đọc,
[Carnet
de Lecture], có một bài viết tuyệt vời về nhân vật Kurtz, của Trái Tim
Của Bóng
Đen, của Conrad, nhân dịp tái xuất bản tuyệt tác này. Ông Từ giữ đền
"Sổ
Đọc" này, Enrique Vila-Matas, là người Tây Ban Nha, viết bằng tiếng Tây
Ban Nha, được dịch qua tiếng Pháp: Kurtz des ténèbres [Kurtz của bóng
đen].
*
Vila-Malta
viết về Conrad:
Ông gia
nhập truyền thống rất
xa xưa, theo đó, cái gọi là kỷ luật, sự tu luyện phải đến từ bên trong,
bởi vì
đây chính là sức mạnh tâm thần bật ra từ thiên tài về nơi chốn của
chính bạn,
le genius loci, nói một cách khác, từ chính chúng ta.
[Joseph
Conrad adhérait à la
tradition la plus ancienne, selon laquelle la discipline doit venir de
l'intérieur, puisqu'il s'agit d'une force mentale émise par notre
propre génie
du lieu, le genius loci, autrement dit nous-mêmes. L'homme ne se libère
pas en
donnant libre cours à ses impulsions et en se montrant changeant et
incapable
de se contrôler, mais en soumettant la force de sa nature à un projet
prédominant, à un code mental d'acier qui sache éliminer sa liberté la
plus
sauvage et le situer dans le cadre d'une vie disciplinée, en faisant
appel aux
desseins intérieurs du génie du lieu.]
*
Còn một
bài viết nữa, trong cùng
số báo, cũng thật tuyệt, của Linda Lê, trong mục thường xuyên của bà,
"Trở
về với những tác giả cổ điển". "Tẩu khúc của thần chết", Missa
sine nomine, nguyên tác tiếng Đức, của Ernst Wiechert. Một bản di chúc
tâm linh
của một người sống sót trại tù Buchenwald.
Bài
viết cũng khiến Gấu liên
tưởng đến Cánh Đồng Bất Tận.
Đối
diện với điều không thể
nói được, không thể gọi tên, viết về sự phạm tội và cứu chuộc, liệu vẫn
còn có
nghĩa?
Câu trả
lời:
Tiếng
nói của tôi được vời
tới, và nó kể
[Ma
voix a été appelée, et
elle raconte].