Tản
mạn về chuyện viết
cho ai.
I.
Đi tìm một độc giả tốt.
"Nghệ
thuật để trở thành một độc giả tốt", hay là ‘Về lòng khoan dung đối với
những
tác giả", đó là hai tiểu đề bài viết nhan đề "Độc giả tốt và nhà văn
tốt"
(Bon lecteurs et bon écrivains) của nhà văn Nga, Nabokov. Đây là bài mở
ra
cuốn Văn chương I, viết về những tác phẩm lớn của cựu lục địa, của
Austen,
Dickens, Flaubert, Stevenson, Proust, Kafka, Joyce. (Cuốn II là về văn
chương
Nga).
Trong
bài viết ông có nhắc tới nhận xét của nhà văn Pháp, Flaubert, trong thư
gửi
cho người tình: Sẽ thông thái làm sao, nếu chỉ đọc năm hoặc sáu cuốn
sách.
Bởi
vì đọc, theo Nabokov, là chú ý và nhâm nhi những chi tiết. Lẽ dĩ nhiên,
khi
gấp cuốn sách lại, người đọc sẽ thấy rừng thay vì cây, nhưng đừng đặt
cái
cầy trước mũi con trâu, chắc là ông muốn nói vậy, khi cho rằng: nếu
người
ta bắt đầu bằng những tư tưởng phổ quát, như vậy là bắt đầu từ một đầu
xấu
(mauvais bout), và sẽ rời xa cuốn sách trước khi tìm hiểu nó.
Không
gì ngán ngẩm hơn đối với một tác giả, thí dụ như Flaubert, khi bạn mở
cuốn "Bà Bovary" của ông với một ý nghĩ đã có sẵn trong đầu, rằng đây
là một tác
phẩm nhằm tố cáo giai cấp trưởng giả. Bởi vì ngay cả một khi bạn tự cho
rằng, đã hiểu thật rõ ràng về từ "trưởng giả", nó cũng khác hẳn những
gì
bạn đã biết về nó, nếu bạn không đọc "Bà Bovary". Theo Nabokov,
"bourgeois" với Flaubert, có nghĩa là "philistin", một người không có
khiếu thưởng ngoạn, thiếu cảm thông, và chỉ quan tâm tới khía cạnh vật
chất của sự vật, chỉ để
ý tới những giá trị mang tính quy ước. Ông không hề sử dụng từ "trưởng
giả"
theo nghĩa chính trị-kinh tế của mấy tay Mác xít.
Nabokov
cho rằng, có ba sức mạnh tạo nên, và uốn nắn vóc dáng một con người:
dòng dõi, môi trường sống, và yếu tố X chưa biết. Trong ba sức mạnh
trên, nhìn xa, cái thứ nhì, môi trường sống, ít quan trọng, trong khi
cái thứ ba có ảnh
hưởng mạnh nhất. Trong trường hợp nhân vật sống ở bên trong một cuốn
tiểu
thuyết, lẽ dĩ nhiên, tác giả là người kiểm tra, chỉ đạo, điều động ba
sức
mạnh trên. Cái xã hội bao quanh Bà Bovary, là do Flaubert sản xuất ra,
Bà
Bovary thì cũng rứa. Thành thử cái xã hội "mang tính Flaubert"
(flaubertienne) tác động lên nhân vật "flaubertien", là chuyện tất
nhiên. Tất cả những gì xẩy ra ở trong cuốn tiểu thuyết là xẩy ra ở
trong đầu của Flaubert, mặc dù khởi điểm (lý do ra làm sao ông ngồi
xuống, khởi sự viết), mặc dù cái xã hội
đương thời có ông ở trong đó. Chính vì vậy mà Nabokov tỏ ra nghi ngờ
những
người cố tình nhấn mạnh ảnh hưởng những điều kiện xã hội mang tính
khách
quan đối với nữ nhân vật Emma Bovary. Và theo tôi, những nhà văn hiện
thực
xã hội chủ nghĩa ở trong nước cần phải để ý tới nhận xét này của ông:
Tiểu
thuyết của Flaubert chi li, chi tiết về về phận người, chứ không phải
chuyện
cân đo đong đếm về điều kiện xã hội (nguyên văn: Le roman de Flaubert
s’attache
au cacul infinitésimal de la destinée humaine, pas à l’arithmétique du
conditionnement social: tiểu thuyết của Flaubert gắn bó tới tính vi
phân của số mệnh con
người chứ không phải tính số học của điều kiện xã hội).
Nabokov
dùng từ "nhâm nhi", khi ông nói về chi tiết ở trong truyện: nhâm nhi
chi tiết
(savourer les détails). Ở một chỗ khác, ông ra lệnh (cho sinh viên của
ông):
Hãy ve vuốt những chi tiết... những chi tiết thần thánh! (Caressez les
détails…
les divins détails! Ross Wetzteon, trên một số báo đặc biệt
Triquaterly,
đã viết về kỷ niệm cảm động này, nhất là cách ông thầy uốn lưỡi khi
phát
âm mấy chữ "r").
Nhâm
nhi, ve vuốt… theo tôi, ông như muốn cảnh cáo những độc giả chỉ khoái
làm công việc "đuổi ruồi", nghĩa là chỉ hăm hở tìm những chi tiết dở,
yếu, kém… ở một tác phẩm, nhất là ở những người mới viết. Đây là một
căn bệnh trầm kha
đối với một số người, và nó thật tai hại, nếu người đó lại nắm giữ một
diễn
đàn văn học, làm công việc giới thiệu sách mới ra lò. Với một cái đầu
cắm
đầy những tư tưởng "phổ quát", những chân lý "muôn đời", thí dụ, văn
chương
Việt Nam ở hải ngoại bây giờ đang thoi thóp, ấy cũng là nhờ mấy "tên
già"
này, mai đây "chúng mình" nằm xuống, thế là nó ngỏm củ tỏi! Hoặc, thay
vì
nhâm nhi, ve vuốt những chi tiết lại "xoa đầu" đàn em, những người viết
trẻ
hy vọng ở những người đi trước những nhận xét đúng dắn, dù khen dù chê,
về
tác phẩm của họ, "Được đấy, đạt đấy", và đàn em đành ù ù cạc cạc, chẳng
hiểu
đạt ở chỗ nào! Hoặc chỉ thích làm công việc đuổi ruồi, trong khi mâm cỗ
sang trọng, đầy sơn hào mỹ vị là tác phẩm đang sẵn sàng mời gọi! Hoặc
"cứ
an toàn cho chắc ăn", ai sao mình vậy, "khen ai chứ khen (tùy bút)
Nguyễn Tuân thì chắc củ, không sợ bị hố!"
Trong
một bài phỏng vấn trên tờ Điểm Sách Paris, George Steiner trả lời, về
những lần bị hố: Cứ giả dụ rằng tôi lầm. Điều mà tôi quan tâm là những
lỗi lầm của đam mê, những lỗi lầm mà bạn cứ vươn mãi cổ lên để mà lãnh!
Một
người quen đã hết sức sửng sốt khi nghe khen một tác giả như Nguyễn
Thi, (một gã "diều hâu", còn cái lai quần cũng đánh, hết người lớn thì
xài tới con nít, vậy mà…) và người viết đành trả lời, khi đọc "Người Mẹ
Cầm Súng" đã "sơ ý" bỏ qua những chi tiết trên, và chỉ giữ lại tình lối
xóm, tình mẹ con, cảnh sông nước một miền đất, và vượt lên tất cả, là
hình tượng bà mẹ Việt nam, cầm súng hay không cầm súng.
[Bà
mẹ Việt cầm súng của Nguyễn Thi, như trái ngược hẳn với hình tượng
trông chồng hoá đá của truyền thuyết dân gian, làm người viết nhớ tới
một nhận xét của nhà văn Christa Wolf (thuộc Đông Đức cũ), nhân nói đến
nữ quyền và
văn chương nữ giới trong một thế giới "nam trị": [The] politicians,
economic managers, and party officials need a fatherland to carry on
their enterprises. There is no motherland in sight, no more than
before. (Tạm dịch: Những chính trị gia, giám đốc kinh tế, viên chức
đảng cần một quê cha để thực thi những công trình của họ. Chẳng thấy
quê mẹ đâu hết, bây giờ cũng chẳng khá gì hơn, so với trước đây). Trong
cuộc chiến Việt nam, người mẹ của một miền đất, hay
đội quân tóc dài đã là một yếu tố quyết định. Liệu chúng ta có quyền
hoài
vọng, bà mẹ của miền đất sẽ đem trả lại, một quê mẹ, cho cả hai miền
đất
nước?]
Vẫn
trong bài viết nêu trên, Nabokov "cẩn trọng" độc giả, chớ bao giờ quên,
điều
này: bất cứ một tác phẩm nghệ thuật, khi xuất hiện, là mở ra một thế
giới
mới; thành thử việc đầu tiên cần làm, đối với một độc giả, là quan sát
thật
kỹ thế giới mới đó, cố nắm bắt một vài tia sáng lạ, một vài chi tiết
mới,
chẳng liên quan với cái thế giới quá quen biết, quá nhàm chán mà chúng
ta
đã biết. Chỉ một khi quan sát thật kỹ, chúng ta mới nhận ra mối liên hệ
của
nó với những thế giới khác, với những miền tri thức khác.
Bản
thân người viết, khi đọc những tác giả miền bắc sau 1975 (hãy bỏ qua
một bên những "Hà Nội Ba Sáu Phố Phường" của Thạch Lam, hay "Nhặt Lá
Bàng", "chiếc
áo cánh của Loan bay phất phơ trong gió" của Nhất Linh…), là muốn "làm
quen"
Hà Nội, và đất bắc những ngày sau 1954, sau 1975. Chúng ta biết một
miền
bắc lầm than, như cả một nước lầm than, trong thiên đường mù, chúng ta
biết
một ông tướng về hưu, ngơ ngác trước địa ngục mà chính ông đã góp phần
tạo
dựng nên… nhưng chúng ta chẳng hề biết khí hậu sau (một) Mùa Thu (năm
qua,
cách mạng tiến ra), nó đã thay đổi đất đai con người ở đó ra sao, bởi
vì
nói như Faulkner, con người là tổng số những kinh nghiệm về thời tiết.
Những
chi tiết sau đây, của Lê Minh Hà, tuy là vĩnh viễn muôn đời của một
miền
đất, nhưng chưa từng được ai nói nói, và đó là những chi tiết để nhâm
nhi
đối với một "độc giả tốt"ù: "Buổi chiều nắng hết ơi ơi mà rực lên như
nắng
những ngày sau bão" (Về Làng). Hay chi tiết này, về Hà Nội: "Một buổi
tối
lúc đi học về, trời đổ mưa sầm sập. Hà Nội có những ngày thu như thế.
Liền
mấy hôm mưa rầm rề. Rồi nắng hửng lên, vàng rười ruợi. Trời xanh và
cao.
Heo may lại về. Phố khô đi chậm rãi. Rồi lại mưa. Tôi chỉ mang độc cái
nón…"
[Làm
sao con người còn cố giữ những chi tiết về thời tiết, rồi tìm cách phổ
vào trong ngôn ngữ, đó mới là điều đáng nói, đáng tìm hiểu. Và nó chẳng
liên quan
tới điều kiện xã hội. Ở đây, xin mạn phép tác giả, và độc giả cho tôi
được
để kế bên những dòng trên, những chi tiết còn đọng trong hồi ức của một
đứa
con trai rời xa Hà Nội ngay khi vừa mới lớn: "Mai, Mai, để anh kể cho
em
nghe về một thành phố… một quãng đời của anh, bây giờ nhớ lại thấy đâu
đó
trong quá khứ những trái sấu vàng vương vãi, tiếng lá xào xạc, tiếng
còi
mười giờ chạy dọc theo con phố Tràng Tiền. Mùa Thu, "màu" thu Hà Nội,
những
lá cây vàng úa, hàng cây bên đường hình như cao thêm lên, thành phố
trang
nghiêm và buồn rầu như đang trầm ngâm suy nghĩ… để anh kể cho em nghe
về
một thành phố mùa thu có những giọt mưa nhỏ bay trong gió, mùa hè vàng
nắng
đã qua đi từ lâu cùng những buổi tắm sông nằm trên cát nóng mắt ngó
thẳng
mặt trời… những ngày cuối hè người ta vẫn quen thói ngủ không đóng cửa
sổ,
đột nhiên trong đêm khuya, một cơn gió lạ chợt tới thổi thốc những cánh
lá
khô, người lớn vội trở dậy đóng bớt cửa, ‘đó là dấu hiệu đầu tiên báo
tin
mùa thu trở về…’].
Hay
chi tiết sau đây,"thường chỉ quẫy cựa khi đi ngang phố Huế: một đứa lớp
tôi chết ở đó. Vệt bom liếm hết nhà nó thì dừng…", trong "Những Giọt
Trầm" của Lê Minh Hà và thuộc về Hà Nội những ngày ăn bom B.52, cũng
chưa từng được một tác giả thuộc dòng văn chương hiện thực xã hội chủ
nghĩa nào viết ra.
Không
phải bất cứ người đọc nào cũng để ý tới những chi tiết mà tôi nêu ở
trên. Có thể chúng không quan trọng đối với họ, hoặc họ không ở trong
tâm trạng chờ đợi những chi tiết đó, như là một thằng bé Bắc kỳ ngày
nào. Hoặc họ cũng
chú ý đến những chi tiết đó, nhưng chỉ coi đây là những "thông tin" về
thời
tiết, nơi chốn, hoặc thời đại. Nabokov tự hỏi, liệu có kẻ nào ngây thơ
đến
độ, mong gặt hái thêm được một vài kiến thức, trong một cuốn sách mạ
vàng,
bầy trong tủ kính, giữa mớ tiểu thuyết lịch sử? Ngay cả với những tác
phẩm
lớn, thí dụ như của Austen, liệu chúng ta có thể tin rằng những "thông
tin"
ở trong những cuốn tiểu thuyết của bà là chính xác, thí dụ như một xứ
Ăng
Lê của những tay địa chủ, những công viên đúng kiểu Hồng Mao… trong khi
tác
giả chỉ "ru rú" ở trong phòng khách của một vị mục sư?
Cho
tôi một đời khác và tôi sẽ hát,
ở
Caffe Rafaella. Hay giản dị chỉ ngồi đó.
Hay
đứng ở đó, như cái bàn cái ghế, ở một góc phòng,
trong
trường hợp cuộc đời đó không được rộng lượng như cuộc đời trước.
(Joseph
Brodsky, Thư cho con gái của tôi).
"Trong
trường hợp cuộc đời đó không được rộng lượng", nếu nói theo Kundera,
rằng không phải người ta chỉ có một đời để mà sống, thì cuộc đời đó,
miền đất đó,
thành phố đó… rộng lượng hơn cuộc đời trước, đối với một thằng bé của
Hà
Nội ngày nào, (nó vẫn nghĩ, nó được cả hai thành phố, cả hai miền đất
quá
cưng chiều, thành ra hư hỏng…), nhưng đêm đêm, trong giấc mơ, nó vẫn
thường
mở mọi cửa sổ của linh hồn mình, chờ một cơn gió lạ, thổi thốc lên
những
cánh lá: "dấu hiệu đầu tiên báo hiệu đời xưa trở về".
[Với
riêng tôi, những chi tiết trong truyện Lê Minh Hà, là những dấu hiệu
đầu tiên, cho thấy mùa thu đã được tẩy rửa hết chất độc chính trị, lại
được làm
một mùa thu bình thường, tầm thường – nghĩa là thật tuyệt vời – của một
miền
đất.]
Nhà
thơ người Pháp Saint-John Perse (1887-1975), trong diễn văn Nobel 1960
(bản dịch của Hoàng Ngọc Biên, trên tạp chí Thơ, số mùa Xuân năm 1997)
cho rằng, "Đối với nhà thơ, làm ý thức hư ngụy của thời đại mình cũng
đã là quá lắm rồi." Theo tôi, vẫn là ý thức hư ngụy đó, khi
Solzhenitsyn cho rằng, "nhà văn là một nhà nước trong một nhà nước".
Cao Hành Kiện, trong diễn văn Nobel 2000 mở ra thiên niên kỉ mới, đã
đẩy cái ý thức hư ngụy trở về với ý nghĩa cội nguồn, thật khiêm tốn và
cũng thật đúng đắn của nó: "Nhà văn cũng chỉ là một người bình thường,
có lẽ mẫn cảm hơn, mà người quá mẫn cảm thường thường lại hay yếu ớt
hơn."… "Ở đây, tôi muốn nói văn học cũng chỉ là tiếng nói của cá nhân,
mà vốn xưa nay vẫn thế." "Quan hệ giữa nhà văn và người đọc chẳng khác
chi một cách giao lưu tinh thần, đôi bên chẳng cần gặp mặt, chẳng cần
qua lại."
Ôi
chao phải mẫn cảm tới mức nào, mới nhận ra được những dấu hiệu mỏng
manh yếu
ớt, đầu tiên, báo hiệu thời tiết (văn chương đã) sang mùa, ngôn ngữ lại
được
sửû dụng để làm cái công việc khiêm tốn của nó: lòng lại hỏi lòng, đâu
là
tri âm, đâu là tri kỷ…
II.
Cõi Riêng
Trong
bài viết Văn chương và Hậu-lịch sử (trong Ngôn ngữ và Câm lặng), G.
Steiner tự hỏi liệu có còn nghệ thuật, ở thị trấn công chính (the just
city), vào một ngày mai ca hát, hay rõ hơn, khi con người đã hết còn bị
vong thân?
Theo
ông, "quan niệm hiện thời về văn chương của chúng ta, trong một vài
khía cạnh, liên quan tới cõi riêng. Một mình với cuốn sách, trong yên
lặng, là một phát triển đặc thù, mới đây thôi so với lịch sử. Nó hàm
chứa một số những tiền-điều kiện (pre-conditions) kinh tế và xã hội:
một căn phòng cho riêng ai (a room of one's own), như cách nói ý vị của
Virginia Woolf; hay là ít ra, một mái nhà khá rộng để có được vài góc
yên tĩnh; sở hữu một số sách, quyền giữ riêng ít sách hiếm, người khác
không được sờ vào; ánh sáng đèn lúc tối trời. Tất cả là để nói lên cách
sống trưởng giả trong một phức thể gồm những giá trị và những đặc quyền
tại những đô thị kỹ nghệ lớn. Phức thể
(complex) này kết tinh trễ hơn là người ta tưởng. Giai cấp trung lưu
thời
Victoria vẫn thường sử dụng cách đọc sách lớn giọng, một thành viên
trong
gia đình là "người đọc lên", cho những người còn lại, hay là cuốn sách
được
truyền khẩu, từ "giọng này qua giọng khác". Thật là vô ích, nếu phải
nhấn
mạnh những thay đổi lớn lao mà sách in - ý nghĩa của chữ chủ yếu do mắt
nhìn
thấy chúng - đã đem đến cho những hình thức xưa cũ hơn, là cách đọc lớn
lên
cho nhiều người cùng nghe. Marshall McLuhan đã khai triển "cuộc cách
mạng
Gutenberg" (c.1400-68, người Đức, phát minh ra máy in), ở nơi ý thức
Tây
Phương. Vấn đề chưa được hiểu rộng rãi là, có bao nhiêu văn chương - và
bao
nhiêu văn chương "hiện đại" - không được ấp ủ, để đọc trong thầm lặng,
riêng
tư…"
Ở
Miền Nam Việt Nam, thú kể chuyện Tầu, chuyện Vân Tiên ở mấy ông bà già
hình như chỉ chịu lui bước khi vai trò kể chuyện được truyền lại qua
một em nhỏ biết chữ trong gia đình, buổi tối vặn lớn ngọn đèn dầu hôi,
đọc lớn cho cả
nhà nghe những câu chuyện đăng từng kỳ trên nhựt trình. Thanh Tâm
Tuyền, vào Nam năm 1954, đã sớm nhận ra sự khác biệt giữa hai dòng văn
chương của hai miền. Trong tiểu thuyết của ông, nổi bật là những xen
đoạn tả cảnh sông nước bến phà, họp chợ trên sông, sinh hoạt trong một
xóm chị em, tiếng hát vọng cổ trong đêm khuya vắng… Ông như muốn chuyển
cõi riêng của một chàng trai Bắc Kỳ vào cõi chung của một miền đất thật
mới lạ đối với ông. Nên nhớ, cái thú vui xuồng xã thân mật ở trong một
xóm chị em, ở ngoài Bắc không có. Người ta làm việc đó một cách lén
lút, và coi đó như là tội lỗi, hoặc nó (cái
xấu) là chỉ dành riêng cho giai cấp có tiền, hoặc có tài: không phải ai
cũng
có thể cầm trống chầu để mà được quyền tới xóm bình khang, hưởng thú
hát
ả đào. Nếu ở trong thơ, ông ao ước, ‘khởi từ ca dao qua tự do’, ở trong
văn,
ông như muốn làm một cuộc hôn nhân giữa viết và nói, viết và kể
(chuyện)…
Ngược lại, cái cõi riêng lạ hoắc kia, cái lối viết là viết riêng cho
mình,
là chuyển tải ý thức, cuộc sống nội tâm vào cuộc sống xô bồ bên ngoài
xã
hội, đã ảnh hưởng tới một số cây viết Miền Nam…
NQT
|