Rasim, nhà văn
Mùa Xuân trên thành phố HCM quang
vinh
[Will spring never come, will
spring never come?]
[Note:
Gấu, nhà văn, bận quá,
nhờ Pamuk viết giùm một kỳ Sổ Tay!]
Vào một
buổi sáng sớm, vào
cuối thập niên 1880 – cũng không lâu sau khi nhà vua Abdulhamit II bắt
đầu Luật
Tuyệt Đối của ông, kéo dài 30 năm – có một ký giả, 30 tuổi, ngồi tại
bàn giấy
tại tờ Hạnh phúc, một nhật báo nhỏ ở
Babtali, và, “bất thình lình” cửa mở toang, và một người đàn ông dáng
người cao
lớn, đội mũ đỏ, mặc một cái “áo khoác kiểu nhà binh”, tay áo làm bằng
một thứ
vải đỏ, bước vô phòng. Nhận thấy anh ký giả trẻ, ông ta la lớn: “Lại
đây”. Anh
ký giả trẻ sợ sệt, đứng dậy, “Đội mũ vô. Đi”.
Người
đàn ông trong cái áo
vét nhà binh và anh ký giả trẻ leo lên một xe ngựa, đậu trước cửa, và
xe chạy.
Xe vượt cầu Galata
Bridge,
cả hai đều im
lặng. Khi đi được chừng nửa đường thì anh chàng ký giả trẻ có bộ mặt dễ
thương
mới thu được tí can đảm, để hỏi, ông mang tôi đi đâu.
“Đến
gặp Ngài bí thư của Đức
Vua. Ngài ra lệnh phải tóm liền mi, mang đến cho Ngài ngay tức khắc.”
Sau khi
đến Hoàng cung, đợi
chừng ít phút, một người đàn ông khó chịu, có bộ râu bạc xám, kêu anh
chàng ký
giả lại bàn ông ta:
“Đến
đây”.
Một tờ Hạnh phúc mở ra, trên bàn. Giơ tay chỉ, ông ta
giận dữ
nói:
-Cái
này nghĩa là gì?”
Anh
chàng ký giả vẫn chưa
hiểu cái này là cái gì, ông ta la lên:
“Thằng
phản bội! Đồ vô ơn!
Phải thẩy một trái đại bác vô đầu mi cho nó nổ banh ra”.
Anh
chàng ký giả, tuy vẫn còn
sợ đái ra quần, nhưng nhận ra, bài báo gây nên trận giận dữ đó chỉ là
một bài
thơ của một thi sĩ đã chết, đúng ra, một điệp khúc, như vầy, “Liệu
mùa xuân
sẽ chẳng bao giờ tới nữa/Liệu mùa xuân sẽ chẳng bao giờ tới nữa?”
Hy
vọng giải
thích, anh chàng ký giả rụt rè lên tiếng “Thưa Ngài…”
“Mày
còn chưa câm miệng ư?
Muốn thêm bớt nữa hả? Bước ra chỗ khác”. Viên bí thư của nhà vua ra
lệnh.
Sau khi
đứng run rẩy ở chỗ
khác chừng 15 phút, anh ta lại bị lôi cổ vô. Nhưng cứ mỗi lần anh mở
miệng tính
giải thích anh không phải là tác giả của bài thơ, là anh lại được xơi
một cơn
giận dữ.
“Đồ
khốn kiếp. Đồ chó má. Đồ
con hoang. Đồ chết tiệt. Phải treo cổ hết tụi chúng mày lên”.
Khi
hiểu ra rằng, sẽ chẳng có
cơ hội để giải thích, anh chàng ký giả bèn thu hết can đảm, thò tay vô
túi móc
ra cái thẻ Hội Nhà Báo, và đặt nó lên bàn. Viên bí thư đọc cái tên trên
thẻ nhà
báo, và hiểu ra rằng, có một sự lầm lẫn. Ông ta hỏi:
“Tên
anh là gì?"
“Ahmet
Rasim”
Kể lại
giai thoại trên, bốn
mươi năm sau, trong cuốn hồi ký, “Tác giả, Thi sĩ, Nhà văn”, Rasim nhớ
lại, khi
viên bí thư hiểu ra rằng, người ta đã bắt lầm, và đem đến cho ông ta
không đúng
cái người mà ông ta cần bắt, thì ông ta bèn thay đổi giọng điệu.
“Sao
con không ngồi xuống,
con của ta.”
“Con
không phiền khi ta gọi
con là con của ta chứ?”
Mở ra
một ngăn kéo, viên bí
thư kêu Rasim lại gần, và giúi cho 5 liras, ông nói, “Thế này là chu
nhé. Đừng
có nói cho ai hay chuyện này, thôi xéo!”
Rasim
kể câu chuyện gặp gỡ
trên, với cái vẻ hớn hở, và bằng cái giọng hóm hỉnh thường lệ, pha trộn
thêm tí
mắm muối, là những chi tiết của cuộc sống thường nhật, chúng, những câu
chuyện
như thế, làm nên “hallmark” [dấu ấn, thương hiệu, văn phong…] của ông.
Lòng
yêu đời, sự hóm hỉnh, và
thú viết, niềm vui mày mò cùng mớ chữ, thủ công viết, khiến Rasim trở
thành một
trong những nhà văn lớn của thành phố Istanbul.
Cái yêu cái vui cái tếu, cùng với nguồn nghị lực chẳng hề
thiếu, sự
lạc quan, và tinh thần cứng cỏi, luôn ở đỉnh cao của ông, dư sức để cân
bằng
với nỗi buồn hậu đế chế mà Tanpinar, nhà tiểu thuyết, Yahya Kemal, nhà
thơ, và
Abdulhak Sinasi Hisar, hồi ký gia, cả một đám cùng rủ nhau nhận chìm.
Như tất
cả những nhà văn yêu thương Istanbul, ông quan tâm tới lịch sử của nó,
và cũng
có viết những cuốn sách về nó nữa, nhưng bởi vì rất cẩn trọng trong
việc kiểm
tra nỗi buồn của mình, coi nó từ đâu mà ra, ông không bao giờ than van
về một
“thời đại hoàng kim đã mất”. Thay vì nhìn quá khứ thành phố như là một
kho tàng
thiêng liêng, và cứ lặn sâu vào trong đó, rồi ngoi lên, là tha hồ mà
viết, là
tìm ra giọng nói đích thực, nhờ đó có thể sản xuất những tuyệt tác theo
kiểu
Tây phương, ông chủ trương, như hầu hết những nhà văn trong thành phố,
tự kiềm
chế mình ở trong hiện tại: Istanbul là một thành phố dễ chịu, thích
thú, để sống
ở trong nó, và chia sẻ tứ khoái, theo nghĩa, chia sẻ mọi
chuyển
biến, dù nhỏ nhoi cỡ nào, cùng với thành phố.
Trên tờ Granta,
số Mùa Xuân 2006, có bài phỏng vấn Pamuk, ông cho biết, một trong những
nhà văn ảnh hưởng tới ông là Borges:
Borges,
tình cờ làm sao, có để ý đến Hội
nghị của những con chim... Đây là câu chuyện rất đơn giản, một
nhóm chim đi tìm vua của chúng, đã bị mất tích, lost. Mỗi con chim đi,
là mỗi câu chuyện kể, một kinh nghiệm. Sau cùng chúng tới núi Mount
Kaf, một thứ Eastern Mount Olympus, và chúng nhận ra rằng, nhà vua, ông
trời, cái con người mà chúng tìm kiếm đó, ở ngay trong chúng. Chúng
chính là cái người mà chúng tìm: They are the vey person they are
looking for.