|
Ghi
chú
trong ngày
The
collapse of the Soviet Union
Russia’s imperial agony
The cost of the Soviet collapse has been huge and ongoing
“THE dying process has begun”,
wrote Alexander Kugel, a journalist
and theatre critic, a few months after the bloody Bolshevik revolution
of 1917.
“Everything that we see now is just part of the agony. Bolshevism is
the death
of Russia. And a body the size of Russia cannot die in one hour. It
groans.”
The agony lasted over 70 years. On December 25th 1991 Mikhail
Gorbachev, on
television, relinquished his duties as the last president of the USSR.
The
hammer and sickle flag was lowered from the Kremlin without fanfare.
The empire
expired with a sigh.
Liên Xô dẫy chết.
Bài điểm này tuyệt quá. Chỉ vài tháng sau khi Cách Mạng Bôn Xê Vích bắt
đầu, mà
đã ngửi ra cái chết, 70 năm sau đó.
Ghi chú trong
ngày
Khi
khảo về hiện tượng
từ vay mượn, học giả Đào Duy Anh đã chỉ ra đặc điểm ưa nói trại của
người Việt
Nam, từ đó mà các từ lúc sang đến nước ta thường xuyên có những biến
đổi khá đặc
biệt, chẳng hạn như từ cahier [quyển vở] thường được học sinh thời của
ông đọc
chệch đi một chút thành caidê.
yên sĩ phi lý thuần
(từ inspiration)
Blog
NL
yên
sĩ phi lý thuần
(từ inspiration): Phiên
âm này của Tầu, không phải của Mít.
Giống
như công môn tả lão phù [Comment allez-vous?].
Trong cuốn Trước Đèn của Lãng
Nhân, hình như có nhắc đến mấy từ này
Mít
có từ của Mít: Inspiration dịch qua tiếng
Mít là:
“Phiện
thú lắm”!
Mấy
từ tiếng Tây đọc trại, thường là do cách đọc
của người Miền Nam, gần Tây hơn [tự trị], so với Bắc Kỳ, đọc sao cho
Tây hiểu.
Bởi
thế mới có những từ như trái ô-buy, trái phá, cặp rằng, từ caporal,
phạm nhe, từ
infirmier...
Thi sĩ TTT hồi
nhỏ sống ở trong Nam, Sài Gòn. Chắc là ông biết nhiều tiếng Miền Nam,
từ tiếng
Tây qua, như trong 1 bài thơ viết về Hà Nội, ông dùng “ô buy”, đâu có
phải mưa ô
buy…”, và đám bạn bè của em ông, có đứa lầm với mưa thu của Hà Nội, như
GCC đã
có lần viết về cái kỷ niệm tuyệt vời của 1 thời tuyệt vời.
Vào năm
1954, khi mới vô Sài Gòn, Gấu còn được nghe 1 số tiếng Miền Nam từ
tiếng Tây qua, và
nhớ hoài cái cảnh, ông bố chủ nhà bảo thằng con trai, sĩ quan Bình
Xuyên, lột cái "galon",
lon sĩ quan, ném bỏ, làm dân thường, những ngày Diệm tiêu diệt Bình
Xuyên, và đến
30 Tháng Tư lại nhìn thấy cảnh này....
Ðâu phải mưa
ô buy vào thành phố"...
1954, vào
Nam, thi sĩ Thanh Tâm Tuyền có lẽ là một trong những người đầu tiên có
những
dòng thơ văn về Hà Nội, bên cạnh những dòng nhạc của một "Mưa Sài Gòn,
Mưa
Hà Nội", hay "Hướng Về Hà Nội". Câu thơ trên, tôi chỉ nhớ loáng
thoáng, trong tập "Tôi không còn cô độc", đã một thời làm ngơ ngẩn cả
đám bạn bè hồi cùng học trung học. Ngớ ngẩn, đúng hơn.
Số là Phạm
Năng Cẩn rất mê câu thơ đó. Anh cứ ngâm đi ngâm lại khiến Nguyễn Quốc
Sủng đâm
ra thắc mắc, hỏi, mưa ô buy là mưa gì? Tôi nhớ là, bạn Cẩn ngớ ra,
và... cương
đại: mưa ô buy là một thứ mưa bụi (buy biến thành bụi), hạt lấm tấm như
nhũ kim
cương trên những chiếc áo Mùa Thu, Hà Nội!
Sủng coi bộ
không hài lòng với một lời giải thích rất thơ như vậy. Một bữa, trong
lúc cả
đám vây quanh nhà thơ, anh hỏi. Thi sĩ trả lời: ô buy là một từ tiếng
Pháp,
obus. Mưa ô buy là mưa đại bác, mưa trái phá!
Sau này tôi
được biết, người miền nam gọi trái phá là trái ô buy. Họ gọi phạm nhe
là người
y tá, và hồi mới vào Sài Gòn, tôi đã từng khổ sở vì không hiểu nghĩa
của nó,
sau cùng truy ra, là do từ tiếng Pháp, infirmier.
Nước Pháp,
“hóa thân” vào miền nam, qua từ obus; rồi miền nam “hóa thân” vào từ ô
buy, và
được một nhà thơ miền bắc âu yếm sử dụng cho... Hà Nội, ôi chao số phận
của
“trái đại bác” Tây, nhờ một miền đất, rồi nhờ một nhà thơ, biến thành
cơn mưa bụi
ở một miền đất khác, trong cùng một quê nhà, sao mà may mắn hơn cái từ
chiên hẩm
hiu thế!
Bởi vì không
phải ngẫu nhiên mà nhà thơ sử dụng từ “mưa ô-buy”: ông vẫn bị những cơn
mưa từ
cái thành phố mà ông từ bỏ ám ảnh, cũng như không phải ngẫu nhiên mà
ông bạn
ngày xưa của tôi tán ẩu, ông cũng bị ám ảnh....
Nhân chữ chuẩn
hóa lâu đời tôi lại nhớ đến Lévi-Strauss; ông cho rằng từ ngữ vốn không
phải là
của chung, mà là của riêng, giống như ngày xưa, khi đi thi, mà dùng một
chữ của
vua dùng, là phạm húy, có khi mất luôn cái chỗ đội nón; nhưng, như một
vòng
tròn luẩn quẩn, khi những chữ được những nhà quyền quí dùng chán chê,
vứt bỏ,
lúc đó thứ dân lại mang ra xài, và ngược lại.
Chiên được
người dân cả hai miền sử dụng, biết đâu đấy, chính nó đang mang thông
điệp thống
nhất, và người dân miền bắc có vẻ đã đến lúc quá chán cái gọi là chuẩn
hóa lâu
đời rồi cũng nên...
A black cat,
two moons and a host of nocturnal little people populate Haruki
Murakami’s new
novel.
But has he
become more conventional?
Người Kinh Tế
đọc tác phẩm mới nhất của Haruki Murakimi
Liệu ông ta
trở thành quá qui ước?
Tuyệt.
Chỉ cần 1 cú
đánh thôi.
Phê bình là
như thế đấy!
GCC “lâu
lâu” được bạn văn khen, rất kiệm lời!
Ðánh cú nào
ra cú đó.
Với nhà thơ
NS, chỉ cần hai từ "dễ dãi và sung sướng".
Với bạn quí,
thì “đi tìm 1 cái mũ đã mất”
Hoặc “Thật Lạt”,
thay vì “Thất Lạc”!
...
Hà, hà!
Thảo nào NS
gọi là tên sa đích văn nghệ!
[Lại tự thổi!
Why not?]
HARUKI
MURAKAMI filches from George Orwell’s “Nineteen Eighty-Four” for the
title of
his new novel, “1Q84”, making a play on kyu, the Japanese word for
nine, by
transposing the letter “Q” for the number “9”. Significantly, the
action also
takes place over the last nine months of 1984. But it would be a
mistake to
conclude from this that Japan’s magical postmodernist has spent nearly
1,000
pages writing about a dystopian world where couples make love in an ash
glade,
hardly daring to speak because of the all-listening microphones in the
trees.
Mr Murakami’s main influence here is not so much Orwell as Philip
Pullman; his
“1Q84” less a stairway to another world than a heave-ho into a whole
new
universe.
Chàng tưởng
chàng thuổng Orwell, nhưng thực ra, Philip Pullman; cuốn sách của chàng
không hẳn
là 1 cái thang đưa tới 1 thế giới khác [thế giới toàn trị mà Orwell
tiên đoán,
và sau trở thành hiện thực], nhưng một “heave-ho” [dimissal: từ chối]
vào trọn
1 vũ trụ mới
Tuyệt! Quá
tuyệt!
Tờ TLS Nov
18, 2011, đọc tác phẩm mới ra lò của Murakami, cũng chê thấu trời, dưới
cái tít,
Mộng mị Orwell, Orwellian Reveries, Đếch
phải thế giới này, Not of this World,
thứ rẻ tiền, [cheap]. Tờ báo nhắc lại lời Kenzaburo Oe, khi đọc
Murakami: Chỉ
là những lèm bèm về văn hóa ăn nhậu đớp hít của Tokyo [mere reflections
of the
vast consumer culture of Tokyo], và những thứ văn hóa chìm của thế giới
nói rộng
ra [subcultures of the world at large]
New
fiction from Japan
Hey babe, take
a walk on the wild side
A
black cat, two moons and a host of nocturnal little people populate
Haruki
Murakami’s new novel.
But has he become more conventional?
Người Kinh Tế đọc tác phẩm mới nhất của Haruki
Murakimi
Liệu ông ta trở thành quá qui ước?
Tuyệt.
Chỉ cần 1 cú đánh thôi.
Phê bình là như thế đấy!
GCC
“lâu lâu” được bạn văn khen, rất kiệm lời!
Ðánh cú nào ra cú đó.
Với nhà thơ NS, chỉ cần hai từ "dễ dãi và sung sướng".
Với bạn quí, thì “đi tìm 1 cái mũ đã mất”
Hoặc “Thật Lạt”, thay vì “Thất Lạc”!
...
Hà, hà!
Thảo nào NS gọi là tên sa đích văn nghệ!
[Lại
tự thổi!
Why not?]
HARUKI MURAKAMI filches from
George Orwell’s
“Nineteen Eighty-Four” for the title of his new novel, “1Q84”, making a
play on kyu, the Japanese word for nine, by transposing the
letter “Q” for the
number “9”. Significantly, the action also takes place over the last
nine
months of 1984. But it would be a mistake to conclude from this that
Japan’s
magical postmodernist has spent nearly 1,000 pages writing about a
dystopian
world where couples make love in an ash glade, hardly daring to speak
because
of the all-listening microphones in the trees. Mr Murakami’s main
influence
here is not so much Orwell as Philip Pullman; his “1Q84” less a
stairway to
another world than a heave-ho into a whole new universe.
Chàng
tưởng chàng thuổng Orwell, nhưng thực ra, Philip Pullman; cuốn sách của
chàng
không hẳn là 1 cái thang đưa tới 1 thế giới khác [thế giới toàn trị mà
Orwell
tiên đoán, và sau trở thành hiện thực], nhưng một “heave-ho” [dimissal:
từ
chối] vào trọn 1 vũ trụ mới
Tuyệt!
Quá tuyệt!
TLS Nov 11, 2011
Ông Hoàng của Khu Dân Sinh Paris,
Saint-Germain.
Boris
Vian, tác giả L’Écume des Jours, Bọt Ngày, trong đó Jean-Paul
Sartre
biến thành Jean-Sol Sartre, và tác phẩm của ông, Hiện Hữu và Hư Vô, L’Être
et le Néant, thành “La Lettre et le Néon”, một nghiên cứu về đèn nê
ông.
Sartre thú quá.
Nhưng Vian còn là tác giả của chừng 500 bản nhạc, rất nhiều trong đó
trở thành
nhạc sến của văn hóa Tẩy, French pop culture.
Những người dẫn giải nhạc của ông, his interprètes, có Gréco.
Một
bài viết tuyệt vời về 1 thời.
“Tôi chưa bao giờ đi Ý, và tôi phải viết 1 bản nhạc về nó, để biết nó”,
Vian
giải thích một bản nhạc của ông nhằm ứng tác cái vô nghĩa, it’s
improvised
nonsense, nhưng nghe đặc giọng mì ống.
In the late
Sixties, Wiesenthal wrote about an incident that took place when he was
imprisoned in the Janowska concentration camp. Sent with other
prisoners to
Lwów on a labor detail, he was put to work moving heavy equipment in
the
courtyard of the technical university, which had been converted into a
military
hospital for wounded German soldiers. A German nurse insisted that
Wiesenthal
follow her upstairs and left him alone in a room with a shape lying on
the bed
that turned out to be a German soldier wrapped from head to toe in
bandages.
The soldier
asked whether Wiesenthal was a Jew, and when Wiesenthal said yes, the
soldier
went on to tell him that he was a member of the SS and that his unit
had
participated in an atrocity—setting fire to Jews packed into a house—in
a
village in Ukraine. He asked Wiesenthal to forgive him so that he might
die in
peace. After a pause for reflection, Wiesenthal left the room without a
word.
Một ngày của
tên săn người
Vào cuối thập
niên 1960, Wiesenthal kể, khi ông là tù nhân tại trại tập trung
Janowska, cùng
với 1 số tù nhân khác, ông được phái tới Lwów, làm việc nặng tại sân 1
trường đại học
kỹ thuật được cải biến thành 1 bịnh viện cho thương binh Ðức. Một em y
tá năn nỉ
ông đi theo em, tới 1 căn gác xép tít trên thượng tầng nhà thương. Ở
đó, nằm trên
1 cái giường, là 1 một thương binh Ðức đang hấp hối, mặt mày băng kín.
Anh ta hỏi, ông có phải là 1 tù nhân Do
Thái, và khi ông
gật đầu, anh ta bèn thú thực là đã làm thịt hơi bị nhiều Do Thái, xin
ông tha thứ,
để được chết yên ổn, và được đi đầu thai kiếp khác, không thì khốn khổ
khốn nạn,
không làm sao đi được như Cao Bồi, bạn ông Gấu, hay như Võ Tướng Quân.
Sau khi suy
nghĩ một tua, chuyên gia săn Nazi bỏ đi, đếch thèm nói 1 tiếng!
Simon
Wiesenthal, Vienna, 1975
The Day of the Hunter
December 8, 2011
Louis Begley
In the late
Sixties, Wiesenthal wrote about an incident that took place when he was
imprisoned in the Janowska concentration camp. Sent with other
prisoners to
Lwów on a labor detail, he was put to work moving heavy equipment in
the
courtyard of the technical university, which had been converted into a
military
hospital for wounded German soldiers. A German nurse insisted that
Wiesenthal
follow her upstairs and left him alone in a room with a shape lying on
the bed
that turned out to be a German soldier wrapped from head to toe in
bandages.
The soldier
asked whether Wiesenthal was a Jew, and when Wiesenthal said yes, the
soldier
went on to tell him that he was a member of the SS and that his unit
had
participated in an atrocity—setting fire to Jews packed into a house—in
a
village in Ukraine. He asked Wiesenthal to forgive him so that he might
die in
peace. After a pause for reflection, Wiesenthal left the room without a
word.
Having written
the story, Wiesenthal asked a number of prominent people whether they
thought
that what he had done was morally right. Many of them replied,
including Hannah
Arendt, Günter Grass, Charlie Chaplin, Primo Levi, and Arthur Miller.
Subsequently he published the story in a book, The Sunflower (1969),
including
in it his correspondents’ replies to his question as well as letters of
those
who did not choose to reply to the question and explained their
reasons. (17)
The book was
his third best seller, and it became a textbook used in many schools.
Wiesenthal never deviated from his original insistence that the story
was true.
But many doubts have been voiced about its authenticity, particularly
the
improbability of a Jewish prisoner appearing at the bedside of a
severely
wounded SS man. Authentic or not, the story goes to the core of
Wiesenthal’s
Nazi-hunting enterprise.
Segev quotes
a letter from Eva Dukes, an Austrian-American woman with whom
Wiesenthal had a
long relationship, in which she wrote about the wounded soldier:
You could
almost have forgiven him, and as your suffering proves, you were closer
to
doing so than you realized then. It was largely your guilt toward your
comrades
and toward the dead that held you back, the dread of disloyalty.
Apparently you
were close to feeling, although incapable of saying, “Yes I forgive
you.”
If
Wiesenthal had forgiven the man, Segev believes, he might have been
able to
forgive himself, “and perhaps he would have shaken off the grip of the
Holocaust that pursued him even more relentlessly than he pursued
others…. He,
who always tried to prevent the innocent from being punished, punished
himself
for a crime he didn’t commit.” Segev seems to believe that the crime
was his having
suffered, because of the decency of the two good Germans, considerably
less
than many other prisoners, indeed owing his life to those Germans.
Perhaps that
was one of Wiesenthal’s great sorrows; but it’s worth noting that like
the
survivors of other great catastrophes, Holocaust survivors are apt to
be
afflicted by feelings of guilt when they remember those around them who
seemed
more deserving but were lost. It is unlikely that Wiesenthal would have
purged
himself of that guilt by absolving the SS man of guilt for a crime that
could
have been forgiven only by his unit’s victims, and they, of course,
were dead.
17. Simon
Wiesenthal, The Sunflower: On the Possibilities and Limits of
Forgiveness (Schocken, 1997), originally published as Die Sonnenblume (Paris: Opera
Mundi,
1969).
Tưởng niệm Simon Wiesenthal
1908 - 2005
"The bad conscience of Nazis", (1) như ông tự nhận.
Săn lùng Nazi, không phải là để
trả thù, mà là vì công lý, và đây
là cả cuộc đời của ông. Tuyệt hơn nữa, phần thưởng quí giá mà ông nhận
được, là
khám phá ra, và nhờ đó, nhân loại được hưởng ké, đời văn, literary
life,
của Anne Frank.
Và đây cũng là cuộc đời độc nhất mà Anne Frank, nhờ ông mà có được.
Ngày hôm qua, Wiesenthal mất
trong khi ngủ, tại Vienna, thọ 96 tuổi. Anne Frank
mất vào tháng Ba, năm 1945, vì bịnh chấy rận, tại Trại Tập Trung, Lò
Thiêu Nazi
Bergen-Belsen, hưởng dương 15 tuổi.
[Toronto Star, Sept 21, 2005].
"To young people here, I am the last," he told an interviewer in
Vienna in 1993. "I'm the one who can still speak. After me, it's
history."
"Với lớp trẻ ở đây, tôi là kẻ sau cùng," ông trả lời phỏng vấn.
"Tôi là kẻ còn đang nói. Sau tôi, là lịch sử"
[NY Times, Sept 21, 2005]
(1) Lương tâm tự vấn của những
Nazis.
Thông Điệp Của Anne
Frank
Tôi muốn nhân dịp này để làm
sáng tỏ một điều vẫn thường được hiểu
sai. Người ta thường nói Anne biểu tượng sáu triệu nạn nhân Lò Thiêu
(Anne
symbolizes the six millions victims of the Holocaust). Tôi nghĩ một
phát biểu
như vậy là không đúng. Cuộc đời và cái chết của Anne, là của riêng cô:
một số mệnh
cá nhân; một số phận cá nhân đã xẩy ra sáu triệu lần. Anne không thể,
và không
nên để cho cô đứng đại diện cho biết bao nhiêu cá nhân con người mà đám
Nazi đã
lấy đi mạng sống của họ. Mỗi nạn nhân có một chỗ đứng độc nhất của
riêng họ ở
trên thế giới, và trong trái tim của thân quyến và bạn bè của người đó.
Anne Frank: Một ghi
nhận
Có thể một tên
thợ máy Bưu Ðiện dịch trật chẳng sao, nhưng 1 vị
tiến sĩ mà dịch trật thì cũng hơi chuế!
Một vị tiến
sĩ mà có những lầm lẫn rất ư là ấu trĩ,
“lệch pha” là “tiếng lóng”, điều này chứng tỏ kiến thức phổ thông, sơ
đẳng, thua
1 đứa học sinh trung học. Ở Miền Nam trước 1975, học sinh trung
học đã rất
rành về điện xoay chiều; điện hai pha, hai dây nóng, một dây lạnh, là
điện dùng
trong nhà, điện ba pha, ba dây nóng, là điện kỹ nghệ. Và hiện tượng
lệch pha. Pha,
từ "phase", Hoàng Xuân Hãn, trong danh từ khoa học, dịch là “vị tướng”
[?], nhưng sau này Mít dùng luôn "pha" tiện lợi hơn nhiều so với danh
từ có gốc tiếng Hán.
“Roland Barthes, một người được xem là cấu
trúc luận...”:
Viết như thế thì cũng như phán, Bác Hồ là chủ nghĩa CS, [“lầm” con
người với 1
chủ nghĩa, học thuyết],
và bây giờ, 1 câu tiếng Anh dịch không nên thân,
vậy mà cao miệng phán, cả 1 nước Mít mù chữ,
làm sao VC nó không đá đít ra khỏi cả hai cửa khẩu Sài Gòn và Hà Nội?
Roland
Barthes, một người
được xem là cấu trúc luận ở cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960
và là hậu
cấu trúc luận từ cuối thập niên 60 về sau, xem mọi văn bản đều chỉ là
một không
gian trong đó có vô số các văn bản đan xen nhau, hoà trộn với nhau, và
không có
yếu tố nào là thực sự độc sáng cả.
NHQ
Ngay cái câu
tiếng Việt của
ông mà TV trích, trên, viết cũng không nên thân. Cả 1 đoạn giới thiệu
Barthes,
chỉ để đưa ra một trích dẫn chẳng liên quan gì đến những lời giới thiệu
đao to
búa lớn về ông. Cấu trúc câu văn như thế đúng là lệch pha! Tiếng Việt
rất khó, đừng
có tưởng bở. Câu trên, nên viết, thí dụ:
Trong “Cái chết của tác
giả”, RB, [một
nhà cấu trúc luận… ], viết, mọi văn bản
đều chỉ là một không
gian trong đó có vô số các văn bản đan xen nhau, hoà trộn với nhau, và
không có
yếu tố nào là thực sự độc sáng cả.
*
Câu tiếng
Anh trên, [We know now
that a text consists not of a line of words, releasing a single
"theological" meaning (the "message" of the Author-God),
but of a multi-dimensional space in which are married and contested
several
writings, none of which is original: the text is a fabric of
quotations,
resulting from a thousand sources of culture.] theo GCC,
không khó, với chỉ 1
người
khả năng tiếng Anh trung bình.
Ðiều này chứng tỏ Thầy
Cuốc không thể nào đọc nổi rất nhiều
tác giả mà ông nhắc tên, và tác phẩm.
Ðây là trò trộ thiên hạ.
Bịp, đúng hơn.
Chứng
cớ:
Trong
1 bài viết của Thầy Cuốc, những câu
Thầy trích dẫn, và đi 1 đường
tiểu chú, không câu nào
có nguyên tác tiếng mũi lõ cả!
1.
“Không
có nhà thơ nào,
không có nghệ sĩ thuộc bất kỳ ngành nghệ thuật nào, có thể tự mình có ý
nghĩa.
Ý nghĩa của họ, sự hân thưởng của họ là sự hân thưởng về quan hệ giữa
họ với
những nhà thơ và những nghệ sĩ đã chết. Anh không thể đánh giá họ [ở
trạng thái
cô lập] một mình; anh phải đặt họ trong quan hệ so sánh và đối chiếu
với những
người đã quá cố.” (3)
Tiểu
chú:
(3) T.S. Eliot,
"Tradition and the
Individual Talent" in lại trong tập 20th Century Literary
Criticism, a
Reader, do David Lodge biên tập, Longman xb, London, 1972, tr.
72.
2.
E.
Pound nhận xét:
"Không có bài thơ hay nào từng được viết trong một cách thức đã có từ
hai
chục năm trước." (4)
Tiểu chú:
(4) Dẫn theo
Timothy Steele trong cuốn Missing Measures: Modern Poetry and the
Revolt agaisnt
Meter do The University of Arkansas Press xuất bản tại Fayetteville năm
1990,
tr. 246.
[Từ against
Thầy viết trật!]
Thú thực, đọc
mấy câu tiếng Mít của Thày Cuốc, GCC tò
mò muốn biết câu tiếng Anh nó ra làm sao, vì đọc thấy kỳ quá, thí dụ,
câu của
Eliot:
“Không có nhà thơ nào, không có
nghệ sĩ thuộc
bất kỳ ngành nghệ thuật nào, có thể tự mình có ý nghĩa. Ý nghĩa của họ,
sự hân
thưởng của họ là sự hân thưởng về quan hệ giữa họ với những nhà thơ và
những
nghệ sĩ đã chết. Anh không thể đánh giá họ [ở trạng thái cô lập] một
mình; anh
phải đặt họ trong quan hệ so sánh và đối chiếu với những người đã quá
cố.” (3)
“Không có nhà thơ nào,
không có nghệ sĩ thuộc
bất kỳ ngành nghệ thuật nào, có thể tự mình có ý nghĩa.. “: Khúc này
không chỉnh,
tại làm sao lại chỉ lọc ra “nhà thơ “, so với tất cả các nghệ sĩ thuộc
bất kỳ
ngành nghệ thuật nào?
Hân thưởng
là cái quái gì?
Tự mình có ý
nghĩa?
Câu của Pound cũng căng.
Thí dụ, 1 bài lục bát mới tinh, tức là được viết bằng 1 cách thức có
từ... bốn ngàn năm văn hiến, thì không thể nào... hay được?
Bởi thế,
giấu
nguyên tác, kẹt lắm!
*
Theo GCC,
bắt
buộc bạn phải ghi nguyên tác, vì, ngay cả khi bạn dịch đúng, thì cũng
chưa chắc,
câu dịch của bạn… hay!
Ðây
là vấn nạn
được 1 tay phóng viên hỏi Bolano, và cũng
là vấn nạn mà bà LTH đã từng nêu lên, khi phán, cái thằng cha Nobel năm
nay, nhà
thơ gì gì đó, tôi đếch thèm biết đến, đối với tôi, lẫy lừng nhất trong
nước là
bà YB, hàng đầu, vượt trội, số 1 hải ngoại, là, là… toàn gà của diễn
đàn do bà
làm nữ soái không à!
"LITERATURE
IS NOT MADE FROM WORDS ALONE"
INTERVIEW BY
HECTOR SOTO AND MATIAS BRAVO
FIRST
PUBLISHED IN CAPITAL, SANTIAGO, DECEMBER 1999
Phóng viên:
Thật là bực
mình khi nghĩ rằng chúng ta đọc rất nhiều những vị thần của chúng ta
(James,
Stendhal, Proust), qua bản dịch, qua những... xái xảm? Ðó là văn chương
ư? Nếu
chúng ta lèm bèm hoài về vấn đề này, liệu có thể đưa đến kết luận: từ
ngữ không
có một đồng đẳng, ngang hàng?
Bolano:
Tôi nghĩ,
có. Hơn nữa, văn chương đâu chỉ làm bằng từ ngữ không thôi. Borges
phán, có những
nhà văn không thể dịch được. Tôi nghĩ ông ta coi Quevedo như là 1 thí
dụ. Chúng ta có thể thêm vô Garcia Lorca
và những
người khác. Tuy nhiên, Don Quixote có thể cưỡng lại ngay cả những đấng
dịch giả
tồi tệ nhất. Như là 1 sự kiện, nó có thể cưỡng lại tùng xẻo, mất mát
nhiều
trang, và ngay cả một trận bão khốn kiếp. Nghĩa là, nó cưỡng lại mọi
thứ ở trên
đời chống lại nó - dịch dở, không đầy đủ, hay huỷ diệt - bất cứ một bản
văn Don
Quixote nào vẫn có nhiều điều để mà nói ra, với một độc giả Trung Hoa,
hay Phi
Châu. Và đó là văn chương. Chúng ta có thể mất mát rất nhiều ở dọc
đường, chắc
chắn như thế, nhưng đó là định mệnh của nó. Có còn hơn không, thì cứ
nói như vậy
có tiện việc sổ sách.
Nguồn
Varga Llosa,
khi được Nobel đã quá mừng, và tuyên bố, bây giờ tôi là nhà văn của thế
giới rồi,
theo nghĩa, văn của ông vượt qua được cửa ải màu da, bất cứ giống dân
nào, đọc ông,
thì đều nghĩ, ông là người cùng máu mủ, cùng màu da với họ, như Sến Cô
Nương phán,
Cáp Ca là 1 tên Mít. Isaac
Bashevis Singer
cũng đã từng phán như thế về Dos,
nhớ đại khái,
lần đầu đọc ông rậm râu này, là tôi nghĩ ông ta phải là người nước tôi.
Trong Wellsprings,
viết vào lúc gần cuối đời của
mình, nhằm vinh danh những vị thầy và tác phẩm của họ đã từng ảnh hưởng
lên ông,
Vargas Llosa, trong bài viết về Borges, cho biết, với Borges, lũ nhà
văn da trắng quả là số 1, và đúng là
những vị
thần của đám da màu
THE FICTIONS
OF BORGES
…
No body of
literary work, however rich and accomplished it may be, is without its
dark
side. In the case of Borges, his writing sometimes suffers from a
certain
cultural ethnocentricity. The black, the Indian, the primitive often
appear in
his stories as inferiors, wallowing in a state of barbarity apparently
unconnected either to the accidents of history or to society but
inherent in
their race or cultural status. They represent a lower humanity shut off
from
what Borges considered the greatest of all human qualities: intellect
and
literary refinement. None of this is explicitly stated, and doubtless
it was
not even conscious; rather, it shows through in the slant of a certain
sentence, or in his depiction of a particular form of behavior.
[Không có 1 cái "body" tác
phẩm văn học nào, dù giầu có, dù hoàn tất
cách mấy, mà không có cái phần u tối của nó. Trong trường hợp Borges,
những bản
văn của ông quả có tí mặc cảm màu da, “đôi khi” nhức nhối vì cái gọi là
quy tâm
văn hóa liên quan đến sắc dân, màu da. Ðám Ðen, đám Ðỏ, đám Da Vàng Mũi
Tẹt thì
đều thấp kém, hèn hạ, luôn đằm mình trong cái ao bùn man rợ, hoàn toàn
mù tịt
trước những thay đổi của lịch sử, nhưng lại rất hãnh diện về cái ao nhà
đã quen…. Họ đại diện cho một thứ nhân loại thấp kém,
bị gạt hẳn ra khỏi những điều mà Borges gọi là những cái vĩ đại nhất
của phẩm
chất của nhân loại….]
For Borges,
as for T. S. Eliot, Giovanni Papini, and Pio Baroja, civilization could
only be
Western, urban, and almost-almost-white. The East survives, but only as
an
appendage-as it has come down to us through the filter of European
translations
of Chinese, Persian, Japanese, or Arabic originals. The native Indian
and
African cultures that form part of Latin America are featured in
Borges' world
more as contrasts with the West's superiority than as varieties of a
shared
humanity. Perhaps this is because they were a small presence in the
milieu
where he lived most of his life. This myopia does not detract from
Borges' many
admirable qualities, but it is best not to sidestep this limitation
when giving
a comprehensive appraisal of his work. Certainly it offers further
proof of his
humanity, since, as has been said over and over again, no such thing as
absolute perfection exists in this world-not even in the work of a
creative
artist like Borges, who comes as close as anyone to achieving it.
Thảo nào bà
LTH bực: Mít phải số 1 chứ!
Gấu cũng nghĩ Mít số 1, nhưng đó là nhờ Cái Ác Bắc Kít.
Nhân loại chẳng đã từng mơ, sáng ngủ dậy thấy biến thành Bắc Kít?

À l’enfant
que je n’aurai pas, Linda Lê
éd. Nil, “Les
Affranchis”, 80 p., 7 €.
Une femme renonçant à la
maternité provoque souvent quelques
étonnements. Comme si, sur le chemin de la féminité, il fallait
obligatoirement passer par la case accouchement. Pour Linda Lê, cette
fausse évidence s’incarne dans une sorte de dictature, dominée par
“Big
Mother”, sa mère, et ses principles asphyxiants. Cette mère l’a privée,
dès son
plus jeune age, d’un épanouissement, comme on retirerait un tapis sous
les
pieds de celui qui commence à marcher. La voilà donc à terre, se
croyant
incapable de se conformer aux plus élémentaires règles de la vie
sociale. Elle
se réfugie dans les livres; pourtant il ne fut jamais question d’un
choix entre
écriture ou maternité - et encore moins de l'écriture comme substitut à
l’accouchement. Car, pour l'auteur, l'enfant existe déjà dans “les
replis de
[s]on être”. «Immatériel” mais “doué de vie” il tient devant elle, un
miroir -
lui renvoyant ses angoisses et l’image de l’écrivain qu’elle
souhaite
être +
Pierre-Édouard Peillon
La
Magazine Littéraire
Sept 2011
Gửi đứa bé
mà tôi sẽ chẳng bao giờ dám mang bầu
Một người đàn bà từ chối có
bầu, từ chối làm mẹ thường gây sốc. Cứ
như thể trên đường trở thành đàn bà, thì là phải mang bầu, nằm cữ, đẻ
con. Với
LD, cái sự hiển nhiên dởm này mang trong nó 1 thứ độc tài, bị thống trị
bởi “Bà
Mẹ Lớn”, mẹ của bà, và những nguyên tắc làm tắt thở của bà. Bà mẹ, ngay từ khi cô con gái còn nhỏ tuổi đã
tước đoạt sự triển nụ khai hoa giống như người ta cuốn chiếc thảm dưới
chân
của 1 đứa
bé đang tập đi, và đứa bé té xuống đất, thấy mình không làm sao ứng xử
xứng
hợp ngay
cả với những lề luật thật sơ đẳng của cuộc sống xã hội. Ðứa bé trốn vào
trong những
cuốn sách, tuy nhiên, đây không phải một sự
chọn lựa,
giữa viết và làm mẹ - lại càng không phải là cái viết thay thế cho việc
nằm cữ.
Bởi vì, với tác giả, đứa trẻ đã hiện hữu, giữa những nếp gấp của bản
thể, sinh
mệnh của bà. “Không vật chất”, nhưng “có sẵn cuộc sống”, nó đứng trước
bà cầm
một tấm gương – ném trở lại những âu lo, sao xuyến của bà, và hình ảnh
nhà văn mà bà ao ước trở thành.
Roland
Barthes, một người được xem là cấu trúc luận ở cuối thập niên 1950 và
đầu thập
niên 1960 và là hậu cấu trúc luận từ cuối thập niên 60 về sau, xem mọi
văn bản
đều chỉ là một không gian trong đó có vô số các văn bản đan xen nhau,
hoà trộn
với nhau, và không có yếu tố nào là thực sự độc sáng cả. (4)
NHQ Blog VOA
Tò mò GCC thử
coi tiểu chú số 4 là cái gì:
(4)
Roland
Barthes, "The Death of the Author", tài liệu đã dẫn, tr. 166-172.
Và sau đây
là câu tiếng Anh mà Thầy Cuốc vờ, không dám trưng ra, sợ có thằng khốn
nào cười
hô hố, vì Thầy dịch trật!
Mà dịch trật thật!
Hà, hà!
Trên TV, GCC
dịch trật hoài, “sư phụ” lâu lâu ghé, nhặt ra cả đống sạn.
Có sao đâu!
We know now
that a text consists not of a line of words, releasing a single
"theological" meaning (the "message" of the Author-God),
but of a multi-dimensional space in which are married and contested
several
writings, none of which is original: the text is a fabric of
quotations,
resulting from a thousand sources of culture.
GCC dịch:
Chúng ta bây
giờ biết một bản văn thì không phải là một đường chữ, đưa ra một nghĩa
“thần học”
đơn ( “thông điệp” của đấng Tác giả-Thượng đế), nhưng mà là một không
gian đa
chiều, ở trong đó một số bản viết phối với nhau, và kèn cựa lẫn nhau,
chẳng bản
viết nào còn zin: bản văn là một miếng, mảnh [giống như mảnh vải] những
trích dẫn,
kết quả của cả ngàn nguồn văn hoá.
GCC thực sự
không hiểu, con đường đi, từ “original” đến “độc sáng”?
Và, tại làm
sao Thầy Cuốc không đi 1 cái tiểu chú số 4, như ở đây, nguyên tác của
câu văn dịch
ra tiếng Mít?
Thay vì vậy, Người lôi cả 1 bài viết dài thòng của Barthes?
Liệu Thầy sợ,
câu của Barthes chửi bố [“phản biện”, phản bác] cả 1 chủ trương cổ vũ
cho cái
mới của
Hậu Vệ, như Thầy phán, trong 1 bài viết:
Hơn nữa, cái
mới còn có tính chất độc nhất.
Nó giống như
trinh tiết, chỉ có một lần.
Roland Barthes, một
người được xem là cấu trúc luận ở cuối thập niên 1950 và
đầu thập niên 1960 và là hậu cấu trúc luận từ cuối thập niên 60 về
sau, xem mọi văn bản đều chỉ là một không gian trong đó có vô số các
văn bản đan xen nhau, hoà trộn với nhau, và không có yếu tố nào là thực
sự độc sáng cả. (4)
NHQ
Blog VOA
Tò
mò GCC thử coi tiểu chú số 4 là cái gì:
(4)
Roland Barthes, "The Death of the Author", tài liệu đã dẫn, tr. 166-172.
Thầy Cuốc không cho biết nguyên văn câu Thầy dịch nó ra làm sao, dù là
bản tiếng Anh.
Tò mò, Gấu giở bản tiếng Anh ra coi, nhưng không làm sao kiếm ra câu mà
Thầy trích dẫn.
GCC để ý, chưa bao giờ Thầy trích dẫn câu nguyên tác. Hình như Thầy sợ
chúng khui ra là Thầy dịch trật!
Chán thế!
Sau đây, là bản tiếng Anh.
Gấu đố các bạn kiếm ra câu Thầy Cuốc dịch!
'TV post bài của Barthes, là cũng tính nếu rảnh thì dịch, hầu độc giả.
TV có luôn nguyên bản
tiếng Tây, và sẽ dùng nguyên tác tiếng Pháp để dịch, cho chắc ăn!
[Xin lỗi, GCC coi lại tủ sách, không có bản tiếng Tây].
Câu mà Thầy Cuốc trích
dịch, không biết có phải là câu sau đây không:
We
know now that a text consists not of a line of words, releasing a
single "theological" meaning (the "message" of the Author-God), but of
a multi-dimensional space in which are married and contested several
writings, none of which is original: the text is a fabric of
quotations, resulting from a thousand sources of culture.
“Một người” làm sao được
xem là "cấu trúc luận"?
The Death of the Author
TV thường để nguyên tác,
thường không có trên net, là mong độc giả sửa giùm những sai sót, vì
chỉ có cách đó, mới có được bản dịch tốt. Gấu nhớ, có 1 lần, có
1 bài viết, sau khi post lên, chưa được nửa buổi, là đã có hai vị chỉ
cho thấy 1 sai sót rồi.
Cảm động thật.
GCC nếu có tí tự hào, thì là về sử dụng tiếng Mít, tuy chưa chắc hơn
người, nhưng ít nhất cũng hơn mấy đấng học trường mũi lõ ở hải ngoại.
Gấu đâu tự hào vì giỏi
tiếng mũi lõ?
Re: Bản tiếng Tây
Một độc giả gửi liền tức thì cho Gấu bản
tiếng Tây, “Cái chết của tác giả”, đồng thời cho biết, có tới hai bản
dịch tiếng Việt, trên net, tha hồ tham khảo.
Như vậy TV sẽ cố gắng dịch liền tù tì bản
viết này, theo chính bản tiếng Tây, hầu độc giả, và, để tường trình
Thầy Cuốc, đặng Thầy tham khảo.
Hà, hà!
To: J.
Tks. Many Tks
NQT
Đây là
bản tiếng Việt của Trần Đình Sử, dịch từ bản tiếng Nga, có tham
khảo bản tiếng Trung.
Còn đây là bản
của Phan Luân, dịch từ bản tiếng Anh
Gấu coi cả hai bản tiếng
Việt, thì đều không có câu của Thầy Cuốc.
Như vậy là hai ông này dịch trật rồi
Lần Gấu khám phá ra Ngài
Mít Butor sửa thơ Brodsky, là do cái cụm từ “giết rất nhiều người”,
trong câu thơ dịch của ông.
Trong bài thơ của Brodsky, hai bố con nói chuyện với nhau về cuộc chiến
Mít. Thằng con hỏi, bố ơi bố, bố có nhớ bên nào thắng không, Ngụy, hay
là… VC?
Ông bố phán, ta không nhớ, nhưng chắc chắc là VC rồi, vì chỉ chúng nó
mới đi xa nhà như thế [xẻ dọc, đốt sạch TS…], để… ăn
cướp.
Nhưng Brodsky viết tiếp, và "bỏ lại rất nhiều xác chết" [ở nơi quá xa
nhà của chúng, là cái xứ Bắc Kít].
Ông Mít Butor sửa, và "giết được rất nhiều Mỹ Ngụy"!
Ðọc 1 phát, là Gấu giựt mình liền, thi sĩ Brodsky sao mà "máu" thế,
không thua gì Bác H, thơ phải có thép, nhà thơ phải biết xung phong,
hay Phạm Tiến Duật, “Ðường ra trận mùa này đẹp lắm”…
Lần đọc bản dịch Trăm Năm Cô Ðơn của Nguyễn Trung Ðức, đọc 1 câu trong
bản dịch, thấy ch[th]ối quá, thế là phải đi kiếm bản tiếng Anh….
Cũng thế, lần này. Ðọc câu dịch của Thấy Cuốc, có 1
từ rất chối tai, “độc sáng”.
Gấu quen với ông Barthes từ hồi mới tập tễnh bày đặt viết viếc, dịch
diếc… và có thể nói, rất quen mùi văn của ông.
Sở dĩ ông thổi Camus, là vì văn Camus không “độc sáng”… "Không độ của
cách viết" mà.
Thế là đành phải đi tìm bản tiếng Anh, để coi…Và đó là từ “zin”,
originelle, tiếng Tây nguyên văn, theo nghĩa, chẳng có gì còn zin ở
trong văn chương cả.
Phan Ðình Sử dùng từ “cái xuất phát”. GCC thích từ “Zin” hơn!
Bà LTH thì thích từ “cái đầu tiên”
Câu của PDS:
Bây giờ chúng ta biết văn
bản không phải là chuỗi hình tuyến các từ ngữ biểu hiện một ý nghĩa duy
nhất, dường như ý nghĩa thần học (cái thông báo của Tác giả – Thượng
đế), mà là một không gian đa chiều, nơi những kiểu viết khác nhau kết
hợp, tranh cãi nhau mà không có cái nào trong số đó là cái xuất phát
Thành thực mà nói, cả hai
bản dịch đều không… vừa ý GCC!
TV sẽ có bản dịch từ nguyên bản tiếng Tây sau.
We know now that a text
consists not of a line of words, releasing a single "theological"
meaning (the "message" of the Author-God), but of a multi-dimensional
space in which are married and contested several writings, none of
which is original: the text is a fabric of quotations, resulting from a
thousand sources of culture.
GCC dịch:
Chúng ta bây giờ biết một
bản văn thì không phải là một đường chữ, đưa ra một nghĩa “thần học”
đơn ( “thông điệp” của đấng Tác giả-Thượng đế), nhưng mà là một không
gian đa chiều, ở trong đó một số bản viết phối với nhau, và kèn cựa lẫn
nhau, chẳng bản viết nào còn zin: bản văn là một miếng, mảnh [giống như
mảnh vải] những trích dẫn, kết quả của cả ngàn nguồn văn hoá.
GCC thực sự không hiểu,
con đường đi, từ “original” đến “độc sáng”?
Và, tại làm sao Thầy Cuốc
không đi 1 cái tiểu chú số 4, như ở đây, nguyên tác của câu văn dịch ra
tiếng Mít?
Thay vì vậy, Người lôi cả 1 bài viết dài thòng của Barthes?
Liệu Thầy sợ, câu của
Barthes chửi bố [“phản biện”, phản bác] cả 1 chủ trương cổ vũ cho
c[g]ái mới, c[g]ái còn trinh, c[g]ái đầu tiên… của
Hậu Vệ, như Thầy phán, trong 1 bài viết:
Hơn nữa, cái mới còn có
tính chất độc nhất.
Nó giống như trinh tiết, chỉ có một lần.
Beat
it, Einstein: Neutrinos still faster than speed of light, new
experiment shows
Thí nghiệm mới
cho thấy, vận tốc neutrinos nhanh hơn vận tốc ánh sáng
''There has
been change, not sufficient yet but we'll get there,'' she said.
Có thay đổi,
tuy chưa nhiều, chưa đủ, nhưng chúng tôi sẽ tới được cái chỗ đó.
Suu Kyi
changes line on sanctions
Ui chao, biết
bao giờ thì xứ Mít mới được 1 tí niềm vui nhỏ nhoi như vậy
Nobel Toán thì có rồi, nhưng giá là Nobel Hòa Bình, thì chắc chắn phép
lạ đã xẩy
ra!
Bắc Kít là 1
trong những cái nôi lớn nhất của Toán Học. Trên toàn thế giới.
Chúng tính toán hay quá, thành ra mất
mẹ tất cả, do giành được tất cả!
Cái sự kiện
Bắc Kít giỏi Toán, là nhờ con sông Hồng, đồng bằng của nó, lũ lụt liên
miên, mỗi
năm một chia lại ruộng đất, giống con sông Nil với dân Hy Lạp.
Tiếng chuông báo
tử đầu tiên, là viên đất đầu tiên ném xuống xây dựng con đê Sông Hồng.
Không có
con đê thì chết với lũ lụt.
Có con đê, đồng bằng sông Hồng ngày một khô cằn,
như tâm hồn Bắc Kít ngày càng chai cứng, trở thành… vô cảm.
Chiến thắng 30 Tháng Tư mở ra cả một thời đại mới, cho một giống Mít
mới, nhưng
than ôi…..
Chỉ đến khi có được cái Nobel Toán, thì hy vọng lại nhen nhúm…
Nhưng Kít vẫn là… Kít!
Hôm nay nhân loại nói
chung một tiếng nói
René Thom cho rằng toán học gia
là những người rất buồn vì họ
không thể chia sẻ niềm vui với những người không phải là toán học gia,
và ông
tự hỏi, toán học có phổ thông không. Người da đỏ, người Trung Hoa có lý
giải,
raisonner, như những người Âu châu?
Ông là người Pháp, giải thưởng Fields, 1958, tương đương với Nobel. Sở
dĩ không
có giải thưởng Nobel về toán, chỉ vì mối giao tình giữa bà vợ của Nobel
với một
toán học gia Thuỵ Điển khi đó, và giải thưởng này nếu có, sẽ về tay ông
ta, một
điều không một ông chồng nào muốn.
Toán là một môn học phổ thông, chắc chắn như vậy, theo René Thom. Thoạt
kỳ
thuỷ, toán học gốc Hy Lạp, hoặc ít nhất có hình thức thông minh cổ Hy
Lạp.
Nhưng bằng những con đường khác biệt, cuối cùng các sắc dân cũng đi tới
những
kết luận mang tính luận lý như nhau. Người da đỏ, khi xây dựng những
ngôi đền,
người Trung Hoa, khi hoàn thiện âm lịch, họ cũng đã "bịa đặt" ra hình
tam giác, và tìm ra những tính chất của nó, cùng lúc với những người Hy
Lạp. Sự
trùng hợp này không phải vì có một tam giác như vậy ở ngoài đời, mà vì
nó đáp
ứng nhu cầu trí tuệ của nhân loại. Cũng theo ý nghĩa đó, nhân loại cần
tới văn
chương, triết học, nghệ thuật... Tới mức mà, giả sử không có một
London, một St.
Petersburg thì Dickens, Dostoevsky cũng phải bịa đặt ra chúng. Và những
thành
phố hoang tưởng như Bouville của Sartre, như Macondo của Garcia
Marquez, hoặc
Đào Nguyên, Thiên Thai... của huyền thoại Đông Phương nhiều khi thật,
sống động
hơn những thành phố có thực trên thế giới.
Nhưng chúng ta mang ơn những người Hy Lạp ở nghệ thuật chứng minh. Theo
René
Thom, người Trung Hoa, Người Nhật, người Da đỏ ghi nhận (constater) chứ
không
chứng minh. Ngược lại, lý luận Hy Lạp không hề có nhảy đoạn trong lý
giải (raisonnement).
Select four
answers to the question what should a reader be to be a good reader:
1. The
reader should belong to a book club.
2. The
reader should identify himself or herself with the hero or heroine.
3. The
reader should concentrate on the social-economic angle.
4. The
reader should prefer a story with action and dialogue to one with none.
5. The
reader should have seen the book in a movie.
6. The
reader should be a budding author.
7. The
reader should have imagination.
8. The
reader should have memory.
9. The
reader should have a dictionary.
10. The
reader should have some artistic sense.
Quả có câu
“Hãy chọn 4 câu trả lời”
Sorry bạn GM.
Nhưng bài viết không phải là 1 bài trắc nghiệm.
Gấu đã từng bị độc giả VHNT xài xể vì bài viết này 1 lần rồi. Bây giờ
mới nhớ
ra.. (1)
GM dịch câu số 6 "Người
đọc là một tác giả mới vào nghề", sai. Bản
tiếng
Tây dùng un auteur en puissance mạnh hơn nguyên tác tiếng Anh, có nghĩa
1 tác
giả đang nẩy nở thành 1 tác giả. Thì cũng mắm sốt, nhưng “en puissance”
nghe sung
mãn hơn nhiều!
(1)
"Về
dịch thuật, khi chuyển ngữ câu La littérarure est "invention" = Văn
chương là "bịa đặt". Dù đúng theo lối dịch từng chữ, nhưng sai lạc
trong cả câu văn. Đọc nguyên câu bằng Pháp ngữ, tôi thấy Nabokov muốn
nâng văn
chương lên cao hơn ý tác giả đã trình bày".
Ở đây,
tôi hoàn
toàn không đồng ý với tác giả
email.
Như
trong
bài trích dẫn, "Người đọc tốt và người viết tốt" (trong Văn Chương
tập I, bản tiếng Pháp, nhà xb Fayard, loại sách bỏ túi), Nabokov phân
biệt giữa
văn chương (giả tưởng, bịa đặt), và sự thực. Ông đã viết một cách thật
là
"nặng nề": Văn chương là bịa đặt. Giả tưởng là giả tưởng. Gọi câu
chuyện là "chuyện thực", là làm nhục cả nghệ thuật lẫn sự thực. (La
littérature est invention. La fiction est fiction. Appeler une histoire
"histoire vraie", c'est faire injure à la fois à l'art et à la
vérité.) Vì sự thực liên quan tới hiện thực cho nên ông giải thích
thêm: Thiên
Nhiên không ngừng đánh lừa. (La Nature trompe sans cesse). Ông viết:
"Mọi
nghệ sĩ lớn đều là ảo thuật gia lớn, và cũng thế, Thiên Nhiên là tổ sư
đại
bịp.... Nhà văn của giả tưởng chỉ việc đi theo con đường Thiên Nhiên đã
vạch
ra" (Tout grand écrivain est un grand illusionniste, mais telle
également est l'architrompeuse Nature.... L'écrivain de fiction ne fait
que
suivre la voie tracée par la Nature.)

Une curieuse
solitude
" Pour
moi, je ne me lasserais pas de citer ce livre dont je parle si mal. Il
n'y a
pas de raison que cela finisse, sinon la raison même. Je n'ai pourtant
ni le
mérite ni l'originalité de découvrir Philippe Sollers, dont le destin,
même
s'il doit s'entourer de quelques crialleries, est désormais, et
largement
ouvert. Et puis il y a bien des choses que je préfère réserver de lui
dire plus
tard. Beaucoup plus tard peut-être, si cela pouvait m'être donné. Le
destin
d'écrire est devant lui, comme une admirable prairie. A d'autres, de
préjuger
de l'avenir, de donner des conseils. Pour moi, j'aime à me contenter
d'admirer.
Cette fois au moins. C'est que ce n'est pas tous les jours qu'un jeune
homme se
lève et qui parle si bien des femmes.”
Extrait d'un
article de Louis Aragon,
Les Lettres françaises,
20
novembre
1958.
Ceci est le
premier roman de Philippe Sollers, dont on sait comment il plaça
d'emblée son
auteur au premier rang d'une génération.
[p.1]
“Il n'y a
rien à craindre des dieux.
Il n'y a
rien à craindre de la mort.
On peut
atteindre le bonheur,
On peut
supporter la douleur. »
DIOGÈNE
D'ŒNANDA
« Le plus
beau des courages, celui d'être heureux. »
JOUBERT
[p2.]
Quien ha
muerto en el cielo
Para que la
virgen vaya de luto?
(Qui donc
est mort au ciel
Pour que la
vierge soit en deuil ?)
[Thằng chó
nào chết ở trên trời,
Ðể em của tớ nhất định còn trinh suốt đời?]
[p.2]
Gấu đọc cuốn
trên đúng vào lúc mới lớn, tiếng Tây tiếng đực tiếng cái, vậy mà mê
tít. Về
già, mua, cũng là để nhớ lại 1 đoạn đời.
Gấu nhớ là bạn quí HPA cũng mê
cuốn
này lắm. Và mê Sollers. Mê “Tel Quel”, tất
nhiên.
Anh viết Thư gửi nhóm Sáng Tạo,
là từ tinh thần “Tel Quel”:
Thật ra cuộc
đời không là gì cả trong khi người ta không ngớt gọi nó bằng nhiều cái
tên khác
nhau: thảm kịch, nôn mửa…. Cuộc đời chỉ hiện hữu ngay trước chúng ta.
Thế thôi.
Và chỉ có thế thôi.
[Trích Thư gửi
ST]
Sollers, sau
từ bỏ cuốn này, chạy theo cái mới, làm mới văn chương [chắc là do
đọc Thầy
Cuốc].
Ði tìm trinh nữ, tác phẩm
còn trinh! (1)
Trường hợp
Sollers từ bỏ đứa con tinh thần đầu tay của mình, và suốt đời không làm
sao có
cuốn nào bảnh hơn, làm Gấu nhớ tới Nguyễn Tuân, và nhất là, tới Lukacs
khi ông
bắt buộc phải từ bỏ cuốn hách nhất của đời mình, Tân Thánh Kinh của chủ
nghĩa
Marx, là Lịch sử và Ý thức Giai cấp.
Trên tờ ML, số về Dos, Mars, 2010, có 1 bài
viết về Walter Benjamin, cho biết, chính là do đọc Lịch sử và Ý thức Giai cấp (1923),
mà WB khám phá ra chủ nghĩa Marx: Dưới mắt ông, đây là cuốn sách “hoàn
tất nhất”,
le plus achevé, trong những tác phẩm văn học Mác Xít. Nó đặc dị nắm lấy
hoàn cảnh
phê bình của cuộc đấu tranh giai cấp trong hoàn cảnh phê bình của triết
học,
Benjamin giải thích. [Sa singularité saisit la situation critique de la
lutte
des classes dans la situation critique de la philosophie]. Ðây là 1 bài
điểm cuốn
Chủ nghĩa lãng mạn và phê bình văn minh, Romantisme et critique de la civilization,
trong đó, WB phán, thật bảnh:
Lịch sử thực
dân thuộc địa, coloniale, của những dân tộc Âu châu, bắt đầu bằng chiến
thắng Mỹ
Châu, nó biến thế giới mới ăn cướp được đó, le monde nouvellement
conquis,
thành một phòng tra tấn, une salle de tortures (1929).
THNM: Bạn áp
dụng câu trên vô ngày 30 Tháng Tư 1975!
(1)
Chữ “Trinh” đáng
giá nghìn vàng,
Từ anh chồng
cũ đến chàng là năm.
Còn như yêu
vụng dấu thầm,
Họp chợ trên
bụng đến trăm con người.
Câu đố:
Hai chân song
sóng, hai bọng ấp nhau
Nhảu nhàu
nhau, dí một cái.
Là cái gì?
Trả lời:
Cái kéo!
Tục ngữ
Phong Dao. Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc sưu tập. trang 17, Tập Dưới.
1. Le
lecteur doit être abonné à un club de lecture.
2. Le
lecteur doit s'identifier avec le héros ou l'héroïne.
3. Le
lecteur doit se concentrer sur l'aspect socionomique.
4. Le
lecteur doit préférer une hisoire comportant action et dialogue à une
histoire
qui en est dépourvue.
5. Le
lecteur doit avoir vu le livre en film.
6. Le
lecteur doit être un auteur en puissance.
7. Le
lecteur doit avoir de l'imagination.
8. Le
lecteur doit avoir de la mémoire.
9. Le
lecteur doit avoir un dictionnaire.
10. Le
lecteur doit avoir quelque sens artistique.
GCC
tạm dịch:
1.Ðộc
giả phải đăng ký là 1 thành viên của 1 câu lạc bộ đọc.
2.
Ðộc giả phải đồng hóa mình với nhân vật chính trong truyện, nam hoặc nữ.
3.
Ðộc giả phải chú tâm tới khía cạnh xã hội kinh tế [của thời đại xẩy ra
trong
truyện]
4.
Ðộc giả phải chọn lựa 1 câu chuyện có hành động, đối thoại, thay vì 1
câu
chuyện không có những điều này.
5.
Ðộc giả phải coi cuốn sách khi được chuyển thể thành phim ảnh.
6.
Ðộc giả phải là 1 tác giả tiềm lực [nghĩa là 1 độc giả trong cái thế
hung hãn
sẽ trở thành 1 tác giả].
7.
Ðộc giả phải có trí tưởng tượng.
8.
Ðộc giả phải có trí nhớ.
9.
Ðộc giả phải có cuốn từ điển.
10.
Ðộc giả phải có tí ti cảm quan nghệ sĩ.
[GCC có bản
tiếng Anh, nhưng kiếm không ra! Bản tiếng Tây, cuốn II, là của 1 độc
giả TV gửi
cho 2 cái “gift card”, Tks, Take Care Plse. NQT]
Trên đây là
10 điều kiện để trở thành "độc giả tốt". Trong bài viết "Nhà văn tốt,
độc giả
tốt", "Bons lecteurs et bons écrivains", trong cuốn Văn Học I, của
Nabokov.
Cuốn II viết về văn học Nga.
[Nhân thấy GM đưa lên blog]
Thứ sáu,
ngày 11 tháng mười một năm 2011
Trắc
nghiệm:
Thế nào là một người đọc giỏi?
Người đọc phải
là thành viên một câu lạc bộ sách (kiểu như Bookaholic).
Người đọc phải
đồng cảm với nhân vật.
Người đọc phải
tập trung vào góc độ kinh tế xã hội.
Người đọc ưa
thích một truyện có hành động và đối thoại hơn là một truyện không có
bắn nhau
pằng pằng và không liến thoắng tằng tằng.
Người đọc đã
xem bộ phim chuyển thể từ cuốn sách.
Người đọc là
một tác giả mới vào nghề.
Người đọc phải
có trí tưởng tượng.
Người đọc phải
có trí nhớ.
Người đọc phải
có một cuốn từ điển.
Người đọc phải
có một cảm quan nghệ thuật nhất định.
Đây là bài
trắc nghiệm nhỏ Nabokov dành cho sinh viên của mình. Sinh viên phải
chọn bốn
câu trả lời mà một người đọc giỏi (a good reader) theo Nabokov phải có.
Đáp án dĩ
nhiên là bốn câu cuối.
*
GCC
không hiểu GM lấy ở đâu ra khúc chót, bởi vì đây là 1 bài viết
ở đầu
cuốn Văn Học I, viết về những
tác giả Austen, Dickens, Flaubert, Stevenson,
Proust, Fafka, và Joyce. Chúng là những bài giảng cho sinh viên
Cornell.
Nhưng mấy bài viết của ông, là riêng ra.
Ðâu phải trắc
nghiệm?
Nabokov có mấy
bài viết "tốt", kèm với hai cuốn Văn Học trên, Nghệ thuật dịch, Nghệ thuật văn và
thiên lương, L’art de la literature et le bon sens, Ðộc giả tốt, nhà
văn tốt. Ðộc
giả tốt còn có cái tít khác, Nghệ thuật là độc giả.
Nếu là bài
trắc nghiệm, thì GCC chọn hai câu, độc
giả tốt phải nhập vào nữ nhân vật hoặc nam
nhân vật, và câu, độc giả tốt
là 1 tác giả đang trong thế hàm mô công, chỉ chờ
dịp giút súng bắn pằng pằng! [mượn chữ của GM]
Vì đúng là như thế. Một
độc giả luôn là 1 tác giả đang
hung hãn trở thành tác giả, khác hẳn 1 anh phê bình gia, một hoạn quan
mất mẹ súng,
và trong khi xoa đầu hay nâng bi tác phẩm của 1 người khác, là, đi tìm
một khẩu
súng đã mất!
Giá có gặp một
em còn trinh thì cũng thua thôi!
Không phải
GCC, mà là Steiner phán nhe:
Khi ngoái lại, nhà phê bình thấy cái bóng của 1 viên hoạn quan!
Lý do thứ
hai khiến tôi nghi ngờ chủ trương đề cao cái "tâm", sự thành thực,
chân thực hay trung thực của người viết, là vì nó làm lệch hướng cách
nhìn của
chúng ta:
Với tư cách
độc giả, thay vì chỉ nhìn vào tác phẩm, chỉ đọc tác phẩm, với quan niệm
"chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài", chúng ta lại nhìn lom lom vào tác
giả, đối chiếu cuộc đời và tác phẩm của hắn để hy vọng lần ra dấu vết
của những
sự dối trá, một cách đọc có khả năng biến chúng ta trở thành công an
thay vì là
tri âm, như cái điều vẫn thường xảy ra dưới những chế độ độc tài.
Với tư cách
tác giả, việc đề cao cái tâm, trên thực tế, thường là một cái cớ để
người ta
tránh né một trách nhiệm chính yếu và lớn lao hơn: viết cho hay. Nếu
nhìn lại
văn học Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ vừa qua, đặc biệt gần đây, khi
công việc ấn
loát trở thành dễ dàng khiến ai cũng có thể xuất bản tác phẩm của mình
dưới
hình thức này hoặc hình thức khác, chúng ta có thể thấy ngay, những kẻ
hay xả
rác và ỉa bậy trên sách báo nhất, những kẻ làm ô nhiễm không khí thẩm
mỹ và đạo
đức của thời đại nhiều nhất thường là những con người... đầy thiện chí
và đầy
tinh thần trách nhiệm, những công dân tốt. Tốt, nhưng bất tài.
NHQ: Blog
VOA
Thầy Cuốc, và
rất nhiều người như ông, đều hiểu lầm câu của Nguyễn Du.
Tâm ở đây,
Thứ nhất, liên
quan đến đạo đức của nhà văn.
Thứ nhì, cái
thứ nhì này, theo 1 nghĩa hoàn toàn văn học, thì lại quan trọng hơn cái
thứ nhất,
nó liên quan đến kỹ thuật viết, tức liên quan đến "tài hay
bất tài" mà
Thầy Cuốc và băng đảng lải nhải hoài, "tâm tốt mà bất tài" thì cũng vứt
đi.
Thầy không
hiểu ra được "tâm bằng ba tài", tức "tâm" là cái “tài nhân ba lên”,
"tài" phải "ba
lần tài", thì mới đến mò đến "tâm" được.
Ðây là ý mà
Brodsky đã từng phát biểu trong diễn văn Nobel của ông, theo đó, không
có tâm,
tức không có đạo đức, thì không thể có văn học được.
Kafka,
cũng
ý đó, nhưng khác hẳn cách diễn tả, khi ông phán: Kỹ thuật là linh hồn,
être, của
văn học.
“Kỹ thuật” của Kafka, là “tâm” của Nguyễn Du.
Nhưng chắc
chắn Thầy Cuốc không "ngộ" ra chân lý này đâu!
Cả 1 băng đảng
Hậu Vệ, xuất hiện ở hải ngoại như vậy cũng là đã quá Diễm Xưa rồi, cộng
thêm băng
đảng Sến Cô Nương, Chợ Cá Bơ Linh, khi chưa quá cố, hết lòng hỗ trợ,
nhất Thầy
Cuốc, nhất Thầy Hoặc Ngữ, cho đến ngày giờ này, có tác phẩm nào thuộc
loại "tài
không cần tâm" đâu?
Ðây là sự thực, và, do tại sao?
Hỏi, là trả lời, vậy.
Nguyễn Du nói, tâm bằng ba tài.
Brodsky, trong diễn văn Nobel, mỹ là mẹ của đạo hạnh (1).
Kafka, kỹ thuật là “hữu thể”, [être], của văn chương.
Có vẻ như mấy ông này ăn nói ngược ngạo, giữa họ, nhưng, theo Gấu, cả
ba, “tâm”
“kỹ thuật”, “mỹ” đều liên quan tới, chỉ một câu hỏi, ‘viết thế nào’,
[comment
écrire].
Chính vì thế mà Brodsky mới nói
tiếp, ‘bad style’ [viết dở], là do
cái tâm khốn nạn, cái tà ma ác quỉ gây ra!
(1) In his Nobel Prize lecture,
Brodsky sketches out an aesthetic
on the basis of which an ethical public life might be built.
Aesthetics, he
says, is the mother of ethics, in the sense that making fine aesthetic
discriminations teaches one to make fine ethical discriminations. Good
art is
thus on the side of the good. Evil, on the other hand, "especially
political evil, is always a bad stylist" (On Grief, p.49).
Coetzee: Joseph Brodsky
“Trong diễn từ Nobel, Brodsky
vạch ra một mỹ tín mà cuộc sống đạo
đức của dân chúng sẽ được xây dựng trên nền tảng đó. Mỹ học như ông
nói, là mẹ
của đạo đức, theo nghĩa, con người càng trọng mỹ tới đâu thì sàng lọc
ra cái vô
đạo tới đó. Và nếu như vậy, nghệ thuật tốt sẽ ở về phía của cái tốt.
Cái ác,
cái tà ma, về mặt còn lại, ‘đặc biệt là cái ác chính trị, luôn luôn là
một thứ
văn phong tồi tệ”
Nguồn
Đây cũng là ba đỉnh của một tam
giác văn chương, hai đỉnh Nguyễn
Du và Brodsky, tưởng như đối nghịch nhau, nhưng là một. Chính nhờ đọc
Brodsky,
qua câu này, mà Gấu mới ngộ [độc] ra được câu của Dos, Cái Đẹp sẽ cứu
chuộc thế
giới, và, cùng lúc ngộ ra, chính trị mới là đỉnh cao, văn chương chỉ là
cứt đái
so với nó. Đây cũng là ý của Benjamin, khi ông phán, mọi tài liệu về
văn minh
là một tài liệu về dã man;
ở dưới nền của một tác phẩm lớn, là một đống kít.
Câu của Kafka, Gấu đọc qua Barthes, the being of literature is nothing,
but its
technique, trong Kafka's Answer,
ngay từ hồi mới lớn, và kể như đây là cái mối hạnh ngộ đầu tiên giữa
ông và
Gấu, cho tới khi gặp Steiner, thì biết tới những ác mộng của ông.
*
Et je pense à Soljenitsyne. Ce grand homme était-il un grand romancier?
Comment
pourrais-je le savoir? Je n'ai jamais ouvert aucun de ses livres. Ses
retentissantes prises de position (dont j'applaudissais le courage) me
faisaient croire que je connaissais d'avance tout ce qu'il avait à dire.
Kundera: Une rencontre
[Tôi nghĩ đến Solz. Con người
vĩ đại này là một tiểu thuyết gia
lớn? Làm sao tôi biết? Tôi có bao giờ đọc ông ta đâu? Cái trò lèm bèm
tối ngày,
xác định vị trí, thái độ của ông (tôi rất chịu sự can đảm của ông),
khiến cho
tôi có cái cảm tưởng là mình biết tỏng, từ khuya, ông viết lách ra làm
sao
rồi!]
Note: Câu này, [tặng bạn NL!],
sai, theo Gấu.
Hoặc đúng, chỉ có một nửa.
Trước khi đọc Solz, Gấu cũng
nghĩ như Kundera. Nhưng, đọc, mới vỡ
ra là, Solz, “có thể” không phải là một tiểu thuyết gia lớn, nhưng là
một nhà
văn cực lớn, cực kỳ vĩ đại. Tác phẩm của ông chửi bố những Chuyện
Kể Năm
2000, thí dụ, bởi vì, như cái tay Lý Trác Ngô [xem Mái Tây, bản dịch của Nhượng Tống],
đã từng phán, cái thứ
nhà văn
đích thực, họ đéo có thèm viết văn!
Ông Trời khốn kiếp đẩy họ vào cửa tử, không chỉ họ, mà còn toàn nhân
loại, biểu
họ đừng viết, đừng báo động ư?
Kafka cũng thế, ông nói, tuy ngược hẳn lại, vậy mà cũng theo nghĩa đó,
thế mới
quái đản, Ông Trời năn nỉ tôi, biểu đừng viết, nhưng tôi vẫn phải viết!
Cũng vẫn nằm trong câu cảnh cáo
của Adorno:
Hãy coi chừng! Ngay cả nỗi đau
lớn, khi được đưa vào thành tứ thơ,
khổ thơ, phổ thành vần thành điệu, thì vẫn làm cho hiện tượng kia có
thêm sự
huyền nhiệm, về một điều có thể chấp nhận được – a mystery of
acceptability –
(Phỏng vấn G. Steiner).
Đây cũng là lý do tại sao những vần thơ mộc mạc của Nguyễn Chí Thiện
vẫn chuyển
tải được Cơn Kinh Hoàng của thế kỷ: nó vẫn còn đúng với thực tại Việt
Nam:
Còn Đảng là còn Khổ,
Hết Đảng là có Phở!
GCC nhớ,
Barhes có phán 1 câu, đúng ra 1 bí quyết viết văn.
Đầu vào: Comment
écrire. Viết thế nào
Đầu ra:
Pourquoi le monde. Tại sao thế giới.
Những tâm tiếc,
đạo đức đạo điếc, vô đạo vô điếc…. búa la xua… đều
từ “comment écrire” mà ra.
Chúng ta gặp
nhà sư già quét dọn Tàng Kinh Các. Võ công cao tới đâu, đạo đức cao tới
đó.
Gặp Marx, khi ông chủ trương Cái Lý Thuyết, Théorie, dong duổi với
Cái Thực hành, Praxis, quyện vào nhau, triệt
tiêu lẫn nhau, sau cùng, hết lý thuyết, hết thực hành, chúng là 1 với
con người
hoàn toàn, l’homme total.
Hai câu tục
ngữ sau đây, chắc là nghe NTV đọc, rồi ghi lại, ở đằng sau 1 bản
phocopy, 1 bài
viết của 1 tờ báo của thư viện.
Bài về Walter Benjanin, The Arcades
Project. Chỉ là 1 mẩu của 1 bài viết lớn, không biết báo nào.
Ðọc loáng thoáng, thấy câu này:
The Arcades
Project is not, in any ready sense,
"legible". It is an "old curiosity shop” (Benjamin adduces
Dickens's title repeatedly), an Aladdin's treasure-cave of an attic, a
metaphysical-historical
rummage room and uncannily furnished doll's house in which to browse,
to
meditate precisely as do the flâneur,
ragpicker and collector in Benjamin's own staging.
1910: Việt
Nam mới có thợ cạo.
Lấy ai cũng
một tấm chồng,
Lấy anh thợ
cạo sợi lông không còn.
Lấy Tây phải
ngủ với bồi.

Le Monde
Littératures
Dossiers & Documents Juin 2010
“Always the
same world, yet one has patience.”
Walter Benjamin
Về Cỏ
Một phút ngừng
say
Bấc trĩu hoa
đèn nhựa úa nâu
Phải say nằm
khóc mộng ban đầu
Bước chân
song sóng vòng tay mở
Giạo ấy người
ơi xa lắm đâu
Chớm nụ tiếc
cho tình quá ngát
Mà thương trời
bể quá cao sâu
Tiếc thương
lẻn khói vào tâm trí
Mưa gió tàn đêm
lộng quán sầu
Vũ Hoàng
Chương: Thơ Say
Số ML tháng Mười có mấy bài OK. Bài về Czeslaw Milosz, nhân 100 năm
sinh của
ông.
Nếu thiên hướng
của nhà thơ, là chứng nhân của thời mình, thì thiên hướng đó đòi hỏi,
nhà thơ phải
tìm cho ra 1 thể thơ, nếu không thì cũng chẳng đi đến đâu [sans
laquelle l’entreprise
est vouée à l’échec].
Khi TTT xuất hiện, ông
phải tìm cho ra thể thơ tự do, để thực hiện cái
thiên hướng "chứng nhân" của ông. Và, nếu như thế, đâu phải tự dưng,
‘tùy tiện,
tùy hứng” mà có [thể] thơ tự do?
Bài phỏng vấn
Roth: Làm thế nào, trong 1 cuốn sách mỏng dính, mà bạn ra đòn hạ gục
địch thủ? Tôi
bị cầm tù bởi cõi thực.
Vargas
Llosa: Nếu đời như nó là thì làm sao nó thoả mãn được cơn khát vĩnh cửu
của ta?
Prix Goncourt won by 'Sunday writer'
"Nhà văn Chủ Nhật" thắng
Goncourt
A biology teacher from Lyon has won
France's top literary prize, the Prix
Goncourt, for his first novel.
Alexis Jenni, who describes himself
as
just a part-time author – a "Sunday writer" – was named winner of the
Goncourt yesterday lunchtime after the Académie Française jury voted by
five to
three to award his debut L'Art français de la guerre (The French Art of
War)
the prize ahead of the award-winning author Carole Martinez. The
Goncourt is
worth a token €10 but guarantees the winner sales of at least 400,000
copies.
A journey through France's military
history in Indochina, Algeria and at home, Jenni's 600-page novel is
told
through the eyes of Victorien Salagnon, a war veteran who becomes a
painter,
and the young man he teaches to paint in exchange for writing his
story.
""I saw the river of blood which flows through my peaceful town, I
saw the French art of war, which never changes, and I saw the turmoil
which
always happens for the same reasons, for French reasons which never
change," writes Jenni in the novel. "Victorien Salagnon gave me all
of time, through war which haunts our language."
Moroccan poet and writer Tahar Ben
Jelloun, on the jury for the Goncourt, described the winning novel as
"a
great literary work which touched on the history of France" in
French paper Le Figaro. Thanks
to Jenni, he said, "millions of young people will reflect on the war in
Indochina, in Algeria, in France today". His fellow jury member Bernard
Pivot said the novel was "innovative, interesting, exciting [and]
sublime".
Nhà thơ, nhà văn Ma Rốc,
Tahar Ben Jelloun, trong ban
giám khảo, phán, nhờ Jenni, "hàng triệu người trẻ ngày nay sẽ có cái
nhìn
về cuộc chiến ở Ðông Dương, Algeria, và ở Pháp".
Bernard Pivot, cũng trong
ban giám khảo, phán, cuốn tiểu thuyết “làm mới, thú vị, gay cấn” [không
biết có
“dâm ô”, như "nhìn từ lưng... chừng, nhìn xuống"?], và “tuyệt cú mèo,
thần sầu”!
Five years in the writing, L'Art
français de la guerre is Jenni's third completed manuscript but the
first which
he has managed to get published, sent by post to just one publisher,
Gallimard,
which snapped it up and has already sold 56,000 copies. A 48-year-old
school
teacher who has vowed not to give up his job following his win, Jenni
told French paper Le Monde
in August that "a year ago, I thought I would never be anything other
than
a Sunday writer. Today, I am exactly where I wanted to be, but where I
never
thought I would arrive".
The author, who blogs about
everyday
life in Lyon on his site Voyages
pas très loin, joins recent winners of
the Goncourt Michel Houllebecq and Jonathan Littell, and past winners
including
Marcel Proust and Simone de Beauvoir. Yesterday also saw the Prix
Renaudot
awarded to Emmanuel Carrère for Limonov, the story of the Russian
writer.
Bỏ
ra năm năm để viết "Nghệ thuật giết
người của Tẩy" bản thảo thứ ba hoàn tất, nhưng là bản thảo đầu tiên gửi
theo Bưu Ðiện tới nhà xb độc nhất mà ông tính thử thời vận,
nhà Gallimard. Cái việc được Gallimard in đã quái rồi, mà lại còn vừa
kịp để đợp
giải, mới cực khoái! Ông năm nay 48 tuổi, làm nghề dạy học, và, không
bỏ nghề
dù thắng giải, ông phán, "một năm trước đây, tôi nghĩ mình đếch có thể
là
cái gì hết, ngoài là Nhà Văn Nhủ Nhật. Bữa nay, tôi đúng là cái thứ mà
tôi muốn
là, nhưng trước đây, tôi chẳng hề nghĩ mình bò tới được cái chỗ đó!"
Chủ nghĩa tư
bản làm tha hóa con người?
NHQ Blog VOA
Bài viết này,
và những lập luận của Thầy Cuốc thật là nhảm. Cái sự kiện con người
quần tụ thành
nhóm, thành làng, thành đô thị, phố xá đông vui… thì là tự nhiên như
lịch sử loài
người từ thời thượng cổ đến giờ, đâu có phải do đô thị hoá, thương mại
hoá khiến
con người trở nên vô cảm?
Cái sự
kiện người
Tầu "vô cảm" không liên quan tới tư bản, cộng sản. Theo nhà văn Ha
Jin, đây là do người Tầu không tin có Ông Trời.
Cuốn tiểu
thuyết đầu tay chưa có của GCC
|
|