Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách
Tạp Ghi
|
Karl Marx: Ta còn để lại
gì không?
Sau đây là giới
thiệu bài viết của Robert Skidelsky,
điểm cuốn tiểu sử Marx, của Francis Wheen (Karl Marx: Một cuộc đời, A
Life, nhà xb Norton, 431 trang, $27 USD), trên tờ Điểm Sách Nữu Ước
NYRB số đề ngày 16 tháng 11, 2000. Skidelsky là Giáo sư môn Kinh tế
Chính trị tại [Đại
học] Warwick University, Anh quốc. Nhan đề bài giới thiệu, mượn câu thơ
của Vũ Hoàng Chương trong bài Nguyện Cầu), thay vì "What’s Left of
Marx",
của Skidelsky.
"Tất cả... những
nhân vật có tầm quan trọng lớn lao
trong lịch sử thế giới, thường xuất hiện, như đã từng xuất hiện, hai
lần, một
lần như bi kịch, lần thứ hai, như trò hề."
K. Marx (The 18th Brumaire of Louis Bonaparte).
"Lịch sử chấm dứt, có vẻ như không phải với chủ nghĩa xã hội, mà với
chủ nghĩa tư bản"
Robert Skidelsky
Khi Karl Marx
mới 24 tuổi, một người đương thời viết về ông: "Hãy tưởng
tượng Rousseau, Voltaire, Holbach, Lessing, Heine và Hegel bị thẩy vào
lò cừ, và trở thành một người, thì đó là Dr. Marx". Marx không phải là
một trong những con người trẻ tuổi, thông minh sáng láng đó, những
người đã thất bại không sống đúng như lời hứa hẹn của họ về cuộc đời.
Ông sản xuất ra một
hệ tư tưởng mãnh liệt nhất, hài hoà nhất, chưa từng có người nào nghĩ
ra
nổi, nhằm giải thích quá khứ của con người, nghiên cứu hiện tại, và trù
tính tương lai cho nó.
Cái mà lò cừ
sản xuất ra, là một lý thuyết biện chứng, về những lớp
lang, giai đoạn của lịch sử, một lý thuyết duy vật lịch sử (trong đó
cuộc đấu
tranh giai cấp thay thế cuộc đấu tranh tư tưởng trong cuộc tiến hoá của
nhân loại, của Hegel), một phê bình kinh tế và đạo đức nền văn minh tư
bản
(qua những chủ đề về bóc lột và tha hoá), một chứng minh mang tính kinh
tế, rằng chủ nghĩa tư bản sắp sửa sụm, (do những mâu thuẫn nội tại của
nó),
một lời kêu gọi hãy "làm cách mạng", và một lời tiên đoán (một lời đoan
chắc), rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ là giai đoạn kế tiếp – và là sau cùng
– của lịch sử. Hệ tư tuởng của ông được khai triển rất kỹ càng, tuy
không
hoàn tất, ở trong cuốn sách vĩ đại "Tư Bản Luận", trong đó, lý thuyết
đấu
tranh giai cấp được gắn liền với những vấn đề kinh tế kiếm lợi nhuận,
theo
một đường lối làm sao cho chủ nghĩa tư bản sụp đổ đem đến sự thay thế
cho
nó, là chủ nghĩa xã hội. Kể từ khi Marx mất vào năm 1883, chủ nghĩa
Marx
sụp đổ, như là một hệ thống. Còn lại, là những tản mạn không nối kết
lại
được với nhau, của một đồ án (design) đã một thời [được coi là] hài hoà
(coherent).
Cái ít nhất bị
phế bỏ đầu tiên, từ hệ tư tưỏng đó, trong thế giới phát
triển hiện nay, là lời tiên đoán chủ nghĩa tư bản sẽ nổ tung; thay vì
vậy, là sự sụp đổ của một phương án mang tính chính trị cách mạng. Chủ
nghĩa
tư bản đã trải qua những giai đoạn khủng hoảng trầm trọng, nhưng – may
mắn
thay – nó "thất bại" trong việc sản xuất ra một sự nghèo đói mang tính
tập
thể, cho những khối lượng lớn lao những con người. Nói rõ hơn, nó có
thể
tự sắp xếp, tái tạo mà chẳng cần tới những tự-mâu thuẫn đưa đến tự huỷ
diệt.
Ngoài điều này ra, sự đăng quang, thế tất thắng của chủ nghĩa cộng sản
đã
ngày một lu mờ, do những biện pháp kinh tế vừa mang tính khủng bố, vừa
vô
hiệu quả, tại những quốc gia theo chủ nghĩa cộng sản, như ở Nga, và
Trung
Quốc. Tính năng nổ của chủ nghĩa tư bản, cùng với sự yếu ớt, ù lì thụ
động
của Liên Bang Xô Viết đã là cái giá mà lý thuyết về lịch sử của Marx
phải
trả: Chẳng hề có chuyện gọi là biện chứng trong chủ nghĩa tư bản, từ đó
đẻ
ra chuyện, chủ nghĩa xã hội sẽ thay thế nó.
Cái còn lại,
lấy ra được, từ chủ nghĩa Marx, tức là từ đống vụn nát mới
ngày nào tự phong đả biến thiên hạ vô địch thủ, bách chiến bách thắng,
là phê bình mang tính đạo đức về nền văn minh tư bản, và đây đúng là
của Marx, vắt ra từ trái tim nhỏ máu của ông trước nỗi đau khổ của
người công nhân Anh trong những xưởng thợ, nhà máy. Bạn có thể "đọc"
thấy nỗi đau này, qua những tác phẩm của Dickens, chẳng hạn, nếu không
muốn nhức đầu vì mớ sách tư tưởng.
Vào thập niên
1960, "Marx Trẻ" (Young Marx) - "Bản thảo Kinh tế và
Triết học" do "chàng" sáng tác vào năm 1984 - được thiên hạ xưng tụng
như là
"triết gia của [tư tưởng] vong thân", một cặp bài trùng, nếu nói về hai
ông nổi cộm thời đó: Marx và Freud. Chủ nghĩa duy vật lịch sử - tư
tưởng
"không phải ý thức quyết định cuộc đời, mà là cuộc đời quyết định ý
thức"
, hay nói theo kiểu hiện sinh, "hiện hữu có trước yếu tính" – cũng hớp
hồn chẳng kém, mặc dù nó không còn nối kết với bất cứ một mưu đồ lịch
sử
mang tính giai đoạn nào, [mưu đồ lịch sử mang tính giai đoạn, thí dụ
như
"người ta" coi biến cố Xô Viết Nghệ Tĩnh là một tổng diễn tập, sửa soạn
cho Cách Mạng Tháng Tám sau đó]. Những câu nói của Marx, những văn đoạn
của ông, là "tiếng nói đầu con gọi" của bất cứ băng, nhóm, ở bất cứ
đâu,
khi mà những cá nhân thành viên cảm thấy mình bị cho ra rìa (excluded),
bởi
những cơ cấu quyền lực hiện hữu. Tiểu luận của ông "Về Vấn Đề Do Thái"
được
coi là "luôn mang tính thời sự". Tiếp theo sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng
sản,
"Tuyên Ngôn Cộng Sản" của Marx, được viết năm 1948, lại sống lại, và
được
coi như lời tiên tri, cảnh báo nhân loại trước "hiểm họa" Toàn Cầu Hoá.
Sự
"chuyển dịch", "làm mới" tư tưởng của ông như trên, càng "làm sáng"
niềm
tin của chính Marx, về "những xã hội sử dụng những tư tưởng mà chúng
cần,
chứ không cần những tư tưởng mà chúng sử dụng".
"Marx: Một
Cuộc Đời" của Francis Wheen là cuốn "hậu-Mác xít" đầu tiên
về cuộc đời của Marx. Tất cả những cuốn tiểu sử trước đó, yêu hoặc ghét
ông, đều cho rằng, những tư tưởng Mác xít, cho dù tốt hoặc xấu, đều
liên quan
(mattered); rằng chúng cần được chống đỡ, bảo vệ, hoặc bị tấn công,
phản
bác; hay ít ra, chúng cần được bàn luận tới một cách thật nghiêm túc,
rằng,
cuộc đời của Marx không thể bị bỏ đi, và là một phần trong lịch sử của
chủ
nghĩa xã hội vẫn chưa được hoàn tất đó. Nhưng những tiểu sử sau cùng,
theo
kiểu trên, chấm dứt vào thập niên 1970. Nội dung lớn mang tính chính
trị
văn hóa của cuốn của Wheen không phải chỉ là về sự sụp đổ của chủ nghĩa
Marx,
mà là về sự sụp đổ của tư tưởng Soi Sáng - Skidelsky dùng từ phóng
chiếu,
project - mà chủ nghĩa Marx là một nhánh của nó. Nói rõ hơn, đây là về
sự
sụp đổ của quan niệm, rằng, lịch sử có một "siêu-tự sự"
(meta-narrative) nối kết quá khứ với tương lai, và cái siêu-tự sự này
có thể nhận ra được
bằng thuần lý, và dưới ánh sáng của nó, những diễn giải được đưa ra và
những
hành động được thực thi. Ngày nay, chúng ta hoàn toàn sống trong hiện
tại.
Với hầu hết mọi người, quá khứ chỉ có một tí ti ý nghĩa; theo đó, chẳng
thể
có tương lai ở phía chân trời, nếu không có nhiều hiện tại như hiện
chúng
ta đang có như thế này đây, ấy là không kể những gì mà khoa học hứa
hẹn,
cho dù hàm hồ cỡ nào. Lịch sử có vẻ như chấm dứt, không phải với chủ
nghĩa
xã hội, mà là với chủ nghĩa tư bản.
Trong hoàn
cảnh "từ chết tới bị thương" – lịch sử có vẻ như không chấm
dứt với chủ nghĩa xã hội, mà chấm dứt với chủ nghĩa tư bản – làm sao
viết, nếu có người còn muốn viết, về Marx?
Vậy mà vẫn còn
tới hai toan tính mang tính chiến lược về tiểu sử của
ông.
"Mặt trận" thứ
nhất: coi tiểu sử Marx như một "lăng, đài" (monument),
của những nỗ lực và hy vọng "không đúng nơi đúng chốn". Chất liệu và
những tao ngộ trong cuộc đời của ông có thể thâu gom, chắt lọc, sắp
xếp... và rút
ra từ đó, một lời giải thích, tại sao một triết học nhân bản, vị tha,
một
hy vọng về một con người toàn thể, về một xã hội không còn người bóc
lột
người, lại đẻ ra trái đắng là chủ nghĩa Marx? Tiểu sử vị "cha già chủ
nghĩa"
mang tính chiến lược như vậy, còn có thể trả lời cho câu hỏi, tại sao
một
công trình lớn lao như thế lại sụp đổ, và những gì cần gìn giữ, nâng
niu,
ở trong đống vụn nát đó? Nói một cách ngắn gọn, một "tự sự" về cuộc đời
của Marx có thể được dựng lên theo một nội dung như sau: như một phương
án
- giấc đại mộng của ông về một thiên đường cộng sản - và sự thất bại
của
nó.
Robert
Sidelsky tác giả bài điểm cuốn tiểu sử Marx của Wheen cho biết,
nếu phải viết, ông sẽ chọn cách như trên. Nhưng đó không phải là cách
viết của Wheen.
Cách tiếp cận
[cuộc đời Marx] của Wheen khác hẳn. Cuốn sách của ông là
về Marx mà không có chủ nghĩa Marx (about Marx without Marxism), về một
lịch sử nho nhỏ cắt ra khỏi một lịch sử lớn.
Lịch sử nho
nhỏ bắt đầu tại Trier (Rhineland), nơi Marx chào đời vào
năm 1818, trong một gia đình Do Thái; bố mẹ sau cải qua Protestantism.
Nó dẫn chúng ta tới những ngày học đại học Berlin, nơi Marx rơi vào ảnh
hưởng của Hegel, xuyên qua môi trường chính trị cách mạng tại Đức và
Pháp,
mà đỉnh cao của nó là cuộc cách mạng 1848, và chấm dứt với chuyến lưu
vong
dài tại Anh quốc, xứ sở độc nhất đã chứa chấp ông. Sau 18 năm tại Luân
Đôn,
phần lớn thời gian dùng vào việc mài đũng quần tại Phòng Đọc Sách Viện
Bảo
Tàng Anh Quốc, kết quả là, vào năm 1867, ông sản xuất ra tập đầu cuốn
"Tư
Bản Luận", ông nổi tiếng chủ yếu nhờ nó, tuy chẳng bao giờ hoàn tất.
Chính
tại Luân Đôn, nơi ông hoàn toàn dửng dưng với những cư dân và những vụ
việc
(affairs) của họ, Marx từ bỏ cõi đời vào năm 1883, trong tình trạng cạn
kiệt, nghĩa là hết sạch, chẳng còn gì.
Wheen dâng
hiến cho chúng ta - như ông tự hào là người đầu tiên - "Marx
the man", Marx như một con người, không phải Marx như một kịch sĩ đóng
tuồng lịch sử, Marx the human being, không phải Marx, một nhà nhân bản
(the humanist). Tới một chừng mực nào đó, ông đã thành công tuyệt vời
trong cố gắng này. Cuốn sách của ông thật dễ đọc. Marx, "chính là
chàng", bị thẩy vào cuộc
đời, với thói hư tật xấu, kể cả những "ung nhọt". Marx có thể nhắm vào
"sự
huỷ diệt trí thức nền kinh tế chính trị cổ điển", nhưng ông bật ra từ
những
trang sách thật là sống động của Wheen, nhất là trong những ngày còn
trẻ,
như một tay du côn (hooligan), không chỉ muốn quẳng đi cái gánh nặng
trí
thức của mình, mà còn ăn bám người khác, kể những chuyện tiếu lâm thô
tục,
bò lê bò càng vào quán rượu, thách quyết đấu tay đôi, và đập bể đèn
đường.
Marx, như trong những trang sách này của Wheen, đúng là một "thằng chả
chịu
chơi", và "chơi chịu", a one hell of a lad!
"Thằng chả
chịu chơi", sau đó là một người chồng (hầu như hết mực)
trung thủy, và một người cha rất thương yêu và hay nô đùa với các con.
Wheen
thật tuyệt, khi viết về những nhức nhối tiền bạc của Marx, ("tiền bạc
cứt
đái", như Marx thường gọi), và những tủi nhục và những bi kịch mà thứ
"cứt
đái" đó ảnh hưởng tới gia đình ông: Ba trong số những con của ông, chết
trẻ, hầu hết là nạn nhân của cuộc sống trong những căn nhà ổ chuột mà
Marx
phải đưa vợ con tới trú ngụ, trong những ngày đầu ở Luân Đôn. Hình ảnh
Marx
mà chúng ta thường nhìn thấy, là một ông chủ gia đình thời Victoria,
bên
bàn ăn thịt cá ê hề vào những ngày cuối tuần, đi dạo quanh vùng
Hampstead
Heath với mấy cô con gái, và mấy đứa cháu. Cuốn sách của Wheen còn
tuyệt
vời, với những chân dung hấp dẫn và thú vị của Engels, Lassalle,
Bakunin,
và những cộng sự viên khác của Marx. Ông kể thật hào hứng, cuộc đấu trí
giữa
những "tinh hoa, trí tuệ hàng đầu" – Marx và những bạn bè quanh ông –
trong
cuộc Hoa Sơn luận kiếm, giản dị chỉ là những lời nói trao đổi giữa họ,
và
từ đó suy ra, ai xứng đáng là minh chủ võ lâm, "bậc thầy của những bậc
thầy",
và tại sao võ lâm từ đó chia năm xẻ bẩy, nguồn cơn nào nhóm đầu não
cách
mạng này tan rã ra. Nếu chỉ nói riêng về sự hóm hỉnh, thì Marx xứng
đáng
là bậc thầy, và cuốn sách của Wheen cũng hưỏng cái phần của nó, nhờ
những
chi tiết còn nguyên, chưa bị xóa bỏ, trong những thư từ trao đổi giữa
Marx
và Engels. Những tư tưởng chính của Marx đã được tác giả xen kẽ thật
tài
tình vào dòng kể, khiến nó không bị đứt quãng làm độc giả bực mình.
Nhưng Wheen đã
thất bại, khi không làm bật ra được sự "cao cả trí tuệ"
(intellectual grandeur) của Marx. Ông quả quyết Marx là một nhà tư
tưởng lớn, một người làm việc cật lực, rằng những gì ông ta viết ra làm
đầy 50 cuốn sách, nhưng người đọc vẫn không nhận ra đâu là sự nghiêm
túc của vấn đề. Đâu là "chỗ đứng" (situation), của Marx, và của Âu
Châu, trong nửa đầu thế kỷ 19, từ đó cái kho thuốc nổ chứa đầy nội lực
(energy) cách mạng –
cả về trí tuệ lẫn chính trị - nổ tung ra? Người đọc cũng khó mà khôn
ngoan
hơn Wheen để mà luận ra được "thế đứng" này. Ông còn tỏ ra ít tò mò, về
tâm lý của Marx. Nếu không kể nỗi đau, và tấm lòng của ông đối với tầng
lớp công nhân, thợ thuyền Anh, nguồn cơn nào đã khiến ông hô hào "Hỡi
những
kẻ trầm luân, Hỡi những kẻ vô sản trên toàn thế giới, hãy đoàn kết
lại"?
Nếu những đệ tử của ông sau này chủ trương không phải bạn ta thì là kẻ
thù
của ta, mà kẻ thù là phải tận diệt, lòng hận thù này cũng là của Marx,
và
là nguyên nhân đưa đến chủ nghĩa cộng sản. Và như thế một "Marx con
người
đầu tiên", như Wheen tự hào khám phá, hoá ra là một Marx con người đầu
tiên
bị [lòng hận thù làm] biến chất, "the first dehumanized Marx". Tức là
một
Marx bị cắt ra khỏi câu chuyện của nhân loại.
(còn nữa)
Jennifer
Tran giới thiệu
|