Ghi
chú
trong ngày
Blog Gã Cua
Đồng - NHỮNG CÔ GIÁO DẠY VĂN KHÔNG BAO GIỜ… ĐỌC
SÁCH!
at 5/12/2012
11:56:00 AM
Tình cờ đọc
bài này, cùng lúc với 1 bài trên tờ Intel
Life
Non cogito,
ergo sum
Tớ đếch nghĩ
vậy là tớ hiện hữu
INTELLIGENCE
THINKING...
can be a bad idea. Ian Leslie explains why
Suy nghĩ... có
khi là 1 ý tưởng bậy
To make good
decisions, you need to be skilled at ignoring information:
Để có quyết
định tốt bạn phải học bí quyết vờ thông tin.
V/v Bài của
Blog Gã Cua Đồng, GCC đã lèm bèm nhiều lần rồi, và nó liên quan tới cái
học của
VC, với những bài văn mẫu; cái học ngu ngốc bắt học thuộc lòng, viết
dưới
ánh sáng của Đảng, sư phạm học của hận thù...
Để rảnh, GCC
gõ Google Desktop, trình bày thêm.
Bài trên Intel, đúng là thần
sầu.
Rảnh TV sẽ dịch, cống hiến bạn đọc.
Hope: a Tragedy by Shalom Auslander
(Picador,
hardback, out now).
The Holocaust is still
claiming victims: that’s the
hypothesis here, and Shalom Auslander’s astonishing achievement is to
explore
it in a way that’s hilarious and disturbing, but never tasteless. Beset
with
bred-in-the-bone neuroses about concentration camps, a 21st-century
salesman,
Solomon Kugel, moves his family to a town “famous for nothing”—only to
discover, living in his attic, the elderly, incontinent Anne Frank,
rejected by
publishers whose profits depend on her being “Miss Holocaust 1945”, and
dead.
Should he kill her? Or cosset her? In describing Kugel’s vacillations,
which
swing between hangdog self-pity and foul-mouthed fury at the power of
the past,
the author seems to be teasing out his own conflicting feelings. “It’s
funny,”
the book begins and ends—and it is, very. But Auslander’s not joking.
Debacle in
Beijing
Băng Tan ở Bắc
Kinh
Câu chuyện về
sự bỏ chạy và sau đó chuồn vô Tòa Đại Sứ Mẽo ở Bắc Kinh của vị luật sư
mù chắc
sẽ dấy lên những tố cáo qua lại giữa hai bên, cho đến bầu cử ở Mẽo vào
tháng
11. Nhưng ít người nhận ra sự thực khốn kiếp, thô bỉ này: rằng, tất cả
những
mong ước gây ra, tạo nên thay đổi, những kẻ ở bên ngoài chẳng bấu víu
vào đâu,
[không có tí lực đòn bẩy nào] để mà tạo dáng tương lai TQ.
Nói như thế
thì không có nghĩa là TQ đời đời nằm trong vũng lầy toàn trị, và kẻ
đứng bên
ngoài, đếch làm được gì ngoài ‘chiêm ngưỡng và kính trọng”, [cái này là
thuổng
chữ của BHD].
Ngược hẳn lại,
những con người như Chen Guangcheng cho thấy, như thế nào TQ đang thay
đổi: từ
gốc rễ trở lên [lịch sử viết từ đáy, thuổng chữ của Benjamin], do những
con người
bình thường muốn đòi lại quyền của họ, kể cả quyền thúc đẩy đất nước
thay đổi.
Chen là 1
người nhà quê, sống ở nhà quê chưa hề tham dự một buổi học tập, với
chuyên đề
“xây dựng kiến thức, khả năng”, theo kiểu của Tây Phương [âm mưu diễn
biến hòa
bình của nước ngoài] của những cơ sở NGO, và thay vì vậy, ông tự học
luật. Ông
sử dụng nó - luật pháp - nổi tiếng nhất, bảnh nhất, là trong vụ chống
lại những
vụ bắt phải phá thai, và triệt sản - có thể trước đó vẫn phổ thông,
thịnh hành,
trong xứ Tầu, vốn đã đông con - nhưng được đưa thành quốc sách của nhà
nước TQ,
qua chủ trương chỉ 1 đứa con cho mỗi gia đình. Việc ông mù chỉ thêm
thắt vô cho
lời kêu gọi nhà nước thay đổi chế độ hà khắc giữa những người dân
thường. Nhưng,
như những con người ở “bước ngoặt của lịch sử” - kẻ ở mũi nhọn, kẻ bị
lịch sử lọc
ra vào đúng lúc xã hội cần thay đổi - ở bất cứ đâu đâu, ông chịu đựng
khổ đau.
Bị bắt vô tù, được tha, rồi trải qua nhiều năm quản thúc tại gia - một
hình thức
mới của chính quyền nhằm kiểm soát những nhà hoạt động đòi hỏi dân chủ,
mà không
cần phải đưa ra tòa. Sau cùng, ông chán ngấy, và chừng hai tuần lễ
trước đây,
ông đi một đường tuyệt vọng: làm 1 cuộc trốn chạy, vượt thoát tới Bắc
Kinh. Có
thể hiểu ra rằng thì là ông muốn chuồn. Rằng ông cũng chẳng có 1 chương
trình,
hay trò chơi đặc biệt nào, nhưng hẳn nhiên là ông muốn đi ra ngoài, ra
khỏi
nhà, hết muốn tù tại gia. Và khi ông đến được Bắc Kinh tuần vừa rồi,
ông thực sự
cần sự giúp đỡ. Chân ông bị xưng, và ông bị tách rời ra khỏi vợ con, mà
ông bỏ
lại ở tỉnh nhà, Shandong.
Quyết định cầu
cứu anh Mẽo, tới Tòa Đại Sứ của Mẽo của ông thì thú vị, và sau này
chúng ta sẽ
biết thêm về những động cơ của ông. Tuy những trường hợp của
họ thì cực
kỳ khác nhau, nhưng có thể cũng cùng 1 kiểu suy nghĩ như vậy mà anh
Trùm Cớm
Tầu , the Chongqing police chief, Wang
Lijun, vào Tháng Hai, cũng chuồn vô Tòa Lãnh Sự Mẽo - rằng, nếu một
người nào đó
gặp trục trặc với nhà nước Tẫu, là có thể cầu cứu Mẽo.
Với những
người Mẽo buồn phiền về sự thoái trào của nước Mẽo, điều này an ủi họ.
Nhưng như
thế là quá cường điệu, quá đề cao ảnh hưởng của Mẽo ở nước Tẫu. Với anh
Tẫu, Mẽo
hay bất cứ nước nào thì cũng chẳng làm được cái chó gì! Những kẻ đứng
bên lề chỉ
làm được có mỗi 1 chuyện là năn nỉ anh Tẫu, và chờ đến khi nào luật lệ
của họ đi
hết chu trình, tới hạn, bởi vì cho đến nay, đám ly khai cứ ăn đòn, rồi
tống xuất
qua Mẽo, hay 1 đất nước Tây Phương, 1 đất nước như thế thì khó có thể
là 1 đối
tác của dân chủ được. Nhưng cái ý nghĩ, rằng Mẽo có thể làm cho một xứ
sở hùng mạnh
như Tẫu thay đổi chính trị, hệ thống hình luật, chỉ bằng cách năn nỉ,
này, hãy
làm một điều gì đi chứ, 1 ý nghĩ như thế quả là khùng điên, ba trợn,
nếu không
muốn nói, hoang tưởng.
Ghi
chú
trong ngày
Tương tự,
nói về Văn Cao:
“Riêng trong âm nhạc, phải nói, cái bóng của Văn Cao
tỏa rợp khắp
nơi…Ông giữ nhiều sự thật nhưng không nói ra…Những sự thật ấy Văn Cao
đã mang
theo xuống nấm mồ của mình…
Chúng ta yêu nhạc của ông và sợ.
Sợ vì nghĩ rằng, nếu một người đã im lặng trước sự
thật của mình, e rằng
cũng sẽ im lặng trước sự thật của người khác…” (qI, 428-429).
Đọc những lời này không khỏi nghĩ đến câu
thường nghe “im lặng là đồng lõa (với tội ác).” Đó có phải lý do NĐT
viết những
lời đã dẫn? Sự tinh tế không cho phép mình chọn lựa lúc nào nên lúc nào
không,
khi gặp Văn Cao NĐT đã thấy gì và nghe được những gì? Chúng ta sẽ ra
sao nếu bị
đứng ở chỗ Văn Cao? Câu hỏi cũ lại quẩn quanh đầu óc, những chuyện bể
dâu đổi
bao thân phận bao cuộc đời, có bao giờ chúng ta giải thích được với
nhau? Thật
buồn khi phải ước ao “[ước] gì chúng ta có thể nghe nhạc của Văn Cao
(và nhiều
người khác nữa) mà không phải thắc mắc một chút gì khác ngoài nhạc của
họ…” và
quả thật, “…không biết chúng ta nên quên hay nhớ kỹ hơn nữa mọi chuyện,
để có
thể sống với nhau…”(qI, 221)
Lưu Na
Blog
Phố Văn.
Những nhận xét
về Văn Cao của tác giả “Bông Hồng Tạ Ơn” sợ… không
đúng.
Có thể vì Nguyễn Đình Toàn không biết những sự kiện, sau này, về Văn
Cao, thí dụ,
bài viết “Tại Sao Tôi Viết Tiến Quân Ca?”
Hay là bài trả lời Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Văn Cao chẳng hề im lặng, thành ra đừng đặt câu hỏi này với ông.
Có lẽ suốt 1 cõi Ác VC, chỉ có mỗi một mình ông dám nhận, ta đã giết
người.
Thời của ông là:
Chỉ 1 mình ông phán, tao
có mặt, và tao đã giết
người.
Còn lại là 1 lũ không mặt, ẩn mặt.
Viết về Văn Cao đúng nhất, là… Kundera.
« Ce n'était
pas seulement le temps de l'horreur, c'était aussi le temps du lyrisme!
Le
poète régnait avec le bourreau ".
Đâu chỉ là
thời của ghê rợn, của CCRD, của Đấu Tố, của Nhân Văn Giai Phẩm, mà còn
là thời
của thơ ca trữ tình, Mặt Trời Chân Lý Chói Qua Tim, Đường Ra Trận Mùa
Này Đẹp Lắm.
Thời Của Văn
Cao: Thi sĩ lên ngôi trị vì cùng với đao phủ.
Trang
Văn Cao
Kính gửi ông
Nguyễn Quốc Trụ
Thưa ông,
Trong bài
“Nhân 80 năm ngày sinh của Văn Cao (15 tháng 11 năm 1923)” (1) đăng trên
tanvien.net nói về Văn Cao (Xem bài gửi kèm) ông cho rằng:
1.
Đỗ Đức
Phin, là một trong những lãnh tụ của Đại Việt Quốc Gia Liên Minh, lúc
đó đang
nhận lại chính quyền do người Nhật chuyển giao. Nên nhớ vụ giết người
xẩy ra
vào tháng Năm 1945, là lúc Nhật đã thua, và họ muốn làm một việc tốt,
theo người
viết, là chuyển giao chính quyền cho người Việt Nam, chứ không phải trả
lại cho
người Pháp. Họ đã không nói chuyện với những người mà họ tin là cộng
sản, tức một
tổ chức quốc tế, có thể như vậy. Và vì vậy, mà Cộng Sản ra lệnh thủ
tiêu Đỗ Đức
Phin?
2.
Bùi Ngọc
Tấn, trong bài viết Rừng Xưa Xanh Lá,
đăng trên diễn đàn Talawas, cho
biết thêm
chi tiết, Đỗ Đức Phin là bạn của Văn Cao.
Xin lưu ý
ông:
Thứ nhất: Đỗ
Đức Phin lúc đó chỉ là một thông ngôn cho hiến binh Nhật. Nếu là một
thông
ngôn, chắc hẳn Đỗ Đức Phin chưa bị bắn, nhưng tiếc thay, ông ta lại kèm
thêm
máu chỉ điểm.
Bố tôi (sinh
1911) và anh ruột tôi (sinh 1933) - là
những người biết nhiều về Văn Cao và về Hải Phòng khá rõ - nói rằng
chưa thấy
ai nói Đỗ Đức Phin là nhân vật có tiếng tăm ở Hải Phòng vào năm 1945 để
Nhật
trao quyền cả.
Thứ hai: Đỗ
Đức Phin không phải là bạn của Văn Cao.
Xin ông đọc kỹ đoạn văn của Bùi Ngọc Tấn nói về ông Lê Đại Thanh:
“Đại Việt quốc
gia liên minh, một đảng thân Nhật hứa dành cho ông chức thị trưởng Hải
Phòng.
Ông từ chối.
Tháng 5 năm
1945, ông bị hiến binh Nhật bắt. Biết trước tin này, nhưng dựa vào tính
hợp
pháp của mình, ông không rút vào bí mật. Nhật bắt ông khi ông đang diễn
thuyết ở
hội quán APA. Đỗ Đức Phin đã đưa hiến binh Nhật đến. Ít lâu sau Phin bị
bắn chết.
Người thi hành bản án này là Văn Cao, bạn ông. Cách mạng tháng Tám
thành công,
ông được đề cử làm phó chủ tịch uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời
thành phố,
nhưng ông chỉ nhận chức uỷ viên tuyên truyền phù hợp với ông”.
Thưa ông
Nguyễn Quốc Trụ, cụm “Văn Cao, bạn
ông” phải hiểu Văn Cao là bạn
của ông Lê Đại Thanh.
Sự thật ông
Văn Cao chưa bao giờ là bạn của Đỗ Đức Phin cả.
Nguyễn Văn
Kiến
Hải Phòng
Nguyễn Quốc
Trụ phúc đáp:
Trân trọng cảm
ơn ông/anh/bạn Nguyễn Văn Kiến đã cho thêm chi tiết, và làm rõ một chi
tiết
trong bài viết của tôi về Văn Cao.
Sau khi đọc
lại, tôi nghĩ, cụm từ "Văn Cao bạn ông", đúng là phải hiểu như ông bạn
cắt nghĩa.
Kính
NQT
Tự Kiểm
Trong một
bài viết về Văn Cao, tôi có kể rằng là ông nhạc sĩ tài hoa này, vì đói
quá, mà
phải theo lệnh của tổ chức, cầm súng giết người.
Những điều
này, chính do Văn Cao viết ra. Tại sao ông lại phải tố cáo tội ác mà
ông đã phạm
phải như vậy, sao không ỉm đi?
Theo tôi, ấy
là vì ông sợ ỉm đi, sau này, nhân loại sẽ hiểu lầm, mà nghĩ rằng ông ta
là một
con người cao cả, thánh thiện.
Thế đấy, có
những con người ghê gớm như thế đấy, sợ mình chết đi, nhân loại hiểu
sai về
mình, coi mình là một ông thánh, mà sự thực, mình không đáng như vậy.
Nhưng, thừa
thắng xông lên, tôi bèn tố thêm, người mà ông Văn Cao giết đó, là bạn
của ông
Văn Cao.
Chứng cớ
đâu? Tôi chỉ ra, thì chính nhà văn Bùi Ngọc Tấn viết, trong bài Rừng Chưa Xanh Lá, đăng trên talawas.
Một độc giả ở
trong nước bèn viết mail cho tôi, nói, ông ngu quá, đọc không thủng
đoạn văn của
BNT, bởi vì, BNT nói, Văn Cao là bạn của ông kia, ông khác, chứ không
phải của
cái thằng "Việt Gian" bị Văn Cao giết.
Đọc lại, quả
đúng như vậy. Tôi đọc vội đọc vàng, ba chớp ba nháng, gán cho Văn Cao
cái tội tầy
trời là giết bạn.
Bèn đi một
đường tạ tội, tạ ơn người đã chỉ cho mình cái lầm còn lớn lao hơn cả
tội ác đó.
Ông bạn văn ở
trong nước bèn đi tiếp một cái mail, tỏ ra hài lòng; gật gù, được,
được, được!
Lịch sử bị
gián đoạn: sự sống sau cái chết thể xác trong tác phẩm hư cấu của miền
Nam Việt
Nam và các cộng đồng diasporic Việt (1)
Thú thực GCC
đọc bài này mà buồn cười quá.
Giá mà nó được
đăng ở một chỗ khác, thì chắc cũng đỡ buồn cười, nhưng lại được Sến Cô
Nương trịnh
trọng post trên "ừ hay không ừ" [contre & pro mà chẳng có nghĩa
là “ừ hay không ử” ư? Nên nhớ, một em mà "ừ", là vứt đi!] của Sến,
nên mới bõ công liếc mắt ngó.
Ngó rồi mới
hỡi ơi.
Cũng đầy ra rồi, và GCC
thì cũng đã từng lèm bèm đòi phen, và khi phải “giải mã”,
bèn bệ câu chuyện ngụ ngôn về một anh chàng nhà quê thấy mấy ông già vô
tiệm, cầm
lên cặp kiếng, và bèn đọc… sách, thế là anh nhà quê cũng bắt chước, vô
tiệm mua
kiếng và… đọc sách!
Tiếng Ăng Lê, của nguyên tác của bài viết này, thì có khác gì cặp
kiếng, dành cho mấy thứ đếch biết viết văn?
Hà, hà!
Đây là thứ văn
bản phải viết bằng tiếng mũi lõ, vì chỉ có cách đó, nó mới trở thành
văn chương!
Từ từ GCC sẽ
nêu ra những nhận định cà chớn của tác giả!
Hà, hà!

Nhà Văn Nguyễn
Mạnh Côn, người tù bị bọn Cai Tù Việt Cộng bắt Chết vì Khát và Ðói
trong Trại
Tù Khổ Sai Xuyên Mộc.
CHOÉ vẽ. (2)

5.5.2012
Nhìn bức
hình là bèn nhớ Mai Thảo!
Nhớ những câu thơ thần sầu
của ông:
"Đặt tay vào chỗ không thể
đặt
Vậy mà đặt
được chẳng làm sao
Mười năm gặp
lại trên hè phố
Cười tủm còn
thương đặt chỗ nào..."
Có điều, lúc
gặp trên hè phố thì là tưởng nhớ lại.
Ở đây, thô tục.
Mũi lõ kêu
là hình porno.
Vậy mà cũng
post lên FB, rồi xúm vô khen lấy khen để!

Mua tại
tiệm
sách cũ, nửa tô phở, vì bài giới thiệu của Murakami.
Ông phán:
Akutagawa là nhà văn có thế giá cực kỳ uyên nguyên Nhựt Bổn, không hề
có tí dởm,
một thứ nhà văn Nhựt còn trinh [mượn chữ của Thầy Kuốc]!
In Japan Akuragawa
Ryusonsuke is a writer of genuinely national stature.
Bài tuyệt lắm.
TV sẽ giới thiệu, cùng lúc, nhân đó, đi tìm một nhà văn Mít cực Mít.
Nhà văn Tạ
Duy Anh: Ngửi là biết đàn bà hư, ngoan
Tụi mũi lõ có
câu Gái hư bóp nát t[r]im bạn: Bad girls break hearts
TDA chắc chưa đọc Đời Mưa Gió
của Khái Hưng,
càng chưa đọc The Bad Girl của Vargas Llosa.
GCC mê gái hư,
không mê gái ngoan!
Hà, hà!
Mario
Vargas Llosa's engaging novel The Bad Girl is not only a story of
thwarted love, it reveals a haunted swath
of the third world diaspora. Its characters are cast about the globe
like seeds
in the wind. Homeless in their adopted countries, the host of
nationalities
that populate the novel become the sum and subject of their ambitions
and
desires. Sound familiar? It should. Llosa has snatched the art of
self-invention away from the earnest and mopey Great American Novel and
fashioned it, with glorious effect, to suit his cast of exiles.
Đọc 1 phát
là bạn bèn nhớ tới những cô gái xứ Mit, nhờ thành quả cách mạng 30
Tháng Tư
1975, làm
dâu xứ Hàn, làm gái hư ở nước người... a haunted swath
of the third world diaspora. Its characters are cast about the globe
like seeds
in the wind.
Số báo cũng
khá cũ [số 106, 2009] nhưng mua ở tiệm không phải bán sách báo cũ, nên
giá chẳng cũ. Trong có
1 bài, ở lề của tờ báo, như bià sau ghi: Plus John
Banville’s objet trouvé and poetry by
Fanny Howe, [kèm bài viết vật kiếm
thấy của Banville, và thơ của Howe].

Bài của JB
ngắn, ở lề, nhưng tuyệt vời, viết về nghệ thuật mất, “the art of
losing”.
TV sẽ
dịch bài này, tặng độc giả TV, thứ nghệ thuật, không khó làm chủ, the
art of
losing is one that is not hard to master, và có rất nhiều điều hình như
tắm đẫm
cái ước mong được mất đi, nhờ vậy mà cái sự mất đi của chúng không là
một thảm
họa [“seem filled with the intent/to be lost that their loss is no
disaster”], Banville mượn ý thơ của E. Bishop để giải thích.
Chúng ta chẳng
bao giờ trưởng thành, nhưng cứ thêm tuổi mãi ra, già mãi ra, rồi già -
và cái
nhu cầu đồ chơi, và chơi đồ thì chẳng bao giờ yếu đi.
Tay Banville
này, nhà văn, nhưng viết essay, viết review cũng thuộc bậc thầy.
Xứ Mít chưa
đẻ ra được thứ nhà văn này. Toàn thứ viết làm xàm ba cái truyện ngắn,
truyện
dài, bằng 1 thứ văn phong “có sẵn trong trời đất”, trên báo chí,
trong văn của người, nhiễm độc hồi nào không hay, bản thân, chưa từng
có ai đẻ ra được 1 thứ văn phong của riêng mình...

John
Banville còn thử thay nghề viết truyện trinh thám với cái nick Benjamin
Black.
TLS số April 13 2012 có nhắc tới ông, trong sổ tay văn học, với cái tít
Who’s
who, và tiện thể còn nhắc đến cả 1 lô những nhà văn viết bằng
những cái nick khác
nhau, như Romain Gary, người đợp hai lần Goncourt, dù giải này quy định, chỉ
1 lần là đủ, khác Booker Prize
của Anh.
Tin Văn đã từng đi một đường tưởng niệm
Mai Thảo, khi ông dùng cái nick Nhị, để mần thơ.
Nhưng TTT không có cái may này.
Trước khi thành danh với cái nick TTT, thì ông có vài cái nick, nhưng
sau khi “chết
tên” rồi, là thôi.
Chứng cớ, trong thư gửi đảo xa, ông kể, ông làm thơ tặng đảo xa,
đăng báo Văn, ký nick khác,
MT & Ông Vượng, chủ báo lắc đầu, no!
GCC thì nhiều
nick quá. Lần trốn cái tên NQT tên sa đích văn nghệ, mượn cái tên của
đứa cháu
gái, viết VHNT & Việt Báo online, "chấn động giang hồ", độc nhất có
1 tay phê bình gia BVP là nhận ra, vì quá rành những
tác giả GCC đọc & trích dẫn [Steiner, Kafka, Bejamin… thí dụ]
Banville
says that he started writing novels at the age of 12. His early
attempts were
"dreadful imitations" of Joyce's Dubliners; the opening line of one
was, "The white May blossom swooned slowly into the open mouth of the
grave".
Banville cho
biết ông khởi sự viết văn khi 12 tuổi, và những bản văn đầu tay “bắt
chước thê thảm,
chết người” Những người dân thành
phố Dublin của Joyce, thí dụ dòng mở ra 1 bản
văn, "The white May blossom swooned slowly into the open mouth of the
grave"
[tạm dịch, “Bông
Tháng Năm, trắng toát, xỉu dần đi trong miệng huyệt mở rộng”]
The
past beats inside me like a second heart
All works of art are scar tissue.
Tác
phẩm 'nghệ thuật' nào [của Gấu] thì cũng như vết sẹo [ở trên tay
cô bạn],
và quá khứ những ngày ở Sài Gòn là trái tim thứ nhì [ở trong Gấu].
Nó đập còn dữ dằn hơn trái tim thứ nhất.
Càng đập càng nhớ... vết sẹo! (1)
John Banville
Note: Bài viết
về Cesare Pavese mới thê lương làm sao, “viết ngoài đời”. Trong nhật
ký, ông than
thở, "chẳng em nào chơi với tôi, sẽ chẳng bao giờ chơi với tôi.”
Trách nào tự
tử.
Nơi chốn
không làm sao sống nổi, là nơi chốn mà con người cảm thấy hạnh phúc!
Một cái lý
do tốt lành để mà tự tử, thì không hiếm hoi, ở bất cứ một con người!
Nỗi buồn lớn
lao nhất, mà một con người cảm thấy, đó là khi những lý tưởng thất bại
của người
đó, biến thành hiện thực! (1)
Researchers
found that subjects who read Kafka's "The Country Doctor"—which
includes feverish hallucinations from the narrator and surreal
elements—performed better on a subsequent learning task than a control
group
that read a straightforward summary of the story. (They probably
enjoyed
themselves a lot more while reading, too.)
Các nhà
nghiên cứu thấy rằng các đối tượng đọc “The Country Doctor” của Kafka -
[tôi
chưa đọc] truyện này có những ảo giác bồn chồn [chắc phải đọc truyện
mới biết
feverish hallucations thực sự là gì - chỗ này dịch loạn] của người kể
chuyện và
những yếu tố siêu thực - thì sau đó làm một bài tập tốt hơn một nhóm
đối chứng
đọc một bản tóm tắt truyện giản đơn.
Blog
GM
GCC biết đến Amoz Oz, là qua bài viết về Y sĩ đồng quê của ông, trên tờ Partisan.
Và có thể bị ám
ảnh bởi câu của Nguyễn Mạnh Côn, khi dịch truyện ngắn trên của Kafka
qua tiếng
Việt [dịch thì
dịch, nhưng chẳng hiểu tác giả muốn
nói gì! (Tôi viết theo trí nhớ)], và bây giờ, qua những dòng trên, từ
Blog GM -
như một bằng chứng - bị, những cơn "hoang tưởng phát sốt" [đúng cái cú
xẩy ra khi đọc Ngôn ngữ và Câm Lặng
của Steiner], GCC “ơ ra ka” một tiếng thấu trời, đúng rồi,
truyện ngắn này Kafka viết, như 1 lời tiên tri, cảnh báo… lũ Bắc Kít!
Cái ông y sĩ
đồng quê, bị "báo động hoảng", Mỹ Ngụy
xâm lược Miền Nam, bèn muợn cặp ngựa của anh Tẫu nằm phục nơi chuồng
heo Lạng Sơn,
Bắc Cạn, khỉ gì đó, và, thí cô người làm Rose cho tên Tẫu, trừ cặp
ngựa, và, phóng chiếc xe,
xẻ dọc Trường Sơn, đến nơi, đến ngày 30 Tháng Tư 1975, bèn… ngồi khóc
bên lề đường Sài Gòn, “ta bị lừa, ta bị lừa”!
Đúng là THNM
rồi!
Hà, hà!
Oz đọc Y Sĩ Đồng
Quê của Kafka
Bạn
đọc Y Sĩ Đồng Quê, và
tưởng tượng ra rằng thì là, đây chính là linh hồn của
một miền đất, nghe tiếng cầu cứu của một con bệnh trầm trọng ở mãi tận
miền
nam, và, tìm đủ mọi cách để đến bên giường người bệnh, do không có
ngựa, nên phải
mượn đôi ngựa của con quỉ ở nơi chuồng lợn, và vì thế mà phải hy sinh
cô hầu
gái, cuối cùng nhận ra, chỉ là báo động hoảng, và ngửa mặt lên trời la
lớn: "Ta
bị lừa, bị lừa, bị lừa!"
Và đây là hình ảnh của viên y sĩ sau khi bị lừa:
"Trần trụi, phơi người ra trong giá lạnh vào cái thời bất hạnh nhất,
với cỗ
xe trần thế, với cặp ngựa ngược đời, già như tôi, tôi bơ vơ lạc lõng"
("Naked, exposed to the frost of this most unhappy of ages, with an
earthly vehicle, unearthly horses, old man that I am, I wander astray."
Một cách nào đó, viên y sĩ của Kafka còn xuất hiện dưới cái mặt nạ của
một vua
Lear, của một ông tướng về hưu.
Thê thảm nhất, là, sau khi đã xây dựng xong địa ngục, với sự đóng góp
của mình ở
trỏng, viên tướng già về hưu, và phải sống nhờ vào cái chuồng lợn của
cô con
dâu, được vỗ béo bằng những thai nhi !
*
Cái chết của Lucien de Rubempré là một bi kịch lớn trong đời tôi, Oscar
Wilde
đã từng tuyên bố.
Nhưng Lucien de Rubempré là ai?
Một nhân vật trong một cuốn tiểu thuyết của Balzac.
Varga Llosa, "chuẩn" Nobel như tin của AFP ở trên, tin rằng, lời tuyên
bố của
Wilde, là
phải được hiểu theo nghĩa 'thực tại ở đời", theo nghĩa đen!
Bởi vì có những nhân vật giả tưởng còn thực hơn cả sự thực!
Viên
y sĩ đồng quê của Kafka là một "vĩ nhân" như thế! (1)
Virginia Woolf on Fiction
Only
Connect
"On or about
December 1910, human character changed."
— Virginia
Woolf, 1924
Cỡ
Tháng Chạp 1910, “tính” người thay đổi.
GCC đế thêm: Cỡ 30 Tháng Tư 1975, Mít VC
biến thành… Bọ!
She was
exaggerating — but only a little. Woolf saw a fundamental shift in
human
relations taking place at the beginning of the 20th century "between
masters and servants, husbands and wives, parents and children." Those
changes, she predicted, would bring about transformations in every
sphere of
life, from religion to politics to human behavior. Few would say she
got it
wrong.
A century
later, we are living through another transition. The way we connect
with one
another and with the institutions in our lives is evolving. There is an
erosion
of trust in authority, a decentralizing of power and at the same time,
perhaps,
a greater faith in one another. Our sense of identity is more variable,
while
our sense of privacy is expanding. What was once considered intimate is
now
shared among millions with a keystroke.
Scholars
of
Sodom
Bùi Ngọc Tấn
Tôi viết về những
người cam chịu lịch sử

Sư phụ, khi chủ
nghĩa CS của chúng ta ngoạm được nước Pháp, chúng ta sẽ làm gì với
Joyce?
Gide,
sau một lúc suy tư, trả lời:
-Chúng
ta kệ mẹ ông ta.
«
Maître, quand nous aurons le communisme en France, que ferons-nous de
Joyce?».
Gide,
après une longue réflexion:
«Nous
le laisserons tranquille. »
Vừa
nhắc
tới ông Trùm Gorky, là thấy quan tài, là bèn nhỏ lệ (1).
(1)
Đây là văn chương chưởng: Mi chưa đi mưa chưa biết lạnh, chưa thấy quan
tài
chưa nhỏ lệ!
Hình:
Gide đọc ai điếu, trong đám táng Gorky,
tại Quảng Trường Đỏ.
*
Nói
chuyện
cam chịu lịch sử, và nổi tiếng nhờ nó, bảnh nhất, theo Gấu, là nhà văn
Anh gốc
Nhật, viết văn bằng tiếng Anh 'hách hơn Ăng lê', Kazuo Ishiguro,
tác giả Tàn
Ngày, Remains of the day,
được Booker Prize. Ông thuộc trào lưu những nhà văn trẻ bảnh của
Anh, gồm
Martin Amis, Salman Rushdie…
Trên số báo Le Magazine Littéraire,
April
2006, đặc
biệt về 'em' Duras, cô đầm ở xứ An Nam Mít, có bài phỏng vấn ông, do
Trần Minh
Huy thực hiện, ‘K.I., thời của hoài nhớ’, ‘K.I, chúng ta là những đứa
trẻ mồ côi’...
Khi được hỏi, sự thiếu vắng nổi loạn thật là rõ ràng
trong tất cả các tác phẩm
của ông, K.I. trả lời: "Đúng như thế, những nhân
vật như Stevens trong Tàn Ngày,
họ chấp
nhận những gì đời đem đến cho họ, và, bằng mọi cách, đóng trọn vai trò
cam chịu
lịch sử, thay vì nổi loạn, bỏ chạy… và cố tìm trong đó, cái gọi là nhân
phẩm,
chẳng bao giờ tra hỏi chế độ."
Cái gọi là nhân phẩm, bật ra từ Tàn
Ngày, và là chủ đề của cuốn tiểu thuyết đưa ông đài danh vọng,
và đã
được quay thành phim…
"Tôi
[K.I.] muốn
chứng minh sự can đảm của Stevens, nhân phẩm của anh ta, khi đối mặt
với cái điều, người ta đã làm hỏng đời của anh ta”.
K.I có một câu phán thật tuyệt, và thật đúng, nếu áp dụng vào "thời của
Gấu
và BHD":
Có một thứ hoài nhớ đếch mắc mớ gì tới Lịch Sử, mà tất cả
chúng ta đều cảm nhận được, những nhớ nhung về một thời mà chúng ta đều
ngây thơ, hơn cả... Chúa, khi chưa lên Ngôi.
Hình như nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên có câu: Chúa khi chưa đắc đạo,
Phật khi chưa giác ngộ, chắc gì đã mê gái như ta?
Tuyệt!

Looking on a
Russian Photograph, 1928/1995
It's the
classic picture of doom. Three great poets stand together in 1928, the
Revolution just a decade old, their hearts and brains soon to be dashed
out on
the rocks of Russian fascism, the flower of their achievements destined
to be
crushed by the new czar, Stalin.
Eisenstein,
Mayakovski, Pasternak - each will die in his own tortured way.
Mayakovski,
rebuffed in love, imprisoned in Moscow, will kill himself in 1930, at
the age
of thirty-six. Eisenstein's broken heart will give out in 1948,
cherished projects
betrayed, the fifty-year-old filmmaker persecuted abroad and closely
watched at
home. Pasternak, long denied by his government, will finally survive
Stalin -
yet, when his magnum opus, Doctor Zhivago, earns him the Nobel Prize in
1958,
he will not be permitted to accept, his book burned, his name
excoriated in his
homeland.
But there
they stand in 1928, brave young hearts, frozen in triumph, the last
symbols of
a civilization about to go mad. Yet I find. myself thinking - how lucky
they
are, these three, able to experience lives of great crisis and choice.
Were
they not gifted with an energy that brought them each full-bore into
what
Justice Oliver Wendell Holmes called the "passion and peril of their
times"?
We shall all
lose, it is inevitable. The issue is how we lose, on what terms. These
three
men played out their lives across the dark landscape of a cursed
country, each
sought as a solace from a mad czar, who with quasi-Asiatic mind
tortured them
with the impossibility of reason.
I do not
seek such death. I choose the milder climes of the USA circa
the late twentieth century - although these times, less sinister
certainly than
Stalinist ones, may be equally dangerous-for what is in danger, in the
largest
sense, is the soul. And the soul that dies in its lifetime is the
sterile,
timid, cynical soul that is never tested by its time. Though tests too
can be
boredom. Luxury, television and the accelerating sameness of
information can be
far more ruthless than war or disease.
So I say-in
death, rest. There is much time later to sleep.
Until then
party - party hard, suffer hard. Live lives suffused with cycles of joy
and
sorrow. Participate above all in the travails of your time, as artists
your
shoulders equal to all working and struggling people, neither higher
nor lower
but equal to its spirit in its own time.
Vladimir
Mayakovski, Sergei Eisenstein, Boris Pasternak - I salute you.
- Oliver
Stone
The Paris
Review Winter 1995: Russian Portraits
Quái đản thật.
Ở cái xứ VC Niên Xô này, ngay cả những tay theo Đảng, phò Đảng thì cũng
bảnh, cực
bảnh, như bộ ba trên đây.
Vladimir
Mayakovski, Sergei Eisenstein, Boris Pasternak - Gấu Cà Chớn chào các
vị Thầy.
Ở cái xứ Bắc
Kít, toàn Kít!
Một
bức hình cổ điển về đọa đầy, trầm luân, bất hạnh…Ba nhà thơ lớn chụp
chung với
nhau vào năm 1928, Cách Mạng thì mới được 10 tuổi, tim và óc của họ sẽ
nát bấy
ra trên những hòn đá của phát xít Nga, bông hoa thành tựu sẽ bị nghiền
nát dưới
gót giầy của sa hoàng mới của Nga – Stalin.
Eisenstein,
Mayakovski,
Pasternak - mỗi
người một cái chết, mỗi người một cuộc tra tấn riêng. Mayakovski, bị cự
tuyệt
trong tình yêu, bị cầm tù tại Moscow, tự sát vào năm 1930, ở tuổi đời
36. Trái
tim bể của Eisenstein ngưng đập vào năm 1948, những đồ án nâng niu bị
phản bội,
nhà làm phim 53 tuổi bị truy đuổi bách hại khi ở hải ngoại, bị canh
trừng chặt
chẽ khi ở nhà. Pasternak,
đã từ lâu bị nhà cầm quyền của ông chối từ, sau cùng sống sót chế độ
Stalin –
tuy nhiên khi tuyệt tác của ông Bác Sĩ
Zhivago được trao Nobel, ông không được phép đi nhận giải, sách bị
đốt, tên
bị trà đạp bôi nhọ ở quê nhà.
Nhưng,
như bức hình cho thấy, ba nhà thơ đứng hiên ngang, vào năm 1928, ba
trái tim trẻ,
can đảm, đông lạnh trong chiến thắng, những biểu tượng sau cùng của 1
nền văn
minh trước khi nó trở thành khùng điên, ba trợn. Tuy nhiên, riêng tôi,
thì lại nhận
ra 1 điều,
họ mới hạnh phúc, may mắn biết bao, khi cả ba có thể kinh nghiệm những
cuộc khủng
hoảng lớn, và chọn lựa lớn.
Nhờ mấy đấng
BVVC [Bạn Văn VC], Gấu Cà Chớn tìm lại được 1 thằng Gấu trẻ, phê bình
gia, tên
sa đích văn nghệ.
Đọc lại, GCC phát giác, có hai tên Gấu, một trẻ, một già, y
chang có hai Marx.
Gấu Trẻ hồi đó quả là quá mê Mác,1 Mác trong
trắng, ngây thơ, tươi
mát, chưa vướng 1 tí ác.
Một thứ Mác Xít như là 1 giấc mơ tuyệt vời của nhân loại,
qua những bậc thầy như Lukacs, Lefebvre…
Bài trên London Review nhìn
lại cụ Mác, khi cụ thọ 193 tuổi.
Đọc loáng thoáng thấy OK, để
coi coi…