Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách
Tạp Ghi
|
Chủ
nghĩa toàn cầu và tên lưu manh của nó.
Một trong những vấn đề kinh tế bức thiết của thời đại chúng ta, đó
là rất nhiều "cái được gọi là những nền kinh tế đang phát triển" thực
sự
không phải đang phát triển. Dân chúng thuộc những xứ sở dân chủ, kỹ
nghệ
hóa Tây Phương đã bị sốc thực sự, khi họ biết, ở những nước như Uganda,
hay Ethiopia, hay Malavi, tuổi thọ của đàn ông hay đàn bà không mong gì
vượt qua con số 45. Hay là ở Sierra Leone, 28% trong số tất cả trẻ em
chết
trước khi được "ăn mừng" lên năm tuổi. Hay là hơn một nửa những trẻ em
ở Ấn Độ bị thiếu ăn, suy dinh dưỡng. Hay ở Bangladesh, một nửa đàn ông,
và chưa tới một phần tư đàn bà, là biết đọc và biết viết. [Những số
liệu
từ 1999/2000 World Development Report, Table 2].
Điều này còn nhức nhối hơn nữa: Không hề có một sự tiến bộ nào, ít
ra là trên "mặt trận kinh tế" tại nhiều nơi, nếu không muốn nói là tất
cả những nước nghèo đói nhất trên thế giới, nơi mà mức thu nhập mạt rệp
của người dân thật xứng đôi vừa lứa với sự vô tài bất tướng của chính
quyền trong cái việc tạo nên thảm cảnh trần gian. Trong số 50 quốc gia,
bình quân thu nhập đầu người thấp nhất vào năm 1990, thì 23 quốc gia,
mức thu nhập đầu người năm 1999 thấp hơn năm 1990. Ở 27 quốc gia kia,
mức thu nhập nhỉnh hơn lên, là 2.7%. Với mức độ nhinh nhỉnh như vậy,
phải mất 79 năm họ mới có được thu nhập của Hy Lạp, một trong những
nước nghèo nhất của Hiệp hội các nước Âu Châu.
Quả thực là một vấn đề nhức nhối, nếu người ta để ý tới những lời tuyên
đoán lạc quan của một số kinh tế gia, vào những năm đầu tiên của thời
kỳ hậu chiến. Có ông tỏ ra rất mừng cho những nước kém phát triển: họ
sẽ không phải trả giá gì hết, cứ việc noi theo đàn anh, nghĩa là những
nước đã có một nền kinh tế phát triển, tránh những vết xe đổ, tránh
những lồi lầm mà đàn anh đã gặp phải. Nobel kinh tế gia Simon Kuznets
nhắn nhủ: sẽ căng lắm đấy, khi khởi sự kỹ nghệ hóa, con số người nghèo
sẽ tăng lên, thâu nhập giữa giầu và nghèo sẽ cách biệt, nhưng dần dần
mọi việc sẽ êm xuôi thôi.
Chẳng có gì đáng ngạc nhiên, khi nhiều nhà kinh tế hiện nay, đang lao
vào những câu hỏi nhức nhối kể trên, sau những tiên đoán đầy lạc quan
như vậy. Và họ đồng thanh tự hỏi, đâu là nguồn cơn của thảm cảnh trần
gian? Một trong những người đó giơ tay chỉ đích danh tên lưu manh, kẻ
khốn nạn: Quĩ tiền tệ thế giới (IMF).
Có lẽ kể từ cơn suy thoái xẩy ra vào thập niên 1930, chưa bao giờ như
bây giờ, các nhà tư tưởng trên toàn thế giới đua nhau tấn công mặt trận
kinh tế. Họ tự hỏi, thảm cảnh trần gian như vừa kể trên, là do những
quốc gia mà kinh tế "không phát triển" (chúng ta hãy gọi đúng tên của
nó) đã theo đuổi những chính sách kinh tế nội địa sai lầm? Hay họ là
những nạn nhân
ngây thơ vô tội, bị bóc lột bởi cái phần thế giới đã được kỹ nghệ hóa?
Liệu
có ích lợi chi, khi đẩy mạnh phát triển kinh tế mà vờ đi cơ cấu hạ tầng
về xã hội cũng như về chính trị, và luôn cả một thể chế chính trị dân
chủ
thực sự? Hay là những định chế tốt đẹp như vậy chỉ có thể tốt đẹp một
khi
mà mức sống, điều kiện vật chất của người dân đã đi vào "tương đối" ổn
định?
Viện trợ từ bên ngoài có thêm thắt gì không hay là chỉ làm tăng thêm tư
bản
đỏ, thí dụ vậy, trong khi người dân vẫn nghèo hoàn nghèo?
IMF đã có những tiền thân của nó, cả một lô những cơ quan trực thuộc
Liên Hiệp Quốc, được thành lập đúng theo đường lối lạc quan kể trên,
nổi bật nhất là Chương Trình Phát triển của LHQ (UN Development
Program), UN Conference on Trade and Development. Cơ quan Thực phẩm và
Nông nghiệp
(The Food and Agriculture Organization) được thành lập vào năm 1945
nhưng
sau tách ra khỏi LHQ. Cơ quan lo về sức khỏe (The World Health
Organization
(1948). Ngân hàng thế giới cho việc Tái xây dựng và Phát triển, thường
được
gọi là Ngân hàng Thế giới, được thành lập vào năm 1944 chủ yếu tái xây
dựng
Âu Châu bị tơi tả vì chiến tranh, nhưng sau đó chuyển qua giúp thế giới
phát triển, khi mục đích đầu tiên của nó đã hoàn tất.
IMF là kẻ đến muộn nhất. Được thành lập liền sau Ngân hàng Thế giới
(1944), nhiệm vụ đầu tiên của nó là gìn giữ sự ổn định thị trường tài
chính quốc tế, bằng cách giúp những xứ sở, về cả hai mặt, thứ nhất:
điều chỉnh kinh tế khi mất thăng bằng, nghĩa khi không trả được những
món nợ thế giới, và thứ nhì: giữ giá đồng bạc nội địa của họ, theo một
chế độ ổn định thường trực đã được ấn định về tỷ giá hối đoái trên thế
giới.
Nhưng vào đầu thập niên 1970, người ta nhận ra rằng thật khó mà giữ
thường trực ổn định tỷ giá hối đoái, và một kiểu thả nổi đã đi vào thực
tế, trở thành tiêu chuẩn (norm). Hơn thế nữa, những nền kinh tế Tây
Phương ngày càng thêm mạnh, ngày càng có thêm những quốc gia mất thăng
bằng trong cán cân chi thu, gặp khó khăn trong việc giữ cho đồng bạc
của họ được ổn định,
và cần ngoại tệ để trả nợ nước ngoài, và IMF ngày càng có thêm khách
hàng.
Như là một hậu quả tất nhiên, IMF ngày càng có tiếng nói, ngày càng
liên
can (involved) vào vấn đề phát triển kinh tế. Và như chúng ta đều biết,
sự
phát triển kinh tế tại nhiều quốc gia cứ tà tà đi xuống - ngay cả tại
những
nơi mà IMF đã giữ một vai trò đáng kể – chính sách cũng như hành động
của
IMF ngày càng bị lôi cuốn vào trong cuộc tranh luận: kẻ nào, cái gì đã
gây
nên nguồn cơn "điêu đứng" như thế này?
Joseph E. Stiglitz, trong cuốn "Toàn cầu hóa và những bất mãn của nó"
("Globalization and Its Discontents", nhà xb Norton, 282 trang, $24.95
USD), đã đưa ra những cái nhìn của ông, về cả hai mặt: cái gì đã trật
đường rầy, và cái gì phải làm cho khác đi. Nhưng trọng tâm của cuốn
sách của ông là: ai là kẻ cần phải trách cứ?
Theo ông, thảm cảnh trần gian tại những nước nghèo đói trên thế giới,
là do một tên lưu manh, một tên ác ôn côn đồ mà ra. Và tên côn đồ lưu
manh này (this vilain) thì thực là đáng ghét. Nó tên là Quỉ (hay Quĩ)
Tiền
Tệ Thế Giới (the International Monetary Fund), thường được gọi tắt là
Quỉ
(Quĩ, Fund).
Joseph Stiglitz xứng đáng, và đã từng lãnh Nobel về kinh tế. Nhiều
năm trong nghề, ông đã có những đóng góp thật giá trị trong việc chú
giải
"trường" (field) kinh tế trên nhiều lãnh vực, bao gồm thuế vụ, lãi
xuất,
thái độ và cách ứng xử của người tiêu dùng, tài chính tổ hợp, và nhiều
lãnh
vực liên quan khác. Trong giới kinh tế gia, ông là một tay khổng lồ vẫn
hăng say làm việc. Những năm gần đây, ông lao vào việc hoạch định đường
lối kinh tế, trước hết, trong cương vị thành viên, và sau đó
"chairman",
của Hội đồng Cố vấn Kinh tế của Hoa Kỳ (thời kỳ Clinton), và từ năm
1997
tới 2000, là "chief economist" của Ngân hàng Thế giới. Thành thử, trong
rất
nhiều trường hợp, những dữ kiện ông nêu ra ở trong cuốn sách của ông,
là
mới tinh.
Những vấn đề then chốt mà tác giả nêu ra trong cuốn sách của ông, là
chuyện gì xẩy ra khi chúng ta thiếu những thông tin quan trọng dựa vào
chúng mà quyết định, hoặc khi những thị trường dành cho những loại
chuyển
khoản quan trọng, thì không thỏa đáng, hoặc không có; khi những định
chế
kinh tế chuẩn mức khác nhằm bảo đảm cho sự suy đoán kinh tế của chúng
ta,
thì thiếu vắng hoặc bất toàn?
Theo ông thị trường tự do, nếu để mặc cho nó tự soay sở, chưa chắc
đem lại lợi nhuận cho người kinh doanh đúng như theo sách vở kinh tế
tiên
đoán, theo đó, hễ có đủ thông tin là có thể buôn bán trong một thị
trường
đầy đủ và hiệu quả, và có thể dựa vào luật pháp cũng như những định chế
khác. Những nghiên cứu tiến bộ mới đây về kinh tế – mà tác giả có dự
phần
– cho thấy, một khi tình trạng thiếu vắng, bất toàn như trên xẩy ra, sẽ
có hậu quả là: "bàn tay vô hình" khi đó hoạt động dở nhất. ["Bàn tay vô
hình"
theo nghĩa "của từ trên trời rớt xuống"; đây là một thuật ngữ để chỉ lý
thuyết
kinh tế của nhà kinh tế người Ái Nhĩ Lan, Adam Smith, theo đó, tư lợi
khi
gặp cạnh tranh, có thể biến thành phúc lợi, một trong những tư tưởng
then
chốt của kinh tế thị trường tự do]. Nói khác đi, cứ theo đúng sách vở
kinh
tế như IMF đòi hỏi, mà làm, là chỉ từ chết tới bị thương!
Tác giả đã "than phiền", rằng IMF đã gây tổn thất nghiêm trọng qua
những chính sách kinh tế của nó, theo đó, những xứ sở phải theo đúng
chính
sách, như nó được miêu tả, thì mới xứng đáng (qualify: hội đủ tiêu
chuẩn)
là khách hàng vay nợ của IMF. IMF và những tổ chức chân rết, những viên
chức đã bỏ qua những dính líu (implications) của việc thông tin không
đầy
đủ, những thị trường không thỏa đáng, và những định chế kinh tế không
có
thể sử dụng được (unworkable institutions): tất cả những thứ này thực
là
rõ nét ở những xứ sở "đang phát triển". Tác giả khẳng định, IMF cứ thế
cứ
thế đề ra những chính sách "phù hợp với những cuốn sách về kinh tế học,
nhưng thật chẳng có một ý nghĩa nào đối với những xứ sở mà IMF yêu cầu
họ
phải làm đúng như vậy." Stiglitz, trong cuốn sách của ông, đã cố gắng
chứng
tỏ, hậu quả của những chính sách kinh tế như vậy, đã gây ra những thảm
họa,
không chỉ theo nghĩa trừu tượng, qua những con số thống kê, mà đây
chính
là nỗi đau khổ thực sự của con người, ở những sứ xở đi theo những đường
hướng
kinh tế mà IMF đòi hỏi.
Hầu hết những chính sách kinh tế mà Stiglitz chỉ trích đều tỏ ra quen
thuộc đối với bất cứ người nào để ý chút xíu tới cơn chao đảo kinh tế
gần đây tại thế giới đang phát triển (trong đó bao gồm cựu Liên Bang Xô
Viết, và những xứ sở cựu vệ tinh của nó hiện đang cố lật ngược tình
hình sau bao thập niên đi theo đường lối sai lầm của kinh tế xã hội chủ
nghĩa):
-Xiết chặt túi tiền:
Một trong những chính sách tài chính truyền thống và có lẽ nổi tiếng
nhất của IMF là khuyến cáo khách nợ của nó: cắt chi phí chính quyền
(government spending), tăng thuế, hay là cả hai, cân bằng ngân sách và
triệt tiêu
nhu cầu vay nợ. Lý do mà nó viện ra, là: chính quyền tiêu xài hoang phí
quá. Stiglitz phản pháo: IMF đã lật ngược lý thuyết kinh tế của Herbert
Hoover, khi đặt để (imposing) những chính sách này tại những xứ sở đang
ở trong cơn suy thoái trầm trọng, khi mà thâm thủng chủ yếu là do thu
nhập
cứ thế tuột thang; ông khẳng định tăng thuế chỉ làm cho sự việc thảm
khốc
thêm. Ông nhấn mạnh, cắt giảm chi phí chính quyền trên một số chương
trình
xã hội – thí dụ như hủy tiền trợ cấp thực phẩm cho những gia đình
nghèo,
như Indonesia đã làm theo lệnh của IMF vào năm 1998 – chỉ đưa đến kết
quả
là những cuộc xuống đường cướp thực phẩm.
-Tăng lãi xuất.
Nhiều quốc gia chạy tới cầu cạnh IMF chỉ vì họ gặp khó khăn ổn định tỷ
giá đồng bạc nội địa. Một trong những đòi hỏi tiêu chuẩn của IMF là,
tăng lãi xuất, như một cái mồi nhử dân chúng đem tiền đến ngân hàng ký
gửi.
Tác giả chứng minh ngược lại: Tăng lãi xuất chỉ làm tình hình càng xấu
thêm, bởi vì sẽ đụng tới "con quỉ" lạm phát, và nạn xập tiệm phá sản
của
nhiều công ty.
-Giải phóng thương mại (Trade liberalization).
Ai mà chẳng hồ hởi, khi buôn bán tự do, thoải mái, ngoại trừ người
làm ra những món đồ để đem bán. Hủy bỏ tariff, quotas, subsidies (quan
thuế, cô-ta: hạn ngạch, bao cấp) và những hàng rào khác để tự do buôn
bán... những biện pháp không giúp gì nhiều, bởi vì chúng không ảnh
hưởng
trực tiếp đến chuyện tuột thang, khiến những xứ sở phải chạy tới năn nỉ
vay nợ IMF. Stiglitz chỉ ra cho thấy: tự do buôn bán bằng cách hủy bỏ
hàng
rào quan thuế... như trên chỉ khiến cho những nước "đang phát triển"
khốn
đốn thêm, bởi vì sẽ làm chết những doanh gia nội địa, một khi họ chưa
đủ
lực để mà ăn thua đủ với những doanh gia ngoại quốc.
-Giải phóng thị trường vốn.
Nhiều nước đang phát triển có hệ thống ngân hàng yếu kém, và có ít
cơ hội cho người dân dành dụm tiến bạc. Như là một điều kiện để được
vay
nợ, IMF thường xuyên đòi hỏi, muốn nới rộng nợ, thì phải mở rộng hệ
thống
ngân hàng cho những định chế được sở hữu bởi những người nước ngoài,
bởi
vì họ sẽ làm tốt hơn việc huy động và sử dụng vốn dành dụm, tiết kiệm
của người dân. Stiglitz khẳng định, những ngân hàng hữu hiệu của nước
ngoài chỉ làm cho những ngân hàng trong nước sập tiệm, và những chủ
nhân của chúng
chẳng quan tâm gì lắm tới chuyện móc tiền túi ra cho vay, cho mượn, đối
với những cơ sở do người dân trong nước làm chủ; và chuyện huy động sử
dụng vốn không phải là vấn đề, bởi vì ngân hàng nội địa cũng có mức ấn
định
tiền lời rất cao cho người dân.
-Tư hữu hóa.
Bán ra cho người dân những cơ sở trước đây do nhà nước làm chủ, như
công ty viễn thông, đường xá, cơ sở sản xuất đường, thép... là một
trong những gợi ý chủ yếu của IMF trong hai thập niên mới đây, cả trong
những nước kỹ nghệ hóa cũng như đang phát triển. Một trong những lý do
đưa ra là, khi để cho tư nhân làm chủ, họ sẽ làm tốt hơn công việc quản
lý. Lý do
nữa là, những công ty như vậy có khi do nhà nước bịa đặt ra, công nhân
là
những người lãnh trợ cấp xã hội trá hình. Stiglitz khẳng định, tư hữu
hóa
cần thời gian và điều kiện chín mùi của nó, nhiều quốc gia chưa có hệ
thống
tài chính sẵn sàng đối đầu với việc chuyển nhượng như trên, và cũng
chưa
sẵn sàng đưa ra những giải đáp, hoặc đáp ứng cần thiết, nếu nói về cách
ứng
xử của một người Việt Nam, một khi đương là công nhân viên nhà nước,
bỗng
chốc biến thành người chủ thực sự của, không phải đất nước, mà là cái
nồi
cơm của gia đình mình. Thật khó mà biết được, có bao nhiêu người dân VN
đã
là nạn nhân thuở giao thời bao cấp chuyển sang không còn bao cấp nữa,
và
liệu cái nạn tham nhũng hiện đang là quốc nạn có phải là hậu quả tất
yếu của cái bóng ma thuở giao thời đó không. Liệu có thể giải thích
quốc nạn
trên, như là hậu quả tất yếu của thời gian theo đuổi cuộc chiến - và
cùng
với nó là bao cấp, là tất cả cho chiến trường, phần thưởng là chiến
thắng
- quá kéo dài, thời gian hưởng thụ lại quá ngắn, đối với thế hệ tham
gia...?.
Đây chỉ là những câu hỏi gợi ý của người giới thiệu, nhưng trên thực
tế,
như Stiglitz chỉ ra, tại Liên Bang Xô Viết, tư hữu hóa khi chưa chín
mùi,
hậu quả là đưa tài sản quốc gia cúng cho đám mafia, một "giai cấp mới".
-Nỗi sợ mất nợ.
Một trong những ưu tiên số một trong chính sách của IMF, ngay từ những
ngày khởi nghiệp lưu manh của nó, là, làm sao để đừng bị khách hàng xù,
vờ đi cái chuyện trả nợ, và theo nó, cái chuyện xù đó chỉ là giả tưởng,
nghĩa là không thể có chuyện như thế xẩy ra đối với Bá Kiến tân thời
này,
mặc dù không có một Chí Phèo ở trong tay. Như Stiglitz khẳng định, đây
là
chuyện "nghiêm túc", IMF luôn luôn lấy được nợ (cộng với lời, lẽ tất
nhiên!):
As a formal matter, the IMF always gets repaid. Mỗi khi khách hàng gặp
khó khăn, ngân hàng không thể lấy lại tiền, họ bèn đề nghị nới rộng món
nợ, nghĩa là chấp nhận khách hàng "tự nguyện" tái cấu trúc nó. Một khi
IMF
ban cho một món nợ mới (new credit), nhằm tránh chuyện xù nợ, lãi xuất
của
nó lẽ tất nhiên cao hơn lãi xuất cũ, và tất cả lại đổ lên đầu người
dân,
bởi vì thuế má sẽ tăng thêm lên mãi.
Tất cả những điều mà Stiglitz chỉ trích IMF như trong bảng liệt kê
vừa nêu ra, thì cũng "xoàng thôi", và nếu chỉ có vậy IMF chưa thể nào
xứng đáng là một Bá Kiến tân thời được. Tác giả cũng biết như vậy, và
ông
nói, những chuyện tôi vừa mới tố khổ IMF, là không phải ngẫu nhiên,
tình
cờ. Chúng là những câu chuyện thường ngày ở huyện, được IMF thi hành
hoài
hoài. Những chính sách kinh tế do IMF đề ra không phải là tình cờ.
Chúng
nằm trong một âm mưu lớn, tham vọng lớn, mà tác giả đặt tên cho nó là
"Washington
Consensus" (Sự Đồng Lòng, Nhất Trí của Hoa Thịnh Đốn). Chính cái này
mới
làm cho IMF trở nên nặng mùi, nếu không nói là, tởm lợm.
"Khi nhận báo cáo hàng năm của IMF về nước bạn, bạn nên trả lời, ‘Xin
cám ơn quí vị rất nhiều’, rồi vứt ngay nó vào sọt rác."
J.E. Stiglitz.
The Nation số đề ngày 10 tháng Sáu, 2002.
Trên Diễn Đàn Forum, số mới nhất (Tháng Bẩy, 2002) có bài viết của
Trần Hữu Dũng về Stiglitz và cuốn sách của ông; sau đây là một vài
trích
đoạn:
"... Khoảng chục năm gần đây Joseph Stiglitz có lẽ là nhà kinh tế gây
nhiều sôi nổi dư luận nhất, đặc biệt là trong giới kinh tế tài chính và
phát triển quốc tế. Với quá khứ hoàn toàn ‘chính thống tân cổ điển’
(được đào tạo rồi trở thành giáo sư thực thụ trẻ nhất ở MIT, sau đó
sang Yale, Oxford, Stanford, và Columbia hiện nay), với con đường thăng
tiến công danh ít ai bằng... Nobel kinh tế năm 2001 - trong mắt của
nhiều đồng sự – [ông] đãõ trở thành một kẻ ‘nghịch thường, bội phản’,
và những tên khác không tiện nói ra đây, đồng thời lại là thần tượng
của đông đảo đã chưa từng nghe tên ông trước đó.... một cuốn sách quan
trọng, mang dấu ấn một tác giả vinh danh Nobel, chắc chắn sẽ là cái mốc
lớn trong những bàn cãi về cơ cấu kinh tế tài
chính quốc tế từ rày về sau."
"Quê quán tại thành phố thép Gary (bang Indiana) nhiều thất nghiệp, cha
làm nghề bán bảo hiểm, mẹ giáo viên, từ thuở niên thiếu Stiglitz đã
quan tâm đến tình trạng công nhân thất nghiệp, và sự khác biệt giữa nhu
cầu
lao động (việc làm, lương bổng) và quyền lợi người bỏ vốn (lợi nhậun,
lạm
phát)... Sau khi tốt nghiệp MIT, Stiglitz qua Kenya làm việc nhiều năm,
rõ ràng là những ấn tượng về châu Phi đã ảnh hưởng sâu đậm sự nghiệp
trí
thức của ông từ đó đến nay."
"Cốt lõi lý thuyết kinh tế của S. là triển khai những phân tích về
hiện tượng ‘thông tin không đối xứng’, theo đó, trong các giao dịch
kinh
tế giữa hai phe, gần như bao giờ một phe (ví dụ người bán) cũng biết
nhiều hơn phe kia (ví dụ người mua) về những đặc tính của giao dịch đó
(chẳng hạn như chất lượng món hàng). Nhận xét này thực sự bắt nguồn từ
quan sát của S. về cơ chế ‘tá điền’ làm thuê ở Kenya (và đúng ra ở mọi
nơi). Đại để là, người chủ điền không bao giờ có thể quan sát hành động
của người tá điền từng phút từng giờ. Nói cách khác, người tá điền luôn
biết rõ về hoạt động của mình, cũng như công việc đồng áng hơn người
thuê anh. Trong hoàn cảnh ‘thông tin không đối xứng’ tất cả những lý
thuyết tân cổ điển về lương lao động cần được xét lại..." Với nhiều dè
dặt, S. nhìn nhận vai trò của (1) nhà
nước và (2) những thể chế cổ truyền (gia đình) là có ích cho hoạt đông
kinh
tế vì nó cung cấp thông tin (ông đánh giá cao những thể chế ‘ngoại thị
trường’
hữu ích trong hoàn cảnh thông tin thiếu thốn không đối xứng). Chính
điểm
thứ hai này là điều khác biệt căn bản giữa những người (chỉ trích kinh
tế
tân cổ điển từ bên trong với ý muốn bổ sung nó) như S. và những người
cánh
tả hay chống đối buông lỏng thị trường vì lý do bóc lột giai cấp hay
tương
tự."
"Nói cách khác, sự thiếu tin tưởng của S. vào lập luận thị trường dung
tục (theo đó thị trường hoàn toàn tự do sẽ là liều thuốc vạn năng cho
mọi vấn đề) là căn cứ vào những phân tích vượt lên trên và sâu hơn
những
người khác, không phải (như mác xít) dựa trên sự bài bác (gần như) trọn
gói căn bản kinh tế thị trường. Chính điều này làm lý luận của S. khó
bị quật ngã bàng những đòn phân tích tân cổ điển sơ đẳng, trình độ đại
học năm thứ nhất."
Trở lại với bài giới thiệu [lược thuật bài điểm sách của S. trên tờ
Điểm Sách New York, số đề ngày 15 tháng Tám 2002 (cuốn sách của S. được
xuất bản ở Âu Châu trước, theo bài viết của Trần Hữu Dũng), của tác giả
Benjamin
M. Friedman, "Toàn cầu hóa: Trường hợp Stiglitz"], S. lập đi lập lại
những
lời chỉ trích của ông, rằng những chính sách của IMF không phải là từ
những
nghiên cứu và quan sát kinh tế, nhưng từ một niềm tin ý thức hệ – tin
tưởng
hết mình vào thị trường tự do, cộng thêm vào đó, là một thái độ ác cảm
với
nhà cầm quyền [của những nước là con nợ của nó]. S. liên tiếp chỉ trích
IMF
đã vờ hẳn đi những"sự kiện ở trên mặt đất" tại những xứ sở mà nó đưa ra
những mệnh lệnh, khuyến cáo. Giải phóng thương mại tại một xứ sở chỉ có
ý nghĩa khi nền kỹ nghệ tại đây đã trưởng thành, đủ sức để mà đương đầu
với cạnh
tranh, đừng đặt con trâu trước cái cày. Tư hữu hóa những cơ sở thuộc
nhà
nước chỉ có ý nghĩa, một khi hệ thống lưu thông, điều chỉnh và những
pháp
lệnh đã tỏ ra có hiệu lực, nghĩa là đã đi vào thực tế, chứ không phải
trước
đó. IMF đã "vô tư" bỏ qua những sự kiện, yếu tố như vậy, và chấp nhận
một
sách lược kinh tế được áp dụng chung cho tất cả các xứ sở chẳng cần
biết
tới những hoàn cảnh riêng rẽ của từng quốc gia. Nhưng quan trọng nhất
[tởm
lợm nhất], IMF đã đặt để những chính sách kinh tế của nó dưới cái dù ý
thức
hệ, và được Hoa Thịnh Đốn "hoàn toàn nhất trí", qua đó, là một niềm tin
mãnh
liệt vào thế tất thắng của chủ nghĩa toàn cầu. Và niềm tin này được coi
là
như một thứ tôn giáo, nó không cho bất cứ một ai được phép phản bác, đi
ngược
lại.
Điều quan trọng thứ hai, IMF đã từ bỏ cái thiên chức khởi đầu của nó:
giúp đỡ những xứ sở nghèo đói, kém phát triển và trên đà phát triển giữ
được cán cân chi thu của họ, thay thì vậy, IMF đã chỉ làm cho họ đi
xuống, và càng ngày càng có thêm những người thất nghiệp. Không phải là
IMF vô tình
độc ác tới độ muốn cho sự tình bi đát đến như vậy, nhưng mà IMF dựa
trên
niềm tin, rằng, cứ để cho thị trường tự do hoạt động, tình trạng thất
nghiệp
sẽ tự triệt tiêu, và đây là một lầm lẫn, theo S. Hơn thế nữa, IMF đã
không
hành động với thiện ý: làm tăng trưởng kinh tế (tức là làm sao cho mọi
người
đều có việc làm). Ở đây, không phải IMF độc địa chỉ muốn túi tiền của
mỗi
người sẽ nhẹ đi, nhưng mà là nó tin rằng, có thị trường tự do là có tất
cả. Có nó là có tăng trưởng kinh tế.
IMF, tự nó, phải chịu trách nhiệm về những chính sách kinh tế lầm lạc
nhuốm mùi ý thức hệ mà hậu quả là làm tồi tệ thêm - và trong vài trường
hợp, đã tạo ra - những vấn đề mà nó chiến đấu để chống lại. Thê thảm
hơn, đen tối hơn, đó là thái độ một lòng một dạ của IMF, đối với đám
nhà giầu, những "creditors", không phải với những người công nhân, dân
quê, những người
nghèo khổ. Chẳng phải ngẫu nhiên khi IMF sẵn sàng trả nợ cho những chủ
nhà
băng, những người nắm cổ phiếu. Những người này, miệng lúc nào cũng hô
to
khẩu hiệu thị trường tự do muôn năm, lúc nào cũng sẵn sàng bỏ tiền ra
để
có được những lợi nhuận khổng lồ, nghĩa là cũng ra vẻ sẵn sàng chấp
nhận
rủi ro, nhưng họ đều yên trí, đằng sau lưng còn có IMF, còn có chính
quyền
của nước họ, lúc nào cũng sẵn sàng "cứu bồ", khi rủi ro biến thành hiện
thực. Chẳng phải tự nhiên khi những phương sách đầu tiên mà IMF đòi
hỏi,
một khi khách hàng có nguy cơ không trả được nợ: cắt trợ cấp người
nghèo, phúc lợi xã hội, cúp trợ cấp thực phẩm... Làm gì có chuyện viên
chức IMF đi thăm dân cho biết sự tình, gặp người nghèo này, công nhân
kia, dân quê nọ; người mà nó thăm viếng phải là những ông chủ ngân
hàng, những ông bộ
trưởng tài chính... Stiglitz đưa ra nhận xét: những viên chức đến với
IMF,
là từ những khu vực tài chính tư nhân, và khi từ giã IMF, là để trở về
những
ngân hàng, hay những cơ sở tài chính khác.
Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu, tác giả gạt bỏ quan điểm, đã có một
âm mưu giữa IMF và đám nhà giầu, nhằm bóc lột tối đa đám nhà nghèo. Đây
là một quan điểm ngày càng nở rộ giữa những người chống toàn cầu hóa.
Ông
khẳng định, toàn cầu hóa là... tất yếu, như Trần Hữu Dũng, trong bài
viết
của ông trên tờ Diễn Đàn: "Từ trang đầu tới trang cuối, Stiglitz cẩn
thận
lập đi lập lại: trên nguyên tắc, tiến trình toàn cầu hóa là tốt... Hơn
nữa, kinh nghiệm cho thấy, toàn cầu hóa đã nâng cao chất lượng đời sống
của hàng triệu người, nhất là ở các quốc gia Đông Á và Trung Quốc."
Theo
ông, tuy không có âm mưu, nhưng rõ ràng là IMF chỉ chơi với người giầu,
và
chỉ vì quyền lợi và ý thức hệ của cộng đồng tài chính Tây phương.
Sau cùng, ông cho rằng mắc mứu của IMF như trên còn đưa tới một sự
sa đọa đạo đức: chẳng thèm để ý gì tới người nghèo không phải chỉ là
vấn
đề thị trường, nhà cầm quyền... Đây là vấn đề đạo đức, liên quan tới
phẩm
giá của con người. Khi cố gắng bảo vệ khế ước với đám nhà giầu, IMF đã
khuynh đảo, làm tan nát cái khế ước đạo đức của xã hội.
Jennifer Tran giới thiệu.
|