Hạt thóc
của Phù Thăng
"Nếu tính
cách là do hoàn
cảnh tạo ra, thì cần phải làm cho hoàn cảnh trở nên nhân đạo hơn."
Marx
"Liệu con
người có hồi
sinh được không, từ những đòn đau ê ẩm của Chekhov?"
Gorki
(Phan Hồng
Giang trích dẫn,
trong giới thiệu tuyển tập truyện ngắn Chekhov, nhà xb Văn Học, hai
tập, 1977).
Trong số
những bài viết của
"Chân Dung và Đối thoại" (Trần Đăng Khoa), được hải ngoại đăng lại,
kèm hoặc không kèm lời bình, "đạt", có: bài viết về (con nai vàng ngơ
ngác của) Lưu Trọng Lư, (đôi tất của) Lê Lựu, (trận cháy của) Xuân
Diệu, và
(hạt thóc của) Phù Thăng.
"Hạt
thóc", là câu
chuyện "về một gã tâm thần. Gã từng là nhà văn, từng làu làu tiếng
Pháp.
Thế rồi chẳng biết do ngộ chữ thế nào đó, gã đâm lẩn thẩn. Gã cứ nghĩ
mình là
hạt thóc bé bỏng tội nghiệp. Và vì thế cứ trông thấy gà qué ở đâu là gã
co cẳng
chạy".
"Thật tội
nghiệp cho gã!
Thà gã cứ nghĩ mình là một cục cứt để rồi mà sợ chó, thì đời gã chẳng
đến nỗi
khổ như vậy."
Bởi vì hạt
thóc, gà... liên
quan tới nhà quê, cho nên Trần Đăng Khoa giải thích cụm từ "thà gã cứ
nghĩ
mình là một cục cứt để mà sợ chó":
"Chó đang
thưa vắng dần. Ở
làng quê bây giờ có bói cũng chẳng tìm thấy bóng dáng một chú chó nhỏ.
Để đề
phòng bệnh dại, người ta đã triệt chó". Nhưng liền đó, là:"Chỉ ở Hà
Nội mới có chó. Rất nhiều chó." (tôi cứ tưởng tượng cái cảnh Trần Đăng
Khoa viết đến đoạn này, khoái quá, rồi sợ quá, ông bèn viết thêm) "Chó
ngào ngạt suốt một rẻo đê Nhật Tân. Nhưng đó là những con chó hòa bình,
chẳng
có gì phải sợ". (Ở đây, loáng thoáng câu tục ngữ: chó chết, hết
chuyện!).
Một truyện
ngắn
"mini", (truyện cực ngắn) như Trần Đăng Khoa cho biết. Ông giải
thích, "có truyện chỉ vài trăm chữ, thậm chí vài chục chữ, mà vẫn
chuyển
tải được tới bạn đọc một vấn đề lớn. Chỉ một dúm chữ, nhưng truyện vẫn
có hồn,
có cốt, có cả nhân vật. Nói tóm lại, nó vẫn là cái truyện nghiêm chỉnh,
chứ
không phải một dạng tiểu phẩm, có tráng qua chút văn chương."
Sau đó
người bệnh được một bác
sĩ tâm thần chữa trị. "....bằng tấm lòng nhân ái ấy, ông bác sĩ tài ba
ấy
đã cứu được gã, đã đưa gã từ cõi mộng mị hoang tưởng về với xứ người.
Ông anh
làm nghề gì? Tớ là nhà văn. Cóc phải! Người ta bảo ông anh là hạt thóc.
Bậy! Tớ
là con người. Cậu nói gì mà lạ thế? Tớ là con người!"
Trong bài
về Xuân Diệu, người
viết có nhắc tới nhà văn Nga, Nabokov. Trong "Độc giả tốt và nhà văn
tốt" ông viết: "Văn chương không bắt đầu vào cái ngày, một đứa trẻ
chạy trối chết từ một cánh rừng ra, và chạy và la: 'chó sói, chó sói!',
và một
con sói bén gót chú bé. Văn chương ra đời cái ngày chú bé la lớn 'chó
sói, chó
sói!', và đằng sau lưng chú chẳng có con sói nào.... giữa con sói ở góc
rừng và
con sói ở góc trang sách, có một mắt xích lóng lánh. Mắt xích đó, lăng
kính đó,
là nghệ thuật văn chương".
Ở đây, với
"Hạt Thóc"
của Phù Thăng, có một ẩn dụ, không những liên quan tới văn chương, mà
còn tới
phận người. Chồng chất những nỗi cơ cực ở trong đó.
Qua Trần
Đăng Khoa người đọc
biết, Phù Thăng là một nhà văn bị biếm, may không bị giết, nhờ đã chút
công với
cách mạng. Một cách hết sức tự nhiên, người đọc liên tưởng từ hạt thóc
tới tác
giả của nó: ông là một hạt thóc, bị những đồng chí cách mạng chạy theo
bén gót,
may được "đồng quê" chữa trị. Với tôi, đoạn Trần Đăng Khoa viết về
những ngày bị biếm của Phù Thăng, và một con trâu điên - (bạn hay Phù
Thăng
đích thị?) - là những trang sách đạt nhất của "Chân Dung và Đối
thoại":
"Phù Thăng
làm quần quật
như một nông dân. Chẳng ai biết ông là một nhà văn hào hoa phong nhã
một thời.
Bà bán nước chè xanh ở quán nước đầu xã Cộng Lạc, vốn là một giáo viên
nghỉ hưu
tỏ ra rất am tường: 'Các bác muốn tìm ông Thăng mà hỏi nhà văn Phù
Thăng thì
chẳng ai biết đâu. Cứ hỏi ông Thăng có con trâu sứt tai, hoặc gọi tắt
là ông
Thăng sứt, thì cả làng này ai cũng biết.... Mà kể cũng lạ... ông lão
người cứ
quắt như gốc sắn khô, mà trị được con trâu to vật. Con trâu ấy dữ lắm,
trẻ con
đứa nào cũng hãi. Con điên sứt ấy đã cho mấy ông thợ cày thủng bụng rồi
đấy.
Vậy mà nó chịu ông Thăng...'
"Vậy
đó.
Con điên. Con
điên sứt. Những biệt hiệu đầu gấu sặc mùi đao búa của con trâu ương
ngạnh, ai
ngờ lại là đặc điểm, là chứng chỉ để người ta nhận diện một nhà văn...
Thực
tình Phù Thăng đâu đã bỏ văn, để rồi phải núp sau cái tai sứt của con
trâu điên
khùng. Ông vẫn viết cần mẫn. Ngày cày ruộng quần quật, đêm lại chong
ngọn đèn
dầu, cặm cụi 'cày' trên cánh đồng giấy trắng rợn, trắng đến sởn cả da
gà. Bà vợ
hơn ông hai tuổi lại rên rẩm:'Thôi, tôi lạy ông! Đừng viết nữa. Khổ đến
thế còn
chưa đủ sao? Nhất nhỡ lại sa sẩy nữa thì sống sao nổi. Ông già rồi...'
Nhưng
Phù Thăng làm sao bỏ viết được. Cái nghiệp văn chương nó thế. Không
phải ông
chọn văn chương mà chính văn chương đã chọn ông để đầy đọa, để hành hạ
ông
trong cõi người này.... Chồng bản thảo mỗi ngày dầy thêm. Phù Thăng gói
bản
thảo thành từng bó, quấn giấy xi măng, rồi cho vào chum ủ lá xoan tươi.
Đấy là
cách phòng chống mối mọt của những nông dân nghèo thời trung cổ. Trong
căn
buồng ẩm thấp, tối sẫm, lúc nào cũng vo ve tiếng muỗi, ngoài chum thóc,
chum
sắn còn có cả một chum văn nữa..."
Đoạn
chót
bài viết, là chuyện
chum văn "chết" gặp gỡ những chum văn "sống":
"Thấy
chúng tôi, ông sững
lại, rồi reo òa lên như một đứa trẻ:
-Ối
giời,
các ông! - Và rồi,
thật bất ngờ, Phù Thăng sụp xuống. - Tôi lạy ông Khải, tôi lạy ông Lựu,
tôi lạy
ông Khoa!
Ô
hay, sao
lại thế này? Lê Lựu
há hốc mồm kinh ngạc. Nguyễn Khải đứng dậy, luống cuống. Xưa nay người
ta chỉ
lễ người chết, chứ mấy ai lễ người sống bao giờ..."
Độc
giả
thấy thấp thoáng đoạn
kể, nỗi sợ bất thần của anh chàng tâm thần khi thung thăng ra viện:
"Nhưng
thật oái oăm, chính cái lúc ấy... thì lại vút lên tiếng gà gáy. Thế là
gã co
cẳng chạy.... Ông làm sao thế hả? Con gà... con gà... gã líu lưỡi lại.
Ông anh
có phải là hạt thóc không? Bậy! Tôi không phải là hạt thóc. Tôi là
người. Là
con người.... Nhưng con gà, vâng chính con gà ấy, nó vẫn cứ tưởng tôi
là hạt
thóc, thì sao?"
Tôi
là
người nhưng những con gà
nó không chịu cho tôi làm người, thì sao?
Và
Trần
Đăng Khoa kết luận:
"câu chuyện mi-ni của ông xưa, lại ám ảnh tôi, chợt làm tôi ớn lạnh.
Bất
giác, tôi nắm chặt bàn tay gầy guộc của Phù Thăng, lòng mơ hồ rờn rợn.
Chỉ sợ ở
một xó xỉnh nào đó, sau lùm cây tối sẫm kia, lại bất ngờ cất lên một
tiếng gà
gáy..."
Bạn
có
thấy câu văn đóng bài
viết "đạt" không? Trần Đăng Khoa nhập vào nhân vật chính trong chuyện
mini "Hạt Thóc", cũng như Phù Thăng đã nhập vào trước đó. Ở đây, có
tới ba chuyện mini "Hạt Thóc". Ba nhân vật là một nhân vật (anh chàng
bệnh tâm thần; anh chàng "tớ là nhà văn" - Phù Thăng; anh chàng
"tớ là nhà thơ" - Trần Đăng Khoa).
Để
giải
thích kinh nghiệm tuyệt
vời này, cho phép tôi được nhắc tới bài tựa thi phẩm "Lá Cỏ" (Leaves
of Grass, của Walt Whitman), của Jorge Luis Borges (trong cuốn Sách
Tựa, Livre
de Préfaces).
Borges
nhắc tới cảm giác bực
bội, của ông và cũng là của nhiều người, khi chuyển từ những dòng thơ
tuyệt vời
trong Lá Cỏ, qua những cuốn viết về tiểu sử tác giả, nhà thơ Walt
Whitman:
người đọc cố tìm nhà thơ lang thang bán-thần, người đã làm nên những
câu thơ
thần trong Lá Cỏ, và ngạc nhiên vì không làm sao tìm ra. Bài Tựa của
ông, là để
giải thích lý do tại sao đó.
Lá
Cỏ là
hùng ca về nước Mỹ,
vào thời kỳ lập quốc, và là một trong những biểu tượng về một cõi lý
tưởng,
thiên đàng hạ giới (có thể bây giờ vẫn còn được nhiều người tin như
vậy). Những
hùng ca, với những nhân vật như Achille, Ulysse... đã thuộc về một thế
giới bị
tiêu huỷ, hoặc chúng ta muốn tiêu huỷ: thế giới quý tộc. Thế giới của
tôi
(Whitman) không thể bắt chước những khuôn mẫu đó: nhân vật chính của nó
(hùng
ca) phải ở số nhiều.
Trong
tập
thơ, nhân vật chính,
chính là Walt Whitman, ở số nhiều. Không những ở số nhiều mà Whitman
còn muốn,
nó vô tận: ông cộng vào nhân vật chính, một nhân vật thứ ba: độc giả!
Bởi
vì,
như Borges giải thích:
Đọc Macbeth, một cách nào đó: là Macbeth.
Bịa
ra một
nhân vật, đã khó.
Biến nó thành hai, thành ba, rồi thành vô cùng, làm được như vậy, chỉ
mới có
Whitman.
Đọc
Phù Thăng của Trần Đăng
Khoa, độc giả cũng cảm thấy rờn rợn, vì một tiếng gà gáy bất thình lình
ré
lên...
Một
bài viết thật tuyệt vời,
với riêng tôi.
Theo Trần
Đăng Khoa, Phù Thăng
viết truyện Hạt Thóc khi đã rời bỏ Hà Nội, trở về quê, làm một thợ cầy.
Trước
đó, ông từng là tác giả kịch bản nổi tiếng. Tiểu thuyết Phá Vây dày 500
trang,
viết trực tiếp về cuộc chiến tranh vùng Bắc Bộ. Một cuốn sách ca ngợi
chủ nghĩa
anh hùng cách mạng, nếu không có vài dòng ông luận về chiến tranh.
Trong đêm,
trước buổi mai một trận đánh lớn, nhìn cậu lính nào cũng trẻ đẹp, sức
trai như
thế kia vào trận mà chết thì uổng quá. Nếu không có chiến tranh, những
sức vóc
ấy mà cho đi phạt bờ, cuốc góc thì sướng biết mấy... Tôi nghĩ Hạt Thóc
đã nẩy
mầm ngay lúc đó. Ông muốn là một hạt thóc của văn chương, thay thế
những hạt
thóc bị phí phạm của cuộc đời. Nói một cách riết ráo, điều mà Phù Thăng
muốn,
là một thứ văn chương của hạt thóc, chứ không phải văn chương của đàn
gà! Cái
đoạn tả ông sụp lạy những đàn anh văn nghệ cho thấy: hãy cứ cho tôi là
(văn
chương của) hạt thóc, đừng săn đuổi tội nghiệp! (Bài viết của Trần Đăng
Khoa có
thể làm độc giả ngộ nhận: Phù Thăng đã trở nên điên khùng như nhân vật
của ông.
Đây là một cách quy chụp, thường xẩy ra cho những nhà trí thức từng
theo Đảng
và sau đó phản tỉnh, như trường hợp Trần Đức Thảo chẳng hạn).
Ngay trong
bút hiệu của ông, đã
có một ước vọng (phù thăng đọc ngược là thằng phu).
Nhưng
cũng có thể, khi Phù
Thăng cho nhân vật nhập vào một hạt thóc, ông còn liên tưởng tới kỷ
niệm thuở
ấu thời. Mấy bà mẹ, mỗi lần thấy đứa nhỏ để vương vãi khi ăn, thường
căn dặn:
hạt thóc, hạt gạo, hột cơm là những hạt ngọc của trời, nhặt lên đi con.
Mấy bà
mẹ làm sao hiểu nổi định luật bảo toàn năng lượng - chẳng có gì sinh
ra, chẳng
có gì mất đi - hạt thóc vương vãi dành cho gà qué, hột cơm vào bụng,
tiêu hóa,
nuôi cơ thể, phần dư thừa biến thành thức ăn của chó, rồi tất cả ngào
ngạt ở Hà
Nội... nhưng ở giữa hạt thóc mà đàn gà săn đuổi, và ao ước giá là một
cục cứt
thì đỡ khổ biết bao nhiêu, là thân phận (hoặc vinh quang của) người
viết: chọn
văn chương hay "được" văn chương chọn lựa...
Nguyễn Quốc Trụ