|
Nhật
báo Người Việt
Buổi ra
mắt sách
“Những Miểng Vụn Của Tiểu
Thuyết”
của THẢO TRƯỜNG
THƯ MỜI
Kính mời quý vị tham dự buổi
ra mắt cuốn sách
“Những Miểng Vụn Của Tiểu
Thuyết” của nhà văn Thảo Trường.
Thời gian: Từ 1:00 pm đến
4:00 pm ngày Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2008.
Địa điểm: Phòng sinh hoạt Lê
Đình Điểu nhật báo Người Việt,
14771 Moran Street, Westminster,
CA 92683.
Thảo
Trường là nhà văn nổi
tiếng của miền Nam, đã trải qua gần 17 năm tù sau 1975 trong chế độ
cộng sản.
Từ khi sang định cư Hoa Kỳ năm 1993, ông đã tiếp tục viết
nhiều tác phẩm. “Những Miểng Vụn Của Tiểu
Thuyết” do Người Việt xuất bản là một Tuyển Tập gồm những tác phẩm quan
trọng
nhất của ông.
Ban Tổ Chức kính mời
Trân trọng giới thiệu
Giá
25 US
Xin
hỏi các tiệm sách nơi bạn cư ngụ
*
...
Cho tới năm 1975 tội lớn nhất của Cộng Sản, là thắng trận
và
chiến công lớn nhất của Cộng Hòa là thua trận!
...
Phải luôn luôn nhớ rằng, hãy quên đi tất cả...
*
Little Saigon,
Nghiêm, Thảo Trường, và tôi
Cai
Lậy, Mỹ Tho
DTH coi
cuộc chiến vừa qua là
ngu xuẩn nhất trong lịch sử dân Mít.
Nói như thế, là nhìn mặt nổi
của nó, rồi phán, hay, đây là giá trị
biểu kiến của nó. Mặt chìm, cuộc chiến là "đỉnh cao hận thù" Nam Bắc:
Cho đến 1975, tội ác lớn nhất của VC là thắng trận, như Thảo Trường
phán, là
theo nghĩa đó.
Hận thù Nam Bắc bắt đầu, khi
có cái gọi là Đàng Trong. Nói hận thù không đúng, mà phải nói, cái sự
thèm
thuồng mảnh đất Đàng Trong, của Đàng Ngoài.
Một số
sử gia cũng phán y
chang về Cuộc Chiến Lạnh. Theo Applebaum, trong Gulag một lịch sử, năm
2002,
một tay trên báo Spectator thuộc phe
bảo thủ Anh, phán: Cuộc Chiến Lạnh là "một trong những cuộc xung đột
không
cần thiết nhất của mọi thời", là cũng theo nghĩa đó.
Không có cuộc chiến Nam Bắc
Lần Thứ Hai, thì mới lạ! Mới quái dị!
Bước ngoặt vĩ đại, hay nói
theo Milosz, 1975: Anus Mundi của Mít!
*
Cái
chết của Milosz làm Gấu
nhớ tới từ Anus Mundi của ông.
Anus Mundi có nghĩa là hậu
môn của thế giới. Theo Milosz, một người Đức đã viết ra định nghĩa này,
để chỉ
xứ Ba Lan, vào thời điểm 1942.
Nhưng Anus Mundi lại làm cho
người đọc liên tưởng tới từ Anno Mundi, tiếng La Tinh, có nghĩa là "vào
năm của thế giới" [in the year of the world], tức khi thế giới bắt đầu.
Milosz định nghĩa Anus Mundi:
The cloaca of the world.
Như chúng ta đã biết, chỉ có
loài vật thượng đẳng mới có cơ quan sinh dục riêng, hậu môn, nơi để bài
tiết,
riêng. Với loài hạ đẳng, chỉ có cloaca, tức hậu môn, dùng cho cả hai
việc, làm
cơ quan sinh dục và làm nơi bài tiết.
Xứ sở Balan vào năm 1942, là
anus mundi, là theo nghĩa đó.
Khi Gấu
mượn từ này của
Milosz, trong bài viết về Nếu Đi Hết
Biển của Trần Văn Thuỷ, là theo nghĩa của
từ Anno Mundi, năm bắt đầu thế giới, và còn theo nghĩa năm Thượng Đế từ
bỏ
chúng ta, của triết gia người Do Thái, Emmanuel Levinas.
Và Gấu coi đó là năm 1975,
đối với Việt Nam.
Hậu môn của thế giới.
Năm Thế Giới.
Năm "Chúa đã bỏ loài
người, Phật đã bỏ loài người". [TCS].
Năm chân lý "nước Việt Nam là
một", bị lường gạt.
Bị làm nhục.
Nếu đi hết biển
*
Trong Gulag một lịch sử, Anne
Applebaum đặt vấn đề, thật căng: Sau khi
xẩy ra Gulag, hiểu nó, là tối quan trọng, y chang Grass đặt vấn đề,
muốn thống
nhất nước Đức, là phải ôm chặt lấy Lò Thiêu.
Cũng thế, đối với chúng ta. Có
thể nói, sau 1975, trừ những tay VC nằm cùng, cả Miền Nam là
tù cải tạo,
theo một nghĩa ngầm nào đó!
Phải ôm riết lấy Miền Nam là theo nghĩa
đó.
Đừng nghĩ Gấu này khêu gợi hận thù Nam Bắc!
Đây cũng là vấn đề của những
anh chống Đảng, phản Đảng, ly khai, chống đối, như một sử gia cố gắng
diễn tả cảm
nghĩ của một anh được tái xét và tái nhập Đảng:
"Yếu tố quan trọng nhất, nó làm
cho tôi cảm thấy an tâm sau những ngày đi tù khốn khổ vì tội chống
Đảng, là niềm
tin sắt đá của tôi vào Đảng Lê nin nít của chúng tôi, theo những nguyên
lý nhân
bản của nó… Trả lại cho tôi chức vụ, vị trí, cấp bậc Đảng là hạnh phúc
lớn lao
nhất trong đời tôi!”
Thảo Trường @ NDT's,
Cali, Tiểu Sài Gòn,
Tháng
Ba, 2008.
"Từ
lúc tôi bị té, cái
đầu lạ làm sao, sáng hẳn ra, đầy ắp những điều chỉ chờ dịp nhập vào
trang
viết..."
Tản mạn với Nhà Văn Thảo
Trường -
“Những Miểng Vụn của tiểu thuyết” hay những miểng vụn của số phận!
Tuesday,
August 26, 2008
*
Phạm
Phú Minh trò chuyện cùng Thảo Trường
*
Chuyện tình ở đầm lầy
Miểng
*
Đặng
Phú Phong trò chuyện cùng Thảo Trường
Note:
Đây có lẽ mới đúng là những phút nói thật của cả hai, hay "cả ba ta"?
Đọc,
mới bật ra một ý, về, hà cớ sao bạn ta lại muốn nhét cả một cuộc chiến
vào trong một truyện ngắn!
Trân
trọng giới thiệu bạn đọc. NQT
Cái
tham vọng nhét cả một cuộc
chiến vào trong một truyện ngắn của TT, có một lần nào đã lâu lắm, làm
Gấu tưởng
tượng ra cái cảnh vị thần bị nhốt ở trong một cái chai, và một ông
thuyền chài
ngồi canh…
Nhưng sau này, đọc Lukacs,
khi ông đọc Một ngày của Solz, thì mới vỡ ra rằng truyện ngắn mới là
thứ vũ khí
hữu dụng nhất, ở đầu hoặc ở cuối một chu kỳ văn học, một Not Yet, và
một No
Longer, như thuật ngữ của ông.
*
Nhà văn Thảo Trường
có tham
vọng, nhét cả một cuộc chiến vào trong một truyện ngắn.
Qua
bài phỏng vấn trên tạp
chí Văn, tôi thấy lại, dáng người to con, kềnh càng, nụ cười hóm hỉnh
của ông,
những lần tình cờ đụng đầu ở ngã tư Nguyễn Bỉnh Khiêm - Hồng Thập Tự:
Tôi từ
nhà đi ra, vòng tới trước cư xá Thành Tín, đường Hồng Thập Tự, kế bên
đài
Truyền Hình, rồi theo con hẻm sở Điện Lực băng qua Phan Đình Phùng, tới
sở làm.
Còn ông đi vô "cục số 8", An Ninh Quân Đội. Con đường Nguyễn Bỉnh
Khiêm cứ mỗi lần thành phố trở trời là lại vật mình vật mẩy, rộp lên
với những
hàng rào kẽm gai. Mấy "chú" lính thường rảnh rỗi, đọc sách "chữ
Tầu" cho qua phiên gác.
Có
lần tôi vào thăm ông. Cũng
thật nhiêu khê. Tôi cứ lẩn thẩn nghĩ thầm, tướng tá thì hiền khô, lính
tráng
thì toàn thứ "trốn quân dịch", vậy mà tên cơ quan thật dữ dằn. Mà dữ
dằn thật! Tôi "nghi" rằng, tham vọng của ông là từ nụ cười hóm hỉnh
mà ra. Tôi tưởng tượng, ông đã có lần nhìn thấy vị thần khổng lồ bị ông
thuyền
chài tinh quái bắt chui vào chai, để ông trả lại biển cả. Có thể ông
"lựa
chọn" văn chương, là cũng chỉ để thực hiện giấc mơ "tiềm ẩn" từ
thuở nào: nhét cả cuộc chiến vào trong một truyện ngắn, rồi làm ông
chài, vừa
buông lưới, vừa "canh", vừa "cảnh tỉnh" nhân loại, như thể
đây là "cuộc chiến cuối cùng"... Rồi tôi lại lẩn thẩn, tham vọng của
ông đã có ai thực hiện được chưa.
Họa sĩ Choé, trong một bức hí họa, vẽ
cảnh cả
nước Mỹ, - và nếu hiểu rộng ra, cả nhân loại - hì hục kéo một anh GI ra
khỏi
cái chai, như muốn nói lên cùng tham vọng, nhưng có bề ngoài ngược lại:
kéo
lương tâm nhân loại ra khỏi một cuộc chiến mà nó nghĩ là "bẩn thỉu".
Liệu chúng ta có thể coi, bức họa của ông, như một "truyện" cực, cực
ngắn, chỉ còn một chữ ký, "Choé", một vài nét vẽ ?
Khi Milovan Djilas
mất, tờ Guardian thì phải, viết, ông có lẽ là người duy nhất, ở phía
bên kia,
mà phía bên này đau thương ngậm ngùi, vì nỗi mất mát lớn lao. Ông sinh
năm
1911, tại Montenegro.
Nhà văn, nhà lãnh đạo chính trị Nam Tư, đảng viên đảng Cộng Sản (1932),
đã từng
giúp đỡ Josip Broz Tito thành lập đội quân chí nguyện chiến đấu trong
cuộc nội
chiến Tây Ban Nha. Hoạt động trong lực lượng kháng chiến Nam Tư, thời
Đệ Nhị
Chiến. Chiến tranh chấm dứt, trở thành nhân vật quan trọng trong đảng,
và trong
chính quyền. Là cố vấn chính trị của Tito, ông lên tiếng tố cáo mọi
toan tính
của Kremlin, nhằm đưa Nam Tư vào quỹ đạo Xô-viết. Được coi là người kế
vị Tito;
nhưng tới năm 1954, ông đột nhiên bị truất khỏi chính quyền. Do ủng hộ
cuộc
cách mạng Hungary nên đi tù 1956, kéo dài tới 1957 vì sự xuất hiện, tại
phương
Tây, tác phẩm "Giai Cấp Mới: Một Nghiên Cứu Hệ Thống Cộng Sản". (Cuốn
này đã từng gây sôi nổi tại Miền Nam, trước 1975). Được thả 1961, bị
bắt lại
1962, và sau cùng được tự do, 1966. Tác phẩm: Miền Đất Không Công Lý,
Chuyện
trò với Stalin, Xã Hội Bất Hoàn Hảo, Dưới Những Sắc Mầu (tiểu thuyết),
Hồi Ký
Của Một Người Cách Mạng. Ông cũng viết truyện ngắn. Một, có nhan đề
"Chiến
Tranh", tả hai ông bà già, lụm cụm kéo một chiếc áo quan từ tiền tuyến
về
quê. Trên đường, giữa những dân quê cùng đi, có kẻ nghi ngờ - không
phải những
giọt nước mắt, những lời khóc than của ông bà già, về người con trai tử
trận -
mà là chiếc quan tài. Tới trạm gác, người đó tố cáo với lính canh. Mở
ra, quả
có anh lính "đào ngũ". Thể theo đúng nguyện vọng, đưa xác con về quê
nhà mai táng, người lính gác đã "đòm" một phát.
Truyện ngắn
Cái truyện ngắn Chiến Tranh, của tay Djilas này, bây
giờ mới nhớ ra,
Gấu đọc trên một tờ báo Tây, trong khi chờ BHD. Khi em tới, xúc động
quá, Gấu đưa cho em đọc. Đọc xong, em nói một câu gì đó, Gấu không làm
sao nhớ được. Thôi đành, để gặp lại, hỏi luôn thể, chắc cũng chẳng còn
lâu la gì...
*
Ông là Bắc Kỳ di cư
đi tầu há
mồm sao lại không biết cơm tám? Đảng ta muốn khoe Miền Bắc giầu có sang
trọng nên
mới đãi tôi cơm tám. Lần ra thứ hai, Đảng ta đãi củ sắn là đúng thực
chất biện chứng.
Ông
ráng giữ gìn sức khỏe kẻo
Bà Gấu bà ấy phải tế thiệt chứ không phải tế sống nữa đâu. Bọn mình bây
giờ
sinh đủ thứ bịnh. Tôi, cái chỗ đầu bể, nay tự nhiên nó lại đau đau.
Phúc
đáp: Đây là do đổi font
chữ, thành thử Gấu đoán nhảm, thành cơm tấm. Nhưng cơm tấm ngoài Bắc
không có,
cũng như không có hột vịt lộn. Bây giờ không biết sao. Tks, take care,
plse. NQT
Cái vụ không có cơm tấm, nó liên can đến cái vụ Blog War
*
Hà Nội không bỏ một
chữ.
Nhưng
giả như họ thiến vài chữ,
liệu NMG có chịu không?
Giả
như đám Hà Nội có tham
chiếu bài viết của NMG, Nhìn lại
những trang viết cũ, trong đó, ông so sánh đám hàng
thần lơ láo Miền Nam, những ngày sau 30 Tháng Tư, với đám quan lại thời
Tây Sơn,
trước họa Bắc Phương, và từ đó, suy ra "thâm ý" của NMG, cái cuộc giải
phóng Miền
Nam thì cũng cùng một dã tâm ăn cướp như của Mãn Thanh ngày nào, và từ
đó, bật
ra cái sự hào hùng của Nguyễn Huệ ra Bắc, thống nhất đất nước, lật
ngược căn cước
lịch sử Mít?
*
Ui chao, liệu NMG thực sự có
cái cao ngạo, có cái tham vọng ngất trời như thế chăng? Và nếu như thế,
cái sự
nhục nhã để cho VC sờ chim thì cũng chẳng thấm vào đâu so với Hàn Tín
ngày nào!
Viết
đến đây, Gấu lại nhớ những
ngày Trần Trường, Gấu may mắn làm sao có mặt, và cũng túc trực, chen
vai sát cánh
cùng đám biểu tình, bằng cách hàng ngày ngồi đánh cờ tướng ở một tiệm
cà phê
ngay kế bên tiệm Hi-Tech. Và, đọc Thảo Trường viết về người tù
binh nằm trong nôi. Bữa ghé NMG, hỏi đã đọc chưa, NMG gật gù, bảnh,
bảnh thật,
cả một cuộc biểu tình ghê gớm như thế, mà chỉ là “tuồng ảo hóa đã bầy
ra đấy”
trước cặp mắt ngây thơ của đứa con nít nằm trong nôi! [Đây là Gấu diễn
ý của
NMG, chứ thực tình, không nhớ đúng nguyên văn câu phán của ông]. Mấy
bữa sau gặp TT, kể,
bạn ta gật gù, ông NMG phán như thế, đến tai đám biểu tình, là bỏ mẹ
thằng này!
*
Trước 1975, Thảo
Trường thuộc
loại đàn anh của tôi. Anh có tên trong tờ Sáng Tạo, nhưng theo "một
nghĩa
nào đó", anh chẳng mắc mớ gì với chủ trương "đạp đổ", làm cách
mạng văn học của nhóm này. Cho tới giờ này, tôi vẫn không hiểu được tại
sao anh
có mặt "ở đó"?
Bởi
vì truyện ngắn của Thảo Trường
"hiền khô", lại không "mới". Cái cũ "nhất" ở anh,
là kỹ thuật truyện ngắn. Thứ truyện ngắn không nhắm vào tiểu sảo, không
mà mắt
người đọc với những kỹ thuật mượn từ độc thoại nội tâm, điện ảnh... vốn
rất
được ưa chuộng hồi đó, kể luôn cả chuyện, cho nhân vật tuôn ra đủ thứ
tư tưởng,
hoặc ăn nói theo kiểu ba phải (nghĩa là lạm dụng nghịch lý, ra cái điều
thông
thái: Đời chẳng đáng gì nhưng đâu có gì đáng (như) đời, la vie ne vaut
rien
mais rien ne vaut la vie, André Malraux).
Ngay
hồi đầu đọc anh, tôi đã ngạc nhiên,
anh cứ một mình đi một đường, an nhiên tự tại, thong dong mà viết.
Bây
giờ thì tôi hiểu. Với một
chút tếu, với chút thong dong tự tại, vậy là có thể qua được địa ngục.
Đá Mục
cho thấy điều này. Như thể Sáng Tạo hô hào lật đổ, là để chờ tới giai
đoạn
hậu-Sáng Tạo: giai đoạn Đá Mục.
Câu chuyện như chỉ
có hai nhân vật. Và ba
đoạn đời.
Người
ta có thể dựng một cuốn phim chỉ với
những tình tiết "đơn giản" như vậy: Tên một cuộc chiến (tại sao
không?)
Đoạn
đầu: Anh chuẩn uý mới ra
trường, trấn một đồn biên. Đệ tử, một anh lính truyền tin.
Đoạn
hai: Họ gặp lại nhau trong trại tù.
Đoạn
ba: Anh sĩ quan, sau 17 năm tù, tái ngộ
vợ con, và đệ tử tại xứ người.
Phải
luôn luôn nhớ rằng hãy quên đi tất cả
(Đá Mục).
Trận chiến diễn ra
trên đường Bolsa, thành
phố Westminster.
Một bên là Việt Cộng rất thủ đoạn nhưng có lực lượng cảnh binh sắc phục
đẹp và
oai phong nhất thế giới, trang bị bằng những khí cụ hiện đại tối tân
cũng nhất
thế giới, hộ tống. Một bên là dân di cư chạy loạn, nạn nhân của Việt
Cộng...
Mẹ
cháu cũng bị bắt trong
nhấp nháy.... Và cháu cũng bị bắt dẫn đi. Cháu vẫn nằm trong nôi....
Cháu trở
thành tù binh... Một thứ tù binh của hòa bình... Trận đánh cuối thế kỷ.
(Người
tù binh nằm trong
nôi).
"Có một bản thảo đưa
ông đem về mà
cũng đánh mất, đòi gửi tờ khác thì tôi gửi đây (Người tù binh nằm trong
nôi)...
tôi kèm thêm một ít trang bản thảo tập truyện sắp in, ông đọc đỡ buồn!
Tôi
không hiểu sao các ông lại không ở
"Saigon" này mà đi tuốt luốt sang mãi "Tây Ninh, Đồng Tháp"
xa xôi chi vậy để rồi thỉnh thoảng lại phải "về phép" tốn tiền tốn
sức. Sang "Saigon" này mà ở cho nó
tiện việc ra quán cà phê cà pháo mỗi ngày. Xin gửi lời kính thăm quí
bằng hữu ở
bên đó.
Nói
vậy chứ ở đây cũng chán
bỏ mẹ!"
Littile
Sài Gòn
*
Bây
giờ thì tôi hiểu. Với một
chút tếu, với chút thong dong tự tại, vậy là có thể qua được địa ngục.
Câu sau đây, cũng có thể áp dụng cho TT:
The
book was also written as
a treatise on the subject of survival. The tone had been set in
Solzhenitsyn's
first published masterpiece, One Day in the Life of Ivan Denisovich
(not
included in The Solzhenitsyn Reader). Unlike another genius writing in
this
genre, Varlam Shalamov (a kind of Russian Primo Levi), who had
exposed
the prison camp as an unmitigated hell where man is stripped of any
vestige of
humanity, Solzhenitsyn's narrative is a moral fable of the
condemned soul
seeking, in the grueling experience of prison life, the light of
spiritual rejuvenation. It gave hope.
The old days
Cuốn sách còn được viết như là một luận đề về
sự sống sót. Giọng văn thì đã có từ tuyệt phẩm đầu
tiên được xb, Một ngày (không
có trong ấn bản The Solz Reader).
Không giống một thiên tài khác cùng loại, Varlam Shalamov (một thứ
Primo Levi của Nga), ông này coi trại tù là địa ngục hết thuốc chữa,
nơi chất người kể như tiêu, giọng kể chuyện của Solz, là của một ngụ
ngôn đạo đức của một linh hồn bị kết tội tìm kiếm, bằng kinh nghiệm
nhọc nhằn của cuộc sống tù đầy, ánh sáng của sự tươi trẻ trở lại. Quần đảo Ngục tù trở thành một
cuốn best-seller trên toàn thế giới, cùng với hai cuốn trước đó, Tầng
Đầu và Khu Ung Thư, thuộc dòng bi kịch chính trị có tính truyền thống,
giọng văn và cách suy nghĩ của hai cuốn này không khác gì dòng văn
chương hiện thực xã hội chủ nghĩa chính thống, theo Shalamov. ...
Có lẽ đây là dịp để người Nga đọc nó, The
Solz Reader, từ viễn tượng lịch sử của chính họ.
*
Thành thử, những "phát giác", "những ám ảnh chiến tranh", trong "Miểng"
của TT, tiếng 'kêu thương chấp chới"... là 'phỉnh
nịnh' bạn ta cả đấy!
Từ 'phỉnh nịnh' này, Gấu mượn của Steiner, khi ông chửi mấy anh nâng bi
ông, là 'tản mạn'. Steiner giải thích: Suốt đời tôi, chỉ băn khoăn có
một điều, có hay không có Thượng Đế.
Sự tươi trẻ trở lại? Bạn đọc TT, cái đoạn anh tù lầm quả trứng bồi
dưỡng cho con heo nọc, là của em nữ quản giáo tặng cho anh, mà chẳng
thấy tuơi trẻ trở lại sao?
Cái con heo nọc của anh tù trong truyện Đá Mục của TT, mới đây thôi,
Gấu nhớ lại,
khi đọc NQL.
Ông này cũng có một con heo nọc chuyên phục vụ mấy bà vợ liệt sĩ, bộ
đội vào Nam chiến đấu.
Nhân đọc bút ký
chính trị của Nguyễn Khải
Chuyện hai nhà văn
Nhà
văn Miền Nam
có thể tạm
so sánh với Nguyễn Khải, có lẽ phải là Võ Phiến, nếu chỉ xét mặt văn
phong, cách
viết.
Chẳng thế mà có lần Gấu này khen Nguyễn Khải trước NMG, ông chủ báo của
Gấu gật
gù, cho biết, VP cũng rất thích NK, và ông còn cho biết thêm, NK cũng
rất nể
VP.
Đó là thời gian Gấu qua Cali
chơi, lần thứ nhất, tá túc nhà NMG. Khi về NMG order, anh viết một bài
cho số
đặc biệt Văn Học, về Võ Phiến.
Khi NK mất, trong nước, khi vinh danh ông, có trích dẫn lời khen của
VP, qua
NMG nói lại.
Cái sự so sánh, là rất cần thiết, nhưng cũng rất nguy hiểm. So sánh
Thảo
Trường, là phải với một tay cũng dung dị như ông.
Văn của NK rất hiểm độc. Văn Võ Phiến cũng có chất đó, theo nghĩa, ông
dám đánh
đu với tinh, như sư phụ của ông là Zweig. Điều này Gấu nhận ra, theo
kiểu
"đọc trò lần ra thầy", và đã viết ra trong bài về
Võ Phiến.
Còn nếu so sánh sự tự do khi viết của nhà văn Miền Nam, với sự viết
dưới ánh
sáng của Đảng, mà vẫn giữ được lương tâm của người viết, thì phải để
Thảo Trường
– dù ông chẳng hề muốn - với thí dụ Nguyễn Minh Châu, hay Nguyên Ngọc,
mặc dù
cũng thật khập khễnh, vì hai ông này, vào lúc trai trẻ của mình, đều
nghĩ về
văn chương khác hẳn Thảo Trường. Còn điều
này nữa, cả ba đều tham dự cuộc
chiến, trong
khi NK, hình như không, hoặc, do nhát, cũng thực sự "không"!
*
Những độc giả say mê Võ
Phiến, những tác phẩm đầu tay của ông như Người Tù, Mưa Đêm Cuối Năm, Thác Đổ
Sau Nhà... chắc chắn là nhận ra khí hậu Zweig ở trong đó. Nhân
vật của Võ
Phiến, đều như bị con quỉ của sự tò mò hớp hồn, dẫn dụ, và khi đã hoàn
hồn, có
vẻ như nhờm tởm thế nhân: cô gái trong Thác Đổ Sau Nhà, sau gặp lại người
tình
của một đêm, đã ngạc nhiên không thể tưởng tượng được tại sao mình lại
đã có
lần ngã vào một con người thô kệch, cù lần đến như thế! (Vì không có
văn bản
trong tay, tôi viết lại theo trí nhớ, ở đây là những cảm giác còn giữ
được, khi
đọc Võ Phiến hồi học trung học. Không hiểu đọc lại, những chi tiết có
đúng, và
cảm nghĩ có thay đổi hay không).
Những nhân vật tiểu thuyết
hiện đại đều bước ra từ cái bóng của Don Quixote; ta có thể lập lại,
với những
nhân vật của Võ Phiến: họ đều bước ra từ Người Chơi Cờ. Tôi không hiểu, ông
đã
đọc nhà văn Đức, trước khi viết, nhưng khí hậu 1945, Bình Định, và một
Võ Phiến
bị cầm tù giữa lớp cán bộ cuồng tín, đâu có khác gì ông B. (không hiểu
khi bị bắt
trong vụ chống đối, Võ Phiến có ở trong tình huống đốt vội đốt vàng
những giấy
tờ quan trọng...). Nhân vật "cù lần" trong Thác Đổ Sau Nhà, đã có một
lần được tới Thiên Thai, cùng một cô gái trong một căn lều, giữa rừng,
cách
biệt với thế giới loài người, có một cái gì thật quen thuộc với đối thủ
của ông
B., tay vô địch cờ tướng nhà quê vô học, nhưng cứ ngồi xuống bàn cờ là
kẻ thù
nào cũng đánh thắng, đả biến thiên hạ vô địch thủ?
"Nhưng đây là con lừa
Balaam", vị linh mục nhớ tới Thánh Kinh, về một câu chuyện trước đó hai
ngàn năm, một phép lạ tương tự đã xẩy ra, một sinh vật câm đột nhiên
thốt ra
những điều đầy khôn ngoan.Bởi vì nhà vô địch là một người không thể
viết một
câu cho đúng chính tả, dù là tiếng mẹ đẻ, "vô văn hoá về đủ mọi mặt",
bộ não của anh không thể nào kết hợp những ý niệm đơn giản nhất. Năm 14
tuổi
vẫn phải dùng tay để đếm.
Cuộc đụng độ giữa nhà vô địch
với ông B. đúng là khí hậu của cả thế kỷ được dồn nén vào trong một ván
cờ!
Hãy so sánh với sự thất bại
của hầu hết những nhân vật của Võ Phiến, trước cuộc đời: những ông Ba
Đồng
Thời, Bốn Thôi...
"Vết thương không
thể
lành", Levi viết trong Những Kẻ Chết
Đuối và Những Người Được Cứu Thoát.
Lò Thiêu địa ngục thứ nhất, hậu Lò Thiêu, địa ngục thứ nhì. Tadeusz
Borowski,
tác giả Quí Bà Và Quí Ông, Đường Này
Tới Lò Thiêu, thoát cả hai lò thiêu
Auschwitz và Dachau, năm 1951, ông chưa tới 30 tuổi, ba ngày sau khi cô
con gái
chào đời, ông đã trở lại nơi lò thiêu ngày xưa: tự tử. Nhà thơ Paul
Celan: tự
tử. Còn nhiều nữa...
Người
ta nói tới không khí
hiu hắt, cô đơn trong văn phong của Võ Phiến. Phải chăng đây cũng là
một tình
trạng "không thể lành", sau kinh nghiệm 1945? Tính cách bất toàn,
luôn bám lấy một tư tưởng cố định, idée fixe, coi thường chính mình,
của những
nhân vật Võ Phiến? Nếu sau này, Võ Phiến có giọng viết như nói, như trò
chuyện
thoải mái, tôi nghĩ đó là do ảnh hưởng Miền Nam. Võ Phiến thời đầu
không có
giọng văn này.
*
Nguyễn Khải là một
nhà văn
chuyên nghiệp được quân đội miền Bắc nuôi để viết văn, còn Thảo Trường
thì
không. Ông không thuộc ngành tâm lý chiến, chỉ viết khi rảnh, theo ý
thích,
không viết lách như làm việc. Ngay năm 1969, khi viết về chiến tranh
ông đã mô
tả tinh vi những mâu thuẫn trong lòng một sĩ quan thấy anh lính thân
cận nhất
của mình ngã chết, rồi lại được nghe những tiếng khóc của người vợ lính
mất
chồng. Ðến bây giờ sau 40 năm chúng ta vẫn cảm động khi đọc lại. Trong
một câu
chuyện chiến tranh khác, Thảo Trường chỉ kể lại những đối thoại của một
người
lính Việt Nam Cộng Hòa với một em bé, khi em bé cứ cặm cụi, tẩn mẩn tìm
cách
đào một viên đạn bắn vào nhà mình, còn ghim trong tường. Thảo Trường
còn viết,
viên đạn Mỹ, nhưng không biết bên nào bắn. Một nhà văn miền Bắc, nhất
là một
nhà văn quân đội không được phép viết tự do như vậy. Ngô Nhân Dụng
Nhận
định, “ông không thuộc
ngành tâm lý chiến, chỉ viết khi rảnh…” khiến độc giả "suy ra", là, giả
như TT
thuộc về ngành tâm lý chiến, thì sẽ viết khác đi, và tất cả những nhà
văn TLC
Miền Nam, thì cũng giống như nhà văn Miền Bắc, được nhà nước, quân đội
VNCH nuôi, để
viết văn, và viết văn Chống Cộng?
Gấu
này đã tính đếch thèm viết
về Ông Số Hai, (1) nhưng ông viết nhảm quá, đành phải ngứa miệng sủa
tiếp!
(1)
Xin xem Tự Kiểm
Theo Gấu, rất khó,
và không nên, so sánh những nhà văn Miền Bắc với bất cứ một nhà văn
Miền
Nam, bởi vì họ khác nhau, ngay tự bản chất. Trong bài viết về Võ Phiến,
Gấu đã
viết về điều này, và sửa nhẹ Ông Tiên Chỉ, về cái chuyện, ông tưởng
tượng ra một nhà văn Miền Nam ra Miền Bắc, rồi cũng bắc loa lên chửi
nhà nước Xạo Hết Chỗ Nói, như những ông Miền Bắc giả đò làm nhà văn
miệt vườn
*
Bài viết về VP, là vào năm
1998, cho một số Văn Học đặc biệt về ông, thời gian Gấu, [noi gương Bác
Hồ], đang
trên đường tìm kiếm một mảnh đất riêng, để tha hồ mà tự tung tự tác,
sau khi
NMG từ chối mấy bài dịch Steiner, và cùng với chúng, là tham vọng để kế
Lò Thiêu
Nazi bên cạnh Lò Cải Tạo Yankee Mũi Tẹt!
Nhưng
phải đến khi đọc Cao Hành
Kiện, thì Gấu mới ngộ ra được, bản chất văn học Miền Nam, thứ tiếng nói
của cá
nhân, không nhằm vinh danh bất cứ một chế độ, một ý thức hệ nào.
*
Văn
Học Tổng Quan của Võ
Phiến, đoạn nói về nhà văn Miền Bắc thoắt chốc vào Nam ra Bắc, dưới
những bút
hiệu khác nhau, rồi giả dụ Miền Nam cũng làm như vậy, là quá tếu và
không hiểu
cả hai miền, còn hạ giá (hay quá đề cao?) nhà văn Miền Nam.
Bởi vì,
văn chương Miền Nam, bản chất của nó, không mắc mớ gì đến tinh thần
chiếm đoạt,
tranh ăn thua, còn Miền Bắc, vẫn nằm trong dạng khai hoá, vẫn tự coi
như là
quyền năng chính thống, theo kiểu, cần dậy cho mày một bài học, và phải
trả
bằng xương máu, bằng đất đai: Đấy là ý nghĩa của nhiệm vụ khai hoá! Một
cách
nào đó, nếu chúng ta nhìn ra tương quan dây mơ dễ má, giữa Cách Mạng
Pháp, và
chủ nghĩa Cộng Sản, cùng lúc chúng ta nhận ra tính thực dân của văn học
hiện
thực xã hội chủ nghĩa: đây vẫn là một thứ văn chương quyền lực. Nhìn
theo cách
thế đó, chúng ta còn nhận ra tính giai đoạn của dòng văn chương phản
kháng ở
trong nước. Nó phải qua đi, để lộ ra con người với ngôn ngữ, những lời
nói lành
lặn của nó...
"Tại sao ta không thể
yêu, những gì chúng yêu, nếu chúng chiếm được cuộc đời, ta đành chọn hư
vô", mê cung dành cho nhân vật trong Cát Lầy của Thanh Tâm Tuyền là
vậy.
Đừng nhìn thơ tự do, dòng văn chương Sáng Tạo, Văn Chương Kinh Nghiệm
Hư Vô
(Huỳnh Phan Anh), như là một "cái đuôi" của dòng văn chương hiện sinh
Pháp. Chúng là những con chim báo bão, cho một hư vô huỷ diệt, của
những trại
tù sắp tới... Khi bị những nhà phê bình Miền Bắc "tra hỏi" (Trong khi
họ xây dựng miền bắc xã hội chủ nghĩa, những nhân vật tôi mọi nô lệ này
đi
đâu?) tác giả Bếp Lửa đã "nhẹ nhàng" yêu cầu, hãy đặt những câu hỏi
đó ra cho chính các ông. Nên nhớ, những nhà văn Miền Nam,
những tác phẩm "chống
Cộng" của họ chỉ có, khi "bị đòn": Giải khăn sô cho Huế, Địa
Ngục Có Thực, Mùa Hè Đỏ Lửa, Vòng Đai Xanh... Ngay cả Võ Phiến cũng
vậy; sợ
Cộng Sản, sợ mất Miền Nam quá ông mới la làng, còn nhẩn nha được là ông
lại
nghiên cứu chiều sâu con người, dò tìm cội rễ của một bài chòi!
Chúng ta đã lầm một cách thê
thảm, Mac Namara nói vậy, không đúng mà cũng không sai: người lính Việt
Nam
Cộng Hòa không thua trên chiến trường, mà thua vì tính người: họ chưa
bao giờ
coi người lính Miền Bắc là kẻ thù tuyệt đối. Họ không hề được trang bị
bằng một
thứ văn chương quyền lực.
Nhìn theo cách đó, chúng ta
mới thấm được những dòng thơ "thiền", giọng điệu cảm khái, tráng sĩ
"biên đình" của những Nguyễn Bắc Sơn, Tô Thùy Yên... hay những lời ca
"đồn anh đóng bên rừng mai, nếu mai nở làm sao biết mùa xuân đã về".
Đánh giặc, súng nổ ầm ầm, thần chết hỏi thăm từng giây, từng phút, bất
cứ lúc
nào, nhưng cứ hở ra được một chút là lại "thiền"! Vinh danh người
lính Việt Nam Cộng Hòa là đúng, chẳng có gì chuế cả, nhưng cố vực họ
dậy, giữa
vòng dây oan nghiệt của lịch sử là bi thảm hoá một huyền thoại, là tự
hài lòng
với nỗi bi thảm: nạn nhân của phi nhân. Thua trận, nhục nhã thật, nhưng
thà
rằng thua, mà vẫn giữ được "con người"! Làm người lính thiền, chắc
chắn là hơn làm đao phủ thiền! Thi sĩ không bao giờ là nạn nhân (J.
Brodsky).
Mỗi người lính, như Nguyễn Bắc Sơn, Tô Thùy Yên, Khoa Hữu, Cao Thoại
Châu, Luân
Hoán... là một nhà thơ, người lính bảo vệ ngôn ngữ, và trong khi bảo vệ
ngôn
ngữ, chống lại những điều dối trá, phi nhân, họ bảo vệ con người. Nhà
văn một
kẻ sống sót, là vậy. (1)
(1)
Khúc trên, được một nhà văn ra đi từ Miền Bắc 'nắc nỏm' khen. Nhân đây,
Tks. NQT
*.
Một lần nào
đó chú đã nói rằng văn phải được chở bằng thơ. B. cũng nghĩ thế. Những
tác phẩm
lý sự sắc sảo và quá bám vào hiện thực đang diễn ra thường hấp dẫn
người đọc
kinh khủng vào lúc đó, nhưng khi hiện thực đã là 'khác' và khi sự tò mò
của
người đọc về những ám chỉ, hoặc cao quý hơn: nhu cầu phát huy trí thông
minh
cùng tác giả của họ được thỏa mãn thì tác phẩm sẽ bị để lên giá.
Cấu trúc bài viết vừa rồi của chú dù chia phần rõ vẫn rất lạ. Lúc đầu
B.
tưởng bị lẫn đoạn. Đó là cấu trúc của thơ. Trong đó có những suy
diễn
rất thích.
- B. rất thú vị vì chú thích truyện ngắn của Võ Phiến. Nhìn thì thấy
ngay tùy
tạp của họ Võ không giống ai. Nhưng 'khác', trong một dòng chảy chung,
thì đúng
là truyện ngắn. Hồi đầu đọc B. nể quá.
- Chú chỉ ra tính chất văn chương miền Nam
và miền Bắc hay quá.
- A. bảo chú Trụ dịch và viết thật lạ lùng, tràn đầy tình, ngay cả
trong một
thể loại đầy tính cãi cọ. Có lẽ văn chương phải thế, phải giống như
một lời
đi tìm tri kỷ, phải dạy người ta một điều gì đó nhưng không dạy đời.
Miểng
Miểng nghĩa là
gì?
Trả lời DDP, Thảo Trường “cẩn
trọng” người phỏng vấn ông, này, mảng là mảng, không mắc mớ gì tới
mảnh, mảnh
thì cũng như miểng, nhưng tôi thích cách gọi miểng [tiếng Miền Nam] hơn.
Mấy thằng ngu, khi viết về
ông,
dùng tưới hai tiếng “mảnh/miểng,” là không hiểu tấm lòng của ông dành
cho “miểng”.
Nhưng miểng ở đây lại còn là
một bận tâm về kỹ thuật viết, giữa hai thể loại viết, truyện ngắn, và
truyện dài.
Thảo Trường viết văn rất tự
nhiên, không cầu kỳ, nhưng như thế không có nghĩa là ông không bị kỹ
thuật viết
làm phiền ông, thí dụ như cái tham vọng nhét của một cuộc chiến vào
trong một
truyện ngắn, và, khi coi những truyện ngắn của ông, như là những miểng
của
một cuốn
tiểu thuyết… chưa có, và cái phần chưa có kia, còn nằm
trong đầu, hay trong túi của ông.
Nhân đọc lại bài giới
thiệu
Joseph Roth, trên Tin Văn, xin post lại những đoạn có thể làm rõ ra
quan niệm
viết, viết truyện ngắn, viết truyện dài của TT.
Trong lời dẫn khi dịch Tập
Truyện Ngắn của Roth, Michael Hofmann viết:
Hình như có hai loại tiểu
thuyết gia. Một, hãy nghĩ tới Kafka, hay Lawrence, hay Hemingway, hay
Scott
Fitzgerald, hay Thomas Mann, hay Jean Rhys, hay Paul Bowles, là những
người có
chút chú ý đặc biệt về cái gọi là truyện ngắn, [short fiction], ban cho
nó một
tí quan tâm, lại cũng đặc biệt, về kỹ thuật, và sau cùng, "bèn" viết
chúng. Và những người khác - Dickens,
Flaubert, Turgenev, Woolf, ngay cả Joyce - là những người cũng viết
truyện
ngắn, nhưng thường 'viết là viết', thoải mái, vô tư mà viết, giống như
một thứ
phó sản phẩm, hay là một phần của cái gọi là chuyện nghề của họ, 'đã
đem nghiệp
ấy vào thân', thì đành cũng thử xoay vần với cái gọi là truyện ngắn
[với Nguyễn
Du, cái gọi là lục bát], xem sao!
Với
nhóm trên, người đọc, khi
đọc những truyện ngắn của họ, là tìm cái mẫn cảm, cái có giá trị, của
cái gọi
là văn chương. Với nhóm dưới, đọc họ thấy kỳ kỳ [peculiar], cứ như là
bị ép
phải đọc! Không phải là họ viết dở, không có chi là đặc biệt ở trong
đó, nhưng
có lẽ, là do cảm giác này: những truyện ngắn của họ viết ra đó không
hẳn là
những truyện ngắn, không phải thứ tuyệt tác, theo đúng như cách mà
người ta
thường định nghĩa truyện ngắn là phải như vậy, nhưng thuộc vào cái khối
đồ sộ
là toàn bộ tác phẩm của họ, toàn thể cuộc đời của họ.
Joseph Roth thuộc nhóm này.
Cái đoạn gạch đít ở trên, có
thể áp dụng cho Thảo Trường. Truyện ngắn của ông, như là những miểng,
của cuốn
tiểu thuyết, là toàn thể cuộc đời của ông.
*
Nhắc tới Josph Roth, là do đọc Người
Kinh Tế, số 6 Tháng Chín, 2008, có một bài viết về Đế quốc Áo
Hung quê hương của ông, và phát súng khởi đầu làm tan rã nó. Chỉ một
phát súng khởi đầu. (1)
Và "chỉ một phát súng' khởi đầu này, lại làm nhớ tới phát súng mở ra
Cách Mạng Tháng Tám, của Văn Cao...
Ấy đấy, cái nọ xọ cái kia,...
(1) Starting Pistol: Cú ám sát Franz Ferdinand: Một buổi sáng tại Sarajevo: 28 June 1914. Tác
giả David James Smith. Nhà xb Weidenfeld & Nicolson; 336 trang,
18.99 Anh kim.
*
|
|