CHÉN RƯỢU VĨNH BIỆT
Cữ
thượng tuần tháng tư năm
nay, tôi có chút việc phải về làng Mọc. Tôi nghĩ ngay đến việc ghé thăm
ông Tản
Đà. Từ chỗ ông ở đến làng Mọc tôi, cách nhau độ năm trăm thước. Sẵn có
bó đóm
diêm gỗ bồ đề, tôi gói đi gọi là làm chút quà cho ông bạn già vốn đặt
cái thú
hút thuốc lào ngang với cái thú uống rượu. Con người ta chơi với nhau,
đã mến
được nhau, đã kính nhau, thường hay có những cái tỉ mỉ như thế. Cái
thanh đóm
dùng để châm thuốc lào, ở người khác tôi không hiểu nó như thế nào,
nhưng giữa
ông Tản Đà và tôi, thanh đóm đã là một cái gạch liên lạc nối một trẻ
vào một
già.
Lần đầu
tiên tôi giáp mặt ông
Tản Đà là ở tòa soạn An Nam tạp chí phố Hàng Da. Đầu năm 1932 gì đó,
sau cái
hồi rời bỏ phố Hàng Khoai, lúc ông Hiếu còn cộng sự với ông Cử Ngô Thúc
Địch.
Sau bài thơ trường thiên của tôi gửi đăng ở An Nam tạp chí lấy tên là
Tương Tư
Hành, Vũ Lang đưa tôi lại giới thiệu cùng ông Tản Đà. Tôi còn nhớ buổi
đầu đó,
chúng tôi nói rất nhiều về bản dịch bài Tỳ bà của Bạch Cư Dị, mà nhiều
người gán
cho Nguyễn Công Trứ và một số người nữa thì bảo là của ông Đồ Phù Long
(?)
Những đoạn nhắc đến chữ dịch hay quá, hay đến nỗi hóa được cả chữ của
nguyên
văn như chữ tẩm (biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt) mà dịch là dầm
(nước
mênh mông dầm vẻ trăng trong) chẳng hạn, ông Tản Đà hút một điếu thuốc
lào, tôi
cũng hút một điếu thuốc lào.
Chúng
tôi thông điếu lẫn cho
nhau và người hút thuốc thường giữ một thanh đóm lúc vẫn cháy để chờ
người sau
kịp rịt một mồi thuốc thứ hai vào nõ điếu. Lẽ cố nhiên, tôi thông điếu
và giữ
thanh đóm cháy nhiều hơn ông Tản Đà.
Tôi rất
vui vẻ giữ cái địa vị
đàn em như thế có đến nửa giờ đồng hồ vì hai cớ: cớ thứ nhất là trước
mặt tôi,
tôi có cả một cái tài hoa già dặn của thời đại; cớ thứ nhì là ông Tản
Đà cao
hơn tôi những hai chục tuổi đầu. Lúc đứng dậy xin cáo, ông Tản Đà tay
sẵn thanh
đóm còn cháy dở, nèo tôi hút một điếu thuốc lào nữa và cười khà khà:
- Ngon
nhất là cái điếu thuốc
lào hút thế nào cho được nhất khí.
Thấy
bao diêm của tôi đã vợi
hết ruột, ông sẻ cho mấy chục que ở cái bao đầy của ông.
- Ngài
cầm ít que dừng tạm.
Bên đầy quá bên vơi quá.
Tôi
lĩnh mươi cái que đóm
diêm sinh, cảm tình vô hạn cái buổi đầu gặp ông Tản Đà, buổi đó, để lại
cho tôi
nhiều thiện cảm. Nhớ đến cái tàn lửa đóm của ngày cũ năm 1935, hồi ông
Tản Đà
thất thế lùi về Khê Thượng, tôi có gửi lên cho tiên sinh một bó đóm
diêm gỗ bồ
đề. Có người bạn quen, bắt gặp tôi ra nhà dây thép gửi cái bưu kiện đóm
diêm
lên tận tỉnh Đoài cho thi nhân, người đó đã đùa nhả một câu:
- Anh
định diễn lại cái kịch
rau sắng chùa Hương, có phải thế không?
Bó đóm
đi không bao lâu thì
ông Tản Đà gửi lại một bài thơ lục bát trong đó có hai câu:
Tay cầm bó đóm con con,
Nhớ
người xa nước xa non như
gần.
Đã có
bao nhiêu đêm đông
lạnh, tôi ngồi xổm khoác mảnh chăn bông lên bả vai, châm một thanh đóm,
và nhớ
đến người xa xa tôi cất tiếng ngâm một bài "Thề non nước" giữa một
vùng khói thuốc lào dầy đặc, như màn đất núi.
Mãi đến
đầu năm ngoái, tôi
mới có dịp gần ông Tản Đà luôn luôn. Mỗi dịp gần nhau lại là một dịp để
say
sưa, để hút thuốc lào với thanh đóm cũ, để nói chuyện dịch Liễu trai,
dịch
Đường thi và phê bình về người và việc trong Đông chu liệt quốc.
Biết là
đóm đã hết, cữ này về
làng Mọc, tiện đường qua nhà ông Tản Đà ở Cầu Mới, tôi đem về biếu một
bó đóm
nữa.
Bấy giờ
vào quãng chín giờ
sớm. ông Tản Đà đang uống nước trà, thấy tôi vào đã vội cười với một
câu:
"Cố nhân lai!" Cái mừng rỡ này xiết bao thành thực. Đúng như vậy, đã
mấy hôm nay rồi, ông Tản Đà đang khát gặp người nói chuyện. Những bạn
năng lui
tới thường đã rõ ông Tản Đà vì sao phải rời xóm Bạch Mai chạy về vùng
Ngã Tư
Sở. Mở ngôi hàng xem số tử vi Hà Lạc, không có khách. Mở lớp quốc văn
hàm thụ
và lớp Hán văn diễn giảng cũng lại không có học trò nốt. Rốt cùng đến
thiếu
tiền nhà, chủ nhà đuổi người thuê nhà và giữ lấy đồ đạc.
Chỉ tay
vào chồng sách cũ xếp
trên cái ghế mọt dài, chỉ tay vào hai chiếc ghế mây đã gần thành bảy
chân
choãi, ông Tản Đà vẫn còn hài hước:
- Nhiều
lắm mà làm gì. Hai
chiếc ghế cũng đủ chán. Chủ ngồi một chiếc, khách ngồi một chiếc.
Tôi
bâng khuâng. Tôi cố tìm
trong đầu tôi, lục lại trong cái mớ truyện Đông Tây cổ kim, để tìm lấy
tên một
thi sĩ giàu có. Thì ra, cái nghèo của thi nhân đã là một nghiệp dĩ. Sự
giàu
sang người ta chỉ thấy ở một kẻ buôn bán, ở một nhà viết tiểu thuyết.
Có bao
giờ, có mấy khi, một thi nhân được nằm lên đống vàng mười. Tôi muốn bỏ
đi ngay,
để được phơi những ý nghĩ đen ngòm này ra một chỗ thoáng.
Ông Tản
Đà giữ tôi lại:
- Này,
đi đâu? Lâu lắm không
uống với nhau một chén nào cả. Ở đây rồi ta tiểu ẩm.
Rồi ông
chỉ cái thẩu rượu có
ngâm đôi ba con cáp giới còn nguyên hình:
- Của
một ông bạn ngoài Quảng
Yên làm quà cho. Để đợi hôm nào khỏe, chúng ta sẽ dùng hết. Cái giống
này tráng
dương lắm. Lai ơi!
Lai là
tên một người hầu cận
thi nhân, cũng là người Khê Thượng, theo ông từ ngày ông lùi về quê
vùng Bất
Bạt. Trước kia Lai thất học, nhưng từ ngày ở với ông Tản Đà đã biết
đọc, biết
viết và nhiều khi ngồi bên bếp lửa thăm dòm một bát canh, một niêu cơm,
còn
ngâm nga(!) nữa. Đã từ bốn năm năm nay, mọi việc chuyên trà, xào nấu
món ăn và
những lúc đêm hôm phải cầm cái hũ đi lấy rượu từ đầu làng đến cuối làng
những
lúc có khách, nhất nhất mọi việc đều qua tay Lai cả. Nếu ông Tản Đà ở
lùi vào
thời trước, thì nhất định Lai phải để hai trái đào như một hề đồng ngày
ngày
đeo một cái lẵng hoa quả theo thầy lên núi lau một cái sườn đá cho thầy
đề mấy
vần thơ. Chiều cho được ông Tản Đà, tôi tưởng cũng chỉ có một mình Lai
thôi.
Lai lúc nào cũng vui vẻ đứng hầu rượu. Với những phong tục rất êm đềm
ấy ở
trong một khung cảnh rất thanh bạch ấy, hai thầy trò ông Tản Đà đã gần
như chọn
nhầm thế kỷ.
Lai đã
bưng siêu nước ra,
đứng vòng tay chờ ông Tản Đà sai bảo:
- Này
Lai, con chạy ra đầu
phố xem có cái gì mua về uống rượu. Con tùy tiện lấy.
Nghe mà
thấy dài quá! Nghe mà
thấy sang quá! Ai dám bảo ông Tản Đà là luôn luôn túng quẫn. Tôi tủm
tỉm cười.
Lai ở
chợ đã về và đã nhanh
nhảu bày lên bàn những món tửu hào. Trên mặt cái bàn gỗ mộc tròn vốn
dùng luôn
làm bàn giấy (!) - những lúc dịch thơ Đường bán cho báo Ngày nay, những
lúc
dịch Liễu trai bán cho nhà Tân dân, những lúc chấm số Hà lạc bán cho
khách bốn
phương trời - trên cái bàn gỗ mộc, Lai đã đặt lên đấy một cái hỏa lò
than hồng.
Một đĩa bún Thanh Trì trắng phau điểm vài ngọn rau húng láng xanh ngát.
Và mươi
gắp chả thịt lợn ba dọi có bóp riềng mẻ. Cái "tác phẩm" xinh xắn, gọn
gàng này là của Lai.
Khói mỡ
bay đầy phòng
Ngoài
đường nắng chang chang.
Gió nồm
quạt lửa hạ vào nhà.
Lai
cũng phành phạch quạt nan
quạt lửa than hồng vào người chúng tôi. Rượu nặng phân bắt đầu ngấm,
bốc mãi
nhiệt độ trong người. Nếu không yêu và kính chủ nhân, thì có mà phải
tội mới
ngồi hầu một bữa rượu chín được người như thế này. Cũng như bao giờ,
ông Tản Đà
là người nói nhiều nhất trong những lúc cử tửu. Giữa cái nóng nực của
bữa rượu
trời hè, tôi, mồ hôi chảy ròng ròng, ngồi nghe ông Tản Đà luận bàn về
người
trong thanh sử.
Nói
xong cái tâm trạng Khổng
Minh lục xuất kỳ sơn, ông quay sang cái cảnh Phạm Lãi chu du Ngũ Hồ.
Rồi ông
chê người Đại phu Văn chủng, rút những câu trong sách cũ về đoạn ấy:
"Cao
điếu tận, lương cung tàn, giảo thỏ tử, tẩu cẩu phanh, địch quốc phá,
mưu thần
vong...".
- Con
người ta ở đời, có hai
thái độ đáng quý, một là làm thánh hiền, hai là làm hào kiệt. Nhưng đem
so sánh
thì làm hào kiệt vẫn sướng hơn. Cái cuộc đời ấy mới là ồ ạt.
Rồi
không cần câu chuyển, ông
Tản Đà đổi sang một câu chuyện khác.
- Nội
trong loài cá, chỉ có
con diếc là sạch nhất và khó câu nhất. Giống nó chỉ hay ở chỗ nước
trong và ăn
toàn bọt nước. Thả cái mồi gì nó cũng chê cả. Định lấy một cái mồi thơm
mà dử
nó như là người ta thường dử một con rô hay một con chuối, thực cái anh
đi câu
đã làm một việc tối vụng về.
Tôi
liên tưởng mang máng nhớ
tới câu tản văn của tiên sinh viết trong cuốn "Giấc mộng con":
"Có người, cho cái áo vải thì chê, đợi cho đến cái áo gấm mới mặc..."
Vừa ăn, vừa triết lý, vậy mà mặt trời đã đứng bóng. Nhìn đồng hồ, ông
Tản Đà
nói:
- Đến
một giờ, tôi phải ra
ga. Hôm nay Nguyễn Tiến Lãng ở Huế về. Trước khi theo Hoàng hậu đi Tây,
hắn
muốn về qua nhà, để bàn tính cùng ông cụ Huyện cho nó xong cái việc vợ
con đi.
Tôi muốn gặp mặt Lãng vì có tí chuyện.
Thế rồi
ông Tản Đà đưa tôi
xem một lá thư. Lá thư của ông Nguyễn Tiến Lãng gửi về giục ông Tản Đà
gửi sách
(?) vào để ông tâu với vua Bảo Đại "trợ cấp" cho một số tiền năm trăm
đồng.
Tôi
cũng biết thế vậy. Tôi
lặng lẽ trao lại lá thư cho ông Tản Đà. Vẫn lặng lẽ, tôi nhấp một chén
rượu.
Rượu lúc này sao cay, sao đắng lạ - ông Tản Đà sắp được triều đình Huế
ban cho
năm trăm đồng! Thi sĩ lúc túng còn gì bằng. Nhưng có phải lần này ông
Tản Đà
mới được cầm một số tiền to đâu. Từ năm xửa, năm xưa, có người hiệp
khách ở Nam
Kỳ đã biếu ông Tản Đà một số tiền lớn hơn thế. Những nghìn đồng. Người
hiệp
khách có bụng liên tài ấy đã biếu không số tiền đó và trái lại, không
có đòi
hỏi ông Tản Đà một điều kiện gì cả. Với số tiền ấy, thi nhân đã làm
những gì?
Thi nhân đã uống được mười vò rượu bồ đào, dùng thêm được mấy mươi thạp
trà
tàu, và du lịch thêm được ít vùng nữa với sự thừa thãi hàng mấy tháng
ròng. Giở
lại tập thơ làm vào thời kỳ ấy, đã thấy nhẹ hẳn phần tiêu sắt. Và có
nhiều
người đã không lấy làm thích lắm vì, đọc lên nó đã không làm cho người
ta lạnh
và rùng mình như cái khối thuở tình xa xôi. Số bạc ngàn lúc trước dùng
cũng
được có thế thì bây giờ nếu có thêm được nửa cái số trước nữa, đã chắc
hơn gì
chưa? Mà rồi từ giờ trở đi, người ta sẽ đưa thi nhân của chúng ta vào
cái thế
giới nào đây? Tôi tin rằng từ nay trở đi, cái đời văn chương của một
thi nhân
sẽ bước sang một giai đoạn khác. Tôi ngờ rằng, với một số tiền trợ cấp
kia, ông
Tản Đà sẽ không già tay để hạ những vần rất sái và tác phẩm sau này sẽ
nhan
nhản những câu thơ rất có "hậu'.
Sao lại
không như thế được?
Cái
buồn của tôi vẫn không
vợi, khi ông Tản Đà đọc lại mấy câu lục bát rất hay làm từ những bao
giờ.
Cho vơi
hũ rượu, cho đầy túi
thơ
Trăm
năm thơ túi, rượu vò,
Nghìn
năm thi sĩ tửu đồ là
ai.
San sẻ
cho tôi một gắp chả
sốt, ông Tản Đà nói đến kế sinh nhai.
- Tôi
có lên trên báo Ngày
nay, nói chuyện cùng Trần Giư để lại dịch thơ Đường. Nhưng ông ta có
bảo công
việc ấy bây giờ giao cả cho ông Thạch Lam.
Chuyến
tàu điện Hà Đông đã
nổi hiệu chuông ra gần tới Ngã Tư Sở. Tôi lặng lẽ cầm tay ông Tản Đà,
hẹn một
ngày khác rất gần đây, sẽ xin trở lại.
Cái
ngày khác rất gần đấy mà
tôi lại trở lại căn nhà 71, Ngã Tư Sở, là ngày hai mươi tháng tư, tây
lịch là
ngày 7 Juin 1939. Tôi trở lại để không bao giờ gặp lại ông Tản Đà nữa.
Tôi, một
kẻ ở, đến để ngắm chủ nhân đã là một người về. Lúc bấy giờ quá giờ Ngọ.
Sớm nay
(7-6) ở thư viện ra,
Vũ Bằng rủ tôi đi uống, một cốc rượu mạnh. Dọc đường phố Hàng Bông,
người
trưởng nam ông Nguyễn Khắc Hiếu mếu máo tin cho tôi biết rằng ông già
cậu vừa
mất. Thế là từ phút này, làng rượu đất Bắc mất một tửu đồ và tao đàn
mất một vị
nguyên soái. Và cái bữa rượu bún chả tôi uống hôm đầu tháng ở Cầu Mới
với ông
Tản Đà là bữa rượu vĩnh biệt một thi nhân mà từ bây giờ chúng ta có
quyền gọi
xách mé là Tản Đà, là Nguyễn Khắc Hiếu không cần chữ đệm.
Ngồi ở
một tửu điếm Bờ Hồ tôi
vừa quấy cốc rượu Borgia cho nổi bọt lên, tôi vừa nghĩ đến một câu mà
ông Tản
đã gở miệng nói giữa bữa rượu hôm trước.
"- Này
bác Tuân, làm thế
nào mà lúc chết được để mả ở chỗ Hàm Rồng Thanh Hóa, ngay chỗ bên cầu
treo. Ở
đấy mát lắm".
Rồi
nghĩ đến cái việc trợ cấp
năm trăm bạc chỉ một chút nữa là thành sự thực, tôi lại mừng cho cái
thơm tho
của một thi nhân. Có lẽ ông trời muốn giữ cho thi nhân được trong sạch
nên đã
sớm gọi ông Tản Đà về.
Người
trích tiên đánh vỡ cái
chén ngọc ở Tiên cung đã đến lúc mãn hạn đi đày? "Cái hạc" đã
"bay lên vút tận trời"!
Năm
mươi mốt tuổi đầu, thế
cũng là đến cõi. "Của trời, tham được có ngần ấy thôi". Tôi nâng cốc
rượu còn đầy chỉ định nhớ chứ không thương thi nhân vừa đặt chân vào
cõi bất
diệt.
Nhưng
lúc tôi vào nhà 71 Cầu
Mới, lòng tôi thắt lại. Ông Tản Đà còn hấp hối và đang thở hắt ra. Cứ
đều đều,
cứ nhẹ thế cho đến hơi thở cuối cùng. Hai môi mím khít lại ông Tản Đà
có nét
mặt răn rúm của một người chết khó khăn. Phải, chung thân làm một người
bất đắc
chí, sống đã chẳng được toại lòng, người nằm sóng sượt đây khó mà đi
cho nó nhẹ
nhõm được. Tôi bắt đầu cảm thấy hơi lạnh. Ở đầu giường bệnh, vẫn bên
chồng sách
bừa bãi đây đó mấy trang bản thảo. Tập di cảo! Trời? Và lẻ loi ở góc
bàn vẫn
cái hũ rượu cáp giới ngày nọ. Tất cả, chỉ có thế thôi, với một đoàn thê
tử yếu
và đuối!
Cuối
thế kỷ trước, một buổi
chiều Avril 1939, tại Paris, nhà viết kịch trứ danh Cenri Becque đã
nhắm mắt
giữa cảnh nghèo nàn và cô chiếc. Không có vợ, không có cha anh, không
có thừa
tự. Becque đã để lại cho đời vẻn vẹn có mấy vở kịch Les Corbeaux, La
Parisiènne, v.v.. Cứ lời viên thừa phát lại thời bấy giờ làm bản kê
khai, thì
ngoài tác phẩm kể trên, gia sản của nghệ sĩ để lại, còn có mấy khoản
này:
Một cái
tượng bán thân do
Rodin nặn cho, một cái nồi nấu, một cái nệm, tất cả bán đấu giá được
0f50;
Một
chồng sách in, bán được
30f,
Một cái
va li, bốn chiếc khăn
mặt: 2f,
Và ba
chai rượu vang Mariani
(vẫn rượu);
Và năm
vạn ba nghìn quan tiền
nợ.
Cái đám
ma của Bacque, lẻ tẻ
vài lăm người.
Tao Đàn
số đặc biệt ngày
1-7-1939 .
MỘT ĐÊM
HỌP ĐƯA MA PHỤNG
Tôi
bước vào nhà in báo Con
ong và hỏi luôn cái người to lớn lù lù đang cầm bút trên giấy:
- Gì mà
điện thoại nhắn nhe
ầm lên thế?
Tam
Lang - người to lớn lù lù
ấy - bảo tôi hãy ngồi xuống đã, đợi một vài bạn nữa đang bận tay chữa
bài dưới
nhà in lên. Tôi nghĩ thầm chắc lại hội họp để cắt cử người đọc điếu văn
Vũ
Trọng Phụng ngày mai đây. Ngồi kéo nốt mồi thuốc đang tàn trong lòng
điếu, tôi
nghĩ đến người vừa nằm xuống và nghĩ luôn đến cái chết lạnh lẽo của các
giống
nghệ sĩ ở đời. Tôi nhớ đến một chiếc lá vàng vừa rụng khoảng đầu năm
nay trên
lối đi vắng vẻ nơi ruột rừng văn An Nam. Đầu năm nay, Tản Đà mất.
Chiếc
lá vàng ấy chưa kịp
mục, thì rừng mùa thu lại hái thêm một chiếc lá xanh ném xuống đất.
Người ta
tiếc thi nhân chưa nguôi, thì giờ người ta lại được khóc một văn nhân
nữa. Cái
làng văn An Nam vốn đã thưa thớt, lại càng quạnh quẽ muôn phần.
Chợ Hôm
về chiều tháng chín
mùa thu, vào lúc gần tan, càng gợi thêm cái mệt mỏi trong lòng một thứ
người
sống với một chút hoài bão riêng ở đời.
Tia
nắng hanh cuối cùng đã
tắt. Gió heo gửi vào cửa sổ tòa báo Con ong một chiếc lá vàng cuộn tròn
mép.
Tam
Lang bó những bản thảo và
giấy má bừa bộn vào tủ và không vui, không buồn, bảo tôi:
- Tí
nữa đi sang sông. Bây
giờ đi ăn.
- Au de
là du Rhin?
- Phải.
Thế
nghĩa là tối nay, nhân
một cuộc hội họp về tin Vũ Trọng Phụng vừa mất, chúng tôi qua bên kia
sông nghe
hát ả đào. Thường mỗi khi rủ nhau qua cầu Sông Cái để thức đêm ở xóm
Thượng
Cát, chúng tôi sẵn có một câu nói lóng: Au de là du Rhin. Con sông Rhin
đây là
sông Nhĩ Hà. Và sau cái bờ sông Rhin này là những căn nhà hát...thứ nhà
hát
không sạch sẽ, không sáng sủa. Chúng tôi có cần gì đến căn nhà rộng
sáng, đến
con hát đẹp và hay.
Chúng
tôi tối nay chỉ cần một
nơi để họp nhau cho trọn đêm để sớm tinh mơ ngày mai, lại cả đoàn kéo
nhau qua
cầu chạy theo một cái xe đám ma người bạn chết non.
Thấy
người cùng tuổi cùng
nghề phải chết một cách sớm sủa mau mắn như thế, chúng tôi thấy đời là
ngắn lắm
mà chúng tôi càng phải gần sát mãi nhau lại cho đỡ lạnh.
Hạng
người cầm bút trong xứ
không nhiều nhõi gì; mỗi khi có một người ngã vì bệnh nạn, chúng tôi
càng phải
dồn nhau lại để hàng ngũ đỡ trống trải. Cái giây phút này, ta thường
buồn cho
người vừa chết, ta thường buồn cả cho ta.
Hỡi
những người chỉ sống cho
luân lý, sống bằng luân lý, tôi không khi nào van xin các người đừng
cười chế
chúng tôi sao lại dám khiêu vũ chung quanh một chiếc quan tài chưa gắn
kín sáu
con cá. Có lẽ cũng chỉ vì những tiếng chày đang nện cá nặng nề bên quan
tài kia
đã dội nhiều vào lòng bọn người sống một cách hốt hoảng, vô thường định
với cái
cô quạnh của tinh thần như bọn tôi, nên chúng tôi đã rủ nhau đêm nay
sang sông
mà uống rượu cho say, mà nghe hát, cũng cho đến say, và điên cuồng mà
nhẩy đầm
quanh một cái xác chết. Có như là gần thời chiến tranh, lúc này người
ta lấy
tốc lực ra mà sống cuộc đời mình. Biết đâu ngày mai chẳng là không còn
gì nữa.
Nếu lúc
này gọi được hồn Vũ
Trọng Phụng lên mà hỏi câu này, chắc anh lia lịa gật đầu.
Người
bạn tội nghiệp của
chúng tôi chết. Ngày hôm sau, đưa đám buổi sớm. Nhận cái tin buồn ấy -
chúng
tôi hát và hút thuốc phiện. Đã buồn chưa? Tôi muốn hỏi tất cả những
người bạn
tha thiết với Phụng, những người sống với phụng sự nghệ thuật bằng một
chuỗi
ngày chìm chìm tẻ tẻ, xem những ai là người chịu ngủ cái đêm ấy ở nhà
mình?
Đêm ấy,
bên kia sông, nhà hát
lạnh như nhà mồ. Bọn ca nhi trông người nào cũng cao lênh nghênh. Sự
nghèo đói
làm cho người họ dài hẳn ra. Ngọn đèn dầu lạc chỉ là một ngọn đèn thờ.
Người
kép khẳng khiu như một cây khô, cũng chỉ đủ là nhạc công một phường bát
âm cho
nổi lên một bản hòa nhạc chết khi người ta dâng cơm cúng.
Chúng
tôi cười một cách điên
dại như đám thủy thủ một con tàu ngầm gặp nạn, tàu cặm vào rốn biển cả.
Chúng
ta thương nhớ thằng
Phụng nhiều nhất là giữa giờ này. Hỡi ôi!
Một
người nói. Một người hút.
Một người không làm gì cả. Hai người úp mặt vào tường, cười và thở dài
với cái
bóng in trên tường đầy máu rệp và xác muỗi khô. Tôi đánh trống, gãi hai
chiếc
roi chầu. Cố đánh cho tử tế, mà tôi nhận thấy tiếng trống của tôi chỉ
là tiếng
trống bản.
Và
tiếng phách của Tỳ bà đủ
là những tiếng sênh chấp hiệu cho một cỗ đòn đám khởi hành xuống huyệt.
Cũng
phong phanh như đám ca nhi, chúng tôi cảm thấy đêm thu cứ thấm dần qua
lần vải
mỏng sơ mi và đi mãi vào lòng. Những manh sơ mi này phải nương nhẹ, giữ
sao cho
vẹn màu hồ để ngày mai đưa Phụng nó lên đường.
"Chúng
ta nên đẹp, quanh
cái chết một người thân".
Đêm
lạnh lắm, nhà hát nghèo,
không có chăn.
Chúng
tôi hút thuốc lá nhiều
như bọn lính Tây cho nó được ấm bụng. Và nằm dịch mãi vào nhau. Một
người kêu
không khéo mai về ốm mất. Khói thuốc ba thứ thuốc, thuốc phiện, thuốc
lào thuốc
lá - đã có vị chát và ngửi nhiều quá, thấy lạc cả mùi ngày thường.
Bây giờ
giữa cái thấm thía
của đêm nhà hát, chúng tôi mới bắt đầu nói đến Vũ Trọng Phụng. Mỗi lúc
nói đến
chuyện bạn lại phải kèm thêm những câu: lúc sinh bình, hồi còn mồ ma
hắn.
- Nhiều
người còn sống sờ sờ
kia, oán thằng Phụng lắm. Chúng nhìn thấy hình ảnh chúng ở Nghị Hách,
Xuân Tóc
Đỏ, v.v..
- Thằng
Phụng mà đánh đàn
nguyệt thì có giết người không? Ừ, nó đàn có những tiếng nắn dễ thương
và lẳng
lơ lạ.
- Lại
còn cái chướng nữa là
hắn thích làm thơ. Các anh thử tưởng tượng xem cái phản động lực văn
chương của
quần chúng độc giả sành xem nó ra sao, khi họ đọc thơ Vũ Trọng Phụng?
Chúng
tôi cười rộ. Và tiếp:
- Thế
nghĩa là cụ Mính viên
Huỳnh Thúc Kháng viết truyện ngắn đấy.
- Và cụ
Phan Bội Châu nhận
lời giữ mục phê bình "Màn ảnh và sân khấu" cho một tuần báo văn nghệ.
Chúng
tôi lại cười ồ.
Thằng
Phụng, về đức tính, có
điểm này khá nhất là nhận thầu tờ báo nào là không hay quỵt tiền anh em
viết
giúp. Trong bọn cầm bút có những thằng đứng lên nhận "đẩy" sách và
bán bài giúp cho bạn, rồi lại ăn cả tiền nhuận bút không chia cho bạn
lấy một
đồng xu nhỏ, kể ra Phụng là một người đáng được nêu lên làm khuôn mẫu.
- Về
tiền nong, Phụng phân
minh về chỗ tài thượng lắm, nhưng nhiều khi hắn cẩn thận như một con
người công
chức. Về xã giao, hắn quan tâm nhất về chỗ kẻ cười người khóc. Ai phúng
nhà mình
một nghìn vàng, một thẻ hương; ai mừng một chai rượu hắn đều có biên
cả. Để rồi
chờ đợi mà biếu lại, mà mừng lại. Có ai quen Phụng, dầu là sơ sơ, mà
ốm, là
Phụng là người đầu tiên vào cửa nhà thương để thăm hỏi.
- Thế
là hắn tốt chớ sao?
Nhiều người đọc sách của Vũ Trọng Phụng lầm nhiều về cái người ở Phụng.
Họ đều
cho Phụng là nham hiểm, là cơ tâm, là tâm điền xấu. Để sinh ra ngộ điểm
ấy, cái
lỗi của Phụng là đã đem những cái thối mọt, cặn bã nhân tâm vào trong
tác phẩm
mình đến đầy rẫy.
- Riêng
gì Phụng, có chán vạn
nghệ sĩ khác, từ trước tới đây, bị hiểu nhầm như thế.
- Những
anh nào ở đây đi lại
với Phụng nhiều nhất nhỉ? Bà cụ đẻ anh Phụng, đáng quý lạ. Thật là một
bà mẹ
chí từ. Hai mẹ con, một người chí từ, một người chí hiếu. Cái hồi Phụng
ốm lại
về dạo sau này. Phụng nằm mãi, buồn tay muốn ngồi dậy viết, bà cụ ngăn
nhiều
lắm. Rồi cứ thế mà ngồi quạt cho con cả đêm.
Phụng
chết trẻ. Cái đáng tiếc
nhất trong đời người bạn chúng ta là Phụng thiết thực quá. Đời Phụng
chưa có
một cái mộng nào để mà ôm, chưa mơ màng đến một cái gì để thỉnh thoảng
lìa khỏi
cái tẹp nhẹp mè nheo ở đời này. Trong đời Phụng, Phụng cứ hành động
theo suy
nghĩ nhiều quá. Chưa có một giây phút nào, hắn dám điên cuồng lấy một
tị.
Tôi nằm
tiêm thuốc bên khay
đèn, tôi đã đánh cháy điếu thuốc...Tôi nhớ đến cái chuyện tôi mua một
bức tranh
lụa bày ở phòng triển lãm mùa đông năm ngoái.
Hồi ấy,
thấy tôi rước một bức
thủy họa về để đến nỗi chậm cả áo mặc mùa rét đã dồn về từ lâu. Phụng
tìm đến
tôi, ngắm bức họa với sự chế nhạo và "chửi" tôi là một thằng điên và
nói: "Tao không bao giờ lại có thể điên như thế". Tôi lặng thinh. Từ
đấy về sau, không bao giờ tôi thuật lại cho Phụng biết những cái phút
điên khác
của tôi nữa.
Bạn
tôi, sống ở đời, thực là
một người thích sự phải chăng quá. Phải chăng khi đụng chạm với người
khác,
phải chăng trong cái mặc, trong cái ăn. Nói đến cái ăn tôi lại thêm
buồn cười.
Từ khi đánh bạn với Phụng, tôi biết Phụng chưa hề "mạo hiểm" ăn một
thực phẩm lạ bao giờ.
Chỉ hết
phở xào rồi lại áp
chảo và quanh quẩn chỉ đậu rán, bún chả, bún bung. Có lẽ có một số tiền
vài
trăm giắt túi chẳng hạn, Phụng cũng chỉ đòi ăn có thế và buộc bằng hữu
ăn như
thế. Nói đến ăn uống, tôi lại nhớ thêm đến một buổi họp có cả Phụng, có
cả Tản
Đà. Thấy có ông Tản Đà, Phụng thành tâm đi mua hai gói kẹo lạc va ni
đưa về
tiệm hút, cố mời người thi sĩ già.
- Mời
cụ xơi kẹo lạc.
- Ông
bảo cái gì?
- Dạ,
kẹo lạc va ni, giòn và
thơm lắm.
- Kẹo
lạc! Ăn ra cái quái gì.
Buổi
ấy, nhà thơ có tuổi đã
làm tiêu hết chút ít cảm tình của Vũ Trọng Phụng. Ngày thường, Phụng
với cái
tính cách thiết thực của một người phóng sự, đã không chịu được Tản Đà
kềnh
càng rồi... Hai người ấy giờ đã là ma, cùng thở hơi cuối cùng ở một xóm
Cầu
Mới, nhà số 71 và 73; cùng yên nghỉ ở một nghĩa trang. Chắc ở dưới ấy,
giờ gặp
nhau, hai người tránh sao được nhiều cái lủng củng, nếu hai hồn ma
không chịu
nghĩ đến cái tàn lạnh cuộc đời chung của tài hoa mà chịu đựng lấy nhau!
Trong
cái sống phải chăng của
Phụng, có một cái phải chăng này đáng cảm động hơn hết. Là những thứ
văn phòng
tứ bảo. Mực anh dùng viết là một thứ mực tím ít khi tươi màu, phần
nhiều là
loãng và luôn luôn là nhạt, là chết. Giấy anh dùng là thứ giấy sáu xu
một thếp
đã kẻ sẵn. Đấy là thứ giấy của vô danh với cái khuôn khổ của tất cả mọi
người.
Ngòi bút Phụng thích dùng nhất là cái thứ ngòi Incomparable, xu ba
ngòi. Giấy,
bút, mực ấy là giấy, bút, mực của học trò. Thật là bình dị quá. Thế mà
lời văn
dùng bút ấy mà ký thác lên giấy ấy lại chẳng xoàng xĩnh chút nào. Những
người
cầu kỳ về văn phòng tứ bảo như chúng ta, nghĩ tới cái tiểu tiết này
trong đời
văn sĩ của Phụng, họ chẳng nên lấy làm nghĩ ngợi? Phụng còn phải chăng
cả đến
những cái thèm muốn về tương lai. "Tao chỉ mong sao mỗi khi chúng mày
đàn
đúm kéo nhau về chơi tao, thì có được mãi mãi một mâm cơm cho tươm tất
và cái
khay đèn không phải thiếu thuốc". Đấy là câu Phụng nói vào một buổi
chiều
tết Trung thu năm nay, khi còn ở phố Hàng Bạc và trước hôm dọn về Cầu
Mới được
hai ngày.
Dạo ấy,
Phụng vì thấy bệnh ấy
phá phổi mình rõ ràng quá, theo lời thầy thuốc, đã phải rước tĩnh về
bày ở nhà.
Nếu quả việc một người trẻ tuổi mà vướng nghiện a phiến là có lỗi với
danh giáo
thì Phụng đã bằng lòng chịu xấu với dư luận để cố mà lùi lại kỳ hạn của
ngày
lên đường. Lên đường về xứ chết. Phong, lao, cổ, lại, tứ chứng nan y!
Vả chăng
ông bạn đầu xứ Ngô Tất Tố cũng đã nói riêng với tôi rằng chả chắc Phụng
có qua
được mùa rét năm nay không. Mùa lạnh chưa tới. Mới là có tiết thu thôi
mà cái
lá xanh đã lìa ngàn, một cái ngàn văn mà cây cối còn thiếu những cổ thụ
um tùm
rắn rỏi.
Tôi đã
lấy làm bằng lòng tôi
là vào những ngày cuối cùng của Phụng, tôi đã phóng túng hình hài với
con bệnh
lao chờ lúc lên đường ấy mà ăn, mà uống, mà hút với Phụng cứ hàng nửa
ngày.
Phụng cười, chừng muốn hỏi: "Một người thèm sống, sợ già, tránh chết
như
mày mà cũng dám coi thường vi trùng lao của tao thả ra sao?". Những
buổi
ấy, tôi không cần giữ gìn vì tôi tin rằng làm thế, sẽ tủi lòng người
bạn thân
mà ngày giờ đã bị đếm trước. Vả chăng, trong người tôi ngầm cũng đã
nhiều vi
trùng lắm rồi. Có thêm một ít của Phụng nữa cũng không sao.
Nhân
Phụng vừa nằm xuống, tôi
lại tìm trong đầu xem trong bọn nhà văn trẻ, những người nào là cầm
lỏng được
cái chết. Thế Lữ, Tchya, Lưu Trọng Lư, Lan Khai, Đoàn Phú Tứ, Thạch Lam
. . . ,
đều là những người đủ tư cách để sớm lên đường lắm. Ngực người nào cũng
lép như
cái đồng hồ ômêga trông nghiêng. Những người trẻ trung này có nằm xuống
cũng
đều nhẹ nhõm lắm đây. Tôi không độc mồm nguyền rủa ai. Trái lại. Và
buồn thương
lắm.
Ngẫm
đến cái mỏng mảnh về thể
chất người đồng điệu, tôi đã tự hào khoe với mấy bọn nằm trong nhà hát
rằng
tạng tôi vững vàng và cứ cái thể chất chắc chắn này thì cứ tha hồ mà
lấy đêm
làm ngày, cũng còn lâu tôi mới chịu mòn. Một anh bạn đã làm vỡ điều tin
tưởng
ấy của tôi bằng một cái thí dụ lấy ở Đinh Huy Hạo, một người cầm bút có
luôn cả
sức khỏe và sức mạnh, đã từng viết cuốn "Nòi giống tốt".
- Trong
bọn ta, đứa nào khỏe
bạo bằng tên Đinh Huy Hạo. Vậy mà cũng chỉ một sớm, một chiều thôi.
Tôi
buồn rầu, thiếp dần. Thế
rồi, trong gian nhà hát đã về sáng, như ngọn đèn bốc mạnh lúc gần tắt,
cả bọn
chúng tôi mệt mỏi lại muốn nhổm cả dậy để nói chuyện thương tâm. Thuốc
đã làm
chúng tôi vỡ giọng và tiếng nói ồ ồ.
- Phụng
chết nhiều người
thương tiếc hơn là Tản Đà. Một người chết trẻ bao giờ cũng lấy được
nhiều nước
mắt hơn là người chết đứng tuổi.
- Thằng
Phụng còn hứa hẹn cho
văn học nhiều tác phẩm lắm. Sao trong làng văn, những người như thế đã
chết mà
lắm thằng bất tài khác thì lại cứ sống mãi để anh em phải sốt cả ruột?
Tôi cho
rằng nghệ sĩ nên chết
trẻ, nếu mình có quyền chọn tuổi chết. Tài sắc con người ta ở đời, ai
cũng chỉ
có một thời thôi. Con tằm nhả được tơ óng mãi hay sao? Sống bấy lâu,
nhiều khi
cũng hớ. Nó chỉ tỏ ra rằng mình có cái da thịt cứng quá, trùng khó đục
thủng mà
thôi. Ai mà chịu được một nàng Tây Thi tóc bạc da mồi. Một người tướng
tài mà
không chịu hết tắt với dặm nghìn da ngựa mà lại chết già trong giường
vợ, thì
còn gì dại dột hơn nữa.
Chúng
tôi thức cả đêm bàn tán
về chuyện nên sớm nghĩ đến việc Hội ái hữu nhà văn. Vào khoảng năm giờ
sớm ngày
chủ nhật 15-10, bọn tôi lại từ Thượng Cát kéo bộ về Hà Nội. Trời thu
thả sương
sớm tựa như vào một buổi thả lưới bắt chim mồng, chim két. Qua chín
nhịp cầu Bồ
Đề trên con sông lạnh, bụng chúng tôi cồn cào hết sức.
- Đám
đi sớm quá nhỉ. Bảy giờ
đã cất. Đi hết cầu, về đến bờ bên kia sông ít ra cũng mất 45 phút. Lại
còn kéo
ra đến ga tàu điện Bờ Hồ. Và từ đấy vào Cầu Mới. Thế mà cũng vừa thời
giờ thôi
đấy. Nhanh bước lên! Các anh.
- Phải
tìm cái hàng cháo mà ăn
chứ không có lạnh bụng lắm.
- Ừ
phải đấy, chỉ giữ lại đủ
sáu suất vé tàu điện thôi, còn thì chén hết. Còn được đồng bạc không?
Trời
chưa hửng hết. Cái phố
Hàng Bè. Chúng tôi sà vào một hiệu cháo lòng vắng vẻ. Tiết canh, dồi
mỡ, lòng
chay. Và cháo khói. Xì xụp húp với nhau như một lũ con đàn một gia đình
kẻ khó
ăn cháo canh bồi thay đồ ăn chắc, tôi vốn giầu tưởng tượng, tôi nghĩ
đến một
cuộc tụ họp của các bạn phóng viên báo hàng ngày, một buổi sớm tinh
sương mùa
lạnh ở một quán cơm Cửa Nam rồi đi "xem" hành hình ở cửa Hỏa Lò vào
khoảng những năm 1930, 1931. Chưa bao giờ tôi thấy một bừa điểm tâm cảm
động
như sớm nay. Sớm nay húp quanh lợi bát cháo nóng như người phải trả nợ
dần, tôi
tưởng đến người chết mà bùi ngùi, tôi nghĩ đến người còn sống lại mà
thêm
thương tủi.
Thế mà
đám đã khởi hành được
mấy phút.
Tôi vốn
có một tập phóng sự
về tiệm hút. Chính Phụng đã xui gọi tôi viết thiên "Tàn đèn dầu lạc"
vào một tờ tuần báo và lúc góp những bài đăng ấy để đưa xuất bản thành
sách, ở
trang đầu, đề lời tặng, tôi viết: "Những tập phóng sự này, biết nên
tặng
ai?" ngụ một cái ý đùa giễu cả mình và luôn cả những bạn thân có duyên
nợ
với Ẳ Phiền nghiệt chướng.
Theo xe
tang, tưởng đến người
bạn đã khuất, tôi đã đổi lời tặng trào lộng đó thành một lời tặng hoài
niệm:
"Kính, Thành, Tiếc tặng vong hồn Vũ Trọng Phụng".
Tao đàn
tạp chí số (12-1939).
Nguồn