|
Bếp Lửa, Tựa Lần In Thứ Hai (1965).
Cuốn sách mỏng
manh, non nớt và chưa thành hình này của một người mới lớn lên. Hắn lớn
lên trong một thành phố đã mất, thành phố bị vây hãm như một hòn cù lao
nổi chờ ngày tan rã không để lại dấu vết. Hắn đọc Marx tìm thấy giấc
mộng "biến cải thế giới", đọc Rimbaud tìm thấy giấc mộng "thay đổi cuộc
đời", đọc Dostoievski tìm thấy thái độ "tất cả hay không có gì hết",
đọc Gide tìm thấy "đời sống thành khẩn trung thực", đọc Malraux tìm
thấy hào quang của trí tuệ dối đầu với Định Mệnh, đọc Sartre tìm thấy
"cuộc hiện sinh tự do và chọn lựa". Hắn lớn lên cùng bè bạn, vượt qua
mau tuổi trẻ để suy nghĩ và mơ ước hành động. Mỗi đứa một lối lăn mình
theo mối cám dỗ lớn lao của hư vô (1). Hắn lìa bỏ quê hương, chia tay
với bè bạn, dấn mình vào lịch sử, đuổi theo giấc phiêu lưu của trí tuệ:
sự thật được tạo nên từ niềm hư vô của tuổi trẻ bị tước đoạt.
Bây giờ hắn ba
mươi tuổi, hắn vẫn quay tròn như một nỗi tự do trống rỗng, không làm
được gì hơn, ngoài một lựa chọn – khó khăn và buồn tủi - : trở thành
một nhà văn. Lúc hắn viết cuốn sách này hắn chưa phải là một nhà văn,
không muốn là một nhà văn. Hắn chưa biết mình muốn gì vì hắn muốn tất
cả. Hắn viết với ý nghĩ trong khi mình viết, người khác chết. Ý nghĩ
làm tê liệt hứng khởi tạo tác. Nên sau cuốn sách được in tình cờ, không
dự tính, hắn nằm im trong sự bất lực hổ thẹn, hắn phá phách tiêu hủy
không thể hoàn thành nổi những dự thảo, phóng tưởng kế tiếp. Mỗi ngày
mỗi nghiền ngẫm trong bất giác của các tình thế kinh nghiệm, hắn nhận
thức hắn chỉ là một nhà văn, không thế lực và hèn mọn như mỗi người –
một nhà văn bị dìm ngập trong thời đại và xã hội của mình như giới hạn
tự nhiên của cõi sống và cõi chết. Hắn dứt bỏ được những mê hoặc, ảo
ảnh – về vai trò của nhà văn – của thứ tiếng nói toàn năng vang động và
làm biến dạng được sự vật một cách cụ thể. Tiếng nói của văn chương chỉ
là những lời thầm thì giữa hỗn độn của lịch sử, lời cô đơn không sức
mạnh bị lấn áp ở mọi phía.
Sự kiêu hãnh
của tuổi nhỏ nhường chỗ cho sự bình tĩnh ý thức. Hắn bắt đầu cầm bút
thực sự, làm việc giữa những đổ vỡ xáo trộn thách thức. Đối với hắn,
cuộc chọn lựa gay go nhất đã xong, hắn biết hắn chỉ còn một tiếng nói
để tìm kiếm bè bạn và quê hương.
Người được đề
tặng sách này đã chết.
Hắn, tên Vũ
Đạo Ánh, chết vào một buổi sáng chủ nhật đầu tháng chín năm 1964, tại
một khu rừng tỉnh Bình Dương, một viên đạn xuyên ngang ngực năm mới
ngoài ba mươi. Vào buổi chiều cuối tháng tám, hắn còn đứng trước một
căn nhà trong hẻm ngoại ô, nhìn qua cửa sổ, đèn trong nhà thắp sáng
nhưng mọi người đi vắng, cất tiếng gọi. Như những ngày mùa thu, mùa
đông nơi thành phố xa khuất cũng hơi ngửa đầu lên cao liếc mầu trời xẫm
mau, hắn gọi đứa bạn của thời niên thiếu nghèo khốn, gọi những mộng
phiêu lưu đã bị nghiền nát cùng tuổi trẻ như một Thiên Đường cửa đóng.
Hắn lủi thủi trở về như bị bỏ rơi, chạy qua thành phố Saigon buổi tối
còn ngơ ngác những âm vang của mấy ngày hỗn loạn. Có lẽ hắn nhớ tới
thành phố của tuổi trẻ, như nhớ tới đứa bạn, hắn đã chạy cuồng trong đó
trên chiếc xe đạp tồi tàn giữa những ngày tháng rách bươm, mơ ước cái
cơ hội kết tập được ngày tháng tan rã thành một đời ý nghĩa. Có lẽ hắn
muốn gặp đứa bạn để hỏi: tại sao mày không viết được gì thêm nữa ngoài
cuốn sách đề tặng tao?; cuốn sách hắn nhận được vào một ngày cuối năm
nào khi còn đóng đồn trên sườn núi ngoài Trung nhớ quê hương đã lìa bỏ
cùng mẹ và gia đình ở lại, cuốn sách vợ hắn mang liệm theo xác như một
kỷ niệm hắn muốn mang đi. Hắn không gặp đứa bạn và tự hỏi: Nó ra sao?,
đã lâu không gặp, như ngày nào trong thành phố hoài nghi và khắc khoải,
hắn thường tìm bạn và hỏi: Thế nào, chúng mình sẽ đi về đâu?
Hắn gục chết
bên một gốc cây, mau lẹ, không đau đớn. Hắn nằm đó, đầu ngoẹo sang bên,
gối lên cỏ như một người ngủ mệt sau đoạn đường hiểm trở của Định Mệnh
– Định Mệnh của một thế hệ, những người còn sống là những kẻ sống sót.
Hắn đã đi từ tuổi trẻ bị tước đoạt, tới nằm đó trong khu rừng giữa cuộc
chiến phơi mình làm một sự thật thô sơ: ở đây, trong xứ sở khốn nạn
này, cuộc chiến phải chấp nhận không phải là lối phiêu lưu trốn chạy
ngông cuồng. Cái chết của hắn không phải là một huyền thoại Rimbaud,
một huyền thoại Lawrence, tên bạn hắn hiểu được như vậy.
Chúng muốn gì?
Người chết cho kẻ khác sống. Chúng muốn gì?
Những nhà phê
bình ở Hànội đã gọi các nhân vật trong cuốn sách này là bọn tôi mọi nô
lệ. Họ hỏi: trong khi họ xây dựng xã hội chủ nghĩa, bọn này đi đâu?
Những người ở Hànội không khi nào tự đặt câu hỏi với mình, những câu họ
thường đặt cho kẻ địch. Bọn chúng đã đi trong thống khổ của lịch sử tới
cái chết, cái chết như sự từ chối quyết liệt. Tại sao? Đáng lẽ họ phải
tự hỏi: tại sao? Cái chết lựa chọn không phi lý, nó sẽ làm nảy sinh sự
thật, sự thật của những người chết truyền lưu cho kẻ sống sót.
Mỗi nhà văn
chính là một kẻ sống sót.
Sàigòn, 1965
THANH TÂM TUYỀN
(Nguyễn Quốc
Trụ sao lục, và giới thiệu)
Chú thích của
tác giả:
(1)... c’est
que l’idéal, jusqu’à présent, a été la véritable force de dénigrement
appliquée au monde et à l’homme... la grande tentation du néant.
Nietzsche (La
volonté de puissance).
|
|