Ghi
chú
trong ngày
8:10, 13/07/2011
Cuộc đời ông
như một vở kịch đầy rẫy những bất ngờ, nghịch lý, ứng với cái tên "Trận
đời"
mà ông từng đặt cho một tác phẩm của mình.
"Trường Ðời". Không phải "Trận Ðời".
… nhưng
"từ khi di cư vào Sài Gòn, anh nghèo túng, lại mang bệnh giềng (thuốc
phiện).
Anh không còn viết được một tiểu thuyết nào nữa…".
Ghiền, do từ
“nghiền”, “nghiện”.
Người viết
bài này chắc là chưa từng đọc Lê Văn Trương. Ông có nhiều cuốn thật
bảnh, với triết
lý “người hùng Lê Văn Trương” của riêng ông, chưa kể mảng viết cho
thiếu niên.
Bản tiếng
Anh đầu tiên, liền sau nguyên tác tiếng Tây:
First
printing, Feb, 1955
Second
printing,
March, 1955
Third
printing, March, 1955
Xuống phố, lục
sách cũ, vớ cuốn Sagan, trên, và một lố 007, của John Gardner, người kế
tục Fleming.
Gấu thực sự
muốn tìm cuốn "tiểu
sử không được phép của James Bond", the unauthorized
biography, cũng
của 1 trong những tay kế tục Fleming, nhưng
không thấy.
Ðó là 1 trong những cuốn tiếng Anh đầu tiên Gấu được đọc, khi tới trại
tị nạn
Thái Lan.
Trên TV cũng đã từng lèm bèm đôi lần, vào dịp PXA đi xa.
*
Thấy
mấy ông bà mafia Do Thái không, họ đưa những là Isaac Bashevis Singer
thiên
tài, Imre Kertész thiên tài, Elfriede Jelinek thiên tài lên. Toàn là
những người
Do Thái khắp nơi trên thế giới của họ được kênh lên. Họ có thế lực tiền
nong và
chính trị của các nước lớn. Thế là nhân gian cứ chạy theo Nobel do họ
lập ra,
ca mấy người do nhóm mafia văn chương thế giới này đưa lên trên giời.
Nhắm tít
mắt lại khen theo dịch dọt phục vụ mấy con mồi của băng đảng mafia văn
chương ấy.
LTH
Quả
là bạo ngôn!
Và,
Quả
có Do Thái dính vô mấy giải thưởng Nobel được bà Huệ viện ra, nhưng
không phải mafia, mà là 6 triệu người Do Thái bị Nazi đưa vô Lò
Thiêu.
Khi
trao những Nobel văn chương trên, một cách nào đó, Uỷ Ban Nobel đã nhân
danh toàn nhân loại sám hối
tội ác Lò Thiêu.
Đấy là nói về mặt tinh thần tác phẩm.
Còn
về văn tài, thì phải từ từ giãi bày sau. Bởi vì, nếu không phải là
những tác phẩm
văn học có giá trị, thì làm sao được Nobel?
Nhắm
tít mắt lại khen theo dịch dọt phục vụ mấy con mồi của băng đảng mafia
văn
chương ấy.
OK!
Mít nhắm tít mắt dịch dọt…
Nhưng
không lẽ Tây mũi lõ, thí dụ, cũng nhắm tít mắt…?
Trên TV, Gấu
đã hơn một lần, bạo miệng hơn cả bạo miệng, dõng dạc phán, chỉ vài năm
gần đây,
Nobel văn chương mới thực sự là Nobel văn chương, vì cho đúng người,
đúng tinh
thần của người đặt ra giải thưởng, cũng 1 thứ Đại Ác, vì phát minh ra
võ khí giết
người, là thuốc nổ TNT. Giải Nobel văn chương, bản chất của nó, như
thế, là 1
giải thưởng mang tính sám hối.
Điều kiện “cần”,
mấy tay mà bà Huệ nêu ra, và bịt mũi: đáng được.
Điều kiện “đủ”: liệu có tí
văn chương nào trong đó không?
Sự thực, không
phải chỉ có một bà Huệ, bịt mũi, dù có thể, chưa đọc, văn của mấy người
được
Nobel nói trên. Ngay mấy ông Hàn cũng choảng nhau vì họ, và có ông bỏ
job.
Cái
sự không đọc được họ, đúng ra phải nói, không chịu nổi họ, chính là do
nhân loại
chỉ ưa nịnh. Nobel từ trước đến giờ, chiều theo cái thói này, chỉ
khen những
thành tựu của nhân loại.
Tinh thần Nobel sau này, ngược hẳn lại, và cái nền của
nó, là từ câu phán khủng khiếp của Walter Benjamin, theo Gấu: Mọi tác
phẩm về văn
minh đều
là 1 tác phẩm về dã man.
Dưới nền một đại tác phẩm, là 1 đống kít của nhân loại.
Gần nhất: Cái nền của Chuyện Kể Năm 2000
của BNT là Lò Cải Tạo, là Cái Ác Bắc Kít, là Cuộc Nồi Da Sáo Thịt, là,
là, là….
Cái sự đọc lầm,
hiểu lầm này, cũng đã từng xẩy ra nhiều lần trong lịch sử văn học, mà
một trong
những trường hợp tiêu biểu, là cách đọc “không bịt mũi” Nhật Ký Anne
Frank, mà
Cynthia Ozick đã lôi nhân loại ra để mà sỉ vả, trong bài Ai sở hữu Anne Frank ?,
trên TV đã từng giới thiệu:
Nhật ký được
coi như một tài liệu về Lò Thiêu. Điều quan trọng cần nói, là nó không
phải như
vậy. Gần như bản in nào cũng choàng cho nó những vòng hoa, đại khái "ca
khúc của đời sống", "sự vui thích buốt nhói ở nơi tinh thần vô tận của
con người". Có một sự chế diễu, trò hề ở đây. Một ca khúc cho đời? Nhật
ký
chưa hoàn tất, hoặc đã được hoàn tất bởi những nơi chốn khủng khiếp:
Westerbork, địa ngục chuyển tiếp ở Hòa Lan, nơi những người Do thái
Hòa-lan bị
tống xuất từ đó; Auschwitz; hay bởi những ngọn gió tàn khốc của
Bergen-Belsen.
Chính tại đây, không phải tại "căn nhà phụ bí mật", những tội ác mà
chúng ta gọi là Holocaust đã xẩy ra. Ghi nhận của chúng ta là những cột
con số,
những danh sách tỉ mỉ những chuyến tống xuất trong những dòng chữ viết
tay của
những thủ thư đẹp trai; những cuốn sách chuyển hàng. Có thể Anne Frank
đã được
chuyển tới Auschwitz vào đêm Sept 6, 1944, trong chuyến hàng một ngàn
mười chín
"sucke" (mẩu). Trong đêm đó 549 người được đưa vào phòng hơi, có một
người trong nhóm Frank, và tất cả trẻ em dưới 15. Anne lúc đó, 15,
thoát, có lẽ
để lao động. Từ 20 đến 28 tháng Mười, bị đưa vào phòng hơi ngạt hơn 6
ngàn người,
chỉ trong vòng hai giờ, khi họ mới tới. Nhưng lực lượng Xô-viết đang
hướng về
Auschwitz, và vào tháng 11, đã có lệnh giấu diếm mọi chứng cớ về phòng
ngạt, và
phá huỷ lò thiêu. Cả chục ngàn tù nhân bị tống ra ngoài trời, trong
chuyến đi tử
thần. Nhiều người bị bắn. Trong một chuyến di tản vào 28 tháng Mười,
hoặc 2
tháng 11, Anne được chuyển đi Bergen-Belsen, chết một hay hai ngày sau
đó, vỡ
tim, trơ xương, trần trụi dưới một đống rẻ rách.
Đến với nhật ký mà bỏ qua những Đêm,
của Elie Wiesel, hay Những Kẻ Chết
Đuối và
Những Người Được Cứu Vớt, của Primo Levi (chỉ nhắc tới hai chứng
nhân), hay những
cột con số, những chuyến hàng, những thuật ngữ như "mẩu"... thì đúng
là tự cho phép mình được quyền ngây thơ một cách xấu xa, không thể tin
được! Những
ngợi ca theo kiểu "bản chúc thư hoài hoài về tính cao cả không thể bị
huỷ
diệt của tinh thần nhân loại", "một nguồn không bao giờ cạn của can đảm
và hứng khởi"... sự thực chỉ là những trò ru ngủ. Sự thành công, chiến
thắng,
của Bergen-Belsen, chính là nó đã thổi sạch, cái gọi là khả tính can
đảm, nó
cho thấy sự huỷ diệt dễ dàng của tinh thần nhân loại, và đây là bản di
chúc lâu
dài của nó.
Tưởng Niệm Anne Frank
Một chị, một
em
“Ở mãi dưới tít
sâu, người trẻ cô đơn hơn người già”
"Tôi đọc điều
này, ở trong một cuốn sách, và nó gây ấn tượng ở trong tâm trí của tôi.
Như tôi
hiểu được cho tới giờ này để mà nói ra, thì điều đó thực."
Sat, July 15,1944
Sau
cùng, có thể nói, Anne Frank biểu tượng hóa quyền uy, của chỉ một cuốn
sách. Do
cuốn nhật ký mà cô giữ và viết, từ 1942 đến 1944, cô trở thành một hình
tượng
đáng nhớ nhất, bật ra từ cuộc thế chiến thứ hai – ngoài Hitler ra, tất
nhiên,
người lèm bèm [proclaimed] về cuộc đời, và những niềm tin của mình, ở
trong một
cuốn sách. ['Mein
Kampf"]
Một cách nào đó, có thể coi
Lò Thiêu bắt đầu bằng cuốn sách [Mein Kamf] và chấm dứt
bằng
một cuốn sách khác ["Nhật Ký Anne Frank"]. Tuy nhiên, chính là cuốn của
Anne Frank, sau cùng
đã vượt
lên - một tác phẩm của sự từ tâm, rắc rối, đa đoan sống dai hơn một tác
phẩm
đơn giản và độc ác - và đưa được đứa bé thứ nhì (1) nổi tiếng nhất
trong
lịch sử,
vào vòng tay của thế giới.
*
(1)
Đứa
bé
thứ nhất, là Chúa Giê Su
From:
To:
CC:
Subject: Re: Help
Date: Sat, 05 Jan 2008 16:50:15 -0500
Dung roi,
Chua Giesu Hai Dong, l'enfant Jesus.
----- Original Message -----
From:
To:
Cc:
Sent: Saturday, January 05, 2008 4:21 PM
Subject: Help
Nhưng Hồng
Quân đang hướng về Auschwitz, và vào tháng Chạp, lệnh đưa ra, giấu biệt
tất cả
những chứng cớ về phòng hơi độc, và phá huỷ lò thiêu. Hàng ngàn con
người, những
thây ma kiệt quệ bị lùa ra ngoài, di tản, trong cuộc đi tử thần. Rất
nhiều người
bị bắn. Cuộc di tản xẩy ra vào ngày 28 tháng Tháng Mười hoặc 2 Tháng 11.
Anne và
Margot được đưa đi tới trại Bergen-Belsen. Margot, cô chị, quỵ trước.
Một người
sống sót kể lại, thấy cô gái té xuống, nằm chết, và làm mồi cho lũ rận,
chấy.
Còn Anne, vỡ tim, gầy trơ xương, trần trụi dưới một đống rẻ rách, chết
một, hay
hai ngày sau đó.
Ozick: Ai sở
hữu Anne Frank?
1.
Đoàn Nhã Văn: Chào chị Lê Thị Huệ.
Nhân 10 năm kỷ niệm gió-o, chúng tôi mong chị
chia xẻ cùng độc giả về quãng đường đi qua. Nhưng trước tiên, xin chị
cho biết:
tại sao "gió-o" mà không là cái tên khác? Và chị mang cái
ý tưởng này bao lâu, trước khi chính thức
trình làng?
Note: Câu văn
trên, nên sửa lại.
-Chia sẻ, không
phải chia xẻ.
-Cái câu cuối,
phải để lên trên, nếu không độc giả sẽ gặp lúng túng, khi đọc,
Câu viết lại,
nó như thế này:
Nhân 10 năm
kỷ niệm gió-o, chúng tôi mong chị chia sẻ cùng độc giả về quãng đường
đã qua. Chị
mang cái ý tưởng thành lập trang Gió O này từ bao giờ, trước khi chính
thức
trình làng?
Nhưng trước
hết xin hỏi chị, tại sao "gió-o" mà không là một cái tên khác?
Viết tiếng
Việt, không có dễ. NQT
Thật ra, lỗi
là do chủ biên Lê Thị Huệ khi làm phần kỹ thuật, cắt nguyên con bảng
html từ một
đoạn cũ nào đó, đã quên sửa chữ “tiểu thuyết”. Ông
Nguyễn Quốc Trụ tố ông Đào Trung Đạo
trên trang blog của ông nhiều lần. Mấy lần là do
lỗi của chủ biên.
Mr. Đào Trung Đạo vô can.
Gió O
DTD, tác giả,
GNV, độc giả, đọc bài ông ta viết, có quyền có ý kiến khen chê, sao lại
gọi là
"tố"?
"Tố”, là DTD, khi tố đám Miền Nam, tố Nguyễn Văn Trung, trong một bài
viết
trên
talawas.
NVT có thể
là Thầy của DTD. Bởi vì DTD học Văn
Khoa, vào đúng thời kỳ NVT làm Khoa Trưởng.
Tố ở đâu
không tố, nhè talawas mà tố, không bậy sao?
.... trên trang blog của ông nhiều
lần.
TV, sự thực
không phải là blog!
Blog, mới có
đây thôi, trong khi TV có mặt trên net, cho tới nay, là trên 10 niên,
thọ nhất trong số
những
trang văn học trên lưới, vì phải kể cả thời gian tá túc tại VHNT của
PCL, 1998.
Gấu nhớ rõ, vì Gấu qua
Cali ra mắt sách Lần Cuối Sài Gòn,
1998. Gặp NMG, đề
nghị
giới thiệu Steiner trên VH, ông lắc đầu.
Trước khi đi, Gấu cũng đã nghi rồi, và cố tình
làm quen Hợp Lưu, bằng cách
gửi bài dịch Nhà Văn và Chủ Nghĩa CS,
của
Steiner.
Tính trong đầu, nếu mi đăng, là phải cho vợ chồng ta tá túc, những ngày
ở
Cali!
Anh đăng thật, [Tks. NQT]
và mời vợ chồng Gấu tới ở nhà anh [Tks. NQT].
Nhưng ông bạn Khế Iêm, tạp chí Thơ
lại giới thiệu
1 ông bạn, độc thân.
Gấu ở nhà “mobile home” của ông bạn này một đêm, sáng hôm
sau, NMG đề nghị về nhà anh ở, cho tiện, và cũng để gặp gỡ cả nhóm VH.
Về lại
Canada, Gấu làm quen PCL. Và trang TV sau đó ra đời.
Blog dù thế
nào thì vẫn phải phụ thuộc cái thằng server cho bạn sử dụng free,
nhưng
bù lại, bạn phải chịu một số điều kiện của nó.
Trang TV không chịu 1 điều kiện
của ai, làm sao coi là blog được?
Đâu phải Gấu
mê văn thơ, mê viết đến độ mở blog?
Trang TV đâu phải mở ra để viết văn, làm thơ,
hay làm chủ quán đóng vai người khám phá thiên tài thi ca, như Gió O của bà Huệ,
thí dụ?
Gấu đâu phải
là cớm văn nghệ, mà tố Đào quân? Tố cái gì chứ?
Ông ta viết
dở, thì chê, dịch sai, viết câu tiếng Việt không nên thân, lòng dạ đố
kỵ, có cái
bằng cử nhân Triết của Văn Khoa Sài Gòn, lên mặt chê người khác không
phải dân
khoa bảng, tố bạn thân, đồng nghiệp, là HPA chưa có trình luận án, tố
với ai, nhè
SCN, một em Bắc Kít, mà tố, dân trong nghề gọi là “mét bu, mét má"!
*
Thấy
mấy ông bà mafia Do Thái không, họ đưa những là Isaac Bashevis Singer
thiên
tài, Imre Kertész thiên tài, Elfriede Jelinek thiên tài lên. Toàn là
những người
Do Thái khắp nơi trên thế giới của họ được kênh lên. Họ có thế lực tiền
nong và
chính trị của các nước lớn. Thế là nhân gian cứ chạy theo Nobel do họ
lập ra,
ca mấy người do nhóm mafia văn chương thế giới này đưa lên trên giời.
Nhắm tít
mắt lại khen theo dịch dọt phục vụ mấy con mồi của băng đảng mafia văn
chương ấy.
LTH
Quả
là bạo ngôn!
Và,
Quả
có Do Thái dính vô mấy giải thưởng Nobel được bà Huệ viện ra, nhưng
không phải mafia, mà là 6 triệu người Do Thái bị Nazi đưa vô Lò
Thiêu.
Khi
trao những Nobel văn chương trên, một cách nào đó, Uỷ Ban Nobel đã nhân
danh toàn nhân loại sám hối
tội ác Lò Thiêu.
Đấy là nói về mặt tinh thần tác phẩm.
Còn
về văn tài, thì phải từ từ giãi bày sau. Bởi vì, nếu không phải là
những tác phẩm
văn học có giá trị, thì làm sao được Nobel?
Nhắm
tít mắt lại khen theo dịch dọt phục vụ mấy con mồi của băng đảng mafia
văn
chương ấy.
OK!
Mít nhắm tít mắt dịch dọt…
Nhưng
không lẽ Tây mũi lõ, thí dụ, cũng nhắm tít mắt…?
Trên TV, Gấu
đã hơn một lần, bạo miệng hơn cả bạo miệng, dõng dạc phán, chỉ vài năm
gần đây,
Nobel văn chương mới thực sự là Nobel văn chương, vì
cho đúng người, đúng tinh thần của người đặt
ra giải thưởng, cũng 1 thứ Đại Ác, vì phát minh ra võ khí giết người,
là thuốc
nổ TNT. Giải Noebl văn chương, bản chất của nó, như thế, là 1 giải
thưởng mang
tính sám hối.
Điều kiện “cần”, mấy tay mà bà Huệ nêu ra, và bịt mũi, đáng
được.
Điều kiện “đủ”, là, liệu
có tí văn chương nào trong đó không?
Thật ra, lỗi là do
chủ biên Lê Thị Huệ khi làm
phần kỹ thuật, cắt nguyên con bảng html từ một đoạn cũ nào đó, đã quên
sửa chữ
“tiểu thuyết”. Ông
Nguyễn Quốc Trụ tố ông Đào Trung Đạo
trên trang blog của ông nhiều lần. Mấy lần là do lỗi của chủ biên. Mr.
Đào
Trung Đạo vô can.
*
Phúc đáp: Những tố
“nhiều lần”, của NQT, là do
những sai sót của DTD, không liên can đến con người DTD. Những lỗi đó,
như LTH
bây giờ cho biết, là do chủ biên, như vậy tại sao để đến bây giờ mói
nói ra?
Lỗi, có người chỉ ra,
là phải có 1 đáp ứng nào
đó. Còn vờ, thì vờ luôn, khỏi thanh minh, thanh nga.
Riêng về Đào quân, đã
từng viết trên talawas,
là Gấu đâu phải dân khoa bảng.
Một người viết như DTD mà nhận xét như vậy
sao?
Trên TV, nhiều lần
“khen” LTH, thì sao?
Băng đảng?
Để ý làm mẹ gì.
NQT
Cái khổ tâm
của văn học hải ngoại, không phải là băng đảng, mà là không có người
viết cho… đường được. Cứ tình trạng này,
10 năm nữa, thì
cũng ‘vũ như cẩn’. Hậu Vệ mỗi ngày có vài bài viết mới post, có bài nào
ra hồn
đâu. Cũng vậy là Da Màu. Trên Gió O, thì lâu lâu có truyện ngắn đọc
được của Hồ
Đình Nghiêm, ngoài những bài có giá trị, nhưng chỉ có tính tài liệu,
của 1 số
tác giả đã thành danh, và đều là những chuyên gia, về 1 vấn đề nào đó.
Riêng bà chủ
biên, có cái sự thẳng thắn, không phe đảng, không có những cú đánh
lén, lòng
dạ không đen tối, không thâm hiểm, như đám còn lại, tuy nhiên, viết
lách thì có
gì ghê gớm đâu, mà hết khoe cho ra đời thiên tài này đến thiên tài khác?
Lời thực mất
lòng. Nhưng không nói ra, thì 10 năm nữa, Gió O vẫn là Gió O của bây
giờ.
Viết thì
chưa ghê gớm, mà chê mafia, băng đảng Do Thái quyết định Nobel, chỉ có
những kẻ
điếc không sợ súng thì mới dám viết ra những lời lẽ như thế này:
Thấy mấy ông
bà mafia Do Thái không, họ đưa những là Isaac Bashevis Singer thiên
tài, Imre
Kertész thiên tài, Elfriede Jelinek thiên tài lên. Toàn là những người
Do Thái
khắp nơi trên thế giới của họ được kênh lên. Họ có thế lực tiền nong và
chính
trị của các nước lớn. Thế là nhân gian cứ chạy theo Nobel do họ lập ra,
ca mấy
người do nhóm mafia văn chương thế giới này đưa lên trên giời. Nhắm
tít mắt
lại khen theo dịch dọt phục vụ mấy con mồi của băng đảng mafia văn
chương ấy. Chứ
tài hoa của Joseph Brodsky cũng ngang ngửa cỡ tài hoa Nguyễn Thế Hoàng
Linh
thôi mà.
Viết như thế
làm xấu hổ luôn tất cả các nhà thơ Việt Nam, không riêng gì NTHL,
nếu họ còn
chút tự trọng.
Tay DNV này,
có đề nghị Gấu trả lời phỏng vấn, Gấu lắc đầu, hỏi ông ta coi, có đúng
không.
NQT
Thực sự có lúc, Gấu cũng
đã tính nhận lời, nhưng anh ta nói, dư luận có vẻ
nực NQT,
vì chê hết người này tới người khác, thế là G vờ luôn.
Gấu nghĩ,
anh ta cần 1 bài phỏng vấn có tính văn học, về tình trạng văn học Mít
vv…
Còn phần Gấu, thì đâu cần gì, phải trả lời những kẻ nực Gấu?
Cái khó của
phỏng vấn, là cái tay hỏi cũng phải bảnh, biết tránh cho người được hỏi
khỏi bị
sa vào trường hợp tự chui vô cái thòng lọng, do chính mình giương ra
cho mình
chui vào.
Đọc mấy câu trả lời của LTH, là thấy.
Cả 1 bài phỏng vấn đi mấy kỳ, mà toàn chuyện nhảm nhí. NQT
TV nhắc tới Đào
quân nhiều lần, vì ông ta viết dở quá, tiếng Anh tiếng U cũng dở, đâu
phải chỉ
Gấu chê? Viết đã dở, lại còn chê người khác không có bằng cử nhân như
ta, không
phải dân khoa bảng. (1) Đến cái tên tác giả Garcia Marquez mà ông ta
còn
viết trật, viết câu tiếng Việt cũng không câu
nào cho ra
hồn, lý do là không mê viết, chỉ muốn làm Thầy thiên hạ.
Khoe khoang,
viết văn từ hồi Sáng Tạo, ra hải ngoại cũng “nhanh chân lẹ tay” lắm,
đến bây giờ
vẫn trắng tay, vậy mà tố hết người này người nọ với Sến Cô Nương, coi
được không?
Thử đọc bài viết được
bà Huệ link, coi có đúng không?
Có vẻ như bà
Huệ rất bực vì thiên hạ [ở đây là VOA, BBC, thí dụ] không thèm nhắc tới
Gió O.
Sao lại bực cơ chứ, chúng băng đảng, chúng chỉ nhắc tới chúng, những
đấng Bắc Kít
làm bồi cho đám Hồng Mao, dốt cực dốt, quần đảo biến thành bán đảo
Gulag, chỉ
chờ SCN hắt hơi xổ mũi là vội vàng vấn an, không lẽ bà Huệ cũng mong
được nhắc
tới?
DTD, tác giả,
GNV, độc giả, đọc bài ông ta viết, có quyền có ý kiến khen chê, sao lại
gọi là
"tố"?
“Tố”, chính là
DTD, khi tố đám Miền Nam, tố Nguyễn Văn Trung, trong một bài viết trên
talawas (1)
NVT có thể
là Thầy của DTD. Bởi vì DTD học Văn
Khoa, vào đúng thời kỳ NVT làm Khoa Trưởng.
Tố ở đâu
không tố, nhè talawas mà tố, không bậy sao?
(1)
Trong số những
người Nguyễn Văn Lục nêu tên ở trên có lẽ chỉ có Ðặng Phùng Quân trình
luận án
về “Hiện hữu tha nhân trong triết lý Gabriel Marcel” còn Huỳnh Phan Anh
chưa
bao giờ trình luận án cao học ngành Triết, Nguyễn Quốc Trụ không phải
thuộc giới
khoa bảng, Trần Nhựt Tân chuyên ngành văn chương Pháp.
Cũng cần
nhắc
lại chuyện hồi đó Mai Thảo có đi một bài của Nguyễn Văn Trung trên Sáng Tạo,
bài Trường Hợp Francoise Sagan, nhưng
sau đó độc giả và anh em trí thức cho Mai Thảo biết đó là một bài trên
một tạp
chí văn chương của Pháp, Nguyễn Văn Trung đã dịch nguyên con nhưng lại
ký tên
mình là tác giả! Có lẽ vì vậy từ đó Mai Thảo rất “sợ” những bài viết
của những
nhà “nghiên cứu” triết lý hiện sinh.
Nguồn
Nhân
nghe và nhìn lại một phỏng vấn Hồ Chí Minh trả lời một phóng viên Pháp
bằng tiếng
Pháp
PHD
Tiếng
Mít như thế, thì quả là quá tệ. Đúng là nghĩ sao viết vậy, người ơi! Tệ
lắm, thì
cũng viết, nhân coi lại 1 cuộc phỏng vấn Bác Hồ.
Vậy
là đủ rồi. Mọi râu ria, Bác nói tiếng Tây…đưa vô bài viết.
Nói về một vấn
đề phức tạp bằng ngoại ngữ, đương nhiên khó.
PHD
Bài phỏng vấn,
với những câu hỏi, cũng rất thường, có gì mà đương nhiên khó?
Cái câu quan
trọng nhất, mà em Đầm đưa ra, là, Bác có nên mời De Gaulle làm trọng
tài cho cuộc
chiến. PHD khen câu trả lời của Bác là tuyệt. Theo Gấu, trả lời như vậy
quá dở,
mà còn lộ dã tâm ăn cướp, coi thường sinh mạng người Mít…
Với 1 tay ký giả nhà nghề, chỉ qua câu trả lời
là biết, đừng hy vọng VC tha ăn cướp Miền Nam.
Cái tay
Simon Leys, cũng trong 1 trường hợp tương tự, đã chửi Malraux, khi
phỏng vấn Mao, là ngu quá, chỉ 1 câu hớ miệng của
Mao, với tay phóng viên nhà nghề, là đủ ngửi ra Cuộc Cách Mạng văn hóa,
Mao cho
tiến hành liền sau đó:
Hóa ra là,
cuộc phỏng vấn lớn lao của thế kỷ chúng ta, kéo dài 3 giờ đồng hồ, giữa
hai ông
khổng lồ cách mạng gia-triết gia, thực sự chỉ kéo dài 30 phút, và chỉ
là trao đổi
ngoại giao tầm phào. Nhưng Mao, có thể lỡ miệng, đã đưa ra một lời cảnh
cáo, rằng
nhà văn, trí thức đã bị hư ruỗng tới tận xương tủy, và đám trẻ cần được
sử dụng,
để chống lại cái xấu phản cách mạng này. Năm sau, cuộc Cách Mạng Văn
Hóa khủng
khiếp đã bùng nổ. Một phóng viên nhà nghề, khoan nói một nhà văn, đã
ngửi ra một
cái gì đó - khoan nói mùi thuốc súng, mùi người chết - và chụp lấy cơ
hội ngàn
năm một thuở này, nhưng Malraux đã không được thính mũi như vậy. Và Mao
sau đó,
không thể kiên nhẫn hơn, đã đưa ra một lời kết luận cụt ngủn.
Văn chương làm dáng
Dùng tiếng
Pháp để làm người Việt
Phan Huy Đường
Nhân nghe và
nhìn lại một phỏng vấn Hồ Chí Minh trả lời một
phóng viên Pháp bằng tiếng Pháp
Nói về một vấn
đề phức tạp bằng ngoại ngữ, đương nhiên khó.
PHD
Cái tít bài
viết của ‘bạn ta’ [gọi như vậy cho tiện, và cũng để "bạch hoá", Gấu này
chẳng có tí
đố kỵ gì với me-xừ “Ê Khánh Trường"], chứng tỏ, tiếng Việt của bạn hơi
bị yếu.
Đây là bạn
PHD thổi khéo Bác. Bác cũng thích mà người đọc, phải thứ mắt xanh mới
nhận ra.
Ui chao, lại nhớ cái lần
nhà văn Vũ Thư Hiên, khi còn được Bác cho vác cái máy
camera theo hầu, ngưng không quay cảnh, Bác tiếc đôi dép mới mua từ bên
Tây, khi đi qua chỗ lội bèn cầm dép lên, ôm
vào lòng, bực thằng ngu sao tự dưng ngưng quay, tính mắng, nhưng chợt
ngộ
ra, bèn gật gật, khá lắm, cháu ngoan của Bác!
Cái này là
do VTH kể lại, đừng nghĩ thằng Gấu phịa ra!
Cũng cái ý này, "Dùng
tiếng Pháp để làm người Việt" [phải tiếng "bồi cơ"], Salman
Rushdie phán, bảnh hơn nhiều:
Viết văn bằng tiếng nước người là giai đoạn chót của tiến trình giải
phóng. (1)
Nhưng,
áp dụng vô trường hợp Bác H nói tiếng Tây, hơi bị nhảm.
Sau đây là 1 số vấn nạn
nhân cái băng video:
Có thể Bác, tiếng Tây giỏi
hơn,
nhưng phải hạ thấp cái tài của Bác xuống một tí.
Hoàng Văn Hoan đã từng kể,
một
lần viết một cái thư gì đó, bằng tiếng Tầu, thật đúng văn phạm, trình
Bác, Bác
sửa lại bằng 1 thứ tiếng Tầu sai bét nhè, và giảng mo ran cho HVH, chú phải biết,
nếu chú viết đúng văn phạm, là chú chửi bố nhân dân vô học!
Vả chăng, Bác
cũng đã từng làm bồi, và, có thể quá quen với tiếng bồi rồi, không thể
nào sửa
được nữa!
Gấu nhớ là có
1 nhà văn của 1 xứ thuộc địa của Tây, viết văn bằng tiếng Tây sai bét
nhè, được
giải thưởng văn học, và khi được hỏi, ông thực tình, và cũng thật hãnh
diện, phán, viết
như thế, thì mới đúng là vinh danh tiếng Tây! (2)
Tuyệt!
Gấu tin là Bác
H thực tình muốn nói tiếng bồi. Bác giỏi hơn thế, có thể, nhưng Bác
muốn nói tiếng
bồi, đúng theo tinh thần cái tay nhà văn Gấu vừa nhắc tới, hay như lần
Bác sửa
văn tiếng Tầu của HVH.
Với Bác,
chuyện gì cũng có thể xẩy ra.
Nhưng với
PHD, tiếng Tây bảnh thực, tiếng Việt yếu quá.
Tiếng Tây của
PHD, khi dịch Khánh Trường, Dưong Thu
Hương, rất ít chất văn học. Và đây là do tạng của PHD: Anh không mê đọc
tác
phẩm văn học,
không mê viết văn. Đó là sự thực. (3)
Bạn phải mê
cơ, mê thực, thì mới thành nhà văn, nhà dịch thuật được.
Biết tiếng nước
người chưa đủ để làm nhà văn, nhà dịch thuật.
Gấu thấy
nhan nhản, ba thứ thơ, truyện của Mít, được dịch qua tiếng Anh, tiếng
U, mà chưa
mặn với chúng, là vì, nguyên tác tiếng Việt đã thiếu muối, khi được
dịch qua tiếng
nước người, thì lại sử dụng thứ tiếng chợ búa, giao thiệp hàng ngày,
làm sao thành
tác phẩm văn học?
NQT
(1)
Salman
Rushdie, một trong những đứa con của giờ Tý thì cho rằng, muốn giải
phóng ra khỏi
giấc mơ (muội) vong thân trong ngôn ngữ là phải viết văn bằng tiếng
Anh. Trong
bài viết "Quê hương tưởng tượng", ông viết: Chinh phục tiếng Anh có lẽ
là hoàn tất tiến trình giải phóng của chúng ta.
Source
(2) Ainsi parlait Kourouma
ML
Dec 2010
(3)
Có thể bạn
PHD sẽ "phản biện", nguyên tác không có mùi văn chương, làm sao tôi
phịa ra?
Không phải
như vậy. Lý do là, bạn không sống trong cái môi trường đó, lại
thêm có tí
mặc cảm bỏ chạy, thành ra vô phương.
Chính là vì
bỏ chạy, nên bạn mới chọn những tác phẩm đó để dịch.
Một
khi có tí lấn cấn, là thua thôi. NQT
Gấu cứ nhức
đầu hoài, với câu hỏi hắc búa, tại làm sao mà ông Tây mũi tẹt TTD, bỏ
chạy cuộc
chiến Mít ngay từ khi “chưa có cuộc chiến Mít”, ngồi Les Deux Magots, Paris, dịch
Camus, mà lại chọn ngay cuốn Sa Đọa
để mà dịch.
Hóa ra là chỉ
có mỗi cách, dịch cuốn đó, thì mới nuốt trôi khúc xương nhức nhối, tớ
là một kẻ… sa đọa!
Dĩ độc trị độc
là vậy!
Tình cờ đọc
câu này, trong cuộc phỏng vấn Dominique Fernandez, [ông
Hàn ‘gay’ trong Hàn Lâm Viện Pháp: Một
trong những lý do tôi muốn vô Hàn Lâm Viện Pháp, là, ao ước của một tên
“gay” dám
nói huỵch toẹt ra, đã được chấp thuận], trên số Magazine Littéraire, Jan 2011,
đặc biệt về Đạo Đức: “Viết 1 cuốn tiểu thuyết về Sartre, hay Mauriac,
là hai kẻ
chết ở trên giường, thì tôi không quan tâm!”
Gấu nghĩ, cũng
cùng lý do như vậy ông Tây PHD dịch KT, DTH, qua tiếng Tây, ông Tây TTD
dịch
Camus qua tiếng Mít.
Nhân
nghe và nhìn lại một phỏng vấn Hồ Chí Minh trả lời một phóng viên Pháp
bằng tiếng
Pháp
PHD
Tiếng
Mít như thế, thì quả là quá tệ. Đúng là nghĩ sao viết vậy, người ơi! Tệ
lắm, thì
cũng viết, nhân coi lại 1 cuộc phỏng vấn Bác Hồ.
Vậy
là đủ rồi. Mọi râu ria, Bác nói tiếng Tây…đưa vô bài viết.
Nói về một vấn
đề phức tạp bằng ngoại ngữ, đương nhiên khó.
PHD
Bài phỏng vấn,
với những câu hỏi, cũng rất thường, có gì mà đương nhiên khó?
Cái câu quan
trọng nhất, mà em Đầm đưa ra, là, Bác có nên mời De Gaulle làm trọng
tài cho cuộc
chiến. PHD khen câu trả lời của Bác là tuyệt. Theo Gấu, trả lời như vậy
quá dở,
mà còn lộ dã tâm ăn cướp, coi thường sinh mạng người Mít…
Với 1 tay ký giả nhà nghề, chỉ qua câu trả lời
là biết, đừng hy vọng VC tha ăn cướp Miền Nam.
Cái tay
Simon Leys, cũng trong 1 trường hợp tương tự, đã chửi Malraux, khi
phỏng vấn Mao, là ngu quá, chỉ 1 câu hớ miệng của
Mao, với tay phóng viên nhà nghề, là đủ ngửi ra Cuộc Cách Mạng văn hóa,
Mao cho
tiến hành liền sau đó:
Hóa ra là,
cuộc phỏng vấn lớn lao của thế kỷ chúng ta, kéo dài 3 giờ đồng hồ, giữa
hai ông
khổng lồ cách mạng gia-triết gia, thực sự chỉ kéo dài 30 phút, và chỉ
là trao đổi
ngoại giao tầm phào. Nhưng Mao, có thể lỡ miệng, đã đưa ra một lời cảnh
cáo, rằng
nhà văn, trí thức đã bị hư ruỗng tới tận xương tủy, và đám trẻ cần được
sử dụng,
để chống lại cái xấu phản cách mạng này. Năm sau, cuộc Cách Mạng Văn
Hóa khủng
khiếp đã bùng nổ. Một phóng viên nhà nghề, khoan nói một nhà văn, đã
ngửi ra một
cái gì đó - khoan nói mùi thuốc súng, mùi người chết - và chụp lấy cơ
hội ngàn
năm một thuở này, nhưng Malraux đã không được thính mũi như vậy. Và Mao
sau đó,
không thể kiên nhẫn hơn, đã đưa ra một lời kết luận cụt ngủn.
Văn chương làm dáng
Phóng viên :
Pensez-vous que le général De Gaulle pourrait en quelque sorte, à un
certain
moment, arbitrer le conflit ?
HCM :
Arbitrer ? Qu'est-ce que vous comprenez par le mot arbitrer ? Nous ne
sommes
pas des… des équipes de football ! (cười…)
Tuyệt.
Một cách nhẹ
nhàng và hài hước, rất ngoại giao, để… remettre chacun à sa place, y
compris De
Gaulle, La France et la journaliste.
Source
Ai cần mi làm…
trọng tài?
Thấy me-xừ “Ê
Khánh Trường”đi một đường bênh Bác Hồ,
trên diễn đàn Forum.
Chắc cũng tính làm trọng tài, trong cuộc chiến
giữa hải
ngoại và trong nước nhân cái băng video cho thấy Bác xài tiếng bồi để
trả lời tụi
Tây mũi lõ.
Vấn đề ở đây,
nhân cái băng video, là, trình độ tiếng Tây của Bác như thế, không thể
đọc Mác
Xít được, và cái cảnh Bác khóc ròng khi đọc Lê nin, ngộ ra con đường
cứu nước bằng
thuốc độc Mác Xịt Lê Nin Nịt, sợ… nhảm.
Hơn thế nữa,
tất cả những tác phẩm của Bác viết bằng tiếng Tây, sợ cũng không phải
chính Bác
viết, hoặc Bác viết, nhưng được mấy bậc đàn anh ở Paris lúc đó, “hiệu
đính”, hoặc
chính họ viết, dùng cái tên chung là Nguyễn Ái Quốc, nhưng khi họ đã đi
xa, thì
đều thuộc về Bác.
Nhưng quan
trọng hơn hết, vẫn chính là cái vai trò trọng tài của Tây, khi cô Đầm
gợi
ý, giả như De Gaulle làm trọng tài cho cuộc chiến, thì sao?
Tay “Ê KT” này,
chỉ thấy cái tuyệt của 1 trò chơi chữ, mà lại không thấy cái khốn nạn
của cả 1
đất nước rơi vào tay một đám vô lại, vô học?
Một cuộc phỏng
vấn như thế, phải thật chững chạc. Chữ dùng thật thẳng thắn, thật rõ
ràng, không
thể hiểu sai đi được, nhất là vào thời điểm được phỏng vấn. Nó giống
như 1 văn
kiện ngoại giao, nói với toàn thế giới ý nghĩa của cuộc chiến….
Đọc bài viết
ngắn này, cho thấy, ngay cả một me-xừ giỏi tiếng Tây như tác giả bài
viết cũng không hiểu
được cái sứ mệnh “học tiếng Tây để làm người Việt”, ở những nhà văn
thời hậu
thuộc địa như Salman Rushdie, thí dụ.
Bởi vì quá cả
số phận 1 đội banh bị phù thuỷ trọng tài đạo diễn, cuộc chiến Mít chẳng
có đội
banh, chẳng cần trọng tài, mà chỉ là một cuộc nội chiến giữa hai miền,
không lẽ
ông Tây mũi tẹt không biết?
Tây Du.
-Lúc này anh
không còn lấy tên là anh “Ba”, mà là Paul Tất Thành.
Cái nhìn tự
tin, dáng dấp đúng điệu công tử Paris, anh đang dạo chơi trên cầu
Alexandre III
-Đơn xin vô
học trường thuộc địa như một nội trú của anh Paul
As
for me, I prefer to smell French shit for five years, rather than
Chinese shit for the rest of my life.
Ta
thà ngửi cứt Tây năm năm còn hơn ngửi cứt Tầu cả đời
Câu trả lời
đếch cần mi làm trọng tài, sợ nhảm, hoặc trong lúc phởn, Bác trả lời
“tưới, vãi”, bởi
vì như trong cuốn tiểu sử Greene của Norman
Sherry,
cho thấy:
Tháng Ba,
1946, năm năm trước khi Greene tới Việt Nam, Ho [HCM] ký hòa ước với
Tây, thừa
nhận, sự ra đi của họ để lại một khoảng trống. Viễn ảnh một Việt Nam
độc lập
trong khối Liên Hiệp Pháp, do Tây nhử, làm Ho khoái. Ông chửi đám bộ hạ
phò Tầu:
Mấy bồ có hiểu
nghĩa là gì, chuyện đám Tầu ở lại? Lần chót tụi nó ở một ngàn năm! Tây
dù sao
cũng mũi lõ, họ có thể ở một thời gian, và rồi sẽ cút, vì tụi da trắng
hết thời
ở Á Châu rồi. Ta thà ngửi cứt Tây năm năm còn hơn ngửi cứt Tầu cả đời!
Nhưng thú vị
nhất là đọan do chính nhà văn Tô Hoài viết, sau đây, trong Bút
Ký:
Thế là đã rõ
Việt Minh bán nước ta cho Pháp rồi
Cái bọn mà
mày cứ động mở mồm ra là chửi hoạt đầu, núp đít Tây Tầu, nói thẳng ra
là Việt
Quốc, Việt Cách... lại đánh Tây...
Nhà
xb Gallimard. Tủ sách Découvertes. 1999
Như hình ảnh
cho thấy, Bác H đâu còn là Mít, mà là “Người Của Đệ Tam Quốc Tế”, và
những tài
liệu sau này, khui ra từ Cẩm Linh cho thấy, Người lãnh lương của Cẩm
Linh, và
như thế Người là một anh Xịa Đỏ.
Ho Chi Minh
Visiting
President Ho Chi Minh, I found him very courteous, and he explained the
difficulties which had made him refuse my previous visit. He took me
for a walk
in the countryside surrounding his HQ. One had to keep a weather-eye
open for
American bombers. A helicopter approached and I wondered whether it was
American, but it proved to be one of 'ours' and landed. A very pretty
European
girl appeared and began to walk off on her own. "Is she safe". I asked
Ho Chi Minh and he called after her, "Come back. You don't know what
our
boys mightn’t want to do with you."
[Thăm Chủ Tịch
Hồ Chí Minh, tôi nhận thấy ông rất lịch sự. Ông giải thích những khó
khăn khiến
ông từ chối lần thăm trước của tôi. Ông dẫn tôi làm một vòng dạo quê,
quanh Tổng
Hành Dinh của ông. Mọi người lúc nào cũng phải trông chừng máy bay Mẽo.
Một chiếc
máy bay lên thẳng sà xuống, tôi nghĩ thầm, dám tụi khốn đó nhưng hoá ra
là của
"phe ta". Chiếc lên thẳng đậu xuống mặt đất, và một em Âu Châu xinh đẹp
xuất hiện, cứ thế làm một đường tự biên tự diễn, vung va vung vẩy đi
một mách,
không thèm ngó ngàng mấy đồng chí công an hay cận vệ...
"Này,
liệu con bé có yên ổn không đấy", tôi hỏi ông Hồ. Ông gọi với
theo cô gái: "Quay lại đây, con ngốc!
Mày không sợ mấy
thằng bỏi của chúng tao làm thịt mày hả?"].
Graham Greene: Một Thế Giới Của
Riêng Tôi, Nhật Ký Mơ, A World of
My Own, A Dream Diary, [nhà xb Alfred A. Knopf Canada, 1992].
Bài
viết ngắn trên, chắc là phịa, hoàn toàn phịa. Nhưng nó có nguồn của nó,
là 1 sự
kiện thực, được Greene kể lại trong Tẩu
Vi Thượng Sách, Ways of Escape.
Greene
ra Hà Nội xin gặp Bác, Bác phán OK, nhưng đợi hoài đợi hoài, cuối cùng
G phải
phịa ra 1 cái tin gì đó, như là 1 cú đe dọa, mi không gặp ta là ta sẽ
gì gì đó,
và Bác hoảng quá, bèn tiếp liền!
Trên
TV có viết về cú này, và về lần tiên trong đời Greene được hít tô phe,
trong những
ngày chờ gặp Bác.
Source
damau
bị tường lửa công kích
*
Công
kích là tấn công & đả kích, nghĩa là phải sử dụng, một diễn đàn nào
đó để
làm hai việc này.
Tường lửa chỉ làm được có 1 việc là tấn công thôi, theo nghĩa, làm cho
không ai
vô đọc được damau.
Gấu thấy cái tít này từ lâu lắm rồi, cũng chẳng tính xía vô, nhưng
chẳng thấy
ai ngứa mắt cả, đành phải ngứa miệng đả kích! NQT
Monday,
April 18, 2011 10:57 PM
Bác Gấu
kính,
Theo Từ Điển
tiếng Việt của Hoàng Phê (xuất bản 1997, trang 200), công kích là động
từ, có 2
nghĩa, 1: tấn công bằng vũ khí; 2: phản đối, chỉ trích gay gắt.
Kính.
Một độc giả ở
Hà Nội
Tks. NQT
Việt Nam
Từ
Ðiển, của Lê Văn Ðức và Lê Ngọc Trụ, nhà sách Khai Trí. Công kích: đt
(động từ).
Áp đánh, đánh phá: Ðịch bị công kích phải rút lui. Bài bác, cự, chống
báng:
công kích ông Hội trưởng giữa phiên họp; Viết bài công kích trên báo.
Tức mình muốn chửi thề
Đăng
ngày: 06:27 19-04-2011
Tôi
thỉnh thoảng gửi bài dịch cho Da Màu. Rất nhiều lần Da Màu nhờ tôi dịch
bài này
bài kia, tôi vui lòng nhận lời. Có khi tôi dịch cũng sai vì không hiểu
hết, vì
láu táu không kỹ, không đọc lại. Da Màu chỉnh sửa, edited, thường
thường tôi
cũng vui lòng không nói gì. Gần đây tôi được nhờ dịch truyện của Angie
Châu.
Dịch xong tôi có đưa cho ông bố của cô Angie đọc lại. Ông cũng góp ý
sửa chữa
tôi làm theo, bản dịch tôi thấy hài lòng. Không dám nói là hay nhưng
nếu đã
được nhờ dịch nhiều lần thì chắc cũng tạm ổn. Ai mà đi nhờ người dịch
mình
không vừa ý bao giờ. Lần này tôi được bảo là Da Màu sẽ đăng bản dịch
vào tuần
thứ Hai tháng 4 sau khi soandso xem lại. Hôm nay đi làm về tôi nhận
được e-mail
bảo tôi như thế này:
“Chị HH,
Em đã dành rất nhiều thời gian để edit cho hoàn hảo. Mỗi ngày em làm
khoảng 1
tiếng suốt hơn hai tuần lễ đó chị.
Em gởi chị bản đã edit nhé, chị em mình cùng tham khảo nhé.”
Tham khảo cái con mẹ gì. Nghe mà hết hồn. Làm mình nghĩ dịch gì mà dở
đến độ
người ta phải hoàn hảo hóa nó đến mức tốn thì giờ đến thế. Nghe giống
như bác
sĩ giải phẩu thẩm mỹ “nè mụ kia, mụ xấu quá phải sửa cặp mắt, lỗ mũi,
bụng mụ
mỡ không phải cắt lớp mỡ ấy đi, ngực mụ lép quá phải bơm silicon vào,
môi kia
phải bơm cho đầy, bàn tay phải bơm cho mất gân, tôi phải mất thì giờ,
năm chục
ngày trên bàn mổ, và 500 ngàn đô la cho mụ trở nên hoàn hảo trong mắt
tôi. Chân
mụ ngắn tôi sẽ ghép một khúc xương, đầu mụ méo tôi sẽ niền kim cô cho
nó
tròn."
Xong rồi chễm chệ ký tên soandso hiệu đính. Chuyện dịch sai sửa cho
đúng thì
tôi cám ơn, chứ lấy chữ này thay cho chữ kia vì nghĩ là nó hay hơn thì
không
ổn. Chuyện hay dở là chuyện perception. Cô thấy chữ cô hay nhưng tôi
thích chữ
tôi dùng. Tôi thích cái khiếm khuyết xấu xí của tôi. Nếu chê tôi xấu
thì đừng
mời tôi thi hoa hậu. Còn nếu muốn đánh rớt tôi thì cứ đánh rớt. Tôi
muốn giữ
cái vẻ tự nhiên của tôi. Văn mình vợ người. Mình thấy văn mình hay
nhưng người
ta không thích thì sao? Nói thật, tôi chưa lần nào đọc những bài thơ
hay bản
dịch của cô. Cô dựa vào đâu mà nghĩ là bài dịch của cô hay hơn bài dịch
của
tôi? May mà dịch không ăn tiền. Chảnh gì mà chảnh dữ a. Từ rày tôi sẽ
không gửi
bài dịch cho Da Màu nữa đâu nhé. Quí vị cứ tha hồ tự biên tự diễn. Hồi
đó đến
giờ tôi bị một hai lần như thế. Mình cong lưng dịch, thiên hạ sửa rồi
tự ý thêm
vào nhuận sắc và hiệu đính. Mỗi lần như vậy là tôi phát sùng nhưng nghĩ
bụng
chuyện chơi mà hơi sức đâu mà giận, nhưng riết rồi cũng phát cáu. Thấy
dở thì
đừng đăng. Cứ đợi người ta làm cực khổ rồi nhào vô ăn có. Ai cũng biết
người
đọc sau khi người ta dịch luôn có lợi thế ở chỗ đánh bóng bản dịch. Làm
văn
chương gì mà cướp sức lao động của người ta trắng trợn thế. Chẳng những
ít tốn
sức lao động còn được lên giọng là ta đây giỏi hơn. Nói phét thì cũng
vừa phải
thôi. Tôi dịch trung bình nửa giờ một trang, một đoạn truyện năm sáu
trang như
thế này tôi chỉ mất hai ba giờ đồng hồ để dịch, thế mà phải sửa đến 14
giờ, bộ
vừa đọc vừa đánh vần đấy nhỉ? Tôi đánh vần vẫn còn nhanh hơn thế. Lưu
manh!
ĐM!
Xin lỗi độc giả, vì tôi tức quá nên chửi cho hả giận!
Blog HH
Note:
Rất thông cảm.
NQT
Trong quá khứ,
chỉ có mỗi PCL, bà chủ VHNT trên net là bảnh nhất. Không bao giờ bà làm
ba cái
chuyện khốn nạn đó. Không bao giờ hiệu đính bài của cộng tác viên. Hơn
thế nữa,
không bao giờ dạy đời, hay tự thổi, nhờ tui mà không biết bao nhiêu là
thiên tài
đã ra đời!
Có 1 lần, đọc,
Gấu thấy bài của Gấu có 1 chữ bị hiệu đính. Hỏi, bà cho biết, đó là
chuyển
font.
Gấu chưa từng
viết cho diễn đàn nào được lâu, 1 phần là do đám ngu này. Cứ tưởng mình
có cái
diễn đàn là ghê gớm lắm, đâu có biết, không có người cộng tác, thì có
ma vô đọc.
Gấu viết cho
VHNT mấy năm trời, chẳng bao giờ bực mình cả, và chỉ ra ở riêng khi
VHNT gặp
trouble với server, tức cơ quan mà PCL là nhân viên, và VHNT là 1 diễn
đàn free,
và trang TV thì lại là free của free, theo nghĩa, PCL cho riêng Gấu 1
account,
tha hồ tự tung tự tác.
Như đã lèm bèm
nhiều lần, Gấu viết cho tờ Văn Học của NMG được 2 năm, cũng rất dễ
chịu, lâu
lâu, họa hoằn lắm thì ông chủ chi địa mới hiệu đính, 1, hoặc 2 từ, hoặc
bỏ hẳn vài
viết, vì 1 lý do nào đó, thí dụ cái bài xoa đầu [hay bợ đít thì cũng
thế] HPNT, Mùa Xuân nói chuyện Mậu
Thân.
Chỉ tới khi Gấu tính giới
thiệu Steiner, thì NMG
mới lắc đầu, tay này cao quá, độc giả Văn Học chưa đọc được. Thế là Gấu
mới nghỉ
viết, tự kiếm đường đưa Steiner, tức Lò Thiêu, tới cho độc giả Mít
thưởng thức,
và so sánh với Lò Cải Tạo của Bắc Kít.
Và thế là Gấu
bèn gửi bài cho PCL, và để làm 1 cú test, gửi đúng cái bài về HPNT.
PCL gửi
mail, anh cho bài khác, nhân vật này đang gây tranh cãi, sợ xui cho cái
duyên văn
nghệ giữa anh và VHNT.
Suốt thời
gian viết cho VHNT, thời gian đầu, khi còn phải gửi bài, chỉ có 1 lần
độc nhất,
bị từ chối. PCL muốn đăng, nhưng BBT không chịu, vì đó là 1 bài viết về
1 tác
giả trước là 1 thành viên của nhóm, nhưng sau tách ra.
PCL viết, tôi thật tình
muốn đăng, nhưng chiều ý đám đông.
Theo như Gấu
được biết, PCL tính cho VHNT tái xuất hiện, nhưng không có được sự thoả
thuận của
cả nhóm, nên lại thôi, và sau đó, cô mất vì bịnh.
Bao nhiêu
"thiên tài" đã từ VHNT mà ra, nào PNH, TTCD, TN... Vậy mà có bao giờ
bà chủ diễn đàn khoe khoang về mình, hay chơi cái trò khốn nạn hiệu
đính đâu?
Nói như vậy,
chẳng lẽ không có cái vụ hiệu đính?
Có, nhưng đây là công việc của BBT, hoặc thư ký tòa soạn. Họ chỉ làm
công chuyện
này, khi gặp lỗi chính tả, hoặc câu sái văn phạm. Họ sửa, và đưa cho
tác giả đọc,
nếu đồng ý, thì sẽ đăng. Không ai có quyền hiệu đính bài viết, theo cái
nghĩa,
sửa văn của người cộng tác, nếu không được sự đồng ý của tác giả.
The Man
Booker international prize
Without a
Carré in the world
Without
a Carré in the world, không có một
Carré trên thế giới. Cái tít này
là 1 trò chơi chữ. Không có “le Carré” [một
cái hình vuông] ở trong giải thưởng Man Booker dành cho những tác giả
viết văn
bằng tiếng Anh, hoặc có tác phẩm đã được dịch qua tiếng Anh, trên thế giới. NHT của Mít xém ăn giải, nhưng do không
có bản dịch tiếng Anh, nên bị loại, trước khi được xét. (1)
Giải này khác
giải Booker
hàng năm, cho tới nay mới chỉ có 3 người được. Ismael Kadare của Albania, Chinua
Achebe, Nigeria and Alice Munro, một nữ văn sĩ Canada chuyên viết
truyện ngắn.
Hai cái
tên
đầu tiên trong danh sách chót năm nay là John le Carré và Philip
Pullman.
Cả hai chưa
từng có tên trước đó.
Nhưng, làm
sao mà bạn có thể tưởng tượng cảnh tượng văn chương bây giờ nó ra làm
sao, nếu
thiếu “le Carré”? Thiếu 1 cái hình vuông là không có “Chuột nhũi”, “Gấu
cưng” của
tôi, ư?
Thiếu điệp
viên về từ vùng đất lạnh của Cuộc Chiến Lạnh ư?
NO!
Thiếu “Gấu cư[ơ]ng” của tôi là không được!
Hắn nhấp
nháy con mắt [lé] nhiều hơn, và mang thêm biệt danh "Chuột nhũi".
Nhưng cô thư
ký mới vào nghề khâm phục hắn, và luôn gọi
hắn là "Gấu cưng" của tôi
Call For
The Dead
*
Jan McEwan:
«Le pouvoir est sexuel”
Quyền lực thì [thuộc] giới
tính
Ông viết về
sex ở đám con nít, hoặc trưởng thành, nhưng vờ đám già trên năm bó…
Tôi thuộc thế
hệ con nít nở rộ, có cái may vào đời không chiến tranh, không thất
nghiệp,
không khốn cùng, những quan hệ trai gái thì tự do, và bây giờ về già có
cảm
tưởng thoải mái, phải nói là, niềm tin, rằng, mọi chuyện vẫn còn có
thể.
Viên thuốc làm căng cứng để kéo dài, dài dài, Le Viagra, theo nghĩa đó,
đúng là
viên thuốc ngừa thai đối với những lứa đôi của thập niên 1960.
Gửi tác
giả “Nhỏ Thanh”
(1)
Nguyễn Huy
Thiệp lọt vô chung kết Man Booker!
TLS số đề
ngày 1 Tháng Bẩy, 2005, mục Sổ Tay, bàn về giải Man Booker Quốc Tế,
khác với
Booker
Prize, dành cho nhà văn Hồng Mao, cho biết một "tin động trời", đối với
đám viết lách người Mít: Có tên Nguyễn Huy Thiệp trong danh sách những
tác giả
thượng hảo hạng, fisrt rate, được ban giám khảo lọc ra để lấy người
đoạt giải.
TLS trích lời
một ông giám khảo [Alberto Manguel], trên tờ Spectator
tháng vừa qua [Tháng Sáu], "trong danh
sách những tác giả thượng hạng... chúng tôi đã phải gạt bỏ Peter
Handke,
Antonio Lobo Antunes.... Nguyen Huy Thiep, Pascal Quignard, và Christa
Wolf, tất
cả những người này đều, hoặc chưa được dịch sang tiếng Anh, hoặc đã
dịch nhưng
nay tuyệt bản".
Về tác giả
Kadare, người đoạt giải, [Tin Văn đã loan tin] ban giám khảo dựa trên
những bản
dịch tiếng Anh, được dịch từ tiếng Pháp, dịch từ nguyên bản tiếng
Albania, và
điều này làm cho giải thưởng hơi mất giá, [hơi rẻ tiền], theo người
bình luận
trên tờ TLS.
Rẻ tiền, là
60 ngàn Anh Kim!
Nhưng, với
tên Nguyễn Huy Thiệp trong danh sách, quả đúng như Kadare nhận xét,
“Danh sách
chót không thôi, tự nó đã làm nên một gia đình văn học lạ thường rồi.”
Và, Nguyễn
Huy Thiệp kể như đã nhận được giải thưởng, bởi vì Kadare có thể coi như
một
Nguyễn Huy Thiệp của Albania.
Tin Văn tính
giới thiệu bài viết về ông, trên Guardian, khi ông được giải, nhưng nay
có bài
viết trên TLS, rất thú vị, về ông, sẽ cống hiến các bạn trong những kỳ
tới.
Nguồn
Man Booker,
hai năm phát 1 lần, năm đầu, 2005, có tên NHT, trong danh sách
chót. Năm
nay có tên le Carré, ông, qua tay đại diện, ra lệnh, bỏ tên tao ra, ban
giám khảo
phán, kệ cha mi, tao cứ để!
“John Le
Carre’s name will, of course remain on the list. We are disappointed
that he
wants to withdraw from further consideration because we are great
admirers of
his work.”
Jan McEwan:
«Le pouvoir est sexuel”
Quyền lực thì [thuộc] giới
tính
Gửi tác
giả “Nhỏ Thanh”
Note:
Bài viết này, nhờ Google Desktop, G kiếm thấy, cùng lúc, thấy luôn cái
mail sau
đây, từ "thuở ban đầu", Gấu cắp rổ theo hầu SCN đi Chợ Cá Bơ Linh!
Friday,
November 30, 2001 6:56 AM
Anh T oi,
Em doc duoc bai "No da noi", (1) vi viet trong word, con cac bai khac
em chua
mo ra duoc, phai doi ong xa ve giup.
Anh giup em vai tu duoc khong:
1. regression: chang han, trong ngon ngu co nhung "phat trien giat
lui", nen dich the nao?
2. transfigure: chang han, khi nguoi ta nhin nhan mot viec gi do va co
nhung lien tuong khien viec do tro nen "ly tuong" hon...
Cac de nghi ma tu dien dua ra thi khong the dung duoc.
Em H.
(1) "Nó
đã nói", điểm cuốn Chuyện Kể Năm 2000 của BNT
Tôi sẽ
giơ cao tờ chứng minh thư Đảng
Là
toàn tập thơ bônsêvích tôi làm
(CKN
2000, trang 106)
You’re
Not
in Your Own House Here, My Dear Fellow
Milan Kundera
Trong chương
9, và cũng là chương chót Những Di
chúc bị Phản bội, Kundera
bàn về một sự thô bạo trong thế giới văn chương: vấn đề cắt xén, vặn
vẹo tác phẩm,
ngay từ khi tác giả còn sống, và lẽ dĩ nhiên, càng trở nên thô bạo hơn,
khi họ
đã chết rồi.
Ông kể chuyện, vào cuối đời, Stravinsky quyết
định tự
trình diễn, như một tay dương cầm, hay một nhạc trưởng, toàn bộ âm nhạc
của
ông. Và bị chế diễu thậm tệ: khi Stravinsky
trình diễn
qua vai nhạc trưởng, ông ta khiếp đảm đến độ, mắt dán vào nốt nhạc, tuy
đã thuộc
lòng. Và tính giờ. Mọi nguồn vui rời bỏ ông!
Kundera tự hỏi tại sao, và ông tìm
được câu trả lời, khi
nghiên cứu 146 bức thư, của Stravinsky gửi cho
Ernest
Ansermet (người chế diễu), khởi sự năm 1914: My dear Ansernet, My dear
fellow,
My dear friend, Very dear, My dear Ernest, rồi bất thình lình: "Paris
Oct
14, 1937, Rất vội, bạn thân của tôi. Tuyệt đối không có bất cứ một lý
do gì cắt
xén Chơi Bài (Jeu de cartes) khi
trình diễn... Cá nhân bạn cảm thấy một
vài động
tác hơi ngán ngẩm (boring). Về chuyện đó, tôi chịu thua. Nhưng tôi thật
sự ngỡ
ngàng khi bạn cố thuyết phục tôi về vụ "cắt xén"; tôi, người đã trình
diễn nó tại Venice, và cũng đã cho bạn biết về sự hứng khởi của khán
thính giả...
Tôi thực sự không tin khán thính giả của bạn kém thông minh, so với ở
Venice.
Nghĩ rằng bạn có thiện ý, khi muốn co dãn để công chúng dễ hiểu hơn:
Bạn, người
đã từng can đảm chơi một danh tác đầy rủi ro như Giao hưởng Đàn Gió
(Symphonies
of Wind Instruments); khi khăng khăng cho rằng nó phải thành
công, và
công
chúng thừa sức để thông cảm! Bởi vậy tôi không để cho bạn cắt xén "Jeu
de
cartes". Tôi nghĩ, tốt nhất đừng chơi nó gì hết, còn hơn là với
sự dè
dặt!
Tôi không còn gì để thêm. Chấm hết!"
Ngày 15, tháng Mười, bạn trả lời: "Tôi chỉ xin bạn tha lỗi cho tôi, về
một
cắt xén nho nhỏ..." "I am sorry, nhưng không cho phép bạn về bất cứ một
cắt xén nào trong Jeu de cartes... Bạn ơi, đây đâu phải nhà của bạn."
Gấu trích lại
1 đoạn trên, để gửi mấy đấng đệ tử của Thầy Cuốc:
Trang TV đâu có phải
là nhà của
bạn?
Có, cái giọng
“tự khen tự thổi” của Gấu trên TV.
Nhưng bạn thử
kiếm, 1 bài nào của Gấu, ở 1 diễn đàn khác, khi Gấu còn mặt dầy xin
đóng góp bài
vở, thí dụ, Chợ Cá, thí dụ Hậu Vệ, coi có một dòng nào như thế?
TV là nhà của
Gấu mà, đúng không? Nếu bạn không thích cái giọng đó, dễ quá, đi chỗ
khác chơi,
tại sao lại mất thì giờ viết mail, chửi?
Chửi dịch
sai, OK. Nếu đúng dịch sai, Gấu này sửa liền, và còn cám ơn, thực tình
cám ơn.
Thử hỏi, có
1 ông bà nào làm được như Gấu chưa. Có diễn đàn nào đăng nguyên tác
cùng bản dịch
như TV?
Bà chủ diễn đàn
DM, khi Gấu lôi lỗi dịch sai, “đủ” khác “cần”, bà len lén sửa. Không
cám ơn.
Bi Bì Xèo, “Bán
đảo ngục tù”, cũng len lén sửa. Cũng không cám ơn.
Thầy Cuốc,
Simone de Beauvoir[e], đã có bướm rồi còn thêm bướm [“e”], cũng lén
sửa. NO
TKS.
Mít Butor, sửa
thơ Brodsky cho vừa mũi nhà nước VC. NO TKS
Nguyễn Trung
Ðức dịch Trăm Năm Cô Ðơn. Sai. Gấu nêu ra, còn được 1 ông Ðức viết bài
ngợi
khen.
Sao bac ghet talawas...?
Gấu
thực sự quá tởm mấy đấng Yankee mũi tẹt thì đúng hơn. Khi diễn đàn này
mới xuất
hiện, Gấu là người đầu tiên viết, trong khi những người khác còn nghi
ngại, ấy
là vì Gấu nghĩ, đây là thời điểm để nối lại mối nối bị đứt với Đất Bắc
của Gấu.
Liền sau đó, là thất vọng, nhưng vẫn hy vọng, rồi hoàn toàn tuyệt vọng.
Một khi đám Yankee mũi tẹt, khoan nói ở trong
nước, nói được một lời ân
hận về
cái chuyện ăn cướp Miền Nam, thì may ra mới có sự thay đổi.
Chính cái sự ăn cướp Miền Nam đã gây nên tai họa khủng khiếp, và đẩy
đất nước
chìm đắm vào cơn băng hoại, không biết đến bao giờ mới thoát ra được.
Có vẻ như sự kiện chúng chẳng thể nói được điều này, còn là do mặc cảm
dốt nát.
Cả một diễn đàn như thế, trong mấy năm trời như thế, đâu có để lại một
cái gì
cho ra hồn, ngoài mớ văn học Miền Nam được họ sưu tầm?
Cả một đám làm cho Bi Bi Xèo như thế, mà dịch “Bán Đảo” Ngục Tù? Khi có
người
chỉ cho thấy sự dốt nát, thì cũng không biết lên tiếng cám ơn? Chúng
'vô học'
đến mức như thế thì làm sao khá cho được?
Cái sự băng hoại đạo đức, ở đám chóp bu như đám này, mới đáng sợ, và vô
phương
cứu chữa.
Kính. NQT
Giấc
mơ giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước là giấc mơ tuyệt vời nhất
của Miền
Bắc, và nó càng thêm tuyệt vời khi rong ruổi với giấc mơ Mác Xít về một
con người
hoàn toàn, l’homme total, con người mới xã hội chủ nghĩa. Nhưng nằm
dưới đáy
sâu lịch sử của một miền đất, nằm nơi đáy sâu của bất cứ một con người
Miền
Bắc, vừa đẻ ra là đã có rồi, kể từ khi có Đàng Trong, còn là con thú
săn mồi
sống mà nhân loại có từ thời ăn lông ở lỗ, và cùng với con thú đó,
là cơn
đói khát, ao ước được thoả mãn, thành thử rong ruổi với cái tốt, còn là
cái
xấu, cái đại ác của một miền đất quá cằn cỗi vì thiên nhiên khắc nghiệt
ảnh
hưởng tới lòng người hà khắc, chai đá.
Tới thời điểm 30 Tháng Tư, thì cái tốt mất hết, chỉ còn cái xấu, con
thú xổ
chuồng, khi đẩy được Miền Nam vào thế bại trận, biến cả một miền đất
thành
chiến lợi phẩm. Đó là sự thực về cuộc chiến, theo Gấu.
Câu nói của DVM, chúng tôi chờ mấy ông để bàn giao, và hành động trước
đó, đuổi
Mỹ ra khỏi Miền Nam trong vòng 24 tiếng, bắt VNCH bỏ súng, nói lên tấm
lòng của
người Miền Nam, nhưng câu nói của Bùi Tín, cũng nói lên "tấm lòng"
của người Miền Bắc. Sự thực của cuộc chiến, chỉ cần hai câu nói, là quá
đầy đủ!
Gấu
này tin rằng, ngay trong đám tinh anh của sĩ phu Bắc Hà cũng không nhận
ra cái
phần đẹp nhất của giấc mơ giải phóng Miền Nam của Yankee mũi tẹt, chính
vì vậy
mà DTH cho rằng, đây là cuộc chiến ngu xuẩn nhất của dân Mít.
Bạn phải nhìn ra cái phần đẹp nhất của nó, thì mới có thể tưởng niệm
những liệt
sĩ của Miền Bắc, như nữ thi sĩ Xuân Quí, như Đặng Thuỳ Trâm được. Và, ở
bên kia
thế giới, họ mới bớt đau lòng.
Giấc mơ đẹp biến thành hiện thực khủng khiếp, chính là do Cái Độc Cái
Ác của
một miền đất mà ra.
Chính Cái Độc, Cái Ác này đã đẩy họ vô chiến trường, như chính họ thú
nhận
trong nhật ký. Họ quá tởm nó, mà bỏ Đất Bắc, một phẩn.
Sở dĩ Lời Dối Trá được muôn người một một tin theo, ấy chính là vì nó
hợp với
giấc mơ của muôn người
Gấu đã mường tượng điều này, khi viết về bài
thơ Điện Biên của Tố Hữu:
"Balzac mô tả cái nón, là bởi vì có người đang đội nó" (3). Đằng sau
những loa dậy đất, đèn đuốc đỏ rực bản làng, có một giấc mơ - cái thật
trong
tương lai - mà cả một miền đất muốn vươn tới, muốn sở hữu. Chúng ta
phải hiểu
như vậy, thì mới giải thích được, dù chỉ một người ngã xuống ở mảnh đất
Điện
Biên.
Như chúng ta đều biết, giấc mơ đã không trở thành hiện thực, và đó là
những cay
đắng giấu kín đằng sau nụ cười hiền như Phật của Tố Hữu.
PXA, đến giờ chót, đi không được, là cũng vì giấc mơ thất bại đó, chắc
hẳn?
Đỉnh
Cao Chói Lọi
Như đã từng
thưa nhiều lần, Tin Văn thực sự không phải là một trang văn học theo
nghĩa thuần
túy của nó. Đào Hiếu, trong một bài viết cho BBC, đã coi báo chí trong
nước có
một tổng biên tập. Trang Tin Văn cũng thế, cũng có một tổng biên tập,
và ông
này ra lệnh: Tất cả những bài viết trên Tin Văn, bằng mọi cách, cố làm
sao trả
lời cho được câu hỏi hắc búa: Giả như dân Mít chúng ta biết đến cái độc
cái ác
đưa đến Lò Thiêu Người tại Âu Châu, liệu chúng ta có tránh đi vào vết
xe đổ,
nghĩa là không để xẩy ra cú tàn khốc tàn độc 10 ngày Lò Cải Tạo?
Một độc giả “meo”, đặt nan
đề, giả như mi kiếm thấy câu trả lời cho câu hỏi
trên, thì liệu có thay đổi gì cho số phận của dân Mít của mi, nhất là,
liệu cái
đám Yankee mũt tẹt, trong có mi, có ‘khác’ đi không?
Căng thiệt!
John le Carré turns down Booker honour
John Le Carré đếch thèm vinh quang Booker!
Doyen of spy
fiction asks to be removed from shortlist for Man Booker International
prize as
he 'doesn't compete for awards'
Nè, bỏ sách của ta ra khỏi danh sách đề cử giải
thưởng Hội Nhà Văn nhe!
Hot
Hai bài hiện
đang hot trên TV, khiến khách viếng thăm, thường là 300 vị [thực sự chỉ
có chừng
150, nhưng ghé 2 lần/ngày] lên tới con số 400, vào thời điểm này, 1 con
số kỷ lục.
Bài được đọc
nhiều nhất là bài post lại từ blog Osin, liên quan tới Hồng Ánh
Quái nhất, là, làm sao mà độc giả TV lại mò ra bài viết này, trên TV,
Gấu đã quên béng?
*
Tôi đã từng
chứng kiến một số đại gia lăn xả vào tán tỉnh cô đào tài sắc này.
Có lần, một chủ doanh nghiệp trẻ, được ăn cơm cùng Hồng Ánh, ngồi nhà
hàng máy
lạnh mà mồ hồi cứ đổ ra như tắm.
Hồng Ánh, những khi “giải lao” giữa các lần
yêu vẫn tìm tới tôi.
Blog
Osin
Viết như thế
thì quá khốn nạn. Viết lại ở đây, thật thấy nhục nhã lây, 'cũng một
lũ đực rựa khốn nạn', nhưng chẳng lẽ không nói tới?
NQT
Nguồn
Còn bài kia,
là “Kiển Tố” vừa đố vừa giảng, tức vụ Ðường kiến.
26 Mar 2011 169
27 Mar 2011 189
28 Mar 2011 206
29 Mar 2011 455
Tới giờ này, [9.15.PM],
455 visitors.
Hết ngày, [12. PM] sẽ là bao nhiêu?
Khủng thật!
Tin giờ
chót: 520 vị!
Tks. NQT
Thư Ðông Kinh: Lịch Sử Lập Lại
Cũng chỉ là
tình cờ, cơ may đúng hơn, trước khi xẩy ra trận động đất 1 ngày, tôi
viết 1 bài cho
tờ Asahi Shimbun, ấn bản
buổi sáng. Về
1 ngư phủ cùng thế hệ với tôi, nhiễm phóng sạ vào năm 1954 trong lần
thử bom tại
Bikini Atoll. Tôi nghe nói
tới anh lần đầu khi tôi 19. Trong suốt cuộc đời sau đó, anh dành nó vào
việc tố
cáo con ngáo ộp nguyên tử, [huyền thoại răn đe hạt nhân], và sự ngạo
mạn của những
kẻ bợ đít nó. Liệu đây là 1 thứ thần giao cách cảm, hay 1 điềm báo u ám
khiến tôi nhớ tới anh ta, trước
khi tai họa xẩy
ra?
Anh ta còn chiến đấu chống những chương trình điện hạt nhân và cùng
với
chúng là những hiểm họa.
Tôi cũng đã
từ lâu trầm tư về lịch sử nước Nhật qua lăng kính của ba loại
người: những
người đã chết ở Hiroshima và Nagasaki, những người nhiễm phóng sạ trong
vụ
thử bom
Bikini, và những nạn nhân của những tai nạn tại những cơ sở, nhà máy
hạt nhân.
Nếu bạn nhìn lịch sử nước Nhật qua lăng kính trên, thì bi kịch trên
thật là
hiển
nhiên, tự nói nói ra, tự nó tố cáo nó. Bây giờ, vào những ngày
này, hiểm nguy nhà máy nguyên tử đã trở thành thực tại. Cho dù diễn
biến thảm họa cũng sẽ phải chấm dứt - và tôi thực sự cầu mong, và kính
trọng nỗ
lực của nhân loại hầu có được kết quả này, nghĩa là ngăn chặn được thảm
họa đừng
để nó phát sinh thêm những hậu quả nghiêm trọng - cho dù vậy, thì ý
nghĩa của
thảm họa vẫn có chi mù mờ, không làm sao vạch trần ra được: Lịch sử
nước Nhựt Bổn
đi vô một “pha” mới , và một lần nữa, chúng ta phải nhìn sự vật qua con
mắt của
những nạn nhân của điện hạt nhân, của những đàn ông, đàn bà chứng tỏ sự
can đảm
của họ qua đau khổ. Bài học mà chúng ta có được từ thảm họa hiện thời
sẽ tùy
thuộc, hoặc, những kẻ sống sót nó, chọn lựa, đừng lập lại lỗi lầm,
hoặc, kệ cha
nó, cứ lầm tiếp.
Tai họa này đã
kết hợp thành một, theo một đường lối thật bi thảm, hai hiện tượng: cái
sự hơi
quá bị nhạy cảm với động đất của nước Nhật, và hiểm họa do năng lượng
hạt nhân
gây ra. Cái đầu thì từ thưở khai thiên lập địa của đất nước này đã có
rồi. Cái
thứ nhì, đến bi giờ người dân Nhật mới nhận ra, nó còn khủng khiếp hơn
nhiều so
với động đất và sóng thần, và thê thảm hơn, vì đây là tác phẩm của
con người!
Nhựt Bổn học
được gì, từ thảm kịch Hiroshima?
Một trong những
nhà tư tưởng gia đương thời số một của Nhựt, Suichi Kato, mất năm 2008,
nói về
bom nguyên tử và lò hạt nhân, đã nhớ lại một dòng từ tác phẩm “The
Pillow Book”
[cuốn sách gối đầu], được viết ra cách đây 1 ngàn năm, bởi một người
đàn bà,
Sei Shonagon, qua đó, tác giả gợi ra ‘một điều gì có vẻ thật xa, nhưng
sự thực, rất ư là gần”. Thảm họa hạt nhân, có vẻ như là thật là xa vời,
chưa chắc, chưa hẳn là sẽ xẩy ra, nhưng than ôi, cái viễn cảnh của nó
thì lại
luôn luôn ở với chúng ta, trên từng cây số! Nhật bổn đúng ra là không
nên nghĩ
tới năng lượng hạt nhân, theo cái kiểu, trong cái dòng, đây là một thứ
sản xuất
kỹ nghệ. Họ không nên diễn dịch ra từ thảm kịch Hiroshima, một hệ luận:
nó là một
‘recipe’ [đơn thuốc], cho phát triển. Như động đất, sóng thần, và những
thiên
tai khác, kinh nghiệm Hiroshima phải được khắc sâu, bằng acít, vào hồi
ức của
nhân loại.
Nó khủng nhất, bởi vì là do con người làm ra, mấy thứ kia, là do ông
Trời cà chớn!
Cái kiểu lập lại lỗi lầm, bằng cách trưng bày nó, qua xây dựng
những lò nguyên tử, cái kiểu coi thường mạng người như thế, là một sự
phản bội
rất ư là khốn kiếp, hồi ức của những nạn nhân Hiroshima.
Tôi lên mười
năm Nhật bại trận. Năm sau, Tân Hiến Pháp ra đời. Những năm tiếp theo,
tôi cứ tự
hỏi chính mình, cái chủ nghĩa hòa bường được ghi trong Hiến Pháp, trong
đó bao
gồm nghị quyết từ bỏ sử dụng sức mạnh, và sau đó, “nguyên tắc ba không”
[không
sở hữu, không sản xuất, không đưa vô Nhựt võ khí nguyên tử), liệu có
phải là sự
trình bày đúng đắn, chính xác, những ý tưởng cơ bản của một nước Nhật
hậu chiến.
Như chuyện xẩy ra, Nhựt bổn đã lừng lững, từng bước một, tiến nhanh,
tiến mạnh
trên con đường tái tạo dựng lực lượng quân sự của nó, và những thoả
thuận bí mật
đã được thực hiện vào những năm 1960, cho phép Mẽo [Oe mà cũng biết
‘tiếng lóng’
này ư?] đưa khí giới nguyên tử vào quần đảo, và thế là “ba không” trở
thành “ba
có”. Tuy nhiên, những ý tưởng về một nhân
loại hậu chiến không hoàn toàn bị bỏ quên. Những người chết, theo dõi
chúng ta,
bắt buộc chúng ta tôn trọng những ý tưởng đó, và hồi ức của họ đã ngăn
cản chúng
ta, nhân danh chủ nghĩa hiện thực chính trị, hạn hẹp, khoanh vùng, tính
nguy hại
của võ khí nguyên tử. Chúng ta đã chống lại. Và từ đó, lộ ra một nước
Nhựt bổn
hàm hồ, bất phân, lưỡng lự: một quốc gia hòa bường nằm bên dưới cái dù
che chắn,
bảo vệ, của con ngáo ộp nguyên tử là nước Mẽo, là Chú Sam!
Người ta hy
vọng, tai nạn ở nhà máy Fukushima sẽ cho phép nước Nhật nối lại được
với nỗi đau
Hiroshima, nối lại được với những nạn nhân của nó, và của Nagasaki, và
tái xác
nhận hiểm nguy của sức mạnh nguyên tử, và làm 1 cú chấm dứt ảo tưởng về
sự hữu
dụng của chính sách răn đe hạt nhân: Chúng ông có bom nguyên tử đấy
nhé, đừng có
đụng vô chúng ông! Vì nó, mà có cái trò bợ đít sức mạnh hạt nhân!
Vào
cái thời có thể nói là chín chắn, trưởng thành, tôi viết 1 cuốn tiểu
thuyết đặt
tên là “Hãy dậy chúng tôi làm sao lớn nhanh hơn sự khùng điên của
mình”, mày
điên 1, thì tao khôn… 10, đại khái thế.
Bi giờ ở vào giai đoạn chót của cuộc đời, tôi đang viết cuốn “tiểu
thuyết cuối
cùng”. Giả như mà tôi xoay sở làm sao lớn nhanh hơn sự điên khùng hiện
thời, cuốn
tiểu thuyết mà tôi viết đó sẽ mở ra bằng cái dòng chót của Inferno của
Dante: “Và thế là chúng mình ra được bên ngoài, và một lần nữa, nhìn
những vì
sao”
Kenzaburo
Oe
WESTMINSTER
(NV) - Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, một trong những người sáng lập Phong
Trào Du
Ca Việt Nam hồi thập niên 1960, vừa qua đời lúc 4 giờ sáng Chủ Nhật, 27
Tháng
Ba, 2011, tại California, Hoa Kỳ, thọ 68 tuổi.
TV & NQT
xin chia buồn và cầu chúc linh hồn bạn Nguyễn Ðức Quang sớm siêu
thoát
*
NDQ @ Tòa soạn
nhật báo Viễn Ðông, cc 1998, hoặc thời gian xẩy ra biến cố Trần Trường,
1999
Người nửa mặt là Khánh Trường
Thơ mỗi ngày
MM và nhà
thơ Carl Sandburg: Nàng đến trễ hẹn 3 tiếng vì ở chỗ làm tóc, để có một
mái tóc
y chang của nhà thơ.
Những dòng
thơ tuyệt vời trên đây, là để xưng tụng nàng.
"So
many with a peach bloom of young years on them and laughter of red lips
and
memories in their eyes of dances the night before and plays and walks",
Carl
Sandburg's evocation of "Working Girls" (1916) seems to be brought to
glamorous life forty-five years later…
Ui chao, “sao
áo bay nhiều quá”, màu đào nở rộ của những năm tháng trẻ trung ở
nơi họ,
và tiếng cười của những cặp môi đỏ thắm, và những kỷ niệm ở trong mắt
của những
cuộc khiêu vũ đêm hôm trước, và những cuộc chơi và những bước đi"
Un entretien
exclusif avec Arundhati Roy
La bombe
indienne
-Bà có vẻ
không khoái Obama?
Khi hắn được bầu làm tổng thống nước Mẽo, một tờ
biếm văn ở Nữu Ước đi một
cái tít to
tổ bố:
"Một tên Ðen được sử dụng vào 1 công việc tồi tệ"
Một ngày đẹp trời, Arundhati
Roy, trái bom Ấn, giải thưởng Booker với cuốn "Thượng Ðế của những vật
bé
tí" sẽ được trao hai giải Nobel, một, Hòa Bình, và một, Văn Học, tờ
Người
Quan Sát Mới tiên đoán.
*
Who
Would
Dare?
Roberto
Bolaño
The
books that I remember best are the ones I
stole in Mexico City, between the ages of sixteen and nineteen....
Ðọc,
là GNV nhớ những lần chôm sách ở 1 tiệm cho thuê truyện ở Chợ Hôm, Hà
Nội....
If we had to
speculate about the characteristics of a literary movement called
"visceral realism", we might assume it involved a gritty description
of life. It is a forensic style, we could say, where the writer wields
pen or
computer cursor as a scalpel, producing literature that lies on the
page like
viscera on a laboratory table. In its sentences and paragraphs, we read
flesh
and bone, organs and blood; we see the inner workings of corporeal
existence.
Siddhartha
Deb, trên tờ TLS số 16 Tháng Sáu, đọc Bolano [The Savage Detectives và
Last
Evenings on Earth], đã so sánh văn phong của ông với của những nhà
"visceral realists": hiện thực lục phủ ngũ tạng. Hiện thực tim gan
phèo phổi, với những đoạn văn, gồm, khúc này thì là thịt xương, khúc
kia, tí
phèo, tí phổi, và máu. Đây là thứ tác phẩm nội về sự hiện hữu của cơ
thể, we
see the inner workings of corporeal existence.
Tuy nhiên, cứ
coi trên đây, là diễn tả đúng, xác thực, về chủ nghĩa hiện thực lục phủ
ngũ tạng,
nó cũng chẳng giúp gì chúng ta nhiều, khi đọc cuốn tiểu thuyết "thất
thường
một cách ấn tượng, khi thì thực vui, lúc thì buồn quá", impressively
manic
novel, với một thứ văn phong, mặc dù làm ra vẻ "hiện thực lục phủ ngũ
tạng",
nhưng độc giả không thể nào tìm ra thứ nghệ thuật này ở trong 600 trang
sách.
Thay vì vậy, chúng ta lại được biết, về những kẻ thực hành thứ chủ
nghĩa hiện
thực nội tạng đó, những kẻ đã từng nắm giữ làm con tin, sinh hoạt văn
học
Mexico City giữa thập niên 1970. Một thứ băng đảng văn học, chứ không
phải là một
trào lưu, một vận động nghệ thuật. Chúng cướp đoạt, trấn lột sách vở,
ăn nhậu,
cãi lộn, làm tình, bán ma túy, và sau cùng biến mất, không làm sao giải
thích
được, và để lại, không phải một thứ văn học hiện thực nội tạng mà là
những bóng
ma của những gì thái quá, của thứ nghệ thuật này.
Giả tưởng của
Bolano, liêu trai, ma quái, ám ảnh, và có tính kinh nghiệm,
experimental, nhưng
không phải thứ hiện thực huyền ảo của Garcia Marquez, Carlos Fuentes,
và Mario
Vargas Llosa.
Hot
Hai bài hiện
đang hot trên TV, khiến khách viếng thăm, thường là 300 vị [thực sự chỉ
có chừng
150, nhưng ghé 2 lần/ngày] lên tới con số 400, vào thời điểm này, 1 con
số kỷ lục.
Bài được đọc
nhiều nhất là bài post lại từ blog Osin, liên quan tới Hồng Ánh
Quái nhất, là, làm sao mà độc giả TV lại mò ra bài viết này, trên TV,
Gấu đã quên béng?
*
Tôi đã từng
chứng kiến một số đại gia lăn xả vào tán tỉnh cô đào tài sắc này.
Có lần, một chủ doanh nghiệp trẻ, được ăn cơm cùng Hồng Ánh, ngồi nhà
hàng máy
lạnh mà mồ hồi cứ đổ ra như tắm.
Hồng Ánh, những khi “giải lao” giữa các lần
yêu vẫn tìm tới tôi.
Blog
Osin
Viết như thế
thì quá khốn nạn. Viết lại ở đây, thật thấy nhục nhã lây, 'cũng một
lũ đực rựa khốn nạn', nhưng chẳng lẽ không nói tới?
NQT
Nguồn
Còn bài kia,
là “Kiển Tố” vừa đố vừa giảng, tức vụ Ðường kiến.
26 Mar 2011 169
27 Mar 2011 189
28 Mar 2011 206
29 Mar 2011 455
Tới giờ này, [9.15.PM],
455 visitors.
Hết ngày, [12. PM] sẽ là bao nhiêu?
Khủng thật!
Tin giờ
chót: 520 vị!
Tks. NQT
Elizabeth Taylor dead:
'Cleopatra' 'Butterfield 8' 'Who's Afraid of Virginia Woolf?' in top 10
films
G nhớ ET, là từ cái phim lần
đầu được coi, tình yêu như trái phá,
đúng như anh Tẩy mũi tẹt phán, thời con nít: Ivanhoe
Ở
Hà Nội.
*
Nhờ mấy bữa PC bị cháy, G này
không làm sao vô net, bèn đi tiệm
sách, mua mấy số báo, trong có hai số ML mới, 1 đặc biệt về Ðạo đức, và
1 về
Céline, sẽ tuần tự lèm bèm sau, và, bèn lôi sách ra đọc, vớ trúng cuốn
Prisms
của Adorno, và khám phá ra, câu phán hách xì xằng của ông, "Làm thơ sau
Auschwitz thì dã man", nằm trong Phê bình văn hóa và xã hội, Cultural
Criticism and Society, ở đoạn kết:
Cultural
criticism finds itself faced with the final stage of the dialectic of
culture
and barbarism. To write poetry after Auschwitz is barbaric. And this
corrodes
even the knowledge of why it has become impossible to write poetry
today.
Absolute reification, which presupposed intellectual progress as one of
its
elements, is now preparing to absorb the mind entirely. Critical
intelligence
cannot be equal to this challenge as long as it confines itself to
self-satisfied contemplation.
Phê bình văn
hóa ngộ ra, nó, chính nó, đối diện với giai đoạn chót của biện chứng về
văn hóa
và man rợ. Làm thơ sau Auschwitz thì dã man. Và điều này bào mòn ngay
cả tri thức
về, tại làm sao bây giờ không thể làm thơ. Vật hoá tuyệt đối, vốn
tiền-giả dụ,
sự tiến bộ trí thức, như là một thành tố của nó, bây giờ sửa soạn nuốt
trọn bộ
não, cái đầu. Trí phê bình không thể nào sánh ngang với sự thách đố
này, chừng
nào mà nó còn chỉ khoái trò tự sướng.
Tờ
NYRB, có bài Simic điểm cuốn mới ra lò của Grass. Sẽ post và dịch sau.
Vì, có
thể sẽ áp dụng 1 cách cù lần & cà chớn
[nhại Bác H, áp dụng thông minh và thiên tài Marxism...] vào
trường hợp TCS/PCT.
Nhà thơ
Simic
viết về trường hợp Grass, im tiếng trong bao nhiêu năm vì ăn nhằm,
hay, dẫm phải kít Nazi, vậy mà vưỡn đóng
vai trí thức
hậu chiến Ðức, lên án Nazi.
Magnus Carlsen, a
twenty-year-old Norwegian, first rose to
number 1 in the global chess rankings last year.
Tân Kỳ Vương
thế giới, 20 tuổi. Trông hình, tưởng một em!
Marilyn
MM-Personal:
From the Private Archive of Marilyn
Monroe
edited by
Lois Banner, with
photographs by Mark Anderson.
Abrams, 335 pp., $35.00
Fragments:
Poems, Intimate Notes, Letters by
Marilyn Monroe,
edited by
Stanley Buchthal and Bernard
Comment.
Farrar,
Straus and Giroux,
239 pp.,
$30.00
The Life and Opinions of
Maf the Dog,
and of
His Friend Marilyn Monroe
by Andrew
O'Hagan.
Houghton Mifflin Harcourt, 277 pp., $24.00
Larry
McMurtry
…
Consider:
she was born in a charity ward of Los Angeles County Hospital in 1926,
as Norma
Jeane Mortenson (sometimes Nortenson). Her mother, Gladys, worked in
lowly film
editing jobs; there she met Marilyn's probable father, Charles Stanley
Gifford.
Of Gladys, Marilyn said:
I was a
mistake. My mother didn't want to have me. I guess she never wanted me.
I
probably got in her way. I know I must have disgraced her. A divorced
woman has
enough problems getting a man, I guess, but one with an illegitimate
baby.... I
wish, I still wish, she had wanted me.…
[Tôi là một lỗi lầm. Mẹ tôi không muốn có tôi.
Tôi nghĩ, chẳng bao giờ bả
muốn. Chắc hẳn bả cảm thấy nhục nhã vì tôi... Tôi mong, tôi ước,
tôi ao...
“bả muốn có tôi”, biết là chừng nào]
Like many a
woman with a troubled childhood and uncertain parentage, as Lois Banner
delicately puts it, Marilyn had trouble with men. Her first husband,
James
Dougherty, vanished into the Merchant Marine. Arthur Miller drifted
off. Joe DiMaggio
was rough with her. At her death Miller is reported to have said, "Poor
Marilyn, with a little luck she might have made it." Myself, I should
have
thought she did make it. Men, perhaps jealous of her fame, said unkind
things. Tony Curtis
famously said that kissing Marilyn was like kissing Hitler. He
later explained that he had made the remark flippantly, in response to
a
workman's query, which doesn't make it any less of a rotten thing to
say.
(There is a photograph of him about to kiss her; he seems anything but
reluctant.)
Như nhiều
đàn bà tuổi thơ không êm đềm, bố mẹ khủng khẳng, MM gặp toàn thứ đàn
ông không
ra gì. Chồng đầu tiên biến mất khỏi đời em. Arthur Miller cũng đánh bài
tẩu.
Joe DiMaggio thượng cẳng chân hạ cẳng
tay như 1 Mít vũ phu. Khi nghe tin em đi xa, tay viết kịch lừng danh
của Mẽo,
[Arthur Miller], ngậm ngùi buông một câu, tội nghiệp cho em, nhưng như
vậy cũng
còn có tí may mắn đấy. Đàn ông có lẽ đều ghen tị với hào quang của em,
nên thốt
ra toàn những lời lẽ mất dậy. Tony Curtis phán, hôn em thì
giống
như hôn Hitler.
At the
height of her fame an issue of Life with her picture on the cover sold
6,300,000 copies, and she was getting 20,000 fans letters a week.
…
Marilyn
Monroe is buried in a modest little mortuary in Westwood, California.
There are
several more talent-picked burial places in this world-Westminster
Abbey, Pere
Lachaise, and even Forest Lawn-but none move me as much as that homely
little
acre in Westwood, where people I might actually have worked with lie.
There's
Natalie Wood, ridiculous in full makeup, running down a sand dune that
wouldn't
have been there in The Searchers. There's my own agent, Irving Paul
"Swifty" Lazar, there's Truman Capote, no doubt come to be near
Marilyn, there's Jack Lemmon, there's Dean Martin, and, greatest of
all,
there's Marilyn Monroe, who once said of herself:
Little Norma
Jeane, the servant girl. The only way she could be sure people wanted
to see
her was to make them wait.
[MM nói về
mình: Một đứa tớ gái. Cách độc nhất cô chắc chắn biết, mọi người muốn
nhìn thấy
cô, là, bắt họ đợi]
How sad is
that?
The New York
Review March 10, 2011
Sư tử Hà Đông
Burning bright
*
Günter
Grass, Berlin, 1979
March 24,
2011
Charles
Simic
The Box: Tales from the
Darkroom
by Günter
Grass, translated from the German by Krishna Winston
Houghton
Mifflin Harcourt, 194 pp., $23.00
Unlike his
previous book, Unpeeling the Onion (2006), which was a memoir, Günter
Grass’s
most recent book translated into English is one in which fiction and
biography
mix so freely that the reader is often at a loss as to where one begins
and the
other ends. There’s nothing strange about that, one of his children
points out
in The Box, since their father shows up in all his books, sometimes as
the main
character, sometimes in a minor role, in one costume or another, as if
every
book were about him. “A writer is a professional rememberer,” Grass has
said.
Memory is
his gold mine, his garbage dump, his archive. As unreliable and
fragmentary as
it usually is, memory is all we have to make sense of our past. The act
of
remembering, according to Grass, resembles the peeling of an onion or
the
piecing together of random images and episodes of a film—now in
fast-forward,
now in slow motion, jumping back, breaking off, then starting up again
with a
completely different script or plot. What that leaves out, of course,
is the
role the imagination plays in filling in the gaps. We make sense of our
lives
not just by ferreting out the facts, but by turning them into stories,
so we
can bring the past events to life. Every family’s history is a
collection of
scandalous and amusing stories, many of them of questionable veracity.
I know
mine are, but I’m ready to forgive every liar among my forebears,
because they
left me a few marvelous tales that continue to be worth telling again
and
again.
Of
course,
it’s not just our own lives that we remember, but also the times in
which we
lived. When it comes to history and collective memory, the difference
between
fibbing and telling the truth is serious business. Growing up in
wartime
Germany, as Grass did, there could be no avoiding recent history and
its
horrors. No stories, no matter how innocent, were safe from the shadow
they
cast. For Grass, the destruction and loss of his hometown Danzig (now
Gdansk)
and the expulsion of his family and their neighbors as the Soviet army
took
over Eastern Europe gave him a start as a writer and an epic mass of
material
that he has broadened and deepened over the years into what can only be
described as an attempt to construct a historical and social portrait
of
twentieth-century Germany. Like
Walter Benjamin’s angel of history who flies
toward the future facing backward with his eyes fixed on the ruins
piling up
higher and higher in the past, Grass has too much curiosity and
compassion to
permit himself to look away.
Grass was
born in 1927, just old enough to serve in the Nazi army in the last
months of
the war. His father was German and his mother came from a small
Slavic minority
called the Kashubians. The …
Wed, March
16, 2011 6:14:53 AM
Re: cho sua
ma
I do
not set up to be a poet. Only an all-round literary man: a man who
talks,
not one who sings ... Excuse this apology .. but I don't like to come
before
people who have a note of song, and let if be supposed I do not know
the
difference.
The letters of Robert Louis Stevenson, II, 77 (Londres, 1899).
Tôi
không muốn làm nhà thơ.
Mà chỉ muốn làm một anh văn nghệ làng nhàng.
Một thằng nói, chứ không hát.
Xin lỗi vì đã trần tình như vậy, vì tôi không muốn chường mặt ra trước
1 tay
biết rành về hát, mà lại làm ra vẻ không nhận ra sự khác biệt
L.S. Stevenson
Dịch
cái gì lạ lùng thế hử? Sai bét nhè. Thảm nhất là dịch câu này:
Excuse
this apology .. but I don't like to come before people who have a note
of song,
and let if (cái gì mà if ở đây hử?) be supposed I do not know the
difference. [TV gạch dưới]
Xin
lỗi vì đã trần tình như vậy, vì tôi không muốn chường mặt ra trước 1
tay biết
rành về hát, mà lại làm ra vẻ không nhận ra sự khác biệt.
but
I don't like to come before people who have a note of song = vì tôi
không muốn chường
mặt ra trước 1 tay biết rành về hát ??????
and
let it be supposed I do not know the difference = mà lại làm ra vẻ
không nhận
ra sự khác biệt ???????
Dịch
như một thằng dốt nát không biết tiếng Anh. Vậy mà sao lại hay đi chê
bai những
kẻ khác hử?
Nên
khiêm tốn học lại từ đầu. Nhưng khổ quá, trễ rồi.
Thôi
thì cứ sủa bậy cho qua ngày cũng được.
TCL
Phúc đáp:
-“let if”:Nguyên
văn nó như vậy, bạn nên viết thư, hay mail hỏi Borges & Stevention.
-Bạn chê dịch sai bét nhè, [Dịch
như một
thằng dốt nát không biết tiếng Anh. Vậy mà sao lại hay đi chê bai những
kẻ khác
hử?] sao không dịch lại, cho
GNV này
bớt dốt nát đi 1 chút?
Câu GNV dịch, thực sự chỉ là lấy ý, nhắm
viết tiếp, chung quanh hai từ "quan trọng", với riêng GNV, của câu
tiếng Anh là ‘set
up’ và “difference”.
GNV đã từng phóng tác câu trên một lần rồi, đều cũng
chỉ muợn người nói về mình, tức là đưa ra những phụ nghĩa, nhiều khi là
phản
nghĩa [dịch sai bét], cho nguyên tác.
Khi để nguyên tác, kế bên câu mô phỏng, là để
độc giả thấy sự khác biệt giữa chúng.
Một khi dịch, là GNV này để rõ ràng ở bên
dưới câu văn, hoặc bài viết.
Câu trên, ý nghĩa của nó, so với câu của
GNV, đâu có khác, mà bạn viết là dịch sai bét?
GNV không tin, bạn hiểu nó, [vì không hiểu hai từ “let if”], làm sao
dám nói
GNV này dịch sai bét?
Bạn đã từng chôm 1 câu của TV, đem
qua 1 diễn đàn khác, rồi chất vấn người dịch, [không phải GNV], gây 1
trận phong ba trong
chén trà,
là cái diễn đàn này.
Tại sao lại làm 1 việc thiếu lương thiện như thế?
Bạn viết GNV này lén lút chửi người khác…
Lén lút
là sao? GNV này viết trên trang TV, chính bạn ngày nào cũng vô coi, qua
những sự
kiện đã từng xẩy ra cho thấy, tại sao lại nói, lén lút?
Lén lút
thì làm sao bạn biết?
Bạn
coi là chó sủa bậy, thì tại sao không mặc chó sủa, mà cứ vô đọc, để
nghe
chó sủa?
Nếu như thế, bạn là... ma?
NQT
*
I wonder if
you saw my book of verses? It went into a second edition, because of my
name, I
suppose, and its PROSE merits. I do not set up to be a poet. Only an
all-round
literary man: a man who talks, not one who sings. But I believe the
very fact
that it was only speech served the book with the public. Horace is much
a
speaker, and see how popular! most of Martial is only speech, and I
cannot
conceive a person who does not love his Martial; most of Burns, also,
such as
'The Louse,' 'The Toothache,' 'The Haggis,' and lots more of his best.
Excuse
this little apology for my house; but I don't like to come before
people who
have a note of song, and let it be
supposed I do not know the difference.
http://robert-louis-stevenson.classic-literature.co.uk/the-letters-of-robert-louis-stevenson-volume-2/ebook-page-27.asp
Vào link đó mà đọc lại cho kỹ, rồi liệu mà công khai xin lỗi cho phải
phép nhé.
Chứ đừng có trốn luôn, hèn lắm.
Thật là 1 thằng già vừa dốt, vừa bướng bỉnh, cứ khăng khăng LET IF BE
SUPPOSED,
dốt đến thế là cùng, tiếng Anh kiểu gấu chó đấy à?
TCL
Tks.
Xin lỗi vì quá
tin vào bản in trên tập thơ tiếng Tây của Borges. NQT
Như vậy là bạn
còn nợ 1 lời công khai xin lỗi, v/v đã chôm 1 câu trên TV.
Tuy nhiên, GNV coi như chẳng đáng.
Dịch là phải có sai. Có gì mà hèn trốn?
Bạn thử nêu 1 trường hợp
GNV này, hèn, trốn, trong khi rất nhiều người, trong có
bà chủ
bút một diễn đàn, đã từng lén sửa sai sót, do GNV này chỉ ra, [đủ/cần],
hay thầy Cuốc [Simone de
Beauvoir, viết sai, thành de Beauvoire], thí dụ.
Lén sửa cũng vẫn còn được, nhưng chôm thì hết thuốc chữa!
NQT
*
Còn dám nói:
"GNV không tin, bạn hiểu nó, [vì không hiểu hai từ “let if”], làm sao
dám
nói GNV này dịch sai bét?"
Làm chó gì có "LET IF"
trong tiếng Anh mà hiểu hử?
Thấy LET IF thì phải biết ngay là nó in sai chứ!
DỊCH GIẢ gì mà ngớ ngẩn
thế!
Tks again.
NQT
TV nêu ra những
trường hợp sai sót trong khi dịch, ở 1 số diễn đàn khác, tác giả khác,
là để có
1 bản dịch tốt hơn, trung thực hơn.
Chính vì vậy, mà thường để bản chính, hay
nguyên tác, từ đó được dịch ra. Bởi vì chỉ có cách đó, thì mới có hy
vọng có
thay đổi trong dịch thuật.
Dịch, giấu mẹ
nguyên tác, thì làm sao biết đúng, sai.
Dịch sai, có
người chỉ cho thấy, bị chửi, làm sao có bản dịch tốt?
Alexandre
Đại Đế!
Bộ
mặt đen của
nước Nga của Putin:
Ghi chú
trong ngày
Chính thức
thành lập ngày 3.2.1930, thời gian đầu, phải dồn hết tâm sức vào cuộc
tranh đấu
gay gắt để tồn tại, đảng Cộng sản hoàn toàn không có một chính sách nào
về văn
học, hoặc văn hoá nói chung.
NHQ Blog
VOA.
Vào năm
1930, thì chủ nghĩa CS, đúng hơn, chủ nghĩa Marx, còn đang là giấc mơ
đẹp nhất
mà loài người có thể, không chỉ nghĩ ra được, mà còn tràn trề hy vọng,
thực hiện được.
Làm gì có
chuyện tranh đấu gay gắt để tồn tại. Nếu có, thì là tranh đấu gay gắt
để nhuộm Đỏ
toàn thế giới, trong có xứ Mít!
Cần gì chính
sách chính xiếc cho mệt, mà chỉ cần 1 câu thần chú:
Hãy viết dưới ánh
sáng của Đảng!
Cho đến tận năm
1954, nhân vật Đại trong Bếp Lửa,
sau khi làm thịt Cô Thịnh, con riêng
của ông
Chính, và trước khi bỏ đi bưng, lên Việt Bắc, bỏ ra ngoài... theo VC,
còn ngoái
lại nói với anh bạn Tâm của mình:
Nó vưỡn đúng,
cho tới lúc này, nó vưỡn đúng.
Tớ đếch tin
vào lực lượng thứ ba!
Nó, là chủ nghĩa CS!
Nhưng phải là Steine phán,
thì chúng ta mới thấy hết được hào quang của « Nó »,
ngay cả
khi "Nó" đã biến thành độc dược rồi :
[Ui chao, lại
nhớ đến sư phụ của NTV, là Nguyễn Đức Quỳnh, và câu phán hiển hách của
tác giả Thằng Kình: Chủ
nghĩa CS như bát cơm gạo tám thơm Phố Hàng Buồm, Hà
Nội, nhưng
trộn thuốc độc, còn chủ nghĩa QG thì là
bát cơm hẩm, thiu, trộn… kít.
Bạn muốn xơi
bát cơm nào?]
Một trong những khác biệt
rõ rệt giữa chủ nghĩa Phát
xít và chủ nghĩa Cộng Sản: Phát Xít không gợi hứng cho một nghệ phẩm vĩ
đại
nào. Nó chẳng lôi kéo được một nhà văn hạng nhất vào quĩ đạo của nó,
ngoại lệ
may ra có trường hợp Montherlant. (Erza Pound không phải là Phát Xít;
ông sử dụng
những cơ hội và cờ biển của nó cho chủ thuyết kinh tế kỳ quặc của
mình.) Ngược
lại, chủ nghĩa Cộng Sản đã là một sức mạnh trung tâm trong rất nhiều
tuyệt phẩm
của văn học hiện đại; và kinh nghiệm riêng của từng người, khi tiếp cận
chủ
nghĩa Cộng Sản, đã ảnh hưởng, về ý thức, cũng như là về nghiệp văn, ở
nhiều nhà
văn lớn của thời đại chúng ta.
Tại sao có sự khác biệt này? Chẳng nghi ngờ chi, chủ
nghĩa Phát-xít quá đê hèn, chẳng thể tác động tới lòng nhân hậu, vị
tha, của trí
tưởng tượng, vốn rất cần cho nghệ thuật văn chương. Cộng Sản ngay cả
khi đã
trở thành nọc độc, nó vẫn là một huyền thoại về tương lai, một viễn ảnh
giầu có
về nhân cách, đạo đức. Phát Xít là luật tối hậu của đám côn đồ; chủ
nghĩa Cộng Sản thất bại bởi vì nó muốn áp đặt lên cái đa dạng mong manh
của
nhân tính, và đưa ra một lý tưởng nhân tạo [đó là] từ chối cái con
người, là
mình, vì mục đích lịch sử. Phát xít khủng bố thông qua sự khinh miệt
con người;
Cộng Sản khủng bố bằng cách đưa bổng tít con người khỏi cõi sai lầm
riêng tư,
tham vọng riêng tư, tình yêu riêng tư, mà chúng ta gọi là tự do.
Còn một khác biệt đặc thù hơn nữa. Hitler và Goebbels
là những đại gia về ngôn từ, nhưng họ đều coi thường đời sống tinh
thần. Những
người Cộng Sản, trái lại, ngay từ phút đầu tiên, đã có một ý thức về
những giá
trị của trí thức, nghệ thuật. Trong Marx và Engels, điều này thật hiển
nhiên. Họ
là những nhà trí thức đến tận xương tận tuỷ. Lênin coi nghệ thuật là
món quà vô
giá để chống lại nỗi sợ hãi. Ông run sợ, lẩn tránh nó, thừa nhận những
quyền
năng u tối, mê hoặc của những gì dễ nhào nặn, và hình thức âm nhạc,
thay vì trí
thức thuần lý. Trotsky là một tay văn nghệ (littérateur), theo một
nghĩa rạng rỡ
nhất của từ này. Ngay dưới thời Stalin, nhà văn và những tác phẩm văn
học giữ một
vai trò sinh động trong chiến lược Cộng Sản. Nhà văn bị bách hại, bị
hành quyết
chính bởi vì văn chương được coi là sức mạnh quan trọng, đầy tiềm năng
nguy hiểm.
Đây là điểm quyết định. Văn chương được đề cao, coi trọng, tuy theo một
đường
hướng độc ác, ghê rợn, hiển nhiên là do sự bất tín nhiệm vào nó, của
Stalin. Tới
thời kỳ băng tan, vai trò nhà văn trong xã hội Xô-viết lại một lần nữa
trở nên
khúc mắc, và mang tính vấn nạn. Khó mà có thể tin được một điều, một
nhà nước
Phát-xít bị chao đảo, vì một cuốn sách nhỏ nhoi; nhưng Bác
sĩ Zhivago đã là một trong những cơn khủng hoảng lớn lao trong
cuộc sống gần đây của giới trí thức tại nước Nga Cộng sản.
Do trực giác, hoặc do suy nghiệm, nhà văn luôn nhận ra
vai trò đặc biệt của họ trong ý thức hệ Cộng Sản. Họ nghiêm trọng với
chủ nghĩa
Cộng Sản, bởi vì nó nghiêm trọng với họ. Từ đó, một lịch sử những liên
hệ giữa
chủ nghĩa Cộng Sản và văn chương hiện đại, là lịch sử của cả hai, với
những sự
vị nể bắt buộc phải có.
Nhà
văn và chủ nghĩa
Cộng Sản
Viết, những
câu ngớ ngẩn đến như thế, mà được coi là nhà phê bình sắc sảo nhất hải
ngoại,
thì quái đản thật!
Quái đản hơn nữa, là Thầy Cuốc viết, bất cứ cái gì, liền có 1 đám
đệ tử,
chắc hẳn, hì hục viết “còm”, thổi Thầy, [cũng vẫn chuyện thường],
nhưng, đều nhắm
nhà nước VC!
Thầy viết bất cứ cái gì, thì cũng chửi VC cái đã, rồi,
chửi... tiếp!
Những hiểu biết của Thầy
Cuốc, về chủ nghĩa CS, quá nghèo nàn. GNV thực sự tin, ông
chưa từng đọc, những lý thuyết gia bậc thầy về chủ nghĩa này, nào
Lukacs, nào Henri Lefèbvre, hoặc... tệ lắm, thì cũng Nguyễn Đình
Thi, với
cuốn "Triết Học
Nhập Môn", mà Miền Nam đã từng phải đưa vô chương trình học, như 1 cuốn
sách giáo
khoa “ngoài luồng” cho sinh viên Văn
Khoa.
Hãy để chủ
nghĩa duy vật lịch sử hiện ra trước mắt anh, như một cột lửa trong đêm
trường
tư bản....
George
Steiner: Tuyệt Bi (Absolute Tragedy)
Ui chao đọc
một cái là bủn rủn cả chân tay rồi.
GNV này, thuở
mới lớn, làm sao có thể bỏ qua “Nó”, nếu có "tham vọng", “làm nhà
văn”!
Bạn phải
trang bị cho bạn, những bí kíp, những võ công của thời của bạn, rồi mới
tính đến
chuyện, viết!
Tại Trieste,
năm 1872, trong một biệt thự có những bức tượng ẩm ướt và thiết bị vệ
sinh rệu
rã, một quý ông trên mặt
mang một vết sẹo biết kể chuyện mang về từ châu Phi -
Đại úy Richard Francis Burton, vị quan lãnh sự Anh - bắt tay vào thực
hiện một
bản dịch nổi tiếng từ Quitab alif laila
ua laila, mà các roumi thường biết
dưới nhan đề Nghìn lẻ một đêm.
Một trong những ý đồ bí mật của công việc của
ông là hủy diệt một quý ông khác (cũng dạn dày sương gió, và có một bộ
râu sẫm
màu kiểu người Moor), người đã soạn một bộ từ điển tiếng Anh đồ sộ và
đã qua đời
rất lâu trước khi bị Burton hủy diệt. Quý ông ấy tên là Edward Lane,
nhà Đông
phương học, tác giả của một phiên bản Nghìn
lẻ một đêm vô cùng tỉ mỉ đã phế truất
phiên bản của Galland. Lane dịch để chống lại Galland, còn Burton dịch
để chống
lại Lane; để hiểu Burton chúng ta phải hiểu được triều đại của sự thù
địch này.
NL
Trên đây là
bản dịch khúc đầu của bài viết của Borges, Những
người dịch Ngàn Lẻ Một Đêm.
Không biết bạn
NL, dịch từ bản tiếng Tây, hay tiếng Anh, nhưng GNV có bản tiếng Anh,
sau đây :
THE
TRANSLATORS OF THE 1001 NIGHTS
In Trieste
in 1872, in a palace with damp statues and defective sanitation, a
gentleman whose face had
been dramatically enhanced by an African scar - Captain Richard
Francis Burton, English consul - undertook a famous translation of the Qitab alif laila wa laila, the book which
infidel Christians call The 1001
Nights. One of the secret aims of his labor
was the annihilation of another gentleman (also with a dark Moorish
beard, also
weather-tanned) who was compiling a vast dictionary in England, and who
died
long before he could be annihilated by Burton. This was Edward Lane,
the
Orientalist, author of a version of The
1001 Nights scrupulous enough to have
supplanted the previous one, Galland's. Lane translated against
Galland, Burton
against Lane: in order to understand Burton one must understand that
inimical
dynasty.
Note: “ua
laila”, “wa laila”; “roumi”: infidel Christians
*
Phan Thị Vàng Anh: An cư trên mặt đất như là ở nhà
by Inrasara
— Cập nhật : 07/03/2011 16:37
Với Phan Thị
Vàng Anh, mối dây tương liên giữa con người và sự vật được thiết lập
thoát khỏi
đồng hóa hay làm xa lạ. Vật dụng là những sự vật thân thuộc. Thân thuộc
như
chúng đang là, đang hiện hữu. Chúng mang hồn vía và có cuộc sống riêng.
Note: Chữ
nghĩa của ông này ‘khủng’ thật. NQT
Director
Trân Anh Hùng Sips Tea and Rides His Bike .
Báo Phố Tường
phỏng vấn Trần Anh Hùng
Do you visit
Vietnam?
We go in the
summer and we always stay in Hanoi—my favorite city in the country. The
atmosphere, the people...their accent is very different. People in
Hanoi are
not quite as friendly as in other parts of Vietnam and I prefer that
they are a
little bit cold, so you can keep some distance. That way you don't feel
that
everybody will talk to you all the time.
Ông có thăm
Việt Nam ?
Có, vào mùa
hè, và luôn ở Hà Nội -thành phố mà tôi ưng
nhất – Không khí, con người… giọng nói của họ rất khác. Người Hà Nội
không hoàn
toàn hiếu khách, thích bạn bè, như những nơi khác, và tôi lại thích cái
vẻ có tí ti
lạnh lùng này, nhờ vậy bạn có thể có được 1 khoảng cách với họ.
Cái kiểu, vừa mới
ra ngõ là đã bị chiếu tướng, mệt lắm!
Ui chao, thú
thiệt.
Cái tay phỏng vấn quên không hỏi, ông đã được NHT chở xe hai bánh ra
phố
Bát Tràng đi 1 đường ký họa chưa?
Tiếc thật!
Khi GNV vừa
mới từ trại tị nạn qua Xứ Lạnh, là lúc Mùi đu đủ xanh đang nổi như cồn, và
đang
được chiếu trên màn ảnh. Thế là được vợ chồng cô bạn cho đi coi chùa.
[Mời đi coi, họ trả tiền].
Ra về, chẳng
ai lên tiếng khen, cuối cùng GNV lầu bầu, chỉ 1 mình, đủ mình nghe,
nhịp phim
chậm quá, tụi mũi lõ có thể ưa, chứ Mít, đu đủ xanh, hay chín, thì đều
đếch có
mùi, mà nếu có, thì cũng thua mùi… đù đù.
Cái này, thì
phải dân Trung mới hiểu được, nó giống cái chuyện tiếu lâm, “ăn xong
chưa, ra xúc
cát”!
Thú thực
GNV
chưa từng mê, bất cứ 1 phim nào, của tay này!
“Sans
l’arrière-plan méditatif qu’est la
critique, les oeuvres deviennent des gestes isolés, des accidents
a-historiques, oubliés dès le lendemain.”
Tạm dịch:
“Không có
cái nền trầm tư mặc tưởng của phê bình, các tác phẩm thành ra những
thao tác
riêng lẻ, những sự cố phi- lịch sử, chẳng mấy chốc sẽ bị lãng quên.”
Source
Note: Bài viết
- nhảm nhí, trích dẫn nhằm trộ thiên hạ - của 1 tay trong nước thổi 1
tay trong
nước, cái tay DLT này đã từng chôm chĩa văn học Miền Nam trước 1975.
Rác rưởi
như thế, để ý đến mà làm chi, theo GNV.
Từ “gestes” ở
đây, có nghĩa cử chỉ, điệu bộ. "Thao tác", opérations, nằm trong 1 ý
hướng
nào đó, nhằm giải thích 1 sự kiện nào đó. Đã "thao tác", thì không thể
"riêng lẻ",
"phi lịch sử" được. Nhà biên khảo rất rành tiếng nước người, nhiều
tiếng nước người, nhưng tiếng Mít không được rành rẽ cho lắm. Hơi bị
yếu, thuổng chữ của VC.
Câu của
Kundera, theo như GNV hiểu, đơn giản như vầy: Thiếu cái nền trầm tư, là
phê
bình, những tác phẩm trở thành những điệu bộ riêng lẻ, những biến cố
phi lịch sử,
bị quên liền tức thời.
Theo
như câu phán, thì K coi trọng phê bình,
và phê bình đối với ông, thì lại liên quan đến lịch sử… Đây là 1 vấn
nạn lớn, (1) trích
dẫn như vậy, thật ra chỉ để trộ thiên hạ, và bài viết cũng chẳng ăn
nhập gì tới
nó.
Bởi vì rõ ràng là, người trích dẫn không hiểu câu tiếng Pháp, bèn đưa
thêm
ra 1 câu dịch qua tiếng Anh, rồi dịch câu tiếng Anh, nhưng dịch sai!
Vào thời
net, mọi thứ tri thức, tư tưởng... đều dễ dàng về trong nước, nhưng
tiêu hoá
chúng thì cần thời gian, và cần có người trình bày, giới thiệu, tức là
rất cần
những tên biệt kích văn hóa!
Bởi thế mà khi SCN vừa
xuất hiện là GNV đã tình
nguyện xách rổ theo hầu!
Vậy mà cũng,
tôi đang bận lắm, nhưng cũng phải ngưng việc quan trọng, để chỉ bảo đám
ngu này!
Cũng là 1 cách
trộ thiên hạ, ta đây đọc nhiều, đúng thứ cớm thượng thặng!
(1)
Những
tác phẩm của Borges, lèm bèm về bất tử, chẳng "phi lịch sử", sao?
Thơ của
Brodsky, cần chi đến lịch sử?
Bao thơ tôi,
ít nhiều chi, là về cùng một điều - về Thời Gian. Về thời gian làm gì
con người.
"All my
poems are more or less about the same thing – about Time. About what
time does
to Man."
Joseph
Brodsky.
*
Hơn ai hết,
Borges biết, ông bị chửi là mê cái bất tử đến quên mẹ đời sống, lịch
sử. Trong
một bài viết, riêng cho những trang thơ có tên là Trăng trước mặt, Lune d’en face, [GNV có bản tiếng Tẩy], ông viết:
Vào năm
1905, Hermann Bahr quyết định: Bổn phận độc nhất, trở thành hiện đại,
Le seul
devoir, être moderne. Chừng 20 năm sau, tôi cũng đặt cho mình một đòi
hỏi rất ư
là thừa thãi đó. Trở thành hiện đại là trở thành đương thời, hiện tại,
contemporain, actuel; thảm một nỗi, chúng ta, thằng chó nào mà tránh
cho khỏi "trở
thành hiện đại", và đó là phần số của chúng ta! Chẳng có ai - ngoại trừ
một tay
phiêu lưu nào đó được Wells mơ tưởng – khám phá ra nghệ thuật sống
trong tương
lai hay trong quá khứ. Chẳng có thứ tác phẩm ‘phi lịch sử’, phi thời
đại, cuốn
tiểu thuyết lịch sử Salammbô, với những nhân vật là những lính đánh
thuê cho những
cuộc chiến La Mã Các Ta Gô [punique], cũng đúng thứ tiểu thuyết Pháp
thế kỷ 19. Điều độc nhất
mà chúng ta biết về văn học Carthage, vốn có vẻ thực sự giầu có, là, nó
không thể
nào dung nạp [inclure] được 1 cuốn sách như của Flaubert…
Trong tuyển
tập không-giả tưởng của Borges, những trang dành cho Nazi, và cuộc
chiến do chúng
gây ra, cho thấy, Borges là người rất quan tâm tới thời đại của mình.
Bài viết
"Sư Phạm Học về Hận Thù" của ông tiên tri ra được cuộc chiến Mít, và
hậu quả của
nó, như hiện nay: đó là kết quả của cái kiểu dạy con nít Bắc Kít hận
thù, ngay
từ khi còn bé tí, bắt đầu tập nói, tập làm tính, cộng trừ nhân chia.
Ngay trong bài
tựa dành cho tuyển tập thơ của mình, khi được dịch qua tiếng Tẩy,
Borges đã chửi khéo cái
trò quá say mê lịch sử [Kundera, dù thế nào thì thế nào, cũng là 1 tên
Cựu VC
Tiệp, ông rất bực khi bị đám phê bình coi tác phẩm của ông sặc mùi
chính trị, và
do đó, ông chửi cuốn 1984 là chính trị
giả danh văn học. Gấu đọc, bất cứ tác phẩm nào của K, thì cũng coi như
là tiểu
luận, cao hơn thứ tạp ghi của TV, vì bài bản hơn, bài nào ra bài đó…,
ít khi cảm
thấy, chúng là tiểu thuyết]:
Người Hindu
khôn tổ cha: họ gán những công trình tưởng niệm, vinh danh có tính sử
thi của
họ, cho những nhân vật huyền thoại [légendaries], cho những bộ lạc,
những triều
đại, cho một vị thần nào đó, hay là cho Thời Gian, một vị thần khác,
không cho
một cá nhân, bị giới hạn bởi ngày tháng. Khác hẳn họ, chúng ta đau khổ
vì
một ý nghĩa, cảm quan quá đáng, về lịch sử....
Phô bầy hận
thù thì tục tĩu, phỉ báng hơn cả thói khoe khoang. Tôi thách mấy ông
viết sách
khiêu dâm chỉ cho tôi một bức hình đê tiện hơn bất cứ tấm nào trong số
24 bức
minh họa ở trong cuốn sách Trau keinem Fuchs auf gruener Heid und
keinem Jud
bei seinem Eid [Don't Trust Any Fox from a Heath or Any Jew on his
Oath, đừng
tin lũ cáo trong rừng, hay lời thề của một gã Do Thái], dành cho thiếu
nhi, ấn
bản lần thứ tư của nó thì đang làm độc Bavaria. Lần xuất bản lần thứ
nhất năm
1936 đã bán ra 51 ngàn ấn bản. Mục đích của nó là tiêm, chích, tẩm vào
cơ thể,
tâm hồn của những đứa trẻ Đệ Tam Reich một sự không tin cậy, và thù
nghịch đối
với những người Do Thái. Thơ, vè, ca dao, tục ngữ (chúng ta quá rành
những đức
tính dễ thuộc dễ nhớ của cái gọi là vần, điệu, nhịp), và hình vẽ, tranh
khắc có
mầu (chúng ta cũng thật rành hiệu quả của những hình ảnh mầu mè hoa lá
cành lên
đầu óc trẻ thơ), cả hai, kẻ xứng, người họa trong cuốn sách giáo khoa
đích thực
của hận thù này.
Borges
I don't know
if the world can do without German civilization, but I do know that its
corruption by the teachings of hatred is a crime.
Borges
Tôi không biết,
giả như nhân loại không có thứ văn minh đồng bằng Sông Hồng, thì có làm
sao
không, có bị huỷ diệt hay là không, nhưng tôi biết, cái sự trồng người
khốn kiếp
của nó, bằng hận thù, là một tội ác.
Gấu tin rằng,
Cái Ác Bắc Kít gây họa băng hoại nước Mít như hiện nay, nhưng Borges
cho rằng
chính cái thứ giáo dục dậy hận thù mới là một thứ Đại Ác!
Vấn nạn ở
đây là, liệu "cái thứ" văn chương Miền Nam, như trong Bếp Lửa, Tôi
Cùng Gió Mùa, Thơ Ở Đâu Xa… một ngày nào đó, sẽ tạo nên một nền
giáo dục, một
sư phạm học, mới, thay cho cái vụ trồng người 100 năm, chỉ có được, bọ
VC?
Borges, vẫn
ông, nói được, khi phán:
Mọi văn
chương thực sự là để cho con nít
All
literature is really for children
Alastair
Reid trích dẫn, trong bài Tựa cho cuốn Bẩy Đêm, Seven Nights, [Bẩy bài nói chuyện
của Borges về Divine Comedy, Kịch Trời, Nightmares, Ác mộng, Một ngàn
lẻ một
đêm, Phật giáo, Thơ, The Kabbalah, Blindness,
Mù lòa.]
Ha Jin khởi
sự nghề văn [viết một cách nghiêm túc] sau cú Thiên An Môn, 1989, mà
ông gọi là
sự bắt đầu cuộc đời của ông như là một nhà văn, ‘nguồn của mọi nhiễu
nhương’
[‘source of all the trouble’]. Tác phẩm đầu tay bằng tiếng Anh của ông
là một
bài thơ, “The Dead Soldier’s Talk”, cuộc nói của người lính chết, cho
một xưởng
thơ, poetry workshop, ở Brandeis. Ông thầy, thi sĩ Frank Bidart, đưa
bài thơ
cho Jonathan Galassi, lúc đó là tay chủ biên thơ của tờ The Paris
Review. Ông
này vồ ngay lấy, in liền tút suỵt! Với sự hối thúc của Bidart, Jin xin
gia nhập
chương trình MFA, học viết giả tưởng, của Đại học Boston. Tốt nghiệp,
đi dậy ở
Emory University ở Atlanta, vừa dậy học vừa viết truyện ngắn, tiểu
thuyết, được
mấy cái giải thưởng, PEN/Faulkner Award, the Flannery O’Connor Award
dành cho
truyện ngắn, một cái Guggenheim fellowship, và The National Book Award.
Vào cái thời
ông sống dưới chế độ CS, ông có cảm thấy ngột ngạt không?
Không. Tôi
cũng bị tẩy não vậy.
Làm thế nào
mà trở thành không còn bị tẩy não?
[How did you
become un-brainwashed?]
Đó là một tiến
trình dài. Thoạt đầu, tôi không thể tưởng tượng thế giới quá biên giới
TQ: như
hầu hết những người TQ trẻ, tôi trở thành rất ái quốc và tin tưởng ở
cái phải,
cái đúng của cách mạng và của đảng. Nhưng, trong khi tôi theo học tại
Đại học
Shandong, tôi bắt đầu đọc một lố văn học Mỹ từ nguyên tác, và dần dần
nhận ra
có rất nhiều đường hướng giao tiếp, thông cảm, và có những dân tộc sống
khác hẳn
[người TQ]. Và, viết bằng một ngôn ngữ khác thay đổi tôi.
Tại sao những
cuốn sách của ông lại bị biếm [banned]?
Tôi viết về
những đề tài cấm kỵ: Tibet, Cuộc Chiến Korean, Cách Mạng Văn Hóa, cú
Thiên An
Môn. Sau cú TAM, tôi trở thành một gã lớn họng, a outspoken…. Tôi chẳng
hề muốn
dính đến chính trị, nhưng những nhân vật của tôi chạy trời không khỏi
nắng [my
characters exist in the fabric of politics]. Nói vậy để thấy rằng, thật
vô
phương tránh né chính trị, nhất là ở TQ.
*
Sự thực mà
nói, Gấu chưa hề đọc được bất cứ một nhà văn Mít, Bắc Kít, trong nước
cũng như
hải ngoại, dám nhìn lại chính họ, như những Đại Hán, thí dụ, Ha Jin, Ma
Jian… và nhất là Cao Hành Kiện.
Có lần Gấu
đành phải phán thật khốn nạn, miệng họ đều có mùi chiến lợi phẩm
["phẩn"
cũng được!], thành thử không làm sao cất lên tiếng nói, hay viết ra như
những đấng
Đại Hán trên, là vậy!
*
Giấc mơ giải
phóng Miền Nam thống nhất đất nước là giấc mơ tuyệt vời nhất của Miền
Bắc, và
nó càng thêm tuyệt vời khi rong ruổi với giấc mơ Mác Xít về một con
người hoàn
toàn, l’homme total, con người mới xã hội chủ nghĩa. Nhưng nằm dưới đáy
sâu lịch
sử của một miền đất, nằm nơi đáy sâu của bất cứ một con người Miền Bắc,
vừa đẻ
ra là đã có rồi, kể từ khi có Đàng Trong, còn là con thú săn mồi sống
mà nhân
loại có từ thời ăn lông ở lỗ, và cùng với con thú đó, là cơn đói khát,
ao ước
được thoả mãn, thành thử rong ruổi với cái tốt, còn là cái xấu, cái đại
ác của
một miền đất, quá cằn cỗi vì thiên nhiên khắc nghiệt ảnh hưởng tới lòng
người
hà khắc, chai đá.
Tới thời điểm
30 Tháng Tư, thì cái tốt mất hết, chỉ còn cái xấu, con thú xổ chuồng,
khi đẩy
được Miền Nam vào thế bại trận, biến cả một miền đất thành chiến lợi
phẩm. Đó
là sự thực về cuộc chiến, theo Gấu.
Câu nói của
DVM, chúng tôi chờ mấy ông để bàn giao, và hành động trước đó, đuổi Mỹ
ra khỏi
Miền Nam trong vòng 24 tiếng, bắt VNCH bỏ súng, nói lên tấm lòng của
người Miền
Nam, nhưng câu nói của Bùi Tín, cũng nói lên "tấm lòng" của người Miền
Bắc. Sự thực của cuộc chiến, chỉ cần hai câu nói, là quá đầy đủ!
Gấu này tin
rằng, ngay trong đám tinh anh của sĩ phu Bắc Hà cũng không nhận ra cái
phần đẹp
nhất của giấc mơ giải phóng Miền Nam của Yankee mũi tẹt, chính vì vậy
mà DTH
cho rằng, đây là cuộc chiến ngu xuẩn nhất của dân Mít.
Bạn phải
nhìn ra cái phần đẹp nhất của nó, thì mới có thể tưởng niệm những liệt
sĩ của
Miền Bắc, như nữ thi sĩ Xuân Quí, như Đặng Thùy Trâm được. Và, ở bên
kia thế giới,
họ mới bớt đau lòng.
Giấc mơ đẹp
biến thành hiện thực khủng khiếp, chính là do Cái Độc Cái Ác của một
miền đất
mà ra.
Chính Cái Độc,
Cái Ác này đã đẩy họ vô chiến trường, như chính họ thú nhận trong nhật
ký. Họ
quá tởm nó, mà bỏ Đất Bắc, một phần.
Sở dĩ Lời Dối
Trá được muôn người một một tin theo, ấy chính là vì nó hợp với giấc mơ
của
muôn người
Gấu đã mường
tượng điều này, khi viết về bài thơ Điện Biên của Tố Hữu:
"Balzac
mô tả cái nón, là bởi vì có người đang đội nó" (3). Đằng sau những loa
dậy
đất, đèn đuốc đỏ rực bản làng, có một giấc mơ - cái thật trong tương
lai - mà cả
một miền đất muốn vươn tới, muốn sở hữu. Chúng ta phải hiểu như vậy,
thì mới giải
thích được, dù chỉ một người ngã xuống ở mảnh đất Điện Biên.
Như chúng ta
đều biết, giấc mơ đã không trở thành hiện thực, và đó là những cay đắng
giấu
kín đằng sau nụ cười hiền như Phật của Tố Hữu.
PXA, đến giờ
chót, “đi” [siêu thăng, siêu thoát] không được, là cũng vì giấc mơ thất
bại đó,
chắc hẳn?
Source
On Andrei
Sakharov
Adam Michnik
This
statement was made at a conference in Moscow in December 2009 in honor
of the
twentieth anniversary of Andrei Sakharov's death.
Andrei
Dmitrievich Sakharov-there was the man and there is what he
accomplished. I saw
the man only once in my life-on October 16, 1989, almost two months
before he
died in December of that year. That is why I will speak about what he
did.
Sakharov was a key figure for the democratic movements in the Soviet
bloc. He
was a scientist, working in a field, nuclear physics, of supreme
importance for
the state. Sakharov was highly successful. He was esteemed and rewarded
by the government.
He could feel secure.
But after
observing what was going on in the world, Sakharov chose another path,
the path
of some other great Western physicists, like Einstein. He warned the
world
against nuclear war. In the West such a position could require courage
and
imaginative effort. In the Soviet Union it required heroism. Members of
the
democratic movement in the Soviet Union have often been called
"losers," with unhealthy ambitions and a lust for power. Such
thoughts are patently false if applied to Sakharov. He is proof of the
rationality of democratic protest.
He began
with a belief in reforms and persuasion, in peaceful coexistence and
convergence. In the end he advocated comprehensive opposition and
unvarnished
truth. But he never called for revolution or violence. He remained
uncompromising when that was necessary, but he was ready to compromise
when
that seemed desirable.
His position
with respect to violence and revolution was similar to those of
Einstein,
Martin Luther King Jr., the Dalai Lama, John Paul II, and Vaclav Havel.
His
point of view was not that of a politician but rather that of a witness
to
history who had been drawn into political life and brought to it his
own strong
values.
The most
important values for him were freedom and the dignity of the
individual. He
didn't believe in the wisdom of the crowd, of the masses who can be
easily
manipulated. He didn't believe in ethnic nationalism or in imperialism.
He was
a Russian patriot in the style of Chekhov and Herzen. That's why he
condemned
Soviet intervention in Czechoslovakia in 1968 and in Afghanistan in
1979.
Protest
against the wrongful policies of his government was his form of
patriotism.
When the Soviet Union was at war with Hitler he believed that "our
cause
is just" but he no longer believed this to be true in the case of the
Soviet suppression of the Prague Spring.
He paid a
very high price: he became the victim of a furious slander campaign, of
discrimination against him and his family, and of isolation in Gorky,
enforced
by constant and oppressive police surveillance. All this took a toll on
his
health and led to his early death.
Sakharov for
us in Poland was a source of strength and hope during the Communist
years, but
he was also a challenge. Many of us changed our lives when we saw what
he was
doing. Unlike many of those who wanted to reform Bolshevism he was not
bound by
dogma, and he was free from other "isms." For example, he never
believed in nationalist-religious mysticism; he was the heir of the
rationalist
and liberal tradition. He was not a fanatic devotee of any doctrine-for
him,
living people were more important than any abstract scheme of ideas.
Having
returned from exile in Gorky, he chose the path of compromise and
selective
support for perestroika, unlike many emigrants and dissidents. He was
not a man
who was perpetually dissatisfied or obsessed with revenge. He did not
believe
"the worse-the better." He understood that "worse is
worse," and "better is better." And he did all he could to make
it better. He wanted a democratic and normal Russia in a democratic and
normal
world. His speeches in the Soviet parliament promoted this idea.
Sakharov was
a man of civil society, not a party politician. He left us this legacy:
• Patience
and fidelity to principle
• Pluralism
and willingness to compromise-we must accept that honest disagreements
will
occur
• Tolerance
• "The
better-the better" (exactly unlike Lenin's "the worse-the
better")
• The
patriotism of free peoples: a nation that persecutes another nation
cannot
itself be free
• Fidelity
to historic truth
•
Renunciation of violence
I conclude
with some words of Leszek Kolakowski that, I am convinced, reflect
Andrei
Sakharov's view: "No victory
is irreversible, no defeat is definitive.
That is what makes life worth living."
The New York
Review 13 Jan 2011
Note: Khi
NBC được Nobel Toán, GNV đã mơ mòng tưởng tượng ra, một cú
tương tự
như trên.
“Chàng” đứng
giữa Bắc Bộ Phủ, Ba Đình, Lăng Bác H… dõng dạc cảnh cáo:
"Không
có chiến thắng nào mà không có thể đảo ngược, không có thất bại nào là
chung
quyết. Đó là điều làm cho cuộc đời xứng đáng để cho chúng ta sống, nó".
Ui chao, mừng hụt! NQT
*
Về Andrei
Sakharov
Bài phát biểu
này được đọc tại buổi nói chuyện tại Moscow vào Tháng Chạp 2009, nhân
kỷ niệm lần
thứ 20, ngày mất của Andrei Sakharov
Andrei
Dmitrievich Sakharov – một
người đàn ông và điều mà người đó đã làm được. Tôi nhìn thấy người này
chỉ một lần
trong đời – vào ngày 16 Tháng Mười, 1989, hai tháng trước khi ông mất,
vào Tháng Chạp năm đó. Đó là lý do tại sao tôi sẽ nói về điều mà ông đã
làm được. Sakharov là nhân vật chủ
yếu cho những vận động dân
chủ trong khối Liên Xô. Ông là nhà khoa học, làm việc trong ngành vật
lý
nguyên tử, cực kỳ quan trọng của nhà nước. Ông rất thành công. Được nhà
nước quí
trọng và ban thưởng. Ông có thể cảm thấy an tâm, an toàn.
Nhưng sau khi quan sát
chuyển biến trên thế giới, Andrei
Dmitrievich
Sakharov chọn một con đường khác, và là
con đường của một số nhà vật lý Tây Phương
khác, như Einstein. Ông cảnh báo
thế giới trước
chiến tranh nguyên tử. Ở Tây Phương, một vị thế như thế có thể đòi hỏi
sự can đảm,
và cố gắng về mặt tưởng tượng. Ở Liên Xô,
nó đòi hỏi chủ nghĩa anh hùng. Những thành viên của phong trào dân chủ
ở Liên Xô
thường được gọi là “những kẻ thất bại”, với những tham vọng bệnh hoạn,
thèm khát
quyền lực. Với ai không biết, nhưng thật sai lầm nếu áp dụng chúng vào Sakharov. Ông là bằng chứng của sự đòi
hỏi
dân chủ, dựa trên cái nền hữu tình hữu lý.
Tàn Dư Của
Chủ Nghĩa Toàn Trị
Elena Bonner
Ghi chú
trong ngày
Nói đến tên
thật của tôi, chợt nhớ chuyện khác: tôi có khá nhiều sách được tặng từ
trong nước.
Hầu hết đều có một điểm giống nhau: thay vì viết tặng NHQ, tác giả viết
tặng
NNT. Không phải không có lý do. Năm 1996, khi Hoàng Ngọc Hiến viết tặng
tôi cuốn
Văn học – Học văn, anh cũng ghi là tặng NNT. Tôi cười hỏi: “Sao anh
không ghi
là NHQ?” Anh cười, đáp: “Cẩn tắc vô áy náy!” Mấy ngày sau, nhà văn
Nguyễn Huy
Thiệp chở tôi đến Bát Tràng chơi, ở đó, anh vẽ cho tôi hai bức chân
dung trên
đĩa sứ, anh cũng lại viết trên đĩa: “Tặng NNT”. Nhớ lại câu nói của
Hoàng Ngọc
Hiến, tôi lại hỏi Nguyễn Huy Thiệp: “Sao không ghi tên NHQ?” Anh cười:
“Ông muốn
tôi chết hả?”
Lại nhớ nữa,
lúc tôi còn ở Paris, một người thầy cũ từ trong nước gửi tặng tôi một
cuốn
sách. Lời đề tặng rất thân ái nhưng cũng thật lạ lùng: nó không nằm ở
mấy trang
đầu, như thường là vậy, mà lại nằm ở trang cuối cùng. Nét chữ nhỏ li
ti. Như cố
giấu giếm. Có lẽ cũng vì ngại.
NHQ
Đọc những
dòng trên, GNV mới hiểu, thế giá của NHQ thì quá cao, mà của đám VC thì
lại quá
thấp.
Không lẽ một NHT, dám cho NH ra Bắc, nhét kít vô miệng tất cả sĩ phu
Bắc Hà, mà
cũng rét đến như thế sao?
So với GNV, thì những nhà văn VC lại quá nể NHQ. Bởi vì NHT dám ký họa
chân
dung GNV, đề tên đàng hoàng, còn HNH tặng bản văn, viết về vụ lãnh tiền
Mẽo viết
chân dung văn học Mít hải ngoại, cũng đề tặng NQT đàng hoàng!
[Mi là thứ gì mà dám so với NHQ, một đệ tử của Thầy Cuốc đã từng mail
cho GNV,
khi GNV nhắc tới chuyện sư phụ của chúng về, hai lần, bị VC đá đít ra
khỏi cửa
khẩu!]
NHT, khi
nghe GNV kể chuyện, nhét… ông có hơi hoảng, hơi thôi, và rồi mỉm cười,
phán, “ông
viết như thế là tụi chúng làm thịt tôi mất”, sau
đó, lôi trong túi 1 cái giấy mời đi dự 1 lễ kỷ
niệm gì gì đó, nói,
chúng mời tôi đi, mà đưa giấy mời cho tên công an khu vực đưa đến tận
nhà, bắt
ký nhận.
Và, giải thích,
về tác phẩm của ông, và về cách GNV giải thích hành động của NH của
ông, “thì cũng
chỉ vì thương mình, thương người mà viết, chứ có ghê gớm chi đâu” [ý
muốn nói, ông
trọng tôi quá, chắc thế!]
Giả như có
những sự kiện như được NHQ viết ra, [giả như gì nữa, chắc chắn phải
có!], thì có thể,
NHQ hiểu lầm ý của những nhân vật liên quan.
HNH thì ngỏm rồi, còn NHT
có thể
nghĩ, sau này, chỉ còn có “thứ thiệt” là NNT. Hưng Cuốc gì nữa. Chứng
cớ, đã có
lần NHQ sử dụng lại cái tên cha sinh mẹ đẻ của ông thay vì Hưng Quốc.
Bất giác GNV
nhớ chuyện xưa, có 1 tay khắc chữ đẹp, bị đám quan quyền ác ôn bắt khắc
chữ, tạc
bia, vinh danh chúng, tay này lắc đầu, “mày không khắc, ông làm thịt”,
tay viết
chữ đẹp đành chấp nhận, nhưng giao hẹn, khắc thì khắc, nhưng tôi đếch
để tên tôi
ở bên dưới, nhé?
Có thể mấy
tay VC này nghĩ như vậy chăng?
Tao để tên
tao, nhưng tặng NNT, thì ai biết là ai đâu!
Thiên hạ có
hằng hà NNT, nhưng chỉ có 1 NHQ!
Note:
Hình này, GNV mới lấy từ hồ sơ cũ ra,
không
phải cái mà Bi Bì Xèo chôm!
Lúc tôi học ở
Đại Học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh, thầy Hoàng Văn Thung, từ Hà Nội
vào thỉnh
giảng, mới in cuốn sách về Ngữ âm học Tiếng Việt. Thầy tặng tôi một
cuốn. Sau
đó, tôi vượt biên; về, bị đuổi dạy, có lúc thiếu tiền để sống, tôi bèn
lấy một
số sách ra chợ trời bán. Trong đó có cuốn Ngữ âm học. Mắc cỡ, tôi lấy
bút sửa lại
cái tên được đề tặng ở trang đầu cuốn sách: Nguyễn Ngọc Tuấn thành
Nguyễn Ngọc
Thuấn. Chỉ cần thêm chữ “h” vào chút khoảng trống sau chữ “T”. Mười mấy
năm
sau, khi tôi sang Úc dạy, một người bạn của tôi về Việt Nam mua được
một số
sách về ngôn ngữ học. Nhìn, tôi nhận ra ngay cuốn sách của mình ngày
trước, ở
đó, chữ “Tuấn” được sửa lại thành chữ “Thuấn” với chữ “h” nằm khá chênh
vênh.
Như thẹn thùng.
NHQ
Đọc, bất
giác GNV lại nhớ tới bài sau đây, đã đăng trên Văn Học, từ hồi Diễm ơi,
xưa rồi!
Những người
muôn năm cũ...
Trong một
truyện ngắn của Tâm Thanh, trên tạp chí Văn Học (Hoa-kỳ), nhân vật
chính, một
nhiếp ảnh viên chuyên chụp hình lãnh tụ: cuối cùng anh thợ chụp phát
điên.
Tác giả Đêm
giữa ban ngày, (Vũ Thư Hiên), hình như cũng đã gặp cùng nỗi khổ tâm,
khi ngưng
camera chụp cảnh ông Hồ ôm dép qua chỗ lội.
Kundera kể
chuyện, chủ tịch nước đứng trên bao lơn phủ dụ nhân dân. Trời lành
lạnh, ông
quên đem khăn, ông số hai bèn lấy khăn của mình choàng lên mình lãnh
tụ; khi
ông bị thủ tiêu, người ta bôi bỏ hình ông đứng kế bên chủ tịch nước,
nhưng cái
khăn thì vẫn còn đó!
Tưởng chuyện
đùa, nhưng cuộc truy tìm những nhân vật mất tích sau khi hoàn thành
nhiệm vụ lịch
sử, không ngờ là một đề tài cho nhiều tác giả. Sau đây là tóm lược bài
viết của
Tatyana Tolstaya, đăng trên The New York Review of Books, số tháng
Giêng, 1998,
về hai cuốn Chính Uỷ Biến Mất: Ngụy Tạo Hình Ảnh và Nghệ Thuật ở Nga
thời kỳ
Stalin (David King, 192 trang, nhà xb Metropolitan Books, 1997), và
Nhìn Tận Mắt
Lịch sử: Những Bức Hình của Yevgeny Khaldei (96 trang, nhà xb Aperture,
1997).
Trẻ con, lúc
này lúc nọ, thường tự dưng nổi hứng thêm một bộ ria, hay cặp kính, vào
một tấm
hình cô/cậu vớ được. Cuốn lịch sử đời tôi (Tolstaya) trông cứ như một
ngày hội
hóa trang! Rồi năm tháng trôi đi, cô/cậu lớn dần, bỗng một ngày, tỏ ra
nghi ngờ,
hoặc giật mình về mối liên hệ giữa ta bây giờ, và ta trong hình: Lạ
nhỉ, không
lẽ mình hồi đó lại mập đến thế? Thôi, tốt nhất là giấu biến tấm hình
này đi!
Con bạn đứng kế mình là con nào? Phải rồi, hai đứa hồi đó cùng quen anh
A. Hình
này mà đến tay ông xã, cộng thêm chút mắm muối của một đệ tam nhân nào
đó, là
phiền lắm, tốt nhất cắt phăng nó đi!
Tất cả chuyện
đời thường. Chúng ta là ai, nói cho cùng? Con người thôi. Nhưng chuyện
gì xẩy
ra, nếu một thường nhân chúng ta, một bữa trở thành bạo chúa?
Bộ album của
David King mở ra bằng bức hình mầu Stalin, thời còn Lênin; do Andreyev
chụp vào
năm 1922. Nhà nghệ sĩ nhân dân hình như đang phải đánh vật với những
đường viền:
một phần trán sao âm u như chết rồi, mấy sợi tóc sao dính bết vào nhau
như vậy,
cái đầu sao không cân xứng chút nào! Nhưng làn da, những vết nhăn, bộ
râu
Caucasus nặng chình chịch như vậy đạt lắm, sếp lớn không nghĩ là mình
nịnh bợ
đâu, chỉ là vấn đề lịch sự, nhã nhặn của bầy tôi đối với chúa thôi! Còn
Stalin ở
đây coi bộ già hơn tuổi 42. Người chưa nắm quyền, nhưng bạn có thể nhận
ra, đằng
sau cặp mắt đó, cái miệng kia là những tham vọng ngấm ngầm, và sự thận
trọng.
Không biết nhà độc tài có thích tấm hình không nhỉ? Nhìn hình, như nghe
văng vẳng
lời bình phẩm của Lênin: Gớm, tay Georgian kỳ tài này!
Nhưng sao có
những khoảng trống kỳ kỳ. Toàn bộ sưu tập, ngay từ trang đầu, như đang
trao đổi
một mẩu chuyện khôi hài đen với người coi: xuyên qua thời kỳ Xô-viết,
đặc biệt
dưới thời Stalin, lịch sử nhập thân vào những bức hình, đã được tẩy
xóa, vặn vẹo,
đánh bóng, làm sạch, chỉnh huấn, cho đi cải tạo... đến nỗi không sao
nhận ra được
nữa. Bộ sưu tập cho thấy từng người một, đã biến mất như thế nào, theo
nhu cầu
chính trị, để lại một cái hố, một khoảng trống, giữa những đồng chí của
họ; làm
phiền biết mấy cho những nghệ nhân, chỗ này phải dậm thêm một chút mây,
chút
khói, chỗ kia cài vào một chậu bông. Đôi khi, kẻ biến mất như cố tình
bám chặt
lấy người bạn đồng chí đứng kế, không muốn nhạt nhòa vào hư không, và
một cái
nhìn chăm chú, cộng thêm cặp kiếng ngoại, vậy là bạn nhận ra chỗ này là
vai của
kẻ đã ra đi, chỗ kia là chân trái, cái tay chắc là quàng phía sau người
đồng
chí có thể là nguyên nhân đầu tiên của tai họa... Đâu có cần nhắc nhở
bạn, những
con người bị xé ra khỏi những bức hình như thế đã bị ném vào Gulag,
biến thành
bụi trại (camp dust). Cũng đâu cần, vợ chồng con cái, cha mẹ anh em họ
hàng của
họ, cũng đã biến thành bụi...
Nhìn bộ sưu
tập chúng ta nhận ra một sự thực: Trotsky chưa từng hiện hữu, cùng với
ông là một
danh sách dài: Zinoviev, Kamenev, Radek, Bukharin, Belinski... Đấy là
người.
Con ó hai đầu ở tiền đình Nhà Hát Lớn, Bolshoi Theater cũng biến mất.
Hai năm cuối
đời của một Lênin ngắc ngoải, liệt bại, với nụ cười ngây ngô, khờ khạo
cũng biến
mất, thay vào đó là một Lênin mạnh khỏe cho tới hơi thở cuối cùng, với
Stalin
luôn luôn ở kế bên, trên con đường tiến tới xã hội chủ nghĩa, trong
những chuyến
đi, vào những thời điểm quyết định quan trọng. Như một cậu học trò ngỡ
ngàng,
hay một bậc cha chú đáng yêu, ông lắng nghe những lời vàng ngọc của
Stalin, với
một sự quan tâm và ngưỡng mộ, lúc nào cũng như đang uống từng hớp thiên
tài người
Georgia. Có những bức hình cho thấy một Stalin không hề già đi, ngày
một thêm
khôn ngoan ra. Cũng cần có một tí chút mệt mỏi nữa chứ: Người vừa bẽ
gẫy sống
lưng Phát-xít, tóm gọn một nửa Âu-châu, chỉ với hai bàn tay. Nụ cười
của Người,
trong lễ sinh nhật lần thứ 70 sao rạng rỡ, sao bất tử, sao nhập thế,
như của Phật!
Rồi hàng triệu
triệu con người biến mất, như chưa từng hiện hữu. T. Tolstaya tự hỏi,
tại sao
không xây dựng một viện bảo tàng, trưng bầy đầu lâu, mà phải làm như
triệu triệu
kẻ thù chưa từng hiện hữu? Và bà tự trả lời, ngoài những lý do hiển
nhiên, còn
những nguyên nhân kỳ bí, ngoại lý; chúng làm vẩn đục tâm hồn vốn đã u
tối của vị
bạo chúa. Có một lề luật cổ xưa về huyền thuật: kêu tên quỉ, quỉ tới
liền! Tín
đồ nói đến quỉ ma một cách gián tiếp, tránh gọi thẳng tên. Đó cũng là
lý do tượng
Chúa, nhà thờ tất cả đều bị triệt hạ, huỷ diệt. Như đã chưa từng hiện
hữu. Như
sẽ chẳng bao giờ hiện hữu.
Tận Mắt Nhìn
Lịch Sử như muốn trả lời câu hỏi: Nghệ thuật nhiếp ảnh là gì,
hay rõ hơn, đâu
là độ nói dối được cho phép, đối với một nhiếp ảnh viên, khi thực tại,
và nghệ
thuật gặp nhau ở ống kính?
Cuộc đời
Khaldei thật là bi thảm, và khác thường. Là con, trong một gia đình
Do-thái
nghèo tại Ukraine. Mẹ chết trong vụ thanh trừng vào năm 1918, viên đạn
xuyên
qua thân thể bà nằm luôn trong đứa con trai mới gần năm. Cả gia đình,
hai thập
niên sau đó bị lính Đức giết hết, còn trơ mình ông. Học tới lớp tư phải
bỏ, lo
kiếm sống. Thiên tài bẩm sinh, máy hình đầu tiên là do ông tự làm lấy,
và vào
nghề thợ chụp ngay từ khi còn nhỏ. Vác máy hình, đi trọn cuộc chiến,
làm cho
thông tấn TASS và nhật báo Pravda. Bức hình chụp tấm băng đỏ gói trọn
vẻ ngạo
nghễ của Tòa Nhà Quốc Hội Đức, Reichstag, là của ông. Tuy trọn đời hiến
dâng
cho nghệ thuật Xô-viết, nhưng ông mất việc hai lần. Ông mất tháng Mười
1997,
sau khi bộ sưu tập của ông được in ra. Có một số hình trong đó chưa hề
được biết
đến, và chúng cho thấy một điều là những cái trước, và sau cuộc chiến
như thuộc
hai con người khác nhau. Những tấm sau là những thí dụ tồi tệ nhất, về
Hiện Thực
Xã Hội Chủ Nghĩa. Nhưng không phải những tấm trước đó không có điều
khác thường.
Tolstaya cho biết về bức hình nổi tiếng nhất của ông, trang 60-61, chụp
người
lính Xô-viết giương cao tấm băng đỏ trên đỉnh Reichstag: một người sĩ
quan phải
giữ chân người lính, cho anh ta khỏi té. Tay viên sĩ quan đeo đồng hồ.
Sau khi
rửa hình, người ta nhận ra viên sĩ quan không phải chỉ đeo có một, mà
tới hai
cái đồng hồ lận! Lại phải cạo sửa lịch sử! Còn tấm băng đỏ, ở đâu mà có
sẵn,
nhanh như vậy? Hóa ra là, nhiếp ảnh viên Khaldei, vốn đã sửa soạn sẵn
cho tấm
hình nổi danh của đời mình, ngay từ Moscow, và đã cẩn thận mang theo,
không phải
một mà tới ba tấm băng đỏ! Người viết nghe nói bức hình lịch sử chụp
cảnh xe
tăng CS san bằng cổng dinh Độc Lập cũng đã phải chụp tới hai lần. Ủi
sập rồi, lại
phải ra lệnh dựng lên, chụp lại. Nguồn tin rất đáng tin, nhưng vì không
tận mắt
chứng kiến (lịch sử), cho nên đành ngưng tại đây.
NQT
Chú thích
Người
viết
sau đó được biết, Bùi Tín đã xác nhận chuyện này. Ông cho biết thêm, cả
tấm
hình lịch sử cờ CS phấp phới trên đỉnh Điện Biên Phủ, cũng được "làm
lại".)
Nổi Dậy
Ở Ai Cập: Những ngày phán xét
David Remnick
In 1983, the great writer
of Cairo, Naguib Mahfouz,
published “Before the Throne,” a novella in which Egyptian rulers over
five
millennia, from King Menes to Anwar Sadat, stand before the Court of
Osiris,
and answer for their deeds. The divinities Osiris, Isis, and Horus
assess the
record of triumph and brutality and determine who is worthy of
immortality.
Mahfouz failed to include the last of the pharaohs: Muhammad Hosni
Sayyid
Mubarak.
Last week, it was not the
gods but the people of Egypt
who stood in judgment of Mubarak, and, from Suez to Islamiya, their
verdict was
deafening. “Irhal! Irhal!” the crowds on Cairo’s Tahrir Square
chanted:
“Leave! Leave!” Decades of bottled-up resentment came unstoppered.
Egyptians,
secular and religious, poor and middle-class, flowed into the public
square to
express their outrage after years of voiceless suffering; they
protested
injustice, the endlessly documented incidents of torture and
corruption, the
general stagnation and disappointment of their lives.
Mubarak had hoped to
achieve immortality by installing
his son Gamal on the throne, but now such schemes were impossible, and
the old
man, his chest sunken, his hair dyed an inky black, stayed in the
palace and
watched, on television, his effigy dangling from a traffic light.
Osiris, Isis,
and Horus were silent, but the Egyptian masses had spoken.
Note: NHT cũng đã tưởng
tượng ra 2 màn phán xét như trên:
Ông cho NH ra phá nát Bắc Kít, rồi về Nam.
Vô ích!
Lần sau, ông cho Gia Long ra Bắc.
Ông
này làm cái gì thì GNV
không dám viết ra!
Nhưng cũng vô ích!
Cuối cùng thảm họa vưỡn xẩy ra.
Lần chót, giá như có, thì chắc là như ở Ai Cập: Bắc Kít xuống đường hỏi
tội Bắc
Bộ Phủ?
Ghi chú
trong ngày
09 février
2011
“Un homme,
ça peut être détruit et pas vaincu"
Thấy câu này,
nhờ link trên Blog NL.
Nguyên tác tiếng Anh,
trong Ngư Ông và Biển Cả hách
hơn
nhiều:
A man can be destroyed but not defeated: Con người có thể bị huỷ diệt,
nhưng không thể bị đánh gục, [nhà thơ NTH đề nghị thay bằng từ ‘vấp
ngã’, trong
1 bài viết ‘cám ơn’ LCD!]
Gấu lần đầu đọc Ngư Ông, và bị câu
này làm chấn động, bất giác nhớ đến người hùng Lê Văn Trương
của Gấu, thời mới lớn!
*
Nội
Cỏ Của Thiên Đường
Nội Cỏ Của Thiên Đường, truyện ngắn
Steinbeck, viết về tuổi thơ,
Gấu đọc bản dịch [hình như của Truơng Bảo Sơn], hồi còn đi học, và nhớ
hoài đến
già.
TBS còn dịch một truyện dài, có tên tiếng Việt là Con Nai Tơ thì
phải, cũng thật tuyệt vời.
Nội Cỏ Của Thiên Đường là câu
chuyện của hai bố con, ông bố làm
thư ký thành phố, hình như mất việc, về quê sống, và lạc vào Xứ Thần
Tiên. Ông
bố chỉ tỉnh giấc, khi, tới mùa tựu trường, bà con lối xóm thương thằng
bé, bèn
kéo nhau tới thăm, với một bọc quần áo.
Thế là sáng hôm sau, hai bố con
đành từ giã nội cỏ của thiên
đường, trở lại thành phố.
Con Nai Tơ là câu chuyện một chú bé
với con nai nhỏ xíu của cậu.
Nhưng làm sao người và vật cứ nhỏ xíu được mãi. Con nai lớn, gây đủ thứ
phiền
hà, khiến ông bố đành phải giết con vật. Cậu bé bỏ đi, và thế giới bên
ngoài
làm cho cậu hiểu, đời sống bắt buộc phải khốn nạn như vậy. Cậu trở về,
xin lỗi
bố và hứa, sẽ thay ông, làm nốt công chuyện của một người đàn ông trong
gia
đình.
Làm sao cứ nhỏ xíu được mãi.
Đây chính là câu mà Bông Hồng Đen
mắng mỏ Gấu, khi từ giã Nội Cỏ Của Thiên Đường. "Mi đâu có thương ta?
Mi
thương con bé mười một tuổi, là ta, từ đời thuở nào. Và Hà Nội của mi,
ở trong con
bé đó!"
Trong những nhà văn Việt Nam
viết cho nhi đồng, có một, ít được
nhắc tới, và khi nhắc tới, thì lại bị coi là nhà văn chuyên viết truyện
cho
người lớn đọc, và thứ văn chương của ông sau thành một "thương hiệu",
văn chương triết lý người hùng Lê Văn Trương, với những cuốn để đời: Trường
Đời, Người Anh Cả, Ngựa Đã Thuần Mời Ngài Lên, Bốn Bức Tường Máu....
Nhưng ông không hề quên thiếu nhi. Trong số những truyện viết cho thiếu
nhi của
ông, Gấu còn nhớ được hai, thật là tuyệt vời.
Một, viết về hai thằng bé đánh
giầy ở Hà Nội. Truyện này, Gấu chỉ
nhớ, mang máng cái tên truyện, như trên, khi đọc Dickens viết về những
đứa trẻ
khốn khổ của Luân Đôn.
Và một, về một đứa bé, con nhà
giầu, ở Hà Nội, ham chơi, bố mẹ bèn
tống lên ở với một ông cậu, hay bà bác, ở mãi trên Tuyên Quang,
hay Phú
Thọ. Thằng bé nhớ Hà Nội, nhớ bố mẹ, không chịu nổi cuộc sống buồn tẻ ở
mạn
ngược, bèn lùi lũi, cứ thế đi bộ về... Hà Nội.
Cuộc" vạn lý trường
chinh", về "tiếp
quản" thủ đô, xuyên qua đồng bằng sông Hồng, những làng mạc ven bờ đê,
trở
thành một kỷ niệm để đời trong chú bé. Nhưng chú hoàn thành được cuộc
"vạn
lý trường chinh, chín năm trường kỳ kháng chiến", là nhờ một thằng bé
nhà
quê. Chính thằng bé nhà quê, khi chú đói lả, đem chú về nhà, cho chú
ăn, dậy
cho chú cách vo gạo, ở một cái cầu ao, cách nấu gạo thành cơm, từ một
cái bếp
rơm, từ một cái nồi đất... nghĩa là chỉ cho chú thấy cuộc sống bần hàn,
quê
mùa, của làng quê, cùng lúc, dậy cho chú bé thành phố con nhà giầu kia,
biết, ý
nghĩa của cuộc đời. Chú bé thành phố như được gột rửa, và khi về đến Hà
Nội,
gặp lại người thân, trở thành một thằng bé khác.
Cuốn sách trên, người đưa
cho Gấu đọc, Gấu vẫn còn nhớ. Đó
là cậu Toàn, em của mẹ Gấu. Nhớ luôn cả lời bình của ông cậu, ghi ngay
ở cuối
sách.
"Cái thằng bé này là một
thằng bé vô ơn. Khi nó về đến
Hà Nội, gặp bố mẹ, trở thành một thằng bé tốt, nó không hề nhắc tới
thằng bé
nhà quê đã cứu sống nó, đã đem cho nó ý nghĩa của cuộc đời."
Về già, Gấu mới hiểu ra
được lời mắng mỏ nặng nề của ông
cậu, đối với một thằng bé vô ơn. Ông cậu Gấu, khi viết những dòng đó,
không hề
nghĩ đến một điều, như Gấu nghĩ, sau hơn nửa thế kỷ xa cách Hà Nội, và
khi trở
về, gặp lại ông cậu, nhớ lại bao chuyện cũ, chuyện mới, và hiểu ra được
rằng
là:
Cái thằng bé vô ơn đó,
biết đâu đấy, là cả một thế hệ, nhiều
thế hệ, của những chúng ông, những ông con trời, ở Hà Nội?
Như thế, thì lại thành
chuyện người lớn mất rồi.
Nhưng tôi tin rằng, những
đứa trẻ của Hà Nội, hay nói rộng
ra một chút, những đứa trẻ của cả một miền đất. đã không hề được đọc,
những
truyện viết về thiếu nhi như thế, của một ông nhà văn của Miền Bắc, thí
dụ như
Lê Văn Trương.
Họ được dậy cách cắm cờ
đỏ, lên một thành phố Miền Nam, mà
sau này, cái hành động vinh dự ngày nào trở thành một "mặc cảm", hay
là “cái còn lại”, ở một nhà văn. (1).
Nói qua nói lại mới toại
lòng nhau.
Gấu tui có được đọc một
ông Miền Nam viết về thời học sinh,
và kỷ niệm cay đắng của ông, khi phải xếp hàng đón Tổng Diệm, hình như
vậy. Cay
đắng thiệt, nhưng chưa cay đắng bằng cảnh, một người quen của Gấu kể
lại, anh
đi coi ciné mà không chịu đứng dậy chào cờ, và suy tôn Ngô Tổng Thống,
đã bị
mật vụ chìm, ngồi chung với khán giả trong rạp lôi ra tẩn cho một trận
để đời!
Tuy nhiên, không hề có
một thầy cô giáo nào thưởng công học
trò tiên tiến theo kiểu như trên cả. Thầy cô Miền Nam dậy học trò,
những cuốn
như Tâm Hồn Cao Thượng, [Hà Mai Anh dịch Les Grands Coeurs, của de
Amicis,
nguyên bản tiếng Ý, nhật ký của một học sinh, bản tiếng Anh The Heart
of a
Boy], Kho Tàng Trong Căn Nhà Có Ma [dịch Những cuộc phiêu lưu của Tom
Sawyer
của Mark Twain], Con Nai Tơ, Cuộc Phiêu Lưu Trên Lưng Ngỗng [Lý Quốc
Sỉnh dịch
The Wonderful Adventures of Nils, của Selma Lagerlöf (1858-1940), Nobel
1909]...
Miền Bắc chỉ dậy học sinh
có một việc: cắm cờ! Kết quả thần
sầu, là chiến thắng Miền Nam.
Nhưng hậu quả của nó,
khủng khiếp hơn nhiều, thê lương hơn
nhiều!
Bởi vì khi anh đã nói dối con
nít, lợi dụng con nít, bao nhiêu thế
hệ con nít, một khi mà chúng vỡ ra được, là... bỏ mẹ!
Hơn thế nữa, khi đã quen cắm cờ
thì khó mà rũ bỏ đi được.
Đây là điều mà triết gia người Pháp, André Glucksmann, nhận ra, khi ông
cho
rằng, "họ" (ông muốn nói Cộng Sản Miền Bắc) bị kết án phải gây chiến
tranh, như là "yếu tính" của họ [của một miền đất?].
[Đọc Ngợi Ca Mì Gói]
Tất cả những gì gọi là sa đọa,
ở nơi thế hệ trẻ ở trong nước, là
phản ứng ngược lại với cái việc cắm cờ ngày nào.
Có thể nói, chưa có trẻ con nơi
nào ngoan như trẻ con Miền Bắc
trước 30 tháng Tư, 1975. Ngoan đến nỗi bố mẹ mà còn đem ra đấu tố, thép
đã tôi
đến mức như thế, thì làm sao hư được nữa!
Và chưa có trẻ con nào hư, như họ, sau ngày đó.
Ngay cả khi họ học giỏi.
Học càng giỏi, càng hư.
Bởi vì những phần tử ưu việt của chế độ Đỏ, tốt nghiệp đại học Tây
Phương, nào
Sorbonne, nào Harvard... khi về nước, thay vì cắm cờ như ngày nào, bèn
"ngồi lên đầu nhân dân"!
Đó là ý nghĩa của cụm từ "cà rem của cà
rem" của Joseph Brodsky, trong bài Diễn Văn Nobel của ông.
*
Salvation or Ruin?
Trong một xã hội tan rã, một
khi thế hệ trẻ mù lòa đi theo chân lý
muôn đời, hết cắm cờ, thì lại ngồi lên đầu nhân dân, tai ương thảm họa
là điều
không thể tránh khỏi, và được báo trước. Nhưng chính cứu rỗi, chứ không
phải
điêu tàn mới là điều "tới mà chẳng ai biết trước, chẳng ai trông chờ,
chẳng làm sao tiên đoán...", bởi vì cứu rỗi, chính nó, chứ không phải
điêu
tàn, tuỳ thuộc vào tự do và ý chí của con người.
[Mô phỏng Hannah Arendt, trong Franz Kafka: A Revaluation,
trong Essays
in Understanding 1930-1954, nhà xb Schocken Books, New York: In a
dissolving society which blindly follows the natural course of ruin,
catastrophe can be foreseen. Only salvation not ruin, comes
unexpectedly, for
salvation and not ruin depends upon the liberty and the will of men].
Chỉ một khi thế hệ trẻ, tốt nghiệp Harvard, trở về nước, bằng tự do và
ý chí
của chính họ, từ chối không chịu ngồi lên đầu nhân dân, thì mới mong có
cứu
chuộc được.
NQT
(1)
Về chi tiết cắm cờ, xin
xem bài viết “Còn Lại Gì”,
của Phạm Thị Hoài, trên talawas.
Cái tít bài viết, khi được dịch sang tiếng Anh, biến thành “Cái Còn
Lại”, What
Remains, không đúng tinh thần của nguyên văn tiếng Việt, theo tôi. NQT
Yann Martel
met fin à sa correspondance avec Stephen Harper
Yann Martel
chấm dứt cái vụ gửi sách cho Stephen Harper thủ tướng Canada.
Ngưng ở con
số 100, vì đây là 1 con số đẹp, và tôi còn việc khác để làm, như YM cho
biết. Vả
chăng, ngài thủ tướng chưa hề trả lời v/v gửi sách. Nhân viên của ông,
tất
nhiên, có viết thư cám ơn, đã nhận, tất cả là 7 lần.
Trên TV có giới thiệu vài cuốn trong số những cuốn nhà văn gửi thủ
trướng của
ông, đề nghị đọc. Trong đó, có cuốn GNV này rất mê, từ hồi mới đọc
sách, Sa Mạc
Tác Ta, nếu GNV này nhớ không lầm. Hay Buồn
ơi chào mi, của Sagan, Hóa Thân của
Kafka, Giả Tưởng của Borges [chê]…
BOOK 49:
THE OLD MAN AND THE SEA
BY ERNEST HEMINGWAY
February 16, 2009
To Stephen Harper,
Prime Minister of Canada,
From a Canadian writer,
With best wishes,
Yann Martel
Dear Mr. Harper,
The famous Ernest Hemingway. The
Old Man and the Sea is one
of those works of literature that most everyone has heard of, even
those who
haven't read it. Despite its brevity 127 pages in the well-spaced
edition I am
sending you it's had a lasting effect on English literature, as has
Hemingway's
work in general. I'd say that his short stories, gathered in the
collections
In Our Time, Men without Women and Winner Take Nothing,
among
others, are his greatest achievement and above all, the story "Big
Two-Hearted River" but his novels The Sun Also Rises, A Farewell to
Arms and For Whom the Bell Tolls are more widely read.
The greatness of Hemingway lies not so much in what
he said
as how he said it. He took the English language and wrote it in a way
that no
one had written it before. If you compare Hemingway, who was born in
1899, and
Henry James, who died in 1916, that overlap of seventeen years seems
astonishing, so contrasting are their styles. With James, truth,
verisimilitude, realism, whatever you want to call it, is achieved by a
baroque
abundance of language. Hemingway's style is the exact opposite. He
stripped the
language of ornamentation, prescribing adjectives and adverbs to his
prose the
way a careful doctor would prescribe pills to a hypochondriac. The
result was
prose of revolutionary terseness, with a cadence, vigor and elemental
simplicity that bring to mind a much older text: the Bible.
That combination is not fortuitous. Hemingway was
well
versed in biblical language and imagery and The Old Man and the Sea
can
be read as a Christian allegory, though I wouldn't call it a religious
work,
certainly not in the way the book I sent you two weeks ago, Gilead,
is.
Rather, Hemingway uses Christ's passage on Earth in a secular way to
explore
the meaning of human suffering. "Grace under pressure" was the
formulation Hemingway offered when he was asked what he meant by
"guts" in describing the grit shown by many of his characters.
Another way of putting that would be the achieving of victory through
defeat,
which matches more deeply, I think, the Christ-like odyssey of
Santiago, the
old man of the title. For concerning Christ, that was the Apostle
Paul's
momentous insight (some would call it God's gift): the possibility of
triumph,
of salvation, in the very midst of ruination. It's a message, a belief
that
transforms the human experience entirely. Career failures, family
disasters,
accidents, disease, old age-these human experiences that might
otherwise be
tragically final instead become threshold events.
As I was thinking about Santiago and his epic
encounter with
the great marlin, I wondered whether there was any political dimension
to his
story. I came to the conclusion that there isn't. In politics, victory
comes
through victory and defeat only brings defeat. The message of
Hemingway's poor
Cuban fisherman is purely personal, addressing the individual in each
one of us
and not the roles we might take on. Despite its vast exterior setting,
The Old
Man and the Sea is an intimate work of the soul. And so I wish upon you
what I
wish upon all of us: that our return from the high seas be as dignified
as
Santiago's.
Yours truly, Yann Martel
ERNEST HEMINGWAY (I899-1961)
was an American journalist, novelist
and short story writer. He is internationally acclaimed for his works
The
Sun Also Rises, A Farewell to Arms, For Whom the Bell Toll and his
Pulitzer
Prize-winning novella, The Old Man and the Sea.
Hemingway's writing style is characteristically straightforward and
understated, featuring tightly constructed prose. He drove an ambulance
in
World War I, and was a key figure in the circle of expatriate-artists
and
writers in Paris in the 1920s known as the "Lost Generation.” Hemingway
won the Nobel Prize in Literature in 1954.
NKTV
Thật tình cờ, Gấu đọc bài viết
của Thầy Cuốc, cùng lúc, đọc Yann
Martel, tác giả ‘Life of Pi’, và bài viết của ông về ‘Ngư Ông Và Biển
Cả’, và
bèn nhớ đến câu phán để đời của Bố Già Hemingway: Con người có thể bị
hủy diệt,
[như một Miền Nam đã từng bị huỷ diệt], nhưng không thể bị gục ngã
[defeated,
bị đánh bại, thất trận…], và cũng không thể bị… ô nhục, tất nhiên!
Vì ô nhục còn khốn nạn hơn cả
gục ngã!
Martel gọi cái sự không thể bị
gục ngã này, là ân sủng dưới sức
ép, ‘grace under pressure’, và vì cái từ ân sủng này, có thể, mà ông
viết, cách
viết của Hemingway đưa chúng ta tới cội nguồn của nó, là.. Thánh Kinh!
Bài viết, đúng ra là cái thư
gửi Ngài Thủ Tướng Candada, đề nghị
Ngài nên đọc một số tác phẩm, trong có Ngư Ông, ngắn, post ra đây, và
nhân đó,
lèm bèm tiếp, lèm bèm mãi...
The
Old Man and the Sea is an intimate work of the soul. And so I
wish upon you
what I wish upon all of us: that our return from the high seas be as
dignified
as Santiago's.
Yours truly,
Yann
Martel
Đây là câu
chúc tuyệt vời nhất của tác giả Life
of Pi, gửi tới chúng ta, những đấng Mít hải
ngoại, đang 'vô tri', muốn bò về xin VC tí 'tri tri':
Ngư Ông và
Biển Cả của Hemingway là một tác phẩm thầm kín của tâm hồn. Và
như vậy tôi cầu
chúc thủ trưởng điều mà tôi cầu chúc tất cả chúng ta: rằng cái chuyện
trở về từ
biển cao kia thì cũng bảnh tỏng như là của Santiago: mang được cái bộ
xương của
kẻ thù về cùng với mình!
*
Good
Manners
in the Age of WikiLeaks
Slavoj
Žižek
Sự thực, như
đã trình bày ở trên, sự có mặt của tạp chí Sáng Tạo, một dấu mốc quan
trọng của
20 năm văn học miền Nam, chỉ là một tình cờ. Như bất cứ một tình cờ nào
khác
trong dòng sống.
Sự thực, chẳng
có một ông Mai Thảo / Nguyễn Đăng Quý nào được CIA tuyển dụng. chọn
trước.
“Cài, cấy.” Sự thực, cũng chẳng có một ông Duy Thanh nào vì tế nhị phải
“chối từ”
thân thế.
Sự thực, đôi
khi đơn giản tới mức độ gây “buồn lòng” cho những người thích thêu dệt,
với óc
trinh thám, tiểu thuyết.
Sự thực chỉ
là: Nếu không có người mẫu Trúc Liên, không có “Thiếu nữ từ tranh bước
ra” thì,
chưa chắc đã có Graham Tuckers. Mà, không Graham Tuckers, phải hiểu,
đồng nghĩa
với việc không có Sáng Tạo!
Nguồn
DTL.com
Ông bạn thi
sỡi Du Tử Lê này, thú thực, đúng thứ ngây thơ cụ. Cái chuyện Xịa tài
trợ làm tờ
Sáng Tạo, thì rõ như ban ngày, nhưng những ông như Duy Thanh, Thanh Tâm
Tuyền,
và có thể cả Mai Thảo, khi ngửa tay nhận tiền, cũng không hề biết đó là
tiền của
Xịa.
Đây là trường
hợp đã xẩy ra cho rất nhiều tờ báo rất uy tín, với không biết bao nhiêu
là nhà
văn nhà
thơ Tây Phương, toàn những thứ hách xì xằng, cộng tác, không ai biết,
tờ báo do
Xịa chi tiền!
Người phịa
ra mặt trận chống tư bản, chống phát xít trước, hướng về cái nôi Cách
Mạng là Điện
Cẩm Linh, là Ilya Ehrenburg. Trên TV có giới thiệu.
Koestler, nhân
đó, mới đề nghị Mẽo mở ra Mặt Trận Bảo Vệ Văn Hóa Tự Do, nhưng sau ông
cũng bị
Mẽo đá đít. Vụ này lý thú lắm, để thủng thẳng, Gấu trình bày tài liệu,
dẫn chứng.. sau!
Tờ HL cũng
có đóng góp của Xịa đấy, và của cả VC nữa, đấy. Còn KT đó, thử hỏi anh
ta thì
biết! Hỏi NT, hay NMG, cũng được. Vụ này, GNV nghe qua NMG, hình như
cũng đã lèm
bèm trên TV rồi. NTV hỏi lại KT, xừ luỷ xác nhận có. Tờ TC cũng được
đưa đề nghị,
nhưng một tay trong tòa soạn, [không phải NTV mà là TDT], từ chối,
không nhận.
Tiền VC tài
trợ HL, là danh sách độc giả dài hạn, do đám bỏ chạy bợ đít VC đóng
góp.
Người "sáng tạo"
ra cái ý nghĩ dùng tiền Xịa nuôi báo văn nghệ, không hề đòi hỏi, mi
phải chống
Cộng, chỉ cần viết thứ văn chương ra văn chương [thế là chống Cộng rồi]
là me
xừ Koestler.
Đây nè, ông
ta đang nói chuyện bữa khánh thành cái cơ quan, mà sau này, chi tiền
luôn cho cả
VP làm bộ VHMN, lẽ dĩ nhiên là dưới 1 cái ô dù khác, nhưng vẫn là đô la
Mẽo!
Ngay cả quỹ WJC gì gì đó,
chi tiền cho VC viết văn hàn gắn vết thương
chiến
tranh, xây dựng bộ mặt lưu vong Mít, theo 1 nghĩa nào đó, là cũng tiền
Xịa, nếu
chúng ta hiểu đúng đắn ý tưởng của Koestler, khi đề nghị Mẽo mở ra cái
gọi là Hội
Nghị vì Tự Do Văn Hoá.
Czeslaw
Milosz, thi sĩ, Nobel văn chương, cũng rất rành vụ này. Ông đã từng bốc
phét,
dư sức viết cả 1 cuốn sách về đề tài này, nhưng đếch thèm viết. Trên TV
cũng có
nhắc tới, để thủng thẳng, tìm coi nó ở đâu!
Cái vụ ra đời
của HL cũng ly kỳ và ‘cần thiết’ y chang cái vụ Koestler đẻ ra Hội nghị
Văn hóa
Tự Do [1950]. Số là, lúc đó, Đảng ta quá cần 1 tờ báo của phe ta, ở hải
ngoại,
mà phải 1 tên Ngụy, thứ thiệt, làm chủ thì mới ăn khách. Vớ được ngay
ông KT, còn
gì bằng, lính Ngụy thứ thiệt, ba gai ba ghiếc chẳng sợ thằng nào hết.
Thế là Đảng ra
lệnh cho Vịt Kìu iêu nước giúp nó 1 tay, tao ra mặt không tiện! Nhưng,
Xịa cũng
có ý nghĩ đó, mạt cưa mướp đắng gặp nhau là vậy. Thế là cũng vẫy vẫy
KT, đến đây
tao chi cho tí tiền.
Khổ 1 nỗi, Đảng
không khứng chuyện bắt cá hai tay như vậy. Và anh Xịa thì cũng không
tin KT làm
nên trò trống gì [dân lính tráng i tờ rít biết gì về văn chương, mấy
anh Xịa chắc
nghĩ thế], thế là bèn cho 1 tên agent qua VN thăm thú tình hình, coi tờ
HL có về
được trong nước hay không. Bị ngay VC tóm, chụp hình hồ sơ tài
liệu, rồi thả.
Đến khi NT về gặp ông em lo xb Đất Tầu Đất Ta, bị anh cớm VC tóm,
đưa
cho coi hồ sơ nhận tiền Xịa, và ra lệnh, đừng có về nữa, không, tao bắt
luôn, chứ
không đá đít ra khỏi cửa khẩu như Thầy Cuốc.
NT đâu có dám
về nữa!
Hà, hà!
Hội nghị vì
Tự do Văn hóa
Đọc đầu vào
[input] Congrès, pour la Liberté de la Culture, trong cuốn Milosz's
ABC's làm
Hai Lúa nhớ tới vụ MT nhận tiền của Mẽo làm tờ Sáng Tạo.
Về cái vụ Hội
nghị này, tôi [Milosz] có thể viết cả một cuốn sách, nhưng viết làm
đếch gì.
Nói cho cùng, có hàng đống sách viết về cái gọi là "diễn biến hòa
bình" [cập nhật hóa cụm từ "liberal conspiracy": "âm mưu tự
do"], như nó được gọi. Một giai đoạn quan trọng trong Chiến Tranh Lạnh.
Vấn đề là
như thế này, Nữu Ước thì quá ưa, và quá ư, Mác xịt, trước khi cuộc
chiến xẩy
ra, và ở trong cái thành phố đó, hai băng đảng Trốt kít và Xì ta lin
nít, gặp
nhau là ăn tươi nuốt sống lẫn nhau [Milosz: eating each other].
[Hai Lúa
không hiểu, tình trạng có giống như Sài Gòn hồi trước Cách Mạng không].
Khi cuộc chiến
bùng nổ, tình báo Mẽo, OSS [The Office of Strategic Services], bèn muớn
một đám
tả phái ở Nữu Ước, của cái gọi là NCL, hay Tả nhưng đếch phải CS
[Non-Communist
Left]. Họ hiểu rất rõ sự quan trọng của ý thức hệ, đặc biệt là ở Âu
Châu, nơi bất
cứ một cái đầu nào kha khá một chút, là dính bả Cộng Sản.
[Hai Lúa lại
nhớ tới miền nam Việt Nam, những ngày 1954, ngoài cái đám di cư ra, còn
thì đều
là mê... miền bắc. Hai Lúa cũng đã có lần kể chuyện, vô nam, còn là
thằng con
nít, tới trình diện ông chú, Ông Th. Ông 'chưởi': Nước nhà độc lập rồi
dzô đây
làm gì?, trong Gòa không Goà không, và Tên Của Cuộc Chiến
Sau đó OSS đổi
thành CIA, và lập tức tiến hành cuộc chiến "phản-ý thức hệ", tức Chống
Cộng. Nhưng người đẻ ra cái ý nghĩ, thành lập một hội nghị Chống Cộng ở
Tây Bá
Linh vào năm 1950, là Arthur Koestler. Ông đã từng là một viên chức
Cộng Sản,
trong cái chuồng nổi tiếng Willi Munzenberg, vào thập niên 1930.
Koestler làm
việc cho trung tâm này. Bây giờ, ở Paris, sau khi cắt bào đoạn nghĩa
với Đảng,
ông mơ màng tưởng tượng làm sao thành lập được một cái đảng cũng giông
giống
như Đảng Cộng Sản, nhưng là vì lý tưởng tự do. Một trung tâm ý thức hệ
tự do, đại
khái dzậy. Mấy tay như Melvin Lasky và những tay ở New York khác đã hỗ
trợ ông.
Sau hội nghị Berlin, có quyết định là sẽ lấy Paris là nơi đặt đại bản
doanh. Và
một cái tên Tây nữa chứ, cho phải phép. Thế là ra lò cái tên Hội nghị
vì Tự do
Văn hóa.
Như thế, cái
gọi là Đại hội này, là một tác phẩm đã kinh qua những giai đoạn ý thức
hệ Mác
xít, Xét lại, và Trốt kít. Chỉ những đầu óc đã kinh qua cả mấy cái lò
đó, thì mới
hiểu ra được sự nguy hiểm của một hệ thống Xì Ta Lìn Nịt, bởi vì chỉ có
họ, những
con người độc nhất ở phương Tây, mong ước cái chuyện vá trời, là Chống
Cộng,
vào thời kỳ đó, ở Tây Phương.
Nói ngắn gọn,
chủ yếu là giới trí thức Do Thái ở Nữu Ước
đã thành lập ra cái gọi là Hội nghị. Jozef
Czapski và Jerzy Giedroyc thì đã tham dự ngay
từ hội nghị Berlin.
Đó là lý do tại sao tôi quen thuộc ngay từ hồi đầu với cả đám.
Vào lúc đó,
chẳng ai biết tiền ở đâu ra. Người ta nói, có một số cơ sở thương mại
lớn hỗ trợ,
và thực sự là vậy. Rồi tới năm 1966, bí mật bật mí, tiền Xịa, và những
cơ sở
thương mại kia chỉ là bình phong. Vả chăng, cái kiểu đặt đại bản doanh
ở Paris,
đủ thấy, tiền từ đâu đâu rót xuống. Nhưng khi biết được, Xịa, dân Tây,
vốn ghét
Mẽo, bèn tẩy chay hoàn toàn.
Ngày nay,
nhìn lại, tôi nhận ra một sự thực, cái gọi là âm mưu, xúi
bẩy người ta nếm mùi tự do, the liberal
conspiracy, như thế, là rất đáng làm, nên làm, và rất chính đáng.
[Đó cũng là nhận định của một số người Việt về cái chuyện MT lấy tiền
Mẽo làm tờ
Sáng Tạo. Có trách ông, là ông làm báo thì ít, mà đi vũ trường, bao
gái, thì
nhiều!]
Hội nghị
trên đúng là một đối lực, chống lại chiến dịch tuyên truyền qua đó,
những người
Xô Viết mở rộng ảnh hưởng tới mọi xó xỉnh. Hội nghị đã cho xb nhiều tờ
báo có
giá trị rất cao, bằng những ngôn ngữ chính của Âu Châu: Preuves ở
Paris,
Encounter ở London, Quadrant ở Úc, Tempo Presente, với một trong chủ
biên là Ignazio
Silone ở Rome, Der Monat, Đức, Quardernos, Tây Ban Nha. Họ muốn kéo cả
Kultura
vào cùng một rọ, nhưng Giedroyc, từ chối, mặc dù ông ta quá cần tiền
cho tờ
báo.
Tôi thì cũng
rứa. Tiền thì cũng muốn hít, nhưng đau thì vẫn thấy đau, cứ như gái
ngoan ngồi
phải cọc!
Lẽ dĩ nhiên,
còn nghi ngờ nữa chứ. Tiền có mùi gì kỳ quá hé!
Nói cho
cùng, thì cũng tội quá nghèo. Mà mấy ông chủ Mẽo ở Paris hồi đó thì quá
giầu.
Ngày nay, nghĩ lại, tôi cũng thấy mủi lòng, ấy là nói về thái độ của
mình đối với
Michael Josselon. Ông chủ chi địa, mọi chuyện đều trông vào ông.
Tôi thật sự
không ưa, cái vẻ tự mãn của ông ta, và nhất là điếu xì gà. Cả đám những
ông chủ
Mẽo này đều mắc một cái tội là hay quên, nhất là những lỗi lầm của họ.
[Thì cái
vụ Việt Nam chưa hết đau, nỗi đau hội chứng, hậu hội chứng, thì đã chui
đầu vào
bẫy Iraq!]. Một trong những lỗi lầm của đám họ, ở Paris hồi đó, là chơi
một cái
văn phòng hách xì xằng, ở trong một khu đắt tiền nhất Paris, trên Đại
lộ
Montaigne.
Để chứng tỏ,
tuy quen biết, nhưng tôi chẳng có thớ gì, ở trong Hội nghị, là, tôi đã
bị từ chối
visa nhập cảnh Mẽo. Lỗi đâu phải ở Hội nghị, tuy nhiên....
Một trong những
nỗi đau của ông chủ chi địa Josselon, là qua tiền của ông, rất nhiều
nhà văn
nhà thơ lên hương, thoát ra khỏi lục địa Âu Châu cằn cỗi, nghèo khổ,
nhập thiên
đàng Mẽo, nhưng ông chủ không làm sao vỗ ngực nói, này, nhờ tao cho mày
tiền
đó!
*
Người khui
ra vụ MT nhận tiền Xịa làm tờ ST, là NS, do thù TTT. Có thể tới lúc đó,
TTT mới
biết, và do tính của ông, rất ghét chuyện bửn, thế là ông rãn ra, và,
cũng hết
mẹ nó tiền, do bao gái nhảy nhiều hơn là do làm báo. GNV tin rằng, VP,
vì lý do
này, khi lấy tiền Mẽo làm bộ VHMN, đã đổi cái tên Mẽo thành cái tên
Việt!
Mémoirs
Đóa hoa
hồng vùi quên trong tay
I
wish you will have another book...
Tks.
Tôi sẽ dịch tiếp cuốn “Gọi người đã chết”, thay cho lời chúc Tết năm
nay.
Cuốn
này, ngay khi vừa mới ra được hải ngoại, tôi đã dịch, được 1, 2 chương
đầu, rồi
lo đi bán bảo hiểm nhân thọ...
Bây giờ nhớ lại những ngày tù Bangkok, nghĩ đến
anh bạn tù người Mã Lai nằm kế bên, nhớ tới.... bèn lôi ra dịch tiếp.
*
GNV
& HPA @ Paris 1999
Tính
làm 1 chuyến dối già, mà coi bộ phiêu quá rồi!
Phận
lưu vong
Cầu
Việt Trì, trên sông Hồng, nơi ông cụ Gấu, vào năm 1946, được một đấng
học trò
làm thịt, xong, thẩy xuống sông, kèm cục đá tổ bố, để cho khỏi nổi lên.
Kurtz des
ténèbres [Kurtz của bóng đen]
Bien
qu'il n'ait jamais disparu, le courant brun qui coulait rapidement du
cœur des
ténèbres vers la mer en nous emportant sur le fleuve Congo est de retour. Et
avec lui
revient le personnage de Kurtz qui, lui non plus, n'a jamais disparu,
ou s'il
l'a fait, il était « parti très loin, comme dirait Kafka, pour rester
ici ».
Thì, tất nhiên, nó chẳng bao giờ biến mất, cái dòng nước đục ngầu, đỏ
như máu,
của sông Hồng, chảy từ trái tim của bóng đen, là thành phố Hà Nội, ra
biển, đưa
chúng ta dạt dào lưu vong, sau khi thoát hải tặc Thái Lan, mãi tít tới
miệt
Công Gô, và, ăn Tết Công Gô xong, lại trở về.
Và cùng về với nó, là nhân vật Kurtz; anh này, tất nhiên, cũng chẳng hề
biến mất,
hay là, nếu anh ta làm như thế, “anh ta đi rất xa, nói như Kafka, để ở
lại
đây”.
Ui chao, nghe cảm khái cứ
như thi sĩ Huỳnh Văn Nghệ, và những đấng Yankee mũi tẹt,
giang hồ khắp thế giới, đi đến đâu là biến nhà người, đất người thành
bãi đánh
hàng:
Từ thuở mang gươm đi dựng nước
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long
NKTV
Cái đồn lúc
đó không trơ trụi thùi lụi, chỉ hai cái lô cốt như trên. Chung quanh là
trại
lính, lính Tây, lính Ta, tức lính Ngụy, tức Việt Gian, tức Bảo Chính
Đoàn. Xa
chút nữa, là những thửa vườn, ruộng của vợ con lính. Cả 1 khu bề thế.
Chỉ đến khi trở về, hơn nửa thế kỷ sau
đó, nhìn hai cái lô cốt trơ trọi, Gấu mới ngộ ra cái thế yểm bùa của
nó. Cái Ác
Bắc Kít, bị phù thuỷ Cao Biền, bị danh tướng thiên triều Mã Viện, trấn
áp, bao
nhiêu đời, [cái này là hiện thực huyền ảo nhe, đừng chửi Gấu, Tây mới
cai trị
sau này, sao mi dám lần tới thời kỳ lập nước], phải đợi đến ngày 30
Tháng Tư
1975, mới thoát ra được, và gây họa cho giống Mít, đúng như nhà thơ ông
anh
tiên đoán: Miền Bắc sẽ bị chấn thương nặng nề vì chiến thắng này!
Khủng khiếp
thật.
Thảo
nào Thảo Trường
gật gù, mi về chụp cái hình “cột đồng Mã Viện”, qua Việt Trì đốt nén
hương cho
ông cụ mi, xong, là đi, chẳng cần phải về nữa!
From INTELLIGENT LIFE
Magazine, Winter 2010
It was a beautiful moment
in 1887 when a veterinary
surgeon in Northern Ireland invented a new kind of tyre, to smooth out
the
bumps when his son was on his tricycle. Within ten years John Dunlop’s
pneumatic tyre—inflated canvas tubes, bonded with liquid rubber—had
become so
successful that the American civil-rights leader Susan B. Anthony could
claim,
“The bicycle has done more for the emancipation of women than anything
else in
the world.”
The invention didn’t free
everyone. The raw material for
the pneumatic tubes came from the rubber vines of the Congo, and the
demand for
rubber only deepened the damage that had been inflicted in that region
by the
demand for ivory. A century later, the pattern hadn’t entirely changed:
the
coltan required for mobile phones comes from the same area, where war
has
claimed millions of lives over the past 12 years.
Our awareness of the
shadowy stories of supply and demand
also goes back to one man, a contemporary of Dunlop’s. Between June and
December 1890, a 32-year-old unmarried Polish sailor called Konrad
Korzeniowski
made a 1,000-mile trip up the Congo for an ivory-trading company on a
paddleboat steamer called Roi des Belges. It took him nine
years to find
a way to write about what he saw. Joseph Conrad’s “Heart of Darkness”
is a
story within a story, which starts with five men on a boat moored in
the
Thames, and one of them, Marlow, a veteran seaman and wanderer, telling
of a
journey up a serpentine river into the centre of Africa, where he meets
another
ivory trader, Kurtz. Six pages in, Marlow tells the others, “The
conquest of
the earth, which mostly means the taking it away from those who have a
different complexion or slightly flatter noses than ourselves, is not a
pretty
thing when you look into it too much.”
Published in 1902, “Heart
of Darkness” had an immediate
political impact—it was widely cited by the Congo Reform Movement—but
it wasn’t
an instant classic. Twenty years later, T.S. Eliot wanted to choose a
quotation
from it for “The Waste Land”, but his colleague Ezra Pound dissuaded
him: “I
doubt if Conrad is weighty enough to stand the citation.” Three years
after
that, Eliot chose another line from the novella as one of the epigraphs
for
“The Hollow Men”. (“Mistah Kurtz—he dead.”) “Heart of Darkness” had
become part
of the cultural landscape. In 1938 Orson Welles adapted it for a
Mercury
Theatre live radio production. He went on to write a screenplay in
which he
planned—with Wellesian gusto—to play both Marlow and Kurtz. He couldn’t
get the
movie made and was forced to move on to a project about a media mogul
called
Charles Foster Kane.
In the late 1970s, Francis
Ford Coppola took “Heart of
Darkness” and transplanted it to Vietnam as “Apocalypse Now”, with
Martin Sheen
as Captain Willard, the Marlow character, a special-operations officer,
sent on
a mission to “terminate…with extreme prejudice” the life of the
deranged
Captain Kurtz, played by Marlon Brando. In this version the Mekong
River
becomes the Congo. The irony was hard to miss: just as Britain, once
colonised
by the Romans (“1,900 years ago—the other day”, writes Conrad), had
become an
imperial power, so had the United States, once colonised by the
British, now
become one too. With the success of the movie, the novella’s place on
the
campus syllabus was assured. “Apocalypse Now” launched a thousand
sophomore
essays comparing and contrasting the book and the movie.
And now “Heart of Darkness” is a graphic novel by Catherine
Anyango,
with the ivory domino pieces—lightly touched on by Conrad in the
opening
pages—looming in the foreground of the opening drawings. The theme of
traceability, where things come from and the journey that they take, is
vividly
dramatised. It’s a story for today. One day in June last year, Jeff
Swartz, CEO
of the leisurewear company Timberland, woke up to find the first of
65,000
angry e-mails in his inbox. These were responses to a Greenpeace
campaign that
said Brazilian cattle farmers were clear-cutting forests for cattle and
the
leather from the cattle was going into Timberland shoes. Swartz has written up his experience for the Harvard
Business
Review. His first action, he says, was to admit that he didn’t know
where
the leather came from. It wasn’t a question he had asked.
As “Heart of Darkness” has
moved from one medium to
another, it has made a good claim to be the single most influential
hundred
pages of the 20th century. If you consider its central theme—how one
half of
the world consumes resources at the expense of the other half—it’s
easy
to see
its relevance becoming even greater. Only the resources will no longer
be ivory
for piano keys, or rubber for bicycle tyres.
Conrad’s artistic
challenge was to make the world he saw
visible to others. It’s a political challenge too. Sometimes writers
reveal a
hidden situation, sometimes campaigners do, and sometimes it’s just an
accident. Few of us had much idea about the conditions in which copper
is
mined—everyday copper for plumbing, electrics, saucepans and
coins—before 33
Chilean miners found themselves trapped 2,000 feet underground.
Robert
Butler is a former theatre critic. He blogs on the arts
and the
environment at the Ashden
Directory, which he edits. Picture Credit: Gastev
(via Flickr).
Ideas GOING
GREEN Intelligence winter
2010
*
how one
half of
the world consumes resources at the expense of the other half:
Câu trên chôm và áp dụng
vào xứ Mít, được: Bằng cách nào
anh Yankee mũi tẹt, tức nửa nước Mít phía Bắc, 'tiêu thụ', thằng em Nam
Bộ, tức nửa
nước Mít phía Nam.
Đọc bài điểm
sách trên, thì ngộ ra 1 điều, lịch sử nhân loại, và cùng với nó, là
lịch sử văn
học thế giới, hoá ra chỉ qui về… hai cuốn truyện: Trái Tim của Bóng
Đen, một nửa
thế giới tiêu thụ tài nguyên của 1 nửa thế giới còn lại; Bóng Đêm giữa
Ban Ngày,
1 nửa nhân loại và sau đó, toàn thể nhân loại, thoát họa Quỉ Đỏ.
Khi viết Bếp
Lửa, TTT không hề nghĩ rằng, cuốn sách của ông là cũng nằm trong truyền
thống
trên.
Bởi vì nó cũng
thuật câu chuyện một nửa nước Mít làm thịt một nửa nước Mít.
“The conquest of the
earth, which mostly means the taking
it away from those who have a different complexion or slightly flatter
noses
than ourselves, is not a pretty thing when you look into it too much.”
Published in 1902, “Heart of Darkness” had an immediate
political impact…
Cuộc chinh phục Miền Nam,
nghĩa là cuộc làm thịt đám Ngụy,
thì không bị được đẹp cho lắm, nếu nhìn thật gần, và nhìn thật ‘nâu’
[‘lâu’, đọc
giọng Bắc ], và thật nhiều…
Xb vào năm 1954, BL lập tức trở thành một cú chính trị ‘đéo
phải đạo’ [dám gọi cái chuyện đi lên chiến khu, vô rừng, theo Chiến
Kháng, "cũng
là 1 thứ đánh đĩ"!]….
“Voilà
soixante ans que j'essaie, la nuit, de me rappeler les objets du camp.
Ce sont
les affaires de mon bagage de nuit. Depuis mon retour du camp, la nuit
d'insomnie est une valise en peau noire que j'ai dans le front. Mais,
depuis
soixante ans, je ne sais toujours pas si j'ai des insomnies parce que
j'essaie
de me rappeler des objets ou si, à l'inverse, je me bagarre avec eux,
ne
pouvant fermer l'œil.” Ainsi parle la bouche d'ombre, Léopold Auberg,
le héros
du nouveau roman de Herta Müller. Léopold a 17 ans en 1945. Il
appartient à la
population germanophone de la Transylvanie, région de Roumanie. Léopold
est le
double fictif d'un vieil ami de Herta Müller, et un écrivain oulipien
allemand
décédé en 2006. Oskar Pastior fut envoyé au goulag par les Russes, à la
fin de
la Seconde Guerre mondiale. C'est avec lui et à quatre mains que la
romancière,
prix Nobel 2009, devait écrire La Bascule
du souffle. Du témoignage de son ami, elle a fait un roman, à la
première
personne du singulier. Un roman qui fait partie de ces livres qu'on
préférerait
ne pas ouvrir. On croit qu'ils vont nous fredonner une macabre
antienne; on
croit, perversement, à la « rengaine» de ladite « littérature des camps
». Et
l'on lit un récit qui fore la réalité de part en part, une sorte de «
carnet du
sous-sol ».
La Bascule du souffle
nous force à lire lentement. À relire. Rien de bien compliqué en
apparence; il
faut s'accoutumer pourtant à la dislocation du réel qui morcelle la
narration
en courts chapitres, en veilles et en souvenirs, en méditations et en
observations, en portraits et en anecdotes. Fragments du miroir brisé
de soi
qui échappent au temps, dans une latence difficile à suppporter. Non,
l'écriture de Herta Müller n'est pas poétique, et encore moins
onirique. Elle
ne fait pas rêver, encore moins s'évader. Rire, parfois. Mais elle ne
transscende
aucun enfer par une hypothétique magie des mots, même quand Léopold
répond à
son kapo, qui lui demande « Comment c'est, chez vous, au sous-sol?" : «
C'est charmant, chaque tranche de travail est une œuvre d'art. »
Imagée, cette
écriture l'est; non pas en raison d'éventuelles - et rares -
métaphores, mais
d'une certaine myopie obsessionnelle.
Si la « nuit
d'insomnie" est une « valise en peau noire", ce n'est pas par un
effet d'imagination, mais de délire: elle ne fait que réitérer le
départ au
petit jour et la déportation qui s'ensuivit. Faire sa valise. La
valise, d'un
coup, occupe le champ de vision du texte. Elle devient le symptôme
lancinant du
« grand voyage" de Léopold. D'autres images prennent tour à tour le
dessus,
comme celle de l'amas de poux qui vient contaminer l'apparition de
certains
aliments, ou celle des chaussettes de laine blanches. Dans l'univers de
la
romancière, les objets menacent à tout moment d'être éternels. L’auteur
aux
yeux écarquillés - comme grand ouverts sur une vision de cauchemar -
racontait
cette angoisse dans l'une de ses deux conférences données à Paris à la
mi-octobre: “Quand on est face à la peur de la mort, les objets peuvent
prendre
des proportions monstrueuses. Qui me dit que ce verre d'eau, posé là
sur la
table, ne va pas vivre cinq cents ans?” Dans cerrtains de ses
précédents
livres, comme Le renard était déjà le
chasseur, l'effet de loupe pouvait paraître étrange et dérangeant.
Les
objets inanimés, les animaux, les fruits, venaient créer une
inquiétante
fanntasmagorie du quotidien sous la dictature. Mais, dans le contexte
de
l'univers carcéral du camp de concentration, cela prend tout son sens.
Quand
les objets font cruellement défaut, même les plus menus deviennent des
bourreaux ou des trésors. Ainsi du mouchoir offert au prisonnier par
une
vieille femme russe, évocaation qui tissait déjà la trame de l'émouvant
discours de réception du prix Nobel de Herta Müller (1). Ces objets ne
sont pas
des symboles ou des allégories, mais les derniers résidus d'un sens en
fuite.
Il n'est pas
jusqu'aux mots qui ne soient réquisitionnnés pour servir de matière
brute: si
la romancière emploie les capitales d'imprimerie, c'est bien pour les
muter en
objets, dans cet univers de famine où règne l'équation “1 pelletée = 1
gramme
de pain”. Là où les mots ne collent plus aux choses, ils deviennent
eux-mêmes
choses parmi les choses. Et prennent la consistance du charbon, de la
faim, du
désir.
Le
magnétisme de l'œuvre de Herta Müller tient à ce saisissant effet
d'optique,
qui fournit dans La Bascule du souffle
des renversements terrifiants. Ainsi, le héros revenu au bercail
devient à son
tour un objet pour le petit frère conçu en son absence. Ainsi la scène
de danse
finale, époustouflante, dans laquelle le héros répète la tradition du
tango au
camp, avec de bien singuliers partenaires : le réveil, les clés, la
théière.
Car, le plus insoutenable, finalement, c'est ce retour parmi les “gavés
du pays
natal”. Comment s'étonner, dès lors, du constat de l'irrémédiable
solitude du
héros qui se met à consigner son histoire sur le papier, à l'instar de
l'écrivain: “C'était un grand fiasco intérieur d'être désormais en
liberté,
irrévocablement seul, et le faux témoin de moi-même. J'ai caché mes
trois grands
cahiers à carreaux dans ma nouvelle valise en bois.”+
(1) Le
discours de réception débute par la question que sa mère lui posait
tous les
matins: «Tu as un mouchoir?»
Extrait
Raconter des
recettes, c'est tout un art, plus délicat que celui de raconter une
histoire
drôle. Le bon mot doit porter juste, même s'il n'est pas amusant. Quand
la
recette commence par PRENEZ, c'est déjà le fin mot de l'histoire, vu
qu'ici, au
camp, on n'a rien. Mais ce bon mot, on évite de le prononcer. Les
recettes sont
les histoires drôles de l'ange de la faim.
La Bascule du souffle, Herta Müller
Hồi ký viết
dưới hầm, mới
“Đã từ 60
năm tôi cố gắng, vào ban đêm, nhớ lại những đồ vật của trại tù. Đó là
hành
trang đêm của tôi. Từ khi trở về từ trại tù, đêm mất ngủ là một cái
rương bằng
da đen ở trước tôi. Nhưng, cũng 60 năm, tôi không hiểu tôi mất ngủ là
bởi vì
tôi cố gắng nhớ lại những đồ vật, hay là ngược lại, tôi hục hặc với
chúng
nên không thể nhắm mắt”.
“Khi con người
đối diện với nỗi sợ chết, những đồ vật có thể có những tỷ lệ khủng
khiếp. Ai
nói với tôi, cái ly nước để ở trên bàn, sẽ không sống năm trăm năm?
*
Ở Pháp, một số quán cà phê
như Les Deux Magots, Café de Flore
và Brasserie Lipp ở khu St-Germain-des-Prés, Paris có thời từng là
những nơi gặp
gỡ thường xuyên, gần như mỗi ngày, của những tên tuổi lớn như Paul
Verlaine,
Oscar Wilde, Guillaume
Appolinaire, Paul Eluard, André Gide, Jean-Paul
Sartre
và Simone de Beauvoire,
v.v... Họ đến đó, mỗi buổi sáng, để viết; và nhiều hơn,
để gặp gỡ và tán dóc với bạn bè văn nghệ.
NHQ
Beauvoir,
không có chữ "e", dù em là ‘bướm’, thưa Thầy Cuốc!
Apollinaire, Thầy viết thừa chữ ‘p’, thiếu chữ "lờ"!
Hơn nữa
giang sơn nào, anh
hùng đó,
Thầy Cuốc ơi, Thầy kể ‘linh tinh’ như thế, mất hết lý thú!
Thí dụ,
những chi tiết
trong hình mà chẳng là những giai thoại sao?
Sartre ngồi Le Flore 4 năm, viết
xong Những nẻo đường tự do,
“em” của Sartre, viết Máu người khác
cũng ở đó, dến
ngay tay bồi bàn cũng đi vô văn học sử!
Quán này trở thành Tổng
Hành Dinh của nhóm, thời gian Pháp bị
Đức chiếm đóng. Tha hồ viết, đến nỗi “Chàng” phán: “Chưa bao giờ chúng
tớ tự do
như khi bị Đức chiếm đóng!” ["Jamais nous
n’avons été PLUS LIBRES que sous l'OCCUPATION allemande!”]
Ui chao lại
nhớ thời Sài Gòn bị Yankee mũi lõ “chiếm đóng”! GNV phải đi làm bồi cho
tụi
chúng. Khổ ơi là khổ!
Được giải phóng rồi, sướng quá, phát điên, bỏ chạy xuống biển, làm mồi
cho cá!
Note:
Nhanh thật.
Mới coi Hậu Vệ, thấy Thầy Cuốc đã sửa hai cái lỗi trên, nhưng không
thấy cám ơn
GNV!
Y chang cái em gì gì bên DM!
Trên VOA, thấy
còn nguyên hai cục sạn trên.
Cái tên của
1 tác giả, là rất quan trọng; viết sai, là tỏ ra thiếu kính
trọng, chưa
nói chuyện khác. Vào thời Google, còn cho thấy sự cẩu thả. Chỉ cần gõ 1
cú, vậy
mà cũng không làm được, làm sao độc giả tin cậy bài viết?
GNV không
tin những người được nêu tên, ‘lõ hay tẹt’, đều cảm thấy hài lòng! GNV
qua Cali
thăm bạn cũng nhiều phen, ngồi với nhiều đấng, mà đâu dám nhắc tới ai,
vì chưa
chắc họ đã khoái được nêu tên trên báo, theo cái kiểu điểm danh của
Thầy Cuốc!
Đúng là Càn
Long du Giang Nam, quan chức nào cũng phải bệ kiến!
Càn Long không có tính quảng
cáo cho một tờ lá cải nào, nhưng lại ghé diễn đàn Bến Nghé ngày nay,
thí dụ!
Chỉ
để du lịch thôi, và CL rất thích cái không khí của những diễn đàn như
thế!
*
Nữ văn sĩ Thảo
Trần @ Les Deux Magots, 1999
@ KT's, 1999
*
Mémoirs
Bởi vì
tớ mất cơ may chết vô
danh cho nên đành lâu lâu tự thổi mình, sống đếch ai hiểu tớ!
Ui chao lại nhớ câu của
Hegel, khi chết than, cả đời tớ, chẳng có ai hiểu, duy chỉ 1 đấng học
trò, và,
quay qua tên đệ tử mắt sáng rỡ, nhưng, tội thay, hắn lại hiểu sai!
Trong bài viết về Bếp Lửa của
TTT, từ năm 1973, GNV này đã phán, ông, do loay hoay hì hục viết đi
viết lại mãi,
chỉ 1 cuốn BL, mà bỏ lỡ 1 cuộc cách mạng, y chang Sartre, với cuốn La Nausée!
Sartre suốt đời mê làm cách mạng,
nhưng khi cờ đến tay, thì lại bỏ lỡ: cuộc cách mạng văn học của Tây, sau Sartre, bắt đầu từ La Nausée.
Phải đến khi về già, Sartre mới
nhận ra điều này, và thú nhận, tất cả những tác phẩm đầu đời của ông,
chỉ còn lại… La Nausée!
Nhưng bảnh nhất, phải là truyện
ngắn Bức Tường, Le Mur.
Koestler coi đây là 1 tuyệt tác viết về cuộc chiến Tây
Ban Nha.
Truyện này, thú vị nhất, là được 1 giáo sư, triết gia số 1 Mít thuổng,
nghĩa là, viết lại, y chang, và cho đăng trên tờ báo VH của NMG!
*
LE
ROMANCIER PHÉNOMÉNOLOGUE
Tiểu thuyết gia hiện tượng
học
C'est malgré tout dans La Nausée,
journal de bord d'« une épave sans mémoire»,
qu'on trouve sans doute les motifs littéraires les plus marqués
philosophiquement.
Sans être un roman à thèse, La Nausée est bien une fiction à visée
métaphyysique. Sartre ne s'en cache pas : «Je voulais que la
philosophie à
laquelle je croyais, les vérités que j'atteindrais s'expriment dans mon
roman
... » (Carnets de la drôle de guerre).
Mais ce ne sont toutefois pas les thèmes que
Sartre « évoque» dans ses
romans qui sont le plus significatifs. Ce n'est pas non plus le fait
qu'il
prête à son héros des intuitions qui préfigurent un certain nombre des
développements
de L'Etre et le Néant (l'angoisse, !a nausée, l'ennui), ni que
l'univers, le
«Monde tout nu», lui apparaisse dans son absurde, «effrayante et
obscène
nudité». C'est bien davantage la manière dont le romancier saisit les
choses
dans leur mode propre de se manifester.
C'est là que la technique romanesque
sartrienne s'apparente à la méthode phénoménologique.
Car, pour Sartre, toujours très conscient des procédés des écrivains,
qu'il lui
arrive de plagier ou de parodier avec une virtuosité sans égale, «une
techhnique romanesque renvoie toujours à la métaphysique du romancier»
(Situations I). Les situations, dans lesquelles s'ajointent
inextricablement
les choses et les êtres, sont ainsi vues à travers les postures et les
gestes
des personnages, et cela sans faire appel à leurs sentiments ou à leur
intériorité. C'est
une phénoménologie en situation qui ne tend
pas à la description objective,
si par objectif on suppose un Narrateur omniscient qui saurait tout le
secret
des personnages et des situations. Sartre s'efforce, à la manière de
Dos
Passos, de faire en sorte que le lecteur n'en sache jamais plus que les
personnages
sur ce qui se passe....
Jean Montenot
*
Những
câu phán để đời của Sartre:
«L'HOMME
est une PASSION INUTILE.»
Con người là 1 đam mê vô ích
Cette formule de L'Etre et le Néant doit sa
célébrité au fait qu'elle
tranche avec la terminologie technique de mise '" dans le livre de
1943. Sartre
la jugera, d'ailleurs, plus tard, un peu trop littéraire! En tout état
de
cause, il faut la resituer dans son contexte: «Toute réalité-humaine
est une
passion, en ce qu'elle projette de se perdre pour fonder l'être et
constituer
du même coup l'en-soi qui échappe à la contingence en étant son propre
fondement
[ ... ]. Ainsi la passion de l'homme est l'inverse de celle du Christ,
car
l'homme se perd en tant qu'homme pour que Dieu naisse. Mais l'idée de
Dieu est
contradictoire et nous nous perdons en vain; l'homme est une passion
inutile. » CQFD.
«ABATTRE UN EUROPÉEN c'est faire d'une pierre
deux coups, supprimer en même
temps un OPPRESSEUR et un OPPRIMÉ: restent un homme mort et un homme
libre.»
Làm thịt 1 tên Âu Châu, là bắn 1 một mũi tên chết 2 con chim
Lue aujourd'hui, cette phrase de Sartre,
proférée dans la préface aux
Damnés de la terre (voir p. 58), fait froid dans le dos. Prononcée dans
le
cadre de la lutte contre le colonialisme - cause qu'épousa Sartre dans
les
années 1950 -, elle pose la question, qui était déjà celle de la
polémique avec
Camus, du degré de violence qu'on est prêt à accepter au nom de
l'exigence d'émancipation,
qu'elle soit anticoloniale ou révolutionnaire. La «violence
irrépressible» de
Frantz Fanon est celle de «l'homme se recomposant », Ainsi, «le
colonisé se
guérit de la névrose coloniale en chassant le colon par les armes », et
«l'arme
d'un combattant, c'est son humanité ». Sartre rêvait sans doute les
yeux
ouverts lorsqu'il écrivit qu'avec «le dernier colon tué, rembarqué ou
assimilé,
l'espèce minoritaire disparaît, cédant la place à la fraternité
socialiste ».
«Du moment que je dis la DROITE, pour moi ça
veut dire des SALAUDS.»
Propos un peu raide de L'Espoir maintenant.
En fait, Sartre s'en prend
surtout à la gauche qui a tout lâché, perdu repères et principes, et
qui laisse
triompher une droite misérable. Il s'agirait de retrouver de «vrais
principes à
la gauche». Le salaud est une figure classique de la pensée sartrienne,
il
désigne celui qui a toujours de bonnes raisons de fuir sa liberté: «Les
uns qui
se cacheront, par l'esprit de sérieux ou par des excuses déterministes,
leur
liberté totale, je les appellerai lâches; les autres qui essaieront de
montrer
que leur existence est nécessaire, alors qu'elle est la contingence
même de
l'apparition de l'homme sur la terre, je les appellerai des salauds. »
(L'existentialisme
est un humanisme.)
« La liberté de CRITIQUE est totale en URSS.»
Titre du premier article de Libération, en
juillet 1954, au retour de son
périple dans la patrie du socialisme. Les propos sont dignes de ceux de
Romain
Rolland déclarant en pleine collectivisation forcée, qui se traduit
dans les
années 1930 par la liquidation de centaines de milliers de paysans:
«J'ai vu en
Union soviétique un élargissement remarquable des droits humains. »
Sartre
commente, en 1980 (L'Espoir maintenant)
: «Romain Rolland n'est pas un penseur remarquable », et reconnaît
devant Benny
Lévy : «C'est vrai que j'en pensais du bien, moins que tu ne sembles le
penser.
Mais c'est que je me défendais d'en penser du mal.» Et d'ajouter: «J'ai
été
très peu compagnon de route, je l'ai été en 51-52, je suis allé en URSS
vers
54, et presque tout de suite après, avec les événements de Hongrie,
j'ai rompu
avec le Parti.» Ce qui ne veut pas dire, bien au contraire, que Sartre
a cessé
d'être marxiste.
« L'EXISTENCE précède L'ESSENCE.»
C'est «la» formule célèbre de Sartre. Il
tient à la distinguer d'une
formule voisine chez Heidegger: «L'existentialisme athée, que je
représente,
est plus cohérent. Il déclare que si Dieu n'existe pas, il y a au moins
un être
chez qui l'existence précède l'essence, un être qui existe avant de
pouvoir
être défini par aucun concept et que cet être c'est l'homme ou, comme
dit Heidegger,
la réalité humaine. Qu'est-ce que signifie ici que l'existence précède
l'essence? Cela signifie que l'homme existe d'abord, se rencontre,
surgit dans
le monde, et qu'il se définit après. L'homme, tel que le conçoit
l'existentialiste, s'il n'est pas définissable, c'est qu'il n'est
d'abord rien.
Il ne sera qu'ensuite, et il sera tel qu'il se sera fait. Ainsi, il n'y
a pas
de nature humaine, puisqu'il n'y a pas de Dieu pour la concevoir.
L'homme est
seulement, non seulement tel qu'il se conçoit, mais tel qu'il se veut,
et comme
il se conçoit après l'existence, comme il se veut après cet élan vers
l'existence; l'homme n'est rien d'autre que ce qu'il se fait.»
« Un ANTICOMMUMSTE est un CHIEN, je ne sors
pas de là, je n'en sortirai
plus jamais.»
La formule se lit en 1961 dans un texte
d'hommage posthume à son alter ego
en phénoménologie intitulé: « Merleau-Ponty vivant» (Situations I).
Sartre y
fait état, dans le passage en question, des raisons qui l'ont poussé à
son
compagnonnage avec le Parti communiste. La cause occasionnelle fut
l'affaire du
procès du quartier-maître Henri Martin, sur fond de guerre d'Indochine
et de
guerre froide. Malgré les injures staliniennes de 1947 - «hyène
dactylographe »,
«rat visqueux », «vipère lubrique" et « putois déliquescent" -,
Sartre avait pris son parti. Il serait du côté des communistes. «Ma
vision fut
transformée [ ... ] après dix ans de ruminations, j'avais atteint le
point de
rupture et n'avais besoin que d'une chiquenaude. En langage d'Eglise,
ce fut
une conversion. » Tandis que Merleau-Ponty avait découvert l'horreur du
stalinisme, Sartre se découvrait une haine définitive de la
bourgeoisie, «une
haine qui ne finira qu'avec moi".
«Jamais nous n'avons été PLUS LIBRES que sous
l'OCCUPATION allemande!»
Phrase paradoxale s'il en est. Il s'agissait
de dire (en septembre 1944)
que la radicalité de la situation exigeait alors que chacun, résistant
ou non,
réponde par ses attitudes et ses conduites - de l'engagement à la
lâcheté en
passant par l'insouciance - de sa liberté de consentir ou non à la
situation. Plus
tard, il s'autocritiquera : «Quand j'écrivais que, quelle que soit la
situation, on est toujours libre, cela me paraît aujourd'hui absurde",
concédera Sartre qui, de révisions en révisions de sa propre pensée,
admet que
la conscience d'être libre ne suffit pas à fonder pratiquement sa
liberté.
«L'ENFER, c'est les AUTRES.»
Il faut citer la
réplique de Garcin dans son
intégralité, car elle se
présente un peu comme la clé de Huis clos: «Alors, c'est ça l'enfer. Je
n'aurais jamais cru ... Vous vous rappelez: le soufre, le bûcher, le
gril ... Ah
1 quelle plaisanterie. Pas besoin de gril, l'enfer, c'est les Autres.»
Garcin
et les deux autres personnages de la pièce, Inès et Estelle, sont
morts,
enfermés et condamnés à se supporter mutuellement pour l'éternité dans
un huis
clos qui a donné son nom à la pièce, que Sartre avait d'abord voulu
intituler
Les Autres. Le propos a été mal compris, car il ne s'agit nullement
pour Sartre
d'affirmer que le rapport à autrui est impossible, ni qu'il faut être
pessimiste au point de renoncer à toute forme de bonheur relationnel.
La mort
symbolise, dans la pièce, les «gens encroûtés dans une série
d'habitudes»; et
la majuscule dans la réplique, une certaine manière d'hypostasier
autrui. Sartre
entendait ainsi montrer par l'absurde qu'il est toujours possible, si
l'on ne
renonce pas à sa liberté, comme les morts de la pièce, de briiser le
repli sur
soi auquel conduisent la rumination des propos d'autrui et
l'intériorisation du
regard d'autrui dans le huis clos de notre for intérieur.
Fréderic
Beigbeder viết về Sartre:
Tôi thật
khoái, khi thằng chả phán, cái chết của thằng cha già, bố tao, là 1 cơ
hội.
Khi tôi học
lycée Montaigne những năm 1976-1979, Sartre đang thời thượng, hay
thượng thời,
à la mode. Có cả một đống, những đấng sinh viên, với cặp kính to tổ bố,
trịnh
trọng phán, tao bắt buộc phải đọc Sartre! Và thế là tôi đọc Buồn Nôn, và nhân vật Roquentin
chẳng biết mình muốn gì, thì giống tôi và tất cả
những học
sinh trung học, và hắn thì... cũng được! Hắn [cùng với
Meursault] là tổ tiên của đám phản-nhân vật của Bukowski, Djian, hay
Houellebecq… Ngược lại, kịch của Sartre thật nản. Tôi nhớ có 1 đám chơi
kịch Những kẻ bị cầm tù ở Altona, theo cái kiểu
thật thê lương khiến bạn hết làm sao mà mê nổi thứ bi kịch, l’art
dramatique. Đám người này lúc nào cũng tỏ ra trịnh trọng, sérieux, đầy
tham vọng,
kiêu căng, phách lối, tự phụ… prétentieux. Và, thành thực mà nói, tôi
không
nghĩ có ma nào hiểu được, nhưng tất cả đều làm ra vẻ!
Mới đây
thôi, tôi khám phá ra Những chữ, Les Mots,
và cái nhìn của tôi về Sartre thay đổi triệt để, bởi vì đây là 1 cuốn
sách rất
nhộn, très drôle, một bản văn tự thuật lớn. Đọc nó, tôi rũ bỏ được hình
ảnh 1
tay trí thức đếch chịu nổi, và hũ nút, [intolerant et hermétique].
Tôi có hứng
đọc Les Mots, là nhờ Francoise Sagan. Tôi đọc trong 1 cuộc phỏng vấn,
em thỏ thẻ
là em mê cuốn Những cây sồi dại
của Faulkner, cùng với Les Mots của Sartre. Thế là tôi
chôm nó, từ tủ sách của ông anh. Chỉ ít lâu trước khi tôi viết Un Roman
Francais. Tôi nghĩ là cái văn phong thật đậm đặc, dense, của
Sartre, đã ảnh hưởng một
vài chương cuốn của tôi…. Tôi thật mê khi Sartre thố lộ cái chết của
ông bố
đã đem cơ may cho ông. Sartre thì thật là sáng suốt, đến phát sợ, và
đôi
khi, thật độc ác, cruel. Ông nói về những nỗi đau khi còn là đứa bé, về
vẻ thô
kệch, laideur, của ông, về lé và về lùn, ông nói một cách thật can đảm,
và tếu
tếu… Ở trong ông, có 1 cái gì có thể gọi là sự mẫn cảm rất ư là thê
lương, tuyệt
vọng, une acuité desespérée, mà tôi gọi là trực giác, hay mặc khải, hay
hứng khởi
thường ngày, une inspiration quotidienne. Và, ngạc nhiên làm sao: mặc
dù tất cả
những cố gắng của ông, để tỏ ra lạnh lùng, chính là trong Les Mots mà người ta
khám phá ra ông có 1 trái tim.
*
Sartre
rất khổ về cái
sự vừa lé lại vừa lùn, và cái dáng cù lần của mình, y chang GNV những
ngày còn
trẻ!
Khi ông cụ của Gấu bị chúng làm thịt, Gấu cứ tâm niệm, lớn lên sẽ làm
nghề
dạy học, tiếp tục sự nghiệp của bố, nhưng do lé và lùn, đành chịu thua.
Sartre, sở dĩ thù Camus, là cũng do ghen tị mà ra, như chính ông thú
nhận: Thằng
chả có tất cả, hắn ngược hẳn tôi, hắn ta đẹp trai, lịch lãm, élegant,
và còn là
1 thằng duy lý, un rationaliste.
“Ông ta ý thức đến tàn khốc về cái sự cù lần của
mình, và điều này ảnh hưởng cùng cực đến cách ứng xử của ông ta”, “Il
était
atrocement conscient de sa laideur, ce qui largement affecté son
comportement”
[Hazel Rowley, tác giả cuốn Tête
à tête. Beauvoir
et Sartre, un pacte d’amour]
GNV bị cú
cảm
mùa đông Canada, nặng quá, dù đã chích 1 cú phòng ngừa, kể từ hồi qua
đây mới bị,
tưởng là đi luôn, vậy mà chưa đi, thế là bèn mò xuống phố, bèn quơ vội
mấy thứ,
rồi chuồn!
Hai cuốn thơ, second-hand, số báo ML đặc biệt về Ông Thánh Genet của
Sartre!
1. Nguyễn Sáng
Thưa chị,
đọc trong trang nhà dutle.com, tôi rất vui mừng khi biết chị đã nhận
lời trả lời
những câu hỏi của mọi người qua mục “Trò chuyện trên mạng.”
Câu hỏi của
tôi từ bao lâu nay giờ mới có cơ hội để gửi tới chị. Câu hỏi đó là theo
tôi nhớ
thì truyện ngắn đầu tiên ký tên Trần thị Ngh có nhan đề là “Nhà có cửa
khóa
trái”. Trong khi bạn tôi nhất định bảo không phải mà truyện ngắn đầu
tiên của
chị phổ biến trên báo là truyện “Một ngày để tùy nghi”. Vậy thưa chị,
tôi đúng
hay bạn tôi đúng?
Tôi xin
được cám ơn chị trước.
Nhà Văn Trần Thị NgH. trả
lời:
Đúng ra truyện
ngắn đầu tiên là "Chủ Nhật", đăng ở Vấn Đề do Vũ Khắc Khoan và Mai Thảo
chủ biên. "Nhà Có Cửa Khóa Trái" là truyện thứ nhì, đăng ở Văn do
Nguyễn Đình Vượng và Trần Phong Giao phụ trách. "Một Ngày Để Tùy
Nghi" không phải của Trần Thị NgH. Hai bạn huề một đều.
DTL.com
Note: Đây là
nỗi bất hạnh vì được nổi danh của TTNgH, như GNV đã có lần lèm bèm. (1)
Bởi vì VP
không hề biết đến truyện ngắn đầu tay Chủ
Nhật, và do quá mê cái chất bạo, ngổ ngáo…. của "Nhà có cửa khóa
trái", khen um lên, thế là làm hư 1 mầm
non văn chương!
Milan
Kundera đã từng chửi cả 1 trường phái Kafkalogie, là cũng theo nghĩa
này.
Trường
phái Kafkalogie do bạn của K, là Max
Brod xây dựng lên, và với ông bạn Max Brod này, thì Kafka là 1 vì
thánh, mà thánh
thì cần gì đến chim, thế là ông ta xẻo phăng luôn chim của Kafka.
Còn VP, thì
ngược lại, ông phong thánh cho một bướm, khiến bướm, khi muốn viết văn,
là phải
thật hung!
Ngay từ khi
TTNgh xuất hiện, và nổi lên như cồn, vì cái truyện "nhà có cửa [không]
khóa trái",
là GNV đã kêu thầm, hỏng rồi, chỉ mong có người nào ra tay nghĩa hiệp,
phán ngược
lại VP, nhưng than ôi, không có ai dám làm chuyện này!
Đọc cái đoạn
VP tả văn chương Miền Nam nữ lấn nam, trước nghe giọng văn ồm ồm, sau
éo eó, mới đại
nhảm.
Nhưng phải là Brodsky, cắt
nghĩa cái hiện tượng về sự ra đời của những nữ lưu
lừng danh, thiên tài thi ca, với Nga là Anna Akhmatova, hay nữ sư phụ
của ông, là Marina
Tsvetaeva, thí dụ, thì mới sướng mê tơi.
Volkov. For
a hundred years or so, from Karolina Pavlova to Mirra Lokhvitskaya,
women made
up only a marginal part of Russian poetry. Then suddenly, all at once,
we find
two such talents as Tsvetaeva and Akhmatova standing alongside the
giants of
world poetry.
Brodsky.
This may not have anything to do with time. Then, again, maybe it has. The
point is that women are more sensitive to ethical transgressions, to
psychological and intellectual immorality. And universal
amorality is precisely
what the twentieth century has offered us in abundance. There's
something else
I want to say, too. Man's biological role is as time-server, right? A
simple,
mundane example. A husband comes home from work and brings his boss
with him.
They have supper, and then the boss leaves. The wife says to her
husband,
"How could you bring that scoundrel into my home?" Although the home
in fact is maintained with the money this very same scoundrel gives her
husband. "Into my home!" The woman is taking an ethical stance,
because she can allow herself that. Men have another purpose so they
shut their
eyes to a great deal. In fact, though, the result of existence ought to
be an
ethical stance, an ethical assessment, and women are in much better
shape as
far as that goes.
Solomon Volkov: Conversations with Joseph
Brodsky
Cái sự kiện
nữ lấn nam, không phải vì nam đi lính chết mẹ nó hết, như VP phán, mà
là vì nữ
ngửi sớm hơn nam cái mùi băng hoại, không chỉ trong cuộc chiến mà còn
mãi sau sau
đó.
Giá mà hồi
đó, có người chỉ ra, có người báo động, thì ít ra, 1 nhà văn nữ đã được
cứu
thoát!
(1)
Chẳng cần tới
Lạc Đạn, Trần Thị NgH đã nổi tiếng. Trong bài viết ‘Nhìn lại văn chương hải
ngoại năm 1999’, (đã đăng trên tuần báo
VHNT trên internet, do Phạm Chi Lan
chủ trương), người viết có đưa ra nhận xét, đây là một năm được mùa.
Mùa gặt mới
trong đó có cả lúa chín muộn: sự góp mặt của một tác giả như Trần Thị
NgH, một
tác giả trước 1975 tại Miền Nam, vừa xuất hiện đã gây chấn động giới
viết lách ở
Sài Gòn, với truyện ngắn Nhà Có Cửa Khoá Trái. Theo như tôi còn nhớ,
truyện ngắn
đầu tay của bà là về một người đàn ông có vợ, nhân bữa chủ nhật đi thăm
một người
đàn bà không chồng nhưng có con; thằng nhỏ bữa đó bị đau, anh chàng đi
mua thuốc
cho đứa nhỏ. Chuyện chỉ có vậy, nhưng trong Sài Gòn vẫn còn đọng lại ở
trong
tôi, có hình ảnh cô đơn của người đàn ông gầy còm ốm yếu, ngơ ngơ ngác
ngác trước
tiệm thuốc tây, trước cuộc chiến, và trước cuộc tình vụng trộm. Truyện
được viết
bằng một giọng văn bình dị, không có chất ngổ ngáo, "rất NgH" như
"nguời ta" thường nhận định về bà.
Nguồn
Makine: Eden en Enfer
Thiên Đàng ở Địa
Ngục
La Chanteuse vs Le Pianiste
Nữ ca sĩ ghetto vs
Nghệ sĩ dương cầm
N. O. - Szpilman, selon vous, n'a pas été un
héros?
A. Tuszynska. - Non, il n'a pas été un héros pur. Les héros n'existent
pas.
La vie n'est pas noire ou blanche. C'est plutôt gris.N. O. -
Theo
bà, S. đếch phải là anh hùng?
Không, ông ta không phải thứ
anh hùng vàng ròng. Làm đếch gì có anh hùng. Nếu
có thì là thứ anh hùng Lê Văn Tám.
Cứ hỏi ông Nguyên Ngọc thì biết, có bao giờ ông
ta dám nhắc tới anh hùng Núp nữa đâu! Hà, hà! Ông ta sợ anh hùng quá
rồi!
Caught in the net
Why dictators are going
digital
Politics and the internet
Jan 6th 2011 | from PRINT
EDITION
The Net
Delusion: The Dark
Side of Internet Freedom.
By Evgeny Morozov.
PublicAffairs; 408 pages; $27.95
Published in Britain
by Allen Lane
as “The Net Delusion: How Not
to Liberate the World”; £14.99
WHEN thousands of young
Iranians took to the streets in June 2009 to protest against the
apparent
rigging of the presidential election, much of the coverage in the
Western media
focused on the protesters’ use of Twitter, a microblogging service.
“This would
not happen without Twitter,” declared the Wall Street Journal. Andrew
Sullivan,
a prominent American-based blogger, also proclaimed Twitter to be “the
critical
tool for organising the resistance in Iran”. The New York Times
said the
demonstrations pitted “thugs firing bullets” against “protesters firing
tweets”.
The idea that the internet
was fomenting revolution and promoting democracy in Iran
was just the latest example of
the widely held belief that communications technology, and the internet
in
particular, is inherently pro-democratic. In this gleefully
iconoclastic book,
Evgeny Morozov takes a stand against this “cyber-utopian” view, arguing
that
the internet can be just as effective at sustaining authoritarian
regimes. By
assuming that the internet is always pro-democratic, he says, Western
policymakers are operating with a “voluntary intellectual handicap”
that makes
it harder rather than easier to promote democracy.
He starts with the events in Iran, which
illustrate his argument in microcosm. An investigation by Al-Jazeera,
an
international news network based in Qatar,
could confirm only 60 active Twitter accounts in Tehran. Iranian bloggers who took
part in the
protests have since poured cold water on the “Twitter revolution”
theory. But
the American government’s endorsement of the theory, together with the
State
Department’s request that Twitter delay some planned maintenance that
would have
taken the service offline for a few crucial hours at the height of the
unrest,
prompted the Iranian authorities to crack down on social networks of
all kinds.
Iranians entering the country were, for example, looked up on Facebook
to see
if they had links to any known dissidents, thus achieving the very
opposite of
what American policymakers wanted.
The root of the problem, Mr
Morozov argues, is that Western policymakers see an all-too-neat
parallel with
the role that radio propaganda and photocopiers may have played in
undermining
the Soviet Union. A native of Belarus,
Mr
Morozov (who has occasionally written for The Economist) says this
oversimplification of history has led to the erroneous conclusion that
promoting internet access and “internet freedom” will have a similar
effect on
authoritarian regimes today.
In fact, authoritarian
regimes can use the internet, as well as greater access to other kinds
of
media, such as television, to their advantage. Allowing East Germans to
watch
American soap operas on West German television, for example, seems to
have
acted as a form of pacification that actually reduced people’s interest
in
politics. Surveys found that East Germans with access to Western
television
were less likely to express dissatisfaction with the regime. As one
East German
dissident lamented, “the whole people could leave the country and move
to the
West as a man at 8pm, via television.”
Mr Morozov catalogues many
similar examples of the internet being used with similarly pacifying
consequences today, as authoritarian regimes make an implicit deal with
their
populations: help yourselves to pirated films, silly video clips and
online
pornography, but stay away from politics. “The internet”, Mr Morozov
argues,
“has provided so many cheap and easily available entertainment fixes to
those
living under authoritarianism that it has become considerably harder to
get
people to care about politics at all.”
Social networks offer a
cheaper and easier way to identify dissidents than other, more
traditional
forms of surveillance. Despite talk of a “dictator’s dilemma”,
censorship
technology is sophisticated enough to block politically sensitive
material
without impeding economic activity, as China’s example shows. The
internet
can be used to spread propaganda very effectively, which is why Hugo
Chávez is
on Twitter. The web can also be effective in supporting the government
line, or
at least casting doubt on critics’ position (China
has an army of pro-government
bloggers). Indeed, under regimes where nobody believes the official
media,
pro-government propaganda spread via the internet is actually perceived
by many
to be more credible by comparison.
Authoritarian governments are
assumed to be clueless about the internet, but they often understand
its
political uses far better than their Western counterparts do, Mr
Morozov
suggests. His profiles in “The Net Delusion” of the Russian
government’s young
internet advisers are particularly illuminating. Previous technologies,
including the telegraph, aircraft, radio and television, were also
expected to
bolster democracy, he observes, but they failed to live up to
expectations. The
proliferation of channels means that Americans watch less TV news than
they did
in the pre-cable era. And by endorsing Twitter, Facebook and Google as
pro-democratic instruments, the American government has compromised
their
neutrality and encouraged authoritarian regimes to regard them as
agents of its
foreign policy.
So what does Mr Morozov
propose instead of the current approach? He calls for “cyber-realism”
to
replace “cyber-utopianism”, making it clear that he believes that
technology
can indeed be used to promote democracy, provided it is done in the
right way.
But he presents little in the way of specific prescriptions, other than
to
stress the importance of considering the social and political context
in which
technology is deployed, rather than focusing on the characteristics of
the technology
itself, as internet gurus tend to. Every authoritarian regime is
different, he
argues, so it is implausible that the same approach will work in each
case;
detailed local knowledge is vital. Yet having done such a good job of
knocking
down his opponents’ arguments, it is a pity he does not have more
concrete
proposals to offer in their place.
With chapter titles and
headings such as “Why the KGB wants you to join Facebook” and “Why
Kierkegaard
Hates Slacktivism” it is clear that Mr Morozov is enjoying himself
(indeed,
there may be a few more bad jokes than is strictly necessary). But the
resulting book is not just unfailingly readable: it is also a
provocative,
enlightening and welcome riposte to the cyber-utopian worldview.
Note:
Nửa mặt bên kia của Cô Hằng Net! TV sẽ đi 1 đường chuyển dịch, sau!
Khi đám trẻ Iran
xuống đường
phản đối bầu cử do nhà nước đạo diễn vào tháng Sáu 2009, truyền thông
Tây Phương
[thuổng ý kiến của Thầy Cuốc], coi đây là cuộc khởi nghĩa của đám đông,
nhờ
internet mà có được, nhất là nhờ Twitter. “Không có Twitter là không có
cách mạng,
không có xuống đường gì hết!”
Evgeny Morozov, tác
giả cuốn “Ảo tưởng Net: Phía đen thui của Tự Do Internet”, coi đây là
1 cái nhìn không tưởng nảy sinh từ không gian aỏ cyber, và theo ông,
internet cũng
được sử dụng thật hữu hiệu để duy trì những chế độ độc tài.
9.1.2011
Marx
« Opium du peuple»
“La religion est l'opium du peuple.”
Qui ne connaît cette phrase de Marx, extraite d'une étude sur Hegel
publiée en
1844 ? Un anti-cléricalisme borné a voulu en faire l’expression de
l'abrutissement
engendré par la foi. Remise en contexte, elle est plus subtile. “La
religion
est le soupir de la créature opprimée, l'âme d'un monde sans cœur",
écrit-il en effet. Non seulement elle apaise, mais elle rend tolérable
un monde
dépourvu d'esprit. “L'abolition de la religion en tant que bonheur
illusoire,
c'est l'exigence de son bonheur réel”, répond par avance Marx aux
futurs
éradicateurs léninistes d'Eglises orthodoxes.
Tôn giáo là thuốc phiện của
quần
chúng?
Câu của Marx, ở trong context của nó, là như vầy:
“Tôn giáo là tiếng thở dài của sinh vật bị chà đạp, đàn áp, là tâm hồn
của một
thế giới không có trái tim”
“Huỷ bỏ tôn giáo như là thứ hạnh phúc dởm là yêu cầu cấp thiết của hạnh
phúc
thiệt’
Câu mà Marx mê
mà chẳng bảnh
sao: "Chẳng có thứ gì có mùi người mà tôi
chưa từng hửi!" [Nguyên văn: Không có gì dính dấp đến con người mà xa
lạ
đối với tôi].
Hai nhân vật lịch sử Marx mê cũng quá bảnh. Kepler là người tìm ra quỹ
đạo bầu
dục của các hành tinh, nhân vật ‘thần kỳ’ trong “Những kẻ mộng du” của
Koestler. Spartacus thì khỏi nói, ai cũng biết. Nhưng chưa ai nhìn ra,
đây là
anh Mít đầu tiên của lịch sử nhân loại, đã đi theo hướng ngón tay trỏ
của Đức
Thánh Trần, mở con đường máu về phía biển cả. Chàng trả tiền cho lũ
cướp biển
Sicile, nhưng bị chúng lừa!
Đâu có khác chi dân Mít bị lừa đến nỗi phải chạy ra biển!
Ý nghĩ của ông về hạnh phúc? Chiến đấu, giành cho bằng được.
Còn về bất hạnh? Chịu thua nó cho rồi!
Ui chao đúng y chang Gấu, khi BHD nói “không” là bèn lủi thủi ra về,
khóc như
chưa bao giờ biết khóc!
Tính xấu ông tha thứ? Cả tin.
Ui chao đúng là cái tính tốt của dân Mít. Yankee mũi tẹt nói đánh cho
Mẽo cút
Ngụy nhào giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, nhưng sự thực, là
ăn cướp
Miền Nam, thế mà mọi nhà mọi người đều tin theo, đưa đến đại họa như
bây giờ,
khổ thế!
Cái đại hoạ bây giờ của dân Mít, Marx cũng đã tiên tri ra được, như
trong câu
tiếp theo:
Cái tính xấu mà ông ghét thậm tệ? Làm đầy tớ cho Đảng!
Ghi chú
trong ngày
6.1.2011
Why do people love Stieg Larsson’s novels?
by Joan Acocella
Tại sao nhân dân thích
tiểu thuyết của Stieg Larsson?
In
part
because Larsson was not alive when the books were published
Một phần là
do ông ta đã ngỏm, khi chúng được xuất bản
“Shoah” and a new view of
history.
by David Denby
As Snyder demonstrates, the Nazis and the
Soviets may have been trying to
destroy each other in the ferocious combat of 1941 to 1945, but, if one
looks
at the entire thirteen-year period that he describes, the two
totalitarian
powers occasionally acted in a kind of weird concert, in which each
side
emboldened or even enabled the other. For instance, when the Soviets
murdered
twenty-two thousand Polish reserve officers in the Katyn forest, in
1940, they
were mirroring the German slaughter of the Polish professional classes
in
German-occupied western Poland.
And when the Polish Home Army revolted against the Germans in occupied Warsaw, in 1944,
the
Soviets, who had encouraged the uprising, fought and defeated the
Germans
outside the city but then waited for months as the Nazis crushed the
Poles
inside it. When the Soviets finally entered Warsaw, they not only routed the
Germans but,
with the help of Polish Communists, suppressed the surviving
anti-Nazis,
thereby finishing the job of subduing the spirit of Polish
independence.
Without diminishing in any way the Jewish Holocaust, Snyder insists
that it
should not be seen as separate from the many other mass slaughters of
civilians—the millions of Poles, Belarusians, Balts, and Ukrainians
killed for
political or ideological reasons, or merely because they were an
encumbrance
that needed to be cleared away to make space for German or Soviet
occupancy.
Như Snyder chứng minh, Nazi và Xô Viết thề không đội
trời chung, và cố thanh toán lẫn nhau trong cuộc chiến tàn khốc
1941-1945, nhưng quái quỉ làm sao, rất nhiều lần, chúng chơi bản đồng
ca, nối vòng tay lớn!
Ui chao GNV lại ngó về nước Mít, và lại nhớ
đến những cú liên minh ma
quỉ giữa Mẽo và VC.
VC nói với Mẽo, để tao nhử mày vô Miền Nam, rồi mày
với tao quần thảo chơi, cũng 1 cách không cho anh Tẫu nhẩy vô DNA!
Rồi trong cú Mậu Thân, Mẽo án binh bất động, cho VC tha hồ làm thịt
VNCH.
Còn bi giờ, VC cần Mẽo đến mức nào, thì ai cũng hiểu!
5.1/2011
Gáy người
thì lạnh
Bạn định vị trên điện thoại
rằng nhà bạn gần một trung tâm dưỡng lão, cứ tới đó đi, bạn sẽ đứng
chờ. Xe ôm
thả tôi xuống chỗ buồn hiu đó cả buổi, tôi lựng khựng tìm hoài mà không
thấy
ông già lòng khòng xương xẩu đâu. Và khi tha thẩn ở cuối đường tôi bỗng
nhớ
mình đã qua đây, đã đi về phía con hẻm vuông góc với chỗ tôi đang đứng,
chui
vào căn nhà tuềnh toàng của bạn, mười năm trước. Tôi hôm ấy run rẩy như
con mèo
ốm o bị ướt, khi tới nhà ông Đồng
gió, Nhớ khói mà tôi đã ngưỡng mộ lâu rồi. Để
lần đầu tiên biết nhà văn cũng có hai mắt một mũi như mọi người, cũng
hài hước,
cũng lơ tơ mơ, cũng nghèo…
Cái hồi ức mười năm làm tôi
hơi hoảng, mười năm qua tôi đã đi tới đâu, tận những chân trời nào, sao
không
thăm lại ? Tôi loay hoay với câu hỏi đó khi ngồi chơi với vợ bạn, để
đợi bạn
đang vẫn còn ngóng đón tôi đâu đó ngoài đầu hẻm. Đến sắp gặp nhau rồi
mà lẻ vẫn
đuổi theo vẫn so le, trục trặc. Nối lại loay hoay như thể đã bị đứt lìa
lâu
quá…
Trong nhóm bạn già mà tôi hay
lân la, bạn trẻ nhất. Mỗi lần gọi điện cho bạn, và nghe bên kia hịch
hạc bảo,
“ê nói nghe nè…”, như hai đứa trẻ con thầm thì, như bạn không cách tôi
hai mươi
lăm tuổi đời và hai trăm cây số.
“Ê nói nghe nè, mầy
viết ác
vừa vừa thôi, tao không chịu…”
“Ê nói nghe nè, có cái truyện
trên Văn nghệ được lắm, sao không đọc ? ”
Tôi không mảy may nghi ngờ
việc bạn sẽ còn rầy rà tôi đến vài ba chục năm nữa, dù nhiều lần bạn
nói bâng
quơ ê nói nghe nè dạo này sao tao
nghĩ nhiều về cái chết, làm như đã đi gần tới
nó nên ngửi được mùi thấy mờ mờ dung nhan nó rồi. Tôi nghe có
chút dửng dưng,
chuyện đó thường thôi, thậm chí đôi khi tôi còn rờ đụng nó mà. Bỗng có
bữa đầu
dây bên kia bỗng rã rời, “ê nói nghe
nè, tự dưng tao thấy đời buồn hiu, mậy…”.
Tôi ngớ ra trong giây lát,
bởi chưa từng nghĩ bạn cũng buồn. Hồi biết bạn tới giờ lúc nào cũng gặp
nhau
giữa bạn bầy đông đúc, trong tôi mặc định bạn là con người của hội hè,
tạo ra
hội hè. Cứ cất tiếng “ê nói nghe nè,
làm vài ly đi…” thì ai nấy hồ hởi đáp lời
ngay. Cái chất hào sảng, chịu chơi của dân miền Tây mà phải chịu nỗi
một mình
thì vô lý.
Nhưng giờ quanh bạn thưa đi
những tiếng vọng. Những cuộc rượu nếu có chảy về phía ông, cũng bằng
một hình
thức khác. Nhiều khi nhậu nhẹt bọn tôi đã lấy bạn ra làm mồi cho đỡ lạt
miệng.
Bọn tôi nhắc chuyện bạn thấy đồng nghiệp bị vợ bạc đãi nên bất bình
nhảy ra
bênh, ngoay đầu đánh chị kia cho chừa ai ngờ ông chồng nổ xung thiên cự
lại
“sao mầy đánh vợ tao ?”. Hay chuyện hết tú tài bạn định đi vào cứ theo
cách
mạng, ngồi chờ tàu đò lâu quá tự dưng thấy… nản, bạn quay về bị chính
quyền Sài
Gòn bắt lính, ngót bốn năm làm anh binh sĩ ngồi bàn giấy, một bữa pháo
lạc bầy
tiễn về nhà với gương mặt có vết sẹo dài. Hay chuyện bạn giấu tiền dưới
mấy cục
gạch tàu lót nền, định xài riêng mà quên biệt, chừng xây lại nhà người
ta thấy
tiền rải đầy dưới đó. Hay chuyện bạn buồn ngủ quá mà tiếc cảnh vật
đường xa nên
bôi dầu gió vào mắt cho chúng đừng ríu lại. Hoặc chuyện bạn bỏ quên cái
mắt
kính trong phòng vệ sinh nữ, hồi đại hội.
Những câu chuyện ngộ nghĩnh
ba hư bảy thực về bạn làm bữa rượu bỗng ngon hơn với những tràng cười
nghiêng
ngã, cười đến chảy nước mắt ra… Ôi ôi ông ơi bọn tôi vui quá. Sau phút
giây ràn
rụa ấy, bỗng ràn rụa trong tôi cái ý nghĩ ở trong một cái nhà nhỏ bừa
bộn chật
chội nằm trên hẻm nhỏ giữa lòng thành phố Long Xuyên, biết đâu chủ nhân
của
những huyền thoại đang uống rượu một mình.
Tôi vẫn hay thấy tuổi già của
mình khi soi vào bạn. Bỗng trái tính trái nết, bỗng bạn bè đâu hết,
thấy lẻ cả
ở trong nhà mình. Đau đáu nỗi đời không biết nói với ai nên sà vào cuộc
vui nào
cũng tuôn cho đã cơn thèm, nào văn chương nào tôn giáo, nào cái ác
nhiễu
nhương… Xưa góp vui người ta gọi mời, giờ góp ưu phiền người ta ngại rủ
lại
chơi, thành ra bị bỏ rơi, thành ra bọn tôi cứ luẩn quẩn đi theo cái
vòng cô đơn
vô tận.
Hết duyên rồi. Như chữ bạn
vẫn thường dùng khi nói về cô bạn thân hồi trước. Phụ bạc luôn len lỏi
trong
máu của mỗi người. Và những cuộc bỏ rơi nhau vẫn đang xảy ra ở đâu đó.
Từ ngày biết bạn cũng hay
buồn, chập chờn mãi trong tôi hình ảnh một ông già mở ti vi cho nó oang
oang và
ngồi uống rượu một mình. Tới nhà chơi bỗng thấy may là bạn còn có sách
ở bên,
quơ tay đâu cũng đụng, mắt ngó đâu cũng thấy, chân đi đâu cũng vấp. Bạn
vẫn
ham, vẫn như đói ngấu mỗi khi gặp bất cứ cuốn sách nào. Tôi không còn
thấy xa
xót bồn chồn. Mang theo cuốn tản văn của Sandor Marai đọc lúc dọc
đường, tôi để
lại cho bạn. Cuốn sách này sẽ ở mãi đây, ngay cả khi tôi đã quay lưng
đi khỏi.
Một cuốn sách thì cả khi chìa
gáy ra, người ta cũng nhận được một cái gì đó ấm áp, trao gửi
Blog
Sầu Riêng
Mặt trời không bao giờ có
thực và ký ức Sài Gòn
Vào cái
thời Sài Gòn mê PCT,
thì may thay Gấu đã đi làm, đã viết lách tí ti, đã có một, hai truyện
ngắn thật hách
xì xằng, đã hay ngồi Quán Chùa, và khiến PCT phát bực, và đã có lần
phạng Gấu và
đồng bọn, cái đám, tay cầm hoặc nách cặp, 1 cuốn sách loại Sách Bỏ Túi,
Livre de
Poche, hay 1 tờ Tin Nhanh, L’Express, lắc la lắc lư đi từ tiệm sách
Xuân Thu trên đường Tự Do, qua La Pagode, ngay kế bên.
Nhưng
liền ngay sau, ông viết,
tớ chửi tụi nó, cũng là chửi tớ.
Tất
nhiên, những dòng trên, là
của Gấu, để diễn tả 1 hồi ức về ông và những ngày ở Sài Gòn.
Thú vị nhất, theo Gấu, là có
lần Gấu đọc ông, chê Simone Weil, ngắn thôi, và Gấu bèn vờ bà này, cho
đến khi
ra được hải ngoại, đọc 1 bài viết của Steiner, và sau đó, trúng cái rìu
phá băng
của bà bổ trúng đầu, đúng những ngày Trần Trường, và hơn thế nữa, được
biết tới
1 độc giả, cũng rất rành về Simone Weil.
Giả như những ngày đó, không đọc
những dòng mà PCT viết về SM thì sao, nhỉ?
TV sẽ giới thiệu bài viết trên
NYRB về Henry Miller. Cũng là 1 cách tưởng nhớ 1 thời, trong đó có
PCT, mà
GNV này chẳng nợ nần gì!
Hà, hà !
Ngày sinh của Rắn
Trường
giang Mỹ Tho
Cuốn số
1 trong 20 cuốn số 1 của
năm 2010, theo tờ Lire, Dec
2010-Janvier 2011, viết
về Tướng Về Hưu, Nazi
Dès que l'on quitte Sapa pour
gagner la passe
de la Porte des nuages,
on
découvre les rizières en terrasses qui grignotent le flanc de la
montagne.
Ngay sau khi rời Sapa qua lối Cổng
Mây, là
những dải ruộng nằm trên sườn
đồi
Projections
vietnamiennes
Phóng chiếu Việt Nam
Địa linh, L'Esprit Des
Lieux:
Những cuốn tiểu thuyết tuyệt vời nhất viết về xứ Mít, thì đều lấy Sài
Gòn
làm... trung tâm
NYRB số
mới nhất,23 Dec, 2010, đọc The Colossus of Maroussi
của Henry Milerr: Điên lên vì Hy Lạp
Với Miller, Hy Lạp là nhà của những vị thần, và thần, thì tầm vóc cũng
chẳng
khác gì con người
– nghĩa là, chính xừ luỷ - có thể, nhỉnh hơn tí ti !
It says
much about Miller,
though, that the Colossus of his title turns out, unexpectedly, to
refer to no ancient
ruin or god-filled temple but, in fact, to a larger-than-life
monologist and
overweening storyteller, George Katsimbalis. "He was a vital, powerful
man," Miller writes, just after meeting the Greek writer, "capable of
brutal gestures and rough words, yet somehow conveying a sense of
warmth which
was soft and feminine." He goes on:
He was
extremely sympathetic
and at the same time ruthless as a boor. He seemed to be talking about
himself
all the time, but never egotistically. He talked about himself because
he
himself was the most interesting person he knew.
And
then the flash of
disarming self-knowledge that comes so close to self irony it can save
the day:
"I liked that quality very much-I have a little of it myself."
Colossus, ở trong cái tít, là
tên của 1 ngôi đền đầy thần, một cõi điêu tàn như Tháp Chàm của xứ Mít,
chắc
thế, nhưng hoá ra lại là tên 1 đấng bạn quí của... GNV!
Bạn quí của tớ thì nói hoài về
hắn, nhưng hắn không bao giờ là 1 tên vị kỷ.
Hắn nói hoài về hắn, bởi vì
có thằng nào bảnh hơn chính hắn!
Nếu không thế, làm sao là bạn quí của GNV!