Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách
Tạp Ghi
|
Tản mạn về
Thơ, nhân một chuyến đi
Car
le fascisme, ce n’est pas d’empêcher de dire, c’est d’obliger à dire.
Roland
Barthes.
(Bởi vì phát xít không cấm nói, mà bắt phải
nói).
Cho phép tôi mở đầu bài viết này bằng một kỷ niệm khá thú vị, liên quan
tới tập thơ của một nhà thơ ở trong nước.
Trong chuyến trở về Hà Nội mới đây, trong khi lang thang bên những tiệm
sách tại một con phố có nhiều tiệm sách, cũng kế bên Bờ Hồ, chợt nhớ
lời một người bạn hỏi thăm về chuyến đi lần trước (về có kiếm được tập
thơ của Vi Thùy Linh hay không), tôi hỏi người bán sách, một cô gái. Cô
trả lời, không biết, không nghe
tên, và nói thêm, ở đây không bán sách những tác giả không nổi tiếng.
Mặc dù còn có những lý do khác nữa, hẳn là thế, nhưng tôi tự hỏi chính
mình, liệu chuyến đi, chỉ là để tìm một cuốn sách?...
[Có thể lắm chứ, tại sao không? Trong đời "Gấu", đã từng có những
chuyến đi crazy như thế!]
Chuyến trước, là bản văn Vô Kỵ giữa chúng ta , nằm kế bên Bờ
Hồ, trong khi tác giả của nó, Đỗ Long Vân, một người Hà Nội, sau những
ngày viễn du phươngTây [ Hãy cho anh một tí Paris, để anh làm thi sĩ
, mô phỏng thơ Thanh Tâm Tuyền), đại học Huế, đài phát tin Phú Lâm, sau
cùng - nghĩa là sau 1975 - hẻm Hồ Biểu Chánh (Phú Nhuận), rồi nằm luôn
tại đó. (Tôi tự hỏi, có lần nào anh thăm lại căn nhà bên Bờ Hồ. Chắc là
có, nhưng ở lại luôn, khó: như người hùng phản-anh hùng Kiều Phong, anh
cũng chẳng còn biết mình là người Khiết Đan, hay là Hán...)
Thế rồi tôi được gặp tác giả. Qua điện thoại. Cô cho biết, tập thơ đã
tuyệt bản, ở nhà cháu còn một hai cuốn, bị gián nhấm, cháu sẽ đem đến
cho chú.
Và ngay tối đó, cô
đem đến, tiếc quá, tôi không được gặp, vì lúc đó đang ngồi với một số
người bạn tại nhà tác giả của một nỗi buồn...
Lẽ dĩ nhiên, không
thể lấy một trường hợp cá biệt như trên, để suy ra rằng, "độc giả" ở
trong nước đã "mù", không đọc ra được thơ Vi Thùy Linh, nhưng quả là đã
có "hơn một độc giả", theo
nghĩa, giới phê bình thưởng ngoạn, đã không chịu nổi thơ Vi Thùy Linh.
Không phải một ông, mà nhiều ông khác nữa, trong đó có
cả một ông bạn tuy mới quen nhưng khá thân - phải nói rất thân, tuy
không cùng tuổi tác.
Tôi nhớ tới câu của Barthes, khi đọc những bài viết về thơ Vi Thuỳ Linh
trên báo chí, qua một diễn đàn trên lưới, và "Thơ và Thơ Trẻ" hiện đang
là chủ đề nóng (hot) tại đây; thành thử, để tránh trùng lập, tôi xin
tản mạn chung quanh một chuyến đi, và về một hai tác giả mà tôi hân
hạnh được gặp.
[Anh,
Trước hết em phải thành thật xin lỗi anh vì thời gian qua nhận rất
nhiều mail của anh mà bất lịch sự không hồi âm nổi một dòng. Em đi làm
phim xa nhà hàng tháng trời, nên không tiện liên lạc...
Anh có khỏe không. Có gì vui không? Anh vẫn thích nghe Kenny G. và
Yanni?
Em gửi anh ba bài thơ mới nhất nhé, anh đọc và chia sẻ với em.
Thỉnh thoảng, em vẫn nghĩ tới anh, và nhớ là anh rất hóm và gần gũi]
Kenny G. và Yanni, không
phải "Gấu" khám phá ra. Một người khác, và nó liên can đến... Đà Lạt.
Đọc
trong nước, tôi vẫn thường "băn khoăn" về một hiện tượng: họ rất tự hào
về một thời văn chương lẫm liệt, về chủ nghĩa anh hùng trong thơ ca, về
những đóng góp của, thí dụ như một thần đồng Trần Đăng Khoa. Sau này,
tôi
đọc được một hai lời giải thích (cứ tạm cho là như vậy). Một của nhà
thơ
Joseph Brodsky, khi nhắc tới một số thi sĩ Nga (trong Chuyện
Trò Với Joseph Brodsky, tác giả Solomon Volkov, chương về nữ thi sĩ
Marina Tsvetaeva). Theo ông, đây là nỗi bất hạnh mà xã hội, nhất là xã
hội
quyền thế [thí dụ như xã hội toàn trị] đem ra tròng vào cổ những nhà
thơ, bắt phải lọc ra một đầu đàn. Áp dụng vào thực tế Việt Nam, chúng
ta có thể nói: bởi vì có một chủ nghĩa thơ ca thần thánh chống Mỹ cứu
nước, cho nên bắt buộc phải có nhà thơ tiên phong, nhà thơ-cung đình
tương xứng. Và ông cho rằng, thơ ca đòi hỏi "nhiều hơn thế,
không chỉ một cái đầu của một chủ soái". Trong khi lọc ra một
vị chủ soái - thí dụ như Tố Hữu - xã hội tự kết án nó, tự trói nó
vào hình thức này, hoặc khác, của chuyên quyền, độc đoán.
Nhìn theo quan điểm này, người ta sẽ hiểu tại sao trong nước đả phá
những nhà thơ như Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư [cho phép tôi chỉ nhắc
tới hai nữ thi sĩ này, do chỉ đọc và có tác phẩm của họ, như là tài
liệu dẫn chứng, khi viết]. Trên tờ Tia Sáng, số tháng Năm 2002, Ánh
Sáng,
tác giả bài viết "Thơ: nỗi buồn ai hiểu?", đã "xác nhận" ý của Brodsky,
khi cho rằng, "Thi ca cũng có bảng A, bảng B... giành nhau một quả bóng
trên sân và hào hứng nhất là cái danh chức chụp giựt giữa: a) các nhà
thơ, và, b) các nhà thơ trẻ... Phan Huyền Thư nóng nảy đứng ngoài,
chúng
tôi đã thôi lem luốc, không còn thò lò mũi, chừng nào mới được vào cúng
bái?"
Octavio Paz, trong "Thơ ca, Xã hội, Nhà nước" cho rằng, thật
"khẩn trương" (urgent), yêu cầu đánh tan mọi mập mờ đánh lận con đen,
giữa cái gọi là nghệ thuật của quần chúng, của tập thể, với cái gọi là
nghệ thuật "quan phương" (official art). Một bên, là nghệ thuật được
gợi hứng từ niềm tin, lý tưởng của xã hội, một bên
là nghệ thuật được viết dưới ánh sáng của Đảng (art subjected to
the rules of a tyrannical power). Tư tưởng Ky Tô giáo đã nhập thân vào
những đế quốc quyền uy, nhưng thật lầm lẫn khi coi nghệ thuật Gothic
hoặc Phục Hưng là do quyền lực giáo hoàng sáng tạo ra. Quyền lực chính
trị có
thể sử dụng, và còn có thể thúc đẩy một dòng nghệ thuật, nhưng nó chẳng
bao giờ sáng tạo ra nổi nghệ thuật. Còn điều này nữa: về lâu về dài, nó
tạo ra phản ứng phụ, làm cho nghệ thuật "thất kinh" [hết còn kinh
nguyệt], bất lực, nghĩa là hết còn đẻ đái gì nữa.
Áp dụng nhận xét của Paz vào trường hợp thơ ca Việt Nam trước và sau,
cứ lấy thời điểm 1975 làm một cái mốc, liệu chúng ta có được "niềm tin"
sau đây:
thơ trẻ trong nước là một phản ứng nhằm chống lại một thời kỳ thi ca
lẫm liệt, và chống lại phản ứng phụ của nó.
Có lẽ chúng ta "bắt buộc" phải hiểu dòng thơ của Vi Thuỳ Linh theo
nghĩa như vậy:
Khoả thân trong chăn,
Thèm chồng. Thèm có chồng ở
bên.
Cũng như nỗi sợ của thi sĩ:
Thiếu phụ
Hai mươi tuổi.
Một độc giả vội vã sẽ cự: Thiếu nữ chứ, tại sao lại thiếu phụ?
Ba trăm năm rồi, tác phẩm Chinh
Phụ Ngâm khúc của Đặng Trần Côn qua bản dịch nôm của Đoàn Thị Điểm
bị
cấm giảng dậy trong các nhà trường của xã hội miền bắc trong suốt thời
kỳ chiến tranh cho tới sau thời đổi mới, chỉ vì nội dung phản chiến của
nó. Trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh, nho sĩ Đặng Trần Côn đã phải
đào
hầm, đọc sách dưới địa đạo, và viết về tâm tình của người đàn bà Việt
Nam
nhớ chồng đi lính. Từ Lạng Sơn cho đến Cà Mâu, hình bóng in dấu trong
tâm
khảm của người Việt là hòn đá vọng phu của người đàn bà chờ chồng. Ngay
cả văn bản giới thiệu và chú giải về Chinh Phụ Ngâm khúc của
một
người có vai vế trong Đảng, và trong giới trí thức là Đặng Thai Mai
cũng
phải sau thời đổi mới, mới được xuất hiện.
Ở đây chúng ta nên mở một dấu ngoặc, về hiện tượng kỳ quái ở Nam Kỳ, là
năm 1945, chính phủ Nam Kỳ đã chọn ngay đoạn mở đầu của tác phẩm
Chinh Phụ Ngâm khúc làm
quốc ca. Đây là trường hợp đặc biệt nhất thế giới về một quốc ca mà
nét chính không phải là hiếu chiến mà là phản chiến. Chính giấc mơ
thanh bình của người dân Nam Bộ đã bị những thế lực ngoại dân tộc
chi
phối, và cản trở cho đến nay:
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.
Bài hát Dạ Cổ Hoài Lang (Nhớ chồng khi nghe tiếng trống ban
đêm) của ông Sáu Lầu ở Bạc Liêu năm 1916 đã mở
đầu cho điệu vọng cổ, sau này là nền tảng âm nhạc của sân khấu cải
lương, giống như giấc mơ Thiên Thai
của miền bắc, qua ca khúc của Văn Cao. Người ta chẳng đã từng ví chủ
nghĩa cộng sản như mùa xuân cứ mãi trẻ hoài của nhân loại, giống như
mùa
đào chưa từng tàn qua một lần và những đoá hoa xuân chưa từng gặp bướm
trần
gian của Văn Cao?
Hoài vọng kia cũng như giấc mơ nọ còn là ám ảnh của cả dân tộc suốt thế
kỷ 20.
Trần Mạnh Hảo, qua một bài viết
đăng lại trên diễn đàn Talawas, có lẽ đã chỉ bám chặt vào "nghĩa đen"
của những từ như "thèm chồng", khi lên tiếng đả kích thơ trẻ. Ông tiện
tay phạng luôn cả những người lên tiếng ca ngợi thơ trẻ, và lên tiếng
thách thức, ca ngợi cho lắm vào, hãy thử chứng minh, hay ở chỗ nào? Bài
viết này, một phần, là toan tính tìm
ra cái hay của thơ trẻ ở trong nước, qua hai "đại diện" của họ.
Trong bài viết "Hình Tượng"
(Figures, trong Figures I, tủ sách Points, bộ môn Tiểu
luận, nhà xb Seuil, 1966), Gérard Genette [tôi tin rằng ông đã từng đọc
hơn một bài viết theo kiểu TMH,
nên đành bỏ công] giải thích, thế nào là một hình tượng, như nó
được sử dụng trong thơ văn.
Trích
dẫn câu của Racine, "Tôi không suy nghĩ hay hơn Pradon và Coras,
tôi viết hay hơn họ", tác giả lập luận: có một "tư tưởng" - hiểu
như một nghĩa, vốn được coi như là "của chung", giữa những nhà thơ hay
và dở; và có thể được diễn tả theo kiểu "thường thường bậc trung"
(nguyên văn: được diễn tả bằng một câu nhỏ, khô, và trần trụi). Và có
một "cách" để diễn tả nó.
Từ đó suy ra: giữa chữ (la lettre) và nghĩa, giữa cái điều nhà thơ
"viết" và "nghĩ", có một khoảng cách (un écart), một không gian, và như
mọi không gian, nó sở hữu (posséder) một hình dáng (forme). Người ta
gọi hình dáng này là một hình tượng (figure). Có hình tượng tới đâu, là
kiếm ra được hình dáng của nó trong không gian tới đấy, chừng nào nhà
thơ còn quẩn quanh trong cõi vô thường, nghĩa là còn lao
đao giữa đôi bờ, giữa lằn ranh của cái tạo ra nghĩa (la ligne du
signifiant), và nghĩa của nó (la ligne du signifié). Ông đưa ra thí dụ:
Trên đôi cánh thời gian, nỗi buồn bay cao.
Câu thơ này có nghĩa:
Khổ đau không thể kéo dài mãi mãi.
Ở một chỗ khác, người viết sẽ xin trở lại, với những "hình tượng thi
ca", mà chỉ nội một từ "chồng" đã dấy lên, từ thơ VTL.
Khi tắm tôi
thường ngắm mình
(như có một người, cùng tấm gương ngắm tôi)
Mảnh mai, lóng lánh ướt...
VTL (Bóng Người)
"Mình ngắm mình" là một trong những "thói xấu" thiết yếu của thơ văn,
nếu coi mọi cái viết
ra đều mang tính tự thuật, mặc dù "bản năng" mách bảo, càng giấu đi cái
tôi chừng nào, bản văn càng mang tính khái quát, càng
vươn tới cõi người rộng lớn chừng đó. Nhà văn gốc Do Thái Isaac
Bashevis Singer nhớ lại một kỷ niệm khi còn nhỏ ở Warsaw, lần đầu
đọc bản dịch cuốn Tội Ác và Trừng Phạt của [nhà văn
Nga] Dostoyevsky, đã đi tới kết luận, Dostoyevsky: một nhà văn Do
Thái, là vậy. Dos. đã vượt mức "khái quát" (tính nhân loại đời đời,
theo một vài ông nhà văn, nhà phê bình) đến nỗi, bất cứ độc giả nào
cũng nghĩ, tay này đúng là người "nước mình"!
Hãy biết mình, phương ngôn đã dạy. Càng ngắm mình
cỡ nào, càng thấy người (ta, người khác) cỡ đó.
[Lại có ông cứ nhìn mình tới đâu là lòi ra cái thân phận nhược tiểu,
vừa đẻ ra là đã đau nỗi đau da vàng rồi, khi ra được nước ngoài mới
thấy rằng, đây
mới thực sự quê hương của mình, thì sao?
Xin hẹn, sẽ bàn tiếp "vấn đề lớn"
này ở một chỗ khác].
Trong tiểu luận "Chín Mươi Năm Sau" (in trong "On
Grief and Reason" ), khi viết về bài thơ "Orpheus. Eurydice.
Hermes" của [nhà thơ Đức] Rilke, Brodsky cho rằng, mọi
thực tại đều mong có được cái thân phận, là một bài thơ, ấy chỉ
vì lý do tiết kiệm. Tiết kiệm là "lý do hiện hữu" tối hậu của
nghệ thuật, và lịch sử nghệ thuật chỉ là lịch sử những
phương cách dồn nén, sao cho ở bầu thì tròn ở ống thì dài. Thơ ca,
là ngôn ngữ, nghĩa là thực tại, ở dạng nén cao cấp của nó. Nói ngắn
gọn, một bài thơ "cho rất nhiều mà chẳng nhận bao nhiêu" [bài thơ
không phản ảnh, mà là sản sinh]. *
-Này gương ơi, ta muốn biết
trí
tuệ của ta?
-Thưa cô, cô thông minh hơn nhiều so
với tuổi.
-Gương ơi, bây giờ trông ta ra sao?
-Cô già hơn nhiều so với tuổi.
VTL
Tôi dài dòng tản mạn, cốt để lọc ra mấy ý này:
-Tính "tiết kiệm" trong thơ của VTL, rõ rệt nhất là ở cái tên: Khát,
Linh. Khát là nguyên nhân. Nguyên nhân này khởi đi từ thân xác, từ
những nhu cầu cụ thể hàng bao nhiêu năm bị hi sinh cho những chiêu bài
trừu tượng và phủ nhận con
người tuy mang danh nghĩa là vật chất. Linh là hậu quả, của cái việc
nhìn ngắm mình bằng cái gương khuếch đại. Khát không phải chỉ là
cái khát của một cá nhân, mà là của cả thế hệ hai mươi tuổi, trưởng
thành
sau cái kết thúc của chiến tranh Việt Nam. Linh không phải chỉ là một
cô
gái, một sinh viên, mà là tiếng nói của giới nữ, của một người dân tộc
Tày
thiểu số khuếch đại thành tiếng nói của cả 56 dân tộc, hợp thành nhân
dân
Việt Nam.
[Với một độc giả miền nam, thì đây
là lịch sử thi ca Việt Nam đang nhìn chính nó, nếu chúng ta
liên tưởng tới hai tập thơ "Tôi Không Còn Cô Độc" ( Tôi
gọi tên tôi cho đỡ nhớ: Thanh Tâm Tuyền), và "Liên. Đêm. Mặt
Trời Tìm Thấy" ; ngắn gọn
hơn, đây là con đường thi ca đi từ Liên tới Linh, từ người nữ như
một đối tượng đến người nữ như một chủ thể].
-Tính "huyền thoại": Nh ững "ẩn dụ" như " tôi gọi tên tôi cho đỡ
nhớ", "tôi nhìn tôi cho đỡ thèm đỡ khát..." liệu có thể coi như
chấm dứt huyền thoại "thơ viết dưới ánh sáng của Đảng"?
(còn tiếp)
NQT
Ghi chú:
* Nguyên văn đoạn trích dẫn Brodsky:
.....
VIII
The poem has the quality of an uneasy dream, in which you gain
something extremely valuable, only to lose it the very next
moment. Within the limitation of one's sleeping time, and perhaps
precisely because of that, such dreams are excruciatingly convincing in
their details;
a poem is also limited, by definition. Both imply compression, except
that a poem, being a conscious act, is not a paraphrase or a metaphor
for
reality but a reality itself.
For all the recent popularity of the subconscious, our dependence on
the conscious is still greater. If responsibilities begin in dreams, as
Delmore Schwartz once put it, poems are where they ultimately
articulated and fulfilled. For while it's silly to suggest a hierarchy
among
various realities, it can be argued that all reality aspires to the
condition of a poem: if only for reasons of economy.
This economy is art's ultimate "raison d'être", and all its history is
the history of its means of compression and condensation. In poetry, it
is language, itself a highly condensed version of reality. In short, a
poem generates rather than reflects. So if a poem addresses a
mythological subject, this amounts to a reality scrutinizing its own
history, or, if you will, to an effect putting a magnifying glass to
its cause and getting blinded by it.
"Orpheus. Eurydice. Hermes" is exactly that, as much as it is the
author's self-portrait with that glass in hand, and one learns from
this poem a lot more about him than any life of him will offer. What he
is looking at is what made him, but he who does the looking is far more
palpable, for you can look at something only from outside. That's the
difference between a dream and a poem for you. Say, the reality was
language's, the economy was his.
[Bài thơ đâu khác chi một giấc mơ khắc khoải, trong đó bạn có được một
cái chi cực kỳ quí giá: chỉ để mất tức thì. Trong giấc
hoàng lương ngắn ngủi, hoặc có lẽ chính vì ngắn ngủi, cho nên những
giấc mơ như thế có tính thuyết phục đến từng chi tiết. Một bài thơ,
như định nghĩa, cũng giới hạn như vậy. Cả hai đều là dồn nén, chỉ khác,
bài thơ, vốn là một hành vi ý thức, không phải sự phô diễn rông dài
hoặc
ẩn dụ về thực tại, nhưng nó chính là thực tại.
Cho dù tất cả sự phổ quát gần đây của tiềm thức, sự tuỳ thuộc của chúng
ta vào ý thức vẫn lớn hơn. Nếu trách nhiệm bắt đầu (ngay từ) trong giấc
mơ, như thi sĩ Delmore Schwartz đã có lần diễn tả, rốt ráo ra, những
giấc mơ được thể hiện và hoàn tất ở trong những bài thơ. Bởi thật là
ngốc nghếch nếu gợi ý rằng có một đẳng cấp giữa những thực tại phức
biệt, người ta có thể lập luận rằng toàn thực tại hướng vọng tới điều
kiện của một bài thơ: nếu chỉ vì lý do tiết kiệm.
Sự tiết kiệm này là "lý do hiện hữu" tối hậu của nghệ thuật, và toàn
thể lịch sử nghệ thuật là lịch sử của những phương tiện dồn nén và súc
tích. Trong thơ, đó là ngôn ngữ, tự thân nó, là một bản sao
của thực tại được cô đọng cao độ. Nói tóm lại, bài thơ sản sinh hơn là
phản ánh. Vậy nếu một bài thơ đề cập tới một chủ đề huyền thoại, điều
này
có nghĩa là một thực tại quan sát chính lịch sử của nó - hoặc nếu bạn
muốn
- điều này có nghĩa là, một hậu quả đặt tấm gương khuếch đại cạnh
nguyên
nhân và bị chói loà bởi nó.
Bài thơ "Orpheus. Eurydice. Hermes" đúng là như thế, bởi
nó chính là chân dung tự hoạ của tác giả với cái kính khuếch đại cầm
trên tay, và người ta, qua bài thơ này, biết được nhiều về tác giả hơn
là bất kỳ cuốn tiểu sử nào về ông có thể cung ứng. Cái tác giả ngắm
nhìn chính là cái tạo nên ông, nhưng kẻ ngắm nhìn thì rõ
ràng hơn, bởi vì bạn chỉ có thể ngắm nhìn một cái gì từ bên ngoài. Đó
là sự khác biệt giữa một giấc mơ và một bài thơ đối với bạn. Có thể
nói, thực tại là của ngôn ngữ, tiết kiệm là của nhà thơ.]
NQT
|