Văn xuôi :: 31.12.2006
Tô Hoài
Ba người khác
Mười bốn năm sau khi
hoàn thành bản thảo, tác phẩm Ba người
khác của nhà văn lão thành Tô Hoài nay đã chính thức ra mắt bạn đọc và
đang
được dư luận đặc biệt chú ý. Trong những ngày qua, chúng tôi đã có dịp
đăng một
số bài viết về tác phẩm này. Được sự cho phép của tác giả, talawas chủ
nhật kì
này hân hạnh giới thiệu toàn văn Ba người khác đến bạn đọc.
talawas chủ nhật
Tô Hoài
Ba người khác
I II III IV V
Các đội công tác vùng
đồng bằng hạ lưu sông Hồng kéo về tổng
kết đợt ở huyện lỵ, đông có đến cả nghìn con người. Suốt tháng triền
miên nghe
kể lể thành tích và những anh những chị rễ, chuỗi [1] ở xã lấy lên nay
đã thành
cán bộ đội vừa khóc vừa nói về cuộc đời bị đoạ đày xưa kia.
Một việc, tôi nhớ
mãi. Có một cố nông quê huyện Nga Sơn được
lên cán bộ đội đã đi làm cải cách hai đợt. Anh kể lại đời anh, cả hội
trường
hàng nghìn người ai cũng ngậm ngùi, các chị khóc sướt mướt. Sổ tay tôi
đặt trên
mặt túi dết kê đầu gối mà không ghi được một chữ nào. Tôi đã nghe bao
nhiêu
chuyện kể khổ ở hội nghị, ở tổ rễ chuối, nhưng chưa khi nào nghe choáng
váng
ghê rợn đến thế. Ban ngày anh đi cày, tối tắm rửa sạch sẽ rồi vào
giường cả đêm
phải ngậm bòi thằng địa. Thằng địa bị bệnh tim la, mút đến nửa đêm cũng
không hết
được mủ tanh nhức óc. Cả hội trường ào ào đả đảo địa chủ... gian ác...
đả
đảo... Còn anh ấy nghẹn ngào nức lên không nói tiếp được nữa.
Thế nào mà anh ấy bị
lây cái máu dê của thằng địa đến tận
giờ. Cơm hội nghị có thịt bò thịt lợn, lại chắm chép, đâm rửng mỡ, lúc
nào cũng
cuồng lên, đâm hủ hoá lung tung. Ngồi trước mặt cô nào cũng hau háu mắt
nhìn
cái đũng quần. Anh ấy phải kiểm điểm mấy trận tơi bời đau đớn. Rồi bị
thải hồi
trả về cơ quan huyện. Cả mấy chị cũng phải đuổi về xã. Tôi không quan
tâm đến
họ, mà chỉ nghĩ: thì ra cái máu chó của thằng chó kia truyền sang mày,
gớm cái
giống chó má chết tiệt.
Tổng kết xong, các
đội lại đi đợt mới. Cuộc ra quân rầm rộ
có xếp hàng nghe mệnh lệnh xuất kích như chiến dịch thời kháng chiến.
Đợt này,
khu vực làm bao trùm cả Hải Dương, Kiến An, cải cách thẳng, không qua
giảm tô.
Nhiều huyện quanh Hải Phòng, ba năm trước, là vùng "hai trăm ngày",
tàu hoả xuống qua ga Phú Thái đã vào sào huyệt địch còn lại, từ các nơi
dồn về
hàng nghìn người di cư cuối cùng chen nhau xuống tàu há mồm đi Nam.
Chúng tôi được đưa từ
Thanh Hoá ra hỗ trợ chỗ khó. Công tác
ở vùng rắc rối thế này chắc là lôi thôi đây. Nhưng mà ở Nông Cống trong
kia,
đội tôi đã được cờ thành tích đánh địch. Có thế, mới được ra đây. Tôi
cũng
chẳng áy náy sao. Làm gì rồi cũng làm được thôi, tôi đã làm hai đợt
công tác,
trải việc ngót một năm rồi.
Các đội ở hội nghị
tổng kết ra, chia tay nhau giữa chợ
huyện, đông thành mít tinh. Không đợi ô tô tải, không cần ô tô. Đội
trưởng Cự
đếm được đủ đầu chúng tôi mười hai người, thêm hai rễ mới vào cán bộ
đội, rồi
Cự bắc hai bàn tay làm loa, hét to: "Lập công ngay từ lúc xuất phát.
Chúng
ta tranh thủ đi luôn. ở dưới xã, nông dân đương nóng lòng đợi đội về".
Mọi người đứng xếp
hàng đôi, lưng đeo ba lô. Chúng tôi vẫn được
nguyên đội ở Thanh Hoá thành tổ học tập rồi đến bây giờ đi. Đội trưởng
Cự bên
bộ đội sang - nghe nói là đại đội trưởng, tính quyết đoán nóng như lửa,
gắt gao
kỷ luật với mọi người. Cái khăn mặt bông trắng được phát từ ngày ra tập
kết ở
Sầm Sơn, đã cáu xám xỉn, mặc dầu đội trưởng rửa mặt chỉ chùi bằng ống
quần. Tuy
vậy, cũng đã thuộc tính nhau, cứ lựa lúc người cứng thì ta mềm, dù sao
cũng hơn
phải đổi một đội lạ lẫm khác.
Thế là mười hai cái
xe đạp, - hai đội viên mới không có xe,
không biết đi bằng cách nào, tôi đạp xe lúc đường nhựa, lúc bờ đê, lù
rù mò
suốt đêm. Bóng tối có phần dịu. Đến lúc trăng lặn, nhấp nháy ánh sao
đằng
trước, tôi phanh khuy áo ngực, căng mắt dấn phăng phăng. Gần sáng, mắt
như
quáng gà. Đã sang đến đường 5, lổn nhổn dấu hầm hố của du kích đào
đường. Có
nơi còn lại cả mìn - nghe nói thế. Tôi buồn ngủ quá, hai lần đâm xuống
hố.
Không biết có phải vì tinh thần hăng hái đã làm nhãng ngay cái vất vả,
xe với
người chẳng xây xát gì cả. Chỉ sái một bên tay. Nhưng cũng nhờ đau mà
đâm ra tỉnh
ngủ đến sáng bạch.
Vừa sớm, lọt đọt kẻ
trước người sau đến chỗ đoàn uỷ miền.
Chưa ô tô tải đưa đội nào tới. Đội trưởng Cự khoái trí, quay ra giơ hai
tay:
"Chúng ta đến trước tất cả!"
Cơ quan đóng ở một
ngôi đền bên trong đã san phẳng hết các
bệ thờ. Hai bên tả hữu vu ngăn cót thành buồng. Tiếng máy chữ đổ rào
rào như
vẫn đập thế thâu đêm, văn phòng đoàn cũng tranh thủ làm như chúng tôi
đã đi
suốt sáng. Trong sân sau tường đền còn sót lại cây mộc mùi hoa sớm
thanh khiết
thơm thoang thoảng. Trước một gian phên bên kia che kín đáo, ngoài hiên
đặt một
dãy những giá gỗ tạp mới trên có thau men trắng vắt chiếc khăn mặt hoa.
Chắc
đoàn uỷ hay đoàn cố vấn ngủ trong ấy.
Một người nhỏ nhắn,
bộ quần áo nâu non mới sáng sủa, mặt
trắng trẻo đeo kính trắng như học sinh mắt cận thị. Người ấy đạp xe từ
ngoài
cổng vào.
“Bên Quỳnh Côi sang
phải không?”
“Vâng, chúng tôi
tranh thủ, không đợi xe.”
“Tinh thần lắm, hoan
nghênh. Tôi thường trực đoàn uỷ đây.
Chúng ta vào văn phòng làm việc ngay. Đội số mấy, đội trưởng đâu?”
Làm việc ngay, khẩn
trương sao! Chỉ đôi ba câu đối đáp khét
lẹt những công việc, lập tức ai cũng tan cơn ngủ, quên cả rửa mặt,
không nhớ
vừa ỳ ạch đi cả đêm. Một lúc sau, cuộc trao đổi công tác, giao nhiệm vụ
đã
xong. Thật thì chỉ có đội trưởng Cự hỏi đi hỏi lại, còn cả hơn mười
người ngồi
im, thỉnh thoảng ai dấm dớ hỏi một câu về cái xã sắp đến thì được trả
lời mấy
lần giống nhau "tài liệu đây, trong tài liệu có hết". Rồi người đoàn
uỷ đứng dậy, xoa tay, nở nụ cười như thói quen cười nhạt nước ốc và xoa
tay
thế, nói lấy lệ: "Các đồng chí thông cả rồi chứ".
Chúng tôi đã ra ngoài
sân đền.
“Tài liệu mang về xã
thế là đã sắp sẵn đủ cả. Chúc công tác
thắng lợi. Bắt tay cái nào!”
Mọi người lồm cồm dắt
xe ra đường. Sắp nhảy lên yên, có
tiếng đằng sau giật giọng:
“Này! Này!”
Quay lại, vẫn chỉ
thấy người thường trực đoàn uỷ còn đứng
đấy.
“Vào cả đây, vào
đây.”
Tôi háu đói, đã tưởng
ra niềm vui có lẽ được vào nghỉ và ăn
sáng. Cả đội lại đứng thành bọn trước cái cót che cửa văn phòng lúc
nãy. Người
đoàn uỷ bước lên thềm, dõng dạc:
“Các đồng chí, bắt
đầu từ hôm nay, đội đã vào cuộc đấu tranh
công tác ba cùng. ở dưới xã, bà con nông dân khổ cực lắm. Chỉ bọn bóc
lột mới
có xe đạp, mới thảnh thơi ngồi mát bát vàng. Chúng ta về với nông dân
không thể
đồng sàng dị mộng. Không được đi xe đạp xuống xã.”
Cái ông đoàn uỷ mặt
mày học trò bé loắt choắt mà hắc thế.
Tôi chưa bị đoàn uỷ nào bắt không cho đi xe đạp xuống xã. Dễ chừng vùng
địch
tạm chiếm cũ lại làm cải cách không qua giảm tô thì phải khác cũng nên.
Thế là
mất cả tiếng đồng hồ, người tìm tước bẹ chuối, người ra chặt cây dướng
bóc vỏ
bện thừng. Mười hai cái xe đạp được trói gô lại thành một bó, khiêng
vào trong
đền, lênh khênh như đống xương trâu. Điều bất ngờ ấy, cả đội trưởng Cự
cũng
không tưởng ra trước được. Tuy nhiên, lúc ghé vào cõng lô xe, đội
trưởng vẫn
mặt đỏ gay hăm hở. Không hiểu đội trưởng nghĩ gì. Chỉ khoái hai anh rễ
đội viên
mới không phải chạy theo như cả đêm, tự dưng được đi cùng.
Qua chợ huyện, ai nấy
đói lử. Nhưng bụng mình mình biết thế
thôi. Trông vào cái chợ mùa đói, nháo nhào không biết đâu người ăn mày
hay
người mua bán. Sướng chưa, đội trưởng Cự bỗng nói: "Ta vào chợ kiếm cái
ăn
đã". Cả bọn đi hàng một từ tốn bước sau Cự. Dường như sợ đội trưởng
thay
đổi ý kiến, phải cố làm vẻ hiền lành thế. Chúng tôi đều quần áo nâu
bàng bạc,
dép râu, mũ lá, có người mặt bạc phếch như mới ốm dậy. Đội trưởng Cự
thì lúc
nào cũng phừng phừng, lúc nhếch mép cười, lúc cáu kỉnh, cũng thế.
Chợ sớm dần dần đông.
Đương mùa khô kiệt, những mẹt cám bày
la liệt khắp nơi. Lác đác, người đem trẻ con đi bán như quảy quả mít,
một bên
đứa trẻ ngồi nhấp nhỏm víu quang gánh, một bên tảng đất để cho cân.
Chúng tôi,
anh mặc lành anh mặc tã, dị dạng, người trong làng về chợ nhìn tránh ra
chiều e
dè. Đã hai năm, đoàn uỷ đóng ở cái đền này. Hàng chợ đã thấy nhiều cán
bộ đi
về, áo cánh, áo vét khác nhau, nhưng ai cũng biết đấy là những "anh
đội" xuống xã hét ra lửa. Chẳng bận đến, người ta cũng ngại, lẩn đi,
bước
né bên đường. Đội trưởng Cự đột nhiên đứng lại: "Chúng ta ăn bánh
đúc!" Cả bọn lập tức sà vào hàng bánh đúc ngô. Mụ hàng hớt hải sang bên
các lều bán nộm chuối, đu đủ xanh, nước chè tươi mượn mấy mảnh tre mới
đủ ghế
khách ngồi.
Chợ đã nhiều người
nhưng chợ sớm chưa ai lê la hàng quà. Bọn
người lạ mà ai cũng đã biết là các anh đội, khiến những mụ ăn quà như
mỏ khoét
và cả đám ăn mày cũng không dám lảng vảng. Từng chiếc bánh ngô lưỡi mèo
vàng
hây, giữa rốn mỗi chiếc đặt mảnh cháy vàng rộm. Một bát đàn tương mặn
chát. Có
anh đội bưng hẳn bát tương lên để chấm và húp, khỏi phải cúi lom khom
và ngồm
ngoàm hay là có nuốt chửng cả cái không ai trông thấy. Anh đội cũng đói
như mọi
ai. Có người hỏi bâng quơ: "Bánh ngô chấm tương à? " Mụ hàng trả lời
ngẩn ngơ như nói giữa trời: "Thời buổi khó khăn lắm, hạt vừng cũng là
hạt
vàng đấy".
Chẳng biết khó khăn
thế nào, cái bánh ngô xay bùi bùi, ngọt
ngọt, vả lại đương đói móp bụng.
Năm ấy, tôi ngót ba
mươi. Từ tấm bé chỉ ở thành phố. Đến
tuổi đi làm kiếm được chân giữ cửa trông kẻ cắp cho hiệu thịt bò "Sáp
phăng giông" phố Tràng Tiền. Cách mạng thì vào tự vệ phố, đến lúc kháng
chiến, không còn đội tự vệ nữa, nhưng tự cho mình đã là Việt Minh, tôi
đi theo
kháng chiến lên Việt Bắc. Những chuyện tôi đi được cũng là gian nan.
Tản cư, vợ
tôi và con gái mới ba tuổi chạy lên Nủa trên Sơn Tây. Tất cả trai tráng
phố tôi
ở lại vào tự vệ. Phố tôi bị Tây trong thành tràn ra vây phải dồn vào
liên khu
Một giữa thành phố. Ta điều đình được với Tây để cho người già, đàn bà
và trẻ
con được ra ngoài. Lối ra trên đê làng Yên Phụ. Có lãnh sự Anh và lãnh
sự Tàu
đứng trên chòi gỗ chứng kiến.
Tôi trốn đội tự vệ
trà trộn trong đám người lố nhố ra. Trời
lạnh, tôi chít sùm sụp cái khăn vuông mỏ quạ, giả làm bà già, đi qua
ngay trước
mặt các ông lãnh sự trong trạm kiểm soát nhòm ra. Tôi thoát được lên
Nủa tìm vợ
con. Hỏi thăm cả làng, cả cái chợ giời tản cư, về sau gặp người biết,
đã bảo mẹ
con cô ấy theo người ta vào Hà Nội rồi.
Tôi chẳng biết đi
đâu, cũng không dám "dinh tê",
sợ Tây đã biết tôi là tự vệ, tôi lần mò lên Thái Nguyên, rồi sang Tuyên
Quang,
lên thị xã Bắc Cạn, quanh quẩn ở những vùng đông người tản cư dưới xuôi
lên.
Cũng không có vốn mở hàng quán, tôi xin vào làm phát hành sách báo. Vào
cơ quan
bấy giờ dễ, cứ đến xin việc cũng được nhận ngay. Hàng ngày, mấy chục
quang gánh
báo Cứu Quốc và sách nhà Sự Thật quảy xuống khu Ba, khu Tư - như những
đoàn
người dưới đồng bằng thồ muối lên miền ngược. Không ai biết tôi trước
kia làm
loong toong, làm cu li giữ cửa và đã trốn tự vệ. Chỉ biết tôi là người
trong Hà
Nội ra có đôi ba chữ nên anh em cho giữ sổ sách văn phòng và kho. ở
trong rừng,
cơ quan chỉ có quyển sổ cái ghi các thứ trong kho, xà phòng, đường ta,
quần áo
khi nâu khi nhuộm thâm trên phát về.
Sau chiến thắng Điện
Biên Phủ rồi Hà Nội được giải phóng,
tôi trở lại thành phố.
Về đến Thái Nguyên cả
cơ quan đàn ông đàn bà làm việc ở các
cơ quan đều được may được phát quần áo một kiểu như nhau. Giày vải nâu,
quần áo
kaki xám nhạt. Và mọi người theo đúng điều lệnh tiếp quản: không về
nhà, không
mua bán, không ăn quà ngoài đường... Tối tối tôi vẫn lẩn đi chén phở.
Không ai
biết. Một hôm, được phép về nhà và ai có người quen được tới cơ quan
thăm. Bố
mẹ tôi mất đã lâu, tôi chỉ nhớ vợ con. Tôi hồi hộp về chỗ nhà cũ ở Tám
Mái.
Nhưng hàng xóm kể cho biết cô ấy đã lấy chồng làm cút lít cho Tây,
tháng trước
họ kéo nhau xuống Hải Phòng, vào Nam cả rồi.
Tôi như đuổi theo cái
bóng. Cũng chẳng buồn, chẳng ngán
ngẩm. Chỉ đôi lúc phảng phất nhớ mụn con gái mà thôi. Cái năm xa cách,
nó mới
ráo máu đầu, chẳng biết rồi nhớn nhao thế nào. Tôi bây giờ mà hoá ra
quan
trọng, tôi giữ ba sổ chi thu, - chẳng học nghề bao giờ cũng được lên
chức kế
toán trưởng. Năm sau, tôi lấy vợ. Cũng dễ ợt, cô ấy làm cấp dưỡng, theo
cơ quan
trên Thái về, chúng tôi biết nhau đã lâu. Rồi vợ tôi sinh một thằng con
trai.
Bấy giờ "phóng tay phát động quần chúng", công tác cải cách ruộng đất
là quan trọng nhất. Mọi người công tác ở cơ quan, từ cấp dưỡng đến cán
bộ
chuyên có biết đồng ruộng hay không nhất loạt đều phải đi làm "thổ
cải". Thế là tôi đi. Tôi đi công tác cải cách, cu Ngẩu nhà tôi đã được
sáu
tuổi.
Khi còn ở trên Việt
Bắc mấy năm gần về Hà Nội, ai cũng đều
đi làm giảm tô, có người giảm tô xong sang công tác cải cách. Tôi chẳng
biết
mặt mũi đồng ruộng bao giờ, tôi tìm cách lẩn. Bấy giờ không khó, bởi
chỉ có mỗi
mình tôi giữ sổ sách, không thể mỗi chốc đi đâu. Nhưng về thành phố thì
chỉ còn
trơ ra có tôi chưa được rèn luyện lập trường cách mạng ruộng đất. Ông
giám đốc
cũng chưa đi giảm tô, đi cải cách lần nào. Nhưng không ai dám nhắc ông
ấy. Lại
nói nịnh "bộ tư lệnh phải ở vị trí chỉ huy", bên trong thì ghé tai xì
xào ông ấy sợ đứng dậy thì có người ngồi mất ghế. Chiều thứ bảy nào
cũng họp
kiểm điểm trong tuần, thủ trưởng lại đập bàn nói choang choác: "Giải
phóng
nông dân lao động khỏi ách địa chủ phong kiến, mọi người đều có nhiệm
vụ tham
gia...".
Tôi cũng khéo lèo
lái, lẩn lút tránh được tới khi về Hà Nội
vẫn chưa đi. Tưởng chiến thắng về Hà Nội giải phóng thế là đã hết mọi
việc xóm
làng, hoá ra vẫn còn. Không thể thoát, bấy giờ mới chỉ hết giảm tô, còn
cải
cách. Cơ quan đã đi cạn kiệt cả, lần này đích tôi có tên trong danh
sách đi rồi
không còn ngõ ngách nào lẩn nữa. Thế là phải đeo ba lô đạp xe đi. Tôi
vào Thanh
Hoá dự tổng kết các bước công tác của các đội vừa qua dưới xã. Lúc đầu
tôi lo
cứ rối tinh. Nhưng rồi cả tháng vừa nghe vừa hỏi thì cảm như mọi việc
khuôn
phép dần đâu vào đấy, công tác này cũng thế thôi. Còn gì khó hơn cái sổ
sách kế
toán, mình chẳng học mà cũng thành nghề cộng trừ nhân chia, thế ra đi
cải cách
không đáng sợ như những đứa đã đi về đồn thổi, doạ dẫm.
Mụ hàng bánh đúc chỉ
đường cho chúng tôi về xã. áng chừng
mươi cây số, hễ sắp hỏi thăm đã có người mách lối đi, như là ai cũng
biết mình
về đấy rồi. Cái ba lô trên lưng đã thấm đen mồ hôi, đoàn người nhấp nhô
đi quá
buổi trưa. Đội trưởng vẫn thoăn thoắt dẫn đầu cho nên không ai dám uể
oải. Gió
mát hây hây mà mồ hôi đổ ra dính lưng nham nháp. Mặt trời mờ mờ nghiêng
trước
mặt, người trên đê trỏ xuống cánh bãi bảo kia kìa, làng ấy đấy. Những
khoanh
tre xanh ngắt quây xóm làng ven con đê quai. Từng khúc dầm nước trong
veo lác
đác đám lá sen già đưa mùi thơm như rơm mới. Chắc xưa kia chỗ này vỡ đê
hay
dòng sông cũ còn lại hõm loáng thoáng thành những đầm nước. Giữa cánh
đồng, một
mỏm núi đá chơ vơ. Bên cạnh, còn trông thấy cái lô cốt xi măng tháp
canh của bốt
hương dũng.
Chúng tôi xuống, vào
ngôi đền đầu thôn. Lại cái đền hoang,
hai bên tường đổ trống huếch nhưng vẫn còn bệ gạch chưa ai ăn trộm. Đội
trưởng
Cự nhìn quanh, thấy người đi trên đê qua lại, chưa yên tâm đã được bảo
mật. Cả
bọn chui vào qua cái sân cỏ mọc lưng ống chân cho được kín đáo chặt
chẽ. Những
con chuột thấy động chạy rào rào vào hậu cung đã mất cả cánh cửa, ẩm
ướt, tối
om. Chúng tôi ngồi lại dưới mái hiên. Chỗ này, trên đê hay ngoài cửa
không ai
thấy. Kể ra cứ cẩn thận, chứ lúc ấy chưa chiều lắm, thế mà lúc nãy còn
lác đác
người bây giờ trên đê đã vắng ngắt.
Đội trưởng Cự kéo mấy
cái ba lô, kê lên, trải ra tấm bản đồ
xã vẽ kẻ bằng tay lúc sáng nhận ở đoàn uỷ. Chúng tôi xúm quanh, chăm
chú. Cự
nói một mạch:
“Một là, từ giờ phút
này đội ta chịu trách nhiệm mọi mặt của
xã. Xã đây ở vùng hai trăm ngày địch được đóng lại, địa chủ thì gian
ác, tổ
chức của địch để lại đã khéo lồng vào tổ chức ta, chúng nó đã làm giảm
tô và
cải cách giả. Công tác của chúng ta thật nặng nề. Hai là, xã có chín
thôn, mỗi
chúng ta phụ trách một thôn. Tôi đọc tên từng người đây. Tôi phụ trách
chung và
thôn Đìa với văn thư của đội, thôn Đìa cũng là trọng điểm, vì có nhà
thằng bí
thư chi bộ. Các đồng chí xem bản đồ rồi tự tìm đường về xóm. Không được
hỏi han
lung tung. Coi chừng tay sai địa chủ và tổ chức cũ sẽ đưa vào người nó
bố trí
sẵn. Kể từ bây giờ các đồng chí về vị trí chiến đấu dưới thôn cẩn thận
cảnh
giác không được liên lạc với tổ chức cũ, cứ chọn nhà thăm nghèo hỏi
khổ, bắt rễ
xâu chuỗi. Chiều thứ bảy, đúng giờ này - đội trưởng Cự cúi xem đồng hồ
đeo tay,
toàn đội về đây phản ảnh tình hình và duyệt rễ. Ba là, tuyệt đối bí
mật, tuyệt
đối bí mật.”
Tôi đói quá. Không
biết có bệnh giun sán hay sao, hễ quá bữa
thì bụng réo rong róc, mắt nảy đom đóm, hai bàn tay toát mồ hôi lạnh.
Cứ từng
cơn thế, người như lả dần.
Tôi duỗi chân đụng
vào đít cái ba lô trước mặt để đặt bản
đồ. Ngón chân hình như vướng vào mảnh lá chuối. Tôi lé con mắt dương
hoa vàng
mờ, cũng nhận ra cái lá chuối lòi ở góc mảnh bạt nắp ba lô. Bấm thấy
mềm mềm.
Tôi quờ tay. Ôi chao, tôi nhận ra cái lá bánh đúc ngô ở chợ. Tôi ngước
mắt. Đội
trưởng đương nói đến đoạn hăng, bắt đầu băm bổ bàn tay liên liến, hai
con mắt
trợn trừng như muốn bật ra. Tôi luồn tay dưới ba lô, thó luôn cả gói,
bỏ nhẹm
vào cái túi xách của tôi. Rồi lại vờ lơ láo nhìn mọi người. Ai nấy vẫn
đăm đăm.
Người hí hoáy ghi sổ tay. Người vừa chăm chú vừa thờ ơ nhìn đội trưởng.
Người
vẫn cắm cúi xem tờ bản đồ mở che kín trên mấy cái ba lô. Lúc ấy tôi mới
bình
tĩnh nhận ra thật cái ba lô ấy của đội trưởng Cự. Đúng rồi, ba lô bộ
đội gờ nếp
viền quai kỹ lưỡng, chắc chắn hơn những cái ba lô con cóc khâu túm mua
ở cửa
hàng bách hoá. Tôi sững sờ, nhưng rồi lại yên trí dần. Kỷ luật là ba
cùng dưới
xóm. Mà đội trưởng lại mua lén bánh đúc ở chợ. Bố bảo cũng không dám
kêu mất.
Và trông mọi người đương chăm chú thế kia thì chẳng ai nhìn thấy tôi
vừa làm
gì. Cho thằng đạo đức giả tối nay đói rã họng.
Mọi người đứng dậy,
xốc ba lô lên vai. Hai anh đội cán bộ cơ
sở ở xã lên, nách kẹp mo nang tài liệu, xắm nắm đi ngay. Họ háo hức như
được về
xã nhà. Mà họ tự nhiên như thế cũng chẳng lạ, chỉ có tôi mới phải lo
lắng loăng
quăng chẳng biết chốc nữa vào nhà ai, có bắt được trúng rễ không. Đội
trưởng Cự
một tay xua xua không biết là cản lại hay bảo đi, một tay nắm đấm, hô:
"Vì
giai cấp nông dân, quyết chiến quyết thắng". Tiếng đáp lại rập một cái:
Quyết thắng! Quyết thắng! Tôi thấy đội trưởng xách ba lô lên, sờ vào
mép. Rồi
nắn lại lần nữa. Mất mẹ nó rồi. Nhưng mặt vẫn bừng bừng như lúc đương
nói, không
khác. Đội trưởng đến trước mặt tôi. Tôi khúm núm co người túm miệng túi
xách sợ
lộ cái lá chuối, rồi nghiêng người đeo quai ba lô lên vai. Không phải
đội
trưởng tò mò gì về tôi mà Cự đến bắt tay từng người. Tôi kẹp chặt cái
túi trong
có gói bánh đúc ăn trộm rồi mới giơ bàn tay ra.
Đội trưởng bảo:
“Đồng chí đợt này
được trên cử làm đội phó phụ trách toà án,
cố gắng nhé.”
Tôi nhẹ nhõm nắm tay
Cự. Mỗi người vào các xóm một ngả. Chỉ
có Đình rảo bước theo tôi. Tôi hỏi:
“Cậu về cùng lối với
mình à?”
Lúc chỉ có hai ba
người, chúng tôi thường cậu cậu tớ tớ -
chỉ có mấy anh ở xã lên vẫn nghiêm túc "đồng chí" như khi họp. Riêng
với đội trưởng tác phong quân sự thì không mấy khi dám cợt nhả, lúc nào
cũng
"đồng chí" cẩn thận.
Đình đáp:
“Mình phụ trách xóm
Chuôm láng giềng cậu. Về Chuôm đi xuống
lối bờ đầm đằng kia gần hơn.”
“Thế sao lại đi lối
này?”
Đình cười hếch cái
mũi đỏ.
“Đi vài bước, cho nó
vui mà.”
Tôi ừ hữ nhạt nhẽo.
Đình ghé tai tôi, nói nho nhỏ:
“Này chia cho tớ bánh
đúc với. Ông anh nhanh tay quá đấy. Tớ
nhìn thấy trước đằng ấy cơ.”
Tôi ơ mặt như đứa ăn
cắp bị bắt tại trận - mà thật thế, còn
như nỗi gì. Gói bánh có bốn chiếc, tôi lẳng lặng lấy ra đưa Đình hai
cái. Nhìn
theo hút lúc ấy đội trưởng Cụ đã khuất vào bờ tre. Bỏ bánh lên túi ba
lô rồi
Đình cũng tất tả về phía ấy. Ôi trời, nó đi báo cáo thì toi mạng! Nhưng
tôi lại
dửng dưng ngay. Nó nói ra thì nó mất bánh. Mà đội trưởng đã định ăn
vụng, đội
trưởng trù cho thì cũng chết dở.
Tôi lững thững vào
thôn Am. Đi bắt rễ khác nào đi câu. Còn
chưa tối, mới chạng vạng mà trước mặt, sau lưng vắng tanh. Chiều chiều
thông
thường lúc này cổng đồng có người đi làm về, những con trâu bước thong
dong,
đàn vịt rúc bờ ruộng chân tre, trẻ con đương vác sào ra dồn về. Thế mà
đường
vào xóm quạnh quẽ, tưởng như không cả con chuồn chuồn chập chờn, con
nhện nước
loăng quăng. ít ngày sau, tôi mới được biết cả mấy thôn này đã được
biết tin
đội về từ lúc đội còn ngồi ăn bánh đúc trên chợ huyện. Thế là gà qué,
chó má,
trâu bò người ta tất tả nhốt chặt. Cả người cũng không ai dám ló mặt ra
ngõ.
Có thể nhận biết một
làng mới thoát khỏi vùng tề tiêu điều
khác hẳn các làng hậu phương um tùm cây cối xanh mát trong Thanh Hoá. ở
đây,
cây đa, cây si ngã ba xóm, những luỹ tre và bờ bụi bị phạt trơ ra như
những cái
đầu trọc lông lốc. Đồn bốt Tây bắt triệt thế cho du kích mất chỗ ẩn
nấp, đêm
đến cả các chòi gác bốt hương dũng giữa làng rọi đèn pha phía nào cũng
được.
Tôi nhòm ngó một vòng
xuống cuối xóm rồi quay lại. Cả đến
những giậu ô rô, giậu duối và bờ xương rồng cũng xơ xác như tóc cạo dối
chẳng
còn mấy. Trên những mái rạ mục đen sẫm không vẩn vơ một sợi khói bếp.
Các cổng
tán, cánh liếp mở há ngoác mồm. Tôi không biết người ta cốt làm thế để
đội về
khỏi nghi giấu giếm cái gì trong nhà.
Tôi toan cứ vào bừa
một nhà nào nghỉ ngơi cái đã. Nhà ấy
không dựa được thì mai đổi đi nhà khác. Tôi đã mấy đợt qua cái bỡ ngỡ
lần đầu
tiên ngày đầu đi bắt rễ rồi. Chợt trông thấy sau mấy cây duối quăn queo
một
người đàn ông cởi trần gầy nhom, quần xắn móng heo. Người ấy vừa đi vừa
quay mặt
vào trong cái sân đất, như nói với ai trong ấy: "Ông đã chặt cổ cả
thằng
Tây, ông đếch sợ anh đội". Ngẩng lên thấy tôi, người ấy thoáng bối rối
rồi
nhìn trân trân: "A anh đội! Mời anh đội vào nhà em xơi bát nước!" Cái
mặt người này dại dại, mắt trơ tráo, không biết nó dở người hay nó là
thằng
địch trắng trợn ra đặt bẫy. Giả vờ thế nào được với tôi, tôi không đáp.
Tôi đâm
cảnh giác, không dám vào bừa nhà ai như đã định thế, rồi cứ lúng túng,
vẩn
vơ...
Một quãng, gặp một
đống rạ. Trong kia, thoáng bóng người
quần nâu bạc đã tuông cả gấu, leo khoeo rút rơm. Tôi khấp khểnh lẩm
nhẩm: đây
rồi... đây rồi... rễ đây chứ rễ đâu... Tôi xăm xăm tạt vào. Người đàn
ông đứng
lại dưới mái rạ, hai tay luống cuống như vụng trộm thế nào. Khuôn mặt
rỗ hoa
xám nhợt đã luống tuổi. Người ấy phờ phạc ngẩng lên:
“Lạy anh đội...”
Gian nhà lợp rạ nát
xám xịt như mặt người ấy. Tôi bước vào.
Còn mấy người trong nhà, chốc mới nhận ra dần dần. Một người đàn bà
ngồi xổm
trong xó luồn, tay chống lên mảnh gỗ con. Một chú nhóc đóng khố một cởi
trần
đứng tựa cột. ở chái bếp bước vào một cô gái áo nâu lành lặn. Có lẽ có
người lạ
vào, cái áo vừa được mặc vội, một chiếc khuy đỏ chưa cài hở mảnh đuôi
yếm cũn
cỡn.
“Anh đội vào chơi.
Nhà chẳng có chỗ nào ra hồn...”
Tôi ngồi xuống một
mảnh vầu úp và nói:
“Tôi tên là Bối. Cả
nhà cứ gọi tôi là Bối, anh Bối.”
Rồi trong bụng thoải
mái yên chí chưa thăm nghèo hỏi khổ mà
đã trúng phóc ngay. Tôi lại nói:
“Tôi là cán bộ đội về
công tác. Ta đây là xóm Am, phải
không?”
“Vâng ạ, xóm Am.”
Cô gái lại vào trong
bếp lấy ra một cái bát đàn. Nhưng không
có nước. Cô bối rối đứng. Bố cô rụt rè nói: "Nhà chẳng có hạt nụ vối,
chẳng còn nồi chè xanh nào". Tôi cười: "Vẫn uống nước mưa ngoài vại
chứ gì. Vẽ, tôi cũng thế". Nói rồi tôi cầm chiếc bát ở tay cô gái ra
cái
vại bên gốc cau có buộc cái mo cau hứng nước mưa. Tôi múc đầy bát nước,
bưng
vào, ừng ực làm một hơi hết tiệt. Quả là tôi đương khát se họng. Và mấy
lâu nay
ở với làng xóm tôi cũng quen ăn uống lôm lam, sống xít. Quả nhiên, chỉ
cạn bát
nước lã tôi lại cảm thấy công tác ba cùng đã đưa tôi gần gũi mọi người
rồi. Đã
chiều hẳn, phía bờ đầm nước, đôi chim chích choè bay rỡn nhau hót những
tiếng
dài ngắn gọi bạn vào hoàng hôn. Trong nhà nhoè nhoẹt xâm xẩm, chỉ còn
thấy
khuôn mặt cô gái trăng trắng.
Tôi đã thuộc mọi
người. Bố tên là Diệc. Mẹ bị tàn tật ngồi
trong vách đấy. Con gái là cô Đơm và mấy em, những thằng Vó, cái Lưới,
thằng
Cò... Nhà cò nhà diệc, những ao ước cầu mong hàng ngày đơm đó sông nước
chỉ có
vậy. Nghèo đến thế chứ nghèo sao nữa, những cái tên cũng đã khiến tôi
gối đầu
ngủ yên được. Chưa trông rõ hết, cũng đoán ra cái nhà tranh vách tuềnh
toàng ẩm
mùi rêu đất, đằng cuối sân, một chiếc hũ sứt hay cái chĩnh đội chiếc
nón mê.
Người đi làm đồng về được con cáy, cái tép thì ném vào cái hũ đã trộn
lưng
muối, vài tháng lại chắt ra làm cái mắm, thức chấm. Người ta đương tìm
đây rồi.
Thật cũng có may có rủi.
Tôi bắt đầu mở bài
lục vấn con số:
“Nhà ta cấy bao
nhiêu?”
“Chưa được hai miếng
ạ.”
“Ruộng nhà a?”
“Thưa, cấy giẽ thôi.”
Tôi nghĩ sắp đặt
ngay: "Bố với con, thế là nhà này đã
được một rễ, một chuỗi. Bố làm trưởng thôn, con thì tổ trưởng dân quân.
Hay!". Trong nhà đã tối om. Một thằng cu vào bếp thổi đống trấu châm
một
que đóm. Phao đèn hoa kỳ không bóng sáng lung lay chẳng khác sợi lửa
đóm. Tôi
hỏi:
“Nhà chưa cơm chiều
à?”
“Có... có... chưa,
chưa...”
“Chưa thì cho tôi ăn
với. Tôi có phiếu gạo đây. Mai cô Đơm
đem lên đong gạo cửa hàng trên huyện.”
Người ta ở đâu dường
như cũng đã biết lề lối đội cải cách
đến thì ăn, thì ở ra sao. Những đồn thổi, những tiếu lâm, bao nhiêu
chuyện buồn
cười và chuyện rùng rợn về những anh đội. Năm trước, khi còn cái bốt
hương dũng
tề nguỵ lù lù giữa làng, thế mà những chuyện giảm tô, cải cách đã bay
từ ngoài
kia vào. Có người tò mò lẻn đi xem đấu địa chủ tận "hậu phương" bên
kia sông. Nhiều nhà khá giả sợ xanh mắt, đã xuống Hải Phòng đi Nam.
Người ở lại
cũng mỗi người nói một khác, người ngóng đợi, người lo vu vơ.
“Cũng sẵn rồi nhưng
cơm chẳng ra cơm đâu, mời anh đội ăn
tạm.”
Cô Đơm bưng bày xuống
mặt đất giữa nhà, lần lượt một nồi
cơm, một cái chảo trông nhờ nhờ như muối. Đơm xới một bát cơm, gắp ra
mấy cọng
rau sam đặt lên bát rồi đem vào xó nhà cho mẹ ngồi bốc ăn trong ấy.
Tôi hỏi vui:
“Cơm trộn kê hay sao
mà vàng ngon thế?”
“Vâng. Cám đấy ạ.”
Rồi bác Diệc nhẩn nha
kể: "Cả vùng này mùa vừa rồi nhốn
nháo vì người các nơi qua lại đổ xuống Hải Phòng. Các cụ đạo vào tận
đây rủ
người đi, chả dưới xóm Đìa có người theo đạo mà. Ai đi đâu thì đi, chỉ
chết con
nhà nông chúng tôi đi hay không thì cũng rối tinh lên chẳng cấy hái ra
gì. Của
ăn được thì còn chơi vơi ngoài đồng, không biết rồi nhặt nhạnh thế nào,
bây giờ
may lắm còn moi móc ra cái cám ăn cứu người".
Hồi dự tổng kết trong
Thanh rồi tôi về huyện Thiệu Hoá thực
tập, ở nhà rễ, ngày hai bữa ăn toàn cám, bấy giờ được ăn cám còn phúc
bảy mươi
đời. Thanh Hoá đã kiệt lực, đói to. Cả một vùng các huyện trên xưa nay
ỷ vào
nước đập Bái Thượng chỉ quen làm một vụ lúa, không biết làm màu. Máy
bay Pháp
bỏ bom phá vỡ đập Bái Thượng. Người ta nói cái thằng Pháp chỉ đánh bom
dấn một
năm nữa thì cả tỉnh chết đói hết. Ngoài chợ tỉnh cũng bày bán trẻ con
nhan nhản
như bán chó. Tôi dự một cuộc đấu địa chủ. Có người rễ bị đói đã lâu
quá, đứng
lảo đảo, hét một tiếng rồi lăn ra chết. Những đơn vị trong Nam tập kết
đóng
quân dọc sông Mã. May được các chiến sĩ khu Năm đem ra kinh nghiệm và
giúp dân
trồng rau khoai, rau muống chống đói. Các mảnh vườn, các cánh ruộng khô
nẻ được
cuốc lên, đánh luống. Chỉ hơn một tháng, đã được hái lá ăn. Rau muống
luộc, rau
lang rau muống phơi làm lương khô và muối dưa, nấu lẫn cám nuốt tạm đợi
mùa.
Tôi còn đem ra đây
cái nhớ khủng khiếp về những bữa ăn cám.
Có đến cả phiên, mấy phiên chợ không đi ỉa được. Mình mẩy ngứa nổi mẩn
da cóc.
Suốt đêm bứt rứt rôm cắn, không tài nào chợp mắt. Sợ quá, phải về bệnh
viện
tỉnh định xin thụt. Xuống đến chợ Rừng Thông, người ta mách ăn đu đủ
xanh cũng
rửa ruột được. Thế mà hiệu nghiệm có lẽ như thụt. Bây giờ cơm lẫn cám
chắc ăn
đỡ táo hơn dạo ấy. Cũng chưa biết thế nào, chỉ thấy từ ngày bị trận táo
bón tắc
ruột, bụng tôi như chắc lại, thỉnh thoảng mới phải tào tháo đuổi. Mà
tối nay
cũng chỉ nhấm nháp qua loa. Còn hai cái bánh đúc trong túi cơ mà.
Tôi ngồi xổm, cầm
bát, định lùa luôn mấy đũa. Nhưng miếng
cơm cám nguội ngắt, rắn như vôi vữa. Rồi từ từ nhai, tôi cũng tọng được
hết bát
rồi kiếu là đã ăn trên chợ huyện còn lửng bụng.
Một nhoáng, cả nhà đã
xong bữa.
Giữa nhà, tôi và bác
Diệc ngồi bên ánh đèn lom đom, mà tôi
đoán nếu không có tôi, mọi người chỉ ngồi trong bóng tối. Người đàn bà
què đã
nằm im lẫn vào đất. Tiếng dế ti tỉ buồn như chấu cắn, như kèn đám ma.
Dần dà, tôi được biết
bác Diệc năm nay bốn mươi mốt. Cả đời
chỉ quanh quẩn trong làng chưa khi nào bước chân lên con đường cái Tây
bên kia
sông. Phải năm trời làm bệnh tả, bố mẹ chết cả. Còn trơ trụi có Diệc.
Rồi bệnh
đậu mùa để lại cho bác Diệc những lỗ chỗ vết rỗ hoa khắp mặt. Lăn lóc
nhà này
qua nhà khác. Diệc không thể nhớ được thuở tấm bé đứa trẻ chỉ biết gào
khóc đòi
ăn thì thế nào, nhưng đến khi biết đi biết chạy, cũng là lúc làm quen
với cái
thừng con trâu, cái liềm cắt cỏ, chiếc đòn gánh quảy nước rồi chẳng bao
lâu đã
thông thạo mọi việc đồng áng. Những trận đi làm thuê bị đòn đánh và cái
đói,
cái khổ nhục tháng ngày, làm sao nhớ được bao nhiêu khiêng. Tôi còn
muốn hỏi
Diệc lấy vợ bao giờ, tại sao vợ lại ốm đau thế. Nhưng chưa biết lựa lời
thế
nào.
Bác Diệc nói:
“Anh đội đi cả ngày,
nhọc rồi. Đi ngủ thôi.”
Quả là hai mắt tôi đã
cứng đơ. Tai nghe câu chẳng câu chuộc.
Chốc chốc, ngật cổ một cái, lại choàng tỉnh.
“Ừ, ừ...”
“Anh đội nằm ở cái
chõng kia. Chõng vẫn bỏ không, thỉnh
thoảng mới đem ra ngồi hóng mát ngoài sân. Cả nhà tôi nằm đất đã quen,
mùa rét
thì lót lá chuối khô, ấm lắm.”
Cũng chẳng phải đợi
chủ nhà giục lần nữa, tôi nói: "Tắt
đèn nhé" - đốm đèn tắt phụt. Tôi ngả lưng xuống chõng, gối đầu lên ba
lô.
Thèm ngủ thế, nhưng vẫn nhớ trong túi dết có gói bánh đúc. Cái mảnh lá
chuối
rơi tuột đâu đấy, tôi ngoạm như nuốt chửng vừa hết bay hai cái bánh ngô
thì
cũng thiếp đi luôn.
Hôm sau, tôi thức
dậy, trong nhà im phăng phắc. Cái chống
liếp cửa trước đã được dựng lên từ bao giờ. Cả trong gian nhà cũng sáng
bạch.
Sau cái cột tre, người đàn bà ngồi yên thế như từ hôm qua tới giờ - hai
bàn tay
ếch đặt lên hai mảnh gỗ. Con mắt ngước trắng dã như miếng mảnh sành.
Tôi hỏi:
“Cả nhà đi làm rồi
a?”
Cái bóng rũ rượi im
lìm. Người tàn tật này có lẽ còn mắc các
chứng câm điếc và thong manh nữa. Tôi xếp cái ba lô vào góc chõng rồi
bước ra
cổng. Đường xóm buổi sáng không đến nỗi vắng tanh như chiều hôm qua.
Ngoài đồng,
lúi húi người cào cỏ. Đuôi lúa con gái ngậm đòng rập rờn phe phảy mơn
man trong
làn gió nhẹ như sắp trông thấy hạt thóc mẩy về đuổi đi bát cám trộn.
Một đám
trẻ con trần truồng mình mẩy lấm như trâu đằm đứng rụi mắt nhìn tôi
lững thững
qua.
Vào liền mấy nhà đều
im ắng như nhà hoang. Tôi đã biết một
làng bình thường chẳng mấy khi có người ở nhà buổi sáng. Ai cũng còn đi
moi móc
đào bới, đơm đó lấy cái ăn. Nhất là các xóm trong ngoài luỹ tre phờ
phạc, bên
những chân tre còn sót lại, trồi ra những mái rạ như cây rơm, như
chuồng trâu
khác các chòm nhà giữa làng. Những nhà có máu mặt tụ hội ở xóm trong,
xóm giữa,
dần dà mới thêm ra xóm trẽ, xóm đồng, xóm bãi. Ngày trước hẳn đây là
cổng đồng
rồi người trong làng nhà đông san ra ở, người bơ vơ ở đâu tới ngụ cư
lập nên
xóm đuôi xóm trại. Xóm này chắc cũng mới thành nơi ăn chốn ở vài mươi
năm nay,
nhiều chỗ nền nhà chưa hoàn thổ, đất tảng mốc rêu. Những vườn xoan cây
chỉ
nhỉnh cao bằng sào nứa.
Tôi lại qua bụi cây
duối rậm rịt buông xuống những nạm dây
tơ hồng vàng rượi. Cái thằng quần xắn móng lợn vẫn như hôm qua. Chòm
râu quai
nón lủa tủa. Như nó vẫn đứng đấy rình tôi.
“Chào anh đội, đêm
qua anh đội đã bắt được rễ, yên chí rồi
thì hôm nay vào nhà em được chứ? Anh xâu chuỗi em đi. Đố anh tìm được
thằng
chuỗi nào hơn em. Hôm qua mà anh vào nhà em thì em đã được là rễ rồi,
rễ cái
chứ chẳng chơi, nói thật đấy.”
Tôi lặng lẽ theo hắn.
Không để tâm những câu nói lẩn thẩn,
lảm nhảm. Không phải nó say rượu, cũng không phải nó dở người, vẻ nó
táo tợn
nhưng nói khôn như người ta. Có thể nghe nó mà biết tình hình, mà kiểm
tra,
được việc cũng nên. Nhà này còn tồi tàn hơn nhà Diệc. Ba phía vách
tuông ra,
huếch hoác, lá khoai non xanh mát mắt phủ kín, dây bìm leo chằng chịt
lên cả
cột nhà như cái cọc tre. Một người đàn bà lúi húi trong bếp đương sàng
sảy cái
gì không biết. Tiếng lạt xạt khe khẽ như gà con bới đống dấm ủ bếp.
“Anh ngồi xuống. Nhà
tôi ngồi chỗ nào cũng như nhau. Tôi là
tiên chỉ cái làng này, tiên chỉ bần cố ấy chứ chẳng vừa đâu. Nhưng mà
tôi không
kể khổ với anh. Tôi chán ngấy cái khổ, cái kể khổ rồi. Tôi nói với đội
việc
khác.
"Lúc kháng chiến ấy
mà. ở trong này tôi là du kích tập
trung huyện. Tôi không báo công đâu, công tôi thì không đếm xuể, mà
công bao
nhiêu cũng hoá công cốc rồi. Tôi chỉ kể những chuyện ai oán thân tôi.
Đêm ấy
thình lình tôi lẻn về cái nhà này. Tôi nhòm liếp, đèn còn sáng, thằng
xếp bốt
hương dũng đương nằm với vợ tôi đúng chỗ cái cột này. Con vợ tôi kia,
cái đứa
làm chứng sống còn đấy. Tôi xông vào. Cũng ghê lắm. Thằng xếp bốt cứ
trần
truồng lăn xả vào tôi. Tôi mà không ghì lại nổi, nó chỉ lùi được mấy
bước quơ
được súng thì tôi ăn băng đạn tôi chết toi rồi. Nhưng tôi cũng bị nó
quật mấy
hòn gạch tưởng vỡ đầu. Bây giờ phải khi giở giời đầu tôi cứ buốt từ óc
xuống
xương sống. Thằng bệnh viện huyện bảo tôi đứt mất một dây thần kinh.
Thì điên
à? Đứa nào bảo ông điên? Ông điên mà ông nhớ được chuyện cổ tích a, nhớ
được
công lao kháng chiến của ông a?"
Người đàn bà trong
bếp nghe láng máng tiếng người trên nhà
cũng thò đầu lên như hóng chuyện. Cái mặt mụ nhăn nheo xém ngoét, miệng
há hốc
trơ ra lợi hàm dưới đỏ hỏn, đã mất hết răng. Như là nghe nói ai ở đâu
chứ không
phải chuyện về cái thằng xếp bốt năm ấy ngủ với mụ ta. Dáng ngơ ngơ, mụ
ấy mới
lẩn thẩn.
"Bấy giờ tôi khoẻ như
ông hùm ấy chứ. Tôi lôi thằng dê
xồm ra chỗ gốc duối kia. Tôi hoa mã tấu lên. Cái đầu nó nhảy nhốp nhốp
dưới đất
như con cóc phun nước. Tôi xách cái đầu lâu nó về huyện đội. ấy thế mà
rồi sau
tôi xin huân chương, chúng nó bảo tôi báo thù thằng ngủ với vợ chứ
không phải
là thành tích. Báo thù thì tao phải beng cổ cả vợ tao chứ, có phải
không mẹ
mày?".
Người đàn bà quay mặt
vào, không ừ hữ một câu. Lại nghe
tiếng sảy hạt tấm hay mày ngô rào rào như mưa thưa. "Anh đội tính cho
tôi
thế nào? Công tôi to chứ, phải không?"
Tôi ậm ừ.
“Được rồi.”
“Ối, anh đã bảo được
đấy nhé. Làm giấy cam đoan đi rồi cho
tôi làm trưởng thôn, phế thằng tư Nhỡ đi. Tôi sẽ vạch cho đội lôi ra
hàng đàn
địa chủ. Cứ tính đứa nào có ruộng thì ghi tên nó là thằng địa, nhiều ít
mặc kệ,
có ruộng có đất chẳng là thằng địa thì là con hùm ăn thịt người à, có
phải
không anh đội?”
“Được, để đội xét.”
“Cái gì cũng bảo để
xét, trên huyện cũng nói để xét, rồi mất
hút con mẹ hàng lươn. Để xét thì ăn mẹ gì! Thôi, mời anh cút, cút đi.”
“Nóng tính thế. Tên
là gì?”
“Anh là Tây đồn hỏi
lục vấn tao để bắt bỏ tù à?”
“Không phải. Tây nó
về nước Tây rồi, đội hỏi để biết.”
“Thế thì báo cáo đội
tôi là bần cố, tên tôi là bần cố Vách.
Cả hàng huyện này ai cũng biết Vách đồ tể. Ngày trước mổ Tây, bây giờ
mổ lợn.
Hôm nào được con lợn có lòng ngon anh đội đến đánh chén sớm nhé. Không,
không
được. Đội đương còn phải ăn cháo cám với dân kia mà. Cùng ăn, cùng ngủ,
cùng
làm. Cùng hai thứ thôi chứ, đừng cùng ngủ với con cái Đơm nhé. Khớ!
Khớ!”
Vách rụt cổ cười rũ
rĩ. Về nhà, tôi hỏi bác Diệc:
“Cái thằng Vách ấy là
thế nào?”
“Trước kia nó là du
kích huyện, Tây bắt được, bị đem rập đầu
vào tường một ngày rồi sau đâm ra lẩn thẩn. Nhưng nó mổ lợn thuê khéo
lại nhanh
mà cũng lắm lúc nói khôn đáo để.”
Có hôm tôi hỏi thì cô
Đơm lại nói khác:
“Chú Vách đi du kích
thoát ly, nửa đêm về bắt được ông xếp
bốt hương Dũng nằm với thím ấy, chú ấy dong xếp bốt ra đem trôi sông,
từ đấy bị
cái ma oán đâm ra dở người.”
Buổi trưa, Đơm đi đâu
chưa về. Ban ngày tôi mới trông rõ bát
cơm màu vàng cám, lổ đổ vài hạt gạo còn sống nhăn. Tôi lại sợ tắc ruột,
chỉ và
nhếu nháo mấy miếng rồi ra ngoài vại chiêu bát nước lã. Tôi bảo bác
Diệc:
“Sáng nay làm gì?”
“Chẳng làm gì cả.”
“Mai có đi làm rủ tôi
với.”
“Tôi đi cả buổi,
nhưng anh... anh ở nhà...”
“Tại sao, đi cả buổi
mà?”
“Đi đào lỗ rắn thôi,
anh không làm được, không, anh không
được làm. Mùa này rắn bắt đầu vào ngủ hang. Đi bắt vài con về làm thức
ăn.”
Cái đòi đi cùng làm
của tôi chết ngấm. Bắt rắn! Tôi sợ rợn
gai người. Tôi im lặng không nói gì nữa. Bác Diệc cười gượng, rồi chép
miệng:
“Nhà có khách mà
chẳng có gì ăn. Thằng bé đi câu ếch ngoài
ruộng cũng về không. Mai ba bố con đi bắt rắn, bắt chuột. Cũng là còn
sớm chưa
có hạt lúa chưa chắc chuột nhà đã ra ở đồng. Nhưng mà trông anh...”
Không thấy rủ tôi đi
bắt chuột, tôi nhẹ người. Tôi hỏi:
“Đồng áng thế nào mà
hết rắn lại chuột...”
“Tháng ba ngày tám,
chỉ còn ngồi trông ngọn lúa. Thỉnh
thoảng cào cỏ. Nhà tôi có mỗi miếng ruộng, quơ nửa buổi đã sạch trơn.
Chẳng đào
đâu ra việc cả.”
Bác Diệc lại hoe hoe
cười như không:
“Trông anh nhai cám
tôi ái ngại lắm.”
Tôi ngượng, kiến bò
rần rần trên mặt.
“Tạng tôi cơm nước
thế nào cũng đểnh đoảng vậy thôi.”
“Hay là mai đi với
tôi. Anh đứng trông rọ thôi. Tôi đã thấy
một hang đất đùn, không phải vết lườn bụng rắn, chân chuột nhìn rõ
ghê.”
Tôi chối khéo:
“Sáng mai tôi phải
lên hội ý đội.”
Rồi tránh quanh quẩn
rắn với chuột, tôi sang việc khác:
“Nhà nào có bát ăn
nhất thôn này?”
“Nhà trưởng thôn tư
Nhỡ.”
“Chỗ nào?”
“Bên kia cái ao có
mấy cây dừa.”
Tôi toan giở ngón
lười, vặn vẹo thêm bác Diệc mấy câu nữa để
lấy con số. Nhưng lại nghĩ: Bước một của ta thế là thắng lợi trông thấy
rồi,
mai đi báo cáo thì ta nhất đội chứ ai. Nhưng cứ điều tra tình hình
tường tận
mọi mặt rộng ra, chẳng mất gì. Mấy lỵ chịu khó bây giờ, bước hai sẽ
được thong
thả.
Nghĩ thế, tôi đi đến
nhà trưởng thôn tư Nhỡ. Diệc đứng dậy,
nói: "Anh đừng..." rồi không nói thêm.
Tôi cũng chẳng để ý,
bước ra ngõ.
Những cây dừa xanh om
bên kia ao tôi đã trông thấy từ chiều
hôm trước, nhưng không biết đằng sau vườn dừa còn có nhà. Vào quá mép
bờ nước,
trước mặt trải ra một con đường lát ba hàng gạch nghiêng, đi phía ngoài
không
nhìn thấy. Hai bờ giậu, hàng dâu xanh mướt. Những cây dừa lửa mùa này
lúc lỉu
chùm quả vàng xẫm. Trong kia, như trổ vào giữa luỹ tre, một chiếc cổng
tán
buông kín khít giữa hai cột tre đực, trên nóc cổng tán lòng vòng mấy
hàng chông
dây thép gai. Cái cổng ngõ chống cướp chống càn của thời nhiễu nhương
vừa qua.
Bên trong, ẩn một ngôi nhà ngói mái phủ trĩu rêu xanh xẫm, hai đầu mái
nhô đầu
chuôi vồ ngất nghểu.
Đàn chó xông ra sủa
râm ran. Nhưng không phải chó dữ, chỉ là
mấy con chó giữ nhà đánh tiếng. Một ông lão áo cánh năm thân nhuộm vỏ
dà, bộ
râu dài đen mướt như tóc buông. Hai con mắt còn nhưng nháu thế kia, tôi
đoán
không thể lão đã lên ngôi cụ mà lão chỉ là người chơi nuôi râu. Ông ta
cúi, rút
chốt nhấc cổng tán, suỵt đuổi những con vện, con vá lốc nhốc chạy quay
vào dưới
nhà ngang.
“Mời anh đội vào
chơi.”
Trên một bên cánh cửa
treo tấm gỗ mộc ở giữa sơn đen một
dòng chữ to: Hutte cent ans [2] . Tôi đánh vần bập bõm, nhưng không
biết nghĩa.
Trong nhà, đúng kiểu cách nếp nhà phong lưu đồng quê, phản gỗ mít,
giường thờ
hương án sơn then, đôi giải y môn màu hoa hiên đã úa.
Chủ và khách ngồi bên
chiếc tràng kỷ mây đan, giữa bàn đặt
một bát điếu mộc và cái ấm rỏ. Chủ rót mời chén tống nước chè nụ âm ấm.
“Bác là bác tư Nhỡ
trưởng thôn?”
“Thưa, tôi là tư Nhỡ.
Còn trưởng thôn thì tuỳ đội bây giờ
thương để cho thì được.”
“Nhà ta đi vắng cả?”
“Mẹ nó, với các cháu
lên chợ huyện. Chả ngoài vườn có buồng
chuối, buồng cau đem bán, nhân thể mua mắm muối. ấy làng xa chợ vất vả
thế, mỗi
việc đi mất cả buổi. Thế anh đội về ở nhà ai?”
“Nhà bác Diệc.”
“À, nhà Diệc...”
“Nhà ta năm nay...”
“Cảm ơn anh thăm
nghèo hỏi khổ. Tôi xin kể sự tích tôi về
cái xóm Am này cho anh nghe. Năm trước, tôi học trên huyện. Thời Tây,
trên
huyện mới có trường mà. Rồi bố mẹ tôi mất cả. Tôi phải bỏ học về trông
nom cửa
nhà. Nhà tôi độc đinh, tôi là con một. Ruộng nương có một ít, lại xâm
canh bên
kia sông.”
“Sao con cả lại là
tư?”
Tư Nhỡ vuốt râu,
cười:
“Ấy, tư là tư văn.
Mua cái tư văn, được ra văn chỉ điếu đóm
các cụ, khỏi bị xách nhiễu phu phen tạp dịch.”
“Bao nhiêu tuổi thì
được vào tư văn?”
“Không lệ tuổi, chỉ
biện mâm xôi con gà với khoản tiền
khoán. Tôi năm nay ngoài ba mươi.”
“Ba mươi bao nhiêu?”
“Ba mươi tư ạ.”
“Thế mà để râu dài
đến rốn!”
“Ấy bộ râu cũng có sự
tích bộ râu ạ. Quê chúng tôi gọi râu
này là râu chống càn. Chả là mỗi lần Tây các bốt quanh vùng kéo qua
đây, khi
lấy phu vác đạn, khuân đồ, khi bắt lính, bắt người đẩy ra đường 5 đi
trước hứng
mìn. Râu tôi dài thế này, già nua thế này, tôi lại chỉ lên biển có hàng
chữ Tây
"Cái lều một trăm năm" kia, thế là chúng nó cười hố hố, xuống lục
trứng chuồng gà, ra vườn đẵn chuối, lấy đu đủ rồi cút. Lần nào tôi cũng
thoát,
anh ạ.”
“Bây giờ thì cắt râu
được rồi.”
“Dạ.”
Tôi ngồi một lúc,
không còn gì hỏi nữa, đứng dậy. Tính nhẩm
đã vào các nhà trong xóm, mấy người... mấy người... Tối nay họp rễ
chuỗi, chiều
mai ra sân đền họp đội. Nhất định mình bơi loại một, thoạt đầu đã trúng
rễ, lại
chuỗi, mấy chuỗi. Có thể cả tư Nhỡ, ruộng vài ba miếng, lại xâm canh
đồng làng
khác thì chưa phải địa, phú mà lại có tinh thần chống càn. Nhưng mà
trưởng
thôn, lúc nãy quên mất chưa tuyên bố cắt chức trưởng thôn Tư Nhỡ, vì tổ
chức cũ
phải giải tán, có cử lại anh ta thì cũng là tổ chức mới. Sắp sẵn người
khác,
hay là Vách, Vách khùng có được không, còn Đơm thì đội du kích rồi...
Trông Đơm
lam lũ, rách rưới, nhưng cái vai, cái lưng mây mẩy và hai con mắt thì
ngon như
củ khoai lùi ăn được. Chạnh lòng nhớ cái câu trắng trợn của thằng Vách
nói
"ba cùng nhưng không được cùng ngủ với con Đơm". Là đùa, cũng là
thật, thằng khùng mà ma xó.
Về đến nhà bác Diệc.
Cũng như chiều hôm trước Đơm đương lúi
húi trong bếp. ở góc buồng ngoài, hai con mắt trắng rợn của người tàn
tật nhìn
lên. Đơm ra rút rạ.
“Anh đã về.”
“Trưa nay Đơm đi
đâu?”
“Em xuống chợ mua cái
này.”
“Chợ huyện à?”
Đơm không trả lời mà
lấy trong yếm ngực ra giơ lên một gói
lá chuối. Mảnh lá chuối cong cong, thò hai chiếc bánh đúc ngô vàng hây,
cả
miếng cháy ở giữa đen giòn. Đơm đưa bánh cho tôi.
“Ô hay, sao thế này?”
“Em thấy anh thích ăn
bánh ngô.”
“Sao em biết?”
“Em nhặt cái lá ở gầm
chõng, còn dính bánh...”
Chết tôi rồi. Đơm
cười, nét mặt cô gái dậy thì xanh xao bỗng
đỏ hồng, xinh hẳn. Có lẽ cô cười cái mặt nhăn nhó, méo mó khó hiểu của
tôi.
Nhưng tôi cầm ngay cái gói bánh. Vừa thấy cái bánh, cơn đói đã bồn chồn
lên
rồi. Tôi chẳng ngại. Năm ngoái ở Quảng Xương, ở Thiệu Hoá, ở Nông Cống,
không ở
đâu tôi chịu đói. Tôi vẫn ăn vụng. Mỗi hôm đi họp đội, tôi lại tạt vào
chợ, vào
quán, mua kẹo, bánh đa ướt, có khi lùa vội bát bánh đúc chan canh cua.
Chỉ cốt
trông trước trông sau, không để ai nhìn thấy thôi. Mà biết đâu, suy
bụng ta ra
bụng người, có lẽ cả đội cũng thế, cũng ăn vụng.
Tôi bỏ gói bánh vào
cái túi đeo vai. Nhưng tôi vẫn nắm tay
Đơm. Trong mảnh áo rách vai, cái chân vú nần nẫn. "Em ngoan quá". Tôi
lấy trong khe quyển sổ ghi chép ra hai tờ giấy bạc một đồng kẹp trong
đấy.
“Cầm lấy, thỉnh
thoảng mua bánh đúc cho anh. Đừng để ai
trông thấy nhá. Anh đương phải ba cùng.”
“Em biết rồi.”
Đơm cầm tiền, đút vào
mép yếm.
“Em có cái túi hay
nhỉ?”
Tôi thò theo lách vào
ngực Đơm.
Đơm đẩy tay tôi ra.
“Rõ cái anh!”
“Anh xem cái chỗ để
tiền.”
“Ngoài này kia mà,
lại đi sờ vào trong.”
“Anh nhầm.”
Tôi lại thọc vào ngực
Đơm như vừa rồi. Lần này Đơm đứng tây
ngây, mặt đỏ lịm, để yên cho tay tôi vân vê.
Chập tối, tôi nói với
bác Diệc: "Đi bảo cậu Vách xem
còn người nào trong xóm cũng nghèo như cậu ấy thì rủ vào đây tối nay
họp rễ
chuỗi". Một lúc, mấy người lục tục đến, cả Đơm cũng được họp, mỗi người
tìm cái cột ngồi tựa vào. Im lặng, chờ tôi nói. Tối mít chẳng ai nhìn
thấy mặt
ai. Đến lúc bác Diệc thấy tôi mở quyển sổ túi xách mới vào bếp cầm ra
cái đèn
đom đóm như đêm trước.
Một bóng người cao
lớn lù lù vào cửa. ánh đèn vừa loé thấy
tư Nhỡ. Vẫn tấm áo năm thân lụng thụng, nhưng bộ râu ria đã cạo nhẵn,
mặt trơ
khấc, lơ láo trông khác hẳn.
“Chào các đồng chí!”
Vách đứng bật ngay
lên, sừng sộ.
“Ai đồng chí đồng
chuột với mày! Mày là thằng trưởng thôn
của đế quốc, ai bảo thằng tổ chức cũ đến đây. Anh đội cho thằng này họp
với
chúng tôi à?”
Tôi bước ra, nói nhỏ
với tư Nhỡ:
“Hôm nay chưa họp
xóm, tối mai.”
Tư Nhỡ tiu nghỉu quay
ra, mất hút ngay vào bóng tối.
Vách còn đay đi đay
lại hỏi người nào gọi thằng tư Nhỡ đi
họp rễ chuỗi. Ai cũng im thít, không ai nói và cũng bởi vì không ai
biết. Chỉ
tại tôi, lúc chiều ở nhà tư Nhỡ ra, tư Nhỡ theo, nằn nì: "Tối nay họp
à? -
Không hiểu sao, tư Nhỡ đã biết. Anh cho đàn em họp với". Tôi cũng ừ ào,
thế là nó cạo râu, đến.
Tôi mở sổ tay, mặc
dầu ánh đèn không thể nhìn ra chữ, tôi
cúi xuống làm như nhìn giấy rồi ngẩng lên nói một thôi, một hồi: ...
phóng tay
phát động... giai cấp nông dân đánh đổ giai cấp địa chủ... Tối mai họp
xóm tôi
công bố... tôi chỉ định đồng chí Diệc ra làm trưởng thôn xóm Am...
Vách hỏi:
“Thay thằng tư Nhỡ
à?”
“Giai cấp nông dân ta
từ nay làm chủ.”
Một mình Vách vỗ tay.
“Thế thì được.”
Tôi tuyên bố giải tán
cuộc họp.
Vách sửng sốt lại
hỏi:
“Còn cụng đầu tố khổ
kia mà.”
Tôi gạt đi.
“Vừa rồi thế cũng là
tố khổ. Chúng ta làm việc phải hết sức
khẩn trương.”
Tôi nói và đứng dậy.
Phải, họp cũng là tố khổ chứ còn gì.
Cái thằng Vách nửa điên nửa tỉnh này có thể rầy rà đây. Mọi người về
rồi, tôi
lại nằm trên cái chõng. Tôi lần túi lấy hai chiếc bánh đúc ngô của Đơm,
ăn xong
chỉ kịp nhớ quờ tay bỏ mảnh lá chuối vào túi dết rồi ngáy khò khò.
Sáng hôm sau, bố con
bác Diệc đã biến đi từ bao giờ. Không
biết Đơm đi đào chuột với bố hay lại lên chợ huyện mua bánh đúc. Bác
Diệc không
rủ tôi như hôm qua nói. Và bác tưởng tôi phải đi họp. Thôi thế cũng
may, bắt
chuột cũng khiếp như bắt rắn, những cái nợ đời gớm ghiếc ấy. Mà tôi
biết bụng
người ta chẳng ai dám thật lòng rủ đi làm. Anh đội bảo thì phải rủ
thôi. ở Nông
Cống, tôi cũng vác cuốc ra đồng, rồi quảy đất đắp đê, sưng tấy cả bên
bả vai.
Thấy tôi lớ ngớ ngứa cả mắt, lại đau vai, hôm sau anh rễ xin tôi cứ ở
nhà
nghiên cứu tài liệu, trông đỡ trẻ con và quét nhà. Thì ở đây cũng thế.
Tôi mở sổ tay ra, kê
lên ba lô. Người mẹ ốm như cái cọc bếp,
có cũng bằng không, tôi chẳng để ý đến. Thực tôi cũng không có việc
phải nghiền
ngẫm sổ tay. Tôi ngồi rình xem Đơm có về. Tôi nhớ cái vú nây nây. Con
mèo đợi
vồ chuột. Đêm ngủ say quá chứ thèm từ chiều hôm qua. Khác nào thỉnh
thoảng được
cái bánh đúc, nuốt hết rồi mà môi mép vẫn tóp tép. Nhưng không thấy Đơm
về.
Đến gần trưa, bác
Diệc lùi lũi vào cổng. Những vết bùn xám
xì lấm lên tận mặt. Không được con rắn con chuột nào. Chuột làng mới
chỉ đánh
hơi tìm hang mà chưa ra đồng ở. Về qua cái vũng trâu đầm, be lên, bắt
được mấy
con tép. Mọi khi thì ném vào cái chĩnh làm nước cáy. Nhưng nhà có
khách, đem nướng
cho bữa có mùi thịt cá. Không thấy Đơm cùng về. Đơm đi đâu? Hay bởi nồi
cơm cám
nuốt khé cổ buồn như chấu, chỉ có người mẹ không lạch đi được đành ngồi
nhai
nghẹn từng miếng. Chứ ai kiếm được cái ăn chỗ nào cứ việc đi, chẳng cần
bữa ở
nhà. Vắng cả những thằng cu con. Tôi với bác Diệc ngồi ăn bát cám có
mùi gạo
tấm, mùi tanh con tép, cũng dễ nuốt, hơi khác mọi khi.
Ngủ trưa dậy bác Diệc
đã lại đi rồi. Tôi vào góc bếp, cầm
một cái cào cỏ. Tôi vác cào lên, một bên vai đeo túi dết. Cả xóm biết
anh đội
đóng bộ đi làm đồng đấy. Ai chả biết anh đội làm trò, tôi mặc họ và
thản nhiên.
Tôi xắn quần, đi từ xứ đồng cao trong chân tre ra con ngòi sâu rồi lại
lội qua
mấy khoảnh ruộng trũng. Đương khi nông nhàn, đồng áng lơ thơ xa xa mấy
người
lúi húi cào cỏ. Thấy người lội đồng đội mũ, quần xoe trên gối, người ta
ngẩng
lên rồi lại cúi xuống quờ tay quanh gốc lúa. Anh đội, anh đội thăm đồng
đấy mà.
Tôi có thăm hỏi đồng
áng gì đâu. Đi guốc vào bụng những anh
đội mắt trố như mắt chó giấy, cái gì cũng lạ lại làm vẻ ta đã thạo.
Nhưng tôi
còn láu cá hơn cả những người có thể biết tôi vờ vẫn. Tôi cốt vác cào
cỏ, sục
mấy cái cho răng cào dính bùn và hai ống quần thì lấm tấm cỏ may. Tôi
ra cửa
đền ngoài chân đê hội ý đội. Làm bộ như tôi đi làm đồng về chưa kịp rửa
ráy, vác
cả cào cỏ đến thẳng chỗ họp.
Tôi bước lên đường
cái. Có người trong xóm chạy ra hớt hải
gọi:
“Anh đội! Anh đội!”
Tôi quay nhìn. Lại
thằng Vách. Tay Vách lăm lăm con dao bầu
sáng loáng. Tôi chợt hoảng. Thằng này nổi cơn điên hay sao. Nhưng nhớ
ra cái nghề
mổ lợn của Vách, tôi bình tĩnh lại.
“Gì thế?”
“Tôi bảo anh đội hai
câu này nhé, hai câu thôi. Có nghe tôi
mới nói.”
“Nói đi.”
“Tối hôm qua anh
không cho tôi tố thằng tư Nhỡ, tối nay họp
xóm tôi tố nó. Anh bảo phóng tay kia mà...”
“Còn câu thứ hai, nói
nốt đi. Đương vội đây.”
“Anh ra đền họp bí
mật với đội chứ vội quái gì.”
Rồi Vách cười khạch
khạch, giơ dao:
“Này tôi mách anh:
cái thằng Diệc làm rễ của anh là rễ thối
đấy. Con cái nhà địa, anh biết chưa?”
Tôi đứng nhìn Vách,
không biết nó lỡm hay thực.
“Tôi chỉ nói thế. Anh
đi hỏi cả làng này xem.”
Rồi Vách múa con dao
quăng quả đi. Tôi có cảm tưởng câu nói
của nó vừa rồi có lẽ là tỉnh, bây giờ hoa dao lên mới là điên. Tôi lặng
một
giây, rồi lại tiếp tục đi. Cũng chưa nghĩ ra thế nào.
Tưởng đến sớm, hoá ra
đội trưởng Cự và mấy anh đội bần cố ở
xã lên chưa có tiền sắm đồng hồ thế mà đã đúng giờ ngồi trong đền. Hai
anh đội
này sợ Cự một phép, việc gì nặng nhọc cũng xung phong. Cả cán bộ Đình ở
xóm bên
cũng đã đến. Lại ngỡ chỉ một mình mình cầm cái cào cỏ có vết bùn.
Không, xem ra
người nào cũng khoe ngầm ta vừa chân ướt chân ráo ở nơi bán lưng cho
trời bán
mặt cho đất về đây. Người thì cái giỏ đeo đít; người cái cuốc trên vai
hạ
xuống; có người quang gánh lõng thõng để ngoài thềm, cái thừng và chiếc
nõ xỏ
mũi trâu lăn lóc trong đám cỏ làm như đương đi đuổi trâu. Nhưng ai ấy
có khôn
mà chẳng ngoan. Sợi thừng gác bếp còn rơi ra cả tảng bồ hóng. Biết tẩy
nhau cả.
Mọi người nhìn nhau chỉ nhác một cái và lặng lẽ quay mặt đi.
Trong chân tường,
chuột đùn lên từng đống đất. ồ, mai ta bảo
bác Diệc ra đây mà hun chuột. Tôi chưa biết mùi thịt chuột thế nào,
nhưng đã
lâu chẳng được miếng thịt vào miệng, đã nghĩ thèm, thịt nào chẳng là
thịt. Mọi
người tới đông đủ. Chúng tôi như một bọn lén lút cờ gian bạc lận, kéo
ra đây
đánh xóc đĩa lột nhau giữa nơi hoang phế đồng không mông quạnh. Hoặc
như ngày
xưa, cánh cướp tụ bạ một chỗ đợi đêm tới bật hồng lên xông vào làng. Vẻ
mặt
người nào cũng ra chiều đăm chiêu, quan trọng. Chúng tôi đương làm thay
đổi cái
làng này, xã này. Cả nước đã đứng lên. Các tổ chức sẽ bị đánh đổ, bao
nhiêu địa
chủ và bọn bóc lột phải đạp xuống đất đen, chúng tôi phóng tay đưa bần
cố nông
lên vị trí và địa vị người chủ thực sự của đồng ruộng. Tôi đương làm
thế, tôi
đã làm thế, tôi đương làm từng ngày, từng ngày theo kế hoạch...
Tôi nhấc túi trên vai
xuống, kê cái cào, ngồi. Tự nhiên, tôi
liếc nhanh cái ba lô đội trưởng xem có lá bánh lòi ra không. Gớm thế,
cái đuôi
mắt có ve của Đình đã nháy tôi một cái. Không biết thằng thâm thiểm này
định ra
hiệu thế nào. Có lẽ cũng chỉ thông báo: không có gì trộm được của đứa
ăn vụng
khác đâu.
Tôi mở sổ tay ra nhẩm
việc. Đã bắt được rễ, rễ cái chắc
chắn. Đã họp rễ chuỗi. Chắc là cái thằng chuỗi điên dèm pha bác Diệc
thôi. Ta
phải quyết chứ. Tối mai họp xóm, giúp cho Diệc đứng vị trí vai trưởng
thôn.
Nguyên tắc: làm kỹ nhưng không được làm thay. Các bước sau còn dồn dập,
còn
nhiều cái khó. Đã nắm được tình hình xóm và tổ chức cũ. Cứ báo cáo cách
ăn nói
của Vách và cuộc thăm dò nhà tư Nhỡ, đi sau đi sát đến thế chứ thế nào.
Có ba
hôm làm những ngần ấy việc.
Nhưng tôi vẫn còn lờ
ngờ. Ai cũng trình bày sôi sùng sục.
Chưa đến lượt tôi, nhưng thoáng so sánh, việc mình làm đâm ra chỉ bằng
con muỗi
mắt. Họ giỏi thế thật hay sao? Đội trưởng Cự đứng băm cả hai bàn tay,
mắt đỏ
đòng đọc. Lợi dụng lúc ấy, tôi đá ngầm cái đít túi dết. Quả là chỉ vấp
cái mép
bìa sổ cứng.
“... Liền hai đêm đội
họp rễ chuỗi. Cụng đầu tố khổ luôn,
bộc lộ tức khắc tình hình. Tinh thần nông dân lên, chặn đứng mọi thủ
đoạn âm
mưu địa chủ. Đêm qua họp xóm tố khổ suốt sáng. Phải cản lại chứ nhiều
người cầm
dao vừa chạy vừa khóc đi tìm địa chủ (Tôi nghĩ bụng: - ờ mình đụt thật.
Tưởng
chưa đến bước ấy. Không sao. Sẽ báo cáo đã tố khổ suốt đêm, suốt hai
đêm). Đến
sáng, tất cả đầm đìa nước mắt. Tôi cũng khóc. Cái khổ như núi đè xuống,
phải
cứu giai cấp nông dân. Không đợi họp xóm, chưa đưa rễ lên làm trưởng
thôn mới,
cứ tập thể rễ chuỗi là trụ cột rồi. Tôi đã xin được lệnh đoàn uỷ cho
bắt bí thư
chi bộ xã, thằng bí thư hai mang. Hai tên khác có nhiều hối cải nên cho
canh
gác khống chế tại nhà. Xóm nào cũng phải phòng đưa nhân sự lên. Lấn
bước sau,
để có thì giờ dự trữ làm kỹ. Thế là đội ta đã chiếm lĩnh trận địa, dựng
được
một đầu cầu vững chắc ở thôn Đìa. Các xóm khác cho biết tình hình thế
nào?”
Đình còn hăng hơn đội
trưởng:
“Tôi đến đây họp thì
ở nhà rễ chuỗi còn đương cụng đầu tố
khổ, quên cả cơm trưa. Trưởng thôn cũ nghe mong manh đã chạy trốn, tôi
cho đuổi
tóm được giải về cũi vào chuồng trâu rồi.”
Lúc đội trưởng Cự bắt
bí thư và cho du kích canh gác nhà địa
thì tôi câm như hến. Nhưng nghe cán bộ Đình nói thế tôi đứng phắt lên:
“Phải có biên bản,
tôi ký đề nghị bắt đã chứ. Tôi đội phó
phụ trách toà án. Phóng tay, nhưng đúng pháp luật mới được.”
Đội trưởng Cự nói như
quát:
“Đồng chí Bối phát
biểu đúng.”
Tôi phổng mũi nhưng
lại xẹp mũi liên tiếp, khi đội trưởng
vẫn nói:
“Song không thể lề
mề, lối bàn giấy như đồng chí Bối, thế
thì xổng bu, xổng chuồng, chúng nó chạy ráo. Cứ như đồng chí Đình, đến
khi bắt
đầu bước hai, đội đặt văn phòng cố định bấy giờ bày biện giấy tờ ra
cũng vừa.
Bây giờ cứ miệng nói tay làm, nhanh nhanh lên, nhanh lên.”
Tôi chưa định thần
thì đội trưởng trỏ tay, đến lượt tôi báo
cáo. Đã nghe mấy thôn rồi, tôi biết cách thêm chi tiết dấm ớt, hơn hẳn
những
tính đếm dự định lúc mới đến. Riêng việc thằng Vách đón đường mách Diệc
có liên
quan địa chủ thì tôi giấu. Nói ra chỉ rắc rối, mà còn phải kiểm tra đã.
Báo cáo
tình hình thôn Am...
“Không được thì thào
chuyện riêng. Nghe thôn Am...”
Tôi thao thao dõng
dạc, mạch lạc, tự tin, như thật. Không dữ
dội bắt bớ, nhưng đúng phăm phắp bài bản ba hôm đầu tiên xuống xã.
“Các đồng chí góp ý
kiến với thôn Am nào. Mau lên, tối nay
còn họp xóm cho kịp lịch công tác.”
Bên kia đê, mặt trời
đã xuống vàng khé. Bỗng nhiên đội
trưởng Cự choảng tôi chan chát:
“Đồng chí Bối bắt
ngay được rễ, lại xâu chuỗi, cụng đầu tố
khổ rồi nắm tình hình xóm và đi xem xét đồng ruộng, thế là ưu điểm.
Nhưng mà ưu
điểm ấy chỉ để thằng biết võ đánh nhau với thằng biết võ. Kẻ thù không
cần như
thế, đồng chí còn đương múa may ra võ, nó đã thò tay bóp dái đồng chí
ngã lăn
đùng ra rồi. Nó phá ngay trước mặt mà đồng chí không biết gì cả. Cái
thằng
khiêu khích, thằng Vách ấy phải gô cổ nó lại, sao lại để cho nó họp
chuỗi.
Không được, về cho bắt ngay. Phải gác nhà thằng tư Nhỡ, nội bất xuất
ngoại bất
nhập. Thằng này vờ vẫn mua chuộc cán bộ đấy.”
*
Tháng ba năm ấy, làng
vào hội lệ.
Xưa nay, làng này
chẳng có hội bao giờ. Chẳng phải vì sự
tích ông thần hoàng, vì cái hèm có kiêng kỵ, mà bởi làng nghèo không đủ
người
có tiền giắt lưng đóng góp được xuất việc làng. Đến ngày kỵ thánh hàng
năm cũng
chỉ có mâm xôi con gà, thẻ hương của hội tư văn biện lễ. Rồi thì gặp
năm phong
đăng hoà cốc, được vẻ no ấm mới gọi phường xứ Đông sang hai ba đêm chèo
hát.
Thế thôi, mọi thứ chỉ thèm mà không có rồi đi xem hội, đi xem rước làng
khác.
Con trai, con gái nô nức đi nhòm ngó cái vui của người ta. Có lẽ bởi
thế mà con
gái làng, như cái Duyên, nhiều đứa lấy chồng thiên hạ.
Tiếng trống chèo rộn
từ chặp tối. Bốn bên lặng phăng phắc,
người đã đổ ra bãi cỏ cây đa đầu làng. Nhà trên, nhà dưới, ngoài vườn
nhà lão
phó Thìn cũng im lìm như mọi nhà cả xóm. Lần lần vào đêm, tiếng mõ,
tiếng
trống, tiếng thanh la xa xa cứ thanh mảnh, giòn tan, có lúc trong gió
vẳng lại cả
tiếng hát ơi ới.
Trong nhà vắng người,
những con mối đuổi nhau vờn nhau trên
vách, kêu roèn roẹt, rồi lại im như tờ. Dưới nhà ngang - ngày mùa vào
vụ chiêm
hay tháng mười, thợ cày thợ cấy, thợ gặt đến ở, kẻ ăn người làm tấp nập
ngày
đêm như phiên chợ. Cả khi vãn vụ cũng còn lại mấy người ở mướn quanh
năm trông
nom vườn ruộng.
Đã gần nửa đêm. Bên
kia những khoanh tre, tiếng trống, tiếng
gõ beng beng sắp tan trò cứ sôi lên rồi lại phẳng lặng. Ngay từ sau cơm
chiều
với mấy chén rượu lão phó Thìn đã ngủ được một giấc, bấy giờ trở dậy.
Lão ra
sân, bước thong thả, không ra đi dạo, không đi canh nhà. Mà thói quen
như đi
tuần, như đốc phu, đêm nào cũng từ lúc ấy đến sang canh, tay cầm cái
gậy tre,
lão rà rà trên sân gạch xuống sân đất ra ngõ cổng tán rồi ngoài bờ luỹ.
Cho đến
lúc nghe tiếng con vạc đi ăn đêm về bay qua ngọn cây dừa, lão mới vào
nhà, lại
ngủ lại cho đến sáng bạch.
Những đêm chèo hát
thế này, lão phó Thìn còn thức đợi bọn
người làm đi xem về, soát chúng nó đóng cửa có cẩn thận không, thường
khi cứ
phải chốt lại. Phó Thìn đứng ở cổng trong, cạnh bụi chuối, ánh trăng
nhạt thấp
thoáng những người đi chơi về không trông thấy, mà có nhìn thấy chắc
cũng biết
lão hay đứng như ma xó, chẳng phải rình mò gì. Nhưng phó Thìn đã đếm
từng người
vào. Lão lẩn thẩn đếm chơi, mà cũng thử xem thừa thiếu thế nào, ngộ có
đứa phản
chủ dắt đất đem kẻ cướp vào thì sao.
Người đã về cả, lão
ra mó máy những cái then, cái chốt đã
cài, đã nêm kỹ chưa. Những tối thường ngày cũng làm thế, có vậy lão mới
vào ngủ
lại được.
Diệc về sau cùng. Lão
trông thấy bóng thằng Diệc cởi trần đi
lênh khênh. Diệc ở nhà ông phó đã lâu. Diệc mồ côi cha mẹ, Diệc đã đến
ở làm
nhà này từ năm Diệc còn để chỏm, chưa nhấc nổi cái cày, chỉ xách nước
và đi cắt
cỏ suốt ngày. Lão phó Thìn nổi cơn tò mò. Quái sao thằng Diệc lại đi
sang phía
bếp, chúng nó ở bên nhà ngang cơ mà.
Bếp có một gian, gian
bên đựng củi, thùng rơm và chạn bát.
Bên trong, con Khoèo ở. Nó không nói, không đi được. Để ở nhà trên
không tiện
cơm nước và mọi thứ. Lão cho vảy thêm một trái làm cái ổ cho Khoèo.
Nghĩ đến con, lão phó
Thìn khi nào cũng rầu rĩ trong lòng.
Như là thói quen đi rà rà trong nhà ra vườn ra luỹ rồi mới về chợp mắt
lại
được. Nhưng đây không phải giấc ngủ mà là nỗi lo, là sự đăm chiêu cả
đời. Vợ
chồng lão đông con, đủ nếp tẻ, đều đã nên người, dẫu lấy vợ lấy chồng
làng hay
ở xa thì cũng cơ ngơi đầy đủ cả. Chỉ còn một cái khốn khổ này. Sao mà
lại sinh
ra cái quái, cái nợ thế. Không khi nào lão dám nghĩ hơn nữa.
Thằng Diệc kia đi vào
trong bếp làm gì. Lão chỉ nghĩ thấy lạ
thế thôi, chứ lão cũng không sinh nghi. Thằng Diệc hiền như đất, không
phải đứa
trộm cắp. Mà trong bếp cũng chẳng có của nả để lấy và lão cũng không
mảy may
ngờ nó có tình ý ra sao với cái con Khoèo bộ xương ngồi xương nằm. Mà
trời ơi,
con Khoèo cũng ngoài hai mươi tuổi đầu, nhưng mà nó có phải là người
đâu, nó có
được làm người đâu, nó là cái phúc cái tội của nhà này thế nào đây.
Nhưng trông thấy Diệc
đi tới, lão phó lý chợt nảy một ý
khác, lão phó chưa nghĩ ra thế bao giờ.
Diệc đã trông thấy
ông phó trong bụi chuối ra. Diệc chẳng lạ
cái tính ông phó hay rà rẫm đêm hôm các xó xỉnh như thế.
Diệc chắp tay:
“Ông chưa đi nghỉ.
Con đã chốt cẩn thận cổng tán, cổng trong
rồi.”
Lão Thìn vẫy cái gậy.
“Đứng lại, tao hỏi.
Mày vào bếp làm gì?”
“Con không vào bếp.
Con đứng đái chỗ nồi nước thiếc ở
ngoài.”
Lão Thìn sừng sộ.
“Đừng có chối. Ông đã
trông thấy, ông đã biết, ông đã đi
guốc vào đầu mày rồi.”
Nói thế, ông phó Thìn
lại dịu giọng, rẽ rọt buộc mở từng
câu:
“Mày vào trong bếp
với con Khoèo. Thôi tao cũng cho phép,
đừng lén lút nữa mà tội nghiệp, tao cũng thương. Tao cho mảnh đất đầu
đồng mà
làm cái nhà, vợ chồng đem nhau ra đấy ở. Rồi làm hai miếng ruộng ở đồng
cao ấy,
tao cho. Tao cho không, nghe chưa?”
Diệc dạ nhịp. Diệc đã
ngoài ba mươi nhưng biết là cái kiếp
đi ở nợ cả đời rồi. Chưa bao giờ dám có ý nghĩ lấy vợ. Chẳng cơn cớ nào
có thể
để cho dám thế được.
Ông phó đã nói thế,
thế là thế nào. Thoạt đầu, câu nói lạ,
khiến Diệc thảng thốt, Diệc nghe chưa thủng, đến lúc Diệc nghe ra rõ
ràng thế
rồi thì lại thấy êm êm.
Một hôm, Diệc khiêng
mấy cây tre ngâm trong ao ra, rồi dỡ
cây rơm, quảy mấy gánh. Diệc lội ao vét bùn lên trộn trấu, ai hỏi bảo
để chát
bức vách. Chẳng mấy lâu, người đi qua đã trông thấy một túp nhà mái rơm
mới.
Đêm kia, trăng sáng
nhàn nhạt như cái đêm hát chèo ngoài bãi
cây đa. Diệc vào trong trái bếp, xốc cái Khoèo lên. Diệc vẫn cởi trần
như đêm
đi xem hát. Diệc cõng cái Khoèo ra nhà mới - cái nhà vẫn ở đến tận bây
giờ.
I II III IV V
Nguồn: Nhà xuất bản
Đà Nẵng, 2006. Bản đăng trên talawas với
sự đồng ý của tác giả.
[1]Những bần nông, cố
nông Đội Cải cách lấy lên làm cán bộ
đội được gọi là rễ, chuỗi.
[2]Tiếng Pháp, nghĩa là: Cái lều một
trăm năm.
Các bài liên quan
(Một số bài viết về Ba người khác trên
talawas)
Lại Nguyên Ân: Về tiểu thuyết "Ba
người khác"
Phạm Xuân Nguyên: “Tuồng ảo hóa đã bày
ra đấy”
Nguyễn Xuân Khánh: Đọc “Ba người khác”
của bác Tô Hoài
Nguyễn Hữu Sơn: Ba người khác của nhà
văn lớn Tô Hoài và ba
dòng suy ngẫm của một người đọc