Gấu, nhà văn
Solzhenitsyn
kể chuyện tiếu lâm, trong Gulag.
Hai
đồng chí, một, chủ tịch nhà văn hóa làng và đồng chí
gác, đi lên tỉnh mua một pho tượng Đồng Chí Lênin.
Tượng
khá lớn, hai người ôm về mới xuể, nhưng đồng chí chủ
tịch nhà văn hóa làng làm sao cùng ôm với đồng chí gác?
Thế
là quan đi trước, bỏ thằng đệ tử bần cố lại phía sau,
mày làm sao áp dụng thiên tài chủ nghĩa Mác Lê thì làm.
Anh
bần cố quả là thông minh. Suy nghĩ một hồi, anh bèn cởi
cái dây lưng ra, quàng vào cổ Lênin, làm một cái thòng lọng thật kiên
cố, và
sau đó, đèo bức tượng lên vai.
Thế
là đi tù. Theo điều luật số 58-8: khủng bố, án tù 10
năm.
Một
anh chăn đàn bò cho hợp tác xã, trong một phút nóng
giận, chỉ tay vô con bò bướng bỉnh, phán: Đ.M
con bò tập thể! Thế là tù.
*
Đọc
trường hợp đầu, Gấu nhớ lại, và lấy làm mừng cho… Gấu.
Hóa
ra là mấy anh quản giáo VC trại tù Đỗ Hải ngày nào, vậy
mà còn đỡ hơn nhiều.
Bởi
vì Gấu cũng đã từng gặp trường hợp tương tự, với một bức
tượng Bác Hồ, tại nơi đây
*
Tương
tự, có lẽ chỉ ở cái đầu. Đầu người, và đầu tượng.
Như
Gấu đã tường trình, nhờ tí tiền nhà gửi, và môi giới của
tay ‘trustie’ - người khám đồ thăm nuôi, khám ra tiền giấu trong bị cói
đựng
gạo, tới hiện trường lao động, lãnh, và đưa Gấu ra nhà hội gặp Gấu Cái,
lần
thăm nuôi đầu tiên - Gấu ra khỏi tổ trừng giới, và, cùng lúc, trở thành
“trustie”, làm công việc nhàn nhã, nhân
viên y tế đội, chiều ngày hôm trước, lên danh sách bệnh nhân, trình Đội
Trưởng;
tay này gạch bỏ những bệnh nhân “dởm”, luời, trốn tránh lao động cải
tạo, rồi
ký vô một phát, sáng hôm sau, sau giờ chào cờ, điểm danh, đọc danh sách
bệnh
nhân, cho phép ra khỏi hàng ngũ lao động là vinh quang, dẫn họ tới bệnh
xá.
Nội
cái việc, viết cái tên của đội viên, vô danh sách bệnh
nhân, đủ cho Gấu trở thành đáng tởm, đúng như Solzhenitsyn đã từng tởm,
những
thằng trusties ở trong Gulag.
Thế
là, tởm thì tởm, nhưng cứ nhìn thấy Gấu, là y như rằng
tay đội viên nào cũng “Chào Bố, Chào Bố”.
Ấy
là bởi vì, so với họ, tuổi của Gấu đúng ra là không thể
có mặt ở trong một cái trại cải tạo như Đỗ Hải.
Thế
là anh nào bữa nay có người nhà lên thăm, là, y như
rằng, hôm sau được phép khai bịnh, không phải đi lao động.
Ở
nhà để mà còn lo nấu nướng, phục vụ đám khốn nạn trusties
chứ!
*
Nhớ
những ngày ngồi Quán Chùa cùng ông anh nhà thơ, thời
gian hơi bị được ông nhà văn Duyên Anh kiêm biếm gia Thương Sinh chửi
hàng ngày
trên tờ Sống, sau tới ông nhà thơ, kiêm triết gia Nguyên Sa, cũng chửi
hàng
ngày trên cũng tờ Sống, ông an ủi Gấu, ở đời, tròn như hòn bi, lăn đâu
cũng
lọt, là vứt đi. Phải góc cạnh gồ ghề, phải có người thương kẻ ghét. Ông
cảnh
cáo, chúng chửi mày, một phần vì mày nâng bi mấy thằng bạn của mày. Nếu
mày
viết về bạn mày như là viết về tụi nó thì sẽ thành nhà phê bình nhớn
đấy.
Một
trong những ông bạn thân nhất hồi đó, sau trở thành kẻ
thù đáng sợ nhất. Nhưng, lỗi này hoàn toàn do Gấu. Đúng ra, do người
thân của
Gấu gây nên.
Duyên
Anh, sở dĩ chửi Gấu tơi bời như thế, ra đến hải ngoại,
trong khi Gấu còn đang ở tù VC, vẫn tiếp tục chửi, thí dụ như trong
Nhìn Lại
Những Bến Bờ, chỉ vì Gấu chưa từng nâng bi ông ta một lần. Chưa hề nhắc
đến tên
của ông ta một lần, đúng hơn.
*
Một
trong những nguy hiểm nhất, đối với nhà văn Việt Nam,
không phải
do ít đọc, mà do không dám nhận mình đã học, dù chỉ một nửa chữ của ai,
bất cứ
ai.
*
Gấu
được cái may, có rất nhiều thầy.
Một
trong những ông thầy của Gấu, là Greene, mà, chỉ tới khi
về già, trò mới nhận ra thầy.
*
Gấu
biết ông này, ngay thời còn đi học, do mê đọc tiểu
thuyết trinh thám, gián điệp, tiểu thuyết đen, và, còn do, đọc ông, và
một số
tác giả khác, như Koestler, Simenon, ngay cả Camus, và Sartre như là
một cách
học ngoại ngữ. Chính vì thế, mà có những câu văn học thuộc lòng, nhập
vào tâm,
đến khi về già vẫn còn nhớ, là vậy. Khác hẳn mấy ông Mít học trường
Tây, ngay
từ khi còn dốt tiếng Mít, đọc chưa hết những tác phẩm nổi tiếng của dân
Mít,
Gấu đọc mấy ông trên là do đọc hết mẹ nó những tác phẩm tiếng Việt,
thượng vàng
hạ cám gì là chơi tuốt. Nào Sách Hồng, truyện thiếu nhi, nào báo Tiểu
Thuyết
Thứ Năm, Thứ Bẩy, nào trinh thám Kỳ Phát, nào Thế Lữ, nào Lan Khai. Đọc
hết,
cho nên thèm đọc quá, mới mò đến mấy ông mũi lõ. Mấy anh Mít kia mê mũi
lõ, vừa
đẻ ra một cái là đã chán cái mũi tẹt rồi làm sao so với Gấu được! Thù
Gấu là
phải rồi.
Nói
rõ hơn, tiếng của đám mũi lõ, với Gấu, là một thứ tiếng
Việt +.
Còn
với mấy tay "Mít đặc" kia, là tiếng Việt -.
Những
điều trên, phải đến khi về già, sắp xuống lỗ, Gấu mới
nhận ra. Áp dụng nó, thay vì vào những ông Mít mũi tẹt mê mũi lõ, học
trường
Tây khi còn cởi truồng [nghĩa bóng thôi], vào mấy ông nhà văn Mít thuộc
thế hệ
hải ngoại, viết văn bằng ngôn ngữ thứ hai, Gấu cũng nhận ra một trình
trạng
tương tự.
Đây
là một thứ văn chương của người Việt, viết bằng một thứ
tiếng Anh sạch nước cản. Vậy thôi.
Từ
đó, đến văn chương, của chính họ, còn cả một con đường
dài.
Họ
phải làm sao cho người đọc, cảm nhận ra được, họ có một
văn phong riêng. Mỗi người một kiểu.
Và
nhất là, đừng làm cái trò viết văn để chỉ cho người nước
ngoài biết, những vết thương của người Việt lưu vong.
*
'I'm
not going to satisfy people's curiosity about exotic China'...
[Tôi
đâu có ý định thỏa mãn sự tò mò của mọi người về một
cái mùi lạ của một cô Xẩm]
Yiyun,
tác giả cuốn A Thousand Years of Good Prayers, trả
lời phỏng vấn khi cuốn sách của bà được giải [the] Guardian First Book
Award.
Khi
bà cho biết bằng cách nào, cái việc học tiếng Anh đã
giải phóng bà và khiến cho bà viết văn, [how learning English freed her
to
write], thì Gấu hiểu ngay ra rằng thì là, khi Gấu học tiếng mũi lõ, là
cũng vậy.
Có
thể còn hơn. Bởi vì cái ao ước đầu tiên của Gấu, như đã
từng viết ra, là làm sao học tiếng Tây, để viết được một cái thư bằng
tiếng
Tây, để cám ơn một ông Tây thuộc địa, chồng bà cô, người nuôi Gấu ăn
học khi
còn ở Hà Nội.
*
Khi
gặp Faulkner, bèn nhận ngay là thầy, linh cảm ngay ra
một điều là, ông này sẽ dậy mình viết văn. Linh cảm ngay rằng thì là,
dòng độc
thoại nội tâm, dòng ý thức mà do ông là một trong những người khai
sáng, không
chỉ hợp với tạng người như Gấu, mà còn có thể, là môt cơ may, thay đổi
hẳn văn
chương Việt Nam, vốn trọng cách viết những câu ngắn, từng ý từng ý, hết
ý này
mới dám nhẩy qua ý khác, trong khi với Faulkner, ý tưởng, câu kệ trùng
lấp,
chìm ẩn, giấu mặt, chỉ những độc giả sành điệu, chịu khó, chịu gian khổ
cùng
với người viết, thì mới nhận ra (1).
Có
những hình ảnh, khi xuất hiện, là chỉ để đấy, cho khỏi
quên, chờ đến đúng lúc mới nhập vào văn mạch.
Phải
đến già, đọc lại Greene, Gấu mới nhận ra đây là một
trong những ông thầy dậy văn chương của mình.
*
Eric
Ormsby, khi điểm A Study in Greene: Graham Greene and
the art of the novel, của Bernard Bergonzi, và Articles in Faith: The
collected
‘Tablet’ journalism of Graham Greene, [TLS, số đề ngày 15 Tháng Chạp
2006], cho
rằng, miền giả tưởng Greeneland ngày càng dễ nhận ra, chẳng khác gì một
Wessex
của Hardy, hay một Yoknapawpha County, của Faulkner, mặc dù Greene
chẳng ưa cái
nhãn hiệu này.
Hơn
thế nữa, Greeneland là một thứ "quê hương",
miền giả tưởng mà chúng ta mang theo cùng với chúng ta. Cho dù nó tít
mù ở Phi
Châu, xa lắc mãi Mexico,
chúng ta nhận ra liền, nói chi đến Đông Nam Á, đến một Phượng của Người
Mỹ Trầm
Lặng, và Sài Gòn: Chúng là trạm ngưng
cuối cùng, ga chót, của cuộc hành trình đạo đức của thế kỷ chúng ta.
Ông viết:
Greeneland is a demoralized landscape, Greeneland là quang cảnh quê ta,
đã bị
hư ruỗng.
(1)
Nhóm Sáng Tạo, trong những cuộc thảo luận, khi tấn công
Tự Lực Văn Đoàn, đã không nhận ra yếu tố câu kệ như trên [từng câu
ngắn, sáng
sủa, mạch lạc] của nó. Khi coi, với TLVĐ, chỉ là vấn đề ngôn ngữ, tới
Sáng Tạo
chúng tôi, mới có thứ văn chương của ý thức huỷ diệt sáng tạo, vô tình
nhóm ST
đã đề cao TLVĐ.
Bởi
vì văn chương, nói cho cùng, chỉ là vấn đề ngôn ngữ. Đây
là điều Roland Barthes nhận ra, khi đã quá chán thứ văn chương dấn thân
của đám
hiện sinh.
*
Cảnh
tượng quê ta, the Greeneland, thì hư ruỗng. Những chi
tiết trần trụi, ngay cả khi lẩn lút, vưỡn bầy ra điều này. Cuốn “The
Power and
the Glory” bắt đầu: “Ngài Trench bước ra ngoài đường, trong nắng chói
lòa, và
bụi trắng xóa của xứ Mexico. Mấy con kên kên, từ trên mái nhà, dửng
dưng vô hồn
nhìn xuống: thằng cha này chưa chết, thịt chưa rữa, chưa bốc mùi”. Tuy
Greene vẫn
được kể như là một nhà văn với con mắt của một nhà điện ảnh, những dòng
trên
cho thấy, quyền năng của chúng, không phải chỉ do sự quan sát sắc bén,
mà còn
do cay đắng đến dã man, tàn bạo, của dòng chót. Ở những nhà văn kém tài
hơn, sẽ
trở thành cải luơng, thành hề, thành vãi linh hồn, nhưng Greene, vốn là
một
chuyên viên bậc thầy, cắt đánh rụp ba cái thứ khóc lóc ỉ ôi, ngay cả
khi ông ló
mòi dễ dãi với chúng. Đây là cái chất dửng dưng vô hồn, của những loài
chuyên
ăn thịt người chết, được đẩy lên đến tận đỉnh, theo nghĩa, rắn độc
không còn
biết cắn ai, bèn nhè chính cái lưỡi mình mà cắn !
Kể
từ khi Greene mất vào năm 1991, và lần kỷ niệm lần thứ
100, năm sinh của ông, vào năm 2004, tiểu sử của ông được quá chú ý,
như muốn
hất bỏ phần sáng tác qua một bên. Tiểu sử, hồi ký, thêm bộ tiểu sử
khổng lồ,
“được phép của tác giả”, gồm ba cuốn, của Norman Sherry. Tuy nhiên, vẫn
còn một
câu hỏi làm bực người đọc, đó là bản chất Ky Tô giáo của Greene, nó ra
làm sao.
Ngay
cả câu khẳng định nổi tiếng của ông, đại ý, tôi phải
kiếm ra một tôn giáo, để đo lường con quỉ ở trong tôi, câu này cũng gây
bực
mình, có khi còn là do sự cố ý của chính người nói ra: Greene vốn là
một thầy,
trong trò đùa hóm hỉnh như vậy. Một kẻ tự huyền hoặc, cứ lấp la lấp
lửng về
chính mình.
Những
khuyng hướng, sắc thái như thế, được sử dụng vào trong
tiểu thuyết, làm nổi bật cái “mép bờ nguy hiểm”, the “dangerous edge”
của
chúng.
Về
cuối đời, Greene định nghĩa mình, kêu như chuông, một tay
vô thần Ky Tô giáo, a “Catholic atheist”. Tuy nhiên, có một sự miễn
cưỡng, về
phần ông. Bởi vì, với Greene cũng như với nhiều người Ky Tô, niềm tin
là một
cái gì liên quan tới ước muốn, ý chí. Và ý chí, thì cũng có khi mờ nhạt
đi, yếu
đi, để rồi lại mạnh lên, sau đó. Nhiều người chỉ trích Greene, Ky Tô
giáo của ông
quá hạn hẹp, chỉ chú trọng tới địa ngục và sự trầm luân. Nhưng những
bài tiểu
luận tình cờ, tản mạn của Greene trong Aticles of Faith, cho thấy,
khác. Niềm
bí ẩn về Nhập Thế mới làm Greene đau đầu, hơn là Lửa Địa Ngục.
Khi
đọc cuốn Nửa Đêm của Julian Green, ông [Greene] viết,
tay đồng nghiệp người Tây của ông “có thể tả một cái dù khô dần đi dưới
ánh lửa
bập bùng, làm sao cho trở thành hình ảnh của trọn một kiếp nhân sinh”.
Điều
này, Greene cũng đã làm. Miền Greeneland có những cú thần sầu như vậy.
Thần sầu
như ánh lửa chập chờn hong ấm một cây dù ướt sũng nước mưa.
Theo
nghĩa đó, ngay cả mấy chú kên kên đang ngồi trên đầu
me-xừ Trench kia cũng tượng trưng cho những sự kiện khủng khiếp, the
appalling
facts, về Nhập Thế.
*
Khi được hỏi, tại
sao mi không viết hồi ký, tự thuật, chẳng lẽ chính cuộc đời của riêng
mi, trong
có ta, và cả một lũ Gấu con Gấu cháu, với những cay đắng ngọt bùi, lên
voi
xuống chó, sống sót cả hai chế độ, trốn thoát một cuộc chiến, trốn
thoát cả một
lô bạn bè quí hóa như thế đó, nếu được viết ra, không xứng đáng giật
Nobel văn
chương hay sao, Gấu gật gù trả lời:
-"Lẽ
tất nhiên", nhưng thử hỏi, ai là độc giả xứng
đáng, để đọc nó?
Đúng
hơn, khiêm nhường hơn, cái gọi là the “domestic
background” đó, liệu bõ công viết ra, và viết ra, liệu “nhàm mắt” độc
giả?
*
The
domestic background là tên một bài viết của Greene, điểm
cuốn hồi ký của bà vợ, Jessie Conrad, viết về chồng, [Joseph Conrad and
his
Circle].
Đọc,
Gấu bỗng nhớ đến lần phỏng vấn của tờ Sóng Văn, không
phải những ông chồng nhà văn, mà bà xã của họ.
Lần
đó, trả lời câu hỏi, kỷ niệm đẹp nhất, đáng nhớ nhất, và
biết đâu, buồn nhất, trong đời làm vợ Gấu nhà văn, Gấu Cái cho biết, đó
là lần
rời Cai Lậy, Mỹ Tho, về nhà mới ở Sài Gòn.
Đúng
vào năm có trận lụt lớn nhất, 1966. Quốc lộ số 1 bị lũ
lụt, có quãng, phải đi xuồng.
Và
Gấu Cái ngậm ngùi, trên xuồng có đủ cay đắng ngọt bùi cho
cả hai.
Dư
dả đến nỗi, giá có thêm một đời nữa, vẫn chưa cạn!
*
Theo
nghĩa đó, kiếp sau ta cũng chưa tha cho mi đâu!
*
Gấu
bỗng nhớ đến Noah!
*
Hỏi, có rất nhiều bóng dáng
em này, em nọ trong, chỉ vài truyện ngắn của Gấu, bà nghĩ sao về họ?
-Ồi dào, chỉ là những cái bóng, những bản sao, bản nháp thôi. Nguyên
tác, bản
chính, bản xác thực, bản được phép, the authorized version, là tui đây,
chưa xuất
hiện.
Ông ta tập viết. Chưa thực sự viết.
*
Cái bếp nhà văn, cái sân sau nhà, quả có thú vị, không thể không. Nhờ
nó, chúng
ta biết, bằng cách nào, sự mẫn cảm, tinh tế đặc biệt của cái gọi là
thiên tài,
có thể chịu nổi, có thể giao lưu hòa giải được với cuộc sống gia đình.
Chắc chắn
phải có tí hòa giải, chịu đựng ở đây.
Có tay, như Gấu chẳng hạn, cứ phải đợi cả nhà yên ngủ, mới len lén dậy,
như một
tên trộm, mò tới cái bàn ở góc nhà.
*
Greene kể, rất ít nhà văn ích kỷ tàn nhẫn đến độ như Conrad, khi đứa
con đầu
lòng sắp sửa ra đời, được sai đi kêu bác sĩ, đã biểu ông này, hãy làm
thêm một
cú điểm tâm thứ nhì, vẫn còn kịp!
Nhưng Greene cho biết, cái bếp của nhà văn chính là nguyên liệu ròng,
thô, của
hắn ta, chẳng khác chi cái thế giới bên ngoài.
*
Bà vợ Conrad, khi phải nhìn lại cuộc hôn nhân dài, chẳng nhớ gì, bởi vì
có gì
đâu để mà nhớ. Chẳng có gì ngọt bùi, chẳng có gì đáng kể.
[Out
of a long marriage she has remembered nothing tender, nothing
considerable].
*
Gấu Cái có
thể, và có quyền phát biểu như thế. Đúng ra, ta không nên lấy mi.
Như bao lần tủi thân. Cả một hôn nhân dài như thế, mi chưa bao giờ mua
quà cho
ta một lần, cho bất cứ một kỷ niệm nào.
Ngày sinh của
ta, mi không nhớ, ta chửi mãi, mi vắt hết trí thông minh, tài
toán, và tìm ra một cách nhớ thật giản dị: Cứ lấy của mi, [16.8] chia
đôi,
thành của ta [8.4].
*
Ôi chao, nếu
như thế, chẳng lẽ ta ‘thực sự’ là một nửa linh hồn của mi chăng, hỡi
Gấu?
*
Cũng như bà
Conrad, Gấu Cái chẳng có một chút thiện cảm nào, đối với đám bạn bè
của chồng. Nhưng khác hẳn bà Conrad, bà chưa bao giờ nói những lời tàn
tệ, hoặc
ghê gớm hơn nữa, viết ra những lời đó, như bà Conrad viết về ông chồng.
Theo bài viết
của Greene, chẳng có ai tệ bạc như bà này, cứ nhè ông chồng mà chửi:
Ích kỷ như quỉ sứ, monstrously selfish, cho con cái, chỉ một đồng bạc
thôi,
cũng tiếc hùi hụi, trốn tránh trách nhiệm, không trung thành với vợ,
ngay cả
trong tuổi già.
Chửi chồng như
thế, nhưng lại kết luận cuốn hồi ký bằng một câu thật xanh rờn:
[Tôi có] đặc quyền và sự hài lòng lớn lao, được coi như là thiên thần
gìn giữ hồi
ức của chồng tui. [“the privilege and the immense satisfaction of being
regarded as the guardian of his memory”].
*
Sự thực, tất
cả những truyện ngắn của Gấu, đều mang tính tự thuật. Đúng như một
ông bạn văn đã từng nhận xét, chỉ có mỗi một truyện ngắn được viết đi
viết lại,
mỗi lần viết lại khác đi một chút, hoặc thêm, hoặc bớt, một vài chi
tiết, sự kiện.
Hoặc cũng sự kiện đó, nhưng được nhìn khác đi, do tuổi đời, hiểu biết,
kinh
nghiệm.
Tất cả chỉ là
tự truyện, chỉ không có Gấu Cái ở trong đó. Hoặc có nhưng rất mờ
nhạt, rất… tủi thân
*
Có một ông
nhận xét, cứ lải nhải, chỉ mỗi câu chuyện, đứa em trai tử trận, biến
cố Mậu Thân, cú xơi mìn VC ở nhà hàng nổi Mỹ Cảnh nơi bờ sông Sài Gòn.
Một ông bạn
thân, rất rành về "domestic background" của Gấu, sau khi đọc
Lần Cuối Sài Gòn,
khuyên, tự truyện đủ rồi, bắt đầu sáng tác, bắt đầu tưởng
tượng ra những cuộc đời, những người khác đi là vừa.
*
Có lẽ, người
mà Gấu đang tưởng tượng ra, là một người mà mấy ông bạn này thật
rành rẽ.
*
"They are my
memories too, but I am not the character in the story".
[Những hồi ức là của tôi, nhưng tôi không phải là nhân vật trong
truyện].
William Trevor, nhà văn Ái-nhĩ-lan nhận xét về nghệ thuật giả tưởng.
Bạn đừng mong
trốn thoát cái kẻ là bạn đó, cho dù bạn không hề có ý định tra hỏi
về chính mình, cho dù bản năng cho bạn biết, rằng, đừng để dấu tay của
bạn lên
trang sách chừng nào, tốt chừng đó.
Ấu
Thời