Đọc Thơ Trẻ,
Ở Trong Nước
Sự
thành công của những nhà thơ trẻ như Phan Huyền Thư , Vi Thùy Linh, ...
liệu có thể giải thích như là "sự thất bại của thành công", của lớp nhà
thơ đàn anh, hay nói một cách khác: Ở nơi nào có người chết, ở đó có hy
vọng?
Chúng
ta sẽ cùng nhìn vào cõi "Tôi Âu Cơ một mình" của họ, trên TIN VĂN.
*
Đọc
Thơ Trẻ, Ở Trong Nước
Con
đường đê mang tên Âu Cơ đổ xuống đường Lạc Long Quân giấc mơ trăm trứng,
Em Âu Cơ một mình.
.....
Em
một mình Âu Cơ.
Sống
đồng nghĩa với sáng tạo. Và thơ, là sự thăng hoa của ngôn ngữ và cảm
xúc để cứu rỗi và tôn vinh Con Người, bắt đầu từ bản năng thuần khiết".
VTL
Thơ
sống ở những miền sâu thẳm nhất của hữu thể, trong khi những ý thức hệ,
và tất cả những gì mà chúng ta gọi là tư tưởng và quan điểm tạo thành
những tầng hết sức mỏng manh hời hợt của ý thức.
Octavio Paz (1)
Thế
giới bao la,
nhưng trong em, ôi sao sâu thẳm (2)
Ôi,
phải già cỡ nào mới chinh phục được tuổi trẻ?
Mới sống nhịp đời hối hả, như em? (3)
Đàn
ông những năm bốn mươi,
không còn yêu mình nữa.
Lũ
con gái mười lăm
đêm nằm
khóc.
Mỗi
sáng
yêu
một thất vọng tạm thời.
Em
là con ngựa đau chẳng khiến tàu thèm bỏ cỏ
buồn
tập tễnh
về ăn giỗ mình
PHT
Từ
đầu năm 2001, các báo và tạp chí Người Hà Nội, Văn Nghệ Quân Đội, Lao
Động, Văn Nghệ, Đại Đoàn Kết, Giáo Dục và Thời Đại... và gần đây nhất
là Tia Sáng đã đăng nhiều bài xung quanh hiện tượng mang tên Thơ Trẻ.
Để cuộc trao đổi ấy không lắng xuống rồi chấm dứt hẳn mà chẳng để lại
gì nhiều ngoài những điều không nói được và lòng tin vào sự vô nghĩa
của thảo luận, chúng tôi xin tiếp tục dành cho nó một diễn đàn. Mong nó
đi xa hơn, vượt khỏi những giới hạn đã làm nó tự chùn. Mong nó mở rộng
hơn, đến cả bộ phận không thể tách khỏi văn học tiếng Việt là thơ Việt Nam
tại hải ngoại. Và mong đặt nó vào tương quan với những tranh luận và
thành tựu thơ thế giới.
Theo
quan niệm của chúng tôi, cuộc trao đổi gần hai năm qua về Thơ Trẻ thực
ra bắt nguồn từ một bài viết của nhà thơ Hoàng Hưng năm 1993, bài "Thơ
Việt Nam
đang chờ phiên đổi gác “. Sau đây chúng tôi xin lần lượt giới thiệu
những bài viết chính của cuộc trao đổi đó, mở đầu bằng bài nói trên.
[Diễn
Đàn Talawas]
Hoàng
Hưng
Thơ
Việt Nam
đang chờ phiên đổi gác
Năm
trước, một bạn nhà báo dự định làm cuộc phỏng vấn các nhà thơ chỉ với
hai câu hỏi.
Một:
Bạn vẫn làm thơ, bạn có điên không?
Hai:
Bao giờ Thơ chết?.
Dĩ
nhiên tòa báo không chấp nhận cho thực hiện cuộc phỏng vấn nhiều tính
“khiêu khích” trên, nhưng thực tình, hai câu hỏi của bạn tôi có đầy đủ
sự nghiêm túc và hợp thời. Bởi người ta đang chứng kiến sự ghẻ lạnh của
công chúng với Thơ – Riêng đối với tôi, dấu hiệu lâm nguy rõ nhất của
Thơ Việt Nam là thế hệ hai mươi tuổi không hiện diện trên thi đàn,
trong khi những tên tuổi quan trọng nhất đều nằm trong lớp “lão niên”
và “trung niên thi sĩ”.
Tưởng
nên nhớ lại rằng: 60 năm trước, tất cả các nhà “Thơ Mới” đã nhất tề làm
nên một thời đại thi ca ở tuổi 20. Chế Lan Viên mới 16 đã xuất hiện
“như một niềm kinh dị”. “Hèn” hơn nhiều, như thế hệ “chống Mỹ” chúng
tôi, cũng đã làm nên một cái gì đó khi chưa đến 30 tuổi.
Sau
năm 1975, những người trẻ đến với thơ nhìn chung đã không ghi được dấu
ấn của một thế hệ, họ giống như một sự kéo dài muộn màng của các thế hệ
trước. Rồi đến thời “kinh tế thị trường” thì nguy cơ “dứt cái thơ ngàn
năm” quá rõ.
Trong
tình cảnh ấy, tôi thật ngỡ ngàng khi một cô gái 20 tuổi mang đến một
quyển vở dày chép đầy thơ – đúng hơn là những trang nhật ký viết từ năm
cô 18 tuổi. Chị nhờ tôi đọc, chọn giùm để in một tập thơ. Sự tò mò của
tôi nhanh chóng biến thành vui sướng. Tôi đang thấy trước mắt cái mà
mình chờ đợi từ rất lâu, sự chờ đợi sắp trở thành vô vọng: một giọng
điệu, một nhịp điệu, một cách cảm, và hơn thế, một thẩm mỹ mới về Thơ.
Ðây là Thơ của lớp người trẻ lớn lên trong môi trường đại đô thị – có
nghĩa là chủ nhân tương lai của một nước Việt Nam hiện đại hoá.
Chinh
Lê, tên cô gái, chỉ cần vài câu để dựng cả một không khí đời sống đô
thị: phòng tranh, quán càphê, đường phố mưa, cảnh quay phim... Nhịp
điệu thị trường hối hả ghi nhận ở một cửa hàng bách hoá. “Ðến rồi
đi/Ðưa rồi lấy/Cười rồi thôi/Hỏi rồi đứng/Ðứng rồi đi/Mặt đối mặt/Tiền
đứng giữa/Lời cắt cụp”.
Chị
rất sớm cảm nhận được sự cô đơn tận cùng của cá thể giữa cái lạnh giá
của thời đại kim khí. Hình ảnh cô bé con “lần chân” trên đường ray tàu
điện tuy vậy không làm ta mủi lòng, vì cô bé đầy tự tin. Cô “thôi miên
nó” và biến nó thành phương tiện cho mục đích của mình: “Cả thế giới
chỉ một mình tôi/Cái lạnh ngắt – trơn bóng/Ðưa tôi về quê ngoại” (Hà
Nội).
Hãy
so sánh bước đi của cô bé hôm nay với lời khẩn cầu của chàng trai 17
tuổi 60 năm trước để thấy khoảng cách giữa các thế hệ thơ: “Ai ơi trở
lại mùa thu cũ/Nhặt lấy cho tôi những lá vàng/Và của hoa tươi muôn cánh
úa/Về đây đem chắn nẻo xuân sang” (Thơ Chế Lan Viên).
Người
con gái 18 tuổi này còn hơn một lần làm tôi giật mình bởi năng lực
“bắt” được cái vô hình, cái trừu tượng. Chị nhìn ra hình khối tinh thần
của một đám đông được quay phim: “Không chút sợ hãi/Họ trở thành/Một
tập thể trống rỗng” (Buổi quay phim).
Nghe
điện thoại mà chị nhận ra “tiếng rè rè của không gian sâu thẳm”. Quý
lắm, nếu nhớ rằng văn, thơ, nghệ thuật truyền thống của ta rất ít khi
mở ra được chiều siêu hình – cũng dễ hiểu vì đó không phải điểm mạnh
của tư duy tiểu nông.
Những
bài thơ đầu tiên của Chinh Lê được giới thiệu trên các báo Lao Ðộng,
Tuổi Trẻ, Sông Hương, cũng như tập thơ gần 50 bài của cô sinh viên Ðại
học Mỹ thuật do NXB Văn Nghệ TPHCM xuất bản năm 1990 đã không gây được
sự chú ý của công chúng vốn quen nghe những âm điệu du dương tiền chiến
hoặc dễ phấn khích với những ý tưởng chính trị, những bức xúc xã hội
phát ra bằng văn vần.
Thế
là sự thất vọng của tôi chuyển đối tượng: Tôi bắt đầu nghĩ rằng lớp trẻ
đã tiềm tàng những nhà thơ đích thực của họ, mà “sự già nua của chúng
ta đang đè nặng thi đàn không cho phép lộ diện” (tham luận tại Hội thảo
về Thơ Mới tại TPHCM tháng 12.92). và tôi bắt đầu chăm chú.
Ðầu
năm nay, vô tình, một cuốn sách nhỏ của một NXB địa phương rơi vào tay
tôi, cuốn “ Mây bán đảo ” do nhà thơ Hoàng Minh Nhân tập hợp sáng tác
của những cây bút mới Quảng Nam – Ðà Nẵng. Hai cái tên xuất hiện trên
mục “Thơ của cây bút mới” của báo Lao Ðộng lần này gây tiếng vang đáng
kể trong làng thơ.
Lê
Thu Thuỷ với tứ thơ táo bạo: “Ðêm/Chúa ở chỗ nào cứ ở nguyên chỗ
ấy...”. Ðể kết thúc bằng sự khẳng định thân phận trần thế của con
người: “Tôi nhỏ tí như một vì sao lạc/Lũ gián bò lặng lẽ đến rờ tôi”
(Ðêm). Bài thơ viết năm 18 tuổi. Sau đó, cô sinh viên Ðại học Ngoại ngữ
Ðà Nẵng gửi cho tôi một tập thơ đã xuất bản năm 1991 (lúc 19 tuổi) ở Ðà
Nẵng (*Thơ cho Isaura). Tập thơ xứng đáng được ghi nhận vì giọng điệu
mới lạ trong thể thơ bậc thang đã lâu bị quên lãng nhưng được chị làm
mới trở lại một cách dễ thương. Tập thơ có nhiều bài khiến tôi phải
ngạc nhiên vì cái nhìn đầy bản lĩnh về thế giới, vũ trụ, loài người,
trong cái cảm vẫn hồn nhiên nghịch ngợm của cô học trò ương bướng,
thách đố. Tiếc thay, tập thơ cũng đã chịu chung số phận với người bạn
đồng lứa ở Sài Gòn.
Người
thứ hai là Lê Viết Hoàng Mai, cũng sinh viên Ðà Nẵng. Tôi mới đọc vài
bài của cô, nhưng tôi cho bài “ Hẹn chị trên đồi cỏ úa ” mà báo Lao
Ðộng giới thiệu là một trong những bài thơ tình độc đáo và xúc động
nhất. Ðây là thơ của một người con gái thương một người con gái vất vả
lỡ thì. Bài thơ rất thực thà, dân dã: “Chị tôi đen/sấp ngửa nắng mưa
trên cánh đồng nứt nẻ/ra đường chị te tái chạy/duyên đâu?/mà để tìm
chồng” để rồi hạ một câu kết bàng hoàng thật nhân bản: “Ước chị hoá đàn
ông/hẹn chị trên đồi cỏ tía” . Sắc cỏ này thật là thời đại, nó không
vàng ảo não như đã thành sáo trong tiền chiến, không xanh mướt một cách
thông dụng dễ dãi mỗi khi nói về tình yêu. Sắc tía này có sự cứng cỏi
và có vị đắng. Còn cái hẹn ước ở đây, giữa hai người đàn bà, dù được
cẩn thận rào đón (ước chị hoá đàn ông), cũng thật là thấm đượm tinh
thần thời đại!
Ba
cây bút trên có điểm chung là phóng bút nhanh, bao quát gọn, đường thơ
bất ngờ, câu sắc, kiệm lời. Tôi nhìn thấy bóng dáng những cô gái cưỡi
xe phân khối lớn lướt vèo trên đường phố.
Nhật
Lệ thì phức tạp, dùng dằng hơn. Cô gái gốc Quảng Bình học ở Huế, sống ở
TPHCM này giãi bày suy tư trong một tâm thế vừa xô đẩy vừa giằng co.
Băn khoăn tự nhận dạng thế hệ mình, chị cảm nhận được sức mạnh của bản
thân nhưng không giấu giếm sự bất lực và lo sợ trước thế giới “người
lớn”: “Tôi thích dùng những động từ mạnh, những hình dung từ treo ngược
chính tôi/Nhưng tôi chưa thấu hiểu/Cái gì mạnh, cái gì đáng sợ treo
ngược con người” ( Năm tôi 23 tuổi ).
Trong
tình yêu cũng thế, khước từ đi liền khẩn khoản, hoài nghi rồi lại cuồng
nhiệt, càng phân tích lại càng rối rắm. Nhưng cuối cùng, chết gục trong
hạnh phúc bao giờ cũng là khao khát của thế hệ hiện đại này, như lời
tuyên ngôn của Nhật Lệ: “Những con thiêu thân nằm duỗi cánh trên
đồng/Cuộc sống của chúng được chôn trong ngày hội.../...Anh chẳng cần
biết gì nhiều về em/Hãy biết một con sói cần làm gì khi con mồi bật
khóc” ( Nếu như anh biết yêu em).
Những
giọng điệu mới này đã được công chúng năm 1993 đón nhận. Thế là việc
phải đến đã đến, hay nói cách khác, cái gì cũng phải chờ đến lúc của nó!
Cuộc
thi Thơ báo Văn nghệ TPHCM vừa qua, Nguyễn Quyến, học sinh vừa tốt
nghiệp phổ thông trung học ở một tỉnh trung du phía bắc là phát hiện ý
nghĩa nhất của nó. Ðến nỗi nhiều người coi việc anh không được giải
thưởng vì phạm quy đã khiến “chông chênh” cả giải.
Không
ngoa, nếu so sự mới lạ của anh với vẻ cũ kỹ khó gây ấn tượng của hầu
hết các giải được trao. Trước đó, Nguyễn Quyến tham gia “ Nhóm thơ
Thanh Xuân ” (Hà Nội) do Nguyễn Quang Thiều sáng lập và cũng mới giật
giải thưởng lần thứ nhất của nhóm này (chỉ có 50.000đ!). Anh cũng đã tự
in một tập thơ riêng (“ Mưa ban mai”).
Người
ta sửng sốt vì tài tung phá ngôn từ của cậu học trò 18 tuổi: “Không còn
gì đón phía trước/Không còn gì đợi phía sau/Nhìn cỏ cây bằng cái nhìn
vàng úa/Nhìn sỏi đá bằng cái nhìn nhớp nhúa” ; những “triết lý” ngược
ngược, hay hay kiểu như: “Không phải ta khát mặt trời mà chính mặt trời
khát ta/Không phải ta khát cặp môi em mà chính ta khát cặp môi ta” .
Cũng
theo con đường của Nguyễn Quang Thiều: Ðưa cách nói mới, kỹ thuật mới
(của phương Tây) vào những đề tài quen thuộc của đời sống nông thôn
(Việt Nam),
nhưng Nguyễn Quyến hấp dẫn hơn nhờ cái giọng sôi nổi của tuổi trẻ. Kể
ra có hơi “ồn” và lắm khi biểu diễn lý sự, nhưng cũng quý như bất cứ nỗ
lực nào “vần” bánh xe thơ đi tới.
Trong
khi phần lớn các nhà nghiên cứu, phê bình, giảng dạy vận dụng kiến thức
thi pháp giữa thế kỷ XIX để bàn, giảng, đánh giá thơ hôm nay, rõ ràng
cái thiếu nhất để thế hệ thơ hai mươi tuổi làm nên chuyện là những
thông tin đáng tin cậy về mỹ học nói chung và thi pháp thơ nói riêng
của nhân loại thế kỷ XX, tương tự những điều mà các bạn đồng lứa của họ
bên hội họa được hưởng. Dẫu sao, năm 1993, này, mối ưu tư của tôi đã
được giải tỏa: Thơ Việt Nam
đã tiềm tàng một kíp đổi gác để sống sót qua thiên niên kỷ mới.
Sài
Gòn, tháng 11.93 (Lao Ðộng Xuân 93).
Hoàng Hưng có thể là người đầu tiên nhận ra hiện tượng thơ trẻ, nhưng
hai câu hỏi của ông, (Bạn vẫn làm thơ, có điên không đấy? và Bao giờ
thì Thơ chết?), thật sự không trực tiếp liên can tới Thơ Trẻ. Theo tôi,
nó bắt nguồn từ câu thơ nổi tiếng của Holderlin: Tại sao thi sĩ trong
một thời khốn kiếp như thế này? (bản tiếng Pháp: Pourquoi des poètes en
temps de détresse?: Tại sao thi sĩ trong thời khốn khổ đọa đầy?), và
"Sau Lò Thiêu mà còn làm thơ thì thực là dã man", của triết gia Adorno.
Hơn
thế nữa, cái khoảng cách giữa Chế Lan Viên tiền-cách mạng và những nhà
thơ được Hoàng Hưng nhắc tới, và cõi thơ "Tôi Âu Cơ một mình", là một
khoảng cách khá dài, và cần rất nhiều giả dụ, đề xuất...
Trong
bài viết "Thơ của tôi không dành cho bạn", Phan Huyền Thư hình như đã
nhìn ra khoảng cách đó, nghĩa là khoảng cách mà tôi gọi là không có thơ
- cái thời đại khốn kiếp - khi đưa ra thách đố cho Thơ Trẻ: nó có lẽ sẽ
làm cái phần còn lại, tức cái phần mà lớp thơ đàn anh bỏ lỡ, khi cố
tình đẩy thơ về với đám đông, với cách mạng. Bởi vì, nên nhớ một điều,
và điều này thật quan trọng: Trong bài viết của Hoàng Hưng, ông không
hề nhắc đến những dòng thơ của một Chế Lan Viên, khi đã về với cách
mạng, hoặc một dòng thơ của chính ông, cho dù tự hào "Hèn" [tôi thích
từ "Mèng"] hơn nhiều, như... Và khi ông trích dẫn câu thơ "Nhưng tôi
không thấu hiểu/Cái gì mạnh, cái gì đáng sợ treo ngược con người..."
ông đã hiểu, như chính tác giả những câu thơ đã hiểu: Hơn cả một chế
độ, cho dù toàn trị, là một cõi người không có thơ: Cái thời đại khốn
kiếp!
Cũng
theo một cung cách như vậy, Kundera đọc Kafka, và tìm ra bao nhiêu chi
tiết thơ, trong một cõi không thơ...
Nhìn
vào cõi "Âu Cơ một mình" của họ, liệu chúng ta có thể cảm nhận, điều
này: Thay vì một chủ nghĩa anh hùng đầy thi vị chết người "đường ra
trận mùa này đẹp lắm", là một chủ nghĩa anh hùng của điêu đứng và tiều
tụy ("un héroisme de la détresse et de la souffrance", chữ của Walter
Benjamin, khi viết về nhà thơ Baudelaire), và từ đó, là tuyên ngôn về
một "thơ của tôi không dành cho bạn": bởi vì thơ của tôi chỉ là tiếng
kinh cầu của cơ thể, của thân xác, của trái tim của tôi, theo nhịp điệu
của bản năng thuần khiết....?
Có
thể có người "ôi dào", vẫn chỉ là ca tụng thân xác! Nhưng, thay vì
"dolce vita", "buồn ơi chào mi" của một Âu Châu hậu chiến, ở đây là một
chán ngán, và khổ đau, và người đọc chắc có thể đã mường tượng ra, sợi
dây dẫn từ những dòng thơ mở đầu thơ trẻ, từ con bọ, con gián rờ mò
tôi... tới bữa tiệc nhân sinh: về ăn giỗ mình.
Bài
viết của Hoàng Hưng, theo tôi, "hỏng" ở cái tựa đề, và ở câu kết luận.
Phiên gác: Gác cái gì? Tại sao gác? Nếu thơ vẫn cần phải có người gác,
thì thà đừng sống sót qua thiên niên kỷ: Thay vì tên lính gác, hãy chết
đi, rồi rữa ra, làm phân bón cho tân thiên niên kỷ, như Nguỵ Kinh Sinh,
một nhà tranh đấu cho nhân quyền người Trung Quốc, từng mong muốn cho
thế hệ của ông.
Thơ
trẻ chiều nay chưa tới, nhưng ngày mai sẽ tới (PHT). Tôi sợ rằng, ngày
mai cũng vẫn còn anh lính gác ở trước bữa tiệc nhân gian, bữa tiệc thơ,
hay
bữa giỗ của mình...
Chú
thích:
(1):
"La poésie vit dans les couches les plus profondes de l'être, alors que
les idéologies et tout ce que nous appelons idées et opinions forment
les strates les plus superficielles de la conscience." Octavio Paz,
L'Arc et la lyre, Gallimard, p. 47. Henri Meschonnic trích dẫn, trong
Nói Về Thơ I (Pour la Poétique I, nhà xb Gallimard).
(2).
Mô phỏng nhà thơ Rilke, qua bản tiếng Pháp:
Le
monde est grand mais en nous il est profond comme la mer.
(3).
Mô phỏng nhà thơ Victor-Émile Michelet:
"Hélas!
Il faut avancer en âge pour conquérir la jeunesse... pour vivre selon
son initial élan"
[Trích
"Thơ trong cõi trời" (La poétique de l'espace), của Gaston Bachelard]
NQT