TẠP GHI
|
Hãy mở giùm
tôi cánh cửa này...(1)
Vào
một ngày thứ Năm, tháng Mười, một
người đàn ông tên là
Sture Allen sẽ cử hành một nghi lễ nho nhỏ. Liền sau buổi trưa, ông
ngồi trước
cái bàn thời Louis thứ XV, trong một văn phòng với những đồ vật vốn
thuộc hoàng
gia Thụy-điển. Và khi chiếc đồng hồ bằng vàng của ông gõ một tiếng, ông
mở cánh
cửa thông qua Đại sảnh, Viện Hàn Lâm Thụy-điển.
"Năm
nào tôi cũng chỉ làm như vậy".
Ông mở cửa
bước vào Đại sảnh, gặp gỡ báo chí. Họ đang đợi ông. Sự thực họ đang chờ
thông
báo, ai là người trúng Nobel văn chương, từ người thư ký thường trực
của Hàn
Lâm Viện. Allen, năm nay 69 tuổi, chẳng phải học giả, thi sĩ hay văn
sĩ. Ông
chỉ là nhà ngôn ngữ học được huấn luyện để làm việc với những chiếc máy
tính
(computer), nhưng chức vụ "người truyền giao thông điệp" của ông là
một ân sủng đối với đồng sự. Và thông đìệp của ông, thời giá của nó:
trên một
triệu đô-la.
"Hàng
năm cứ vào cuối thu, lá ngoài
đường rụng nhiều,
và trên không có những đám mây bàng bạc"... là giới báo chí lại xôn
xao,
xì xào, ai sẽ là người được Nobel văn chương.
Thường
là đoán trật.
Năm nay (1998), những tên tuổi được
nhắc nhở, là Bei Dao, nhà thơ lưu vong Trung-hoa. Hugo Claus, người
cùng chạy
đua với ông, là một thế giá từ bấy lâu nay của nền văn chương viết bằng
tiếng
Flemish. Còn hai cột trụ của văn chương Bồ-đào-nha hiện đại, một là
José
Saramago [giải thưởng sau cùng vào tay ông]; cuốn tiểu thuyết "Năm Từ
trần
(The Year of the Death of) của Ricardo Reis" của ông được coi như một
đại
tác phẩm; người kia là Antonio Lobo Antunes, một nhà tâm thần học, tác
phẩm của
ông dựa trên kinh nghiệm khi ông làm việc với Quân đội Bồ-đào-nha tại
Angola
vào những năm 1970.
Chưa
nhà văn viết
bằng tiếng Flemish đoạt Nobel. Cách đây ba
năm, Claus đã tưởng rằng (mistakenly told), ông là người đầu tiên được
vinh dự
này. Michael Specter, tác giả bài viết tóm tắt ở đây (Hội chứng Nobel,
the New
Yorker Oct 5, 1998), kể lại, hai năm trước, ông viếng thăm nhà văn
người
Estonian, Jaan Kross. Ông này đã từng nghe xì xào nhiều lần, và đã một
lần được
báo trước (advance warning) rằng, lần này đúng là ông đấy! "Người ta
bảo
tôi đừng rời máy điện thoại. Ôi chao chuyện đó dễ ợt! Thời giờ cứ thế
trôi, rồi
tôi hiểu ra, chưa tới lượt mình. Cũng chẳng sao, nhưng đã có đôi lúc,
tôi mơ
màng sờ được nàng!"
Người
mơ sờ được
nàng, lâu nhất, qua những nét chữ bằng vàng
trước tên mình: FNPW (Famous Nobel Prize Winner, Nhà văn đoạt giải
Nobel nổi
tiếng), có lẽ là nhà văn người Mỹ, Norman Mailer. Sau hai mươi mốt năm
lăn lộn
với tình, giữa chốn giang hồ, ông như có một cái máy dò Geiger, ở trong
đầu, về
những đợt phóng sạ, từ những giải thưởng này nọ. Nhưng ông không phải
là nhà
văn Hoa-kỳ độc nhất, ôm ấp giấc mơ tuyệt vời như vậy. Khi tôi (M.
Specter) gọi
điện thoại cho Joyce Carol Oates, cách đây không lâu, để hỏi bà có ý
nghĩ gì về
giải thưởng, bà hào hển: "Sao, sao, ông nghe thấy gì?"
Danh
sách chót,
thường là năm người, năm nay sáu. Những tờ
thăm được bỏ vào một chiếc lọ cổ bằng bạc.
Cuộc
chiến đấu giữa
mấy ông hàn, cũng gay go ngoạn mục vô
cùng. Nhất là trong việc gạt bỏ một số thế giá văn chương dư sức đoạt
giải, thí
dụ như Jorge Luis Borges. Ông không được, chỉ vì lý do: Borges đã từng
được
(nhà độc tài) Pinochet ban giải thưởng, như một ông già (as an old
man). Vậy là
đủ để gạt nhà văn vĩ đại nhất của Mỹ-châu La-tinh, vĩnh viễn, khỏi giải
thưởng.
Tuy
thường được giải
thích, cuộc chiến đấu giữa mấy ông mang tính hàn lâm, nhưng thực sự chỉ
là cá
nhân. Họ bị cấm không được xì ra cho báo chí, nhưng giả sử cho phép, họ
cũng
chẳng có thì giờ, vì còn quá bận rộn lo cấu xé lẫn nhau!
Giải
thưởng, lẽ dĩ
nhiên, đã được trao cho một số tác giả thật tuyệt vời của thế kỷ chúng
ta:
Yeats, Mann, Faulkner, Hamsun, và Beckett, nhưng không phải như thế là
đủ.
Joyce, và Nakokov, thí dụ vậy, đã chẳng được vinh dự này, và người "vừa
đập cánh cửa vừa khóc", chắc phải là nhà văn Nga, tác giả cuốn sách, và
cuốn phim đã và đang gây chấn động, Lolita. "Vladimir Nabokov có lẽ là
người than van nhiều nhất, về chuyện hụt giải" (one of the
most-lamented
non-laureates, The New Yorker). Khi Nobel về tay Solzhenitsyn, ông tức
giận
tuyên bố, đại khái, cái trò "chống Cộng đầu tiên" phải thuộc về tôi.
Hai người từ chối, một, Pasternak, là do chính quyền Xô-viết làm áp
lực. Còn
người kia là Jean-Paul Sartre. Ông từ chối, vì theo ông, "vô nguyên
tắc".
(Sau khi ông mất, 'hậu duệ' của ông đã nài nỉ mấy ông hàn cho lại họ
nhưng bị
từ chối).
Omerta,
luật là vậy,
nhưng đôi khi cũng đến tai công chúng. Người đầu tiên phạm luật là
Artur
Lundkvist; gà của ông là nhà thơ Neruda. Ông đã thề sống dai hơn nhà
văn Anh,
Graham Greene, chỉ để gạt tên ông này ra khỏi Nobel. Ông cũng là người
không
chịu William Golding, Nobel 1983, "một hiện tượng Anh nho nhỏ, chẳng có
chi đặc biệt". Tuy nhiên chuyện thực sự xấu xa xẩy ra vào năm 1989, khi
Ature Allen, lấy quyền thư ký thường trực, ngăn chặn Viện Hàn Lâm tỏ
thái độ,
khi cái đầu của Salman Rushdie bị ra giá, qua vụ Quỉ Thi. Việc này đã
làm hai
ông hàn "quit job". Chủ tịch PEN Thụy điển tuyên bố: "Chuyện quá
đơn giản. Một quốc gia lớn kết án tử một nhà văn chỉ vì dám bầy tỏ quan
điểm của
mình, vậy mà một trong những thế giá văn chương lớn lao nhất thế giới
như Nobel
đã chẳng dám lên tiếng. Bởi vì Mr. Allen là một tay thư ký bàn giấy.
Sau việc
này, uỷ ban Nobel chỉ là một trò hề đối với tôi."
Thành
lập năm 1895,
thời gian bốn mươi năm đầu, chỉ có hai người, ở bên ngoài Âu và Mỹ-châu
được
giải, nhưng từ Cuộc Chiến Lớn II, được nới rộng. Năm 1968 về tay nhà
văn Nhật
Kawabata; Nigeria:
Wole Soyinka (1986); Ai cập: Naguib Mahfouz (1988); Nam Phi: Nadine
Gordimer
(1991). Toni Morrison, nhà văn Mỹ gốc Phi châu đầu tiên được giải
(1993), nói
với tác giả bài viết: Nếu một người da trắng được giải, họ sẽ không
nói, đây là
chính trị. Bởi vậy tôi chẳng để tâm đến chuyện phê bình. Giả dụ một nhà
văn Mỹ
gốc Phi, hay một người thuộc Thế Giới Thứ Ba - một người không ở Mỹ,
trung tâm
của vũ trụ - được giải, vậy là có vấn đề chính trị. Chính trị là một từ
thực,
nó có một cái nghĩa. Nhưng dùng ở đây, nó chỉ là một từ phân biệt sắc
tộc.
Trường
hợp nhà thơ Cộng Sản
Neruda, cũng có nhiều điều thú vị, qua kể lại của Per Wastberg, người
năm ngoái
được bổ sung, khi có hai ghế trống. Ông năm nay 64, tiểu thuyết gia,
nhà phê
bình, vốn được coi như nhà ngoại giao, hoạt động nhân quyền, và cũng là
nhà văn
Thụy điển đầu tiên công khai lên tiếng yêu cầu nhà nước rút đại sứ ra
khỏi
Iran, khi xẩy ra vụ Rusdhie.
"Là
một người
Thuỵ-điển cũng căng lắm," ông nói,
"Đi bất cứ nơi đâu, khi được giới thiệu đây là nhà văn Thuỵ điển, thế
là
mọi người nhẩy bổ lên!", ông nói, không hoàn toàn có vẻ diễu cợt. Ông
kể
lại lần gặp gỡ đầu tiên với nhà thơ ý thức hệ lớn Cộng Sản Pablo
Neruda: Tôi
gặp ông
ta vào năm 1965, tại Bled. Khi biết tôi là một người Thuỵ điển, ông
liền mời
dùng cơm. "Nhà thơ nhà nước" Cộng Sản này sống như một ông hoàng xa xỉ.
Ông
ta hoàn toàn bị Nobel hành, và luôn nghĩ, ông có một địch thủ, ở trong
uỷ ban,
qua Gunnar Elelof. Ông Eleof này tin rằng Neruda có một vai trò, trong
chuyện
thủ
tiêu Trotsky. Neruda khi đó là lãnh sự tại Mexico,
đã lên tiếng phủ nhận. Có
lần ông nói, ông nguyện sống dai hơn Elelof, để được giải. Và lời
nguyện của
ông đã thành!
Thành
viên Hàn Lâm
Viện luôn nhấn mạnh, Nobel không dính
dáng gì đến chính trị, nhưng chạy trời không khỏi nắng. Nhà văn
Phần-lan Frans
Eemil Silanpaa được Nobel năm 1939, chỉ vì Liên bang Xô viết có dự định
xoá sổ
xứ sở này. Milosz ăn giải 1980, cùng năm với sự ra đời của công đoàn
Đoàn Kết.
Trường hợp Borges: một điều không thể tha thứ được, theo nhiều người.
Lẽ dĩ
nhiên có chính trị ở đây. Hãy coi danh sách những người đoạt giải. Nếu
bạn tôn
vinh Stalin ở Thuỵ-điển, chẳng sao, bạn có thể được Nobel. Nhưng nếu
bạn lỡ mặc
bộ đồ đồng phục Nazi, khi còn là một đứa bé, như vậy là kể như xong.
Bạn
nghĩ thế nào?
Chú
thích:
Hãy
mở giùm tôi cánh
cửa này, tôi đập, và khóc ròng.
Ouvrez-moi
cette
porte où je frappe en pleurant.
Thơ
Apollinaire
|