Tình Yêu
Thời Thổ Tả
Bắc
Âu được coi là thánh địa của nhà văn; sự kiện những nhà
văn Bắc Âu hiện đang đứng đầu danh sách best sellers, ở trong nước và
trên thế
giới, “đã làm thay đổi giả thuyết rằng những thiên tài sáng tạo phải
chịu đau
khổ mới làm ra nghệ thuật…. an ninh thịnh vượng có thể cung cấp nguồn
cảm hứng
riêng của nó.”
Các
nhà văn ở Na Uy, Phần Lan… được trọng vọng y hệt như các
minh tinh màn bạc ở Hoa Kỳ. Người dân ở đây ham đọc, “có thể là do thời
tiết”.
Dân Bắc Âu “mặn mà” nhất với chuyện mua sách, chỉ thua dân Anh.
Người
viết có nghe một giai thoại về xứ Bắc Âu, theo đó,
thanh niên ở đây có giá lắm. Một chàng trai khuyên một anh bạn được qua
xứ Bắc
Âu, “Qua đó, ban đêm đừng ra khỏi nhà nhé!” Anh bạn tưởng tình trạng an
ninh
không bảo đảm, hay có giới nghiêm ở xứ sở “mặt trời đêm”. “Ban đêm mà
ra khỏi
nhà là bị các cô gái bắt cóc đó!”
Đấy
là nói về Thánh Địa
của nhà văn. Và của… đàn ông.
Nếu
Bắc Âu được coi là thánh địa của nhà văn, như vậy thánh
địa của văn chương chắc là thuộc về dòng văn chương viết bằng tiếng Tây
Ban
Nha, thuộc vùng Mỹ Châu La Tinh, với những cao thủ như
Garcia Marquez.
Trong
một tuyển tập những truyện ngắn ngoại, được gọi là
“hay nhất thế giới” người viết được đọc những ngày mới lớn, có câu
chuyện một
vị linh mục dậy tại hai trường nam nữ phân biệt. Có hai cô cậu, mỗi
người ở một
đầu sông Tương, nên đành lấy cái nón ở trên đầu vị linh mục làm nơi hò
hẹn. Nói
rõ hơn, cái nón của vị linh mục chính là một hộp thư lưu động giữa hai
ngôi
trường. Một bữa vị linh mục tình cờ biết được bí mật, và ông bị cuốn
hút bởi
những lời lẽ trong những lá thư tình. Nhưng vì một giận hờn, hay một
hiểu lầm,
cuộc tình có dấu hiệu đi đến tan vỡ. Vị linh mục bèn mạo chữ viết, làm
một cuộc
hàn gắn. Sau cùng đi đến hôn nhân.
Trong
Tình Yêu Thời Thổ Tả của Garcia Marquez, cũng có một
câu chuyện tương tự như vậy. Nhân vật chính yêu một cô gái. Cô gái đi
lấy
chồng. Anh chàng quyết tâm đợi khi nào anh chồng chết, sẽ cưới cô gái.
“Một
người đàn ông với linh hồn của một thi sĩ, và sự kiên nhẫn của một vị
thánh”:
Florentino Ariza đã kiên nhẫn đợi hơn nửa thế kỷ; “tình yêu trong khi
đợi chờ”
của anh trải dài 51 năm, 9 tháng, và 4 ngày; trong khi chờ đợi người
yêu “thứ
thiệt” như vậy, anh đã trải qua 622 chuyện tình ái lăng nhăng, cho qua
thì giờ,
nhưng cũng thuộc loại dài hạn (long-term liaisons). Và khi cuộc đời
thực sự của
anh bắt đầu, anh nói với người yêu: anh vẫn còn là trai tơ! Nàng tuy
không tin
tưởng cho lắm, nhưng lại mê cách anh nói câu đó: không vướng chút bụi
trần!
(But she liked the spirited way in which he said it).
Người viết liên tưởng
tới câu nói của nàng Kiều khi tái ngộ Kim Trọng: Chữ trinh còn một chút
này…
Kundera cho rằng, nếu
con người chỉ có một cuộc đời để sống, thì tốt hơn hết nên chết đi cho
rồi!
Theo ông, có một đời chưa đủ, mà cần phải có hằng hà sa số cuộc đời.
Một kỷ
niệm, nó không phải để nhớ lại, về một lần xẩy ra trong đời, mà cứ thế
xẩy đi
xẩy lại mãi mãi, mỗi lần một khác, trong trí tưởng tượng của chúng ta.
Em không
hiện hữu, cuộc tình của chúng ta không thật, nếu anh không tưởng tượng
ra em,
không tưởng tượng ra cuộc tình…
Trong hơn nửa thế kỷ
chờ đợi, Ariza đã có thời gian làm nghề viết mướn. Một lần, một cậu con
trai
nhờ viết thư tỏ tình cho một cô gái. Anh tưởng tượng như đang viết cho
người
yêu. Thú vị nhất, là cô gái nhận thư lại nhờ đúng anh, để viết thư trả
lời. Sau
cùng hai cô cậu lấy nhau, đưa nhau tới gặp ông mai, mới biết sự thực.
Đề tài viết thư tình
giùm này, coi bộ rất ăn khách. Trên báo Văn mới gần đây có một truyện
ngắn,
hình như dịch Isabel Allende, viết về một cô gái lấy “lầm chồng”, vì
những bức
thư tình. Sau cô tìm ra thủ phạm, là ông thầy giáo cô con gái của cô.
Và cô bắt
thường, bằng cuộc tình của… đôi ta!
Isabel Allende là một
nữ cao thủ của dòng văn chương Mỹ Châu La Tinh. Cuốn “Ngôi nhà của
những hồn
ma” của bà chẳng thua gì “Trăm Năm Cô Đơn” của Garcia Marquez. Những
trang sách
như run lên bần bật, vì tình yêu và hận thù. Cả hai nhà văn này đều
bước ra từ
cái bóng của nhà văn người Mỹ, W. Faulkner. Hận thù ở trong tiểu thuyết
của
Faulkner là do mầu da, còn ở Isabel Allende là do giai cấp, nhưng đều
là anh
em, thuộc những đời vợ đen trắng hoặc giai cấp khác biệt,
giết lẫn nhau.
Tình Yêu Thời Thổ Tả,
cái gì vậy cà?
Sau khi ông con được
người yêu cho phép gặp mặt, bà mẹ biết liền, bởi vì ông con trai nói
không ra
tiếng, đêm nằm ngủ gãi sồn sột, lăn qua lăn lại, đập mình đập mẩy, mất
tiêu
luôn khẩu vị. Ghê gớm hơn nữa, trong thời gian chờ đợi người yêu trả
lời thư,
tình trạng ông con ngày càng trở nên nguy kịch: ỉa chẩy, ói mửa… bà mẹ
đưa đi
bác sĩ cấp cứu, và sau cùng đành kết luận: những triệu chứng của tình
yêu giống
“y chang” những triệu chứng của bịnh thổ tả!
Trong tập tiểu luận
Quê Hương Tưởng Tượng, S. Rushdie cho
rằng, sức tưởng tượng của Garcia Marquez phần lớn là từ kỷ niệm về
người bà của
ông. Ngoài ra còn những nguồn khác nữa. Tác giả đã từng xác nhận, ông
ảnh hưởng
Faulkner, và thế giới kỳ ảo Macondo là một phần bất động sản
Yoknapatawpha của
Faulkner được dời tới một khu rừng ở Colombia. Ngoài ra còn Borges, và
sau lưng
vị khổng lồ này, nhiều người khaÙc. Thời gian viết phim truyện cho điện
ảnh đã
cho ông ý tưởng, người Mỹ đã bắt một nhà độc tài Mỹ châu La tinh phải
đem biển
cả trả cho họ, thay cho những món nợ còn thiếu, trong Mùa Thu của
Trưởng Lão
(L'Automne du Patriarche). Nhưng quan trọng hơn hết vẫn là người bà của
ông.
Trong một cuộc phỏng vấn, ông cho biết được thừa hưởng ngôn ngữ của bà.
Chính
giọng kể là của bà. Bà là một người kể chuyện tuyệt vời. Trong những
gia đình
thuộc sắc dân da đỏ, người đàn bà gìn giữ kho tàng chuyện kể, và Nam Mỹ
cũng có
truyền thống này.
Garcia Marquez được
ông bà nuôi nấng và ông chỉ gặp mẹ lần đầu tiên vào lúc 7, hoặc 8 tuổi.
Sau 8
tuổi, chẳng có chuyện chi là hay ho, khác thường đối với ông. Ông nói
về ông bà
của mình: họ có một căn nhà thật lớn, đầy những hồn ma. Họ cũng rất mê
tín.
Trong mỗi góc nhà là những bộ xương, và những kỷ niệm, và sau 6 giờ tối
là
không ai dám ra khỏi phòng. Từ những kỷ niệm về căn nhà, mượn thêm
giọng kể của
người bà, như cục nam châm, ông xây dựng thế giới Macondo.
Nhưng rõ ràng ông còn
có nhiều hơn thế nữa. Ông rời Aracataca, ngôi làng thơ ấu khi ông còn
quá trẻ,
và thực tại phố phường khác xa, nhiều khi trái ngược với vùng rừng núi.
Trong
Trăm Năm Cô Đơn, Người Đẹp Remedios bay lên trời là một biến cố được
đợi chờ,
nhưng khi chuyến xe lửa đầu tiên tới Macondo, một người đàn bà chạy ra
giữa mặt
lộ, la lớn: Nó tới rồi. Con gì giống như một cái bếp kéo theo sau nó cả
một cái
làng! Garcia Marquez đã quyết định để viễn ảnh thế giới của người dân
quê ở bên
trên cái của kẻ tỉnh; đó là nguồn gốc sự diệu kỳ ở nơi ông.
Ở Mỹ Châu La Tinh,
thực tại biến dạng do chính trị nhiều hơn là do văn hóa. Sự thực bị
bưng bít
đến nỗi không còn biết đâu là sự thực. Cuối cùng chỉ còn một sự thực
độc nhất,
đó là lúc nào người ta cũng nói dối. Những tác phẩm của Garcia Marquez
không có
tương quan trực tiếp tới chính trị, nhưng chúng đề cập tới những vấn đề
đại
chúng bằng những ẩn dụ. Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo là một khai triển
chiết ra
từ chủ nghĩa siêu thực; một chủ nghĩa siêu thực diễn tả lương tâm đích
thực của
Thế Giới Thứ Ba, tức là của những xã hội được tạo thành chỉ có “một
nửa”; trong
đó, cái cũ có vẻ như không thực chống lại cái mới làm người ta sợ,
trong đó sự
tham nhũng, thối nát công cộng của đám cầm quyền và nỗi khiếp sợ riêng
tư của
từng người dân, tất cả đều trở thành hiển nhiên. Trong thế giới tiểu
thuyết của
Garcia Marquez, những điều vô lý, những chuyện không thể xẩy ra, đều
xẩy ra
hoài hoài, ngay giữa ban ngày ban mặt. Thật hết sức lầm lẫn, nếu coi vũ
trụ văn
chương của ông là một hệ thống bịa đặt, khép kín. Nó không được viết ở
trên
mảnh đất nào khác mà chính là mảnh đất chúng ta đang sống. Macondo có
thực. Và
đó là tính nhiệm mầu của ông.
Tình
Yêu và Những Quỷ Dữ Khác (Love and other Demons) cũng
nằm trong dòng huyền hoặc Hispano-American của Tình Yêu Thời Thổ Tả.
Nơi chốn
là một thành phố cổ Cartagena de Indias thuộc vùng bờ biển Caribbean
của
Colombia. Thời gian không rõ, nhưng nô lệ và mê tín vẫn đầy rẫy và bệnh
hoạn
được chữa trị bằng cây cỏ, bằng những trò trừ tà. Trong bài mở đầu,
Garcia
Marquez cho biết, tác phẩm của ông nẩy sinh từ một biến cố xẩy ra vào
năm 1949,
khi một tu viện cổ dành cho nữ tu bị đập bỏ để xây dựng một khách sạn.
Là một
phóng viên trẻ của một nhật báo, ông được cử tới viết bài tường thuật.
Ở khu
hầm mộ, giữa đống xương cốt, quan tài vụn nát, gần nơi bàn thờ, ông
thấy có một
hốc tường bị đập bể, và những người thợ lôi ra một mớ tóc còn dính vào
da đầu
một cô gái chết trẻ. Trải dài ra đo được 22 mét. Chúng ta đừng hỏi, tóc
chết có
mọc dài ra không, nhưng từ sự kiện “thực” này, tác giả liên tưởng tới
một câu
chuyện ông được nghe từ hồi còn nhỏ, về một nữ hầu tước 20 tuổi, tóc
dài ơi là
dài, chết vì bệnh chó dại, và được dân quanh vùng thờ phụng vì những
phép lạ.
Tác giả cho nữ hầu tước Sierva Maria de Todos los Angeles là con của
một hầu
tước và một bà mẹ nghiện ngập. Chẳng ai lo cho cô, và cô sống giữa đám
nô lệ,
trong tòa nhà cổ xưa gần sụp đổ của họ. Cô học nhẩy trước khi biết nói,
biết ba
ngôn ngữ Phi Châu cùng một lúc, học uống máu gà trước bữa điểm tâm, và
như một
hồn ma, những người Thiên Chúa giáo không thấy cô, và không nghe cô
nói, khi cô
đến gần họ. Một bữa trong khi đi chợ, cô bị chó cắn. Vết thương có vẻ
muốn
lành, nhưng có tin là những người khác cùng bị chó cắn đã chết. Lần đầu
tiên,
ông bố để mắt đến cô, đem cô ra khỏi khu nô lệ, cho cô ở trong căn
phòng người
bà nội, cho cô học, nghe âm nhạc, cho tới khi những dấu hiệu đầu tiên
của bệnh
dại xuất hiện. Đám y sĩ chữa trị bằng cách bơm ruột, cho uống chất kim
antimony, và tắm bằng nước tiểu. Thân thể đầy những vết thâm tím, phồng
rộp, cô
gái đau đớn, điên cuồng la hét. Giám mục địa phận, sau khi phán quyết
cô gái bị
quỷ ám, ra lệnh phải giao cô cho các vị nữ tu Santa Clara. Cô bị nhốt
trong một
căn hầm, lột hết quần áo, và một tu sĩ trẻ, Delaura, từ Tây Ban Nha
tới, lo
việc trừ tà cho cô. Sau khi nói chuyện với cô, anh khẳng địnhh cô không
có bị quỷ
ám gì hết. Nhưng khi có những chuyện quái dị xẩy ra, mọi người trong tu
viện
đều tin cô gái là quỷ. Một bữa Delaura tới tu viện thăm cô, thấy cô
đang ngồi
cho người ta họa chân dung. Cô mặc bộ quần áo lụa của bà nội, với mớ nữ
trang
choàng quanh cổ, trên mái tóc dài. Vị tu sĩ mất hồn, đúng như định mệnh
phán
bảo. Anh nói với vị Giám mục: Thưa Cha, đây đúng là quỷ. Thứ quỷ dữ
nhất trong
mọi loài quỷ. Đây là Quỷ Tình.
Vị tu sĩ trẻ bị đầy
tới một nhà thương cùi, anh trốn đi gặp cô, làm cô thương anh bằng cách
đọc thơ
ca cho cô nghe, nhưng sau cùng bị đám nữ tu bắt gặp đuổi ra khỏi tu
viện. Cô
gái sau cùng chết vì những trò bùa phép, trừ tà. Khi cô chết, trời đất
rung
chuyển, trâu bò phát cuồng la rống, và người ta tin rằng, tất cả những
quỷ dữ
dưới địa ngục đều đau lòng vì cái chết của cô.
Đây là
một chuyện
tình mãnh liệt, man rợ, dữ dằn như “một
chuyện thần tiên”. Cuốn tiểu thuyết tuy mỏng, nhưng đầy tham voÏng của
tác giả,
khác hẳn, và u tối hơn tất cả những tác phẩm trước đó. Sức mạnh của
cuốn sách
cũng là định mệnh của cô gái ngây thơ, hoang dại bị xâu xé giữa ngoạÏi
giáo, và
Ca-tô giáo, ở đây, đều man rợ như nhau.