Những
giọt trầm
Có
chắc mùa thu lá rơi vàng
tiếng gọi
Lệ mừng gặp nhau xôn xao phím dương cầm
Có phải em là mùa thu Hà Nội
Nghìn
năm sau ta níu bóng quay
về...
(Có phải em... mùa thu Hà Nội - Trần Quang Lộc)
Sơ tán lần thứ nhất về thì tôi lên lớp ba. Hầu hết trường học ở thành
phố bị trưng dụng trong thời đánh phá. Làm nơi tuyển quân. Làm nơi chứa
bao cát phòng khi bom phá vỡ đê sông Hồng mùa lũ. Làm nơi bán gạo dã
chiến. Trường tôi là cửa hàng gạo lúc trẻ con phải triệt để sơ tán khỏi
thành phố. Lúc chúng tôi nhập trường, các phòng học vẫn phảng phất mãi
mùi gạo mục chua chua thum thủm. Trường mất đâu hết bàn ghế và học sinh
phải đi học ba ca. Tôi học ca ba, từ ba giờ chiều tới bảy giờ tối. Bây
giờ nhớ lại lòng cứ ngùi ngùi rất khó chịu. Thương tuổi mình ngày ấy.
Nhưng ngày ấy thì thật ra là rất bình thường. Từ hai giờ chiều tôi đã
mắt trước mắt sau chào bà xách cặp phóng ra khỏi nhà. áo trắng. Quần
xanh. Nón to bằng nón mẹ. Không còn phải đội mũ rơm dày quỵch đau cả
đầu. Vĩnh biệt áo nâu với áo xanh sĩ lâm. Chẳng còn sợ bị cô phạt vì
quên túi cứu thương. Nhẹ nhõm. Gió lao rao trên vòm cây. Xô nắng. Nắng
mùa thu trong như mật óng rải trên đường. Mặt đường đầy cứt cò. Phố tôi
có hàng cây sao tuyệt nhất Hà Nội. Thẳng tắp. Cao vút. Thân xù xì nâu
sẫm, đẹp kinh khủng vào lúc nắng quái. Lại có cò. Lạ thế. Cò vẫn về
quần tụ ngay cả lúc bom đạn dữ dội nhất. Sau này chúng bỏ đi, nhưng vẫn
để lại cho phố cái tên bọn con trai bạn tôi thời sinh viên rất thích
gọi: Bang Cò ị.
Bang
Cò ị nằm
sát ngoại ô. Hai bên phố thuần nhà một tầng với hai tầng mái ngói cửa
gỗ lùa có thể tháo ra lắp vào hàng ngày. Kiểu nhà trung lưu có buôn bán
trước. Cũng lác đác có vài biệt thự và những biệt thự đó thường cách
mặt phố cả khoảng sân rộng có hàng rào chấn song gang bao quanh. Trên
đó hoa ti gôn phủ trĩu. Lối đi sau mấy ngày mưa chỗ nào không có bước
chân người là lên rêu. Trông cũng tàn tạ. Có vẻ nhà tư sản trước, còn
giữ được sau hòa bình lập lại. Cả nhà tôi sống ở khu tập thể cơ quan bố
mẹ và những nhà ngoài phố bao giờ cũng làm tôi tò mò. Trong ấy dường
như còn một cuộc sống mà tôi không biết. Nó hiện diện ở những tủ kính
con chứa các lọ thủy tinh đựng ô mai, táo dầm, chè lam..., ở dáng ông
cụ mặc pigiama phẳng phiu loay hoay quét lá khô trên lối đi những chiều
gần tắt nắng. Hay ở dáng các bà cụ răng trắng, đeo kính, búi tóc chứ
không vấn khăn như các bà ở vùng chúng tôi về sơ tán vẫn vừa ngồi trông
hàng vừa tiện thể nhặt rau sát cửa ra vào. Tôi đã nhìn rất kỹ. Các bà
ngồi ghế nhặt rau chứ chẳng thấy ngồi xổm bao giờ. Mớ rau các nhà ấy
mua thường nõn nà, rau xơ mới và bao giờ cũng chỉ là một nắm tý tẹo.
Khác hẳn những mớ rau bọn trẻ con chúng tôi xếp hàng mua ở quầy rau mậu
dịch. Nhìn những mớ rau bán theo cân ấy người nhà quê ra tỉnh có thể
tưởng rằng đến một nửa dân thành phố nuôi lợn.
Suốt
khoảng
phố gần trường toàn nhà một tầng cửa gỗ lùa lọt vào một nhà cửa sổ chấn
song sắt luôn mở rộng. Có một lồng chim ngày nào đi học tôi cũng thấy
treo phía ngoài. Chim gì chẳng đẹp. Trông như mớ cỏ rối. Nhưng tiếng
hót thì trong veo. Trong. Và phấp phỏng như nắng thu đang do dự rây qua
ngàn vạn lá xuống phố. Nhà ấy không bán hàng. Có những đứa trẻ ăn mặc
đẹp hơn tôi, chân đi dép nhựa ra vào. Chúng đến đó học đàn. Chúng làm
tôi tủi thân và nhiều hơn là thẹn. Có một lần tôi bị tụt quai dép cao
su và tôi chẳng còn cách nào hơn là lếch thếch xách cả dép lẫn cặp nhón
nhén đi bộ trên hè phố trước mặt chúng nó. Từ ngôi nhà chúng ra vào bay
ra những hợp âm thô kệch, lập cập. Thua tiếng hót của con chim giống
như nùi cỏ rối. Tôi có cả một bầu trời mùa thu thanh tĩnh, cả tiếng
chim kia, cả mặt phố thâm nghiêm trong bóng lá, và nắng, và gió. Nhưng
không hiểu sao tôi cứ buồn buồn khi nghe tiếng dương cầm vang lên lập
cà lập cập dưới ngón tay bọn trẻ con không quen biết. Cảm giác này theo
tôi đến tận giờ và tôi không bao giờ muốn lý giải.
Cô
giáo dạy
dương cầm tôi đã nhìn thấy nhiều lần. Hình như nhà chỉ có cô và mẹ cô.
Bà cụ hay ngồi trên cái giường đơn kê sát cửa sổ đan len, kính trễ mũi.
Thỉnh thoảng bà lại dướn mắt nhìn qua gọng kính ra ngoài phố. Phố vắng
ngắt. Chẳng hiểu bà nhìn gì. Và mỉm cười. Có lần hình như bà cười với
tôi. Gương mặt lặng lẽ sáng bừng trong nụ cười ấy. Dáng vẻ ấy tôi chẳng
bao giờ thấy ở các vị hàng xóm suốt ngày tất bật trong khu tập thể của
tôi. Cô giáo dạy đàn con bà cụ trông cũng chững tuổi. Phải bằng cô giáo
tôi. Tóc phi dê dài đã hơi duỗi, để xõa ngang vai cả trong những ngày
nóng. Mắt đen, sâu, cái nhìn hơi mờ. Miệng rộng và tươi. Có thể vì thế
mà dáng người cô tuy hơi quá gầy nhưng trông không có vẻ ốm yếu sầu
não, mà cũng không có vẻ nghiệt. Tôi không biết cô có nhiều trò không
nhưng vào lúc tôi đi học thì bao giờ cũng có một đứa trẻ nào đó đang mổ
cò bên đàn. Buổi tối khi tôi đi học về qua thì thường chỉ thấy có bà cụ
và cô. Có lần tôi nhìn thấy cô chơi đàn. Tôi không biết đó là bản gì.
Nhưng tiếng pi-a-nô buổi tối thành phố lên đèn ấy tôi nhớ lập tức.
Tiếng đàn mới cao sang làm sao. Trong vắt. Róc rách. Dường như những
thân sao đen cao vút đang từ từ dướn lên, vòm lá mở ra để lộ một bầu
trời đen thẫm, mịn màng như một đĩa thạch và chi chít sao. Mùi lan tiêu
thơm nức... Sân khấu ca nhạc ngày ấy bao giờ cũng có tiếng phong cầm.
Tiếng phong cầm rộn rã réo rắt quả cũng thích hợp với không khí thời
buổi ấy, khi chiến tranh mới tạm ngưng và những bài hát Bão nổi lên
rồi, Bài ca đường chín, Chiếc gậy Trường sơn với vân vân vang ra từ loa
công cộng gắn khắp các phố luôn thổi lên trong lòng người một ngọn gió
hừng hực. Tiếng dương cầm đơn độc lần đầu tiên nghe thấy đã làm chậm
hẳn bước chân tôi. Đến thời con gái ngơ ngẩn, có những đêm đạp xe một
mình lang thang hay cùng bạn, tôi đã nghe được bao tiếng dương cầm
khuya. Góc phố Tăng Bạt Hổ. Gác hai một ngôi nhà trên Quan Thánh. Sứ
quán Pháp gần hội nhạc sỹ Việt Nam
góc Bà Triệu - Trần Hưng Đạo. Xóm Hạ Hồi. Phố Nguyễn Thượng Hiền. Nhưng
không có một tiếng đàn nào cho tôi cảm giác như tiếng đàn tôi đã nghe
khi đang là một con bé lên chín, trong một ngày xa xôi rất nhiều gió.
Tôi
đã nghe
thấy tiếng đàn. Tôi cũng đã nghe thấy cả giọng nói người chơi đàn. Một
buổi tối lúc đi học về, trời đổ mưa sầm sập. Hà Nội có những ngày thu
như thế. Liền mấy hôm mưa dầm dề. Rồi nắng hửng lên, vàng rười rượi.
Trời xanh và cao. Heo may về lại. Phố khô đi chậm rãi. Rồi lại mưa. Tôi
chỉ mang độc cái nón, cặp sách bằng vải mẹ may tay, phải tìm chỗ trú.
Men theo hiên các nhà, tôi dừng lại ở cửa nhà có trẻ con tới học đàn.
Ngọn đèn điện đỏ đòng đọc chụm lại thành một giọt sáng to tướng buông
từ trần xuống giữa phòng. Không thấy bóng ai. Không có tiếng đàn tôi
thầm mong. Chân dầm nước mưa lâu vừa tê lạnh vừa ngưa ngứa trong đôi
dép cao su. Đột nhiên một giọng đàn bà hơi khàn và rất ấm vang sát bên
tôi: - Mưa to lắm. Chắc còn lâu mới ngớt. Hay cháu vào tạm nhà cô đi.
Chút nữa thì tôi va vào cái xe đạp người phụ nữ đang dắt. Quai nón ướt.
Tóc ướt. Mắt môi ướt. Một chiếc áo mưa choàng qua ghi đông. áo mưa thời
ấy... Chỉ là một mảnh ni lông thắt nút hoặc trước ngực hoặc sau lưng
tùy lúc người ta đi bộ hay đi xe đạp. Nói chung chỉ dùng cho có. Có che
chắn cẩn thận thế nào thì người dùng cũng bị ướt nửa người. Người phụ
nữ nhắc lại câu mời, không vồn vã nhưng rất thân tình. Giọng nói khàn
ấm ấy nghe thật yên tâm. - Cháu cám ơn cô. Xin cô cho cháu trú nhờ
ngoài này thôi ạ. Trời mưa... Nhỡ bố cháu đi đón cháu... ... Mưa ngớt
dần. Nước ở ống máng mái hiên thôi chảy ào ạt rồi thành dòng nhỏ. Chỉ
còn những giọt mồ côi rơi tí tách. Mặt phố không còn thấy bong bóng
nước. Đã đi được rồi. Nhưng tôi thấy người phụ nữ đến bên đàn, mở nắp,
ngồi xuống. Giọt trầm đầu tiên rung lên, khe khẽ, ngập ngừng... Chiến
tranh đánh phá lần thứ hai. Có vẻ ác liệt hơn lần trước. Cũng có thể là
vì tôi lớn hơn và biết sợ nhiều hơn trước. Chúng tôi lại đi sơ tán. Để
lại Hà Nội những hầm công cộng dài rộng mênh mông, những hố tăng xê
ngập nước ngày mưa. Để lại tiếng loa truyền thanh và tiếng còi báo động
nghe hết hồn hết vía rú lên từ phía Nhà Hát Lớn... Rồi chúng tôi lại
về. Khâm Thiên đã xây dựng lại. Phố Huế đã xây dựng lại. Bệnh viện Bạch
Mai đã xây dựng lại. Hồi ức chiến tranh thường chỉ quẫy cựa khi đi qua
Phố Huế. Một đứa lớp tôi chết ở đó. Vệt bom liếm hết nhà nó thì dừng và
hôm đó là hôm nó về lấy gạo nuôi em. Lần này về, tôi đã là học sinh
cuối cấp hai. Mẹ đi bộ đi làm, để xe đạp cho tôi đi học và đi chợ. Bố
đêm đêm vẽ ở khu triển lãm Vân Hồ. Hết triển lãm này lại đến triển lãm
khác. Triển lãm mười hai ngày đêm Hà Nội (1). Triển lãm Cách Mạng Tháng
Mười. Triển lãm chiến thắng 75... Đấy là việc làm thêm của bố. Hôm bố
tuyên bố đã đủ tiền và sẽ mua một cái đài có hẳn bốn chân cả nhà mừng
không ngủ nổi. Thôi không phải hóng chương trình phát thanh theo giờ
của đài Hà Nội qua cái loa bằng hòn gạch nhà nào cũng lắp. Thôi không
phải dặn bà đánh thức tối thứ bảy để nghe tiết mục Tiếng thơ với Đọc
truyện đêm khuya. Sẽ được nghe đài cả ngày. Được nghe chương trình hòa
nhạc. Người ta còn chu đáo dẫn giải cho thính giả. Phiên chợ Ba Tư...
tiếng lạc đà... cái huyền ảo của xứ sở một ngàn đêm lẻ... Hồ Thiên
nga... Hoàng tử xuất hiện... Thiên nga gãy cánh... Tôi không được học
nhạc và hoàn toàn mù tịt về cái nghệ thuật vô hình này. Nhưng tôi vẫn
thích nghe nhạc không lời. Như thế, tôi được thoát hẳn ra những ngày
sống này, được bỡ ngỡ về mình... Như đêm nào trên phố mưa.... Mẹ tôi
mất. Cái Melodia bốn chân của Nga trông bệ vệ thế mà cứ trở nồm là kêu
xẹt xẹt vì tụ ẩm và đến mùa bão thì tịt. Chẳng hiểu vì sao các triển
lãm ít hẳn. Bố không kiếm thêm được việc làm, ban đêm ở nhà pha một ấm
chè cám uống đủ ba nước, loại chè ba hào một gói bán đầy ở mậu dịch.
Chờ chúng tôi xong bài vở bố mới lên giường. Tôi lên đại học. Trường
nằm ở ngoại thành. Ngày ngày đạp xe đi về bằng cái xe "cố vấn" mẹ để
lại trong tình trạng ăn uống "qua loa"(2) tưởng chẳng còn hơi sức đâu
mà để ý đến mặt người mặt phố. Vậy mà qua số nhà xưa vẫn không thể
không nhìn. Có cái mới: Cạnh cửa ra vào đặt một cái tủ thuốc lá. Bà cụ
chuyển chỗ ngồi đan len từ trong cửa ra ngoài cửa. Mấy năm sau thì cái
tủ dịch ra sát lề đường. Bên cạnh bà cụ giờ thêm một ông cụ bán vé số.
Rồi một người đàn bà nhập bọn. Chắc dân về "mất sức". Chị ta bán hàng
xén. Xà phòng. Thuốc đánh răng. Chun. Khuy. Đủ thứ linh tinh. Đạp xe
ngang chỉ thấy xanh xanh đỏ đỏ. Rồi bà cụ sắm được cái ô to che nắng và
bên cạnh tủ thuốc lá thấy thêm cục gạch, trên để chai xăng. Lồng chim
xưa chẳng biết có còn không. Đạp xe vèo qua, chẳng nhìn thấy mà cũng
chẳng nghe thấy. Người phụ nữ chơi đàn xưa tôi cũng không thấy lại lần
nào.
Giữa
năm sau
thành phố mở con đường ngay cuối phố tôi. Chẳng biết người ta đặt cho
nó tên gì. Chắc lại tên mấy đồng chí lãnh đạo cao cấp nào của Đảng đã
từ trần hoặc hy sinh... Ai cũng quen miệng gọi là Đường Mới từ khi
đường chưa thành đường. Phố tôi ào cái đổi lốt. Người xe nườm nượp ngày
đêm. Lúc nào ra phố cũng có cảm giác như đêm Noel, hay đêm gần Trung
thu cả lũ rủ nhau lên Hàng Mã, hay là áp Tết. Các nhà mặt phố đồng loạt
lắp cửa sắt mở cửa hàng kinh doanh. Đủ thứ. Gần chợ cuối phố thì là
hàng ăn. Hàng bán quần áo may sẵn kéo suốt khoảng phố có nhà dạy đàn.
Nắng cũng như mưa, các nhà căng một tấm vải bạt che đến nửa hè phố. Đi
bộ trên hè như xưa mà vướng phải cọc buộc dây chăng bạt của các nhà thì
vô phúc. Ngã giập mặt còn bị chửi là đồ không mắt. Tôi đeo kính từ năm
lớp bảy. Tự nghĩ phải mình thì họ sẽ nhiếc "lưu manh giả danh trí
thức". Bà cụ bán thuốc lá và xăng bẵng một dạo không thấy mặt. Chỗ bà
cụ bây giờ một ông béo chiếm. Chiều hè tan tầm, ông cởi trần trùng
trục, bụng một rổ, trước mặt là cái bơm xe đạp. Chắc bụng to nên tốt
tiếng. Giọng ông rền suốt một khoảng phố: "Bơm đây. Bơm xe đây!" Một
hôm thấy ông chuyển chỗ ngồi và không rao ầm ỹ. Rất nhiều cụ ông cụ bà
quần áo tề chỉnh ra vào ngôi nhà có cô giáo dạy đàn, vẻ mặt nghiêm
trọng. Rồi thì đám tang. Hình như hội Bảo Thọ phường đứng ra tổ chức.
Cô giáo dạy đàn đi sau quan tài, không mặc áo xô mà mặc đồ đen. Đi xe
ngang đó, thấy cô gầy hơn và buồn thảm. Vẻ buồn bình tĩnh, đằng đẵng.
Tôi
ra trường.
Chạy vạy mãi không xoay được chỗ làm đúng nghề. Rồi gặp anh và lấy anh.
Bố chồng tôi xin cho tôi một chân văn thư ở phòng hành chính cơ quan bộ
ông. May, cơ quan bộ, đánh máy cũng cần ngoại ngữ. Rồi tôi có con.
Thành phố đổi mình từng ngày. Tôi cũng vậy. Toàn bối rối băn khoăn
chuyện nhà. Quen sợ dạ lạ sợ nhà. Phải đưa ma ngay cái quạt tai chuột
và thỉnh về cái quạt tai voi. Phải phấn đấu mua cái quạt cây Điện cơ
(3). Rồi lại phải xoay xở mua lấy cái xe máy. Bé tí đi bộ khắp nơi thì
không sao. Nay đi xe đạp, xe máy phóng ào ào qua, tự dưng thấy mệt. Căn
phòng bố mẹ chồng tôi cho nằm trong một biệt thự cũ. Nhà xây kiểu Tây,
trần cao, lại có lan can rộng nhìn xuống phố. Chồng tôi được một cuộc
hội thảo ngắn ngày ở Nhật về bàn vay thêm bố mẹ cơi cái lan can thành
bếp và đổ lấy cái gác lửng. Làm chỗ ngủ. "Làm chỗ cho anh cu học sau
này. Rồi nhỡ ra anh cu nhà mình yêu sớm lấy vợ sớm!" Vợ chồng ngày nọ
qua ngày kia hỉ hả, bối rối, tất bật vì đủ thứ kế hoạch. Cuối tuần cả
nhà thu xếp về thăm ông ngoại ở một mình từ ngày chị em tôi lấy chồng.
Nhìn phố cách ngày, thấy thay đổi đến chóng mặt. Có nhà đã lên tầng,
mặt tiền nhảy không được ba bước mà cũng cửa vòm cứ như bảo tàng Mỹ
thuật, và ốp đá đỏ hoa mắt. Nhìn cũng hơn mấy năm trước nhà xây trát
granito, mưa mấy hôm trông xam xám nhờ nhờ hệt cái nhà tắm công cộng ở
các khu tập thể. Nhưng nhìn kiểu tốt lỏi thế cứ thấy mặt phố lổn nhổn,
nhà quê vón cục. Biệt thự có ông cụ quanh quẩn quét lá rụng trên lối đi
nay không còn sân nữa. Giàn hoa ti gôn quen mắt đã mấy chục năm bị phá
trong có non buổi sáng. Cây ngọc lan to cũng bị chặt. Một căn phòng mái
bằng xuất hiện. Đường bệ ngự bên trên cánh cửa sắt là tấm biển
VANGĐUCTIN dưới có chua hàng chữ nhỏ hơn và có dấu hẳn hoi: Thử vàng
bằng máy vi tính. Đi ngang lần nào tôi cũng thấy một gã trai trẻ ngồi
sau computer lơ láo ngó ra phố. Còn ở chỗ góc phòng kê xa-lông thì mấy
ông mặt mũi rất phổng, đỏ lịm vì bia nói với nhau như quát. Ngôi nhà
của tiếng dương cầm xưa chìm lấp đâu đó đằng sau mấy cây sào giăng đầy
quần áo may sẵn nhập lậu từ Trung Quốc. Bà cụ mất rồi. Còn tiếng đàn...
Nếu có thì cũng chẳng thể nào nghe nổi. Hà Nội càng ngày càng ồn ào quá
thể. Như Sài Gòn những năm 80. Và bụi. Nói chung là nhem nhuốc. Cơi nới
loạn xạ. Làm thế nào được. Dù sao thì cũng có thêm một chỗ để đặt cái
bếp, hay cái bàn học cho con, chí ít cũng để được giày dép mà không
phạm vào diện tích ở vốn eo hẹp. Thì vợ chồng tôi cũng đã mừng rú khi
làm được cái gác lửng có đổ bê tông hẳn hoi chia đôi khoảng không gian
từ trần xuống nền nhà, và che lại được cái ban công mà không bị ai kiện
tụng gì với phường với quận. Nhìn từ dưới phố lên chẳng khác một cái
chuồng gà. Nhưng vào nhà thì mới thấy tiện thêm nhiều... Vậy mà không
hiểu sao đôi khi tôi cứ nghẹn ngào, không làm sao dứt đứt ra khỏi lòng
dạ những nôn nao của cái thời ngốc. Trưa nay lại thế. Vợ chồng cho con
về bên ngoại. Ngang qua khoảng phố có ngôi nhà xưa, tôi bảo chồng dừng
xe xuống tìm mua cho con bộ quần áo. Anh cu nhà tôi tháng chín này đi
học. Đi lần lần tới số nhà quen thuộc, thấy một cô bé mặt to cả phố
khéo chẳng ai to bằng ngồi trông hàng. Cô bé da nhìn không được sáng,
vận "đồ bộ" in những bông hoa đỏ to tướng, may kiểu mới, áo ngắn quần
phùng trên túm dưới, trông rừng rực. Lơ lửng ngay trên cửa ra vào là
cái lồng chim, trong có con vẹt Hồng công. Con chim rực rỡ như chủ, mỏ
đỏ, lông xanh pha vàng. Nhưng loài chim này không biết hót. Cô bé bán
hàng ngẩng đầu nhìn tôi, rồi thản nhiên cúi mặt nhìn bàn chân đang đặt
trên thành ghế đẩu, tiếp tục giũa móng. Móng chân móng tay cô sơn nhũ
đỏ sậm như máu đỉa. Từ dưới khuôn mặt vừa cúi xuống bay lên một câu nói
rất ngọt ngào: - Chị định lấy cái "lào" thì chỉ em lấy xuống cho, khỏi
rơi hết hàng em. Không lơ mơ với những cô bán hàng như thế này được.
Tôi mua cho con một cái quần bò. Rồi tự dưng hỏi thăm chủ cũ. - Bà dạy
đàn ấy à? Thì bà ấy vẫn ở đây. ở cái phòng trong sân. Nhà ngoài bán đứt
cho nhà em rồi. Có thấy học trò học troẹt nào đâu. Mỗi bà ấy ra vào nên
cũng không ngăn lối đi riêng làm gì cho mất diện tích...
...
Bà ấy? ừ!
Cô giáo dạy đàn xưa nay cũng phải già như bà cụ độ nào. Cô giáo cũ của
tôi đã về hưu. Cô kiếm thêm bằng việc đưa sữa chua cho hàng giải khát
mùa hè, mùa đông thì nhận khâu len... Mà tôi thì cũng đã ngoài ba mươi
tuổi.
1997
Lê
Minh Hà
Chú
thích:
1:
Mười hai ngày đêm Mỹ đánh
phá Hà Nội ác liệt, bằng cả B52, trước khi ký hiệp định Paris.
2:
"Đi xe cố vấn, mặc áo chuyên
da, ăn uống qua loa": câu nói đùa rất thường nghe ở Hà Nội, đặc biệt
trong giới sinh viên ở các trường đại học những năm đầu thập kỷ 80. Xe
cố vấn: lốp xe đứt hết tanh, phải lấy dây chun vấn chặt, đi không bon.
Mặc áo chuyên da: cán bộ được phiếu vải năm mét, nhân dân bốn mét, rất
khó mua. áo chuyên da là không áo. Ăn uống qua loa: ăn uống qua đài.
3: Quạt Điện cơ: quạt do nhà
máy Điện cơ Hà Nội sản xuất, rất được ưa chuộng.