Mùa hè còn mãi
Nguyễn Chí
Kham
Shall
I compare you to a Summer's day
William
Shakespeare
Phần Thứ Nhất
I
Chỉ còn ít hôm nữa là Thụy hết thời
gian nghỉ phép. Sáng nay, lúc sắp xếp quần áo và các thứ quà bánh vào
túi vải
nhà binh, chặt gọn, căng đầy, bỗng dưng lòng anh thấy nôn nao, lạ
thường, tưởng như đang mang mang một nỗi
nhớ về người
mình yêu. Thực sự, Thụy đang yêu và ước mơ về Thúy Hà. Nàng đã lấy
chồng, nhưng
trong tình yêu vẫn còn để lại cho anh với rất nhiều lá thư.
Huế, thành phố và con người có chung
một dòng sông. Mới cách đây một tuần , không khí của mùa thi rộn rã ,
hoa phượng
đỏ rực trời, trên đường Lê Lợi bao nhiêu tà áo trắng làm sáng đẹp một
ngày mai
như đó là sự xuất hiện những đàn chim thiên thần. Nhưng rồi, vang âm ấy
chợt bơ
vơ sau hồi trống im bặt, vắng lặng, có chút gì tựa áng mây phiêu bạt
bên trời làm bạn cảm thấy nó muộn màng,
chẳng còn nữa
sự đợi mong.
-Anh không
đi đâu chơi ?
Phương xuất hiện ở thềm cửa, trên
bàn tay nắm đầy một chùm quả mận vừa mới hái ngoài vườn. Thụy nhìn cô
em gái và
thấy cả một nụ cười dịu sáng nơi cặp mắt vui của thiếu nữ.
-Anh còn bao
nhiêu ngày phép nữa ?
-Sắp hết rồi.
Phương để những quả mận vào dĩa,
xong kéo chiếc ghế ngồi xuống. Một cơn gió vừa làm dịu đi sức nóng,
trong tiếng
lào xào bên ngoài vườn Thụy ngửi được cả
mùi vị thơm của lá và trái cây.
Phương ăn ngon làm Thụy thèm, anh lấy
một quả nhỏ, vừa cắn đã thấy có vị chát.
-Anh Nguyên
lúc này, sao ?
-Anh ít khi
về nhà.
Rồi một giọng thân tình, Phương nói:
-Anh ấy đã
có chị Thiên Nga.
-Bạn gái của
anh ?
Cô em gật đầu, mắt nhìn Thụy như thể
dò ý. Thụy hỏi:
-Hai anh chị
quen nhau lâu chưa ?
-Em không
rõ, chắc là mới đây thôi.
-Em đã
gặp chưa ?
-Có chứ. Anh
Nguyên đưa chị Nga về nhà chơi mấy lần.
-Thiên Nga
cũng người Huế.
-Không, ở Đà
Nẵng.
-Lạ nhỉ, sao
anh Nguyên không nói gì hết.
-Anh về phép
sớm hơn là gặp chị rồi.
-Anh đâu hay
biết gì mà có ý định về thời gian nghỉ phép.
Sau câu nói, bỗng dưng Thụy băn
khoăn. Gia đình ở Đà Nẵng, cô gái ra Huế học trường Mỹ Thuật năm tới là
năm thứ
hai. Từ ít nét qua trí tưởng, hình ảnh
Thiên Nga tỏa rộng trên khung vải bức tranh thiếu nữ có một gương mặt
đẹp, phảng
phất nỗi buồn. Và chiếc áo dài tím, cô gái cũng cho anh lắng nghe ra
tiếng nói,
hình dung từng dáng bước đi thật dịu dàng trên những bông hoa vừa mới
nở.
Thụy hỏi Phương:
-Mẹ có hay
biết gì không ?
-Có.
-Mẹ nói sao
?
-Mẹ rất vui.
Cả nhà, ai cũng mến chị.
-Ờ nhỉ, anh
đã hình dung thấy rồi. Mong là, hình ảnh chị ấy như anh đang nghĩ tới.
Một giọng vui, Phương nói:
-Chị Nga có
đọc truyện anh viết.
-Vậy à. Anh
Nguyên đưa cho chị.
-Không phải,
em đưa.
-Chị có nhận
xét gì không ?
-Chị nói,
anh thật lãng mạn.
Lòng vui Thụy mơ nghĩ đến người con
gái, và nàng còn đây, đang hiện diện trong tâm trí anh.
Ngày hôm sau, buổi sáng trời mưa Thụy
đi Phú Bài để ghi chuyến bay. Viên Trung úy nhận giấy phép xong, quay
lại xem bảng
phi trình, nói:
-Ngày mai có
hai chuyến Sài Gòn. Anh muốn đi sáng hay trưa ?
-Tôi muốn đi
chuyến sáng.
-OK. 8 giờ
có mặt.
Xong việc, Thụy ra về. Trời đã tạnh.
Thật may, Thụy xin quá giang được chuyến xe nhà binh về phố. Xe chạy
không
nhanh, trên đường, Thụy nhìn ngắm quang cảnh đồng quê hiện ra trong vẻ
ẩm ướt
sau cơn mưa. Lạ nhỉ, một niềm bâng khuâng trong anh như thể cơn gió
lạnh trở
mùa. Thụy đang nghĩ đến câu chuyện của Phương nói về một cô gái mà anh
chưa được
gặp. Cô đến Huế, rồi xa nơi này đã lâu chưa thấy trở lại.
Thụy cứ lan man mơ mộng bóng dáng cô
gái, rồi sực tỉnh khi xe về tới thành phố. Huế vẫn đông vui, rộn ràng.
Xe ngừng
lại phía bên đây cầu Trường Tiền. Thụy nhảy xuống xe, đưa cao tay vẫy
chào tạm
biệt anh tài xế và hai người lính ngồi phía trước. Họ gửi lại anh một
nụ cười.
Từ dốc cầu, Thụy thong thả đi bộ đến sạp báo nằm ngoài khuôn viên Đài
Phát
Thanh. Hiếu nhận ra Thụy, vội la lớn tiếng làm nhiều người nhìn anh chú
ý. Ngày
trước, Thụy khá thân với Hiếu. Nhớ một thời đi học, những buổi chiều hè
Thụy
thường có mặt ở đây say mê đọc báo và hết
sức vui được nghe những lời bàn luận thể thao của các cổ động viên cùng
tâm ý
như mình. Thế nhưng, nay thời gian đã đổi khác Thụy rất nhiều, anh không còn say mê môn bóng tròn như trước nữa,
mà từ ngày đi lính, trong lòng anh mang nặng nhiều ý nghĩ
về chiến tranh, về cuộc đời, vừa hoài nghi từ
những mối mặc cảm.
Vừa chuyện trò với bạn , Hiếu vẫn tiếp
khách mua báo. Một lúc sau, câu chuyện ngừng hẳn vì khách đến khá đông.
Thụy mua tờ báo Nghệ Thuật số cũ. Từ
ngày sáng tác được vài truyện ngắn đăng báo, Thụy bắt đầu chú tâm đến
các sinh
hoạt văn nghệ, và ngày càng trở nên yêu thích việc đọc sách, kể cả cái
thú đến
phòng triển lãm xem tranh.
Thụy không đứng lâu, trả tiền báo
xong anh và Hiếu bắt tay. Hiếu hỏi:
-Hôm nào đi
?
-Ngày mai,
Thụy đáp.
Đứng ở trong quầy, cái dáng người
cao, hơi gầy của Hiếu vẫn như ngày nào. Có chuyến xe buýt vừa đến, đang
ngừng, Thụy vội chạy nhanh. Lên xe, Thụy
ngồi cạnh một
cô gái. Tờ báo cầm trên tay, Thụy mở ra đọc lướt. Cô gái cũng ghé mắt
nhìn vào
trang báo của anh. Hai người không hỏi nhau một câu. Những hàng cây lùi
rất xa
trên đường xe đang chạy. Bên kia công viên, dòng sông đang chảy vào
thành phố,
Thụy chợt nghĩ đến ngày mai lên đường.
Xe ngừng ở nhà ga, Thụy và cô gái
cùng bước xuống. Mỗi người đi một ngả. Thụy hẳn sẽ còn nhớ được cô gái
có cặp mắt
nâu , chiếc áo dài trắng. Cô bước đi một mình. Thụy dõi mắt trông bóng
dáng cô
mỗi lúc xa dần, khuất biệt, khi cô đi qua lối cửa phụ bên cạnh nhà ga
vào phía
bên trong. Thụy chợt nghĩ một đôi điều
như mới có trong đôi mắt, anh nghe ra tiếng nói, biết tên cô gái, và
căn nhà
phía bên kia cánh đồng trơ trọi, nơi ấy rất dễ cho bạn tìm thấy những
dấu vết
chiến tranh còn đó ở hai bên hàng rào kẽm gai, ở chỗ hồ nước đầy rêu có
một cây
khế trái chín rụng từng ngày vương vãi trên mặt đất. Rồi, ngày nào đó
cô gái đi
đến một nơi xa, không hề trông mong gặp lại bạn lần nữa.
Thụy trở gót, bước nhẹ nhàng. Về đến
nhà, Thụy vui lây trong tiếng mấy đứa em reo mừng. Anh Nguyên cũng có
về nhưng
đã vào lại đơn vị.
Sau bữa ăn, Thụy mở ví lấy tiền đưa
cho mẹ một ít , còn lại cho mấy em. Thụy đi lính, đồng lương không
nhiều, nhưng
anh vẫn luôn cố gắng dành dụm cho những kỳ được về phép thăm gia đình.
Một
thoáng yên lặng, Thụy lại nhớ anh Nguyên
, và nhớ rất nhiều trong sự hình dung qua từng nét
về một cô gái.
-Sang năm
anh về phép nữa không ?
-Chưa biết. Nếu
xin được kỳ nghỉ, anh về thăm.
Có tiền của Thụy cho, em anh, đứa
nào cũng cất dành. Những ngày qua anh sống thật nhẹ nhàng yên vui với
mỗi bữa
ăn, mỗi câu chuyện của người mẹ và các đứa em, trong tâm tình đó, những dòng thơ Huy Cận anh yêu thích bỗng dội
lên những cơn sóng nước giạt dào, tỏa ánh một miền quê , miền ấy, là
quê ngoại
mà trong tâm tư anh thường hay nhớ tưởng.
Thụy trải chiếu lên tấm phản, đặt
chiếc gối xong , lăn người nằm. Anh ngủ ngon giấc, lúc thức dậy, đã nửa
buổi
chiều. Rửa mặt xong, anh rời nhà đi bộ qua thăm dì Quyên. Nhà dì anh ở
gần, đầu
ngã ba trông xuống bến sông. Trời vẫn còn hanh nóng, chưa dịu hẳn.
Vừa thấy Thụy trước cửa, Loan lên tiếng,
cô gái nhìn người anh họ qua ánh mắt vui. Rồi một cô gái mặc áo trắng
chợt quay
đầu nhìn làm Thụy ngạc nhiên, liền nhớ ra ngay là mới gặp cô lúc trưa
trên chuyến
xe ngừng đỗ ở trạm nhà ga.
Bà dì ở nhà sau đi lên, với nụ cười
thật điềm đạm.
-Ngày nào
con đi ?
-Dạ, ngày
mai.
Nhìn gương mặt dì Quyên, Thụy cố gắng
tìm một lời để nói. Và, lúc đó Loan giới thiệu anh
với cô
bạn học. Thụy và cô gái nhìn nhau hơi bỡ ngỡ. Nhưng rồi, lướt qua bằng
giọng tự
nhiên , thật vui Thụy nói:
-Anh có linh
cảm là tới đây để tìm em.
-Thực không
?
-Cô hỏi bạn
của cô đi.
Loan nhìn hai người, tỏ ra ngạc
nhiên. Chỉ qua ít giây bối rối thôi, câu chuyện trở nên rõ ràng, nhưng
Thụy
cũng hơi dài dòng khi thuật lại sự tình cờ gặp cô bạn của Loan trên
chuyến xe
buýt đi từ dưới phố lên ga.
Thụy kéo ghế ngồi. Vừa lúc ấy, có tiếng
rao quà của người bán hàng rong. Dì Quyên vội đứng lên đi ra cửa, rồi
cất tiếng
gọi. Một lúc sau, chị bán quà xuất hiện đặt chiếc gánh xuống thềm hiên.
Cả ba người ngừng chuyện để chờ bữa
quà chiều. Rất nhanh gọn, mỗi người một dĩa bánh với nước mắm dằm ớt
cay.
Ngồi bên ngoài, chị bán hàng cầm chiếc
nón đưa lên quạt. Trên vầng trán của chị ít giọt mồ hôi còn đọng. Người
nào ăn
cũng thấy ngon. Cô gái hay ngừng đũa nhìn qua Thụy. Cô gái có nước da
ngăm, cặp
mắt nâu, và trên áo trắng thêu tên của cô. Một giọng nhỏ nhẹ, cô hỏi:
-Anh làm việc
ở Sài Gòn ?
-Anh đi
lính, đóng ở căn cứ Tân Sơn Nhất.
Chỉ có mình Thụy ăn thêm. Bà dì,
Loan và cô bạn ăn xong một dĩa lớn là quá no. Nhìn ra ngoài hiên, Thụy
thấy chị
bán hàng đang rửa chén bát ở cái thau nhôm. Vội vàng anh ăn nhanh, xong
đứng
lên mang dĩa ra trả cho người bán. Bà dì và chị bán hàng cùng tính
tiền, sau
đó, dì vào nhà lấy một cái dĩa ra mua thêm, dĩa này để phần cho Linh,
em kế
Lăng và cũng là chị của Loan.
Bóng nắng theo chị bán hàng đi khuất
ra cổng. Thụy hỏi Loan:
-Lúc nào em
tựu trường ?
-Đầu tháng
chín.
-Cũng gần đến
rồi, hai tuần lễ nữa thôi.
-Mỗi năm anh
đều về nghỉ phép.
Cô gái nhìn Thụy khi hỏi. Lòng Thụy
cảm thấy có được sự an ủi trên cặp mắt cô và còn nghe rõ một giọng nói
thân
tình. Vậy mà, anh cứ băn khoăn tìm lời giải thích cho cô hiểu về tình
cảnh người
lính không dễ sống yên bình, phẳng lặng như cuộc đời người công chức.
-Anh về phép
lần này là lần đầu kể từ khi vào lính, Thụy nói.
Cô gái tên Liên An.
Thụy nhìn tên cô thêu trên áo, và đọc
trong cặp mắt cô một điều thầm lặng.
Loan
quay lưng rút một cuốn sách ở kệ. Cô đem cuốn sách
để lên bàn và mở ra
trang đầu. Bỗng nhiên cô ngừng đọc hỏi:
-Anh Nguyên
đi đâu không thấy ghé.
-Anh còn ở
đơn vị.
Loan ngả người dựa lưng ghế, cười
nói:
-Không chắc
đâu. Anh đi Đà Nẵng thăm chị Nga rồi.
-Sao Loan biết
?
-Cả nhà, đều
biết.
-Loan
gặp chị ấy rồi.
-Chị
Nga thân với em lắm.
Thụy ngẩn người, lạ lùng. Liên An
nhìn qua anh. Buổi chiều, có chuyến xe lửa về đến ga.
-Ngày mai
anh đi buổi sáng, hay chiều ?
-Buổi sáng.
Sài Gòn lúc này đang bắt đầu mùa mưa.
Sau điều vừa nghĩ, bỗng dưng Thụy có
cảm giác bàn tay cô gái đặt lên vai mình. Hai người nhìn nhau, đôi mắt
cô gái hết
sức ngại ngùng.
Và rồi, buổi chiều xuống nhanh. Cô
gái đứng lên kiếu từ, trên tay cầm hai cuốn vở và một tập giấy. Thụy
cũng muốn
về nhà, rồi cùng cô gái đi ra phía cổng.
Giọng thân tình, cô gái nói:
-Em mong
sang năm anh về phép.
-Anh cũng
mong như em.
Hai người đi bộ trên con đường ven
sông. Dừng bước lại, Thụy hỏi:
-Nhà Liên An
gần đây không ?
-Dạ gần.
-Bên kia cầu
?
-Em ở phía
trên nhà ga .
-Em thích về
một mình hay muốn có anh theo.
-Anh tiễn em
một đoạn qua cầu thôi.
-Anh cùng đi
với em.
Trong câu chuyện, cô gái cho Thụy biết
qua về gia đình cô. Và, cùng với sự thân tình ấy, cô nói về mẹ anh, các
em của
anh, và rất là thích thú khi cô tả qua cho anh nghe về nàng Thiên Nga.
Thụy hỏi:
-Em thấy anh
Nguyên ra sao ?
-Anh ấy rất
đẹp .
-Còn nàng
Thiên Nga?
-Em chưa tìm
ra được ai để so sánh với nàng.
-Phương đã vẽ
hình ảnh Thiên Nga và kể hết chuyện cho
anh nghe. Ở thành phố này, vẻ đẹp của áo trắng rất là thuần khiết.
-Anh thích
em mặc áo trắng không ?
-Anh rất
mong, mỗi cô thiếu nữ, ai cũng đều có riêng cho mình một màu áo yêu
thương.
-Anh thật có
tâm hồn đa cảm.
-Anh rất vui
được nghe tiếng nói của em.
-Anh có mong
gặp lại em không ?
-Anh đang đi
bên em. Những ngày tới đây, anh xa khỏi thành phố này. Áo trắng, tên
Liên An của
em, tên Thiên Nga người con gái xứ Quảng chúng ta vừa nhắc đến là kỷ
niệm thật
đẹp mà Huế đã cho anh một sự rung động đầy mối hoài cảm trong ngày về.
-Em có cảm
tưởng, anh luôn đi xa, nhưng lúc nào cũng mãi nhớ thương ngày tháng cũ.
-Em nói được
những ý tưởng của anh. Những ý tưởng ấy nhắc anh nhớ đến một bài hát
rất quen
thuộc.
-Anh hát đi.
-Anh không
biết hát.
Sau vài giây, Thụy bỗng nói:
-Anh nhớ được
một đôi câu ... nhà tôi bên chiếc cầu soi nước, em vắng tôi một chiều...
Bóng nắng chiếu nghiêng nghiêng,
dòng sông không lớn nhưng nó tạo ra được cái dáng vẻ đẹp riêng cho
thành phố.
Hình ảnh chiếc cầu sáng trắng màu vôi, theo ánh nắng, bóng hai người đi
qua con
sông , bỗng nhiên nghe tiếng động cơ nổ dội lên vang thật xa. Và lúc
đó, một
chiếc thuyền máy xuất hiện lênh đênh trên sóng nước, khi ra khỏi dòng
sông nhỏ
này chiếc thuyền sẽ gặp dòng sông lớn.
Nơi đây, trở lại sự yên
bình. Nhà ở hai bên nằm ven theo bờ sông,
mỗi căn nhà đều có khoảnh sân ở phía trước
và căn vườn nhỏ sau lưng.
Bỗng nhiên Liên An dừng bước lại, cô
nói với Thụy:
-Đã đi qua hết
cây cầu, anh có nhớ lời em nói không ?
-Nhớ chứ.
Nhưng sao em không nghĩ anh muốn tiễn em lên nhà ga để đợi một chuyến
tàu.
-Anh muốn em
làm kẻ lữ hành đơn độc.
-Hãy cùng
anh đến đó.
Thụy nói với cô gái vừa hình
dung về khung cảnh nhà ga, trong buổi
chiều muộn màng biết bao nhiêu hành khách mong đợi có chuyến tàu đến,
riêng một
mình cô gái đứng lẻ loi bên cạnh tháp nước, đôi mắt đăm đăm nhìn về
ngôi nhà trống
bỏ hoang. Hình ảnh Liên An áo trắng, tấm lòng buổi chiều nhớ hương gió
mà nỗi
buồn dờn dợn một màu quê.
-Anh có ra
thăm Quảng Trị không ?
-Có, anh về
được ít ngày. Thời trước, nhà anh ở ngay ga Quảng trị. Nhà ở, nhìn sang
bên kia
con đường ray thấy bóng cái tháp nước.
-Em có linh
cảm, anh hay đi xa nhà, nhưng luôn ước mong có được ngày trở về.
-Có được
ngày trở về là cả sự bao dung.
Nhà ga yên lặng, trống vắng. Hai người
đã dừng bước, họ đứng bên nhau nhìn qua bãi đất trống. Bên cạnh hàng
rào kẽm
gai có một hồ nước. Căn nhà lợp mái tôn, sân trước rộng, ở đằng sau, có
một con
đường nhỏ dẫn ra tới bến đò.
-Em ở căn
nhà đó đã mười năm.
-Ngày anh
mong gặp lại em, thời gian có đổi khác đi nhiều không ?
-Không, em
không biết.
Thụy cầm bàn tay Liên An, rồi nói:
-Ngày mai
anh không chỉ xa thành phố này thôi, mà còn xa thêm em nữa.
-Em cám ơn
anh.
-Anh cám ơn
em cho anh ngày gặp gỡ.
-Em về một
mình, nghe.
-Em về một
mình.
Liên An bước đi không ngoái đầu nhìn
lại. Thụy bỗng nghĩ, mình mới là người lữ khách đang trông đợi một
chuyến tàu .
II
Lúc nghe tiếng động rất khẽ của chiếc
ghế, người mẹ thức giấc. Giọng bình thường, bà hỏi:
-Đi sớm vậy
con ?
Thụy không đáp lời, anh chợt ngửi
mùi vị sương muối từ ngoài vườn tan vào, rồi lặng yên ngồi xuống bên
giường mẹ.
Trên chiếc gối, mái tóc đã bạc của mẹ anh xõa rộng, lúc này, anh vẫn
không biết
mình muốn nói điều gì.
-Sang năm,
con về thăm nhà ?
-Dạ, chưa biết.
-Sao con
không xin về ngoài này cho gần nhà ?
Thụy nắm lấy bàn tay của mẹ. Vừa đủ
để cho mẹ nghe tiếng, Thụy nói:
-Ở trong đó
con có điều kiện tìm kiếm thêm việc làm.
-Con ở nhà
thuê ?
-Không, ở trại
lính.
-Thằng
Nguyên có đem cô bạn gái về.
-Con biết.
-Con đã gặp
chưa ?
-Dạ chưa.
-Cô Nga dễ
thương lắm, ở Đà Nẵng.
-Dạ.
-Với con,
thì sao . Đã quen ai chưa ?
-Chưa.
-Ba mẹ rất
mong các con có gia đình.
-Nhưng vẫn
còn lâu, mẹ ạ.
Trong bóng tối, tiếng chuyện trò vẫn
gây một cảm giác xa vắng lẫn vào trong
sương muối. Thụy chợt
nghĩ đến
người cha. Hình như trong đời mình, ba anh luôn sống xa gia đình nhưng
mỗi khi
có được dịp trở về, lòng ông thấy rất vui, rồi bao nhiêu hạnh phúc của
mình lại
chỉ muốn được để dành hết cho người vợ.
-Thôi, mẹ nằm
nghỉ đi.
Thụy nhấc bổng chiếc ghế đem cất. Với
túi xách nhỏ trên tay cùng vai đeo ba lô, anh bước ra ngoài rồi cẩn
thận đóng
cánh cửa.
Có tiếng Phương cất lên gọi. Vừa mới
dời bước, Thụy ngoái đầu nhìn lại rồi vẫy
tay tạm biệt cô em gái.
Nhà gia đình Thụy thuê ở nằm khuất
sau lưng vườn, có lối đi riêng bằng đường nhỏ, và trong lúc trời hẳn
còn tối Thụy
đi bộ ra phía cổng để gặp con đường chính. Thụy dừng bước ít giây vì mắt anh bị chói lóa bởi ánh đèn điện hắt
xuống.
Từ con đường ngang trước mặt, anh lại đi bộ lên phía nhà ga nơi có trạm
ngừng
xe buýt. Một mình, khí lạnh ban mai làm anh cảm thấy thật dễ chịu. Mùa
hè như
đã xa, và mùa thu là một nơi nào đó.
Bên ngoài sân ga, đèn mở sáng suốt
đêm. Chỉ có một chiếc xe buýt đậu chờ khách. Khi vượt qua khỏi cây cầu
Thụy
trông thấy hai quán hàng mở cửa bán cà phê. Đèn trong quán hắt ra một
vũng nhỏ,
và anh đến vừa kịp lúc xe sắp chạy.
Người tài xế dụi tắt điếu thuốc, tiếng
máy xe nổ khô khan, rồi nặng nề lăn bánh. Ra khỏi ga, chiếc xe vượt cây
cầu nằm
trên con đường về trung tâm thành phố. Những hàng cây phượng đẫm ướt qua sương sớm, ánh
đèn điện cứ lùi dần khi xe đang chạy. Thụy
nhìn qua công viên thấy sương mù trên sông, thấy những chấm đèn sáng
của mấy
con thuyền neo đậu, còn bên xa kia kinh thành vẫn đang mờ tối, chập
chùng những
cái bóng di chuyển trên bức tường gạch.
Chỉ hơn mười phút từ nhà ga đến cầu
Mới , rồi xe qua phố Trần Hưng Đạo để vào bến chính nằm bên trái khu
chợ.
Xe ngừng, hành khách xuống. Không
khí buổi sáng sớm ở bến xe yên lặng, ấm áp. Những người đạp xích lô
đang chuyện
trò, mấy người buôn bán còn đứng bên cạnh những gánh hàng để chờ xe đổi
chuyến.
Quán cà phê mở cửa sớm, trong quán, đông khách ngồi. Thụy ghé vào quán,
ngồi
bàn trống ở ngoài gọi một ly cà phê và thêm chiếc bánh
pâté chaud. Cà phê đã pha sẵn, rất nóng,
Thụy uống một hớp nhỏ rồi đốt điếu thuốc. Thụy sẽ ăn chiếc bánh, và
uống cà phê
sau khi hút xong điếu thuốc. Buổi sáng sớm, trời thấm lạnh, lúc này sắp
sang
thu. Mùa hè mong muốn đi xa, còn lại thành phố này, bóng dáng con tàu,
những
chiếc ghế trống và người lính đang ngồi đây với bao nỗi niềm riêng của
mình, Thụy
chợt nghĩ đến hai hình ảnh thiếu nữ, một cô gái nhỏ bé áo trắng, và một
cô mang
hình bóng áo tím như đang lớn dậy giữa cuộc đời, hai hình ảnh đó anh có
thể
mang theo với sự trìu mến ân cần, hay tốt hơn, hãy nên cứ gởi lại cho
thành phố
để nhớ ngày về.
-Con đã quen
ai chưa ?
-Dạ chưa.
Ly cà phê đậm bỗng làm Thụy nhớ đến
Huê. Chiều hôm ấy trời đổ xuống trận mưa lớn.
Căn phòng ở tầng lầu hai bật đèn sáng. Trên chiếu bạc, mọi người hồi
hộp theo
dõi cô Huệ làm cái đang bắt bài. Rút cây thứ tư, cô nhẩm
cộng số nút trên từng lá, ra vẻ ngập ngừng,
suy nghĩ. Lành cười nói:
-Còn bài non
đó cô Thi.
Cô Huệ không đáp lời mà chỉ nhìn
qua mỗi tụ bài của các nhà con đang để úp. Trong lúc chờ , Thụy đếm
tiền sắp lại
ngay ngắn. Trời mưa lớn, anh nghe tiếng mưa và cứ tưởng mình đang ngóng
đợi,
trông chờ ai.
-Nhà nào bù,
bỏ ra.
Cô Huệ đã rút thêm cây bài nữa
mà Thụy chẳng hay. Huê reo lên:
-Em hên quá.
Rồi tiếp theo là Lành nở nụ cười
mãn nguyện. Cô Huệ bắt lá 6 chót, dư một nút, nếu là 5 hay 4 là cô ngũ
linh, ăn
toàn làng. Từ trái sang phải, theo thứ tự, cô Huệ lật bài xem xét lại
và chung
tiền. Bài của Thụy hai con tây, quá chắc ăn. Từ trưa đến giờ anh thật
đỏ, trúng
luôn nhưng vì không đặt lớn nên ăn không
nhiều lắm.
Hết cái, cô Huệ đưa bộ bài qua
cho anh Thái. Với bàn tay mau lẹ anh Thái xóc bài, rồi chẻ bài, trước
khi mở hội
đã lên tiếng :
-Cho đặt
líp.
Thụy nghỉ chơi, đứng dậy nhường
cho Phụng vào chiếu. Ra lối cầu thang, Thụy bước nhanh chân xuống nhà.
Nhà dưới
vắng lặng, mọi người đang ở trên lầu chơi bài thành hai hội, một hội xì
dách, một
hội tứ sắc. Ở hội tứ sắc , người lớn chơi và luôn có tay dì Hồng mẹ của
Thúy.
Thúy cũng đang ngồi bên chiếu bạc, say mê.
Thụy đi xuống bếp, mở chạn tủ
lấy gói cà phê và chiếc phin ra. Thụy cho cà phê vào phin vừa đúng hai
muỗng đầy.
Xong, Thụy để phin lên cái ly nhỏ rồi
xách chiếc ấm ra bể lấy nước. Thụy đổ nước đầy ấm, đem vào đặt lên lò ,
tay sắp những thanh củi gác chồng lên nhau
xong bật
diêm mồi que đóm cho lèn vào dưới lớp củi. Đóm bằng gỗ thông có chất
dầu nên
mau bắt lửa, cháy bùng thật nhanh.
Gian bếp nằm riêng biệt, không
rộng nhưng ngăn nắp. Trên cái bàn gỗ cũ kỹ, phía đầu để một rổ chén
bát, và
ngay bên trên là ống tròn bằng nhôm móc vào sợi thép cứng để bỏ đũa.
Chiếc bàn
dựa sát tường phên với nhà bên cạnh, có ô cửa lưới ăn thông. Vào giờ
đứng bếp,
hai nhà cùng nấu nướng, vừa chuyện trò với nhau. Nhà dì
Hồng và cô Tư rất thân thiện. Bên cô Tư đông
con cái đến mười người. Cô chỉ có hai cậu con trai, còn tất cả là gái,
từ mấy
chị lớn đến các cô nhỏ người nào cũng thùy mị, dễ mến trong cách trò
chuyện hay
vui đùa. Cô Tư ở nhà nội trợ, còn thầy đang làm Hiệu trưởng trường tiểu
học Cầu
Kho.
Thụy đứng cạnh bếp lò nhìn những ngọn
lửa cháy sáng đều. Trời mưa lớn, bỗng anh thích thú với ý nghĩ mình sẽ
được thưởng
thức một ly cà phê thơm, vừa đậm ngon. Mọi thứ, đều đã có sẵn. Thụy để tay lên túi áo sờ nhẹ gói thuốc, thấy
nó còn đầy. Chút nữa, pha xong cà phê, anh uống một ngụm cho ngon miệng
rồi sẽ
đốt điếu thuốc.
Bất giác Thụy mỉm cười một mình, liền
ngay đó Huê xuất hiện. Thụy hỏi:
-Sao em nghỉ,
không chơi nữa ?
-Em thua, hết
tiền rồi.
-Có cần, anh
cho mượn.
-Không, em
cũng không thích ngồi lâu.
Thụy ngước mắt nhìn khuôn mặt Huê.
Thụy thấy cái dáng vẻ Huê đúng là một thiếu nữ đẹp. Huê mặc bộ quần áo
thường
có chấm bông đỏ, khuôn mặt trái soan rất hợp với mái tóc cắt ngắn. Và
nét đẹp của
Huê rất là Tây phương. Thúy, con dì Hồng cũng dịu dàng nhưng không đẹp bằng Huê. Trong
ngõ hẻm từ dãy nhà đầu đến cuối rất đông các cô gái còn đi học, nhưng
không một
cô nào đẹp sánh bằng Huê cả. Ba mẹ
cô
gái người Bắc, nhưng mấy anh em đều nói theo tiếng Nam. Huê có hai anh
chị học
Đại Học. Vào ngày thường, Huê hay mang gạo qua gởi nhà dì Hồng quen gọi
là cô
Ba để nhờ nấu cơm. Thụy đã để ý đến Huê, và bắt chuyện làm quen sớm hơn
ai hết,
ngay sau tuần lễ đầu anh đến ở nhà dì Hồng. Huê cũng mến anh, cô rất
thường hay
qua nhà Thúy và lúc gặp Thụy cô gái chuyện trò rất tự nhiên. Huê học
trường Gia
Long, cô học khá, là một thiếu nữ rất ghiền xem phim. Thụy cũng mê phim
ảnh,
các nam nữ tài tử anh đều nhớ hết tên, và những phim kể chuyện tình,
lúc xem,
anh còn nhớ rõ từng chi tiết. Thế nhưng, Thụy không có được sự kiên
nhẫn, chăm
chỉ với sách đèn. Thụy đã bỏ học, và rồi đây anh sẽ
xa cách với bao nhiêu kỷ niệm buồn câm nín
trong lòng mình.
-Anh đun nước
pha cà phê ?
Chỉ trong ít giây, hình ảnh Huê
kéo Thụy trở về gần gũi bên nàng. Thụy mỉm
cười, nói giọng tự nhiên:
-Trời lạnh,
không có gì thú bằng uống cà phê.
-Anh có tâm
hồn nghệ sĩ.
-Một chút
thôi. Em uống cà phê nghe, uống với anh cho vui.
-Không, em
không uống được cà phê.
Thụy nấu một ấm đầy cho cả nhà
dùng luôn nên đứng chờ lâu. Giờ thì nước sôi đã reo, vừa bốc hơi. Cả
hai người
cùng lặng im để nghe tiếng nước reo, bên ngoài mưa càng lớn.
Thụy nhấc ấm nước, lửa trong bếp
dần tàn ngọn. Huê bước tới gần nhìn anh
pha cà phê. Sau khi rưới cho thấm ướt cà phê một chút, Thụy đổ nước sôi
đầy
phin, xong đậy nắp. Cà phê rớt xuống chiếc ly trong từng giọt đậm, thật
đẹp mắt
làm Huê thích thú. Huê đứng ngắm những giọt cà phê chảy, cô chợt nghĩ,
nước mưa
thì vui như tiếng nói hay tiếng cười, còn từng giọt cà phê là màu đen
đậm đặc,
nó luôn mang mang nỗi buồn.
-Em lên chơi
bài tiếp đi.
-Bộ anh đãng
trí rồi sao ?
-Không. Anh
sẽ đưa tiền cho em lên chơi tiếp. Ăn thì mình cưa đôi.
-Còn thua,
sao ?
-Thì thôi.
-Thôi, hôm
nay em đen lắm. Anh ăn nhiều phải không ?
-Anh được
hơn sáu trăm.
-Anh ăn non
rồi đứng dậy.
-Anh chơi
cho vui thôi. Ít ngày nữa, anh xa Sài Gòn .
-Anh đi đâu
vậy ?
Thụy và Huê bỗng đưa mắt nhìn
nhau. Thụy nói, giọng nhỏ đi:
-Ngày mai
anh xa em đó, biết không ?
Huê hỏi:
-Nhưng mà
anh đi đâu ?
-Anh đi Nha
Trang. Anh vào lính rồi.
-Anh không học
nữa sao ?
-Không.
Thụy
đáp, giọng nói khô vừa tan trong tiếng
hạt mưa lớn rớt xuống mái tôn. Rồi phút giây ấy lặng im, vừa dửng dưng,
mỗi người
chợt theo đuổi một ý nghĩ. Thụy vừa thoáng thấy vẻ buồn trên cặp mắt
của Huê.
Giữa anh và cô gái, không phải hai người có đã có nỗi rung động vì yêu
nhau, mà
đúng ra, rất mến nhau một cách thân tình như anh em. Lúc nãy chơi bài ở
trên lầu
Huê ngồi cạnh Thụy , có lúc nàng hơi nghiêng đầu dựa vai Thụy, mắt chăm
chú xem
những cây bài Thụy bắt lên. Và lúc ấy, Thụy nhìn thấy người em dễ
thương lạ.
Cà phê ngừng chảy. Thụy nhấc
chiếc phin ra khỏi ly, múc mấy muỗng nhỏ đường cho vào cà phê khuấy
nhẹ. Cà phê
pha xong dậy lên mùi thơm làm Huê thấy thèm, và nàng cũng thấy cái dáng
vẻ nghệ
sĩ của người con trai qua mái tóc quăn dợn sóng, thật tự nhiên.
Thụy cầm ly cà phê đưa mời :
-Em uống thử
đi.
Rất chậm từng tiếng, Huê
đáp:
-Đã bảo, em
không uống được mà.
-Em nói giọng
Bắc hay lắm.
-Vâng, anh.
Hai người nhìn nhau cười.
Trời vẫn mưa, mù mịt. Tiếng mưa lớn, nước dội ào ào xuống mái tôn. Thụy
bỗng nhớ
đến một câu thơ cổ: Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách.
Trong gian bếp, có mấy chiếc
ghế con. Thụy để cà phê lại trên bàn, lấy một chiếc ghế nhỏ đưa cho Huê cầm rồi hai người dời ra gần chỗ sáng.
-Mưa lớn
quá.
-Có mưa, mới
giữ được em ngồi đây, Thụy nói.
Thụy uống vài hớp nhỏ,
xong châm điếu thuốc. Huê
cười trong mắt, nàng nhìn Thụy uống cà phê, hút thuốc tỏ ra thích thú.
Thụy nhắc lại câu nói lúc nãy:
-Có mưa, mới
giữ được em ngồi đây với anh.
-Tại sao anh
bỏ học đi lính ?
Đôi mắt Thụy bỗng trở nên
trơ trọi sau câu nói của Huê. Và, anh bỗng nhớ đến Thúy Hà , người bạn
gái ở
nơi một thành phố xa xôi.
-Tuần rồi,
em có đi xem phim không ?
-Có. Phim
Les jeunes loups, anh coi chưa ?
-Có, phim
hay lắm.
-Em lặng người
đi lúc nghe tiếng kèn thật não nuột.
-Em thật
giàu cảm xúc.
-Còn anh,
lúc nào cũng ra vẻ nghệ sĩ.
-Anh cũng có
một vài điểm giống em.
Thụy nói xong, Huê không
giãi bày gì cả. Cơn mưa bị chiều gió thổi tạt, một giọt mưa lớn rớt
xuống vai
áo của Huê. Thụy bỗng cầm lấy tay Huê lúc cô gái đứng dậy dịch chỗ ngồi
tránh
mưa. Rồi Thụy buông tay ra lúc Huê ngồi
xuống. Nhìn gương mặt đẹp của cô gái, Thụy nói:
-Anh có một
người bạn gái rất thân.
Huê
hỏi:
-Anh sẽ đi
xa bao lâu ?
-Chừng ba
tháng.
-Rồi anh trở
về lại đây.
-Chưa biết nữa,
nhưng anh rất mong về. Anh rất nhớ Sài Gòn, anh nghĩ đây là thành phố
tuổi trẻ
của mình.
- Anh sẽ làm
phi công ?
-Không, anh
đi chuyên viên. Có thể sau này anh trở thành thợ máy.
-Làm thợ máy
cho phi cơ ?
-Khi nào phi
cơ hư hỏng, trở ngại đem vào ụ thì chuyên viên coi sóc sửa chữa. Giống
như xe
hư, mình sửa vậy.
Thụy giải thích cho Huê
bằng những
điều nghe được trong những ngày qua khi anh làm đơn tình nguyện vào
Không quân,
và những ngày đi khám sức khoẻ anh hay chuyện trò với những người lính
cũ, họ
đã cho anh biết một số ngành nghề trong binh chủng này.
Huê hẳn còn là một cô gái học
sinh. Nàng chưa quen ai cả, và nàng cũng đã biết anh để ý tới nàng ngay
từ những
ngày đầu mới gặp.
-Anh học ở
quân trường nào ?
-Nha Trang
. Em đến thành phố đó chưa ?
-Chưa.
-Em có thích
những thành phố ở miền biển ?
-Rất thích.
Nhưng tại sao anh không làm phi công ?
Thụy bỗng nhìn lâu vào mắt
Huê. Anh thấy Huê đúng là hình ảnh của cô Phượng trong tiểu thuyết Đời
Phi Công
của nhà văn Toàn Phong. Thụy đã đọc cuốn đó một đôi lần, anh thật mến
yêu cô
Phượng là hình ảnh đẹp trong văn chương đem ra giới thiệu với người
đời. Và rồi,
anh cũng nghĩ mình chọn binh chủng Không
Quân vì yêu cuốn sách, vì bóng hình cô gái đó. Giờ đây, Huê chính là cô
Phượng
đang ngồi trước mặt anh. Nàng thật là giống, giống lắm, với mái tóc cắt
ngắn
bao quanh gương mặt đầy đặn, với nỗi buồn quá nhẹ chỉ để làm đẹp cặp
mắt khi
nàng cảm thấy vui, hạnh phúc. Nhưng thật buồn thay, anh không phải là
phi công.
Thụy nói thầm với Huê , anh không phải
là thế, nhưng anh yêu em.
Những ngày cuối sắp rời Sài Gòn,
giây phút nào nỗi buồn cũng cứ buông trôi , chấp chới trong cõi lòng
khiến Thụy
có cảm giác miệng lưỡi cứ đầy ứ những vị chua, vừa đắng. Mỗi ngày, Thụy
hầu như
ngồi trên các chuyến xe buýt. Một hôm ấy,
Thụy tìm đến Lăng. Vừa thấy bóng Thụy xuất hiện lối hiên ngoài, Lăng
vội ngừng
viết, gấp sách. Thụy bước vào, với vẻ mặt ủ rũ . Lăng nhìn Thụy lo
ngại, định
lên tiếng hỏi nhưng vừa ngồi xuống ghế,
Thụy nói ngay.
-Tôi sắp đi
Nha Trang.
-Anh đi có
việc gì ?
-Tôi nhập
ngũ, vào binh chủng Không Quân.
Lăng hơi ngạc nhiên, và những
ý tưởng Lăng muốn nói bỗng nằm lại trong cặp mắt mình với một nỗi xốn
xang, tuy
nhiên, nếu có nói ra cũng sẽ không phù hợp với những điều Thụy đang
nghĩ. Thụy
tiếp lời:
-Tôi đi
chuyên viên, lính thường thôi.
-Chừng nào
anh đi ?
-Hai ngày nữa.
Hai người im lặng. Thụy nhìn
vào chồng sách, cầm một cuốn sách Luật xem qua rồi gấp lại. Lăng hỏi:
-Anh không đợi
đến hè, thi cử xong đã.
-Thôi, tự
nhiên tôi chán chuyện học hành.
-Anh đi, có
bạn nào quen không ?
-Có, bạn học
ở Đà Nẵng. Bạn thân, nó muốn tôi đi cùng.
Lăng không nói gì, nhưng rất
hiểu tâm trạng của Thụy. Từ ngày vào Sài Gòn, Thụy sống như một kẻ lạc
lõng,
chênh vênh không có điểm tựa. Những ngày đầu háo hức trước một thành
phố có đời
sống xô bồ, sôi nổi, giờ đây đã lắng dịu , buồn bã trong lòng anh. Vào
đây, Thụy
cố gắng tìm kiếm việc làm, nhưng nó không ổn định.
-Anh đợi thi
xong đã.
-Thôi, tôi
không thích học nữa.
Thụy vẫn muốn giấu, không cho
Lăng biết đơn xin hoãn dịch của anh đã bị
từ chối. Buổi chiều thật yên tĩnh. Lăng xếp sách vở cho vào kệ xong
thay quần
áo, mở hòm rương lấy ít tiền bỏ túi rủ Thụy đi chơi.
Hai người rời nhà đi ra trạm
xe buýt. Vừa đi, Thụy bắt đầu câu chuyện nói với Lăng. Bằng một giọng
cố gắng
giữ niềm tự tin, Thụy nói cho Lăng biết anh đã làm đơn xin nhập Không
Quân từ một
tháng nay. Mỗi ngày, Thụy đều có mặt ở Bộ
Tư Lệnh Không Quân để bổ túc hồ sơ và khám sức khoẻ. Kết quả, anh đủ
điều kiện
để theo học khoá chuyên viên. Bên Không Quân khác với Bộ Binh, nói là
đi lính,
nhưng sau mấy tháng học căn bản quân sự không phải ra ngoài chiến trận
mà sau
đó, được theo học ngành nghề, những ngành như không lưu, kiểm báo, hoặc
cơ khí
, rất dễ có cơ hội được gởi đi nước ngoài học thêm về chuyên môn.
Lúc Thụy ngừng nói, Lăng hỏi:
-Anh đi học
chừng bao lâu ?
-Ba tháng.
-Rồi trở về
Sài Gòn.
-Không biết
nữa, ra khỏi quân trường là đi đơn vị.
-Mình có chắc
được đi học ngành không ?
-Ở đơn vị một
thời gian, sau đó họ sẽ cho đi học.
Hai người đứng chờ bên trạm xe
buýt. Không biết nói với nhau gì thêm, Thụy nhìn ra con đường, lúc này
trên
gương mặt anh không giấu được cái vẻ còn ngơ ngác của mình. Chuyến xe
buýt tới
trạm ngừng. Xe đông khách, Thụy và
Lăng đứng ở cạnh lối cửa lên xuống. Và,
chuyến xe chạy đi ngay sau ít phút ngừng, rồi cứ ghé vào mỗi trạm là
thả khách
xuống rồi đón khách lên.
Xe vào bến chính ở trước chợ Bến
Thành trong cảnh tượng buổi chiều thật huyên náo giữa đô thị. Xuống xe,
Thụy hỏi
Lăng:
-Mình đi đâu
?
-Đi lòng
vòng chơi phố một lúc.
Thụy bước theo Lăng, trong đầu
óc đôi lúc còn nghĩ vẩn vơ. Ngang qua những tiệm tạp hoá, hiệu sách và
các quán
dọc vỉa hè, Thụy và Lăng chỉ đưa mắt nhìn thoáng. Bất chợt Lăng hỏi:
-Anh cần mua
gì không ?
-Không.
-Anh cứ mua
đi, có tiền đây .
-Thôi, chẳng
có gì cần mang theo.
Thụy và Lăng cứ đi dọc theo vỉa
hè phố Lê Lợi mắt lướt nhìn, và trong ý nghĩ như cố gắng gợi nhớ ra một
chuyện
gì quan trọng. Thụy tự dưng thấy mình xúc động trước hình ảnh một ngày
cuối ở
Sài Gòn. Thụy nhìn quang cảnh phố có cảm giác xa lạ hơn bao giờ cả, và
dù cho
anh đã vào đây ở được sáu tháng, nhưng anh vẫn không thể coi đây là
thành phố
thân thuộc với mình.
Không mua sắm gì, hai người
ghé vào quán Mai Hương ngồi nghỉ chân uống nước, sau đó, sẽ đến rạp hát
Lê Lợi
xem nếu có phim hay thì vào coi, không cả hai xuống nhà dì Hồng.
Rạp Lê Lợi luôn chiếu thường
trực, có nhiều phim hay và giá vé rất rẻ. Thụy thường xem phim ở rạp Lê
Lợi. Chỉ
cần có 10 đồng trong túi là mua được một ly trái cây xay, một lát bánh
mì nướng
và một vé xem phim thường trực.
Rạp đang chiếu phim The Sun
Also Rises. Trong lúc Lăng đến quầy mua vé, Thụy ghé vào quán nước mua
bánh mì
và nước giải khát mang vào rạp để vừa xem vừa ăn.
Xuất hát trước vãn, giờ đang
đón khách cho xuất hát mới. Dòng người theo nhau tiến vào cửa. Anh đèn
và hơi
mát của máy lạnh làm cho Thụy cảm thấy dễ chịu khi bước vào trong rạp.
Hai người
ngồi ở bên bìa hàng ghế giữa. Lúc này, đang giờ nghỉ, phim chưa chiếu
nhưng có
phần nhạc đệm cho khán giả vừa nghe vừa giải lao.
-Đến hè,
Lăng có về Huế không ?
-Về, nhưng
cũng đợi kết quả thi xong mới về.
Bỗng dưng trong lòng Thụy khơi dậy một
niềm bâng khuâng. Và anh đã nhớ ra từ ngày ấy, về lại hôm nay, vào
những phút
giây sắp lên đường Thụy có cảm tưởng đời anh luôn là một kẻ cứ trông
ngóng, đợi
chờ .
Trên con sông, những lớp sương mù mỏng
tan dần. Thụy chỉ ngồi ở quán cà phê chừng hai mươi
phút. Khi đứng dậy, anh đeo vai ba lô, tay cầm
túi xách đến quầy trả tiền và mua thêm một gói thuốc bọc đi đường. Hàng
xe buýt
đậu gần nhau đối diện với quán nước. Một khoảng sân rộng giữa bến dùng để cho xe ra vào hay trở đầu. Xe đi
Phú Bài nằm cuối hết, gần bờ sông. Khi thằng lơ xe dắt Thụy đến, có thêm vài người khách nữa cùng lên. Xe
vẫn đợi khách, chưa tới giờ chạy. Thụy không ngồi dãy ghế trước mà chọn
ở đằng
sau, gần lối cửa lên xuống. Ở phía sau, cảnh vật cho bạn nhìn thấy rõ
và lâu
hơn. Khi đặt chiếc ba lô xuống cạnh chân , Thụy cảm thấy dễ chịu. Thụy
lấy làm
vui khi nghĩ đến trưa nay được có mặt ở Sài Gòn. Sài Gòn, thành phố của
mùa
mưa. Rất có thể buổi chiều khi cơn mưa tới, anh đang ngồi trong rạp
hát. Thụy
nhớ lại cuốn phim The sun also rises, bóng dáng Thúy Hà , hình ảnh nữ
tài tử Ava Gadner. Và, đến tối, anh tìm
đến quán cà
phê quen thuộc, nơi ấy, có bóng dáng người thiếu phụ trẻ đẹp với vẻ
nghiêm
trang, và trên gương mặt nàng luôn phác
họa những nét buồn rất dịu dàng, ngây thơ. Nhưng nếu trời không mưa,
bạn sẽ làm
gì ? Thụy đặt cho mình một câu hỏi, rồi
tự nghĩ nếu Sài Gòn không mưa, thì lúc anh về tới, trời đã quá trưa,
hoặc bắt đầu
vào buổi chiều với không khí dịu mát, tươi vui, nhiều sắc màu của nắng
và của
những tà áo tung bay trên đường phố, chừng đó, cũng đủ gây cho anh niềm
vui
ngày trở lại Sài Gòn, với buổi chiều
lang thang trên vỉa hè dọc theo các dãy phố buôn bán sách báo cũ. Anh
cũng cầu
mong gặp Huê , giữa anh và nàng luôn hòa hợp nhau trong một tâm hồn rất
mến yêu
văn nghệ và cuộc sống.
Từ băng
ghế sau nhìn qua con sông, Thụy trông thấy cây cầu và dãy phố bên kia
với những
mái nhà im vắng và những hàng cây cao, rất thẳng đều. Thụy nhận ra Huế
trong
lúc này, nó không thay đổi gì nhiều đối với người lính từ nơi xa mới
trở về. Nhưng có Huế ,
thì anh
có thể nói ra được với bạn bè về
những ngày khó khăn đầu tiên của tuổi trẻ. Từ ngày đó, anh
luôn cảm thấy mình đơn độc, sự dừng bước một
nơi chốn chẳng bao giờ lâu.
-Ủa, đi đâu
đây ?
Thụy giật mình, nhận ra Hạnh. Ánh lửa
que diêm sáng lên khi Thụy đang đốt điếu thuốc.
-Tao mới về
nghỉ phép.
Thụy đưa gói thuốc cho Hạnh.
-Mầy còn nhớ
tao không ?
-Nhớ chứ. Hạnh,
B1.
-Đúng rồi.
Hạnh mặc đồ lính mới toanh, cũng
mang ba lô túi xách như Thụy. Hạnh ngồi xuống bên cạnh , châm xong điếu
thuốc
Thụy mời, hắn hỏi:
-Mày đi đâu
?
-Về lại Sài
Gòn .
-Đơn vị ở
trong đó ?
-Ờ, Thụy
đáp.
Hạnh nhìn qua Thụy trong vài giây.
-Sao không
đeo lon lá gì cả ?
-Lính thường
thôi, không được Sĩ quan như bạn đâu.
Hạnh chỉ cười, và Thụy thấy cặp lon
Hạnh đeo sáng lên.
-Mầy làm việc
ở Tổng Tham Mưu ?
-Không, ở
căn cứ Tân Sơn Nhất.
-Không quân.
-Đúng.
-Mẹ, anh chọn
đi lính cậu để phè phỡn.
-Vậy thôi,
còn bạn chừng nào lên Thiếu úy.
-Sáu tháng nữa.
-Đơn vị đóng
ở đâu ?
-Pleiku.
-Quân đoàn
II.
-Đúng.
-Piston của
bạn cũng mạnh lắm.
-Ông anh tao
làm Phòng 4 Quân đoàn.
-Băng của tướng
Toàn.
-Sao mày hay
vậy ?
-Tao là
lính, nhưng dân nhà báo.
Hạnh cười lớn, bàn tay nắm vai Thụy.
Xe rời bến lúc nào không hay. Hai đứa
cùng ngừng câu chuyện trông ra đường. Trên phố chính Trần Hưng Đạo xe
còn chạy
chậm, để rồi trong ý nghĩ riêng mình, mỗi hình ảnh người lính trở về
phép là để
ấp ủ lấy một vài bóng dáng người thân, sau đó là tâm trạng sắp sửa rời
thành phố
đi đến nơi xa. Nơi nào xa, người lính cũng nghĩ mình sẽ đối diện với
chiến
tranh.
Xe chạy nhanh khi ra khỏi thành phố.
Thụy và Hạnh trở lại câu chuyện, và cũng có lúc ngừng, như thể phút
giây ấy là
sự ràng buộc, mơ hồ vừa thân thiết. Trên quốc lộ, gió thổi lướt qua
cánh đồng
tìm đến các ngôi làng, cảnh ruộng vườn, nhà ở, ánh đèn trong sự chuyển
động xôn
xao và sẽ trở nên bình yên khi trời sáng. Có tiếng súng nổ lẻ tẻ, và
Thụy chợt
trông thấy vài bóng dáng người băng qua núi.
Thụy hỏi Hạnh:
-Về nghỉ
phép được bao lâu ?
-Mười ngày.
Thụy nhớ lại rõ những tháng năm của
thời niên thiếu, trong số bạn học, có Hạnh. Hạnh cũng đã đi lính, nhưng
không
thay đổi nhiều, vóc dáng vẫn nhỏ bé, giọng nói chậm rãi, thân tình.
Trời rạng sáng và có mưa. Xe buýt
không vào phi trường, đậu ngoài đường lộ và chỉ có mình Thụy và Hạnh
xuống xe.
Khi hai người lính đã xuống, xe chạy tiếp. Trời mưa nhẹ hạt. Từ đường
ngoài vào
trạm tiếp liên gần 200 mét, hai người lính bước đi nhanh. Vừa lo mưa
nặng hạt,
nhưng trong mắt, trong lòng anh nào cũng thấy vui, vừa thích làm dáng.
-Ở Không
quân, mầy cấp bậc gì ?
-Lính trơn.
-Vậy thôi .
-Ờ, yên thân
ở thành phố. Nhưng rồi cũng đi học chuyên môn.
-Mầy cũng phải
xin học khóa chuyên môn.
-Đang chờ.
Hai người dừng lại ngoài mái hiên lấy
khăn lau mặt. Bên trong, đã có một số hành khách chờ chuyến bay. Kim
đồng hồ
trên tường mới 7 giờ kém 10. Sau khi coi lại bảng phi trình, Thụy hỏi
Hạnh:
-Mầy ăn uống
gì chưa ?
-Chưa.
-Còn sớm,
qua quán cà phê ngồi.
Tự nhiên, Thụy cảm thấy
mình lớn hơn Hạnh, và trong tình bạn
hai đứa rất muốn nói với nhau một đôi điều để có sự che chở. Thụy và
Hạnh cùng
ngồi xuống chiếc bàn ngoài. Quán cũng đông khách, có tiếng trò chuyện
của lính
tráng , nhưng không ai làm ồn. Cà phê, khói thuốc lan tỏa.
Hạnh kêu hủ tiếu và cà phê sữa. Thụy
không ăn sáng, chỉ uống cà phê, và anh vẫn thích cà phê đen bỏ chút bơ
hơn là
dùng với sữa.
Năm học đó, hai bạn cùng đậu vào Đệ
Thất trường Nguyễn Hoàng. Mấy tháng đầu còn học ở trường nhà tranh gần
bến Hộ,
đến trước Tết Nguyên Đán chừng một tuần học sinh dọn về trường mới nằm
ở sân vận
động. Nơi đây, trường ốc, sân chơi rộng rãi, và học sinh có một ngày
vui liên
hoan tại lớp với các thầy cô trước khi được nghỉ mười ngày về ăn Tết
với gia
đình.
Đứa bé gái bưng chiếc khay ra đặt xuống
bàn thấp. Tô hủ tiếu và ly cà phê sữa cho Hạnh. Ly cà phê của Thụy đen
đậm, anh
cầm thìa nhỏ lấy đường trong hủ cho thêm
vào xong khuấy nhẹ.
Thụy uống cà phê, nhìn Hạnh đang ăn.
Ở ngoài sân, những đám bụi mưa bay trong gió sớm, mang cái vẻ buồn vắng
rất nhẹ
nhàng. Bỗng Hạnh hỏi:
-Mầy lên
Pleiku bao giờ chưa ?
-Chưa.
-Đó là thành
phố của lính.
-Đất của
Pleiku màu đỏ.
Thụy thấy người bạn ăn ngon. Trên
gương mặt còn thư sinh, hắn cũng là thứ
lính cậu, an nhàn như Thụy, hai đứa chẳng có gì hơn nhau ngoài cái lon
đeo trên
ve áo, nhưng với Hạnh tương lai có được
sự đợi chờ. Ngày ra quân trường đi đơn vị, Thụy may mắn được ở Sài Gòn,
đây là
thành phố anh dễ tìm kiếm thêm việc làm bằng nghề viết báo, vừa được
vui thích,
tự do.
Thụy cười nhìn bạn cũ, hỏi:
-Sao ?, vợ
con hay có bồ em nào chưa ?
-Chưa, nhưng
mầy yên chí.
-Em, Pleiku.
-Ờ, một em
làm cô giáo.
Hạnh tiếp tục ăn. Một lúc hắn hỏi:
-Có coi phim
The quiet American không ?
-Có.
Thụy được coi phim này ở rạp Châu
Tinh ngay trong tuần nghỉ phép đầu tiên.
Hạnh
lấy trong túi ba lô cuốn truyện bản tiếng Anh. Thụy cầm cuốn sách lật
xem qua
vài trang, nói:
-Tao có đọc
rồi, đọc qua bản dịch.
-Còn phim, mấy
thấy sao ?
-Xem cũng được,
không hay bằng truyện.
Trong lúc Hạnh còn ăn, Thụy nhớ nghĩ
đến Phượng. Phượng rất là thân thiết với tác giả, với Sài Gòn và có anh
nữa.
Anh yêu thích nhân vật Phượng. Anh thấy nàng đẹp khi xõa rộng mái tóc
xuống vai
áo. Và thuở ấy, thành phố này được gói ghém sự yêu thương trong lời đề
tặng ở
trang đầu của tác giả. Graham Green là một nhà văn người Anh, ông đã có
thời
gian sống lâu ở Việt Nam trong cuộc chiến tranh Pháp-Việt Minh. Nhà văn
Jules
Roy viết cuốn trận Điện Biên Phủ có nhắc đến tên ông. Và, trong cuốn
sách ấy,
hai người được nói đến nhiều nhất là tướng Navarre và tướng Võ nguyên
Giáp.
Ăn xong, Hạnh cầm ly cà phê sữa đưa
lên miệng uống. Hắn uống nhanh, cảm thấy thỏa mãn sau bữa ăn sáng no
bụng. Tô hủ
tiếu hắn gọi là tô lớn. Thụy hẳn còn ít cà phê chưa uống hết. Thụy uống
chậm và
đã đốt liền mấy điếu thuốc trong lúc Hạnh ăn , vừa chuyện trò. Hạnh
nghe Thụy
nói:
-Tao có nhiều
truyện dịch hay.
-Mầy nên tìm
nguyên tác mà đọc.
-Ngoại ngữ
tao không khá.
-Mầy cứ đọc
bừa, tự nó vỡ ra.
-Đọc truyện
Anh, Pháp phải có nhiều ngữ vựng.
-Nhưng chịu
khó đọc, cứ đọc đi, rồi nghĩa các câu chữ sẽ bật ra.
-Mầy xong
trên Đại học chưa ?
-Chưa, mới
được hai chứng chỉ.
-Bên nào.
-Văn khoa.
Tao cũng có được một chứng chỉ bên Luật.
-Có tính học
tiếp không ?
-Có chứ. Phải
cố cho xong.
Chỉ hai mươi phút ngồi ở quán mà thời
gian tưởng như lâu. Khi cả hai đứng lên, vừa lúc có một xe ca chở khách
tới và ở
văn phòng trạm tiếp liên thông báo giờ các chuyến bay cho hành khách.
Hầu hết
là lính tráng đi phép, đi công tác, có một số ít thường dân xin quá
giang. Tự
dưng, Thụy và Hạnh có cảm giác lạc lõng, vì sắp sửa chia tay. Có hai
tuần phép,
và đây là kỳ nghỉ phép đầu tiên từ ngày Thụy đi lính. Liên An nhỏ bé
thân
thương, nhìn đôi mắt An, anh nói với cô gái được một đôi điều về đời
lính và
hình ảnh người lính trong đời anh. Về Huế, thành phố này thật đầy ắp
những kỷ
niệm. Thụy có hai ngày ra Quảng Trị thăm làng quê bên nội. Thụy gặp vài
người bạn
cũ, các bạn anh không bị đi lính, đang dạy học. Khu Morin là khu Đại
học, ở khu
này có nhiều quán cà phê đông nam nữ sinh viên tụ tập tạo nên không khí
văn nghệ
thật đặc biệt dành cho lớp trí thức trẻ. Và, mỗi buổi chiều cũng có khá
đông
lính tráng đến, họ là lính thành phố và
một thời là sinh viên. Thực ra, Thụy rất muốn vào Đà Nẵng để thăm gia
đình Thúy
Hà nhưng chẳng hiểu sao anh lại không mong mỏi chuyến đi. Và rồi anh
nghĩ, khi
trở lại Sài Gòn anh sẽ nhận được một hai lá thư của nàng. Hay là, anh
đã cảm thấy
vương vấn hình ảnh của Thiên Nga vì trong
chuyện về cô gái và anh Nguyên nghe Phương kể thật
là vui, rất chân tình
.
Bên kia con đường, người lính trông
thấy cánh đồng, phía xa là ngôi làng và bóng núi. Sương mù làm mờ
khuất, trời
đang mưa nên cảnh vật trở nên hiu quạnh vắng vẻ, nhưng nó cũng đã tạo
cho bạn
có một vẻ đẹp xa vắng của thời gian. Bỗng nghe có tiếng còi tàu vọng,
một lúc
sau, đoàn tàu tới gần và chạy ngang qua với tốc độ bình thường. Thụy
nhìn đoàn
tàu, chỉ thấy có hai toa hành khách. Những toa xe khác nối nhau nhưng
cửa đóng
kín.
Hai người lính chia nhau điếu thuốc,
đốt que diêm châm lửa, và bắt tay nhau. Thụy đứng vào hàng đợi nhân
viên của trạm
hướng dẫn ra cổng. Có bốn chuyến bay sáng nay, mỗi chuyến cách nhau một
giờ.
Sau chuyến đầu Thụy đi Sài Gòn là tới chuyến
Pleiku của Hạnh.
-Đi nghe Hạnh.
-Ờ, mong gặp
lại.
Hành khách di chuyển. Khi ra ngoài
sân bay, họ cùng nhìn thấy một quang cảnh trống trải, hai chiếc phi cơ
đậu hai
nơi xa cách nhau, và cả đoàn đi theo viên Trung úy hướng dẫn đến chiếc
C130
đang chuyển hàng.
Hành khách dừng lại khi tới gần.
Viên Trung úy gặp trưởng phi cơ trình danh sách, một nhóm trong phi
hành đoàn đứng
dưới cánh bay lớn đang hút thuốc trò chuyện. Viên Đại úy Trưởng phi cơ
người tầm
thước, mặc đồ bay lam, đội nón lưỡi trai có gắn phù hiệu phi đoàn và ba
bông
mai.
Sự tình cờ làm Thụy chú
ý nhìn lên phía trước khi thấy bóng
một cô gái xuất hiện với chiếc áo dài trắng. Anh thấy mái tóc dài của
cô phủ
trên lưng áo. Cô có mái tóc đẹp, nhưng anh chưa trông thấy rõ khuôn mặt
cô. Huế-Sàigòn
xa cách gần hai giờ bay, và anh nghĩ, cô gái đang học ở Sài Gòn, những
ngày
tháng qua của mùa hè cô về thăm gia đình. Ngày về phép của những người
lính như
anh thì ngắn, còn cô gái, những ngày nghỉ được sống với gia đình lâu
hơn, luôn
luôn được nghe tiếng nói là nguồn vui của hạnh phúc. Nhưng chắc gì sang
năm,
khi mùa hè tới, cô sẽ rời xa Sài Gòn để về Huế. Thụy chợt vui, nghĩ
rằng, mỗi
cô gái thường chọn các thành phố thích hợp với thời tiết trong tâm hồn
mình. Và
riêng anh, cũng có lúc thầm nghĩ cuộc đời như một bài hát.
Hành khách bước lên phi cơ sau khi
hàng hóa quân nhu chuyển xong hết. Không đợi lâu, đèn trong phi cơ bật
sáng và
rồi tiếng động cơ nổ. Thụy bắt đầu đếm từng khoảnh khắc thời gian khi
phi cơ
lăn bánh. Tới đầu phi đạo định hướng,
phi cơ dừng, trong một phút chờ đợi , phi công liên lạc với đài kiểm
soát không
lưu. Khi động cơ rùng lên, thân phi cơ rung chuyển , rồi với vận tốc
cất cánh
phi cơ lao đi bay lên bầu trời.
Sau hơn một tiếng mười lăm phút vượt
không gian, chuyến bay đưa hành khách tới Sài Gòn. Ngồi bên cửa nhìn
xuống lúc phi cơ hạ thấp cao độ chuẩn bị
đáp, dần dần
qua bóng những đám mây tản mác, Thụy nhớ lại những bóng hình ngọn núi,
sương
mù, biển và con đèo Hải Vân bên dưới đôi cánh phi cơ. Và, đó cũng là
lúc, anh
chợt nghĩ đến Thiên Nga, ước mong gặp nàng. Anh cũng không hiểu sao,
với kỳ
phép rộng thời gian mà anh không có được ít ngày vào Đà Nẵng thăm gia
đình Thúy
Hà, để lúc ấy, được gần gũi và nói với nàng những lời yêu thương.
III
Trung úy Nguyên cùng đội dân sự vụ
và y tế đi Phò Trạch. Ở đó một tuần, đoàn làm
công tác khám bệnh, đào giếng, gặt lúa và lợp nhà cho dân. Khi trở lại
đơn vị
Trung đoàn, cả toán được nghỉ xả hơi ít ngày. Nguyên về thăm nhà , tắm
rửa xong
anh vội vàng thay quần áo đón xe đò vào Đà Nẵng.
Tới thành phố giữa buổi chiều, nắng
hè đã dịu bớt. Thiên Nga có mặt ở nhà lúc Nguyên tới,
nàng hết sức ngạc nhiên nhưng lòng cũng thấy
vui khi gặp chàng. Hai người nhìn nhau có chút ngại ngùng, vừa cảm
thông.
Căn nhà Thiên Nga nằm ở khu phố
chính trông ra hai con đường Hùng Vương và Triệu Nữ Vương. Những lần
trước,
Nguyên được cô gái cho phép chàng theo chuyến xe khách từ Huế vào Đà
Nẵng khi
cô về thăm nhà, và họ ngồi chuyện trò ở quán nước một giờ khá lâu trước
khi
chia tay. Có một đôi lần, qua nhắn tin, hai người gặp nhau ở nhà người
bạn
thân. Luôn luôn, cô gái rất giữ gìn ý tứ.
Và, đây là lần đầu tiên vì quá nhớ
nhung, Nguyên liều lĩnh tìm đến nhà Nga. Với tình yêu, cô gái rất hiểu.
Hai người
ngồi ở bàn khách nhà dưới chuyện trò, giọng nhỏ nhẹ, thân tình. Nguyên
nhìn mái
tóc, gương mặt, và nghe tiếng Thiên Nga nói, anh có cảm giác như thời
gian là
cánh cửa thấp thoáng những hình bóng của anh.
Sau những phút giây băn khoăn,
Nguyên mời Nga đi chơi phố. Không chỉ tiếng nói nhỏ, mà trên gương mặt
Nguyên lộ
ra hết vẻ bỡ ngỡ khiến Nga không giấu được nụ cười trong cặp mắt nhìn
lại anh.
Một lúc sau cô đứng dậy, để Nguyên lại một mình. Nguyên thật lo lắng
khi nghe
tiếng Nga nói chuyện với bà mẹ. Cũng khá lâu, Nga mới trở
ra ngoài và bảo Nguyên ngồi chờ.
Chỉ nửa tiếng, Nga thay quần áo xong
. Phố đông vui ngày cuối tuần, ra khỏi nhà một quãng xa nàng mới để cho
Nguyên
nắm tay mình. Bên nhau, hai người dạo bước, giọng nói của Thiên Nga rất
hồn
nhiên và tự tin. Trên đường đi, Nguyên kể cho người yêu về mấy ngày đi
công tác
vừa qua, và anh tả lại ngôi làng Phượng Liễu
bằng những nét phác họa sống động như làm một bài
luận văn.
Bên kia đồi cát là ranh giới hai tỉnh.
Hải Lăng là một quận lỵ ở gần ngay đó, từ quận về quê nội của Nguyên
khoảng mười
cây số. Quê nội anh ở gần biển và trước khi đến biển con đường xuyên
qua một
khu nghĩa địa là những đồi cát trắng trải dài trông hình dáng như đàn
voi. Biển
rất vắng, rất xanh, tràn
ngập bầy chim bay rộng cả một vùng trời.
Tiệm giải khát đối diện với rạp hát.
Hai người ngồi dưới chiếc dù lớn đặt gần mái hiên. Bên ngoài rạp hát,
lảng vảng
một hai bóng người còn đứng xem những tấm biển quảng cáo chiếu phim kỳ
tới. Lúc
này, trong rạp phim đang chiếu, chừng bốn lăm phút nữa mới vãn xuất.
Nguyên ngoắc tay gọi đứa gái nhỏ đến
gần.
-Cà phê đá.
-Nước cam
tươi.
Đứa bé gái bỏ đi ngay vào quầy.
Nguyên lặng nhìn Nga với một nụ cười trong đôi mắt. Nàng cũng rất yêu
đôi mắt đẹp
của Nguyên. Nàng rất thích cái dáng trẻ thơ của anh, và những câu
chuyện anh kể
về đời lính. Những cô gái trước đây Nguyên quen, anh cũng kể ra cho
nàng biết,
có những chuyện vui ngộ nghĩnh làm nàng bật cười. Và, sau này, anh tỏ
lòng tha
thiết nói lời tâm sự, giờ đây chỉ có nàng là hơn hết.
Nguyên uống cà phê, nhưng không hút
thuốc. Anh không biết hút thuốc lá, nhưng cà phê thì phải có. Những năm
ở Sài
Gòn làm báo, mỗi buổi sáng, Nguyên thường viết bài ở quán cà phê ngay
trước mặt
tòa soạn. Anh viết nhanh, và cà phê là chất xúc tác gợi nhiều cảm hứng
cho anh
viết.
Thỉnh thoảng mắt Nguyên lơ đãng nhìn
ra đường ngắm phố và chú ý những người đi qua lại.
Thiên Nga uống từng ngụm nước, cặp
môi mỏng ướt của nàng đẹp như cánh hoa. Nàng rất vui tính, những ngày
qua về
nghỉ hè nàng cũng biết mình nhớ Nguyên rất nhiều. Nhưng với tâm hồn
thiếu nữ,
nàng có sự ấp ủ, vừa e thẹn để giữ gìn nỗi nhớ nhung luôn thật dịu mềm
như là một
thứ tơ lụa.
-Nga định
hôm nào ra Huế ?
-Ngày mốt.
-Anh ở đây
chờ Nga ra luôn.
-Anh không sợ
bị phạt à ?
Nguyên cười bảo:
-Có Nga ,
anh chẳng sợ ai cả.
Nàng cười. Anh tiếp lời:
-Anh được
nghỉ phép ít ngày sau chuyến công tác.
-Tối nay,
anh ở đâu ?
-Ở nhà người
bạn.
Ánh mắt nàng nhìn qua người yêu có vẻ
bối rối, vừa ngại ngùng. Nhưng rồi, lấy một giọng bình thản, Nga nói.
-Về nhà em
mà nghỉ.
-Má có la
không ?
-Em sẽ xin
phép cho anh.
-Cám ơn em.
-Cám ơn
suông thôi sao ?
-Anh bao em
một vé ciné được không ?
-Quá đúng ý
em.
Nguyên nắm tay người yêu. Bàn tay cô
gái rất mềm mại, nhan sắc nàng cũng tỏa
ra hương thơm làm anh thật sung sướng với tình yêu mình đang có.
-Em có vẽ
tranh không ?
-Có, em vẽ
được khá nhiều.
Trong khoảnh khắc này đã làm Nguyên
nghĩ nhiều đến cô gái. Anh nghĩ về cô trong năm học tới. Anh nghĩ tới
những màu
sắc cô yêu thích, những khung vải hình thành bức tranh cô đã vẽ. Cô gái
yêu
thích hội họa và tài năng của cô sẽ phát triển. Cô là một họa sĩ lãng
mạn có
tâm hồn thật phong phú, rồi đây những bức tranh sáng tác sẽ làm cô nổi
tiếng.
Hai người nhìn nhau trong sự
yên lặng của niềm cảm thông. Trên bàn, ly nước
cam và ly cà phê đã vơi một nửa. Trong màu vàng của ly nước cam, ánh
lên âm
thanh hay đó là bao nhiêu tiếng nói cô gái đã ghi nhận được từ những
tấm ảnh của
cô sắp xếp trong cuốn album. Cô gái có một cuốn album nhỏ, trong cuốn
này, những
tấm ảnh của cô được sắp xếp theo thứ tự thời gian.
Mỗi lúc, trên đường phố ngang qua rạp
hát người đi và xe cộ qua lại rất đông. Mùa hạ sắp hết nhưng trời còn
nóng. Và
khi nghe gió rung động những cây lá, bạn sẽ có cảm giác ánh nắng cũng
bị gió cuốn
trôi, bập bềnh, lan rộng ra tới bờ sông. Thành phố nằm bên con sông.
Con sông
chảy qua bến Cảng rồi theo dòng chính trôi giạt tới biển. Miền Trung
đất hẹp rất
dài dựa lưng núi Trường Sơn và hướng ra biển Đông. Thành phố này cách
xa biển 6
cây số. Có nhiều bãi biển rất đẹp. Ở thành phố này có phi trường lớn,
ngoài
quân đội Việt Nam Cộng Hòa còn có những đơn vị Đồng Minh Mỹ, Đại Hàn,
Tân Tây
Lan, Úc. Và, về đêm trong thành phố không khí chiến tranh vẫn có lúc đe
dọa.
Hai người chuyện trò với nhau cho đến
lúc bên kia rạp hát đèn sáng lên ở ngoài và xuất hát vừa vãn. Từ cửa
chính,
khán giả ra đông còn vọng tiếng ồn ào từ những câu chuyện về cuốn phim.
Nàng cười nhìn chàng, nói:
-Anh phải giữ
lời hứa với em.
Chàng gật đầu, lúc ấy mắt nàng nhìn
chàng một cách trìu mến. Chàng còn dáng vẻ thanh tú của một sinh viên.
Chàng có
đôi mắt đẹp. Nàng cũng rất thích cái dáng điệu ngập ngừng của chàng khi
nhìn
nàng và muốn nói một câu tỏ tình. Từ buổi
đầu gặp, hai người rất ăn ý với nhau.
Năm ngoái, nàng trông thấy chàng ở một
quán cà phê. Tối hôm đó có buổi trình diễn nhạc của một nhóm sinh viên.
Trong
đám đông người trẻ nổi bật một chàng
trai mặc đồ lính, dáng vẻ linh động, anh ta đang chuyện trò với các
sinh viên
thuộc thế hệ cùng lứa ngày xưa. Anh chàng này ham vui chuyện mà không
trông thấy
cô gái để ý đến mình. Buổi ca nhạc nhiều tiết mục thật sôi động, vui
nhộn, hào
hứng với nhiều người thay nhau lên bục sân khấu. Có những bản nhạc, mọi
người
cùng vỗ tay và hát. Trong một lúc bất chợt quay hướng nhìn, chàng trông
thấy
nàng. Thực sự đó lá phút kỳ diệu, nhớ đời. Chàng đã cảm ngay hình ảnh
cô gái ngồi
ở phía bên kia với gương mặt dịu hiền và mái tóc xõa rộng thật là quyến
rũ.
Nhưng chàng không dám nhìn lâu, sau ít giây trầm lắng, thiết tha với
nàng,
chàng quay trở lại nói chuyện với người bạn bên cạnh.
Mười hai giờ đêm chương trình nhạc kết
thúc, quán cà phê đóng cửa. Khi về đến nhà, cả hai người bỗng hết sức
ngạc
nhiên gặp nhau ở lối cổng vào. Và, người nào cũng thấy vui, có sự thân
tình
ngay lúc đó như thể đã quen từ trước.
-Cô ở đây mà
tôi không hề hay.
-Em mới dọn
đến tuần trước.
-Vậy à.
Nhưng trước đây, thì ở đâu ?
-Em ở trong
thành nội.
-Tôi ở đơn vị
ít khi về nhà .
-Em cũng không
thấy anh từ hôm dọn đến bây giờ.
Nguyên nhìn cô gái với đôi mắt thiện
cảm, nghĩ cô như là em gái của mình. Cô gái nói:
-Lúc nãy
trong buổi nghe nhạc, chỉ có mình anh mặc đồ lính.
-Lạ quá phải
không ?
-Ờ, cũng thấy
lạ.
Hai người chợt dừng bước, nửa muốn
chia tay, nửa trong ngập ngừng vẫn còn muốn nói thêm một vài chuyện.
Trăng sáng
bất ngờ. Bên lối cổng vào là con đường đi ra bờ sông. Khi trăng dậy
sáng, quang
cảnh khu phố ánh lên một màu vàng tuyệt đẹp. Từ chỗ hai người đứng, họ
trông thấy
chiếc cầu, và cũng trông thấy mặt nước trên dòng sông, tự dưng mỗi
người nghe
lòng mình có một cảm giác nôn nao kỳ lạ. Nguyên nhìn thấy cô gái đẹp lạ
lùng.
Và, lúc ấy, cô gái cũng thật là bối rối, vì quá lo sợ lời tỏ tình của
chàng sẽ
nói với mình. Thế nhưng, nàng cứ chôn chân một chỗ, không thể dời bước
nổi.
-Em cho anh
biết tên được không ?
Nàng đáp:
-Em tên Nga.
-Anh tên là
Nguyên.
Họ vẫn còn bên nhau, và lúc này,
cùng nghe thấy rõ tiếng nước dòng sông chảy.
-Trăng sáng
đẹp quá, phải không Nga?
Một giọng vui, Nga nói đùa:
-Vâng, nó
cũng đẹp như anh đang mơ mộng.
-Tên em cũng
có vầng trăng.
-Có phải anh
liên tưởng đến một câu trong Kiều.
-Em nói
đúng.
Với nụ cười vừa dịu sáng trên đôi mắt
đẹp, bao nhiêu ý tưởng trong đầu chàng, nàng biết hết.
Rồi một giọng thân tình, nàng hỏi:
-Anh ít khi
về nhà lắm phải không ?
-Anh thường ở
trên đơn vị.
-Sao anh ít
về nhà ?
-Anh sẽ về,
để luôn được gặp em. Em đang học ngành nào ?
-Em học trường
Mỹ Thuật.
-Hay quá.
Hôm nào cho anh xem những bức tranh em vẽ.
-Em mới học
năm thứ nhất.
-Anh có nhiều
người bạn dạy bên đó.
-Chắc là
thân với anh.
-Những năm
anh chưa đi lính, những bạn ấy học chung với anh ở trường Văn Khoa.
-Anh học
xong rồi.
-Chưa. Anh học
dang dở, rồi đi lính.
Giọng Nguyên nói nghe khô khan. Cô
gái nhìn anh, nàng hiểu được lời thành thực của anh khi nói ra điều ấy
với
nàng. Với sự cảm thông ấy, cả hai người dời gót lúc nào không hay. Bên
nhau,
cùng đôi mắt và ý nghĩ về cuộc đời, họ theo con đường hướng đến bờ
sông.
Trên chiếc cầu, độc nhất có một bóng
người đi xe đạp.
-Em không có
gia đình ngoài này ?
-Gia đình em
ở Đà nẵng.
Trên bờ sông đầy cỏ , những hàng cây
trồng rất đều ở bên này cũng như bên kia. Ở cạnh lối đi xuống bến nước
có băng
ghế đá, hai người ngồi xuống. Đêm bắt đầu trôi giạt khi sương mù giăng
trên
sông.
-Em thấy lạnh
không ?
-Lạnh.
-Ngồi đây một
chút rồi mình về.
-Tùy anh.
Khi Nguyên rời ghế đứng dậy đi tới
quầy trả tiền nước, Nga ngồi một mình, nàng vừa nhớ lại cuộc gặp gỡ đầu
tiên của
hai người cách đây hơn một năm.
Trên bàn, chàng để lại tiền lẻ cho
người phục vụ nước uống. Hai người đi bộ tới ngã tư, họ dừng chờ đèn
dành cho bộ
hành. Rồi tay nắm tay, cả hai băng qua đường cùng với nhiều người khác.
Từ ngã
tư, họ đi ngược trở lại đến rạp hát đối diện với quán nước. Bỗng dưng
cô gái hỏi:
-Người em của
anh đang ở đâu ?
-Ở Sài Gòn.
Nó vừa trở về phép thăm nhà, giờ đi lại rồi.
-Em anh cũng
đi lính.
-Ờ, nó đi
lính thường thôi, không phải Sĩ quan.
-Sao không
phải là Sĩ quan ?
-Nó học hành
dang dở, không được hoãn dịch đành đi lính. Tuy nhiên, hắn có được bằng
Tú Tài
bán, hai năm nay, hắn thi toàn phần, keo nào cũng trượt.
-Người nào học
hành dang dở cũng đều thất bại.
-Trên nguyên
tắc là như vậy.
-Người em đi
lính gì ?
-Không quân.
-Chà, đó là
lính hào hoa.
-Văn vẻ vậy
thôi, nó cũng rách lắm.
-Ít có tiền
tiêu xài.
-Đúng vậy.
-Có viết văn
nữa, phải không ?
-Ờ, nó đang
tập tễnh viết văn. Cũng có năng khiếu, triển vọng.
-Em có đọc một
truyện ngắn.
-Em thấy nó
viết được không ?
-Cũng được.
Lãng mạn, có triển vọng như anh nhận xét. Lấy bút hiệu Thiên Lan là sao? Chắc là quen cô nào đó.
-Ờ, nó được
quen cô nào là đưa người đó vào truyện.
-Bao nhiêu
phần sự thực ?
-Anh chịu.
-Còn anh, đến
bao giờ sẽ viết về em ?
-Đã hẳn rồi,
một ngày sắp tới.
-Anh phải nhớ
đưa em đọc.
Với sự dừng bước nhẹ nhàng, chàng gởi
vào đôi mắt nàng cái nhìn thật trìu mến. Chàng yêu nàng, hạnh phúc
trong tình
yêu dành hết cho người em gái .
Rồi, nàng đi theo chàng. Nàng có ý
tưởng, từ nay, chàng là điểm tựa của nàng. Tới rạp hát đông người, nàng
đợi
chàng mua vé. Nàng nhìn lên đồng hồ trước rạp ước tính thời gian cho
buổi đi
chơi bên nhau. Khi thấy chàng từ quầy vé
trở ra, nàng rất vui với nụ cười trên đôi mắt.
Khán giả đi vào cửa chính. Đây là rạp
hát lớn nhất của thành phố rất lịch sự, sạch sẽ. Những hàng ghế trống
trước mặt
lần lần có khán giả vào lấp chỗ, hai người ngồi ở hàng ghế xa bên dưới
mái hiên
của tầng lầu trên.
Đèn trong rạp hát sáng, một bản nhạc
dạo nghe êm ái, thân tình. Bàn tay nàng trong tay chàng, những ngón tay
đan vào
nhau, ấm áp như bao giờ cũng có mùa đông và những sợi len đan cho cuộc
đời.
-Anh ở đơn vị
lúc này ra sao ?
-Anh đi công
tác luôn. Đôi khi, sau chuyến công tác phải viết bài phóng sự gởi báo
Tiền Tuyến
ở Sài Gòn.
-Ở đây, mình
cũng làm việc cho báo Sài Gòn.
-Việc này
anh làm thêm, khi đăng bài, tòa báo trả tiền nhuận bút.
-Em rất hãnh
diện về anh.
-Còn em của
anh là một cô họa sĩ trẻ đẹp.
-Em sẽ vẽ bức
chân dung tặng anh.
Bỗng nhiên, tiếng nhạc ngừng, rạp
hát lắng im vừa đúng lúc đèn tắt. Trong bóng tối, chàng thấy từ gương
mặt nàng
ánh sáng tỏa rất dịu hiền. Nhìn gương mặt nàng, một giọng thầm, chàng
nói:
-Em đẹp quá.
Chàng nghiêng mình qua, trải
rộng cánh tay lên thành ghế và chàng thấy
hạnh phúc vô cùng khi nàng ngả xuống cả mái tóc mềm dịu rồi tựa đầu lên
cánh
tay chàng. Chàng hôn xuống vầng trán, xuống bên đôi má hồng của nàng,
rồi hai
người im hơi, dấu yêu với từng nụ hôn ngọt ngào trên cặp môi mềm ướt,
thơm tho.
Khi chàng hôn, đôi mắt nàng khép lại, run rẩy, và nàng thấy lại hình
ảnh nhỏ bé
thời thơ ấu, nàng cũng nhớ đến cô em gái có gương mặt thiên thần, và
luôn luôn
những bóng dáng ấy hiện về trong trí tưởng khi nàng nghĩ đến ngày mai
đây của đời
mình.
-Em và anh,
chúng ta có nhau.
-Em yêu anh,
nàng nói.
-Cám ơn em.
Hai cánh tay nhẹ nhàng buông. Hai
người đã qua phút mê đắm, giờ họ trở lại với cuốn phim dạo đang chiếu
trên màn ảnh.
Một lúc khá lâu, phim chính bắt đầu.
Khi trên màn bạc hiện ra một quang cảnh
những đoàn quân đang di chuyển Nguyên bỗng nhớ ngay đến những giòng đầu
tiên ở
cuốn tiểu thuyết mình đã đọc và liên tưởng đến một miền đất nước Ý
trong thời kỳ
chiến tranh. Đây là cuốn phim dựa vào tác phẩm cùng tên L'adieu aux
armes của
nhà văn nổi tiếng Mỹ đoạt giải văn chương Nobel, Ernest Hemingway.
Bỗng nghe tiếng khán giả, và tiếng
cô gái nữa cũng kêu lên:
-Trời , cô
ta dữ không.
Rồi cô gái nắm giữ chặt cánh tay
chàng. Cảnh trên phim vừa diễn ra là cái tát mạnh của cô gái vào mặt
chàng trai
khi anh chàng cố ý liều lĩnh ôm hôn cô. Rồi cô ta xin lỗi, và hai người
trở lại
với câu chuyện lòng của mình. Sau đó, cô để cho chàng ôm siết lấy và
hôn mình.
Khi xem phim, Nguyên luôn gợi nhớ từng
đoạn văn mình đã đọc, và khung cảnh chiến tranh đã cho anh nghĩ nhiều
đến số phận
những người lính. Bên cạnh anh , người yêu cũng cuốn hút say mê xem
phim.
Jennifer Jones nữ tài tử nổi tiếng trong vai cô y tá Cathérine , Rock
Hudson
nam diễn viên, đóng vai chàng Trung úy Henry. Henry là người Mỹ phuc vụ
trong đội
cứu thương bên quân Ý.
Một ngày hôm đó, đơn vị anh đóng
quân bị địch tấn công bằng trọng pháo, và anh bị thương. Từ mặt trận,
Henry được
đưa về bệnh viện, ở đây anh gặp lại người mình yêu . Và, từ đó mối tình nẩy nở.
..Nghe mưa
kìa.
-Mưa đang nặng
hạt.
-Và anh sẽ
luôn yêu em phải không ?
-Sẽ luôn
luôn yêu.
-Và mưa cũng
sẽ chẳng gây nên điều gì khác biệt ?
-Chẳng làm
khác biệt.
-Dễ chịu
quá. Bởi em sợ mưa.
-Sao vậy
?.....
-Em không biết,
anh yêu. Nhưng em luôn sợ mưa.
-Anh thích
mưa.
-Em thích đi
dầm mưa. Nhưng chẳng thể nào yêu được.
-Còn anh thì
luôn yêu em.
-Em sẽ yêu
anh trong mưa, trong tuyết, trong cả mưa đá và.. có còn loại gì khác
nữa ?
-Anh không
biết. Anh thấy buồn ngủ quá.
-Ngủ đi, anh
yêu và dẫu thế nào đi nữa thì em cũng mãi yêu anh.
-Em chẳng sợ
mưa lắm phải không ?
-Chỉ trừ lúc
được ở bên anh.
-Sao em lại
sợ mưa ?
-Em không biết.
-Nói đi.
-Đừng buộc
em.
-Nói cho anh
biết đi.
-Không mà.
-Hãy nói đi.
-Thôi được.
Em sợ mưa bởi đôi lúc em thấy mình chết trong mưa.
-Em chẳng chết
đâu.
-Và thỉnh
thoảng, em cũng thấy anh chết trong mưa.
Thiên Nga bỗng thốt lên sung sướng,
cảm kích với đoạn đối thoại rất hay sau khi lắng nghe, vừa đọc hết dòng
phụ đề
Việt ngữ. Và cũng mang tâm trạng lo âu như cô gái trong cuốn phim, nàng
nắm giữ
chặt lấy cánh tay của chàng.
Sau thời gian dưỡng bệnh, Henry trở
lại chiến trường. Anh trở lại vào mùa thu năm sau đó. Trên đường đi,
anh nhìn
thấy quang cảnh những hàng cây trơ trụi lá và đường sá đầy bùn lầy. Từ Udine, anh đến Gorizia trên một chiếc xe nhà
binh, xuống đây, anh tìm đến chỗ đóng quân của đơn vị cũ. Không khí
chiến tranh
nay hoàn toàn thay đổi. Vào giai đoạn này, quân đội Ý bị nguy khốn và
quân Áo
đang thắng thế đã chiếm được nhiều ngọn đồi, nhiều ngọn núi và một số
điểm chiến
lược trọng yếu trên toàn mặt trận. Người ta bắt đầu thấy chán ghét
chiến tranh.
Rồi đến lúc, nhiều đơn vị của quân Ý phải di tản. Một cuộc rút quân
diễn ra dưới
cảnh trời mưa tầm tã. Henry cũng có mặt cùng với đồng đội là những
người lính cứu
thương trong đoàn quân triệt thoái. Nhưng khi vượt vòng kiểm soát của
địch quân
Áo đến vùng do quân Ý canh gác, Henry lại bị bắt giữ cùng với nhiều Sĩ
quan
khác. Những viên Sĩ quan này bị kết tội đầu hàng làm nhục nước Ý. Rất
nhanh
trí, thừa cơ lúc lộn xộn với quân số
đông, Henry đào thoát lao ra bờ sông, sau đó, anh leo lên trốn ở mái
toa của
đoàn xe lửa, và nhảy xuống trước khi tàu tiến vào ga Milan.
Đối với Henry, anh đào thoát và coi
như cuộc chiến tranh không còn nghĩa lý gì nữa với anh. Sau những gian
nan, bất
ngờ, Henry tìm gặp lại được yêu của mình. Do có lệnh truy nã vì tội đào
ngũ, một
lần nữa Henry phải trốn khỏi đất Ý. Lần
này, anh cùng với người yêu ra đi, trong đêm tối trên
một chiếc thuyền hai người cố sức chèo
vượt sóng nước trên hồ, mưa tầm tã suốt đêm, nhưng rồi họ cũng đến được
đất Thụy
Sĩ. Nơi mảnh đất này là chốn yên bình, họ được sống bên nhau những
tháng ngày rất
hạnh phúc.
Rồi Cathérine báo tin cho Henry biết,
nàng có thai. Nhưng đến ngày hạnh phúc ấy, trong khi sinh nở khó,
Cathérine kiệt
sức do bị băng huyết, và cái chết của nàng như đã có trước sự ám ảnh:
nàng chết
dưới cơn mưa.
Cuốn phim dài đúng hai tiếng đồng hồ,
rất hay và xúc động. Khi đèn sáng, khán giả trong rạp cùng đứng lên và
nối theo
hàng trên các lối đi ra cửa chính.
Bên ngoài, màn đêm vừa buông xuống
phủ dài trên đường phố nhộn nhịp. Rạp hát vẫn còn chiếu
một xuất cuối nữa.
Nguyên hỏi cô gái:
-Em nghĩ là
mình nên ăn ở đâu ?
-Về nhà em.
Anh chiều ý nàng, tay nắm tay, hai
người đi bộ và rất thú vị khi trở lại với cuốn phim vừa xem. Cuốn tiểu
thuyết nổi
tiếng được dựng thành phim Nguyên đã đọc, lúc này, anh phân tích cho cô
gái
nghe những nét, những chi tiết gây được ấn tượng trong tác phẩm. Và,
qua đề tài
mưa, mưa trong tình yêu, mưa trong một cuộc chiến, mưa trong hạnh phúc
tìm đến
một nơi chốn riêng biệt thanh bình, với giọng nói của một tâm hồn trung
thực,
anh làm cho cô gái lắng im trong dòng tư tưởng.
Rồi anh hỏi nàng:
-Em thích
mưa không ?
-Rất thích,
nhưng em cũng sợ mình chết trong mưa.
-Không đâu,
chúng mình sẽ được yêu nhau trong mưa.
-Đó là tiểu
thuyết mà anh.
-Không hẳn
đâu. Ngoài đời, biết bao nhiêu đôi tình nhân đi dưới mưa. Mưa cũng là
cảnh của
nghệ thuật, mưa với dòng nhạc, với tiếng đàn, và mưa trong tiếng nói
nữa.
-Em rất muốn
vẽ một bức tranh mưa .
-Hay lắm. Em
nên vẽ, hãy nói cho anh biết ý nghĩa.
Thiên Nga nhớ lại buổi sáng ấy của
ngày nhập học trời mưa lớn, vừa lúc cô đến cửa lớp thì chiếc guốc cô
mang bị đứt.
Và, lúc cô cầm chiếc guốc trên tay, nửa muốn cười, nửa như đang khóc,
cảnh tượng
lạ lùng đó đã làm cô ghi nhớ một hình ảnh thiếu nữ, và luôn luôn cô tự
nhủ hãy
đợi một ngày hoàn thành nên bức tranh.
-Hãy vẽ bức
tranh quí giá đó. Em sẽ thấy mình đẹp, vẻ đẹp chính là cái bóng của em
trong cuộc
đời.
Cô gái chợt hỏi:
-Anh có ý tưởng
trời đang mưa không ?
-Em thật
lãng mạn. Em đang nghĩ đến mưa, phải không ?
-Hãy cùng em
nhớ cảnh mưa trong phim.
Và rồi, chắp nối từng lời, hai người
cùng ghi lại đoạn đối thoại rất hay, rất đầy ý nghĩa.
Thiên Nga bỗng nói:
-Em phải tìm
đọc cuốn này.
-Anh sẽ tìm
cho em.
-Nhưng có bản
dịch tiếng Việt không ?
-Có.
-Em đọc được
tiếng Việt thôi, tiếng Pháp, tiếng Anh em còn yếu.
-Em nên học
thêm.
-Anh dạy em
đi.
-Em sẽ học với
anh lúc anh có thì giờ rảnh.
-Trước khi
đi lính, anh có dạy học không ?
-Thời sinh
viên, anh có dạy lớp đêm trong tổ chức của Tổng hội.
Về đến nhà, thay áo quần áo nhẹ xong
Nga đi đến phòng người mẹ. Bà mẹ hiểu được lòng cô con gái, và bảo cô
chu đáo dọn
chỗ nghỉ cho Nguyên ở căn phòng dành cho khách. Nga thấy trong lòng
vui, nàng
xuống bếp làm bữa ăn tối. Bữa ăn chỉ cho hai người thôi. Rất đơn giản,
mỗi người
một tô mì lớn đặt trên chiếc khay. Vừa ăn, chuyện trò, lúc này cô gái
kể cho
Nguyên chuyện về gia đình, về người cha,
người mẹ, và các cô em gái. Cô không có anh hay em trai, và cô tâm sự,
đó là một
tình cảm dường như làm cô thấy thiếu vắng.
Nguyên nói:
-Hãy nghĩ là
có anh trong đó.
Cô gái gật đầu, và nói:
-Em cũng rất
mong, đôi khi, em tìm được anh qua những ý nghĩ về gia đình. Em rất cần
có một
người anh.
-Còn một người
em thì sao ?
-Cũng được,
nhưng em thích có anh hơn.
Một lúc ngập ngừng, Nguyên nói:
-Năm sau, nó
được về phép, anh sẽ đưa nó tới thăm em.
-Người em có
giống anh không ?
-Nó giống mẹ
anh nhiều hơn. Bề ngoài với khuôn mặt khô, cứng cỏi, nhưng đời sống nội
tâm của
nó rất là sâu lắng, đam mê. Nó thích viết văn, đang muốn mình có sự
nghiệp.
-Anh thì sao
?
-Anh chỉ
theo nghề báo, về sau này, hết chiến tranh anh cũng sẽ làm báo.
-Anh không
thích dạy học.
-Không. Những
năm ở Sài Gòn, anh sống bằng nghề viết báo.
-Từ Huế
ra quê anh xa không ?
-Bằng nửa đường
Huế- Đà Nẵng.
Bữa ăn xong. Vừa đứng lên dọn dep,
cô gái nói.
-Lúc nào có
dịp, anh đưa em ra ngoài đó thăm.
-Cám ơn em.
IV
Bên cạnh lối cầu thang có một căn
phòng dành cho khách. Khi mở cánh cửa đi vào, Nga bật sáng thêm một
ngọn đèn nữa,
xong nàng sửa soạn chăn màn cho Nguyên nằm nghỉ. Rồi trước khi rời
phòng, nàng
đứng lại giây lát để cho Nguyên đặt môi hôn lên trán nàng.
-Chúc em ngủ
ngon.
-Anh ngủ
ngon.
Nguyên nghe bước chân của Nga đi trở
xuống cầu thang, rồi xa dần. Nguyên có cảm giác thật dễ chịu, êm ái khi
lên giường
nằm, và trong cảm giác ấy anh nhận ra Nga còn bên anh.
Bỗng nhiên Mỵ Châu ngước mắt khi
nhìn thấy người chị xuất hiện.
-Em chưa ngủ
?
Cô bé mỉm cười. Cô bé có gương mặt của
thiên thần, đôi mắt đen mở to đẹp lạ thường.
Nga kéo chiếc ghế ngồi xuống bên cạnh
em. Và nàng cầm lấy cuốn sách, lật xem qua vài trang.
Giọng cô em gái hỏi:
-Nhà mình có
khách ?
-Anh Nguyên,
bạn của chị.
-Học cùng
trường ?
-Không, anh ở
trong quân đội. Trước đây là sinh viên.
Hai chị em lặng yên nhìn nhau. Không
nói gì thêm cho đến lúc nghe chuông đồng hồ thong thả đánh lên từng
tiếng nhạc
trước khi báo giờ.
-Em nghỉ đi.
-Dạ.
Chỉ để lại ánh sáng ngọn đèn nhỏ
trong phòng, hai ngọn đèn lớn đều tắt. Khi trở ra, Nga cũng tắt đèn cầu
thang rồi
lặng bước về phòng mình nằm nghỉ.
Nắng sớm dâng lên lan tỏa rất nhanh
và tràn vào hết các căn phòng. Nguyên đã thức dậy, mặc xong quần áo,
ngồi một
mình anh mở tờ báo ra đọc. Nga xuất hiện với một gương mặt sáng đẹp,
dịu hiền:
-Anh ngủ
ngon không ?
Nguyên ngước mắt với nụ cười nhìn
người yêu. Nga đến gần, ngồi xuống cạnh anh và mở rộng bàn tay.
Một chốc lát sau, nàng đứng lên nói:
-Em làm cà
phê và dọn bữa ăn sáng cho anh.
Nguyên lại ngồi đọc báo và chờ nàng
trở lại. Sau khi dọn bữa ăn sáng xong, nàng trở lại tìm Nguyên. Hai
người ngồi
xuống ở bàn ăn tối hôm qua. Bữa ăn sáng có trứng ớp la, bánh mì cắt
từng lát,
và còn có bơ, pâté, cà phê sữa.
-Sáng nay
mình đi biển chơi.
-Anh thích
ra biển hay là chơi phố.
-Thôi, chơi
phố, để nhớ phố trong những ngày hè. Ngày mai, em trở ra Huế và bắt đầu
năm học
mới.
-Anh nghĩ,
em nên chọn ngành gì ?
-Em phải chọn
ngành trong năm nay ?
Thiên Nga gật đầu. Nguyên uống cà
phê sữa, khen ngon. Cũng đã lâu, Nguyên mới có được ít ngày nghỉ thoải
mái bên
cạnh người mình yêu. Rồi những ngày tới đây, đời lính của anh, không
chỉ có
trách nhiệm cá nhân, còn là của cả đơn vị.
Nhìn đôi mắt Nga, anh nói:
-Em ra ngoài
đó học, có gì cần cho anh biết.
-Em muốn anh
gìn giữ sức khỏe, luôn về với gia đình.
Nguyên đột nhiên đứng dậy, lên tiếng
chào , Nga vừa quay đầu thấy bà mẹ xuất hiện. Nàng hỏi:
-Má đã ăn
sáng chưa ?
-Chưa, má
chưa ăn.
Một giọng tự nhiên, cô gái nói:
-Anh Nguyên
mới ở Huế vào hôm qua. Có má đây anh được gặp, chút nữa con đưa anh đi
thăm cả
nhà luôn.
Bà mẹ nhìn Nguyên và cô con gái. Bà
hỏi Nguyên:
-Cậu quen
Nga đã lâu chưa ?
-Dạ, cháu biết
Nga từ năm ngoái.
-Cậu ở Huế một
mình, hay có gia đình nữa.
-Dạ, gia
đình cháu ở Huế đã lâu.
Xong bữa ăn, cô gái không phải dọn dẹp
mà nhân thể gặp bà mẹ, cô đưa Nguyên đi thăm và giới thiệu cả gia đình
bên
mình. Nguyên chỉ đáp lời khi nghe câu hỏi từng người.
Và sau cùng, Nga đưa Nguyên vào một
căn phòng riêng để thăm cô gái út trong gia đình.
Nguyên rất ngạc nhiên trước vẻ sáng
đẹp như thiên thần của Mỵ Châu và anh cũng
rất là ái ngại, cảm
thấy chạnh
lòng. Mỵ Châu nhìn anh với cặp mắt thơ ngây. Nguyên chưa tìm được lời
nói, bà mẹ
ngồi đó lên tiếng giải thích.
Có được không khí thân thiện trong
gia đình, Nguyên hỏi:
-Em thích đọc
truyện không ?
Cô gái chỉ cười. Nguyên tiếp lời:
-Anh sẽ tìm
những truyện hay cho em đọc.
Một cuốn sách cô gái đang đọc dở,
Nguyên mượn xem. Đó là cuốn truyện dịch: Con Chim Trốn Tuyết (Snow
goose) của
nhà văn Mỹ Paul Gallico.
-Những tiểu
thuyết tiền chiến em thích đọc không ?
Bà mẹ cười nói:
-Ngày nào,
em nó cũng đọc sách.
Nguyên gây được sự thiện cảm với người
mẹ của hai cô gái, không bằng những câu khách sáo, mà sự chân thực biểu
lộ rõ
nét trên vẻ mặt của mình. Khi có được một con người thân tình như thế,
bà mẹ
hài lòng. Ngồi với con gái không lâu, bà đứng lên. Nga hỏi:
-Má thích ăn
gì con đi mua.
-Khỏi, chút
nữa má đi với ba.
Nga cười, giọng dí dỏm nói với
Nguyên:
-Má không
lúc nào để riêng ba một mình.
Người mẹ đáp ngay:
-Không, ba một
mình không được đâu.
Căn phòng tuy hơi tối nhưng ấm cúng
nhờ ánh sáng những ngọn đèn néon. Nguyên ngồi xuống bên cạnh Mỵ Châu,
nắm giữ
bàn tay nhỏ bé của cô em gái. Anh nói:
-Em sẽ có
nhiều sách hay đọc. Và, rồi đây, em sẽ làm một công việc viết văn để đi
tìm ánh
sáng đẹp cuộc đời.
-Anh nghĩ,
là em có thể viết văn không ?
Một giọng nhấn mạnh rất thân tình,
Nguyên nói:
-Em sẽ phải
có một cuốn sách của mình.
-Em viết nhật
ký.
-Đã có ai đọc
nhật ký của em chưa ?
-Chị Thiên
Nga.
Nga đưa mắt nhìn hai người, gật đầu
nhẹ. Nguyên và Mỵ Châu ngồi bên nhau chuyện trò, và lần đầu tiên cô bé
rất cảm
kích về người anh của mình.
Nga rời ghế đứng lên, sau vài bước
đi, nàng kéo nhẹ bức màn làm cho ánh nắng tràn vào khung cửa sổ rực
sáng lên.
Bên kia bức màn là phòng vẽ tranh của Nga. Bên ngoài khung cửa, một cây
bàng có
những chiếc lá khô nhẹ nhàng rung động. Gió đang bay, qua cửa sổ nhìn
xa hơn bạn
có thể trông thấy một dãy phố bên kia. Ở phía đó, có một con đường đất
dẫn tới
một khu nghĩa địa bên ngã ba, từ đó, lại trông thấy một con đường nhựa
khá rộng,
rất dài ra đến vùng biển.
Trong khi Nga đứng ngắm những bức
tranh trên giá vẽ của mình, Nguyên nhìn Mỵ Châu với tình thương vô bờ
đối với
cô em gái. Anh nắm bàn tay Mỵ Châu, dìu bước cô em qua phòng tranh.
Nga nói:
-Đây là những
bức em đã vẽ xong.
Nguyên ở bên cạnh Mỵ Châu, hai anh
em nhìn tranh vẽ của Nga.
Nga lên tiếng hỏi:
-Anh thấy em
vẽ được không ?
-Anh muốn chọn
một bức, em nghĩ thế nào ?
-Được chứ.
Anh chọn hay là em ?
-Để cho em Mỵ
Châu chọn, phải không nào ?
Cô bé nở nụ cười, gương mặt hiện lên
cái bóng của thiên thần. Lúc này, không khí trong phòng tranh thật là
ấm cúng,
trong đó, bạn chợt hiểu ra ý nghĩa về sự đi tìm tha nhân của mùa hè.
Mỵ Châu nói:
-Chị Thiên
Nga là nguồn ánh sáng của em.
Nga đưa mắt nhìn Nguyên. Nàng nói:
-Khi em ngồi
vẽ tranh, luôn có Mỵ Châu bên em.
Nói xong một câu ngắn, Thiên Nga dừng
để tìm ý tiếp cho lời. Nguyên bỗng nhắc:
-Và cây bàng
ngoài kia, những chiếc lá khi còn xanh.
-Em cũng
nghĩ như thế. Anh đã tìm được ý đó cho em.
Tiếng Mỵ Châu nói:
-Về cây
bàng, em có được đọc truyện Chiếc lá cuối cùng.
Bỗng dưng, cả ba người ngơ ngẩn khi
nghe tiếng chuông nhà thờ vang vọng.
-Anh Nguyên
và chị Nga dạo phố đi.
Nga đi lên phòng riêng của mình thay
quần áo. Nguyên đưa Mỵ Châu về lại chỗ nằm. Bức màn khi kéo ra, đã làm
cho cả
căn phòng rộng rãi , ánh sáng đầy ắp, và có chút hương vị thơm.
Nga xuất hiện với chiếc áo dài tím,
mái tóc xõa vai. Nguyên nói với Mỵ Châu:
-Anh sẽ tìm
một cuốn truyện hay cho em đọc.
-Cám ơn anh.
Rồi trước mắt hai người, khu phố mở
ra một ngày sinh hoạt náo nhiệt như thường lệ. Nguyên đã cho nổ máy,
nhưng xe
chưa lăn bánh. Nga ngồi sau, cẩn thận kéo vạt áo và xê dịch một chút vị
thế chỗ
ngồi.
Ông bà Tri đứng ở trên balcon nhìn
xuống, cả Nguyên và Nga không trông thấy. Khi ra đầu đường, Nguyên cho
xe rẽ phải
lên phố Độc Lập. Rồi từ ngã tư đầu phố này, anh chạy xe hướng về phía
bến Cảng.
Trên đường Độc Lập, hai bên lối đi là vỉa hè lát đá ca rô nhỏ, những
hàng cây
vươn cao, thẳng đều. Thành phố Đà Nẵng, thời Pháp có tên là Tourane,
nay vẫn
còn quen dùng ở những người thuộc thế hệ yêu thích nói tiếng Pháp. Nơi
thành phố
này cũng ghi nhận hai sự kiện lịch sử, ngày 1-9-1858 Hải quân Pháp đánh
chiếm hải
cảng này mở đầu cuộc xâm lăng thuộc địa, ngày 8 tháng 3 năm 1965, có
hai tiểu
đoàn Thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ một dấu hiệu cho thấy cuộc chiến
tranh Việt
Nam bắt đầu leo thang.
Thiên Nga, nàng là một thiếu nữ có vẻ
đẹp tựa như mặt trời và mặt trăng trên trái đất. Nguyên thật sung
sướng, anh sẽ
giữ mãi trong tim anh một lời cám ơn nàng. Và, nàng đang nói với anh
những lời
của ánh nắng mùa hè, rồi lời của gió, cơn gió nghe rung động bỗng ùa
tràn tới
thổi tung bay, rào rạt qua mái tóc của nàng.
-Em phải trả
lại căn nhà ngoài đó ?
-Sao vậy ?
-Nhà người
anh họ của em, anh ấy học ở Sài Gòn nay trở về.
-Rồi em định
sẽ ở đâu ?
-Ở nhà người
bạn trên đường Huyền Trân, cũng không xa nhà anh lắm.
-Anh sẽ về
nhà luôn như lời em dặn.
-Nhớ đó, lời
nói của em tuy nhẹ, nhưng cũng cứng như thép.
-Ngày mai,
em tính đi bằng cách nào ?
-Thì ra bằng
xe đò.
-Anh nghĩ,
đi xe lửa ngắm cảnh vui hơn.
-Cũng được.
Đi xe lửa cũng thích.
Ngôi trường Sao Mai ló dạng phía trước.
Khi đi ngang qua một cửa hiệu nước hoa, vừa trông thấy tên bảng hiệu,
Nguyên
nói:
-Cô gái ngồi
trong cửa hiệu là bạn học của Thụy đó.
-Anh cũng biết.
-Anh biết.
Thụy đã dẫn cô ấy lên quân trường Thủ Đức thăm chồng, anh ta học sau
anh một
khóa.
-Cô Thúy Hà
phải không ?
-Hình như vậy.
-Cậu Duy có
bà con bên gia đình mẹ em.
-Thụy
cũng học ở trường Sao Mai.
Ngôi trường đối diện với bến Cảng.
Thiên Nga nói:
-Mới đó mà
đã hai năm em xa trường cũ.
-Em cũng nên
dành thì giờ học thi ?
-Chương
trình Tú Tài nhiều môn quá, em học không hết.
-Em gắng học
ngoại ngữ để thi ban văn chương .
-Em chỉ biết
tạm tiếng Anh, tiếng Pháp quá yếu.
-Anh sẽ giúp
em.
-Hoàn tất
nhiệm vụ không ?
-Có em, anh
rất hết lòng.
-Người con
trai nào khi được yêu, lời nói nghe thật dịu dàng.
-Nước trái
cây là chất xúc tác của tiếng nói, em đồng ý không ?
-Anh nhớ hoa
hồng nào cũng có gai, nhé.
-Tên em là
tên của loài chim, không phải của những bông hoa.
-Vậy mà, em
rất thích hoa, vẽ tranh về hoa.
-Em là đôi
cánh của thiên thần. Một ngày nào đó, anh nhìn thấy em trên bầu trời,
và cũng
có thể trên mặt biển.
-Em rất
thương Mỵ Châu ?
-Anh biết.
Nhưng tại sao em Mỵ Châu chịu cảnh tật nguyền.
Với giọng xúc động của người chị yêu
thương em, Thiên Nga kể câu chuyện cô bé em mình cho Nguyên nghe.
-Con bé giúp
việc ham chơi quá.
Nguyên cố nói ra giọng hờ hững để
che dấu xúc động. Nga đang khóc, nàng nói thêm:
-Nếu em Châu
chịu khó, có thể thương tích sẽ lành lặn.
Vào năm đó, Mỵ Châu được đưa lên Đà
Lạt để trị bệnh và điều dưỡng. Nhưng ở một nơi cao nguyên lạnh lẽo,
vắng lặng,
cô bé rất buồn vì xa gia đình, vậy đó mà đành chịu không chữa được nữa.
Từ bến Cảng, Nguyên phóng xe
chạy trên con đường hướng ra biển. Hai người
nghĩ đến nhau qua câu chuyện về gia đình, về cuộc sống đã có trong quá
khứ.
Khi đến biển, Nguyên gởi xe và cùng
với Nga đến chỗ nhà nghỉ ngồi uống nước nhìn ngắm cảnh biển. Ngoài
biển, nhiều
người đang tắm. Trên bãi, đông người đi dạo, chơi bóng tròn, bóng
chuyền. Nhìn
lên phía xa một chút, có một nhóm du khách phụ nữ nước ngoài, họ ngồi
trên ghế vải dưới mái những chiếc dù màu
hồng, màu
xanh dương, và hướng tầm mắt nhìn tới một nơi xa đang có sương mù bao
phủ bóng
núi.
Nguyên nói:
-Năm đầu
tiên lên trung học, anh và Thụy được đi dự trại hè ở Cửa Đại.
-Em có ý tưởng,
anh và người em rất giống nhau.
-Khi được
hay biết em học về ngành mỹ thuật, nó sẽ hỏi em nhiều lắm.
-Thụy cũng
biết vẽ chứ ?
-Không.
Nhưng nó rất thích về họa. Tâm hồn của hắn là ly cà phê, chiếc áo mặc
màu thuốc
lá, và những bức tranh vẽ ngựa uống nước bên dòng suối. Bên dòng suối,
không chỉ
có khung cảnh thanh bình của bầy ngựa, mà còn có những cô gái nữa.
-Chắc là người
em, chưa biết gì về chuyện quen nhau của anh và em.
-Chưa đâu.
-Anh không hề
nói.
-Không. Năm
tới, em nán ở lại ở Huế những ngày hè, rất có thể nó được một kỳ nghỉ
phép trở
về thăm.
Nga cười nhìn sang Nguyên đang nói.
Trên tay, nàng luôn trở nhẹ hai thanh gọng chiếc kính mát .
-Anh nghĩ,
em có nên chuẩn bị một câu chuyện hay về hội họa để nói với Thụy khi
gặp nhau
không ?
-Không nên,
em cứ nói ra bằng cảm xúc trong sự sáng tạo của mình.
Nguyên gọi người hầu bàn đến trả tiền.
Hai người rời nhà nghỉ đến chỗ gửi xe, và từ phía biển cách xa thành
phố Nguyên
chạy xe nhanh trở về, lúc tới bến Cảng anh men theo con đường bờ sông.
Một giọng
vui, anh nói:
-Trên sông
đang đầy nắng, đợi có gió lớn em nhớ thả
cho mái tóc bay qua sông.
-Em không
lãng mạn như anh nghĩ đâu .
-Nhưng em
cũng đừng để cho sợi tóc nào cứa đứt môi.
-Sao vậy ?
-Linh hồn của
tình yêu nằm trong sợi tóc. Khi một sợi tóc cứa đứt môi, đó là dấu hiệu
của sự
chết chóc.
-Nhưng đó
cảnh bi thảm về chiến tranh.
-Em có nhớ
không ?, Cathérine ám ảnh cái chết của mình trong cơn mưa.
-Vâng, em hiểu.
-Mưa, tác giả
nói về chiến tranh, nói về tình yêu chỉ tìm thấy ở một nơi riêng biệt
thanh
bình.
-Em có cảm
giác mình run sợ.
-Không đâu
em, anh chỉ nói về lãng mạn của tình yêu đấy thôi. Em đang còn một thời
thiếu nữ
đỏ rực như hoa phương nở trong mùa hè.
-Anh thích
màu tím không ?
-Anh thấy đó
là màu buồn. Còn hoa hồng, em thích chứ.
-Đôi lúc,
anh hãy gọi tên em là Rose.
-Anh nhớ.
Dòng sông trải dài với nhiều đợt
sóng nước lớn và nắng tỏa rộng hết quang cảnh hai bên bờ.
Tới một ngả ba, có lối rẽ lên phố
chính Nguyên theo con đường này trở lại
khu trung tâm của thành phố. Nguyên cho xe chạy quanh một vòng ngắm phố
rồi đến
ngừng trước hiệu sách Lam Sơn.
Xe dừng bên lề đường. Nga bước xuống,
nàng sửa lại thân áo và mái tóc hơi bị xổ rối bởi gió ngoài sông.
Buổi trưa, cửa hiệu đông khách ra
vào, và giờ này cũng là giờ cao điểm phát hành các nhật báo Sài Gòn.
Hai người đi sâu vào bên trong, dừng
lại trước dãy kệ dành cho sách truyện. Nguyên lướt nhanh mắt nhìn qua
mỗi tầng
kệ để tìm mấy cuốn sách, trước hết cho Mỵ Châu, sau đó là củaThiên Nga.
Nguyên
thực vui, hài lòng khi tìm thấy. Rồi đến lượt, Nga dắt Nguyên qua chỗ
trưng bày
sách về họa và nhạc. Nga chọn được mấy tập nhạc tiền chiến, và tập nàng
thích
nhất là Những Tình Khúc Bất Tử, nhạc ngoại quốc, Phạm Duy soạn lời Việt.
Khi ra quầy trả tiền, cô bán hàng
cho tất cả sách hai người mua vào cái túi nylon nhiều màu có tên của
hiệu sách
in ở ngoài trông rất đẹp. Nga cầm túi xách theo Nguyên ra đường, rồi
hai người
lên xe về nhà không đi đâu nữa.
Buổi chiều ấy, Nguyên ở nhà với
Thiên Nga và trò chuyện với mọi người trong nhà. Ông bà Tri có bốn cô
con gái,
sự hiện diện của Nguyên mang một tình cảm đặc biệt với gia đình Nga.
Suốt buổi chiều, đôi tình nhân không
rời nhau. Nguyên cũng biết đánh đàn, anh đánh một số ca khúc, còn Nga
rất thích
những bài hát trong tuyển tập Những tình khúc bất tử. Nàng đã hát theo
nhịp đàn
lúc Nguyên phụ họa. Ở tập này, có cả lời tiếng Pháp nữa, những bài nào
Nga
thích, Nguyên vừa đọc lời tiếng Pháp và giảng nghĩa cho Nga hiểu.
Tối hôm ấy, cũng là tối đầu tiên
Nguyên hướng dẫn cho Nga học môn tiếng Pháp.
Ngày hôm sau, hai người đi chuyến
tàu sớm. Nguyên tới quầy mua hai vé ở toa đặc biệt. Khi ra khỏi cửa ga,
hai người
đi về phía toa cuối hết. Nguyên xách chiếc vali của Nga, còn Nga đeo
túi xách,
và một tập giấy vẽ cùng cọ, bút màu. Nàng mặc quần jean,
áo sơ mi kẽ sọc tím, dáng bước thật nhanh nhẹn.
Khung cảnh nhà ga có những nét lạ làm Nguyên chú ý, sinh hoạt buổi sáng
ở đây rất
ồn ào nhưng không diễn ra cảnh hỗn độn, chen lấn.
Cửa sổ toa xe mở cả hai phía. Nguyên
sắp xếp hành lý lên giá xong xuống ngồi cạnh Nga. Tàu chạy đúng giờ đã
ghi trên
bảng thông báo hành khách, những vòng bánh lăn chậm lướt qua, bên dưới
một vài
người đưa tay vẫy chào, rồi con tàu cứ thế dần xa, khuất dạng thành phố.
Bữa ăn sáng trên toa đặc biệt có nhiều
món , hai người gọi hủ tiếu và cà phê sữa.
-Khi nào có
Thụy về phép, chúng mình ra thăm quê ngoại một chuyến.
-Xa không
anh ?
-Xa hơn quê
nội chừng ba mươi cây số.
-Em thấy bác
trai hay đi nhiều, ít khi ở nhà.
-Ba anh làm
việc ở ngành xã hội nên đi công tác luôn.
-Anh và Dung
có nét mặt giống bác trai.
-Ba anh tuy
nhỏ người nhưng cũng hay. Ông có má lúm đồng tiền đó.
Nga cười:
-Anh cũng có
nữa.
Nguyên ăn xong, cầm ly cà phê sữa uống.
Trong lúc Nga còn ăn, anh cầm thìa khuấy sữa cho ly cà phê của Nga.
Nàng nhìn
anh, luôn cảm thấy hạnh phúc từ cặp mắt anh gửi lại, trẻ thơ, đằm thắm.
Hai người,
anh cũng như cô gái luôn có một ý nghĩ giống nhau từ những nụ cười tỏa
sáng ra
nơi cặp mắt.
Hai bên đường, ánh sáng rõ dần lan rộng
trên từng cảnh vật. Và rồi, chỉ ra khỏi thành phố nửa giờ đường, đoàn
tàu đã dừng
lại một nhà ga nằm gần quốc lộ, nơi đây bạn sẽ nhìn thấy biển và con
đèo bên dưới
núi.
-Em chọn học
về lụa, anh nghĩ sao ?
-Anh không mấy
rành về hội họa, nhưng chọn học vẽ lụa, thích hợp với em hơn.
-Em chọn con
đường nào anh cũng thấy đúng phải không ?
Nguyên gật đầu. Nga ngả người trong
vòng tay ôm ấp của anh. Nguyên vẫn lặng im như thể tìm một câu chuyện,
một khoảng
thời gian nào đó đã xa, trước khi anh có cơ duyên được gặp cô gái đang
hạnh
phúc trong vòng tay của anh. Tàu chuyển bánh rời ga, từ cửa toa tàu,
hai người
nhìn thấy một không gian rộng sáng đẹp, hài hòa những màu sắc êm dịu và
nổi vật
như là cảnh trong bức tranh.
-Cô họa sĩ của
anh !
-Anh nhớ cô
nào đó mà gọi tên đấy.
-Anh không
nhớ ai hết, nhưng anh biết em yêu anh ?
-Thực không
?
-Đó là tình
yêu của thiên nhiên.
-Em rất là
vui khi được anh dạy em học.
-Anh mong mỗi
ngày đều có em.
Đoàn tàu vừa đến bên dưới chân đèo,
rồi dừng lại. Không gian đã phối hợp và sắp đặt từng vị trí cảnh vật
hai bên đường
trước khi con tàu chuyển bánh. Biển lòa sáng dưới nắng. Những cánh rừng
bên triền
núi xanh thẳm và có những khe suối khi ẩn, khi hiện. Nước suối chảy gập
ghềnh
qua những mô đá. Và, chim rừng cất tiếng ca hát, vừa gọi nhau.
Bây giờ con tàu chuyển bánh trở lại.
Trong tình yêu dấu, Nguyên ôm giữ lấy Nga và cả hai cùng yên lặng ngồi
trên chiếc
ghế sát cửa sổ toa xe, vừa nhìn và cố ghi nhận từng nét cảnh vật. Đoàn
tàu trườn
lên vượt qua từng đoạn dốc với hai đầu máy, trước kéo, đằng sau đẩy.
Sau cái
nhìn luyến nhớ từ đôi mắt, Nga hé môi để cho Nguyên đặt môi hôn.
Chẳng bao lâu, đoàn tàu qua khỏi Hải
Vân bên con đường đèo dài đến 12 cây số. Phía dưới đèo là vùng đồng
bằng, cảnh
trí là ruộng đồng, làng mạc, những con sông, những cây cầu. Khi Thiên
Nga nhìn
cảnh vừa vẽ tranh, Nguyên lục tìm trong túi xách tờ báo, hoặc cuốn sách
để đọc.
Buổi chiều qua, ở hiệu sách, Nguyên mua được mấy cuốn để dành cô em gái
Mỵ Châu
và người yêu của mình.
Khi lấy cuốn sách, Nguyên chưa mở ra
đọc ngay, anh nhìn ngắm Thiên Nga đang buông thả tâm hồn với cảnh vật
và qua những
nét trên bức vẽ. Nắng sáng, in dấu trên mái tóc nàng. Và, cả trên thân
áo của
nàng nữa cũng điểm lấm tấm những bông hoa của ánh nắng. Rồi, cùng với
bút vẽ những
nét tài hoa của nàng bay lượn trên giấy , mỗi nét tạo được ngay ấn
tượng không
cho bạn nhận ra từ cảnh ở ngoài mà chỉ thấy trên tranh nàng đang vẽ.
Bên dòng
suối chảy có bóng cây, trên mái nhà có ánh nắng, một dòng sông bên dưới
cây cầu,
rất xa khung cảnh đó là một làng quê vắng lặng yên bình.
Nguyên mở sách đọc: Thung lũng Salinas
ở về phía Bắc tiểu bang California là
một dãy đất dài và hẹp nằm giữa hai dãy núi và con sông Salinas ngoằn
ngoèo uốn
khúc ở chính giữa cho đến khi đổ thẳng ra vịnh Monterey.
Nguyên đọc nhanh và từng trang dịch
của câu chuyện rất cuốn hút anh. Cuốn sách anh đang cầm đọc là cuốn
Phía đông
vườn địa đàng (East of Eden), tác giả là nhà văn Mỹ John Steinbeck.
Lúc này, đoàn tàu đang chạy chậm sắp
sửa đến ga xép. Qua bóng im của lá rừng, Nguyên trông thấy người bẻ ghi
cầm cờ
đứng đợi đoàn tàu tới.
-Em vẽ xong
chưa ?
-Chưa đâu.
-Anh muốn
ngưng đọc sách để ở bên em.
-Khoan đã.
Anh cứ đọc sách đi. Em đang sửa lại bức vẽ.
-Em là một
cô họa sĩ rất dễ thương.
-Anh khen em
nhiều lắm rồi, từ hôm qua đến hôm nay.
-Không có ai
thật lãng mạn như em cả. Vừa là hành khách trên tàu, vừa là họa sĩ vẽ
tranh.
-Em cảm thấy
thật dễ chịu.
-Anh đọc
sách tiếp đây.
-Anh đọc đi.
Rồi kể cho em nghe.
Khi đoàn tàu dừng, những người bán
hàng rong cất tiếng rao. Và, có một đứa nhỏ đứng bên dưới nhìn cô họa
sĩ vẽ
tranh. Bất chợt gặp nó, cô gái mỉm cười rất là thú vị.
Sau mười phút ngừng, đoàn tàu chuyển
bánh. Cô gái đã vẽ xong bức tranh. Người yêu của cô ngừng đọc sách, rất
hài
lòng với bức tranh cô vẽ. Trên quãng đường đi, đoàn tàu lúc nhanh, lúc
chậm và
đến mỗi ga xép lại ngừng khoảng chừng trong năm, hoặc mười phút.
V
Sài Gòn vẫn đang trong mùa mưa. Thụy
mới viết thư về thăm gia đình. Trong lá thư này, anh nhắc đến Thiên Nga
với cô em
gái và nhắn gửi một đôi lời hỏi thăm nàng. Trong sự thầm kín không phải
vì đã
yêu, nhưng thực lòng rất mong nhớ, anh rất muốn viết lá thư gởi nàng,
những
dòng thư của anh sẽ trang trải hết mọi niềm hân hoan từ buổi chiều nghe
câu
chuyện em gái anh nói về nàng, thế là anh có gặp nàng trong trí tưởng,
hay là
trong giấc mộng.
Sau thư gia đình, cùng hôm đó Thụy
viết thư gởi Thúy Hà. Vừa áy náy, cân nhắc, rốt cùng anh phải bỏ qua
không nói
với nàng về kỳ nghỉ phép về Huế mới đây. Nhưng
ích gì không, người bạn gái dường như vẫn còn ở
trong tim anh một sự chờ
đợi, vẫn có một mối tình mà dù ở hoàn cảnh nào cũng không ngăn cách
nổi. Đã có
lúc, anh tự nhủ mình quên, nhưng rồi, bóng dáng nàng từ đâu trở lại
đứng bên
anh rất lâu trong thời gian của giấc mơ.
Thụy rất thường hay đến nhà dì Hồng,
có bữa ở lại chơi ăn cơm và đánh bài xì dách. Thụy thường được bạc nhờ
đỏ,
nhưng không nhiều lắm.
Suốt cả tuần nay bên nhà Huê đóng cửa.
Thụy không hỏi Thúy, nhưng mỗi lần đi
ngang không thấy bóng nàng, anh băn khoăn.
Rồi cũng không vắng lâu, nàng đã trở
lại. Vừa trông thấy nhau, cả hai cùng vui mừng. Huê mặc bộ quần áo
thường có chấm
bông đỏ đứng ở hiên ngoài. Gió thổi nhẹ mát, lay động những ngọn lá
trên chậu
hoa nơi Huê đang đứng. Thụy tới gần, dừng lại trên bậc thềm.
-Anh mới đi
đâu về ?
-Đi chơi với
người bạn.
Huê mời Thụy vào nhà chơi. Đèn căn
phòng trước sáng, thật dễ chịu trong không gian rộng vì chỉ bày biện
đơn giản.
Cô gái lên tiếng:
-Em ở Long
Xuyên mới về.
-Vậy à.
-Em về thăm
ba mẹ.
Huê bỏ đi ngay sau đó, cô vào nhà
trong, chốc lát sau trở ra với chiếc khay rộng có trái cây và nước
uống. Thụy
đang ngắm nhìn bức ảnh của Huê đóng khung treo trên tường. Bức ảnh đen
trắng,
càng nhìn anh thấy rõ hơn những nét đẹp duyên dáng, ở đôi mắt lồng kính
một nụ
cười đang tỏa sáng trên một gương mặt thật tươi trẻ.
-Trái cây đầu
mùa phải không em ?
-Vâng.
-Em thi cử
ra sao ?
-Trượt rồi.
-Em không
nói đùa.
-Không.
-Em không thể
nào rớt được.
-Anh không
tin à ?
-Hoàn toàn
không .
-Tùy ý anh.
Hai người ngồi xuống gần nhau.
-Trông anh
khỏe mạnh.
-Anh trông
tin em. Đi ngang qua nhà mấy lần vẫn thấy đóng cửa.
-Thúy không
nói gì với anh ?
-Anh không hỏi.
-Em mới về
chiều nay.
Mỗi thứ trái cây có vị ngọt, hương
thơm riêng. Hạnh phúc đến với Thụy hơn hết là lúc này được ngồi bên Huê
trong
nhà nàng. Nhà vắng, Thụy hơi bâng khuâng và có chút do dự, ngỡ ngàng.
Huê nói:
-Em sắp đi ở
nơi khác.
Thụy bỗng ngồi im, bất động. Một lát
sau, anh hỏi nàng:
-Sao em muốn
đi khỏi đây?
-Nhà này gia
đình muốn cho thuê.
-Cho thuê hả.
-Ờ. Huê cười
tiếp lời, anh muốn thuê không ?
Thụy bỗng có ý tưởng như đây là căn
nhà của anh. Cô gái để nguyên vẹn khuôn mặt cho anh ngắm nàng. Thụy nhớ
lại buổi
chiều hôm ấy trời mưa, canh bạc nhỏ trên căn gác, tiếng nói của Huê ,
rồi ly cà
phê mang ý nghĩa cuộc đời của kẻ thất chí, nỗi buồn nhớ anh vẫn còn ray
rứt
trong ngày ra đi. Rồi một buổi sáng ấy trên bến Cảng có hình ảnh một
thiếu nữ mặc
áo trắng. Con tàu cất tiếng còi nghe vắng xa. Tàu vừa tách bến, Huê ở
trong
lòng anh, nàng theo anh qua một quãng đời.
-Anh về nghỉ
phép vui không ?
-Không vui,
buồn.
-Sao vậy ?
Chắc cô bồ ngoài đó quên anh.
-Không, anh
không có bồ.
-Thực vậy
sao ?
-Về Sài Gòn,
gặp lại em anh vui.
-Thực hả.
Rồi một giọng điềm nhiên , Huê nói:
-Hết tháng
này người thuê nhà dọn đến ở.
- Nhưng em
đi đâu, xa hay gần Sài Gòn.
- Có nhà bên
khu Bàn Cờ, em về ở với gia đình chị Yến.
-Còn anh
Chương ?
-Anh đi du học,
qua Mỹ rồi.
-Ở nơi này sẽ
vắng bóng em.
-Em nghĩ là
không sao cả. Thực tình, chỉ thi lại loạt hai nên em dễ đậu.
-Mừng cho
em.
Huê không nói gì, nhưng đôi mắt nàng
muốn gợi nhớ ra nhiều kỷ niệm cũ. Từ ngày ấy không xa lắm khi người
lính trở về.
Ngày nhập ngũ, Thụy lên đường ra Nha
Trang bằng tàu thủy. Lênh đênh giữa sóng biển một ngày đêm, sáng hôm
sau tàu ra
tới thành phố Nha Trang, và đây là một thành phố biển đẹp nhất miền
Trung.
Rồi sau ba tháng học căn bản quân sự,
lễ mãn khóa Thụy được cấp bằng hẳn hoi. Thụy rời quân trường trễ hơn
các bạn một
tuần, vì ở lại dự kỳ thi Tú Tài I. Thực may mắn, mấy hôm thi anh làm
bài được,
nhưng cũng có nhờ hai thí sinh ngồi gần bàn nữa. Buổi chiều ngày chủ
nhật, Thụy
đi ra phố chơi, ghé quán nước giải khát rồi vào rạp hát xem phim Le
temps
d'aimer et le temps de mourrir. Cuốn phim dựa theo tiểu thuyết của nhà
văn người
Đức Erich Maria Remarque. Thụy đã đọc cuốn
truyện dịch, nên lúc coi phim, có nhiều câu đối thoại bằng tiếng Pháp
anh hiểu
được, không cần nhìn xuống dòng phụ đề.
Khi đèn rạp hát sáng lên, anh vẫn ngồi
trên ghế. Ý nghĩa về cái chết của người lính trong chiến tranh thật là
buồn.
Tình yêu của nàng và người lính, nương tựa vào lá thư, vậy mà lá thư
anh ta cầm
trên tay chỉ đọc được ít giòng, rồi anh ngã gục, lá thư buông trôi trên
dòng nước.
Phố chính đường Độc Lập bừng dậy
trong không khí nhộn nhịp, rất đông người ngày cuối tuần. Hai bên,
những cửa hiệu
buôn bán nối nhau, nhiều quán hàng ăn, quán giải khát chỗ nào cũng đông
khách
ra vào, và ồn lên tiếng nhạc kích động.
Thụy ghé tiệm phở, lúc bước vào thấy
đông khách , nhưng anh không đợi lâu. Tiệm ăn sạch sẽ, mùi phở thơm
ngào ngạt
làm anh cảm thấy đói. Thụy gọi tô lớn, lúc người chạy bàn mang ra, có
bao nhiêu
thứ gia vị để sẵn trên bàn, anh cho mỗi thứ một chút, và rồi một mình
thưởng thức
bữa ăn ngoại lệ của mình. Trong lúc ăn, anh muốn quên đi cảnh đời khó
khăn của
gia đình, ba mẹ, các em anh đang ở Huế, và quên đi số phận mình là
người lính
dù không bị súng đạn đe dọa, nhưng cuộc sống không cách nào nhìn thấy
ngày mai
đây sẽ trở nên tốt đẹp.
Thụy ăn hết tô phở, vừa đủ no và
ngon. Bên kia đường là một hiệu sách có bày nhiều tranh ảnh đẹp treo ra
phía
ngoài. Trên phố nãy giờ luôn nhộn nhịp, đông vui, và những gương mặt
người tân
binh hay SVSQ các quân trường trông rất tươi trẻ. Hạnh phúc cho các
thiếu nữ và
các chàng trai người đang có người yêu đi bên cạnh mình. Thụy dừng lại
giây lát
trên bờ đường nhìn ngắm mái tóc, những tà áo duyên dáng, mơ mộng của
các cô gái
trong thành phố này. Và, mai đây như thế nào thì đó là chuyện của thời
gian trả
lời.
Ở trên chiếc bàn dài thấp gần quầy
tính tiền là nơi đặt báo. Tất cả đều mới,
tạp chí, tuần báo đến nhật báo. Báo Văn, số này là tuyển tập thơ văn.
Lúc báo
này ra mắt số đầu tiên, Thụy rất thích, khi mượn được của người bạn
trong tuần
đầu anh đã đọc hết. Và, báo này đã gợi lên trong anh niềm ước ao sự có
mặt tên
tuổi của mình. Thời gian qua, anh không dám gởi bài vì lượng sức mình
chưa đủ.
Những truyện ngắn anh sáng tác, chỉ vừa trong trình độ của nhật báo,
tuần báo
thôi. Nhìn báo Văn, truyện muốn được đăng bạn cần có một cách viết lạ
trong
ngôn ngữ và ý tưởng mới. Một lần thất bại
của Thụy là truyện ngắn viết về Thúy Hà, người bạn gái anh vô cùng yêu
thương.
Khi nhận được thư tòa soạn, anh hiểu ra
cái non nớt, yếu kém của mình không là nội dung câu chuyện, mà ở cách
viết. Tuy
nhiên, anh rất hài lòng với chi tiết tả buổi sáng ở lớp học cùng với
nàng đánh
cờ ca rô , bất giác, trong phút giây xúc động của tình yêu, nàng để cho
anh mở
rộng bàn tay nâng mái tóc nàng lên nhìn gương mặt nàng qua một vẻ đẹp
tỏa sáng.
Buổi chiều đang xuống, nắng dần trôi
xa. Khi ra khỏi hiệu sách, bên tay Thụy là một cái túi nylon đựng một
cuốn truyện
dịch và mấy tờ báo.
Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày
Thụy bước đi thanh thản, vừa sống với
những giờ khắc hạnh phúc. Mỗi nơi chốn mang đến, từng thứ một thật là
nhẹ
nhàng.
Buổi chiều thân tình như người bạn.
Thụy chưa muốn trở về trại, vì hôm nay
là ngày cuối ở Nha Trang, và sáng mai chiếc
túi sac marin, chiếc ba lô đeo vai, Thụy sẽ giã từ
quân trường.
Bỗng nhiên, Thụy dừng bước đưa tay dụi
mắt. Một bóng người đàn bà áo trắng vụt hiện, đứng ngay trước mặt anh
thật lạ
lùng. Thụy hết sức bối rối, ít giây sau mới nhận ra. Và, anh thấy nàng
thay đổi
rất nhiều. Nàng đứng yên đó, cặp mắt bất động nhìn anh.
Anh thấy nàng (có hơi mờ đi), và hơi
e thẹn, ngập ngừng.
-Ông Thụy,
nàng khẽ nói.
Người lính mỉm cười, vẻ mặt bỡ ngỡ.
-Ông không
nhận ra tôi ?
Một vài giây sau.
-Có, Thụy
đáp nhỏ tiếng.
-Ông biết
tên tôi không ?
-Cô Thùy.
Nàng cười, đưa tay cho Thụy bắt.
Nhìn quanh, anh nhận ra đây là khu Phước
Hải ngày xưa, không thay đổi nhiều. Phía bên đường là nhà thờ Chánh tòa
xây bằng
đá. Thụy nhớ lại những buổi tối anh và Nhị ra nhà thờ ngồi chơi, hóng
mát, gió
nhẹ rung lên khi buổi chiều vừa tới giờ chuông đổ, sau một lúc, có
tiếng còi
tàu từ nhà ga vọng tới.
-Cô Thùy vẫn
còn ở Đà Lạt ?
Nàng cười bảo:
-Tôi đâu còn
là học sinh nữa.
-Tôi cũng vậy,
mới đi lính mấy tháng.
-Ông có nhà ở
đây ?
-Không, tôi
đang ở quân trường.
Quán nước mía bên đường có căng tấm
bạt rộng. Thụy và nàng đến đó, ngồi xuống ghế nhỏ bên chiếc bàn vuông
thấp. Nước
mía mang ra, mỗi ly có ống hút.
-Cô Thùy được
mấy cháu rồi ?
-Chưa.
-Sao vậy ?
-Đừng hỏi
lôi thôi, ông bạn.
-Không lẽ,
cuộc sống gia đình không có gì vui ?
-Bộ ông muốn
nhảy vô hả.
-Không dám.
Nàng cười nhìn lại người bạn cũ.
-Anh Thụy vẫn
trẻ con như ngày đó.
-Tôi vẫn nhớ
buổi đầu tiên gặp Thùy . Những kỷ niệm về Đà Lạt của tôi nằm trong ngày
đó.
Nàng chỉ mỉm cười không nói.
-Nước mía uống
thật ngon.
-Anh có viết
thư thăm thầy Phiên không ?
-Có. Cậu tôi
đã được giải ngũ.
-Rồi đến lúc
nào anh ra trường ?
-Tôi vừa mãn
khóa học. Ngày mai, tôi trở về Sài Gòn.
Ly nước mía bên nàng đã vơi một nửa.
Nàng nói:
-Gia đình
Thùy vẫn ở Đà Lạt.
-Đường Phan
Bội Châu ?
-Sao mà nhớ
ghê vậy ?
-Có cây si
trồng ở đó, chặt đứt không ?
Nàng cười, ánh mắt dịu lên một vùng
sáng. Bên cạnh người lính, còn một chiếc ghế trống. Và, nàng vừa mở
rộng bàn
tay cho chàng được nắm lấy.
-Đà Lạt, kỷ
niệm đẹp trong thời đi học.
-Rồi sương
mù, rồi cỏ, những đồi thông, rồi.. nhiều nữa.
-Thùy
sinh ở Đà Lạt hay ngoài miền Bắc.
-Ở đường
Phan Bội Châu.
-Con đường
có đồi khế, màu đất đỏ.
-Cám ơn anh
Thụy đã nhớ.
-Tại sao
Thùy không mặc áo tím ?
Thời gian đã làm cho kỷ niệm lắng xuống
rất sâu. Và, nếu Thụy nhớ lại rõ nét, nói ra tên con đường, vẽ lại từng
màu sắc
chiếc áo, vẽ lại được cả từng hạt mưa, thì những hình bóng cũ ấy cũng
đã là một
sự mất mát, muộn màng thật cảm động. Vì thế, anh đã ngăn được ý nghĩ
của mình
khi muốn gợi ra một câu hỏi về những lá thư anh trao tận tay nàng, về
những điều
nàng đã biết tại sao anh yêu nàng, và trong đó nữa có một tấm lòng của
nàng đối
với ba mẹ anh ở xa, khi đã có những lần nàng ghé qua trạm bưu điện bỏ
giúp những
lá thư anh gởi về nhà.
Ngồi chuyện trò cũng khá lâu, trời
đã tối, đường phố sáng đèn. Thụy cùng đi bên cạnh nàng một đoạn đường,
tới ngã
tư gần đó hai người dừng bước.
Thùy ngước mắt, nàng nói:
-Bao giờ
cũng vậy, gặp lại nhau là biết kỷ niệm vẫn còn nhớ.
Và lúc này đây, Huê còn nhắc Thụy nhớ
đến khuôn mặt viên Trung úy trưởng trại và chữ ký của ông nằm trong
khuôn dấu đỏ.
Thụy vẫn nhớ cái bắt tay rất chân tình cùng lời từ giã ông nói, trong
đó, ngày
mai anh sẽ đi xa không hy vọng gặp lại ông nữa. Ông rất quí mến Thụy,
và riêng
anh đã có sự đóng góp làm tờ Đặc San cho một khóa học, tuy gấp gáp vì thời gian quá ngắn nhưng thể hiện được điều
ông mong muốn.
-Anh có món
quà dành cho em.
-Đâu nào ?
-Anh để bên
nhà.
-Anh cho em
món quà gì ?
-Một tờ Đặc
San anh và các bạn làm ở quân trường.
-Hay qúa, chịu
khó về mang qua cho em.
-Sáng mai,
anh đem qua cho.
-Không. Về lấy
đi anh.
Thụy biến mất như cái bóng. Thúy ra
mở cửa khi nghe có tiếng chuông.
-Anh đi đâu
về ?
-Đi với người
bạn.
Thụy đi nhanh lên gác, vội vàng mở
túi xách lấy tờ báo. Rồi anh vụt chạy xuống cầu thang lúc ấy, trong nhà cũng đang vui tiếng chuyện trò của
mấy người bạn dì Hồng ngồi ở nhà sau.
Huê vẫn một mình trong phòng khách
trống vắng. Khi thấy Thụy trở lại, nhìn vẻ mặt anh nàng không thể nhịn
cười. Thụy
đặt tay lên vai nàng, giữ lâu trong chốc
lát.
Hai người ngồi xuống bên nhau trên
chiếc ghế xô pha rộng. Thụy cầm chén nước trà đưa lên miệng uống từng
hớp. Ý
nghĩ về ly cà phê dậy chút men, anh ngồi im mắt không rời khỏi những
ngón tay
Huê đang giữ lấy từng trang báo. Khi thấy bài Thụy ký tên, nàng ngừng
lâu. Nàng
chợt mỉm cười, Thụy nói:
-Có em trong
đó.
Huê đọc thêm một đoạn, rồi lật
trang. Tờ giấy vàng đục, chữ đánh máy đen đậm trong đó mang dấu vết
ngày tháng
in sâu nỗi buồn nhân thế. Thụy chẳng hề tâm sự với ai, nhưng anh đã
viết. Anh
viết về Huê, trong bóng dáng và tên gọi của nàng anh đã lẫn lộn biết
bao nhiêu
điều chỉ muốn nói về một người bạn gái của mình. Và, ngồi đây bên cạnh
một cô
gái không phải là người yêu, Thụy nghĩ rằng mình đang trốn khỏi một
cuộc chiến.
Thụy rất ngạc nhiên, vì nó đã vây hãm cuộc sống của anh những ngày
trước đây đến
đỗi sống ở Sài Gòn anh vẫn lo sợ, nhất là, nhận diện rõ ràng qua quần
áo mặc của
mình.
Huê gấp tờ báo lại, cô nói:
-Hay quá,
anh đã thực hiện được tờ báo này.
-Chỉ trong
vòng mười ngày.
-Anh kể chuyện
mấy tháng ở quân trường cho em nghe.
-Ngày nào
anh cũng tắm nắng và đổ mồ hôi.
-Anh quá
lãng mạn.
Thụy rót thêm đầy tách nước, rồi đưa
qua cho Huê.
-Cám ơn anh.
Thụy cầm tờ báo lên xem qua. Đồng hồ
trên tường đổ chuông. Rồi sau đó, anh và Huê hai người giúp nhau chuẩn
bị bữa
ăn tối. Khi ở trong căn nhà trống vắng, ánh đèn điện sáng lên đó là sự
ấm cúng,
điềm đạm, vừa chừng mực, đó cũng là một dấu hiệu về lương tri. Chàng và
nàng
như là hai anh em ruột thịt sống bên nhau trong những ngày ở xa gia
đình. Cách
đây hơn một giờ, Thụy ngồi với Minh ở quán ăn bên khu chợ Thái Bình.
Thụy và
Minh, hai người gặp lại nhau sau một năm. Ở Đà Nẵng Minh vào Sài Gòn,
không phải
mong học tiếp mà tìm kiếm việc làm. Rồi hắn đổi ý, và hắn còn đợi chờ
mười ngày
nữa đi chuyến bay quân sự lên Đà Lạt đặt chân vào trường Võ Bị.
Dứt một giây hồi tưởng, Thụy hỏi
Huê:
-Em có nghĩ
tới hạnh phúc cho mình trong tương lai.
-Em vẫn sống
bình thường, tự nhiên.
-Anh luôn
luôn nghĩ đến hạnh phúc của em.
-Bây giờ
không có gì cả là hay nhất.
-Thật vậy
sao ?
-Anh có chọn
nghiệp văn cho đời mình không ?
-Em hãy chọn
cho anh.
-Em không biết
.
-Anh cảm thấy
vui khi em còn ở Sài Gòn.
Có bóng người đi qua bên ngoài. Thụy
cảm thấy nôn nao muốn nói với Huê:
-Không, sự
ràng buộc đời tôi là Thúy Hà. Tôi yêu nàng, vì tôi nghĩ nàng đã sống
với tôi
trong bao nhiêu tình cảnh người vợ qua những kiếp luân hồi. Trên miệng
lưỡi, hễ
gọi tên nàng là tôi nhận ra dư vị cay đắng lẫn ngọt ngào.
Thụy để lộ ra một bộ mặt si dại, ngớ
ngẩn. Huê buông đũa, cười lớn tiếng, tiếng cười dồn đổ nghe như là một
trận
mưa. Trong người Thụy nóng ran lên như cơn sốt, ngay lúc đó, anh để
ngửa lòng
bàn tay.
Vậy rồi, buổi tối đó qua đi mà chàng
cũng đã che giấu hết sức vội vàng. Chàng được ở bên cô gái đến nửa đêm.
Hai người
chơi đánh bài. Chàng luôn chú ý những con bài cơ hồng đỏ hình trái tim,
nó rạo
rực trên mấy ngón tay của Huê.
Bỗng tiếng cô gái nói:
-Thôi, anh về
đi. Đã khuya rồi.
Chàng không muốn nghe giọng ái ngại ấy
làm gì. Rồi không thể nào cô tránh kịp, chàng đã ôm gọn lấy thân cô
gái, rồi thật
yên lặng cô để cho chàng đặt môi hôn,
nhưng một lúc sau chàng nghe tiếng cô khóc. Cô gái khóc,
chàng nói những lời dỗ dành, vừa nghe tiếng hạt
mưa và tiếng mình nói xúc động hòa tan vào hương vị thơm của mùi tóc.
Về nhà, Thụy thao thức không ngủ được.
Anh cảm thấy mình hối hận và nghĩ đến Thúy Hà. Sau đó, anh gặp nàng
trong giấc
mơ. Bên cánh cửa, nàng bồng đứa con trai nhỏ. Anh đứng yên lặng sau
lưng nàng một
lúc rất lâu, bỗng nhiên, trên tường vôi trắng anh trông
thấy nàng ngồi một mình xõa tóc. Không
biết nàng tìm thấy ai đó trong dĩ vãng.
Sáng hôm sau thức dậy, Thụy vẫn còn
nuối tiếc giấc mơ. Anh không lo âu, sợ hãi, nhưng nghĩ rằng Huê vẫn còn
khóc.
Nàng khóc vì ức chế, chứ không có gì giận dỗi ai cả. Thụy lại rời nhà,
cùng đi
với Lăng suốt ngày. Hai đứa đi xe đạp, đến thăm gia đình họ hàng. Ai
cũng thấy
anh thay đổi, trông vẻ mặt đầy nghị lực, tin tưởng vào cuộc sống. Và,
những lời
khuyên chân tình của bà con làm anh xúc động, tự hứa với mình cố gắng
trở lại với
sách đèn.
Qua tuần lễ sau, Thụy trở lại nhà dì
Hồng và đi qua nhà Huê. Anh mạnh dạn bước lên bậc thềm, vừa gọi tên,
vừa bấm
chuông.
Huê ra mở cửa, thấy anh nàng hỏi:
-Đi đâu
cả ngày nay ?
Thụy
nhìn đồ đạc đang bỏ lung tung trên bàn ghế.
-Em đang làm
gì ?
-Ngày mai em
dọn nhà.
Thụy cầm lấy tay Huê.
-Anh còn muốn
gì nữa ?
-Anh rất nhớ
em.
-Bày vẽ ra.
-Em cần
anh giúp em một tay không ?
-Thích làm
giúp thì nhảy vô.
Thụy để Huê sắp xếp
quần áo, còn sách vở, mấy thứ
linh tinh anh dọn giúp nàng. Cô gái nói:
-Em cũng thật
bê bối với những thứ đồ đạc của mình.
-Ngày mai
thì sao ?
-Giúp cho
tôi một tay.
-Em không dịu
ngọt chút nào cả ?
-Người em
hay nổi nóng, lên cơn lắm.
-Còn anh lúc
nào cũng thèm đi xa. Có em, anh thấy lòng mình vui.
-Anh liều với
em, không chỉ một lần đâu.
Giọng Huê rất giản dị, lắng sâu. Thụy
không đáp lời, chỉ thu xếp những thứ còn lại
vào túi xách.
Trước khi rời nhà, buổi sáng Huê mời
Thụy uống cà phê. Khi Huê hỏi chuyện về sự liên hệ của anh với dì Hồng,
anh nói
rõ hơn.
-Em là bạn
thân của Thúy.
-Anh biết.
Một giờ sau, Huê và Thụy cùng đi
chuyến xe lam đến nhà người chị. Người mẹ đi vắng, hai đứa nhỏ vòng tay
chào
đón khách. Huê có căn phòng riêng ở nhà dưới. Thụy giúp nàng dọn dẹp
căn phòng.
-Công việc
này làm anh luôn nhớ đến em.
Thụy vừa nói, vừa đặt khung ảnh của
nàng treo ngay ngắn trên tường chỗ có đặt bàn học. Khi đã có được chút
nồng nàn
với cô gái, lúc nào trong lòng bạn cũng đầy ắp hương vị của tình yêu.
Treo bức ảnh
xong, Thụy lùi lại một bước nhìn đăm đăm bóng dáng người đẹp. Trong
lòng anh
, nắng ấm chan hòa, ánh sáng của ngày vừa
đổi mới.
Xong việc dọn nhà, Huê mời Thụy đi
ăn cơm trưa. Thụy không đói lắm, nhưng từng giây phút được ở bên cạnh
nàng là một
dịp anh sống với cuộc đời hạnh phúc khi có được tình yêu. Yêu một người
con
gái, và được gần gũi nàng vui tiếng chuyện trò, dù cho chưa gì với nhau
cả,
mình cũng cảm thấy được tình yêu. Huống gì, vào buổi tối ấy, sự đâm
liều của
anh nó may mắn như một người trúng vé số.
Nhà Huê ở trong khu bàn cờ, gần đấy
là khu chợ, và đi ra đầu đường là gặp phố chính. Dọc con phố, nhà nào
cũng là cửa
hiệu buôn bán, quán ăn, quán giải khát. Quán ăn của người Hoa luôn đông
khách.
Hai người ngồi phía dãy ngoài mái hiên, Huê cầm menu gọi món ăn, và anh
có hơi
ngạc nhiên khi cô gọi cả bia nữa.
Thụy lên tiếng:
-Ông cho một
chai bia lớn, hai ly.
Không đợi lâu, bữa ăn dọn ra ngay
sau đó ít phút. Cả cơm và thức ăn nóng tràn hơi khói. Thụy cầm chai bia
rót vào
ly Huê trước xong đến mình.
Thụy bảo Huê cầm ly lên, cụng một
cái trước khi uống. Và, anh nói:
-Rượu bia này
uống chơi.
Nàng nhìn lại anh hỏi:
-Khi nào mới
uống thiệt ?
-Đâu biết.
Chuyện của em mà.
Huê nói:
-Em không
cám dỗ anh đâu.
-Không , thì
thôi.
Bữa ăn trong sự yên lặng. Nhưng
không có gì đáng tiếc xảy ra cho hai người. Sau bữa ăn, Thụy đưa Huê về nhà rồi chia tay.
Không biết đi đâu, và cũng chưa muốn
về nhà, ra tới trạm xe buýt gặp xe anh bước lên và theo chuyến xe về
tới bến.
Sài Gòn luôn đông vui. Một mình lang
thang trên phố, hai mắt người lính trẻ luôn nhìn xa gần, chung quanh,
và trong
ý nghĩ luôn ước mong gặp một ai quen để nói ra những lời tâm sự.
Trên vỉa hè Lê Lợi có rất nhiều bán
sách báo cũ. Qua mỗi sạp, Thụy dừng lại trong chốc lát. Anh mua được
mấy cuốn
sách , và một số tạp chí Sáng Tạo cũ. Thụy cứ đi hết con đường lên tới
nhà hát
thành phố. Và rồi, anh vòng qua bên đường đi ngược trở lại dọc theo hè
phố, đến
quán Mai Hương ghé vào gọi một ly cà phê đá
Người ngồi
trong quán hút thuốc nhiều làm anh bị sặc khói. Nhưng, anh vẫn đốt
thuốc để uống
cà phê. Ngồi trong quán ai cũng nhìn ra con đường rất đông người đi dạo
trên phố
chính. Những tà áo dài của các cô gái đi ngang qua làm dịu mát buổi
chiều. Những
tà áo thật đẹp, đem cho mỗi người một niềm vui, và có cả sự buồn nhớ
nữa. Trời
sắp tối, Thụy ra về. Quán vẫn đông khách, và bắt đầu ồn lên cùng với
tiếng nhạc,
lời ca, vọng từ dĩa hát.
Về nhà dì Hồng, Thụy gặp Lăng. Hôm
nay là ngày giỗ của mẹ dì Hồng. Thụy nói lời xin lỗi dì rồi đi dốt
hương. Khi
anh trở vào, cô Thúy nhìn anh với cặp mắt dò xét. Ngồi quanh chiếc bàn
tròn có
Lăng, dì Hồng, và Thúy, Thụy nói chuyện về những ngày nghỉ phép đã qua.
Sau đó, bữa cỗ dọn lên. Chuyện trò
vui, anh hăng hái nói chuyện về đời lính, về tương lai của một chuyên
viên
Không Quân mà anh tin tưởng là sẽ đem lại nguồn vui cho cuộc sống của
mình.
Thúy nói:
-Anh đi lính
rồi trông trẻ hẳn ra.
Thụy cảm thấy nhẹ nhõm vì có được sự
dịu nhẹ mối nghi ngờ trong mắt Thúy.
-Anh khỏi lo
chuyện quân dịch nữa.
-Rồi anh có
đi học lại không ?
-Thong thả,
qua năm tới.
Thụy hỏi qua Lăng:
-Có định về
thăm dì không ?
-Không. Tuần
đến tôi đi Đà Lạt.
-Đi chơi.
-Không. Tôi
đi dạy
Không hiểu sao, Thụy chợt có cảm
giác mình đang bị thành phố bỏ rơi.
-Lên trên đó
ở luôn.
-Không, sang
năm tôi về.
VI
Trước khi bắt đầu vào năm học, Thiên
Nga dành hai ngày đi theo Nguyên ra Quảng Trị thăm làng quê bên nội và
bên ngoại
của chàng. Hai người chỉ đem chung cái túi xách với vài bộ quần áo để
thay,
khăn mặt, bàn chải đánh răng, một ít thức ăn khô và trái cây trong hộp,
đây là phần
lương khô hàng tháng của Nguyên. Nga cũng đem theo cọ, mực màu, giấy
vẽ, đặc biệt
là chiếc máy ảnh hiệu Canon. Nguyên vẫn thích mặc đồ lính cho tiện. Nga
không mặc
áo dài, nàng chọn chiếc sơ mi sọc xanh, quần jean, đội nón vải và đeo
kính mát.
Nàng thật đẹp trong dáng dấp áo dài tím thướt tha, và cũng thật trẻ
trung,
nhanh nhẹn trong lối mặc áo quần của lớp thanh niên.
Xe lửa rời ga lúc 8 giờ sáng. Trời dịu
mát với quang cảnh đầu thu lãng đãng những bóng cây, ánh sáng buồn dịu
dàng, và
trên bầu trời có những cánh chim một mình bay xa.
Với tốc độ rất đều, đoàn tàu chạy
qua cầu, qua sông, rồi những cánh đồng ven miền quê. Nga rất thích thú
nhìn
quang cảnh, nàng đang ở trong vòng tay ôm ấp của người yêu. Nguyên
thích trò
chuyện, anh có nhiều câu chuyện kể thật là thú vị.
Nga chợt hỏi:
-Tại sao anh
bỏ Sài Gòn về ngoài này ?
-Anh ở trong
đó lâu năm rồi.
-Thì ở Huế,
không là nơi anh ở lâu à.
-Ở thành phố
này rất là dễ chịu. Hơn nữa, giờ đây anh có em.
-Hôm chúng
mình gặp nhau ở quán cà phê, tình tứ quá phải không.
Nguyên hỏi:
-Trong hai
người, theo em, ai biết mình được để ý trước.
Nga đáp lời ngay không suy nghĩ:
-Anh.
-Thật vậy
sao ?
-Anh không
tin.
-Ờ.
-Anh không
tin em yêu anh sao ?
-Tin chứ.
Nhưng em nói thật không ?
-Vậy chứ
theo anh ai được chú ý trước ?
-Em.
-Thật là cảm
động.
-Anh ghi lại
được ngay phút giây đó gương mặt em dịu hiền, mái tóc đẹp, và nụ cười
thật dễ
thương.
-Chết em mất.
Nguyên tìm lời chỉ trong vài giây,
anh lên tiếng:
-Bây giờ em
cho anh nói thật không ?
-Anh nói đi.
-Anh cám ơn
em, nhiều vô kể.
-Ít thôi,
nhiều quá cất không hết.
-Để anh nói
rõ thêm.
-Anh cứ nói.
-Vừa tan buổi
văn nghệ, anh mong gặp em nhưng vì gặp người bạn có chuyện trao đổi
lâu, lúc ra
đến ngoài, anh tìm không thấy em đâu cả.
-Cuối cùng,
ai cũng ngạc nhiên.
-Đêm hôm đó,
trăng sáng lạ lùng.
-Đến khuya,
trên con đường vắng chỉ có tiếng bước chân chúng mình.
-Anh nhớ mãi
tên em, và mong được gọi đó là tên của thành phố.
-Lớn quá, gọi
bằng tên của dòng sông nghe gần gũi hơn.
-Em đã bảo
anh, em có tên Rose nữa, đúng không ?
-Em rất
thích hoa hồng. Khi hoa tàn, em không nở vứt đi mà hái cánh hoa ngâm
vào trong
chậu nước.
-Em thực là
con người nhân hậu.
-Anh nói sai
rồi, phụ nữ có lúc rất cần phải dữ, rất cần la lối om sòm để cho kẻ
khác sợ.
-Em nghĩ, nếu
anh có làm điều gì lỗi với em, thì làm sao ?
-Anh đứng
trước mặt em, vòng hai tay xin lỗi.
Nguyên chợt dụi mắt vì bụi than. Những
đám khói tàu ngược chiều gió cuồn cuộn bắn bụi than tung tóe bay vào
các toa
xe. Lúc ấy, Nga rút chiếc khăn trong ví ra và Nguyên nhắm lại để nàng
lau bụi
bên khóe mắt.
Sau ít giây, Nguyên mở mắt hơi khó
chịu một chút. Bụi tan, Nga lấy chai nước lọc rót vào cái ly nhựa đưa
cho
Nguyên uống. Nguyên uống thong thả từng ngụm đầy.
Phía ngoài cánh đồng, một đàn bò đi
dưới nắng. Nga hỏi:
-Hồi xưa,
ông ngoại anh làm quan lớn không ?
-Ông ngoại
làm tri phủ. Anh là con trai đầu của mẹ, và cũng là đứa cháu được ông
ngoại
thương nhất.
-Thực không
?
-Ông ngoại
làm tri huyện Nga Sơn.
-Hay nhỉ.
Nghe như có tên em trong đó nữa.
Nguyên bắt đầu kể rành mạch chuyện
được theo mẹ lên tàu từ Đông Hà ra Thanh Hóa, được ở chơi cả tháng trời.
-Ngày anh về,
ông ngoại nhớ lắm.
-Ông ngoại
có đến hai bà vợ phải không anh ?
-Ai kể cho
em nghe, chắc là mẹ.
Nga gật đầu. Nguyên nói:
-Bà ngoại đầu,
tên Nga.
- Tên nghe
hay. Hai bà của ông ngoại thương nhau không ?
-Hai chị em
ruột.
-Lạ không .
-Ngày xưa,
có chị thì phải có em. Ở đời ông cố anh cũng vậy.
-Vậy nữa sao
.
-Anh rất
thích cái tích xưa trong chuyện Trầu Cau.
-Em rất
thích bài hát đó.
Ngày xưa có hai anh em nhà kia cùng
yêu thương một người. Nga cất tiếng hát,
nàng vừa hát, đầu vừa ngả xuống cánh tay Nguyên với cả mái tóc mềm mại.
Nguyên
lắng nghe những câu cô gái đang hát.
Khi cô ngưng lời ca, Nguyên hỏi:
-Bên trường
Mỹ Thuật cũng phải học năm dự bị.
-Có chứ anh.
Sinh viên phải học đủ bốn năm mới tốt nghiệp.
-Em có mơ cuộc
triển lãm về những tác phẩm của mình.
-Đó là giấc
mơ của em.
-Anh cũng có
giấc mơ giống em.
-Không giống
đâu.
Nàng mỉm cười, và khi Nguyên có ý định
cúi xuống hôn, nàng hé môi. Nguyên hôn xuống khuôn mặt, và trên cặp môi
mọng ướt
của nàng thật lâu. Một giọng đậm đà, còn thơm ướt nụ hôn, Nguyên nói:
-Hôm nay là
một ngày vui. Ngày vui này còn mãi.
-Mùa hè đã
qua nhanh, Thiên Nga nói.
Tàu vừa ngừng. Nguyên không nhớ đây
là ga nào. Nhà ga nằm bên kia đường, phía dưới cây cầu. Ngước mắt nhìn
lên, hai
người cùng trông thấy vài ngôi làng và con sông. Bên ngoài trời nắng
đầy, nhưng
ở phía ngôi làng hiện ra vẻ êm ả của những hàng tre xanh.
Làng tôi xanh bóng tre, có tiếng
chuông nhà thờ rung, Thiên Nga hát lên một câu rồi hỏi Nguyên:
-Anh nhớ tên
bài hát không ?
-Không nhớ,
nhưng đó là dòng nhạc của Văn Cao.
-Anh nói
đúng.
Chỉ ngừng năm phút, tàu chuyển bánh.
Khi trông thấy bảng tên nhà ga, Nguyên nói:
-Còn một ga
nữa thôi, mình xuống.
Tàu bắt đầu chạy nhanh. Cánh đồng vẫn
trống trải, như đang cố vươn mình theo. Luôn luôn, những cảnh vật không
muốn dừng.
Ở cảnh vật, người ta thích quan sát để nghe riêng niềm tâm sự. Đó là
một thoáng
buồn Nga chợt nghĩ tới.
Nga vẫn ở trong vòng cánh tay êm ái
của Nguyên. Nàng có cảm giác tiếng Nguyên nói, ý tưởng trong đầu
Nguyên, mỗi thứ
ấy là những nét mới mẻ của mùa màng, thời tiết. Và, trong trí tưởng
nàng, cả một
bức tranh có thể vẽ ra được đang hình thành.
Tàu chạy nhanh, nhưng không đến mười
lăm phút, lại trở về tốc độ chậm rồi từ
từ tiến vào ga.
-Mình xuống ở
đây.
Hai người cùng đứng lên và lấy hành
lý để trên giá. Không có gì để quên sau khi kiểm soát, hai người rời
khỏi toa.
Hành khách xuống không đông. Nhưng ở
ga này, tàu ngừng lâu đến mười lăm phút.
Bóng nắng vạch một đường rất thẳng dọc
theo lối đi bên đoàn tàu. Hành khách còn phải đi bộ một quãng xa mới
đến cổng
kiểm vé.
Khi ra bên ngoài, hai người dừng bước
nghỉ dưới mái hiên. Thiên Nga điều chỉnh máy ảnh xong, bảo Nguyên:
-Anh đứng
bên này đi, em chụp cho anh một tấm ảnh.
Nguyên đứng gần cửa sổ. Bên trong
cánh cửa là căn phòng làm việc của trưởng ga.
-Nhìn đây,
cười lên nhé.
Hết phiên mình, Nguyên bảo Nga chọn
chỗ đứng để anh chụp ảnh cho nàng. Nga rất là vui, luôn luôn cười.
Nguyên chụp
cho nàng ba tấm ảnh.
Đoàn tàu đã rời ga. Hồi còi vang vọng,
tiếng bánh sắt nặng nề , gió cuộn vòng những đám khói dâng lên cao.
-Mình phải
kiếm một quán nào nghỉ chân.
Nguyên nhìn tới phía xa, anh tiếp lời:
-Em nhìn
phía đó thấy gì không ?
Ít giây, rồi Nga mới nói:
-Thì cũng là
nhà ở, đường sá, có gì lạ đâu.
-Chỗ ngã ba,
bên trong là chợ.
Hai người xuống khỏi thêm tam cấp, vội
băng nhanh qua bên kia đường. Phía bên trên, nhiều con đường đất mở các
lối tắt
băng qua đồng ruộng. Ở một khu đất vắng, mọc lên một ngôi trường tiểu
học. Ngôi
trường, phía đầu hồi là lợp ngói, tiếp nối theo là những dãy phòng lợp
tôn.
Nguyên bỗng nói:
-Con bé
Phương rất là nhiều chuyện, nghe em.
-Con bé vui
tính.
-Thụy
viết thư về có hỏi thăm em.
-Thụy
viết thư cho anh.
-Không, nó
viết về cho mẹ và con Phương.
-Không chừng,
Phương đã kể chuyện về em.
-Con bé nó
thích ai rồi, tha hồ thêu dệt. Bây giờ cả nhà ai cũng mến em.
-Riêng anh,
hơn hết phải không ?
-Vẫn nhiều
lúc, anh băn khoăn.
Sau một lúc suy nghĩ, giọng ngập ngừng
Nga nói:
-Má cứ lo
cho em.
-Anh hiểu.
Anh cũng chưa dám nghĩ quá xa. Nhưng mà thôi, thấy em vui là anh vui.
-Cứ nghĩ đến
má, em thấy lo.
-Anh biết má
rất là quan trọng.
-Ba em có vẻ
thích anh.
-Anh cũng rất
quí mến ba. Con người ba rất vô tư.
-Nói vậy là
làm rể được rồi, phải không ?
-Hy vọng
thôi. Với ba, anh chỉ thi viết, còn má là phải vào vấn đáp.
-Có một thời
má đi dạy, nhưng rồi ít năm sau, xin nghỉ.
-Em thích dạy
học không ?
-Thích lắm
chứ.
-Tốt nghiệp
xong, em xin đi dạy.
-Em cũng có
ý nghĩ đó.
-Em dạy ở Đà
Nẵng thì gần nhà, nhưng nếu ra ngoài đất Quảng trị này thì cả thành phố
là dành
hết cho em.
-Hân hạnh.
Hai người vui chuyện và cùng tâm ý.
Tới ngã ba, đường rẽ vào khu chợ chừng khoảng trăm mét. Không khí xôn
xao, tiếng
ồn trỗi dậy từ phía chợ và ngang qua các dãy quán hàng, cùng lúc, mùi
vị thức
ăn pha trộn bay ra từ các quán, nhưng cũng dễ phân biệt. Cô gái bắt đầu
nhận ra
tiếng nói nghe rất là nặng của người vùng quê. Giọng họ khác đôi chút
với giọng
của Nguyên. Nguyên sinh trưởng ở đây, nhưng anh đã theo gia đình ra
thành phố,
rồi đi vào Nam, rồi trở về Huế, bao nhiêu cuộc sống trong nhiều năm
tháng ấy đã
thay đổi tiếng nói và cả con người anh nữa.
Giữa chợ cảnh buôn bán đang nhộn nhịp.
Lối đi trở nên hẹp vì người đông và các quán hàng không chỉ cố định bên
trong
mà còn tràn lấn cả ra ngoài. Thế nhưng, bạn vẫn thấy có cảm giác dễ
chịu đối với
sinh hoạt chợ vùng quê. Thực ra, đây hẳn còn là quận lỵ số dân đông, có
trường
học, chùa chiền, nhà thờ, và đời sống rất gần với một thị trấn.
Quán hàng ăn khá nhiều, hai người
cùng cảm thấy đói. Nguyên đưa mắt tìm, chỗ nào cũng đông chật, sau cùng
hai người
đi tới cuối chợ, ở đó có một quán ăn rộng rãi. Bên kia quán, một căn
nhà mở rộng
mái hiên để hai bàn bi da cho thuê. Có cả bàn bóng bàn, đang trống,
chưa có người
chơi. Có một đám thanh niên đang chơi bi da. Không khí lặng im, hồi hộp.
Vừa thấy khách vào , chị bán quán cất
tiếng mời chào. Hai người ngồi xuống ghế thấp trước cái bàn dài bày
chén, tô và
đũa muỗng, bên cạnh hai nồi cháo và bún đang nóng lên khói.
-Có gì ăn
đây ?
-Dạ thưa nhiều
thứ, cháo bánh canh, bún rêu, bánh lá, bánh ướt.
-Em ăn gì ?
-Ăn bánh trước
đi.
-Rồi ăn thêm
cháo hoặc bún nữa..
Nga gật đầu. Ơ phía trên có một quán
cà phê mở nhạc, giọng ca sĩ Hoàng Oanh đang hát.
Chị bán quán làm hai dĩa bánh đầy
vun, trông ngon mắt. Bánh ướt vùng quê với nước mắm ớt, với chả, và có
thịt heo
xắt lát mỏng. Vị cay rất dịu làm cho nước mắm pha thật ngon. Nga rất
vui ngay
lúc cầm đũa gắp miếng bánh đầu tiên.
Bánh ướt ở vùng quê ngoài này hơi dày, nhưng thật dẽo. Loại bánh này có
thể
dùng làm bánh phở, hoặc pha màu thành mì Quảng. Có chả và thịt ăn ghém,
mỗi thứ,
Nga gắp một ít. Hai người vui với bữa ăn, không nói chuyện nhiều, nhưng
rất hiểu
ý khi đưa mắt nhìn nhau. Nguyên và cô gái, ai cũng có nét đẹp riêng
trên cặp mắt.
Ở Nguyên, đôi mắt đẹp của anh gợi cho các thiếu nữ
nghe ra được tiếng hát của chim, và những tiếng
nói trong tình bạn. Ở đôi mắt cô gái, nụ cười là ánh sáng tỏa niềm vui,
và khi
cô có một nỗi buồn xa xôi, bạn sẽ thấy một màu nhung xanh của chiếc áo
hiện về
trên cặp mắt của cô. Và đôi mắt ấy, mang mang hoài nỗi nhớ của thời
gian.
Hai người ăn hết dĩa bánh, đã thấy
no. Nhưng rồi, thấy chị bán hàng mời mọc món cháo bánh canh cá, mỗi
người ăn
thêm tô nhỏ. Nguyên nhìn sang quán bên cạnh gọi nước giải khát.
Bên ngoài, buổi họp chợ vẫn đông. Tiếng
nói của người vùng quê, Nga chỉ nghe lõm bõm, cô không hiểu được hết ý
nghĩa của
tiếng nói.
Ngồi trong quán đã lâu, nhưng hai
người chưa đứng dậy. Nga nhìn đồng hồ đeo tay mới biết là lúc này trời
đã trưa.
Bến xe lam nằm phía đầu ngã ba, có
sáu chiếc ở đó đậu dưới bóng im đang chờ khách.
Nga mở ngăn ví lấy tiền trả. Khi hai
người dời bước đi, có mấy người trong quán đưa mắt nhìn theo, ai cũng
khen đôi
lứa tình nhân xứng hợp.
Vừa tới bến xe, Nguyên bỗng nghe có
tiếng gọi:
-Chú Nguyên.
Ngay lúc đó Nguyên nhận ra anh
Quang, con người o ruột ở dưới làng. Nguyên giới thiệu Nga với người
anh. Anh
Quang lấy làm vui, cười nói hả hê với mấy người bạn tài xế. Đột nhiên
anh quay
lại hỏi Nguyên:
-Chú và cô
đi đâu đây ?
-Về thăm
làng.
-Xe tôi sắp
chạy.
Anh Quang nhìn đồng hồ tay, xong ra
phía sau đếm hành khách. Có một người nửa tới với hàng hóa, anh vội leo
lên trần
xe để chất hàng. Nga chú ý đến dáng vẻ bề ngoài của anh, chiếc quần tây
đen, áo
kaki nhà binh có cầu vai và hai túi, đầu đội nón lưỡi trai.
Anh Quang cột hàng xong, từ trần xe
bước xuống và dành hai ghế trước cho Nguyên và cô gái ngồi.
Khi xe mới nổ máy, Nguyên hỏi:
-Mỗi ngày
anh chạy mấy chuyến ?
-Bốn.
-Cũng được
chứ anh.
-Ờ, tàm tạm
thôi. Thường chuyến lên chợ buổi sớm, và chuyến cuối buổi chiều về đông
khách
hơn.
Ngồi bên Nguyên, Nga vừa
cảm thấy xa lạ, vừa thân quen với nơi
mình đến. Từ lâu nay, nàng với cuộc sống ở thành phố, và đây là lần đầu
tiên
nàng đi về làng quê của chàng. Tự dưng cô yêu mến, không hề có ý do dự,
đòi hỏi.
Xe lăn bánh bánh chạy một vòng cua
quanh bến, ra đầu ngã ba, rẽ trái chạy trên con đường trồng cây thông ,
vượt
lên dốc cầu, đổ xuống quận lỵ sau đó bắt đầu là con đường làng đất
cứng, nhưng
bằng phẳng, rộng rãi.
Khung cảnh làng quê hiện ra thật yên
bình, nắng mênh mông trải rộng qua những đồng lúa, bờ đê, và một con
kinh đào rất
sâu, rất dài, dẫn nước từ phía dòng sông đưa vào ruộng. Những nguồn
nước dẫn ở
sông vào chảy mạnh, dào dạt như dòng suối, và hình ảnh làm cô gái thấy
lạ lùng,
quan sát là những chiếc xe đạp nước. Lúc
này là giờ nghỉ trưa, nhiều chiếc ngừng hoạt động nhưng vẫn còn một vài
chiếc
có người đang đạp.
-Chú Nguyên
còn viết báo không ?
-Cũng còn,
nhưng không chuyên lắm. Tôi ra ngoài này rồi, không ở Sài Gòn nữa.
-Chú có gặp
chị Số không ?
-Chị ở Biên
Hòa. Tôi có đi thăm, lúc sau này, chị buôn bán cũng khá.
-Ở làng
mình, người ta lần đi vào Nam hết.
-Đã lâu quá,
nay tôi mới về.
-Bà vẫn còn
mạnh.
-Tôi đưa cô
bạn về thăm bà, thăm quê, ở một hôm nay ngày mai đi ra
Đông Hà về quê ngoại.
-Sao chú đi
ít ngày vậy ?
-Không được
nhiều ngày, cô còn trở vào đi học nữa.
-Cô người ở
đâu ?
-Người Đà Nẵng.
-Hồi đi
lính, tôi ở đơn vị tiếp vận trong đó.
-Anh được giải
ngũ.
-Ờ, giải ngũ
loại hai.
Ruộng lúa hai bên nối nhau trải dài.
Nhà ở các ngôi làng nằm sâu bên trong, có ít nhà ngói, nhiều nhà tranh,
nhà nào
cũng có sân phơi lúa, có vườn, và dọc con đường làng nơi nào cũng có
trồng cây
lấy bóng mát. Những ngôi làng kế cận nhau, nhưng cách vài cây số là có
tên
khác. Và mỗi nơi, cảnh vật cũng có chút đổi thay.
Từ quận, con đường quan rộng chạy thẳng
ra tới vùng biển Mỹ Thủy xa12 cây số. Nãy giờ, Nga chẳng lên tiếng
chuyện trò với
Nguyên và ông anh họ tài xế, nhưng nàng rất vui thích được nhìn cảnh
đồng quê.
Hàng cau, bụi chuối, giếng nước, những lớp màu ngói đỏ, ngói nâu, những
ngôi
nhà tranh, từng sự vật tưởng như đang sắp xếp thật
gọn một chuyến đi đường dù là ngắn, nhưng
nàng sẽ nhớ mãi về sau này.
Hai chặng anh Quang ngừng xe cho
khách hàng xuống. Con đường xe chạy cũng qua ba khúc quanh, hai đoạn
dốc và bốn
cây cầu gỗ.
Xe dừng đầu chợ, Nguyên và cô gái xuống.
Anh Quang xua tay khi Nguyên trả tiền nhưng Nguyên bắt anh lấy và tiền
Nguyên
đưa cũng rộng rãi.
Anh Quang cám ơn và cho xe trở đầu.
Thực sự, lộ trình xe chỉ dừng khách đầu ngã tư, nhưng vì là người trong
gia
đình anh đưa người em đến chợ để đi con đường vào làng cho gần.
Nguyên nói với người yêu:
-Làng
anh ở đây.
-Mới là con
đường thôi.
-Em nói
đúng. Nhưng về tới làng, chỉ còn xa chừng vài trăm mét.
Ngồi trong quán, một chị bán quán
nhìn ra. Chị ta lên tiếng:
-Mua quà
bánh đi anh.
Nguyên liền đi vào quán mua hai ốp
hương. Khi trở ra ngoài, vừa đi ít bước Nguyên nói:
-Làng quê
anh rất nghèo.
-Anh làm em
cảm động.
-Có em về
thăm, bà nội chắc mừng lắm.
-Không phải
đâu, anh đừng tưởng em không hiểu ý anh.
Một giọng vui, Nguyên nói:
-Nhưng cảnh
làng quê nghèo, nó được thi vị hóa cái đẹp, phải không Nga?
-Vậy nên,
đám nghệ sĩ, anh nào cũng nghèo.
-Họ là những
người rất có tâm hồn.
-Bài hát nào
về làng quê anh thích nhất ?
-Bài Quê
nghèo.
-Cảnh quê giống
như làng anh, đúng không ?
-Không, mà
giống miền quê ngoại.
-Quê ngoại
nghèo lắm sao ?
-Không,
nhưng hồn bài nhạc làm anh nhớ đến quê ngoại nhiều hơn.
-Anh nhớ bài
nhạc không ?
-Anh không
nhớ hết.
Con đường nhỏ hẹp, có bóng im, cát
thật mịn màng dưới bước chân. Nga có ngay được cảm giác này khi cô tháo
đôi dép
xách tay để được bàn chân êm đi trên cát. Bên cạnh đường, dưới hàng nứa
thấp là
con mương nhỏ, nước rất trong.
-Thiên
Nga ơi, tiếng Nguyên nghe lạ tai.
-Trời đất,
em đây mà, anh sợ em đi mất sao ?
-Không, anh
muốn nói với em. Ngày Tết, ở miền quê ngoại rất vui.
-Ngày Tết,
đâu mà không vui .
-Nhưng quê
ngoại mới là niềm vui cho em. Anh vừa nhớ ra câu hát trong bài nhạc:
Nằm mơ, mơ
thấy trăm họ tốt tươi, mơ thấy bên lề cuộc đời áo dài đùa trong tiếng
cười.
Nga reo lên:
-Em hiểu ý
anh. Đó là câu hát ca ngợi cảnh ngày xuân,
không ở nơi đâu hay bằng.
Rồi một giọng xa vắng, nàng tiếp lời:
-Hồn quê như
nắng mùa xuân. Hồn quê cũng đẹp như một
tấm áo dài.
VII
Với túi xách nhẹ đeo vai và chiếc va
li nhỏ đựng áo quần sách vở, Lăng từ giã Sài Gòn. Khi xe buýt ghé trạm
ngừng ở
lề đường bên ngoài bến xe Pétrus Ký, chỉ có mình Thụy và Lăng xuống.
Thời gian còn sớm, hai bạn ghé vào
quán ăn sáng nằm trong khu vực bến xe. Trời đã sang thu, buổi sáng dịu
mát.
Hai tô hủ tiếu lớn, ăn no. Rồi gọi
tiếp hai ly cà phê sữa nóng. Đốt xong điếu thuốc, Thụy nói:
-Tôi sắp đi
Nha Trang.
-Anh đổi ra
làm việc ngoài đó ?
-Không, tôi
đi học khóa chuyên môn.
-Lâu không ?
-Ba tháng.
Tôi lại được về Sài Gòn .
Nhìn lại Thụy qua một nụ cười, Lăng
nói:
-Anh đi lính
mà sướng hơn làm quan.
-Tôi học
chuyên môn để lấy bằng ăn phụ cấp, xong tôi cũng không đi ngành này mà
sẽ biệt
phái trở lại làm cho báo Lý tưởng.
Cà phê nóng ấm, ngon miệng. Nghĩ về
chuyến đi, Thụy thấy Lăng không vui. Một giọng dè dặt, Thụy hỏi:
-Năm sau thi
lại, chỉ vấn đáp thôi hay cả viết nữa.
-Tôi thi vấn
đáp hai thôi.
-Rồi cũng
nhanh, năm sau về lại Sài Gòn.
Ngồi không lâu, xong bữa ăn sáng Thụy
trả tiền và đi cùng Lăng tới chỗ xe đậu. Trên đường đi, Thụy nhắc tới
anh
Nguyên, và cũng tiện cho Lăng biết về cô bạn gái của anh Nguyên tên là Thiên Nga ở Đà Nẵng.
-Anh đã có gặp
rồi ?
-Chưa. Nhân
kỳ nghỉ phép tôi nghe Phương nói.
-Anh và cô
Huê, hai người tới đâu rồi ?
-Không có gì
cả.
Nói xong, Thụy lại tiếp lời giải
thích là Huê chưa thực sự có người yêu như nàng muốn. Thế nhưng, anh
được ở bên
nàng như một người bạn hiểu nàng, và nghe nàng nói những lời tâm sự.
Vừa rồi,
Huê thi đậu khóa hai, ý định sẽ ghi danh học ở Văn Khoa. Từ hôm Huê dọn
nhà đến
nay, thỉnh thoảng anh tới thăm, lúc trò chuyện ở nhà, lúc ra quán cà
phê ngồi.
Kể ra, vì chưa có gì với nhau cả, nên hai người rất thân mật một cách
tự nhiên.
Dừng lại bên dưới xe, Lăng lên trước
xong nhận chiếc va li Thụy chuyền qua ô cửa. Sắp xếp chỗ để hành lý
trên ngăn
giá xong, Lăng ngồi xuống ghế ngoài, trong lúc chờ xe khởi hành hai bạn
tiếp nối
câu chuyện cho qua giờ.
-Chừng nào
anh ra Nha Trang ?
-Cuối tháng
này.
-Lâu nay,
anh có truyện nào đăng báo không ?
-Có. Tôi hay
gởi truyện đăng ở báo ngày và tuần báo.
-Nhuận bút
khá không ?
-Ít thôi,
nhưng đăng ở mấy báo đó dễ dàng.
Không đợi đến mười phút xe chạy. Thụy
đọc thấy một nỗi buồn trên cặp mắt của Lăng, bỗng dưng cảm thấy đó là
người bạn
thân thiết nhất của mình.
Nắng đã lên cao, và trải rộng dần
trên khắp các khu phố.
Hôm nay là thứ bảy. Sài Gòn cách Đà
Lạt 300 cây số, xe đò hay rước khách dọc đường, thời gian cũng phải
chạy mất
hơn bảy tiếng đồng hồ mới đến nơi. Và dù vậy, Lăng cũng có được một
tuần lễ nghỉ
trước khi vào năm học mới.
Xe buýt đỗ khách tại bến chính ở khu
chợ Bến Thành. Giữa cảnh tượng ồn ào, huyên náo trên các ngả đường,
Thụy chẳng
biết mình đi đâu, và làm gì đây cho qua hết một ngày.
Những quầy sách cũ, rạp hát, quán cà
phê đã vội vàng biến mất khi Thụy vừa nghĩ đến sự tìm kiếm. Nơi thành phố cũ ấy, áo trắng là hương thơm
tinh khiết của mùa hoa lan. Vừa bước đi, Thụy muốn vẽ lại trong trí nhớ
mình
thành phố đó. Với những dòng sông, bao nhiêu cây cầu, và mùa thu đã trở
lại. Thụy
nghĩ đến giọng nói, đôi mắt của Liên An. Bây giờ đây, anh thật hết sức
cố gắng
tìm sao cho thấy được một bóng dáng Thiên Nga nguyên mẫu ngoài đời. Ký
ức về
nàng, dù là qua sự mường tượng nhưng vẫn có thể xây dựng nên một câu
chuyện
tình. Trong năm học ấy, Thúy Hà mới 17 tuổi. Trước khi đến thành phố
nàng ở và
gặp nàng, Thụy đã trải qua một mùa thi đầy ân hận, cay đắng. Về thời
gian sau
này, anh học hành có tiến bộ, trở thành học sinh khá trong lớp, vậy mà
anh
không được cái vận may trong mấy ngày thi cử nên bị rớt hai khóa liền.
Thật chết
người ở lần thi khóa nhì, anh qua được loạt I, nhưng rớt loạt II, vì
thiếu một
điểm. Chiều hôm ấy, trời xứ Huế buồn dưới cơn mưa nặng hạt. Dưới mái
hiên văn
phòng trường Quốc Học, có hai cha con đứng đợi thầy giám thị xem điểm
giúp. Một
lúc khá lâu, thầy trở ra, và khi nhìn dáng thầy đi chậm bước mắt nhìn
xuống tờ
giấy, Thụy linh cảm chuyện không may cho mình. Quả thực, anh hỏng thi.
Trên
vuông giấy xanh, những môn thi của anh được ghi điểm, rồi một giọng
bình thản
người thầy hỏi Thụy có được điểm thể dục không ?, anh đáp không, lặng
người đứng
chôn chân một chỗ. Sự hối tiếc và ân hận, đã muộn rồi. Tại sao mình
không nghĩ
rằng, ở môn nhiệm ý này chỉ cần có dự thi, dù không đạt tiêu chuẩn về
nhảy rào,
nhảy cao, nhảy dài, leo dây các huấn luyện viên cũng châm chước cho các
thí
sinh một vài điểm dư để cộng thêm vào kỳ thi. Hôm đó, thực sự Thụy có
đi theo
các bạn cùng lớp từ trường Bình Linh xuống sân vận động trường Quốc
Học, nhưng
lúc sắp vào cuộc thi, anh chợt nghĩ lại một lần chơi đá bóng bị té ngã
gãy
xương vai, nếu lần này, thi nhảy qua rào, nhảy cao và nhảy dài, lỡ té
ngã,
xương cũ của anh sẽ bị nứt khó chữa lành. Thụy mang nỗi lo sợ ấy, do dự
một
lúc, và rồi không biết chuyện gì đã xui khiến anh rời khỏi sân vận động
ra về.
Trên đường đi, Thụy cố tự nhủ, tuy không có điểm thêm của môn thể dục
mình vẫn
thừa khả năng thi đậu.
Nhưng sự coi thường này, Thụy đã trả
một giá đắt, nặng nề, không chỉ mất một năm học lại mà còn nhìn thấy
tương lai
bấp bênh, còn nữa, một chuyện phải lo thêm giấy tờ xin hoãn dịch. Và,
có một lối
thoát dạo đó Thụy không nghĩ ra, đó là việc đổi tên và làm giấy khai
sinh sụt
tuổi. Chuyện này không khó, vì ba anh chỉ việc ra ngoài quê nói bác anh
là thôn
trưởng làm cho một giấy khai sinh mới, rồi đem trình tòa án tỉnh xác
nhận là
xong, và qua được chuyện này, anh sẽ cảm thấy yên tâm học hành.
Thật tình Thụy không nghĩ ra được cách
giải quyết này là vấn đề quan trọng cho đời mình. Nhưng rồi, Thụy lại
vẫn tiếc
rẻ cho cái bằng Thành Chung mình thi đậu, nhờ nó, anh mới lên tinh thần
và thấy
ham học. Thụy còn nghĩ thêm, với bằng
Thành Chung anh có thể thi Sư phạm cấp tốc, sau một năm ra làm giáo
viên tiểu học,
đồng lương cũng không đến nổi quá kém, thiếu hụt. Rồi, nương cái nghề
giáo làm
chỗ dựa, lần hồi, anh học thêm, trễ tràng lắm từ một đến ba năm anh
cũng lấy
xong được bằng Tú Tài.
Mùa thi ấy đã qua. Những cây phượng
trên các ngả đường trong thành phố, hoa vẫn còn đỏ. Những ngày đợi mùa
thu sắp
về, tâm trạng những người học sinh rộn rã lắm, nhưng Thụy cảm thấy mình
chán nản
gần như tuyệt vọng. Thụy muốn rời xa Huế, đi Sài Gòn. Thụy thèm trở lại
thành
phố này, và nếu được, anh sẽ tìm kiếm một công việc làm có đồng lương
rồi đi học
lớp buổi tối. Thụy ngỏ lời tâm sự với ba anh, nhưng ông im lặng, không
quyết
đoán. Rồi hôm ấy, dì Bích Vân ở Đà Nẵng ra làng quê nhân tiện ghé thăm,
nhân
lúc đó mẹ anh hỏi xin ý kiến dì, được dì bằng lòng chấp thuận.
Dì Bích Vân về thăm quê một tuần mới
trở lại. Rồi, Thụy đi theo dì vào Đà Nẵng, đến nhà dì ở đường Trưng Nữ
Vương. Một
tuần lễ sau, Thụy mới làm đơn xin nhập học trường Sao Mai.
Trường Sao Mai là trường tư thục
công giáo lớn nhất thành phố. Ngôi trường tọa lạc trên một diện tích
đất khá lớn,
các phòng học đều rộng, thoáng đãng, phần đằng sau gồm nhiều dãy nhà
dành cho
các lớp tiểu học và đệ nhất cấp. Nơi phần sau này, còn có sân chơi bóng
chuyền
, vũ cầu, và một trạm phát thanh. Ở phần trước, một tòa nhà lầu ba
tầng, có hội
trường, sân thượng, nơi này, cổng chính nhìn ra công viên của bến Cảng.
Và toàn
thể của tòa nhà được dành cho các lớp đệ nhị cấp.
Trường Sao Mai bậc đệ nhị cấp có đủ
các lớp Đệ Tam, Đệ Nhị và Đệ Nhất. Thụy nhập học trễ, thầy giám thị ghi
tên anh
vào lớp Đệ Nhị B1, đây là lớp vào giờ ngoại ngữ được tách ra, nhập
chung với lớp
của ban A.
Thụy không hay biết , đến buổi sáng
thứ sáu sau hai giờ đầu, vừa nghe chuông báo giờ chơi hơn một nửa lớp
bên anh
đã vội ôm tập rời phòng. Thụy hỏi ra, mới hiểu, và anh đã ngồi lại yên
chỗ để
chờ giờ học môn tiếng Pháp.
Giờ chơi mới bắt đầu. Sự đổi lớp ồn
ào, lộn xộn nhưng Thụy không bị chia trí. Thụy lấy tờ báo Tiếng Chuông
mở ra đọc.
Thụy đọc một truyện ngắn dự thi đăng ở trang tư. Bỗng dưng có sự linh
cảm, anh
ngẩng đầu nhìn ra cửa thấy một cô gái xuất hiện. Hai người cùng ngạc
nhiên,
nhìn thấy anh chú ý, cô gái liền dừng bước. Thụy có ngay một hình ảnh
toàn diện
về cô, trước tiên là dáng người thanh nhã qua chiếc áo dài nâu, mái tóc
xõa xuống
kín vai, sau đó, là vẻ đẹp của một đôi mắt nhỏ như hai vị sao dừng rất
lâu trên
một gương mặt tỏa ra ánh sáng. Lúc ấy, cô gái tỏ ra nghiêm trang, nhưng
mắt cô
vẫn nhìn anh. Thụy thầm nói với cô về sự bối rối, nỗi ngại ngùng của
mình. Ít
giây thôi mà tưởng thật lâu, cô gái dời bước rẽ lối trái, đến dãy bàn
thứ nhì,
xong cô đặt chiếc cặp xuống. Sau đó, Thụy không còn nghe rõ gì nữa
tiếng cô nói
với một người bạn ngồi cạnh bên cô.
Thụy đang bâng khuâng, cố gắng trở lại
sự bình thường. Thụy lại cúi xuống đọc báo, đến đoạn gần cuối truyện
lúc đoàn
tàu vừa chuyển bánh rời ga thì hồi chuông báo hết giờ ra chơi vang lên.
Thầy giáo vào lớp, đặt chiếc cặp da
lên bàn. Thụy nhìn người thầy, hỏi nhỏ anh bạn, được biết là thầy
Huynh. Vị thầy
có mái tóc muối tiêu, chải rẽ gọn gàng. Trên gương mặt sạm đen, hằn
đọng nhiều
dấu vết suy tư, và cặp mắt nhỏ của thầy ẩn bên trong chiếc kính trắng
lớn.
Hôm nay, chúng ta học bài mới. Thầy
Huynh nói xong, mở rộng cuốn sách bìa xanh của tác giả Mauger, giới
thiệu một
đoạn trích giảng văn rút từ trong tiểu thuyết Courrier Sud của nhà văn
Pháp,
Antoine de Saint Exupéry.
Phòng học của lớp khá rộng, có một bức
tranh và chiếc đồng hồ treo tường. Từ phía những cửa sổ bên trái, không
cần phải
đứng lên, ngồi ở bàn phía ngoài có thể trông thấy rõ hết quang cảnh
đường phố,
khu công viên và mọi sinh hoạt trên bến Cảng.
Thầy Huynh đứng trên bục giảng đọc
đoạn văn, tiếng đọc chậm, lời nghe du dương, cảm khái. Vừa đọc, thầy
vừa dùng động
tác bằng tay lúc đưa ra, lúc kéo vào để biểu thị những sắc nét hùng hồn
hay êm
ái của đoạn văn. Và chừng sau mười lăm phút, thầy đọc xong.
Trước khi giảng, thầy nói qua về tiểu
sử tác giả. Saint Exupéry là một nhà văn phi công. Bước vào nghiệp bay,
ông làm
phi công chở thư cho những chuyến bay đường dài, tới các xứ vùng Nam
Mỹ. Có chiến
tranh, ông nhập ngũ, là Đại úy phục vụ ở một phi đoàn tác chiến. Trong
thế chiến
thứ nhì, ông bay loại phi cơ thám thính,
trước năm cuộc đại chiến kết thúc, ông bị mất tích trong một phi vụ
tình báo
trên vùng lãnh thổ nước Đức chiếm đóng. Có tin là ông bị địch bắn hạ,
nhưng
cũng có tin máy bay của ông bị hỏng máy rơi xuống biển. Người ta chỉ
ghi nhận
là ông bị mất tích, do máy bay lâm nạn.
Ngoài nghiệp bay mà ông gắn bó, ông
còn là một tiểu thuyết gia nổi tiếng. Những tác phẩm quan trọng của ông
gồm có:
Bay đêm (Vol de nuit), Chuyến thư miền Nam (Courrier Sud), Terre des
homes (Cõi
người ta) Pilote de guerre (Phi công thời chiến) Citadelle (Thành Trì)
Le petit
prince (Cậu hoàng con)
Người thầy đã nói về cuộc đời một
nhà văn phi công bằng một giọng thật cảm khái, hùng hồn. Riêng Thụy,
anh cũng
đã có một lần ước nguyện được trở thành phi công. Năm học vừa qua, nếu
Thụy lấy
được bằng Tú Tài I, anh cũng rất muốn tính chuyện gia nhập vào Không
quân đi
theo ngành phi hành. Nhưng, ước mơ này
đã vuột khỏi tầm tay, rồi nó cũng không còn làm anh mong đợi nữa. Nhà
văn Saint
Exupéry cũng làm anh nhớ đến một tác giả khác nữa, nhà văn Toàn Phong
với cuốn
truyện Đời Phi Công. Đây là một tập tiểu
thuyết gói ghém những lá thư bốn phương trời của một chàng
sinh viên nước Việt gởi về cho một cô em gái
nơi quê nhà. Cô gái, tên Phượng, tên của một loài chim hiếm quý. Thụy
đã đọc
xong cuốn sách này trong một ngày chủ nhật trên căn gác. Đọc xong, anh
thật mến
yêu và cảm động về tình đất nước của chàng trai. Còn với cô Phượng,
không chỉ
bao nhiêu hương sắc và nét đẹp của cô dành cho chàng trai thôi, mà có
cả mình
trong đó nữa. Rồi như đâu, một lần ấy tương tư, cô hỏi Thụy, bạn đã tìm
thấy được
ai là Phượng ngoài đời chưa. Thụy khẽ lắc đầu, chợt mỉm cười nghĩ đến
một lứa
đôi hạnh phúc đó là chàng trai của tác giả và cô gái đây thôi. Từ dạo
đó, Thụy
thích đọc nhiều tiểu thuyết. Khi một nhân vật nữ xuất hiện cho mình một
tình cảm
rung động, anh thường hay đem hình ảnh đó trong tiểu thuyết ra hiện
diện trước
cuộc đời. Nhà văn Nhất Linh viết cuốn Đôi Bạn thật là hay. Những chiếc
lá bàng
lay động, phất phơ trong ký ức của một người Hà Nội đang nhớ nghĩ về
thành phố
xưa của mình. Thụy rất thật lòng đối với cô Loan. Thụy cũng đã biết
Dũng Nhất
Linh rất yêu cô. Khi xa cô, Dũng chỉ gói ghém một mình cô trong tấm
lòng áo trắng.
Nhà văn Nhất Linh luôn gắn bó cuộc đời mình với những nhân vật ông đã
sáng tạo
ra tiểu thuyết. Thụy còn thích một cuốn truyện khác nữa của ông, đó là
Bướm trắng.
Khi đọc xong cuốn truyện, không một chút ngại ngần Thụy nói ngay với
tác giả rằng,
anh đã yêu cô Thu. Nhất Linh suy nghĩ, đôi mắt đen sâu, ông ngồi im như
pho tượng.
Ôi, cô ấy thật tuyệt vời. Nhìn cô trong dáng vẻ một thiếu nữ mặc áo xô
tang, thật
là đẹp buồn rất não nùng. Rồi lúc được gần bên nhau, cô để cho Thụy say
đắm
nhìn cô, và rất tự nhiên cô ngồi nghe anh nói những lời tỏ tình.
Tiếng giảng bài của thầy Huynh chậm
đều, rất rõ, và lôi cuốn từ mỗi tác động hai bàn tay và trên đôi mắt.
Tiếng
Pháp thầy đọc, vang âm như nước dòng suối. Thụy vừa lắng nghe những lời
giảng
bài của thầy, nhưng vẫn chưa muốn rời khỏi tên các cô gái Geneviève,
Phượng,
Loan, Thu, là những bóng hình rất đáng yêu trong tâm tưởng.
Trên tấm bảng sơn xanh, người thầy
khởi sự viết những dòng đầu tiên của đoạn văn trích giảng. Cả lớp yên
lặng, ghi
chép. Đoạn văn khá dài, dòng cuối kết thúc là lúc phi cơ cất cánh rời
khỏi phi
trường.
Với dáng người cao, bước đi trầm lặng,
cái bóng áo trắng của người thầy qua lại trong lúc học sinh chép bài.
Không đợi lâu, người thầy khởi sự
ngay bài giảng, lúc này, phần chính yếu về văn phạm, rồi nghĩa chữ khó
và các
thành ngữ. Hết giờ đầu, có tiếng chuông ngắn đổi giờ, nhưng lớp học vẫn
tiếp tục
buổi học. Khi kết thúc xong bài giảng, thầy cho cả lớp mười phút chuẩn
bị phần
bài dịch. Rồi, lần lượt thầy gọi một vài học sinh đứng lên dịch từng
đoạn ngắn.
Mỗi khi thầy gọi người nào, Thụy đều chú ý, lắng nghe tên. Bỗng nhiên,
Thụy thấy
tim mình đập mạnh lúc thầy gọi tên cô gái. Hướng mắt nhìn về cô, anh
chờ đợi
trong cảm giác nôn nao. Cô cất tiếng đọc đoạn văn, rồi bắt đầu dịch.
Thụy nghe
được tiếng cô rất trong trẻo, và đoạn dịch văn thật suông sẻ. Thụy cũng
thấy thầy
Huynh lắng tai chú ý nghe những lời dịch của cô. Thầy gật đầu nhẹ, lúc
cô vừa dịch
xong, thầy quay về phía bảng gạch bên dưới những thành ngữ và giải
thích thêm một
số nghĩa mới.
Từ bên này, mắt Thụy không rời bóng
dáng cô. Thụy tự nhiên cảm thấy vui trong lòng. Và thực sự, anh yêu mến
cô gái
rất nhiều với những hình ảnh đầu tiên của cô mà anh đang cố tìm cách
lưu giữ.
Vì rằng, cô đã xâm chiếm hồn anh bằng màu nâu nhạt của chiếc áo dài, bằng đôi mắt nhỏ bé, bằng tất cả sự duyên
dáng của bước đi qua mái tóc mượt mà kín xõa hết xuống hai vai. Bao
nhiêu nét ấy,
còn gợi ra cho anh mường tưởng một bức tranh vẽ chân dung rộng lớn, nó
mang ấn
tượng về cuộc đời bằng một sự trầm lặng, xưa cũ. Nhìn thật lâu, bạn sẽ
còn thấy
ở cô thêm nhiều nét lạ lùng , nổi bật là một khuôn mặt dịu dàng tỏa
sáng, rồi
trong cặp mắt nhỏ đẹp như hai vị sao những nụ cười xanh lấm tấm tưởng
đấy là tiếng
chân chim vui đang nhảy nhót . Sự yêu thương
dành cho cô gái biết bao nhiêu mới đủ, khi mà cô
thực sự mong rằng, luôn
luôn cô là nỗi nhớ trong lòng của bạn và tôi. Nỗi nhớ , không chỉ
thoáng trong
một phút, một giây, hoặc một ngày giờ gần như đáng kể, mà đấy là cả
tháng năm
ưu phiền, mỏi mệt, suốt đời như con nước trầm lặng chảy theo dòng sông.
Thời gian còn chừng mười lăm phút nữa,
tan buổi học. Thầy Huynh có một vài câu chuyện nói với cả lớp. Thụy
nghe, nhưng
không thể rời mắt khỏi cô gái, và rồi cô bắt gặp cái nhìn của anh. Hiểu
được
lòng anh nên cô đã nguyên vẹn cả một gương mặt cho anh
có được một sự yêu thương hết đời mình.
Bất chợt, thầy Huynh gọi Thụy đứng dậy.
Cả lớp nhìn anh, và có đôi mắt cô gái nữa.
-Em là học
sinh mới ?
-Dạ.
-Em tên gì ?
-Em tên Thụy.
-Trước đây,
em học ở đâu ?
-Dạ, ở Quảng
Trị.
-Gia đình em
từ ngoài đó, vào trong này ?
-Dạ, không.
Em vào đây một mình.
Thụy bắt đầu ái ngại, không dám nhìn
đâu cả. Thầy Huynh nói:
-Tôi có một
thời gian dạy học ngoài đó.
Thụy đứng im. Lúc này, lòng anh dịu
lại và được đón nhận từ đôi mắt cô gái nhìn sang , vừa giữ ý. Một giọng
thân
tình, thầy Huynh nói với lớp học về những kỷ niệm trong năm đất nước
mới chia
đôi, và ngôi trường đầu tiên thầy dạy học ở tỉnh Quảng Trị.
Hồi chuông reo lên, kéo dài đã cắt
đứt hết câu chuyện và những kỷ niệm thân thiết
của thầy đối với tỉnh Quảng Trị, nơi ấy là quê hương của Thụy. Sau này,
anh ít
khi trở về thăm lại chốn cũ.
Thầy Huynh vừa khuất dạng, cả lớp ồn
dậy lên tiếng cười nói, đùa nghịch vang vọng ra bên ngoài. Nhưng một
mình Thụy
vẫn yên lặng, anh bước nhanh xuống cầu thang, đến hội trường rẽ trái,
rồi đi ra
cổng chính. Và, chỉ dừng trên vỉa hè một phút rồi băng qua đường, anh
đứng lại
dưới bóng cây im nắng trong khu công viên rộng rãi, mát mẻ, rải rác
trên các ghế
đá có người ngồi nghỉ chân, chuyện trò. Phía ngoài con sông mặt nước
mênh mông,
tràn ngập nắng, và đây là bến cảng trong thành phố. Có nhiều tàu lớn
nhỏ đang
neo đậu và rất đông thủy thủ đứng trên boong tàu.
Trưa, nắng bắt đầu gắt. Từ nơi này,
Thụy có được cái nhìn bao quát các con
đường mà học sinh đi ra phía cổng sau hay cổng trước đều trông thấy.
Thụy mong
tìm được cảm giác nhẹ nhõm, buông thả hết những mơ mộng về tình yêu gởi
nàng.
Thụy đã có hai năm học ở Đà Lạt, thành phố ấy là ánh nắng hồng của mùa
hoa anh
đào. Cũng ở đó, những ngày mưa, buồn rất da diết. Thụy đến nơi thành
phố ấy để
đi học, rồi có cơ duyên, anh khởi sự viết câu chuyện tình của mình và
một cô bạn
gái cùng trường. Nhưng mà thôi, đừng có chia trí, lan man, hãy ngóng
đợi một hạnh
phúc đẹp sắp mang đến cho đời anh.
Bây giờ học sinh đang dồn ra đông.
Trên cặp mắt, Thụy chỉ ngóng tìm một bóng dáng áo nâu. Buổi học chung
hai giờ
cuối để lại trong lòng anh hình ảnh cô gái, vừa xa lạ, nhưng cũng thân
thiết vô
cùng. Bỗng nhiên, anh chợt buồn khi nghĩ đến số phận mình. Nhưng thôi,
nàng
cũng đã biết tên anh, vậy anh hãy cố thu hết sự can đảm nghĩ về một
tình yêu có
nàng, rồi một ngày của bao nhiêu năm sau, hai người trở thành bạn đời.
Cơn gió hất nhẹ thân chiếc áo dài
nâu bay lên. Từ cổng trước đi ra, bên cạnh nàng
có ba cô bạn nữa, hai cô mặc áo trắng, một cô mặc áo
màu lam. Bốn thiếu
nữ thong thả bước. Nàng đi phía ngoài, lúc này, Thụy để mắt theo dõi
bóng nàng,
lòng vừa nôn nao sợ, vừa thầm mong nàng bắt gặp mình đang đứng đợi chờ.
Tới ngã
ba bốn cô cùng dừng bước, rồi ít phút
sau chia tay. Lòng Thụy thực sự vui khi thấy bóng chiếc áo nâu về một
mình. Thụy
bỗng muốn cất tiếng gọi Thúy Hà hoặc liều lĩnh chạy về phía nàng trong
cảm tưởng
như mình là một cậu bé đang xúc động được gặp lại người chị đã xa cách
lâu
ngày.
Bên đây con đường, yên lặng Thụy bước
theo. Thụy nghĩ nàng đi bộ chắc nhà ở gần trường. Thụy hẳn còn ghi nhớ
đôi mắt
ngạc nhiên của nàng khi nhìn thấy anh là học sinh mới, hôm nay mới là
buổi đầu
tiên biết nàng. Ở đây cũng như nhiều tỉnh khác, các trường học khai giảng đã qua hai, hoặc ba tuần nay. Thụy
xin nhập trường cũng như vào lớp muộn, vì nỗi buồn hỏng thi của anh
trong mùa
hè qua vẫn chưa khỏa lấp nổi. Thụy đành học lại một năm để thi, và thay
vì, chọn
trường ngoài Huế anh lẩn vào đây và được ở trọ nhà dì Vân , chị em họ
với mẹ
anh.
Khi tới căn nhà sơn cửa xanh, đây vừa
là cửa hiệu bán nước hoa nàng đi vào. Thụy chợt dừng bước, không đi
nữa. Qua khỏi
bức màn sáo, nàng khuất dạng. Nỗi buồn làm nóng ấm trên cặp mắt, Thụy
nhìn con
đường Độc Lập trải dài qua những hàng cây bên đường. Thụy vẫn đứng yên
chỗ,
nhìn lại căn nhà của nàng bên kia có những cánh cửa sơn xanh, bức màn
sáo nhiều
màu, trong tủ kính những chai nước hoa lớn nhỏ sắp thành hàng, sau đó
khi thấy
một bóng người đi lên căn gác làm anh mường tưởng không biết bao nhiêu
kỷ niệm
quyến luyến về sau này, nếu rồi đây anh sẽ được quen biết nàng.
Sau một hồi còi ngắn, con tàu tách bến.
Gió ngoài sông lùa qua mặt nước, tràn
vào những con đường trên khu phố một thứ hương vị muối ngây ngất, mát
mẻ.
Khi buổi trưa đã bắt đầu xuống thật
yên tĩnh, Thụy mới theo cái bóng đơn độc
của mình về nhà. Sự cô đơn khiến anh
nghĩ ngợi nhiều. Thụy chợt cảm thấy
nỗi đau nhức chuyện hỏng thi chỉ vì thiếu một điểm.
Thụy đâm ra giận
mình, sao mà buổi sáng đó không chịu khó ở lại thi thể dục, nếu mà anh
có thi
thì một điểm thiếu của anh sẽ được đền bù thật may mắn. Nhưng không, số
phận
xui khiến anh không dự thi thể dục buổi sáng đó. Hôm ấy vì lo ngại cánh
tay
trái đã một lần nhảy cao bị té gãy nên anh bỏ cuộc thi trở về nhà,
nhưng rồi chẳng
biết đi đâu, sau đó nghĩ lại anh đâm ra hối tiếc, lo lắng.
Hình như, Thụy vừa linh cảm bóng
dáng chiếc áo nâu chợt thoáng hiện. Anh
lại nhớ, vừa cố gợi ra sự dịu dàng, bao dung đầy thương yêu trên cặp
mắt nhỏ bé
của nàng. Ngày xưa ấy, nơi tận chân trời quê cũ
anh đã trông thấy buổi chiều in bóng áo
nâu của mẹ anh trên con đường đê khi về tới đầu
làng. Anh đứng trước cổng
nhà bà ngoại chăm chú nhìn cái bóng dáng xa gần lay động
hình ảnh mẹ anh. Và, lòng thương dào dạt xiết bao nhiêu khi nhìn thấy chiếc đòn gánh trên
vai người mẹ trĩu nặng xuống, anh muốn mình chạy, muốn mình bay tới
phía con đê
để được đón mẹ về, và lúc gặp mẹ câu hỏi trước tiên là quà bánh mẹ mua
có nhiều
không ?...như thế đó, giấc mơ nghĩ đến mẹ trên cánh đồng ruộng ở vùng
quê giờ đây đã cho anh được nhớ thương một
cô
gái, được trông thấy cô mà liên tưởng đến hình ảnh một người mẹ lúc còn
trẻ.
Chiếc đòn gánh nặng trĩu xuống vai, vì mẹ anh mua nhiều hàng trên chợ
tỉnh. Gió
chiều thổi qua đồng ruộng, qua con sông, thời xưa ấy thật là yên bình.
Bỗng
dưng, Thụy nghe ra một giọng nhỏ nhẻ với tiếng mừng vui, cô gái bảo anh
cứ rán
chút nữa, đã sắp về gần tới nhà rồi.
Mùa hè năm ấy, lần đầu tiên Thụy đi
xa khỏi tỉnh Quảng Trị. Thụy đi với
Huân, bạn thân học cùng lớp và ở cùng xóm quanh khu vực nhà ga. Nhà gần ngay ga, nhưng đôi bạn thiếu niên thích đi
bằng
xe đò khởi hành lúc trưa, tới Huế đầu buổi
chiều. Tại bến ở đây, hai đứa mới mua vé xe suốt . Thụy vào tới Nha
Trang, còn
Huân sẽ xuống quận Ninh Hòa.
Sau hai giờ đợi, lúc số
ghế bán hết xe ca mới
khởi hành. Huế-Đà Nẵng cách nhau khoảng 100 cây số, xe chạy nhanh,
nhưng lên tới
đỉnh đèo Hải Vân phải ngừng chờ nửa giờ để chuẩn bị đổ đèo. Tới Đà
Nẵng, xe vào
đậu bến chính và lúc đó trời đã bắt đầu tối. Xe vừa ngừng, trước khi
hành khách
xuống tìm quán ăn, quán giải khát, cả
người chủ xe và tài xế cùng loan báo cho mọi người biết là vì đường mất
an ninh
nên ở lại tối, sáng mai xe sẽ rời bến sớm.
Nhân dịp này, Thụy và Huân rủ nhau dạo phố.
Từ bến xe đi bộ, mỗi
quãng lại hỏi đường vào
phố chính. Rồi hai đứa dừng bước bên một
ngã tư , mắt vui lên vì được
nhìn thấy dãy phố nào cũng trưng đèn sáng,
các cửa hiệu buôn và tiệm ăn đều mở cửa đông người ra vào. Trên vỉa hè,
tiếng
giày, tiếng guốc khua dậy, và tiếng nói những người đi qua lại nghe
cũng hơi lạ
lùng.
Thụy và Huân rảo loanh
quanh một vòng xong ghé
vào tiệm cơm, mỗi đứa gọi một dĩa cơm gà, một chai bia 33 khổ lớn rót
đầy hai
ly. Ở trong một thành phố lạ, cùng với chuyến đi xa lần đầu hai bạn nhỏ trò chuyện với nhau một cách
thích thú như người lớn. Quảng Trị, tỉnh nhỏ bé thân thương giờ đây hãy
để
quên, hãy cho mỗi đứa trẻ một chút ước ao về chuyến ra đi, về một ngày
mai đẹp
của thời niên thiếu ắp đầy cả giấc mộng
phiêu lưu.
Sau bữa ăn hai đứa góp
chung tiền trả, rồi tiếp tục dạo phố và
lúc trông thấy có tiệm bi da vắng khách, cả hai vào đánh chơi ba cơ vừa
đúng một
giờ. Thụy đánh thắng Huân cơ chung kết,
hơn cách biệt bốn điểm, tuy vậy lúc trả tiền lại cùng góp chung.
Trời đêm mát dịu nên
đôi bạn còn đi chơi. Khi qua rạp
hát Tân Tân , Thụy rủ Huân ghé vào xem biển quảng cáo, xong mua vé để
coi cuốn
phim Le bal des maudits . Rạp hát rộng rãi, đông khán giả. Hai bạn ngồi
dãy ghế
giữa hạng nhì, vừa tầm mắt. Niềm vui dậy dàng lên từ lúc buổi sáng sớm
với chuyến
đi xa, giờ được nghe vang âm qua giọng nói của mình. Cả Huân nữa, nó
cũng mang
niềm hãnh diện như Thụy. Ngày nào đó trở về, mỗi đứa sẽ kể lại bao
nhiêu kỷ niệm
vui thích trong chuyến đi này cho bạn bè nghe.
Ánh đèn chìm tắt, một điệu nhạc trỗi
lên dìu dặt và khi nghe âm điệu vang ngân, trải dài Thụy chợt thoáng
nghĩ đến một
dòng sông đang trôi chảy miên man.
Le bal des
maudits, tên cuốn phim chạy hàng chữ lớn
rồi dừng lại ít giây trên màn ảnh rộng.
Sau đó, lúc tiếng nhạc nhỏ dần, mắt Thụy chú ý đọc tên các tài tử đóng
phim.
Vào phim, nhạc đệm cùng những tiếng
động nghe dồn dập. Khi đoàn xe quân đội
Đức Quốc Xã dừng lại giữa con đường đèo bên trên là cánh
rừng, một viên Sĩ quan rời ghế bước xuống,
gương mặt trẻ trung của tài tử Marlon Brando gây cho Thụy một ấn tượng
khó quên.
Nơi ánh mắt, gương mặt và những nếp nhăn trên vầng trán anh ta như muốn
biểu lộ
một sự phi lý về chiến tranh. Ngay sau đó, có tiếng súng đạn nổ, những
tốp
lính Đức cao lớn, nhanh nhẹn nhảy ào ra
khỏi xe chạy băng vào khu rừng thực hiện
cuộc truy lùng, càn quét địch quân. Bỗng dưng, trong rạp hát mọi người
cùng lo
sợ, nín lặng theo dõi từng bước chân rình rập, từng gót giày đe dọa của
chiến
tranh.
Khoảng nửa giờ sau, Thụy mới nhận ra
một cách lờ mờ về ý nghĩa cuộc chiến, nhưng có rất nhiều cảnh tượng
mang những
suy tưởng triết lý anh đã không hiểu mấy. Chỉ còn hình ảnh Hope Lange,
nữ tài tử
trẻ đẹp là muốn dành riêng cho anh một kỷ niệm thân thiết, hay đó là
nỗi nhớ tưởng
, tựa giấc mơ. Thụy bị rung động bởi tiếng
nói của nàng với người yêu, và trong lặng yên cùng với bóng đêm trên
đường phố
mắt anh cứ nhìn theo đôi tình nhân đang
chậm bước bên nhau lúc đến quảng trường có xe buýt đậu, họ mới rời nhau.
Sau cùng, mọi người chợt
nghe hai tiếng súng nổ,
Marlon Brando, viên Sĩ quan kiêu dũng xuất hiện khi cuốn phim vừa mới
bắt đầu,
giờ anh ta bị trúng đạn do hai người lính Mỹ nhắm bắn, cái chết của anh
trong
tuyệt vọng, nhưng mà đẹp, vì khi ngã gục anh được ôm ấp lấy bờ đất, lấy
cát và
sỏi đá bên dòng suối. Thế rồi, chiến tranh kết thúc với tiếng chim hót
ca bên rừng.
Và, người lính Mỹ đi chinh chiến được trở về, nguyên vẹn trở về hạnh
phúc bên
người yêu.
Cuốn phim dài đến hai
tiếng đồng hồ . Khi ra khỏi rạp hát, đường
phố về đêm khuya vắng vẻ, Thụy và người bạn có vẻ lạc lõng, ngơ ngác.
Thụy còn
cảm thấy nỗi buồn vẫn đọng lại, không muốn loãng tan. Và, anh cũng đang gom góp
những hình ảnh còn nhớ trong vài đoạn phim, đó là
gương mặt của cô gái,
đó là vẻ cuồng si của người thiếu phụ
khi yêu người bạn của chồng mình. Hai bạn lẳng lặng đi bên nhau với
bóng đêm của
mình tợ như trong cảnh phim. Vào lúc này, thành phố lạ bỗng làm Thụy
nghĩ rằng
cũng sẽ có một cuộc chiến tranh đe dọa
tuổi trẻ , thảng hoặc sẽ báo trước một điều gì đó về sau này, nhưng
rồi, anh chỉ
đơn giản nghĩ rằng cuốn phim đã xem là sự ghi nhớ một kỷ niệm cho buổi
đầu của
thời niên thiếu. Không biết, bạn anh
nghĩ gì ?, một chuyến xe sẽ khởi hành sáng sớm mai,
hay niềm ước ao nơi
Huân chỉ mong gặp lại chị Duyên là người thân duy nhất kể từ ngày hai
chị em rời
bỏ miền Bắc di cư vào Nam.
Ba giờ sáng, xe lên đường. Hành
khách còn dật dờ, thấp thỏm nhưng rồi khi xe chạy họ lại ngủ tiếp.
Trong lúc
Huân ngủ say, Thụy ngồi ghế ngoài mắt chăm chú soi rọi qua bóng đêm để
nhìn
quang cảnh dọc quốc lộ I . Từng đoạn đường xe lướt qua, cảnh vật đều
cho anh một
cảm giác mới lạ, nao nức với chuyến đi của
mình, và đến mỗi nơi xe ngừng anh cũng có ý nghĩ đây cũng là một chốn
quê hương
thân thiết giữa cuộc đời.
Xe đò chạy rất mau trên
đường còn vắng, chốc
chốc ánh đèn lóa sáng mở một tầm nhìn xa, rồi thu ngắn lại, và lúc này
ngoài
tài xế cùng lơ xe ra, có thêm Thụy nữa là không ngủ. Mỗi thứ sắc màu
nổi chìm
nơi những chớp sáng, Thụy đều thu nhận hết. Xe qua thị xã Tam Kỳ trời
còn mờ, đến Quãng Ngãi
mới sáng hẳn. Tới đây, tài xế dừng xe ở trạm
xăng đầu thị xã cho hành khách nghỉ mệt để rửa mặt, ăn điểm tâm. Thụy
và Huân
lúc xuống đi đến ngay chỗ xe bán bánh mì
mua mỗi đứa một ổ. Ăn xong còn thèm, hai đứa mua thêm một ổ cưa đôi, ăn
vừa no
bụng.
Xe ngừng trong nửa tiếng. Sau khi
hành khách lên đủ, tài xế cho xe lăn bánh và lúc ra khỏi thị xã là
phóng nhanh
tốc độ, vun vút lao đi đến Qui Nhơn gần
trưa. Không vào thành phố, xe ngừng trước một quán ăn bên ngã ba Diêu
Trì. Hành
khách lục tục xuống xe tìm chỗ tiểu tiện, rửa mặt, rồi cũng lo chuyện
ăn uống
cho xong bữa để tiếp tục lên đường. Thụy và Huân không thấy đói nên hai
đứa chỉ
mua nước uống, ngồi chơi dưới bóng cây trò chuyện với nhau.
Bỗng dưng, từ nơi xa này
Thụy đâm ra nhớ nhà,
hình ảnh ba mẹ và các em cùng hiện lên một lúc trước mắt
khiến cho lòng anh chợt vui lên nhưng rồi sau
đó cảm thấy buồn trở lại.
Đầu năm 48, khi trở về vùng quốc gia
ba anh lên dạy ở Cam Lộ. Một năm sau, ông được thuyên chuyển về thị xã
Đông Hà.
Đông Hà nằm bên cạnh ngã ba đường số 1 và số 9. Ở đây, thị xã vừa mới
xây dựng,
không khí nhộn nhịp trong công việc làm ăn, buôn bán.
Nhà ga xe lửa và phi trường quân sự
nằm về phía Tây, còn phía Đông là sông Hiếu Giang. Quê làng mẹ Thụy ở
Xuân
Thành, ngôi làng này nằm giữa đoạn sông Hiếu Giang. Từ quê mẹ anh đến
biển Cửa
Việt xa chừng ba cây số đường sông.
Khi gia đình anh rời khỏi Cam Lộ dọn
về Đông Hà, cuộc sống ổn định và trở nên
khá giả nhờ vào công việc buôn bán hàng vải của mẹ . Nhưng rồi, hình
ảnh thị xã
mới xây dựng xong, thời gian giúp cho công việc làm ăn của người dân
cũng chỉ đến
trong vài năm sung túc. Giữa mùa hè 1953, một trận lửa cháy kinh hoàng
đã thiêu
rụi thị xã Đông Hà đốt tất cả nhà cửa
hàng trăm gia đình thành tro than. Trước cảnh tượng này, người dân
trong thị xã
cũng như gia đình anh thực sự sống
trong cơn ác mộng .Về sau, lớn lên cùng với sự hiểu biết,
hình ảnh trận cháy ở Moscou trong tiểu thuyết
lịch sử Chiến Tranh và Hòa Bình và trận cháy lửa rực trời ở Rome trong
cuốn
phim Quo Vadis làm Thụy nhớ lại hết tuổi
thơ của mình và hình ảnh những người thân thuộc
trong gia đình đứng chết lặng
trên bờ sông, những cặp
mắt đau đớn
của biết bao nhiêu người dân nhìn vào
khu trung tâm thị xã đang ngùn ngụt cháy
trong biển lửa.
Vậy mà chưa hết, trận hỏa họan chưa
hoàn hồn thì ba anh lại có giấy thuyên chuyển đến nhiệm sở khác trong
tỉnh Quảng
Trị. Một lần nữa, gia đình anh lại dọn đi.
Thụy đã được 9 tuổi, mới học xong lớp
Nhì. Buổi sáng ấy, có một chiếc xe hàng ngừng đậu trước mặt nhà Thụy.
Từ mái
hiên, anh em Thụy đứng nhìn chiếc xe sơn màu xanh biển lấy làm vui vì
sắp được
lên xe đi. Người tài xế xuống xe đi vào nhà anh qua lối cửa hông. Trong
nhà, có
ba mẹ , cậu mợ Tuyên và người phụ giúp khuân vác đang uống trà nói
chuyện.
Một lúc sau, người tài xế trở ra xe.
Ông ta nhanh nhẹn nhảy lên trần , đứng trên đó tay mở các cuộn dây
thừng để cột
đồ đạc và hành lý. Từ trong nhà, đồ đạc di chuyển chuẩn bị xong tối
qua, lúc
này lần lượt đưa lên xe.
Buổi sáng sinh họat trong khu phố và
khu chợ trước nhà anh đã bắt đầu ồn ào như mọi ngày. Khi thấy gia đình
Thụy dọn
đi, bên kia đường có nhiều người đứng
trông sang, chăm chú với vẻ mặt yên lặng. Ở đây, rất
nhiều người kính mến
ba anh, vì ông là thầy giáo dạy học, và cả thị xã chỉ có mỗi một trường
tiểu học
duy nhất ở gần nhà ga.
Người tài xế bước lui tới trên trần
xe với cuộn dây thừng to dùng cột hàng hóa. Ông ta sắp xếp gọn gàng,
sau khi chất
đồ đạc xong, ông phủ trùm một tấm bạt rồi kéo hai vòng dây ở hai đầu
móc trần
xe.
Nắng sáng lên làm rạng rỡ cả khu phố.
Tiếng chuyện trò, cảnh tiễn đưa bỗng rơi vào yên lặng. Thụy nghe tiếng nói thật trầm của cậu Tuyên với ba anh,
còn mợ Tuyên nắm tay mẹ anh.
Anh em Thụy bước lên xe với mấy cái
túi nhỏ. Mẹ , chị Lài ngồi sau với anh
và mấy em , còn ba anh lên ghế trước với tài xế.
Khi xe lăn bánh, anh em Thụy cười
nhìn nhau. Chỉ có hai người trong lòng đang buồn bã đó là chị Lài và mẹ
. Nhưng
rồi bỗng chốc, Thụy có cảm giác mình sắp sửa khóc. Về sau này, hình ảnh
thị xã
Đông Hà anh giữ lại trong ký ức như là một cuộn phim.
Quảng Trị nằm về phía Nam, cách Đông
Hà bằng đọan đường mười hai cây số từ tỉnh lỵ đến quê nội của
Thụy.Thành phố
này đẹp hơn, có nhiều nhà ở, nhiều con đường im bóng mát, thơ mộng nhất
là con
đường ven theo dòng sông hai bên có trồng
những hàng cây phượng, cây bồ đề, cây sao nối nhau
đến khu Cổ Thành Đinh
Công Tráng.
Nhà Thụy ở nằm bên dưới ga đối diện
với tháp nước, nơi chỗ đó những chuyến tàu đi hay về cũng đều ngừng lại
trong
mười phút để lấy nước trước khi tiếp tục cuộc hành trình. Vì quanh chốn
này còn
là vùng đất hoang , tràn đầy cỏ mọc nên nhà ở của gia đình anh mới có
được một
diện tích đất khá rộng rãi, phía trước nhìn ra con đường từ cổng ga đổ
về phố
Trần Hưng Đạo, phía sau là vườn trồng cải, trồng hoa, cây lưu niên và
đào hồ
nuôi cá. Bên dãy nhà phụ, một mái hiên lợp tôn rộng mẹ anh mở quán hàng
hàng
ăn, buổi sáng bán bún, cháo, trưa chiều là cơm.
Nhà ga gần trại lính,
mỗi ngày có đến bốn chuyến
tàu ghé dừng nên quán hàng mẹ anh mở luôn có khách vào ăn uống. Năm
1954, đồng
bào miền Bắc di cư vào Nam khi hiệp định Genève ký kết. Khởi sự từ năm
này, dân
số trong tỉnh tăng lên và kế hoạch định cư được mở rộng ra các vùng
ngọai ô. Với
đồng lương giáo viên tiểu học của ba anh, công việc bán quán của mẹ
anh, lợi tức
hàng tháng góp lại cũng ổn định, bình yên cho cuộc sống gia đình. Ngoài
những
buổi học ở trường, Thụy còn phụ giúp mẹ trong việc chạy bàn mang bữa
ăn, thức uống
phục vụ cho khách.
Vì học kém và chậm, đến năm 1956, Thụy
mới vô được trường công lập trung học.
Nhưng Thụy chỉ lên lớp sau năm đầu Đệ Thất, đến hết
năm Đệ Lục anh không
đủ điểm trong hai kỳ thi lục cá nguyệt phải ở lại, và trong năm học mới
này anh
và Huân quen nhau, trở thành bạn thân và cả hai mới cùng đi xa trong
mùa hè
này.
Bỗng Thụy lên tiếng hỏi Huân:
-Mày ở với
bà chị bao lâu ?
Huân chợt cười bảo Thụy:
-Sao mày hỏi
ngớ ngẩn. Tao đi với mày, đến hết kỳ nghỉ hè thì về.
Thụy ngập ngừng một chút, rồi nói:
-Tao nghĩ
mày ở không lâu, ra lại sớm nên mới hỏi.
Hiểu được ý Thụy, Huân nói:
-Bác có nhờ
tao khi nào về, thì đón mày.
-Nhớ nghe,
không có mày tao phải đi một mình không có ai quen.
Hết giờ nghỉ, tài xế gọi hành khách
lên xe đi. Từ đây, tài xế bắt đầu mở
radio có chương trình nhạc vui cho hành khách nghe. Hai bạn nhỏ vẫn
luôn cảm thấy
nao nức với chuyến đi đường trường. Trong phút im lặng, hẳn Huân sẽ
nghĩ đến
căn nhà của chị Duyên nó cũng có đứa cháu nay lên bốn tuổi rồi, còn
Thụy thành
phố biển Nha Trang đẹp như thế nào, lớn như thế nào, anh đang hình dung
vừa tưởng
tượng nhìn thấy từng khung cảnh hiện ra trước mắt.
Bất chợt, tiếng thằng lơ xe ở đằng
sau hỏi vọng hành khách.
-Ninh Hòa
đây, có ai xuống không ?
Huân giật mình, tôi liền hỏi:
-Có xuống
đây không ?
Huân ngần ngừ, rồi đáp nhanh:
-Thôi, tao
đi Nha Trang với mày. Bác đã nhờ, tao đưa mày đến nơi đến chốn.
Thụy cảm thấy tin tưởng khi có người
bạn bên mình. Xe tới Nha Trang đầu buổi chiều. Bến xe nằm trong thành
phố. Những
con đường rộng mở, vui trong ánh nắng hè và cảnh sinh hoạt thành phố
thật là nhộn
nhịp. Xuống bến, cùng với hành lý, Huân và Thụy đón xích lô đến nhà bác Định. Bác Định là bạn thân với ba
anh. Năm 1954, gia đình bác di cư vào Nam ở lại tỉnh Quảng Trị, bốn năm sau mới vào Nha Trang. Ở xa, ba anh và
bác thư từ nhau luôn.Với tình thân còn gắn bó, nên ba anh cho anh đi
nghỉ hè
Nha Trang đến ở với gia đình bác. Chừng độ một tháng rưởi thôi, Thụy
lại trở về
Quảng Trị, bắt đầu bước vào năm học mới cũng là năm chuẩn bị thi cử.
Nhà bác Định ở khu Phước Hải, đầu đường
Huỳnh Thúc Kháng. Ngoài phía ngã ba là đường Nguyễn Hoàng, dọc con
đường dài
này có nhiều dãy phố buôn bán, ngôi nhà thờ lớn ở trung tâm, từ nhà ga
những
chuyến tàu đi cũng như đến đều cũng phải chạy theo đường ray nằm sau
lưng nhà
thờ. Về tới nơi, thực may hai đứa gặp cả
gia đình bác Định và được đón tiếp niềm nở. Thụy giới thiệu Huân với
hai bác,
còn Nhị con bác là bạn học cùng lớp với
Thụy và Huân. Nhị gặp lại hai bạn thực vui, nhưng chỉ chuyện trò hơn
nửa tiếng
Huân vội xin kiếu từ để ra Ninh Hòa. Thụy cùng với Nhị tiễn Huân ra bến
xe, vì
còn ham vui, cả ba đứa vào quán chơi bi da hết một tiếng đồng hồ mới
chia tay.
Những ngày tháng hè đó thật là hạnh
phúc. Tuần lễ đầu, Thụy chưa vội ghi tên lớp hè để học mà cứ hưởng cái
thú đi
chơi. Hai chiếc xe đạp không rời Thụy và Nhị Buổi sáng sớm, hai đứa đạp
xe ra
biển, tới bãi gởi xe xong là ào xuống tắm. Mùa hè, từ sáng sớm đến
chiều tối,
bãi biển lúc nào cũng đông vui, ấm áp với ánh nắng và mặc sức vẫy vùng,
vượt
sóng. Biển Nha Trang thật đẹp, bãi cát trắng, màu nước biển xanh vời
vợi tạo một
niềm hưng phấn làm hai bạn càng muốn bơi ra xa. Sau hơn một giờ tắm biển , hai bạn lại đạp xe đi nơi khác. Thụy
được Nhị dẫn đi thăm các thắng cảnh Tháp Bà, Hòn Chồng, Hòn Vợ, Xóm
Bóng, và
còn ra tới những vùng ngoại ô xa đến lúc mặt trời lặn mới trở về nhà.
Nhị sành sỏi chơi đàn, Thụy cũng học
đàn với Nhị. Khi đánh đàn, hai bạn cùng hát những bản nhạc vui học ở
trường, những
bài hát về sinh hoạt hướng đạo hay trong những kỳ cắm trại. Nhưng mỗi
tối, bác
Định luôn bảo Thụy và Nhị vào bàn học lo luyện hai môn Toán, Lý Hóa.
Sau tuần lễ
đầu vui chơi thoải mái, cả Thụy và Nhị mới cùng ghi tên lớp hè ở trường
Tương
Lai. Hai bạn trình độ học ngang nhau, về môn Toán Thụy trội hơn Luân
nhưng Lý
Hóa, Nhị lại khá hơn, vào giờ học hai bạn giúp nhau nên tiến bộ khá
nhanh.
Ra Ninh Hòa ở với bà chị được hai tuần,
nhớ bạn, Huân lại vào từ sáng thứ sáu đến chiều chủ nhật mới trở ra
lại. Hội ngộ,
ba đứa kéo nhau đi phố, vào rạp hát coi phim cao bồi, sau khi vãn hát,
lại đi
lòng vòng quanh các phố, hay vào Câu lạc bộ thể thao chơi bóng bàn, bi
da. Ba đứa
thi đấu đều ngang ngửa, luôn tạo nhiều pha bóng tấn công gay cấn hay
những đường
cơ bi da so kè, suýt soát từng điểm.
Những ngày hè của Thụy thật là hạnh
phúc và quí giá như mỗi điểm có được ở bài thi. Căn nhà bác Định, ngoài
nơi chốn
ở bình thường nó còn cho anh hiểu cái đức hạnh chân chính về giá trị
con người.
Bác Định trai thương anh là đứa học trò cũ của bác. Bác gái, luôn gọi
Thụy là
thằng cu như Nhị và các anh con trai lớn
của bác.
Khi đã quen thuộc với một thành phố
mình đến, với một gia đình người thân mình được ở, đó cũng là lúc (mùa
hè sắp hết
rồi) mình lại hồi nhớ về chính mình. Ngoài Nhị và Huân ra,
Thụy cũng còn có những gương mặt bạn bè ở quê
nhà nữa. Ngày mai đây, hẳn rằng, anh sẽ biết trân quí,
biết cất giấu
và sống hạnh phúc với kỷ niệm như tưởng mình đã có
người yêu.
Nha Trang cũng là thành phố lớn. Ga
chính ở đây, mỗi ngày có đến sáu chuyến
tàu chạy đường ngắn, đường suốt. Những chuyến tàu đến hay đi, ngồi ở
nhà vào
lúc chiều hay tối, Thụy đều nghe rõ tiếng
còi tàu. Và, nghe qua từng hồi còi dài ngắn, anh biết chuyến tàu nào
về, chuyến
tàu nào sắp sửa ra đi. Tối hôm ấy, những ngọn đèn sáng, những tiếng
bước chân
người xa lạ và vui, rạp hát chiếu cuốn phim chiến tranh, hình ảnh một
cô gái và
chàng trai đi bên cạnh nhau nói những lời tâm tình, những lời từ biệt,
thành phố
Đà Nẵng bỗng dưng làm Thụy xao động, dấu yêu một nỗi niềm. Và rồi, anh
mường tượng
nhớ đến một buổi trưa hè khác có một người đàn ông và một cô bé trạc
tuổi bằng
em gái anh vào quán hàng cơm của mẹ anh. Anh biết hai người này là
khách đi tàu
ở xa về, vì chuyến tàu về đến vừa mới đi, và lúc này ngoài con đường có
nhiều
chiếc xích lô đang chở khách xuống phố.
Cô bé khuôn mặt dễ thương, nước da
trắng, còn người đàn ông chắc là ba của cô có mái tóc chải tóc bóng
láng, mắt
đeo cặp kính trắng. Lúc ấy đã quá trưa, khách ăn giờ đầu xong đi gần
hết nên ghế
bàn còn lại để trống nhiều.
Khi Thụy mang cơm ra, đặt cái khay
nhôm xuống bàn anh thấy mắt cô bé nhìn anh, nụ cười trên cặp mắt.
Thụy trở vào đứng ở cửa bên quán, cầm
ly nước trà đá uống. Tiếng còi ngắn cất lên, chiếc máng xối hứng nước
được kéo
ra sau đầu máy, rồi con tàu lăn bánh. Thụy hướng mắt nhìn con tàu với
nhiều toa
xe lần lượt chạy qua. Bỗng Thụy chú ý lắng nghe
giọng nói của cô bé và người đàn ông. Khi nghe được,
anh biết là cả hai không phải là người
Quảng Trị ở đây mà
là người miền Bắc. Thời kỳ đó, thời hạn cuộc di cư trong 300 ngày chưa
chấm dứt.
Ngang qua nhà ga nhỏ này, trước đây chỉ có hai chuyến tàu đi, về giờ mỗi ngày có đến sáu chuyến, chưa kể là
có tăng cường thêm xe nhà binh, xe chở hàng nhận công tác cứu trợ đi ra
phía Bắc
đến tỉnh Thanh Hóa chở đồng bào di cư vào miền Nam.
Thụy bỗng có cảm tình với cô bé nên
đưa mắt nhìn chú ý. Cô bé mặc chiếc quần tây xanh, áo sơ mi hồng, và có
cặp mắt
nhỏ thật đẹp. Hai người khách ăn cơm xong gọi tính tiền, Thụy nghe vậy
vội bước
chân đến. Vì phải thối lại nên anh trở vào quán lấy tiền lẻ nơi ngăn
hộc , xong
trở ra.
Người khách cầm lấy tiền
thối, nói với Thụy:
-Cám ơn
cháu.
Thụy cũng đáp lời cám ơn với ông
khách.
Cô gái nghe được tiếng anh nói, ngước
cặp mắt vui lên nhìn.
Hai cha con
đứng dậy rời quán, trở ra đường chờ xe.
Người đàn ông xách cái
túi lớn, da nâu, còn cô bé
quàng dây đeo chiếc túi nhỏ màu vàng bên vai.
VIII
Thụy nhận được thư của Phương. Có một
đoạn trong thư Phương nhắc đến Thiên Nga làm Thụy cảm thấy vui, tưởng
đang ngồi
bên nàng trò chuyện. Những ghi chú rất nhỏ về nàng, thư của Phương làm
anh cảm
động, thật rất trân quí tên nàng. Bây giờ đây, bóng dáng Thiên Nga đã
tạo ra
trong trí Thụy một sự liên tưởng phối hợp, và Thụy nghiệm thấy, nàng
như là một
cô giáo đang dẫn đường, vừa dìu bước anh, dù rằng, đã có lúc nỗi tuyệt
vọng khiến
anh phải vươn dài cánh tay níu giữ nàng lại. Nàng chỉ mỉm cười, cho anh
chút hạnh
phúc thật êm ái, tâm hồn mát dịu như bóng cây, đó là thời gian của nàng
qua
dáng áo tím, đôi mắt dịu hiền và một bàn tay êm mát , thế rồi, nàng nắm
lấy tay
anh bảo anh hãy gắng bước theo nàng. Anh cũng đã trở nên một cậu bé
ngoan
ngoãn, cảm thấy có nàng là sự an ủi, và lúc này, hơn ai hết nàng không
hề có
chút chi phiền muộn khi lắng nghe anh nói về tuổi trẻ bất hạnh của mình.
Buổi sáng hôm ấy, ngồi trên chiếc xe
khách đang chạy mà đầu óc Thụy như là kẻ
vô hồn, không có một ý tưởng nào khác ngòai sự bơ vơ đối với con đường
học vấn
đã chấm dứt. Làm gì cho tương lai, điều này, anh không dám có một chút
tự tin
nơi sức mình mà chỉ còn một nguyện cầu khao khát là mong ông Trời bù
lại cho
anh một chút may cuộc đời trong ánh sáng thế gian.
Khi xe hàng đỗ bến, xuống xe Thụy đi
bộ về nhà. Trên đường nhìn hoa phượng nở đỏ, nhìn những dòng xe đạp của
nam nữ
học sinh dạo chơi cười nói rất vui, tự dưng anh cảm thấy mình lạc lõng
như thể
là kẻ lạ đâu từ miền xa nơi một vùng biệt xứ nào về đây mà không thể có
ai quen
nhận ra mình. Hoa phượng đối với anh trong phút giây này là nỗi buồn
chảy nước mắt. Huế, tuổi trẻ vẫn cứ luôn
ôm ấp cả
một bầu trời thân thương có dòng sông xanh và những hàng cây phượng mỗi
mùa hè
sẽ mang đến nét thắm tươi, rực rỡ cho thành phố này.
Về đến nhà, Thụy dừng bước trên bực
cửa. Nhìn vẻ mặt buồn bã của anh, ba mẹ không hỏi han gì nữa. Các em
anh cũng vậy.
Rồi Thụy bước vào nhà, lặng yên ngồi xuống như một người vừa mới ngã
bệnh.
Tiếng mẹ anh nói rất nhỏ:
-Con cái
mình không có được chút ân huệ khoa bảng.
Thụy nhìn ra cửa, buổi chiều đang xuống
bên ngoài . Trên đường, một chiếc xe búyt đi lên Long Thọ vừa chạy
ngang qua.
Thụy trông thấy con sông, ngôi trường Bình Linh bên kia nơi anh vào học
ở đó
năm trước nữa, và sự yên lặng buổi chiều như muốn nói cho anh biết rõ
về chuyện
gia đình của mình.
Sau hai tuần lễ về nằm nhà với bao
nhiêu nỗi buồn chán không nguôi được, vào một buổi tối trong bữa cơm
gia đình,
Thụy nói với ba cho anh vào Sài Gòn tìm kiếm việc làm.
-Con làm được
công việc gì ?, ba anh hỏi.
-Con chưa biết.
Nhưng vào trong đó, tìm kiếm công việc làm cũng dễ hơn.
-Con có bạn
bè thân trong đó không ?
-Có.
-Con viết
thư cho bạn con đi.
Sau ít giây suy ngẫm, ba anh tiếp lời:
-Ba biết con
nản chí chuyện học hành. Thôi, thì cũng là cái số phận của mỗi người.
Con kiếm
việc làm để ra đời sớm. Rồi về sau, nếu được trời giúp cho con chút cơ
may.
Các em rưng rưng khóc đưa mắt nhìn
Thụy. Thụy đọc được trên từng giọt nước nóng ấm của em mình hình ảnh sự
đơn độc,
khó khăn trước cuộc đời khi anh phải giã
biệt gia đình ra đi. Vào Sài Gòn, đó là nơi đến dứt khóat rồi. Nhưng
anh sẽ làm
công việc gì và sẽ nương tựa nơi đâu. Khi nghĩ đến chỗ nương tựa, Thụy
không
dám tìm gia đình các cậu và các dì em ruột của mẹ anh. Chẳng như, anh
thi cử đỗ
đạt , chuyện nương nhờ còn may, chứ một thân xơ xác vào Sài Gòn mà tìm
đến người
thân thực là một nỗi khó.
Sau cùng, đến lượt anh Nguyên cùng
ra đi. Anh Nguyên cũng vừa mới rớt vấn đáp năm Dự bị Văn Khoa, thực là
cái số của
gia đình Thụy mạt phúc đến như vậy . Nhưng anh Nguyên còn may là có
được bằng
Tú Tài II, và thêm khả năng viết báo. Từ quyết định của anh Nguyên, ba
Thụy cho
hai anh em đi Sài Gòn.
Một lời dứt khóat, Thụy nói:
-Ba mẹ đừng
lo. Con còn độc thân, kiếm được đồng lương con giúp ba mẹ và các em đi
học.
Chỉ còn một tuần nữa là bắt đầu niên
học mới. Nhưng từ nay, gia đình Thụy lại một cảnh hai quê. Thụy và anh
Nguyên
đi xa mưu tìm cuộc sống. Từ nay, cả hai anh em
không còn có mộng ước ở ngưỡng cửa Đại Học như bao
nhiêu bạn bè khác nữa.
Từ nay, hai anh em cùng dấn bước vào đời với chuyến đi xa khởi sự vào
những
ngày sắp tới.
Trước quyết định ra đi, Thụy trở vào
lại Đà Nẵng. Thụy đi nội trong ba ngày. Thụy vào để thăm dì Bích Vân,
sau đó sẽ
đến với gia đình Thúy Hà. Chuyến xe hàng không đông khách nhưng ngừng
nhiều trạm,
mỗi nơi có khách xuống và khách lên, tới đỉnh đèo đã gần trưa. Xe nghỉ
thường lệ
nửa tiếng để chờ xuống đèo hai phía Nam Bắc, nhưng hôm nay, phía Nam,
một quãng
đường gần cây số đang được Công binh sửa chữa. Thụy thèm ly cà phê nên
đi tìm
quán. Đang đi, bỗng nghe có tiếng gọi Thụy giật mình và thật bất ngờ
khi trông
thấy chú Hoàng. Ông chú đang ngồi ở bàn phía ngòai hiên, uống bia một
mình.
-Cháu uống
gì ?
-Thưa chú,
cà phê.
-Gọi đi.
Thụy gọi một ly cà phê đá. Trong lúc
chờ, tiếng chú Hoàng hỏi:
-Đi Đà Nẵng
có việc gì vậy ?
-Cháu vào
thăm dì Vân. Chú còn nhớ dì Vân con ông bác Huyện không ?
-Có. Bên ngoại
con, chú biết hết.
Nhìn lại người chú, Thụy nói:
-Con sắp đi
Sài Gòn.
-Học trong
đó ?
-Dạ không.
Con đi tìm kiếm việc làm.
Cô gái mang ly cà phê ra. Thụy mở hủ
đường cho thêm vài muỗng rồi khuấy uống. Cà phê không được ngon. Thụy
cầm gói
thuốc của chú Hoàng rút một điếu và xin phép hút. Một giọng khàn đục,
Thụy nói:
-Số phận con
đen đủi quá.
-Nhưng sao
mà cháu bỏ học ?
-Không thi đậu,
làm sao học tiếp được nữa chú. Cái số của cháu không sáng dạ trong sách
đèn,
thôi cháu vào đời kiếm lấy cuộc sống mà lo cho bản thân.
-Vào trong
đó cháu làm công việc gì ?
-Cháu chưa
biết. Nhưng ở đô thành việc làm công nhân cũng dễ kiếm.
-Cháu đi một
mình.
-Có anh
Nguyên đi nữa chú. Anh theo nghề viết báo.
-Được lắm.
Thằng Nguyên theo nghề báo là hay, chọn đúng đường đi.
Thụy uống cà phê chậm từng hớp như cố
lấy bình tĩnh. Một dòng đời trôi nhẹ qua tâm hồn anh. Tưởng rằng bao
nhiêu kỷ
niệm cũ ở miền quê thời ấy, anh đem ra bộc bạch với người chú, nhưng mà
không,
một giọng buồn anh đã nói:
-Gia đình
con không có nếp khoa cử, buồn quá chú.
-Chú rất hiểu.
Chú Hoàng đặt ly bia xuống bàn. Như
thể cố nén giọng buồn bực và chia xẻ với người khác, chú nói:
-Chú hiểu từ
lâu rồi.
-Cháu biết,
ba mẹ cháu buồn lắm nhưng số phận từng đứa con và cả gia đình luôn lận
đận.
-Cháu đến tuổi
quân dịch chưa ?
-Dạ rồi.
Đã mười một giờ trưa, xe vẫn còn đợi
sửa đường. Nắng lan rộng trên đỉnh đèo, sương mù đã tan hết nhưng khí
lạnh từ
núi, vang âm dòng suối tuôn chảy và sóng vỗ trên mặt biển dần dần tràn
ra xa. Bỗng
nhiên, lúc trông thấy bóng dáng con tàu Thụy chợt nhớ một buổi sáng mùa
đông
trên bến Cảng, vào giờ đó, trước khi vào lớp học cả đám bạn anh đứng ở
công
viên vẫy tay chào một đòan thủy thủ mặc áo trắng đứng trên boong, họ
cũng cười
vui la hét vẫy vẫy những cánh tay khi con tàu từ từ tách bến.
Hai người trở lại chuyện cũ về gia
đình. Thụy bỗng hỏi:
-Ngày trước,
chú đã ở Hội An?
-Chú làm việc
ở đó ba năm mới ra ngòai này.
-Chú có mặt
ngay lúc đầu Đại Học Huế mở.
Chú Hoàng gật đầu. Thụy đốt thêm điếu
thuốc. Những sợi khói mỏng trườn lên làm Thụy nhớ đến Lăng. Lăng đang
học Luật ở
Sài Gòn, ở nhà cậu Nghiêm. Hội An, thành phố nhỏ ấy Thụy đã đến thăm,
đi chơi
cùng với mấy người bạn. Nơi thành phố ấy, Thụy nhớ biển Cửa Đại, nhớ
một mùa hè
thanh bình, và vào năm đậu xong Trung học Đệ Nhất Cấp, từ Quảng Trị Lăng đi một mình vào Hội An thăm gia đình
người
chú. Lăng với Thụy là anh em bạn dì. Lăng mồ côi năm lên ba tuổi. Dì
Quyên mẹ
Lăng lấy chồng có ba mặt con, ở góa bụa từ thời còn trẻ . Mẹ Thụy, dì
Quyên, cậu
Nghiêm là chị em cùng một cha, một mẹ. Thực ra, ông bà ngọai anh có sáu
người
con nhưng đã mất đi ba. Năm đó, cảnh tản cư chạy lọan những gia đình
người thân
trôi giạt về tạm trú ở quê ngọai rồi tản mát. Hình ảnh chú Vinh ba của
Lăng và
chú Hoàng đây tìm lại trong trí nhớ thuở
đó, Thụy chỉ nhớ ra được dáng người. Rồi Thụy gặp lại chú Hoàng sau này
khi đã
lớn, đó lần đầu tiên anh đến nhà chú vào mùa hè cách đây ba năm ở khi
anh rời
Đà Lạt về Huế học. Ở Sài Gòn, thỉnh thỏang Lăng có viết thư cho Thụy.
Dịp Tết,
có một năm Lăng gởi cho anh ít sách truyện
và báo Xuân để đọc. Luôn luôn hai bạn sống có tình nghĩa với nhau.
Trong các đứa
cháu, Lăng được các cậu, các dì cả bà con xa gần bên ngọai nữa biểu lộ
nhiều
tình cảm vừa hãnh diện về sự học hành, đỗ đạt của Lăng hơn mấy anh em
bên nhà
Thụy. Người ở bên ngòai nhìn thấy vậy nghĩ rằng, Lăng mồ côi cha tự
thuở bé nên
được nhiều tình thương của người thân. Có đúng một phần, nhưng không
phải vậy
đâu. Bên ngọai rất bề thế về sự vinh hiển qua nhiều đời làm quan và
khoa bảng,
nhưng riêng mẹ anh rất ít học, và ba anh
được làm rể gia đình ông ngoại chỉ là giáo viên với
mảnh bằng Tiểu học. Vào thời gian gia đình
gặp họan nạn, sống
nương nhờ người thân, cứ đến bữa ăn ngồi yên lặng Thụy không dám chuyện
trò,
anh luôn có cảm giác nôn nao trong cổ họng khi cố gắng ăn thật chậm
rãi, khẽ
khàng để nuốt từng miếng cơm vào cổ họng. Và ngồi ở đây, chốn này, đem
những lời
tâm sự ra nói với người chú của Lăng, mới hai mươi tuổi đầu, Thụy biết
mình nên
đi tìm đến một vùng đất hứa. Và, anh rất tin cậy ánh sáng, con người,
cùng
thiên nhiên ở miền Nam.
-Cháu có muốn
xin việc làm ở Huế không ?
-Dạ không.
Cháu không thể ở ngòai này được. Và bước đường cùng, cháu nhảy vào lính
là xong
chuyện.
-Cháu đi học
Sĩ quan được không ?
-Không được,
vì cháu không có bằng Tú Tài.
-Nếu cháu ở
lại Huế, chú sẽ xin cho cháu một chân giáo viên dạy ở trường Tiểu học.
-Cháu không
nghĩ tới trường học nữa. Cháu muốn làm công nhân, hoặc là đi lính thôi.
Chú Hoàng rót phần bia còn lại trong
chai vào ly. Thụy thấy chú uống từng ngụm trong sự cố gắng mà có lẽ bởi
những
điều thất vọng của đứa cháu vừa bày tỏ làm chú băn khoăn, suy nghĩ.
Một giọng thản nhiên, chú nói:
-Con cháu, đứa
nào chú cũng thương.
-Dạ, cháu biết.
Nắng ấm áp, sáng sủa, tự dưng lòng
Thụy cởi mở.
-Bây giờ, chị
Hiền sao rồi chú?
-Nó thi đậu
vào trường Sư phạm Qui Nhơn.
-Chị Hiền đi
dạy, cũng hay đó.
-Nó thi rớt
lọat nhì, hai kỳ luôn.
-Cháu cũng bị
hỏng lọat nhì.
Có tiếng kẻng của người lính canh
đánh vang lên nghe giòn giã. Hành khách cười nói, vui chuyện, và họ trở
lại những
xe khách trong vội vàng.
Chú Hoàng đi traction An Lợi, Thụy
lên xe Tiến Lực. Những tiếng còi hiệu vang xa, thực rộn ràng. Rồi từng
chiếc một
nối nhau thành một đoàn chuyển bánh rời trạm nghỉ trên đèo. Lúc này,
lòng Thụy
tự nhiên hoang mang vương vấn một nỗi buồn. Thụy thoáng nghĩ đến Dạ Hân
trong mối
tình thơ dại của cô em gái dịu hiền như hương gió thỏang qua. Ngày rời
xa Đà Lạt,
lòng Thụy rất buồn. Anh đi một mình, không có ai đưa tiễn cả. Hành lý
của anh
có chiếc va li và túi xách đeo vai. Bến xe lam nằm ở chợ, đến nơi, Thụy
vừa kịp
chuyến xe chạy đưa khách lên nhà ga.
Thụy mua được giá vé học
sinh. Thời gian còn sớm,
anh vào quán ở phòng đợi ăn tô mì nóng
và uống ly cà phê. Thụy hút thuốc lúc nhấm nháp ly cà phê. Trời lạnh,
mưa nhỏ hạt,
tuy trong lòng buồn nhưng qua làn khói anh vẫn cảm thấy vui thích với
sự cô
đơn.
Hai toa xe hạng ba nằm phía gần đầu
máy. Hành khách đi tàu không mấy đông nên không có sự chen lấn. Dưới
sân ga trở
nên vắng, và lúc này sắp đến giờ khởi hành. Thụy không cảm thấy nôn
nao, vì hiểu
được rằng chuyến đi này của anh không còn mong ngày trở lại nữa. Trong
một
thoáng nhớ đậm màu khói thuốc, Thụy chợt
nghĩ, những kỷ niệm về tuổi niên thiếu đời anh xin gởi lại thành phố
này.
Tàu chuyển bánh, rời ga. Những vòng
bánh vừa mới lăn trên đường sắt thật nhẹ nhàng như giấc mơ. Tàu xuống
ga Phan
Rang gần nửa đêm. Tại đây, Thụy chuyển sang tàu đi ra Huế.
Trưa hôm đó, Thụy đạp xe tìm đến nhà
Lăng. Từ ngày vào Huế học, Lăng ở nhà ông Hoàng người chú ruột.
Thụy gặp một cô gái từ
trong vườn bước
ra, vội cất tiếng chào hỏi. Cô Dạ Hiền
chỉ cho anh lối rẽ xuống bến sông. Thụy chưa hề gặp chú Hoàng của Lăng,
nên để
xe đạp ở sân vào nhà trước để chào. Vừa thấy anh xuất hiện, hai ông bà
nhận ra
ngay, vui vẻ hỏi chuyện. Thụy ngồi xa một chút, ở chiếc ghế bên góc cột
vừa
nhìn hai người, vừa đáp lời. Mới lần đầu gặp, Thụy cảm thấy thực sự gần
gũi với
mọi người trong gia đình.
Một lúc sau, Thụy đứng dậy đi cùng với
một em gái nhỏ xuống bến sông. Vừa bước qua
vòm cổng, anh đã nghe tiếng chuyện trò và trông thấy bọn trẻ nhỏ đang
tắm la
hét, đuổi bơi xa ngoài sông. Anh Nguyên, Lăng, và người bạn ngồi trên
chiếc giường
tre dưới bóng cây nhãn cùng reo lên khi thấy Thụy. Đi xa, nay trở về
gặp được
người thân anh biết mình xúc động. Anh Nguyên và Lăng, vừa mới thi xong
cách
đây hai ngày nên Thụy không hỏi kết quả. Người bạn tên là Đông, dạy học
các em
nhỏ trong nhà. Đông biết tên Thụy, dù mới lần đầu gặp. Và một niềm vui
tự
nhiên mang đến là Đông và Thụy cùng tuổi,
cùng học cùng một lớp. Vừa chuyện
trò với
anh em, Thụy để mắt chú ý một cô bé đang ngồi giặt quần áo
trên bậc đá. Một lúc sau, anh bỗng lên tiếng
hỏi:
-Em học lớp
mấy rồi ?
-Dạ Đệ Lục.
-Em học trường
nào ?
-Dạ, Đồng
Khánh.
Cô bé ngừng giặt, ngước mắt nhìn Thụy.
Sau đó, anh đứng lên rời khỏi chỗ mình bước qua thềm đá, ngồi xuống bên
cô.
-Em tên là
An, phải không ?
Cô gái cười, nhìn Thụy nói:
-Anh đoán
tên không đúng.
-Vậy em cho
anh biết tên đi.
-Không.
Cô gái mím chặt môi, mắt cười nhìn
Thụy. Rồi cô hỏi:
-Sao anh gọi
tên em là An.
-Hình ảnh nhỏ
bé của em khiến anh nghĩ đến cái tên mình yêu thích.
-Hay là, một
người bạn gái anh tên An.
-Không,
không phải vậy.
-Nói cho em
nghe chuyện đi.
-Không có ai
hết. Chỉ có em cho anh tên An, thôi.
-Anh đặt tên
cũng hay, cô gái nói.
Thụy
tự nhiên thấy vui trong lòng. Giặt hai
áo cánh xong, cô lấy cái thau nhựa múc nước để xả.
Thụy nhìn dáng điệu của
cô qua bóng nắng. Hai lần cô thay nước trong thau, đến lần thứ ba xả
xong nước
chót rồi vắt khô áo. Bên cô, Thụy có được ngày trở về sau nhiều năm đi
xa. An,
cái tên anh hình dung qua cô gái nhắc tôi nhớ một lọai thảo mộc, và nhớ
đến
Cybèle cô bé trong phim Les dimanches de ville d'Avray.
Giặt xong, An còn ngồi lại chuyện
trò với Thụy. Thụy nhận ra niềm vui của An trong ánh mắt nhìn qua anh,
mỉm cười
với cái tên anh gọi cô.
Tuy nhiên, biết thế Thụy không tin chắc rằng
cô sẽ tự hỏi, tại sao trong gia đình ba mẹ không đặt cho cô tên đó.
Vừa mới biết nhau, nhưng Thụy và An
nói chuyện rất là tự nhiên, thân mật. Hình ảnh Đà Lạt còn nguyên vẹn
trong trí
nhớ nên Thụy chỉ cần nhắc lại một đôi chút là đủ để
cho An
tưởng tượng, hình dung ra một thành phố có hoa anh
đào, những con đường
dốc, những ngôi nhà ngói đỏ, các tu viện,
những khu rừng, những đồi thông bị sương mù bao phủ
khi nắng buổi sáng
chưa lên cao hay trong buổi chiều khi trở về cùng với mưa. Một đôi câu
hỏi, hay
là những chuyện kể về Huế trước khi mùa hè tới, bằng giọng nói thật dễ
thương của
An trong vẻ ngập ngừng, tự dưng, Thụy có ý nghĩ
nay mình đã trở nên
khác hẳn.
Khi rời đèo Hải Vân để về thành phố,
các xe nhỏ chạy nhanh hơn nên tới bến trước. Tuy nhiên, các xe lớn cũng
về đến
nơi chỉ chậm sau chừng mươi, mười lăm phút.
Vừa ra khỏi xe, Thụy bỗng thấy chú
Hoàng còn đứng chờ ai ở bến chưa vội đi. Thấy vậy anh bước nhanh đến
chào và hỏi:
-Chú đợi xe
cơ quan ?
-À. Chú đợi
cháu.
-Dạ.
Thụy theo chú Hoàng vào quán ăn trưa
ở bến xe. Thụy không biết người chú định nói gì , nhưng anh cứ đi theo.
Ngồi
trong quán nắng trưa hừng hực nên cần phải có nước giải khát. Thụy uống
nước đá
chanh, còn chú uống bia. Bữa cơm phần được gọi chờ mang ra. Thụy và chú
đốt điếu
thuốc trong lúc chờ bữa ăn.
-Chừng nào
cháu đi ?
-Dạ tuần tới.
Chú nhìn lại vẻ mặt Thụy và anh ước
tưởng, trên gương mặt mình đã lộ thấy cả một đọan trường đầy chông gai,
trắc trở.
Khi bữa ăn mang ra, Thụy cảm thấy
đói vì cơm và thức ăn nóng hổi, lên khói.
- Ăn đi
cháu.
-Dạ, mời
chú.
Hai người ăn thong thả. Chú Hoàng chắc
đã nghĩ kỹ , rồi hỏi:
-Cháu muốn
nghe lời chú không ?
Thụy đáp:
-Dạ. Lúc nào
cháu cũng coi chú như ruột thịt.
-Cháu ở lại
Huế đi. Chú sẽ xin việc cho cháu. Tốt nhất, cháu xin dạy một trường
tiểu học ngọai
ô. Đi dạy còn có thì giờ để cháu học thi lấy bằng Tú Tài.
Thụy đang nuốt miếng cơm, bỗng dưng
có cảm giác trong cổ bị nghẹn. Lòng tốt của chú Hoàng, biết anh sẽ nói
ra sao để
chú hiểu được tâm trạng của mình. Lặng im trong chốc lát, Thụy mới mở
lời:
-Gia đình
cháu không có ai sáng dạ học hành. Anh Nguyên là người khai khoa cho cả
họ hàng
bên nội cháu với mảnh bằng Tú Tài. Về phía ngoại , anh em của cháu
chẳng dám tơ
tưởng để thừa một chút danh thơm. Vậy nên, cháu không thiết nghĩ đến
chuyện học
làm chi. Đến chuyện nghề giáo cũng vậy, ba cháu cũng đã nhận ra nghề bạc bẻo này trong đời mình. Cháu muốn đi xa, vào
miền Nam kiếm sống giống như phu đồn điền thời trước bỏ xứ đi tìm cuộc
mưu
sinh. Thà đi như vậy, cháu có đủ can đảm hơn, vươn mình hơn là an phận
cuộc đời
như ba của cháu. Cháu rất biết ở đây, với uy tín của chú việc gì chú
giúp cũng
thành. Chú rất tốt, cháu biết và cháu hiểu.
Bữa cơm dọn ra nhiều món và Thụy ăn
thực tình. Khi đã hiểu tấm lòng anh trống trải, chú Hoàng lặng im , suy nghĩ về hòan cảnh của anh như là con của chú
phải đi xa vậy.
Xong bữa ăn, chú Hoàng và Thụy tiếp
tục câu chuyện đời. Sau đó, rời quán Thụy nói lời chào chú rồi từ bến
xe đi bộ về
nhà người dì .
Một câu chân tình, dì Vân hỏi:
-Vào Sài
Gòn, cháu vẫn tiếp tục học ?
-Dạ không,
cháu tìm việc làm.
Trên gương mặt người dì lộ vẻ buồn
lo lắng. Thụy nói chuyện với hai người thân khá lâu, sau đó, qua phòng
khách lớn
lúc anh nghe có tiếng dạo đàn. Chị Bích Ái đang chơi dương cầm, Thụy có
nhớ một
vài bản cổ điển và yêu cầu chị đánh cho nghe. Tiếng đàn ngân vang,
trong sáng,
anh nghe mà như ôm giữ cả dòng nhạc
trong tâm hồn một nỗi buồn nhớ lạ lùng.
-Ít ngày nữa,
con đi.
Thụy đáp lời lúc chào từ biệt. Và từ
nhà người dì, Thụy ra đường đón xe lam xuống
phố, ghé vào hiệu sách đọc báo, rồi về nhà Thúy Hà.
Vừa thấy Thụy xuất hiện, Thúy Hà rời
ghế đứng dậy tay cầm một tập giấy. Nàng nói:
-Rất tiếc
truyện không được đăng.
Thụy chợt nghĩ đến một hạnh phúc.
Nàng đã đem lại cho anh hạnh phúc về một lá thư
của anh mà chính tay nàng đã mở ra xem. Thụy rất vui
với sự chân tình của
nàng.
-Cả nhà đi vắng
?
-Cả nhà qua
thăm bác Phúc.
Thụy và Hà cùng ngồi xuống chỗ bàn
khách.
-Tiếc quá,
Thụy nói.
-Sao mà tiếc
?
Nàng hỏi Thụy, không đưa mắt nhìn.
Thụy nói:
-Nếu truyện
được đăng là cả một niềm vui. Lúc gởi đi, cứ ước ao truyện được đăng để
làm món
quà tặng Thúy Hà.
-Bày vẽ ra.
-Thực lòng
đó.
-Không được
đăng thì mình viết truyện người khác.
Nàng đáp lời anh, rồi cúi mắt chăm
chú đọc. Thụy hỏi:
-Mà truyện
viết được không ?
-Không được.
Bịa đặt và tưởng tượng nhiều quá.
-Thì truyện
viết phải tưởng tượng.
-Đồng ý,
nhưng phải tôn trọng sự thật.
-Có nhiều sự
thật trong đó, biết không ?
-Đâu, sự thật
nào đâu ?
- Hà đã
đọc qua hết truyện rồi sẽ thấy.
-Có thấy,
nhưng hôm đó chỉ chơi cờ ca rô thôi mà, làm gì có tóc nàng xõa kín
gương mặt rồi
để chàng vén mái tóc nàng lên cho hai người đưa mắt nhìn nhau.
Thúy Hà có giọng nói thật hay. Nhớ lại
một buổi trưa hôm đó trong giấc ngủ Thụy thấy cảnh anh và nàng chơi cờ
ca rô
trong lớp học. Người ta thường nói chiêm bao là do ức chế, nhưng thực
ra, hình ảnh
nào đã gặp thì được nhìn thấy trở lại trong giấc mơ. Trong truyện, Thụy
có thêm thắt đôi chút để hai người hiểu
nhau.
Trong giấc mơ, hình ảnh đó đã bày tỏ tình cảm thân mật của hai người.
Truyện ngắn Thụy viết 10 trang ,
Thúy Hà đọc hết không bỏ sót dòng nào. Đọc xong, nàng đưa qua cho Thụy.
Thụy cầm
lấy, hơi bối rối không biết làm gì với một món quà tặng không còn dùng
được nữa.
Lặng lẽ, Thúy Hà rót trà vào tách
cho Thụy.
-Anh uống nước
đi.
-Còn hai tuần
nữa thôi, Thúy Hà đi học lại rồi.
-Em
chưa chuẩn bị gì cả.
-Năm cuối,
các môn học đều khó. Mong làm sao, năm tới em vào Đại Học.
Nàng mỉm cười nhìn lại Thụy. Hai người
cùng vui chuyện, nhờ vậy, Thụy quên được nỗi buồn về sự hỏng thi. Rồi,
có những
câu nói gần như vô nghĩa. Với nàng, cuộc sống rất là vô tư. Còn anh,
anh cứ
nhìn ngắm mãi vẻ đẹp trên gương mặt nàng. Trên ánh mắt nàng, anh nhận
ra tình
yêu của thời gian có nhiều màu sắc ánh sáng. Và, anh lại tự nhủ hạnh
phúc cho
Duy đã có được nàng. Thụy luôn nhận ra vẻ đẹp của nàng qua gương mặt và
mái
tóc. Nàng để lộ ánh sáng trắng sữa trên làn da và gương mặt, ở hai cánh
tay và
hình dáng cân đối của nàng.
Đâu đó, mùa thu đang trở về. Và,
thành phố này cây lá sẽ xanh tươi. Thụy biết lòng nàng không buồn nhưng
cũng
không vui.
-Ngày mai,
anh trở ra lại Huế.
-Anh đi Sài
Gòn không ?
-Có. Đi,
nhưng không bao giờ quên Thúy Hà đâu.
Giọng Thụy nói thật chân tình, cảm động.
Thúy Hà ngước mắt nhìn anh. Lúc ấy, hạnh phúc dành cho Thụy là nụ cười
trong cặp
mắt sáng của nàng.
Buổi trưa qua mau. Cả nhà về tới.
Ông Kha thấy Thụy vào lại hỏi thăm sức
khỏe ba mẹ anh ngoài nhà và ông bắt tay anh thật là nồng ấm.
-Cháu đã nhận
được thư của một người bạn ở Sài Gòn.
-Chừng nào cậu
đi ?
-Dạ, đầu tuần
tới. Cháu vào đây thăm hai bác, ngày mai cháu trở ra Huế.
-Không ở
chơi thêm ít ngày.
-Cháu ra,
chuẩn bị chuyến đi để sớm gặp người bạn.
Lúc nói chuyện với gia đình, Thụy
quên mất sự vắng mặt của Hà. Một lúc sau, nàng xuất hiện ở lối cầu
thang đi xuống.
Lúc Thụy ngước mắt nhìn thấy, nàng mỉm cười. Nàng có một vẻ đẹp khiến
cho anh cứ
nhiều lần bối rối, bỡ ngỡ. Hơn một giờ qua, trong lúc nhà vắng vẻ chỉ
có hai
người chuyện trò với nhau mà những ý tưởng thực sự muốn bày tỏ còn ngập
ngừng,
lơ lửng, dù trong thâm tâm là có sự thương cảm của tình yêu mà với hai
người,
ai nói ra trước cũng được. Thụy cảm thấy sự thua kém này vì bản tính
rụt rè, cộng
sự không may mắn của anh sau một năm học. Nhưng nàng chẳng bao giờ quan
tâm đến
chuyện đó. Nàng rất tự nhiên, vẫn nghĩ về anh là một người bạn thân,
vẫn biết
rõ hơn ai hết trong gia đình là anh yêu nàng, dù một chút mong manh
trong hy vọng
nhưng nàng vẫn chấp nhận, và tự nói với chính mình là nàng cũng yêu anh.
Đến trưa, trong bữa ăn Thụy có mặt với
gia đình nàng. Thụy dè dặt, nhưng với vẻ
mặt thân thiện của các em nàng làm anh hài lòng. Sau bữa ăn, ông bà Kha
nghỉ
trưa còn Thụy cùng mấy đứa em và Hà lên gác chơi bài. Vừa chơi bài, vừa
trò
chuyện. Vân nói:
-Rạp Lido có
chiếu phim hay lắm.
Thụy
đưa mắt nhìn qua Hà . Trong cái nhìn của Thụy, Vân
bắt gặp là hiểu. Cô
nói:
-Chị Hà bao
ciné nghe ?
Hà nhìn qua Thụy, gật đầu. Rồi mấy
anh em chơi bài tiếp. Lúc này, Hà là người chủ động dẫn dắt câu chuyện
từ phim ảnh,
đến bạn bè, và nói đến ngày hội Festival có tổ chức cuộc thi nữ sinh
duyên
dáng.
Rất
vui, Thụy lên tiếng:
-Thúy
Vân nên dự thi.
-Em cũng đồng
ý như vậy, Hà tiếp lời.
-Không, em
không đi đâu.
-Anh nghĩ là
em sẽ đoạt giải.
Hà nói:
-Xong chưa,
khui bài nhé.
Tất cả chờ đợi. Khi Hà lật hai cây
bài Thụy lên, nàng cười nói:
-Cái tội dằn
non.
Lòng anh quá vui trong
giọng nói của nàng. Từ dạo anh
biết nàng cho tới nay, mỗi cử chỉ nhỏ nhặt trong ánh mắt, nụ cười của
nàng đều
có liên hệ đến tình yêu.
Buổi chiều, họ cùng xuống phố chơi
và coi chiếu phim. Sau khi vãn hát, Thúy Vân bước tới gần Thụy, nói:
-Em có việc
phải đi.
-Em đi đâu ?
-Em để anh lại
một mình. Một mình để cho anh nói lời từ giã với chị Hà.
Sáng hôm sau, Thụy thức dậy sớm vì
thường ngủ ít. Khoảng mười giờ, nhà dọn bữa ăn sáng, cà phê, nói chuyện
với gia
đình một lúc lâu anh đứng lên xin kiếu từ. Giọng anh hơi run khi nói
lời từ
giã. Ông bà Kha và các em chúc anh đi đường bình an. Riêng Hà, nàng
tặng cho
anh gói quà nhỏ bọc trong giấy hoa. Anh nói rất nhiều lời từ biệt với
nàng bằng
đôi mắt của của mình.
-Anh nhớ viết
thư cho em.
Nói xong, nàng đưa tay cho Thụy bắt.
Đêm qua, nàng thức khuya. Anh biết nàng thức khuya, vì thấy trên căn
gác còn để
sáng đèn đến một giờ khuya. Khi thấy anh bối rối, nàng mỉm cười, như
thế, hai
người sẽ còn nhớ đến nhau khi ở xa nhau. Thế rồi, một mình anh ra đi.
Thụy tới
bến xe vừa kịp chuyến sắp khởi hành. Xe chạy nhanh, sau hai giờ đường
là đến Huế.
Về đến nhà đã quá trưa, anh mệt đi nằm nghỉ. Trong giấc ngủ, hình bóng
người
yêu đến, và rồi, một áng mây trắng bồng bềnh biến thành chiếc áo trắng
nàng mặc.
Nàng cũng đã theo anh về Huế với áo trắng, như thể cho anh nghe được
tiếng nàng
gợi nhắc đến một tấm lòng quê hương cũ.
Khi anh thức dậy, nhà vắng vẻ. Anh
thở nhẹ cho nỗi buồn tan đi, rồi mở túi xách lấy ra gói quà Thúy Hà
tặng cho
anh. Một cuốn sách truyện bọc ngòai, ghép ở trong là một phong bì dày
với lá
thư, mấy tấm ảnh của nàng và có cả một món tiền.
Lá thư, nàng viết:
Anh ra đi
bình yên. Em rất thương anh, luôn nhớ đến anh. Những tấm ảnh này em gởi
anh làm
kỷ niệm. Em không ghi lời đề tặng gì cả. Em cũng rất biết hòan cảnh
anh, đi xa
như vậy sẽ thiếu thốn lúc ban đầu. Tiền Ba Mợ cho để dành, em cho anh
để anh
dùng đến lúc cần.
Em,
Thúy Hà
IX
Thiên Nga đã dọn đến chỗ mới ở khu
phố nhà ga. Một dãy nhà ngang gồm bốn căn có diện tích bằng nhau, căn
đầu tiên
gần lối cổng vào là của gia chủ, một cặp vợ chồng đã hưu trí, hai căn
kế bên cửa
đóng kín, bên trong là nơi thờ tự có chưng các món đồ cổ và đồ gia bảo,
căn cuối
hết vừa mới được mở cửa cho người thuê.
Nga thuê nơi chỗ ở này giá rẻ, nhà rộng
rãi, thoáng mát, có vườn sau, sân trước nhìn ra thấy con đường lên vùng
ngoại
ô, thấy con sông nhỏ hẹp nước trong xanh, và bên kia sông là ngôi
trường nhà
dòng cổ giống như một tu viện.
Nga đã có năng khiếu vẽ trước khi
thi đậu vào trường Mỹ Thuật. Những năm học ở trường Sao Mai, mỗi kỳ
triển lãm
Nga luôn nhận được phần thưởng qua mấy bức tranh vẽ rất đẹp, sắc nét,
giàu nghệ
thuật sáng tạo. Với căn nhà thuê thật vừa ý, Nga đã trang trí từ phòng sinh hoạt ra phòng khách bằng các thứ lọ hoa, tranh vẽ, tượng điêu khắc bằng gỗ, thạch cao, trông giản dị, nhưng đầy ấn tượng.
Bên trong phòng sinh hoạt, lớn nhất
là chiếc giường ngủ trải nệm. Ở cạnh bàn học trông ra cửa sổ có một
chiếc kệ ba
ngăn, ngăn trên là sách hội họa, ngăn giữa để các loại thuyết, và ngăn
dưới là
sách giáo khoa chương trình thi Tú Tài phần hai. Nếu năm tới thi đậu,
nàng sẽ
theo học Luật, còn ở trường Mỹ Thuật là năm thi tốt nghiệp ra trường.
Trường Mỹ Thuật nằm trong khu Đại Nội,
nơi đó, trước đây là khuê phòng cung nữ
của nhiều đời vua triều nhà Nguyễn.
Năm học mới đã bắt đầu được ba tuần
lễ. Lớp của Nga chỉ có hai nữ sinh viên, còn lại là nam, khoảng mười
người.
Chương trình học năm thứ hai khá nặng, rất nhiều môn về văn hóa, lịch
sử , kịch
liên quan đến hội họa và thẩm mỹ , những môn này được các giáo sư ở bên Viện Hán Học và trường Văn Khoa, trường
Kiến Trúc qua dạy.
Thiên nhiên là người thầy nghệ thuật.
Vì vậy, các sinh viên bạn nào cũng tìm kiếm những cảnh trí độc đáo ở
bên ngoài
để làm đề tài cho tranh vẽ. Vào những ngày đi dã ngoại, sinh viên lớp
của Nga
theo các thầy hướng dẫn đi tới những nơi tụ hội nhiều thắng cảnh đẹp,
trữ tình
của sông nước, núi rừng. Vào những buổi học bình thường, khi tan lớp,
Nga đạp
xe về nhà. Trên đường về, bóng dáng nàng qua phố lúc với hình ảnh áo
dài trắng,
lúc là áo dài tím, vàng hoặc màu thiên thanh. Thiên Nga là một thiếu nữ
đẹp dịu
dàng và đức hạnh. Nàng dành cho cuộc đời một khuôn mặt rất hạnh phúc,
một đôi mắt
mãi mãi sáng với nụ cười, một giọng nói rất hồn nhiên và đầy tự tin.
Khi cơn
gió vô tình làm rớt xuống trên vai áo nàng những bông hoa đỏ thắm của
phượng,
lúc ấy, hình ảnh nàng là cả một bức tranh. Nga, tên nàng còn là tên
thành phố của
con tim. Nga, tên ấy của nàng cũng dễ gây cho bạn sự liên tưởng về các
thứ bông
hoa và màu sắc mỗi bông hoa ấy luôn được
nhìn như là biểu tượng. Và một ngày kia, thành phố sẽ mang nhiều bông
hoa khác
nữa từ cái tên và tâm hồn của cô gái để
xây dựng nên thành một khu vườn, một công viên.
Tối qua, gần tới giờ Nga đi nghỉ thì
Nguyên đến, trông anh có vẻ mỏi mệt vì làm việc căng thẳng. Nhưng, anh
cảm thấy
rất là vui khi được về bên người yêu. Nga hỏi:
-Sao anh tới
trễ vậy ?
Nguyên chưa đáp lời, anh cầm bàn tay
Nga rồi hai người ngồi xuống ở bàn học.
-Em làm anh
ly trà đá nghe ?
Nguyên gật đầu. Nga đứng lên, nàng
đi xuống nhà dưới. Nguyên lật cuốn vở học của Nga ghi chép những bài
luận mẫu
Pháp Văn nàng chọn trong sách viết ra, đây có thể là những đề thi. Khi
Nguyên cầm
cây bút sửa lại mấy lỗi viết sai, Nga lên tới. Nàng đặt ly nước mát
xuống bàn,
xong ngồi bên cạnh Nguyên.
-Anh ăn uống
gì chưa ?
-Có, anh ăn ở
trại rồi.
-Anh ghé bên
nhà chưa ?
-Anh về thẳng
đây luôn, một tiếng nữa anh vào trại.
Nguyên uống một hớp đầy xong đưa qua
cho Nga.
-Tuần tới,
em vào nhà không ?
-Không, đến
cuối tháng.
-Năm nay bài
vở nhiều không ?
-Chắc chắn
là nhiều hơn năm ngoái. Năm nay, học thêm môn họa hình và cơ thể học.
-Ngày mốt
anh lên căn cứ hành quân.
-Đi lâu
không ?
-Chừng một
tuần, có thể hơn.
-Lâu nhỉ.
-Em biết
chuyến đi lần này như thế nào không ?
-Thì vẫn là
công tác dân sự vụ.
-Không, em
đoán sai rồi.
Thiên Nga ngước mắt nhìn qua Nguyên,
và lúc nào cũng vậy, nụ cười trong mắt nàng thật sáng dịu. Nguyên nói:
-Có đoàn văn
nghệ Sài gòn ra hát cho lính ở tiền đồn. Anh phải hướng dẫn đi, buổi
đầu tiên
diễn ở trung đoàn sau đó đến các tiểu đoàn.
-Có diễn cho
dân chúng coi không ?
-Tùy ý trưởng
đoàn. Nhưng anh sẽ cố sắp xếp một đêm cho dân làng được xem.
-Anh cần để
cho dân chúng được xem. Ở những vùng xa hẻo lánh, ít khi họ có được dịp
như vậy.
-Em của anh
lúc nào cũng đầy lòng nhân hậu.
-Những
người khác, em rất là dễ dãi, nhưng với anh
phải khó và nghiêm khắc như cô giáo.
-Sao vậy ?
-Anh không
hiểu ra tính tình của anh à.
-Anh vui
tính, luôn biết chìu em.
-Không đúng.
Anh rất là lông bông, liệu hồn đấy.
Nguyên cầm bình trà rót thêm vào ly
còn nước đá. Anh uống và cảm thấy đã khát.
-Anh ăn gì
đi, không thì đói.
-Có gì ăn ?
-Mì gói.
-Chút nữa,
ngồi bên em anh cảm thấy rất dễ chịu.
-Dễ chịu thực
không ?
Im lặng, Nga hé môi để cho Nguyên
hôn. Nguyên hôn thật lâu làm thân người nàng run rẫy.
Bên ngoài trăng sáng. Hai người đứng
dậy đi lên nhà trên mở cửa trước ngồi xuống thềm hiên. Ở thành phố Huế,
bạn
luôn có cảm giác yên lặng và xa xôi. Về đêm, vào mùa trăng sáng, cảnh
vật trở
nên huyền nhiệm, mỗi cảnh lồng vào trong ánh trăng một thứ tiếng nói,
rồi tất cả
hòa vang thành nhạc khúc trên dòng sông đang chảy.
Nga khoác ngoài chiếc áo len hồng,
nàng dựa đầu lên vai chiếc áo jacket dày của Nguyên. Bàn tay nàng trong
tay người
yêu.
-Đúng là cảnh
trăng mùa thu.
Nga mỉm cười sau câu nói của Nguyên.
Rồi nàng bảo:
-Anh có tâm
hồn thi sĩ.
-Mỗi bài thơ
anh sáng tác, luôn mang bóng hình em.
-Nhưng anh
đâu có làm thơ nhiều.
-Anh sẽ viết
riêng một tập thơ đề tên em.
-Ông Nguyên
Sa, với tên người yêu ông chỉ làm thơ một chữ thôi.
-Em là hình ảnh
Lara, anh sẽ viết riêng một tập thơ mang tên em.
-Có một tập
thơ của anh, em sẽ vẽ bìa.
Ngoài con đường, có bóng một người
đàn ông đạp xe đi ngang qua. Ông ta đội chiếc mũ nỉ, vừa đạp chậm rãi,
vừa đưa
mắt nhìn xuống dòng sông.
Những cánh cửa sổ trên tầng ba của
ngôi trường dòng bên kia đang mở. Ánh đèn từ căn phòng đó hắt ra yếu ớt, buông rơi xuống dòng sông. Và, nhờ ánh trăng
sáng, hai người nhìn thấy rõ nước dòng sông và cả hai phía bờ.
Nguyên chợt hỏi:
-Em còn nhớ
những ngày về thăm quê không ?
-Nhớ chứ.
-Mỗi nơi,
cho em một tình cảm riêng phải không ?
-Quê nội
nghèo, như anh nói.
-Ở đó thật
hoang sơ, chỉ có biển và cát.
-Còn dòng
sông thì về miền quê ngoại.
-Mẹ rất
thương em.
-Em hiểu ý
anh muốn nói.
Rồi nàng tiếp lời:
-Quảng Trị,
thành phố tuy nhỏ nhưng đẹp. Về các làng quê, nơi nào cũng có dòng sông
chảy
qua.
-Anh rất nhớ
quê ngoại, qua ngôi nhà thờ, cảnh đồng ruộng và con đường đê.
-Ngày đó, mẹ
anh đi chợ phiên cũng xa nhỉ.
-Con đường
đê rất dài đó, buổi chiều là hình ảnh của mẹ.
-Chắc lúc
nào anh cũng gần bên mẹ.
-Và, bên em
nữa.
Nguyên đặt bàn tay xuống mái tóc người
yêu. Trăng thu sáng, sương đêm xuống lặng lẽ in bóng dáng những đám mây
mỏng
manh, lơ lửng bên kia bờ. Nga ngước mắt nhìn lên trăng, hai tay để ra
đằng sau
vuốt sửa lại mái tóc. Bỗng nhiên, nàng có cảm giác như
một ai đó gọi tên nàng.
Nga chợt mỉm cười qua giấc mơ.
Nguyên nhìn đồng hồ, anh hỏi:
-Em buồn ngủ
chưa ?
-Chưa.
-Anh vào trại
bây giờ .
-Anh lái xe
một mình ?
-Không sao,
đêm có trăng.
Nga đi bên Nguyên, bàn tay nhỏ bé của
nàng trong tay anh. Xe đậu bên lề đường gần bờ sông ngoài cổng. Dừng
bước bên
xe, Nga nói:
-Anh lái xe
cẩn thận.
Nguyên không đáp lời, anh nhìn đồng
hồ tay, bỗng nói:
-Anh đưa em
đi ăn.
-Khuya rồi.
-Em vào nhà
đóng cửa, xong đi ăn với anh.
Nga quay trở vào. Không lâu lắm nàng
trở ra và Nguyên đã cho xe nổ máy. Khi Nga lên ghế ngồi, Nguyên cho xe
chạy một
đoạn tới bến cát rồi trở đầu đi về phía nhà ga. Anh chạy vòng quanh nhà
ga tìm
quán ăn, xong đổ về khu phố Morin và rẽ đường tới nhà Bưu Điện. Một
quán ăn
khuya vẫn còn mở và có khách ăn.
Xe dừng ở bờ đường gần quán. Đêm
thành phố lặng yên với bóng sáng của ánh trăng thật dịu dàng. Nguyên
nhìn qua
mái tóc Thiên Nga, anh nói:
-Khi nào Mỵ
Châu cần sách đọc, nhớ cho anh biết.
-Sách còn
nhiều, Mỵ Châu chưa đọc hết.
-Anh bỗng
nghĩ, có một tu viện, Mỵ Châu ở đó với các xơ, vừa làm việc vừa đọc
sách.
Nga cười lớn tiếng. Nàng hơi dừng bước
hỏi Nguyên:
-Anh nghe em
kể về Mỵ Châu lần nào chưa ?
Nguyên nhắc lại một vài chuyện,
nhưng Nga cho là chưa đúng.
-Khi về nhà,
em sẽ kể cho anh nghe.
Hai người vào quán, ngồi bàn thấp ở
phía ngoài. Có bún, cháo và cà phê.
-Ăn bún
nghe.
Nga gật đầu. Khi đứa nhỏ chạy bàn đi
vào, Nguyên nói với Nga:
-Thụy mới viết
thư về nhà, có gởi lời thăm em.
-Anh gởi
thư, em có lời thăm.
-Thụy rất
mong được gặp em. Nó bảo, anh gởi cho nó xem ảnh của em.
-Anh đừng gởi.
-Không gởi
nó cứ nôn nao mong có kỳ nghỉ phép.
-Đến lúc về,
sẽ gặp. Nếu em không ở đây, anh đưa Thụy vào Đà Nẵng chơi.
Hai tô bún nóng để trên chiếc khay,
đứa nhỏ mang ra cẩn thận đặt xuống bàn. Có chả nóng, Nga lấy hai lọn
bóc lá
xong bỏ vào mỗi tô. Còn nữa, mấy lát, rắc tiêu và vắt chanh.
Hai người mời nhau ăn. Nguyên cảm thấy
vị cay của ớt xông lên nóng mũi. Nga quen với vị cay, trơng nàng ăn
ngon miệng.
-Tối mai anh
về nhà không ?
-Chắc là
không ?
-Được dẫn
các cô ca sĩ đi hát tiền đồn, chắc là anh vui, trông đợi nữa phải không
?
-Những ca sĩ
Sài Gòn anh quen hết ?
-Có cô nào
anh bắt bồ không ?
-Không.
-Em không
tin.
Nguyên ăn chậm, thong thả. Anh nói:
-Trước khi
đi lính, anh làm nghề báo. Không chỉ viết tin, làm phóng sự, anh còn
phụ trách
trang tân nhạc hàng tuần. Có trang này, anh dễ làm quen với các cô ca
sĩ, và cô
nào cũng muốn nhờ anh viết giới thiệu để có cơ hội nổi tiếng. Khi làm
trang
này, anh cũng đã thực hiện một thiên phóng sự
Sài Gòn về đêm qua các phòng trà.
-Các nữ ca
sĩ, cô nào cũng đẹp ?
-Không hẳn.
-Anh tình
nguyện đi lính hay bị động viên.
Nguyên kể chuyện về một vị Thiếu Tá
anh quen làm việc ở Cục Tâm Lý Chiến. Và đúng như lời hứa hẹn của ông,
Nguyên
vào Thủ Đức khóa 21, mãn khóa học xong anh được về làm việc tại phòng
truyền
hình ở Cục Tâm Lý Chiến. Năm 1965, truyền hình bắt đầu có và rất mới
mẻ. Nhiệm
vụ của Nguyên là hướng dẫn người quay phim quay những cảnh thực ngoài
chiến trường,
phần anh, dựa vào mỗi cảnh phim quay viết lời bình và dẫn giải. Với
công việc
này, Nguyên còn tạo được tên tuổi cho mình qua những cuộc phỏng vấn
trực tiếp với
các vị Tướng Tư Lệnh Sư đoàn, các vị Tỉnh trưởng, và anh cũng hay có
mặt trong
những cuộc họp báo đặc biệt của các giới chức cao cấp cả về dân sự và
quân sự.
-Nhưng sao
anh bỏ Sài Gòn ra ngoài này ?
Nhìn Nga, Nguyên nói:
-Để được gặp
em.
-Không đúng.
Gặp nhau là sự tình cờ, không nói là chủ đích được.
Quán ăn tới giờ đóng cửa. Khách ăn đứng
dậy ra về. Nguyên vào quán trả tiền, bất ngờ gặp Lập là bạn trong nhóm
sinh
viên tranh đấu ngày xưa. Khi Nguyên làm Ủy viên báo chí Tổng hội anh
kiêm luôn
chủ bút tờ Sinh Viên Huế, còn Lập là Tổng Thư Ký. Tờ
báo khởi đầu từ sau biến cố đảo chánh 1/11/63
và kết thúc khi sứ mạng của Sinh viên đối với hiến chương Vũng Tàu hoàn
thành.
Thời sinh viên, Nguyên có được những tháng ngày hào hùng, lãng mạn. Nga
rất
thích một bức ảnh anh mặc áo sơ mi màu rêu,
hai túi xẻ, đứng trên bậc thêm ở trường Đại Học Văn
Khoa. Bức ảnh, rất
ăn từng nét đẹp của Nguyên qua dáng người và cặp mắt.
Khi Lập theo Nguyên ra ngoài, gặp
Nga anh bạn chào hỏi rất thân thiện. Và, khi được biết Nga học ở trường
Mỹ Thuật,
anh ta rất mong được xem những tranh vẽ của nàng. Hai tuần lễ tới, Huế
sẽ có một
cuộc triễn lãm dành cho các họa sĩ trẻ.
Nguyên lái xe chậm tốc độ trên đường.
Nga vào câu chuyện kể về Mỵ Châu, nàng nói ra cái ý tưởng ngộ nghỉnh
muốn bỏ
nhà đi tu, ở chùa, hay nhà thờ cũng được,
miễn là được sống xa lánh cuộc đời. Ở cái tuổi còn nhỏ, nhưng được chọn
đi tu
cũng là niềm vui. Nguyên cười lớn tiếng hòa nhịp cùng tiếng cười của
Nga, anh
ngả người dựa lưng ghế buông tay lái, sau đó, anh cầm bàn tay Nga đưa
qua
bên mình và đặt lên phía trái tim.
Nguyên thật sung sướng, rồi anh nói
với Thiên Nga rằng, sự rời bỏ đô thành Sài Gòn để ra ngoài này đó là sự
lựa chọn
của một người lính, nhưng cũng nhờ vào đó, tạo ra cơ duyên cho anh được
gặp một
người mình yêu thật sự trong ước mong.
Sương mù trôi đang bao kín dòng
sông. Ánh trăng thu lan tỏa ra hơi lạnh trong đêm vắng. Về đến nhà,
Nguyên dừng
xe lại trước cổng, anh nói:
-Chúc em ngủ
ngon.
Xuống xe, nàng vẫn chưa vào nhà.
-Anh lái xe
can than.
-Em ngủ
ngon.
Nàng mỉm cười nhìn Nguyên.
-Chắc tối
nay, em không ngủ được.
X
Trước ngày đi ra Nha Trang để dự
khóa học chuyên môn ba tháng, buổi chiều Thụy đến nhà dì Hồng nhận được
cùng
lúc ba lá thư. Đó là thư anh Nguyên, thư
Thúy Hà , và thư chót
là của người
bạn hiện nay đang dạy học dưới Vĩnh Long.
Thư
anh Nguyên nhờ Thụy mua giúp anh cuốn Tìm Hiểu Hội
Họa của tác giả Đoàn
Thêm, nếu có sách thì gởi về địa chỉ ở
bên nhà hoặc cho cô Thiên Nga bạn anh. Thư Thúy Hà có hai tấm ảnh kèm
theo thư,
đó là ảnh nàng và ảnh đứa con trai. Ảnh đứa con trai mới sáu tháng tuổi
có ghi
lời tặng, còn của nàng, thì không. Từ ngày xa cách, Thụy có nhiều tấm
ảnh của
nàng mang theo, nhưng không một tấm nào có đôi dòng chữ
nàng ghi lời tặng.
Sau khi đọc thư xong, Thụy đón xe
buýt lên chợ Bến Thành. Sài Gòn, ngày nào cũng huyên náo, xô bồ, nhưng
thật là
dễ sống. Xuống bến xe, Thụy đi qua khu bùng binh Quách Thị Trang đến
nhà sách
Khai Trí, và đi sâu vào phía bên trong cùng để tìm kiếm các loại sách
chuyên
môn. Thật may mắn, Thụy tìm ra cuốn sách anh Nguyên nhờ, chỉ còn một bản duy nhất bày trên kệ. Thụy vói
người lấy cuốn sách xuống, giũ bụi, xong xem lại cẩn thận những trang
in có bị
sót không. Thụy không thể đọc được nhiều, nhưng với tác giả anh đã có
biết, và
nhìn qua cách viết anh thấy người biên soạn rất là cẩn trọng, công phu. Trong sách còn có một số phụ bản
tranh in màu của các họa sĩ danh tiếng Picasso, Gaughin, Renoir, Van
Gogh,
Claude Monet . Bức tranh Người gieo hạt của Van Gogh rất là ấn tượng,
sống động,
nhưng lúc này, Thụy cảm thấy dễ chịu, yêu thích hơn hết là được xem bức
tranh của
người họa sĩ Pháp gốc Hòa Lan, Claude Monet. Bức tranh vẽ ở một công
viên trông
ra biển. Trên công viên bày ra những bàn ghế mây, có một người đàn ông
đội chiếc
nón phớt mắt nhìn ra biển xa, ngoài mặt biển xanh đẹp những làn sóng
nước, có rất
nhiều tàu và thuyền bè đang di chuyển. Bên lối hàng rào, có người phụ
nữ trông
dáng vẻ quí phái đang chuyện trò với một người đàn ông đứng tuổi thật
lịch lãm.
Người phụ nữ dáng mảnh mai, che đầu chiếc dù trắng, còn người đàn ông
mặc áo
veste, một tay cầm cây can. Thụy cảm thấy ngay sức tưởng tưởng tượng
của mình
trong khi họa sĩ phối hợp các màu tươi
sáng trên bức tranh, đáng yêu nhất là màu của các bông hoa thắm nở bao
quanh
công viên.
Khi đến quầy tính tiền, Thụy đưa cuốn
sách cho cô bán hàng, cô coi giá bìa xong bớt giá 15%. Cô bỏ sách vào
túi nylon
đưa cho anh rồi thối tiền lẻ.
Ra khỏi hiệu sách, Thụy
đến quán Mai Hương ngồi
uống một ly cà phê đá. Không phải là ngày cuối tuần, nhưng Sài Gòn vẫn
nhộn nhịp,
huyên náo. Những dãy phố chính nằm giữa trung tâm thành phố thật tưng
bừng, ồn
ào với mỗi cảnh sinh hoạt. Những chuyến xe buýt rời bến,
những dòng xe du lịch, xe taxi nối đuôi nhau
trên các ngả đường, người đi qua lại trên vỉa hè tấp nập, và thật sáng
dịu khi
bóng dáng các cô gái xuất hiện thướt tha trong những chiếc áo dài, rồi
âm thanh
buổi chiều nổi dậy với những tiếng nhạc mở lớn vọng ra từ các rạp hát,
từng cảnh
đó đã làm Thụy cảm thấy vui, tin tưởng vào cuộc sống mới mà từ những
tỉnh lỵ,
thành phố nhỏ bé ở ngoài miền Trung anh đã quyết chí vào đây.
Bây giờ, Thụy chẳng có ai quen ngoài
Huê ra. Buổi chiều đang xuống, Thụy nhấp từng hớp cà phê, và đốt từng
điếu thuốc,
vừa cảm thấy dễ chịu. Anh yêu mến Sài Gòn, yêu thành phố như một mối
tình dễ
thương với Huê, và lúc này, anh nhận ra, hình ảnh của Huê cũng thật là
đẹp như
một bài thơ thi sĩ Nguyên Sa đã viết về thành phố này:
Sài Gòn đi rất chậm buổi chiều
Cánh tay tà áo sát vòng eo
Có nghe đôi mắt vòng quanh áo
Đôi ngón thơ buồn đứng ngó theo
Sài Gòn cười đôi mắt rất tròn
Vòng cung mầu đỏ nét thu cong
Cầu vồng bắc giữa mưa và nắng
Hay đã đưa dần sang nhớ mong
Ngồi một mình nhớ đến Huê, rồi Thụy
đứng lên đến quầy trả tiền. Anh mua thêm gói thuốc, ra đường, đi bộ tới trạm xe buýt.
Về nhà, Thụy viết một lá thư ngắn gởi
cho cô Thiên Nga nói chuyện về cuốn sách anh Nguyên gởi nhờ mua. Và, để
có sự
tin cậy, Thụy còn nói thêm một đôi điều để cô yên tâm khi cần đến những
sách học
ở trường Mỹ Thuật.
Thụy hài lòng với lá thư mình viết
ngắn gọn, suôn sẻ.
Ngày hôm sau, Thụy lên đường đi học.
Từ trạm tiếp liên ra phi cơ, thật bất ngờ Thụy gặp anh
Khanh. Anh đang trò chuyện với một người bạn
cũng là phi công, thấy Thụy, anh vội ngừng chuyện tới gần bắt tay.
Trong một nụ
cười, anh nói:
-Anh mới đọc
truyện ngắn em viết trên báo Lý Tưởng.
-Anh thấy được
không ?
-Được lắm.
Nhưng ai kể chuyện này cho em.
-Nhân vật
trong truyện là Trung úy N. ở bên phi đoàn 217.
-Đúng rồi,
N. là bạn anh. N. bay rực thăng bị trúng đạn, máy bay cháy và anh ấy bị
thương
tích rất nặng. Nhưng, dù cho anh bị thương tích, cô
bạn gái anh ấy vẫn giữ đẹp mối tình, và hai
người đã lấy nhau.
-Em biết câu
chuyện thật hay, cảm động nên viết ra.
-Hôm nay em
đi đâu ?
-Em ra Nha
Trang học khóa chuyên môn.
-Về ngành gì
?
-Ngành điều
không.
-Không phải
em làm ở báo Lý Tưởng đi công tác.
-Không, em
có chỉ số ngành điều không. Báo Lý tưởng kéo em về vì thấy em có khả
năng viết
báo.
-Rồi học
xong, thì sao ?
-Chắc là về
lại Lý Tưởng. Đại úy Hùng sẽ kéo em về,
vì tờ báo cũng cần người. Em đi học
chuyên môn là để lấy bằng hưởng lương phụ cấp.
Anh Khanh gật đầu nghe Thụy giải
thích. Khi đến giờ lên máy bay, Thụy cùng hành khách vào chiếc C47,
chiếc này anh
Khanh là trưởng phi cơ.
Sau hơn một giờ bay, phi cơ ra tới
Nha Trang. Từ trạm tiếp liên Thụy đi bộ tới khu huấn luyện và sau khi
làm xong
thủ tục, anh về phòng khóa sinh sắp xếp
đồ đạc và dọn chỗ nằm.
Ngày hôm sau, Thụy ra phố tới nhà
Bưu điện gởi thư về Huế, địa chỉ nhà cô Thiên Nga ở. Khi mua sách ở Sài
gòn,
anh không gởi ngay, mà muốn lấy địa chỉ KBC ngoài quân trường để trường
hợp thất
lạc, sách sẽ trả lại cho địa chỉ người gởi. Từ câu chuyện của Phương kể
về
nàng, thật lạ lùng, trong trí tưởng anh luôn hình dung về nàng có khuôn
mặt hiền
hậu, đôi mắt đẹp, và qua dáng bước đi trong chiếc áo dài tím, thật nhẹ
nhàng
như sự rung động của
cánh bướm. Thụy thật hạnh phúc khi biết
anh Nguyên của mình có người yêu là nàng.
Buổi chiều ấy, với sự mộng mơ, với
lòng tơ tưởng, Thụy đi lang thang qua các phố , sau đó thả bộ dọc con đường ven biển trở về trường. Tối đến,
nằm trong phòng Thụy đọc truyện, vẫn cuốn truyện cũ Người Mỹ trầm lặng.
Khi đọc
cuốn này, Thụy bỗng nhớ đến Hạnh.
Thụy
đã ra dự khóa học đúng ngày, nhưng anh em khóa sinh
cùng chỉ số là bốn
mươi người chưa tới đủ, mới trình diện
được mười lăm người. Còn thiếu khá nhiều, nhưng thực
sự, có đủ quân số,
khóa học cũng chưa bắt đầu vì còn thiếu giảng viên.
Tới kỳ lương lãnh tiền xong, Thụy liền
chuồn đi Đà Lạt. Thụy phải đi hai chuyến xe lam mới đến bến xe. Hầu hết
xe đi
các tỉnh xa là của hãng Trung Việt. Có hai loại, xe dài, và xe cỡ
trung. Xe dài
được 80 chỗ ngồi, còn cỡ trung chỉ bốn mươi chỗ.
Khi lên xe, Thụy thấy bên chỗ cô gái
đang ngồi còn ghế trống. Thụy xin phép lấy chỗ ngồi, cô gái không nói
gì. Đợi
hai mươi phút nữa, xe mới khởi hành. Thụy đưa mắt nhìn ra ngoài vừa
thoáng ngắm
vẻ mặt cô gái. Tối hôm qua, trong ảo mộng cuộc đời Thụy nghe ra tiếng
nói và thấy
hình ảnh người yêu của anh đi lấy chồng. Ngày hôm ấy nàng đi, hiển hiện
trong
giấc mơ của anh cả một cuốn phim đen trắng, và có vẻ như anh nối kết
lại những
bông hoa ấy thành một bó hoa trông đợi nàng. Giờ đây, một ngày đã khác.
-Cô học ở Đà
Lạt ?
Cô gái mỉm cười lắc đầu.
-Không.
Thụy nhìn giờ qua chiếc đồng hồ đeo ở
tay cô. Bỗng Thụy hỏi ý cô gái muốn được đổi chỗ ngồi phía ngoài cho
thuận tiện.
Không đáp lời, cô gái đứng lên và hai người đổi chỗ. Thụy nhận ra một
cảm giác
êm ái khi chiếc áo dài của cô chạm nhẹ tay anh.
Với một giọng thân tình, Thụy nói:
-Ngày trước,
tôi học ở Đà Lạt.
Cô gái mỉm cười biết chàng gợi chuyện
làm quen. Bỗng cô lên tiếng:
-Tôi không
phải là Sinh viên.
Thụy đáp lời:
-Bây giờ đợi
xe đi lên thành phố đó, tôi cảm thấy nhớ thời đi học của mình.
-Gia đình ông
ở trên đó ?
-Không.
Tới phiên xe rời bến, người tài xế cất
tiếng gọi hành khách còn đứng dưới, vừa mở cửa ghế phòng lái bước lên.
Trong
xe, ở hàng ghế sau có hai người đàn bà hơi lớn tiếng cãi vã nhau. Thằng
lơ xe
liền lên tiếng giải hòa, vừa vui với giọng đùa nghịch. Có người cười,
bảo thằng
nhỏ lém lỉnh. Khói thuốc lan tỏa trong xe. Người tài xế ngồi trước tay
lái vẫn
còn chờ ai đó, và rồi, có một người mang đến cho ông ta giấy tờ để xuất
bến. Xe
nổ máy, tự dưng lòng Thụy nôn nao. Nha Trang- Đà Lạt quãng đường dài
hơn 200 cây
số.
Xe lăn bánh. Khi ra khỏi bến, xe còn
chạy trên con phố chính đang ồn ào trong cảnh sinh hoạt đầu ngày.
-Gia đình cô
ở Đà Lạt ?
-Không, ở
đây. Tôi làm việc ở Ty Bưu Điện.
-Tôi có đến
đó hai lần nhưng không gặp cô.
-Tôi làm
hành chánh bên trong, không ngồi ở guichet.
Không hỏi gì thêm, Thụy nhìn gương mặt
cô gái. Cô không đẹp, nhưng nhìn kỹ thấy rất có duyên. Có vẻ cái nhìn
trong mắt
Thụy làm cô sợ, vội lên tiếng:
-Tôi có gia
đình rồi.
-Tôi vẫn còn
độc thân.
Cô gái im lặng. Nắng lên cao, xe đã
ra vùng ngoại ô thành phố. Ngồi ở bên ngoài Thụy đưa mắt nhìn đồng
ruộng, quang
cảnh vùng quê, tự dưng anh ước ao có một ngày đất nước thanh bình.
Xe tới một trạm kiểm soát ngừng lại.
Người Cảnh Sát đi dọc theo thành xe, mắt nhìn lên. Trên xe, ngoài Thụy
ra có một
vài thanh niên khác nữa. Viên Cảnh sát hỏi giấy tờ một vài người, lập
tức họ
trình ra ngay những giấy tờ tùy thân. Người Cảnh Sát coi xong trả lại
rồi cho
xe đi. Đây là chuyến xe khách bình thường không có người đi buôn vì
trên trần
không có hàng hóa.
Có những lúc trên đoạn đường xấu xe
tránh ổ ga, nhồi xóc, lắc lư, vai Thụy
và cô gái chạm nhau.
-Ông học ở
Đà Lạt bao nhiêu năm ?
-Hai năm.
Tôi không sinh trưởng ở đó.
-Nghe giọng
nói của ông là biết ?
-Cô nói tôi
người ở đâu ?
-Huế.
-Không phải.
Tôi ở ngoài Quảng Trị, cách Huế gần 60 cây số.
-Ba tôi là
người Huế.
-Mẹ cô người
Bắc.
-Ông thật
tài.
Hai người chuyện trò, và trong lúc
xe chạy, những hành khách quen hay lạ nhau cũng có chuyện nói với nhau
cho đỡ
buồn.
Xe tới Phan Rang gần trưa, ghé vào bến
cho khách nghỉ uống nước nửa tiếng. Nhiều người xuống, và cũng có người
ngồi một
chỗ. Thụy và cô gái vẫn ngồi lại trên xe. Cô gái hỏi:
-Ông làm việc
ở đâu ?
-Tôi đang ở
trong quân đội.
-Tôi cũng
nghĩ như thế.
-Tôi ở binh
chủng Không Quân, ra ngoài này học khóa chuyên môn. Ít tháng nữa, hết
khóa học
tôi về Sài Gòn.
-Ồ, ông ở
Sài Gòn.
-Vâng.
Hai đứa nhỏ bán quà rong mời mua nước
và trái cây. Thụy hỏi ý cô gái, xong mua
hai ly nước mía.
Giọng thân tình, Thụy hỏi:
-Cô được mấy
cháu nhỏ rồi ?
Cô gái cười, hai tay vội vàng đưa
lên che miệng để dằn lại sợ cất lớn tiếng.
-Sao ?
-Lúc nãy,
tôi nói đùa với ông.
-Tôi ngắm
nét duyên của cô mà cô cũng sợ.
-Ông đừng tưởng
các cô gái đi một mình là dễ dãi.
Một cách thân mật tự nhiên Thụy nắm
tay nàng rồi buông ra ngay.
-Cô có mang
áo ấm theo không ?
-Không.
-Lên đèo trời
lạnh lắm.
-Mùa này Đà
Lạt mưa.
Thụy bật que diêm đốt điếu thuốc. Tới
giờ xe chạy, hành khách trở lại chỗ ngồi. Tỉnh lỵ Phan rang nằm sát
ngay bên quốc
lộ. Chừng năm cây số nữa là tới đường rẽ đi Đà Lạt. Lúc này, hành khách
trong
xe ít còn trao đổi tiếng trò chuyện. Thụy cố gắng hồi tưởng lại những
ngày
tháng cũ của thời niên thiếu, trong sự gợi nhớ này, anh nhắc thầm tên
và tìm đến
những hình ảnh thân thương của các cô gái anh đã gặp, và tưởng như lúc
này, người
nào cũng thật hiền dịu mở rộng hai cánh tay đón chào anh.
Thụy vẫn chưa nhìn thấy cuộc chiến
tranh. Tin tức trên báo chí qua những bài phóng sự, tường thuật, những
sự kiện
đó chỉ làm nóng lên trong con người anh sự bồng bột của trí tưởng
tượng, xong rồi
dịu hẳn. Bây giờ đây, trên đường trở lại Đà Lạt, anh mong được thấy
thành phố
cao nguyên với hoa đào, đồi thông, sương mù, trước khi
đến một ngày tận mắt anh nhìn ra thấy cuộc
chiến.
Xe đang hướng con đướng đi lên Đà Lạt.
Ngồi ở ngoài với từng đợt gió thổi qua, lúc mát, lúc lạnh, bỗng dưng
cơn buồn
ngủ tới làm mắt Thụy nặng trĩu. Thụy thiếp ngủ, thân người như có ai
nhấc bổng.
Một lúc, tiếng cô gái làm anh choàng
tỉnh.
-Ông đừng có
cố ý lợi dụng, giả vờ ngủ say.
Thụy kịp đưa tay che miệng ngáp và
quay mặt thở nhẹ ra ngoài.
-Xin lỗi.
-Ông ngồi thẳng
người lại đi.
Giọng mệt mỏi, Thụy nói :
-Hôm qua,
tôi mất ngủ.
Nói xong, Thụy tựa đầu lên ghế tìm lại
giấc ngủ. Thụy ngủ ngon giấc không mộng mị. Và rồi, một cảm giác mềm
mại, dịu
êm thấm vào tâm hồn anh. Khi anh thức giấc, cô gái nhìn anh mỉm cười,
và nụ cười
cô gái khiến anh thèm tựa đầu mình lên
chiếc vai nhỏ bé của cô lâu hơn nữa.
-Tới đâu rồi
cô ?
-Một cây số
nữa, xe lên đèo.
Thụy ngẩng đầu dậy. Để rửa mặt, anh
thò đầu ra ngoài hứng gió. Gió mát đến lạnh và Thụy tỉnh người hoàn
toàn.
-Cô đi Đà Lạt
mấy ngày ?
-Tôi nghỉ
phép hai tuần .
-Nhà cô ở
ngay phố.
-Nhà tôi ở gần
Bưu Điện.
-Tôi cũng đi
phép, lên Đà Lạt thăm lại trường cũ.
-Ông cũng
lãng mạn nhỉ.
-Tôi cảm thấy
nhẹ nhõm sau giấc ngủ ngon.
-Ông tựa đầu
lên vai tôi nặng quá.
-Nhưng tôi
chẳng cố ý, phải không ?
-Sao, không.
Thụy nhìn nàng thật đằm thắm, và mắt
anh đọc được một hàng chữ nhỏ trên cặp mắt
của nàng. Cô gái thật có chút từ tâm, dễ mến. Và, Thụy vừa qua một giấc
ngủ mềm
mại trên vai cô.
Xe đang chạy trên từng khúc quanh
qua đèo Ngoạn Mục. Bên dưới đèo là nhà ga Dran. Sương mù buông trôi,
tiếng dòng
suối chảy như xa vắng. Từ mỗi quãng dốc, Thụy trông thấy những đám khói
từ ống
khói ở nhà ga dâng lên. Vừa đón cái lạnh, vừa ngửi hương thơm từ những
bông
hoa, từ những cây lá quanh núi rừng, Thụy có cảm tưởng mình như là
người lữ
khách.
Rồi ánh nắng bừng lên trải rộng một
màu vàng lụa bên dưới lưng đèo. Lúc này, xe gần tới Đà Lạt, đang chạy
qua đèo
Prenn. Bên đây, đường đèo chạy men theo
vách tường núi, bên dưới kia dòng suối là rừng thông. Ai cũng lắng im
nghe tiếng
hòa nhạc của thiên nhiên qua khung cảnh nắng chiều. Sương mù giăng mắc,
và bạn
nghe ra được hơi thở của những người từ đâu xa đến đây, hay là kẻ trở
về lại
nơi miền cao nguyên vẫn là một chốn cũ.
Bỗng dưng, trong mắt Thụy hiện lên
hình bóng Thiên Nga. Nàng thầm hẹn với anh, một ngày đó anh sẽ gặp nàng
như ước
nguyện.
XI
Thụy ở chơi Đà Lạt đúng một tuần lễ.
Khi trở lại thành phố này, trong niềm nhớ và sự xúc động anh tìm thấy
lại bóng
dáng mình và những kỷ niệm cũ thật là đẹp, dễ thương. Thùy đưa anh trở
lại khu
phố cũ có căn nhà của nàng. Rồi hôm ấy, một buổi chiều thứ năm học sinh
chia
nhau đi bán vé coi cuốn phim Toute la ville dance để gây quĩ cho
trường. Trên
đường Hai Bà Trưng dài và xa lên tới tu viện
Domaine de Marie, từng nhóm học sinh mỗi lớp cùng đi
con đường này, vừa
chuyện trò, đùa giỡn rất là ồn vui. Bỗng nhiên, nhìn tới phía trước có
đám đông
nữ sinh, Thụy bỗng nhận ra Thùy qua chiếc áo dài tím. Nàng đi giữa, và
cùng các
cô bạn của nàng nắm tay dang rộng choán hết cả mặt đường. Trời mưa bụi,
áo tím
của Thùy trong mưa mỗi lúc nhòa mờ đi, nhưng đó cũng là một nỗi nhớ
ngây dại
như tiếng khóc thầm, lúc ấy, Thụy nhận
ra dáng đẹp của Thùy. Về đây, Thụy cũng tìm trở lại căn gác học sinh
nằm ở tầng
gác ba, nơi này, anh ở cùng với nhiều bạn lưu học sinh từ
các nơi xa đến. Mỗi một thứ có trong kỷ niệm
thuở ấy, giờ gợi nhắc, bỗng dưng Thụy có chút se lòng, bao dung lấy một
niềm an
ủi.
Lăng và Thụy vượt ra mối
liên hệ anh em bạn
dì, còn là đôi bạn thân. Anh Nguyên, Lăng và Thụy ba anh em chỉ chênh
lệch nhau
một tuổi. Nhưng vì đã sống cùng chung những ngày thơ ấu ở quê ngoại nên
ba người
có sự gắn bó rất lâu dài. Lăng chăm học, trầm lặng, ít biểu lộ tình cảm, nhưng sẽ có một ngày, Lăng nói ra
hết
những chuyện riêng tư của mình. Về phần Thụy đôi lúc có sự bồng bột,
vụng về,
nhưng bản tính chân thật, nên anh luôn có sự tự tin về con người của
mình. Thụy đã kể nhiều chuyện cho Lăng
nghe, và Lăng rất
hiểu bạn qua mỗi câu chuyện riêng của người đó kể.
Trên đường Duy Tân, hai người bạn đi
phía bên trái vỉa hè đang vượt quãng dốc.
Và, con đường này lại nhắc nhở Thụy nhớ đến Thùy. Buổi sáng, vào những
giờ học
muộn từ trường Thụy đi bộ lên tới khu thương xá chợ Hòa Bình, đứng đó
đợi không
lâu thấy Thùy xuất hiện, rồi cùng nhau đến trường. Thật là ân tình
trong nắng ấm,
trong màu cây lá xanh tươi, ảnh hình đó đã giúp cho đôi lứa tìm ra được
những
câu chuyện vui, những lời tỏ tình thật ý nhị, dễ thương.
-Ở xứ người
có trồng cây phượng tím, Thùy biết không ?
-Không.
-Ngày nào
đó, ở một nơi xa của xứ người, nhìn thấy cây này Thùy sẽ nhớ đến người
bạn cũ.
-Không chắc
đâu, nàng cười nhẹ và đôi mắt nhìn xa hơn.
Mỗi ngày luôn có hai buổi học, và
trước khi đến giờ học chiều một tiếng, từ trường Thụy lại đi bộ lên chỗ
hẹn đón
Thùy, rồi đôi bạn vẫn bên nhau, cho đến khi cảm thấy sự yêu thương và
thân thiết
đã thấm vào lòng , thì giọng nói bỗng nghe như đang bước chập chững,
ngập ngừng,
còn trong âm thầm là tiếng đập của từng nhịp tim nghe qua hơi thở thật
nặng nề
.
Bên dưới con dốc, Thụy ngoái nhìn lại
ngôi trường vẫn còn thấy một dãy nhà dài và sân chơi rất rộng. Xa hơn
nữa, bên
kia chiếc cầu là sân vận động của trường, khu sân này nằm bên cạnh
đường Hai Bà
Trưng vừa trông ra con đường Calmette đi
lên khu đồi bệnh viện, nơi ấy, nổi bật sáng lên một tòa nhà màu ngói
đỏ.
Thụy vui chuyện kể lại cho Lăng
nghe, người bạn cười hiền hậu. Một lúc sau, với những suy nghĩ về cuộc
đời, Thụy
nói:
-Tôi chưa viết
ra được những kinh nghiệm của con người về cuộc đời. Tôi chỉ mới viết
những
rung động của mình trong cuộc sống từ thời niên thiếu đến lúc này,
nhưng đây là
sự rung động chân thật, với những mầm hạt này một ngày kia tôi tin rằng
nó sẽ
mau lớn. Đường đời hay dòng đời tự nó sẽ chuyển biến, thay đổi cuộc
sống ngay từ
khi mình khởi sự cất bước. Qua ý nghĩ đó, tôi nhận ra sự hiện hữu về
đời lính của
mình.
Rồi, anh lại tiếp lời:
-Ít ra, tôi
cũng ở trong quân đội đến mười năm.
-Anh không
xin đi học Sĩ quan.
-Cũng có ý định
đó. Tôi vẫn mong đậu được bằng toàn phần rồi xin đi học ngành kỹ thuật.
-Năm tới,
anh có thi không ?
-Có. Thời
gian học của tôi ít quá, và không ổn định.
Bến xe nằm bên trên thương xá Hòa
Bình, từ chỗ này, nhìn bao quát thấy cảnh sinh hoạt chợ, các khu phố xa
gần, và
nhìn về phía cánh rừng trông thấy mặt hồ nước và những hàng cây trồng
quanh hồ.
Mỗi đầu năm, có những ngày lễ hội và tổ chức cuộc đua xe đạp.
Bến xe còn vắng, chưa mấy khách tới
bến. Quán ăn bình dân bày
những bàn ghế
thấp. Ngồi ở chiếc bàn ngoài gần lối đường đi, trong một vài giây im
lặng, Thụy
cảm thấy một nỗi buồn vô cớ cho mình. Với nỗi buồn ấy, Thụy chợt nghĩ đến một bóng hình thiếu nữ.
Người chạy bàn mang bánh cuốn và cà
phê ra cùng một lúc đặt trên chiếc khay và bỏ xuống bàn.
Khi cầm đũa ăn, Thụy hỏi:
-Lăng dạy
bao nhiêu giờ một tuần ?
-Mười sáu giờ
?
-Mấy môn.
-Hai môn. Việt
Văn và Công dân.
-Năm tới,
xong Cử nhân có đi học tiếp không ?
-Tôi chưa biết.
Có thể tôi qua thi bên hành chánh.
-Chọn ngành
này là đúng. Làm luật sư, có tiếng nhưng cũng khó khăn.
-Tôi không
ra Luật sư. Tập sư ba năm, lâu dài lắm.
Bữa ăn sáng ngon miệng, một dĩa bánh
vừa đủ no. Thụy ăn nhanh, cầm thìa khuấy
sữa trong cà phê và uống một hớp trước khi đốt điếu thuốc. Một giọng
vui, Thụy nói:
-Hồi đi học,
tôi bị một trận đòn vì hút thuốc.
-Ở trường,
bây giờ trường vẫn cấm học sinh hút thuốc.
-Tại sao
Lăng không tập hút thuốc.
-Tôi có thử
một lần, bị sặc khói, sợ quá nên thôi. Với lại, tôi yếu phổi.
Khói thuốc nhẹ nhàng tan. Nhìn Lăng,
Thụy có một ý tưởng thầm kín. Giọng thân tình, anh hỏi:
-Cô Mai Lê tặng
sách là bạn học cũ ?
Lăng nhìn lại Thụy dò xét, rồi nói:
-Mai Lê
dạy học ở đây, trường Bùi Thị Xuân.
-Tôi có đọc
cuốn thơ Tâm Tình Hiến Dâng.
-Cô tặng cho
tôi.
Vừa gợi nhớ, Lăng vừa kể cho Thụy
nghe lần đầu tiên gặp Mai Lê ở thành phố này.
-Quà kỷ niệm
của tuổi trẻ, lúc nào cũng là những cuốn sách, tập nhạc.
-Mai Lê hát
rất hay, giọng hát ngọt như Hà Thanh.
-Cô cũng người
Huế.
Lăng gật đầu. Ít nhiều trong câu
chuyện Lăng kể, Thụy hiểu. Ngồi không lâu, hai bạn rời quán, đi xuống
bậc cấp
con đường dốc tới bến xe. Bến xe đông người, và có nhiều tuyến đường.
Khi Thụy
lên xe, Lăng còn đứng ở dưới nói chuyện với anh. Bỗng nhiên, cả hai
cùng hẹn một
kỳ nghỉ hè về thăm gia đình. Và, qua ý tưởng đó, Thụy nhớ nghĩ nhiều
đến anh
Nguyên, và cũng vừa cách đây chừng tuần lễ anh đã gởi một lá thư cùng
cuốn sách
cho Thiên Nga.
Với những giây phút còn lại dành cho
mình hạnh phúc về thành phố có một thời mình đã sống, Thụy bỗng nhận ra
rằng, mỗi
thành phố là một câu chuyện tình . Thế nhưng, anh không hề mang tâm
trạng của một
nhân vật tiểu thuyết.
Có tiếng còi xe của người tài xế và
thằng lơ xe vừa cất tiếng báo cho hành khách.
-Anh Thụy đi
nghe.
-Ờ, đến hè gặp
lại ở Sài Gòn.
Xe vừa lăn bánh. Sau cái bắt tay,
hai bạn còn đưa tay vẫy chào tạm biệt. Từ bến, xe chạy xuống phía bờ hồ
rồi đổi
đường chính đi ra ngoại ô.
Đến quá trưa, xe về tới Nha Trang.
Thụy ghé quán ở trong khu chợ
Đầm ăn cơm trưa, xong
đi bộ về quân trường.
Khi Thụy trở lại , số khóa sinh đến
học đã khá đông nhưng chưa đủ. Vừa gặp lại các bạn tân binh cũ, lòng
Thụy rất
vui, anh em ngồi tụm năm tụm ba chuyện trò, kể lại những ngày những
tháng đi ra
đơn vị làm việc. Mỗi đứa mỗi chuyện, chuyện nào cũng thú vị. Và, nếu
như đem
góp lại những chuyện này mà viết nên hồi ký, bạn đọc sẽ nhận ra đó là
cuộc sống
thật tầm thường, nhưng vui và chân thực của những người lính trong thời
kỳ chiến
tranh.
Thượng sĩ Trạch là người phụ trách nội
vụ khóa sinh. Mỗi ngày, ông đều đến để điểm danh và kiểm tra vệ sinh
doanh trại.
Ông rất hài lòng vì anh em giữ gìn sạch sẽ trong và ngoài. Tối đến, có
thể bừa
bộn chỗ ăn ở, nhưng buổi sáng và trưa, nơi mỗi giường các chăn màn đều
gấp nếp
để ngay hàng thẳng lối. Thường khi đến,
viên Thượng sĩ trò chuyện với anh em, cho họ biết về lịch sử của quân
trường, của
binh chủng Không quân qua mỗi đời Tư lệnh, và những ngành nghề kỹ thuật
ở Không
quân. Một vài anh em hỏi về chỉ số ngành trong khóa học của mình, ông
trả lời vắn
tắt đây là ngành điều không ngoài mặt trận, và cho biết thêm, học xong
ở đây,
anh em sẽ về hết Sài Gòn và học thêm một khóa hai tuần nữa về các loại
máy truyền
tin. Như vậy, thời gian hoàn tất khóa học chuyên môn sẽ là bốn tháng.
-Bằng chuyên
môn, phụ cấp được bao nhiêu Thượng Sĩ ?
-Bằng các
anh, phụ cấp 400.
-Sure không
Thượng Sĩ.
-Tôi nói mà
các anh không tin à?
-Hoàn toàn
tin tưởng.
-Chúng mày
có biết lính không quân còn sướng hơn là quan nữa. Chữ thọ 100%.
-Nhưng mà
nghèo, chẳng khá gì.
-Đừng có ham
nghe các con.
Với cái tuổi đi lính còn non choẹt,
đám trẻ ăn nói văng mạng, nhưng vẫn còn là hình ảnh của những ngày
tháng thơ
ngây. Thượng Sĩ Trạch cũng đã có con trai lớn học ở trường trung học ,
nên chi
trò chuyện với lính ông hay gọi thân mật là mày tao, có khi gọi chúng
là các
con của bố, và những lúc vui chuyện hả hê ông cười hết sức thoải mái.
Ngày nào
ông cũng đến, nên tình thân anh em khóa sinh với ông, bao gồm nhiều ý
nghĩa.
Khi ông đến, tụi trẻ mời thuốc ông hút, có lúc ông mời lại anh em, và
khi có
báo Lý tưởng về, ông mang tới chừng chục cuốn tha hồ chia nhau đọc.
Một hôm, đem báo đến, ông Trạch tìm
Thụy hỏi:
-Truyện ngắn
đăng trong này có phải là mày không ?
-Đúng, thượng
sĩ.
-Mày có
viết văn ?
Thụy
kể lược qua thời gian được cộng tác và làm việc ở
báo Lý tưởng. Thụy nhắc
đến anh em trong tòa soạn, và cho ông Thượng sĩ hay, hết khóa học ở
đây, rất có
thể Tòa Soạn kéo anh về làm việc như cũ.
Nhìn Thụy, ông nói:
-Hôm nào,
tao kể chuyện về đời quân ngũ của
tao rồi mày viết lại nghe.
-Vâng. Có dịp,
Thượng sĩ kề chuyện cho nghe.
-Hay hơn hết
là một buổi chiều vắng vẻ ngồi trong quán cà phê.
-Bên ngoài
trời có mưa không ?
-Có mưa,
chuyện càng hay.
-Vậy thì đợi
một ngày mưa, buổi chiều bắt đầu với vẻ buồn nhớ và đẹp.
-Mày thật có
tâm hồn nghệ sĩ .
Một giọng vui, Thụy hỏi:
-Thượng sĩ
có con gái không ?
-Có, nhưng
còn nhỏ.
-Cô bé học lớp
mấy ?
-Đệ Thất .
-Xinh không
?
-Mày thấy
tao được trai không ?
-Rất là
phong độ.
-Mày không
biết, tao có dính một em đầm bên tây.
-Thượng sĩ
đã qua Pháp học ?
-Mày tưởng
tao là ổ mì hả. Bố đi qua Tây hồi năm 51, con ạ.
-Bố học
ngành gì ?
-Cơ khí.
-Ở trường
nào ?
-Trường
Rochefort.
-Tôi nghe tiếng
trường Salon.
-Trường đó
là của Sĩ quan.
-Ờ, ờ của Sĩ
quan. Nhưng đã nhảy chuyện hơi lung tung, hỏi thăm cô bé .
-Sao, mày muốn
sao ?
-Ra nhà Thượng
sĩ thăm.
-Dễ dàng con
ơi. Nhưng mày cũng nên gắng lấy cái bằng Tú tài.
-Em có Tú
Tài I rồi, được không ?
-Cố lên.
-Vậy là chờ
cô bé lớn là được phải không ?
-Ông già mày
đây.
Thụy cất tiếng cười thật lớn. Ngày
hôm sau, có niềm vui khôn tả đến với anh, đó là lá thư của nàng Thiên
Nga gởi đến
Huế , những ngày thu
Thụy thân mến,
Có ngạc nhiên lắm không khi nhận được
thư này? Chắc là không, vì khi Thụy đã gởi
cuốn sách Tìm Hiểu Hội Họa đến cho tôi, thì hẳn nghĩ rằng, thế nào tôi
cũng
phúc đáp thư của Thụy .
Cám ơn Thụy đã tìm ra được cuốn sách
mà mình vẫn mong. Theo gói bưu kiện sách tới tuần trước, nhưng bận
chuyện học
nên đến hôm nay mới có được buổi rảnh viết thư này để cám ơn người bạn
rất dễ mến
ở xa.
Anh Nguyên nhắc đến Thụy luôn. Anh ấy
thật là yêu thương, nồng ấm khi nói cho mình nghe về người em trai của
anh. Anh
tả Thụy qua hình dáng và nói đến tính tình, nói về tâm hồn
làm mình cảm thấy mến, có thể hình dung ra Thụy
, một người lính Không quân hào hoa, luôn có được nhiều thì giờ nhàn
rỗi để đi
dạo phố buổi chiều sau giờ làm việc, và một người cũng đào hoa, quen
rất nhiều
cô gái. Và, hễ quen được cô nào, thì cô ấy trở thành nhận vật trong
truyện của
Thụy. Anh Nguyên có vẻ rất hãnh diện về Thụy.
Ngày đó Thụy về phép hai tuần lễ, thật
là tiếc mình không ở Huế vào thời gian đó để được anh Nguyên giới thiệu
cho gặp
một văn sĩ trẻ, bút hiệu TL.
Dù chưa gặp Thụy, nhưng một số truyện
ngắn Thụy viết ra, mình có đọc. Truyện Thụy viết thật nhẹ nhàng mình
rất thích,
và qua lối kết cấu cùng văn phong mình nhận thấy truyện Thụy viết có
sức truyền
cảm người đọc. Lời khen thực tình đó nghe, không phải vì bạn tặng cho
cuốn sách
mà mình đáp lễ bằng lá thư hân hoan này để làm quà đâu.
Hẳn chẳng cần nên phải
giải thích nhiều, nhưng chắc Thụy cũng
biết mình và anh Nguyên quen nhau và hai người đã có
một thứ tình cảm đặc biệt trong sự cho và
nhận một cách rất chân thành.
Hôm ấy mình trở ra Huế, nghe anh
Nguyên cho hay Thụy có về thăm nhà. Kỳ nghỉ phép vừa qua chắc vui lắm
phải không Thụy, rất tiếc mình và bạn
không gặp
nhau, nhưng ở phong cách người lính hào hoa trong binh chủng Không quân
thì thế
nào Thụy cũng gặp các cô gái Huế, mà chỉ cần gặp bằng mắt, nói bằng mắt
thôi là
nhà văn yêu mến của tôi dựng nên thành truyện rồi. Đó chính là cuộc
sống lãng mạn
của người nghệ sĩ.
Mùa thu đang làm cho cảnh vật trở
nên buồn, nhưng rất đẹp. Huế trong mùa thu, những buổi sáng sớm trời
lành lạnh
và có sương mù bao phủ trên sông. Với địa chỉ anh Nguyên cho mà Thụy
gởi sách,
đó là căn nhà mình mới thuê ở trong năm nay, năm trước chỗ ở của mình rất gần nhà của gia đìnhThụy . Tình
cờ, một buổi tối đi xem văn nghệ sinh viên, trong buổi hát ai cũng mặc
đồ dân sự
chỉ có anh Nguyên mặc đồ lính, trông là lạ, hay hay. Vậy rồi, tan buổi
diễn về
đến nhà, thì không ngờ nhà của anh Nguyên lại cạnh ngay bên nhà mình và
cùng một
lối cổng vào nữa mới chết chứ. Vậy rồi, ngay tối đó chàng và nàng quen
nhau, hợp
ý nhau, gắn bó với nhau. Và, nói cho Thụy biết, nhờ có mình nên anh
Nguyên hay
về nhà, chứ không ở lì trong trại lính như thể là lúc nào cũng nghe anh
nói
chuyện cắm trại 100% cả. Kể ra, mình là
một người bạn gái được anh nghe theo những lời khuyên nhủ và những lời
tâm sự.
Trong lá thư
của Thụy, nơi gởi là một địa chỉ KBC ở thành phố Nha
Trang. Như vậy, Thụy
không ở Sài Gòn mà đổi ra ngoài đó hay là sao ? Anh Nguyên cũng ngạc
nhiên, và ở
nhà ngoài này, chưa có ai nhận thư Thụy cả. Nên viết thư nói rõ cuộc
sống hiện
tại của Thụy để gia đình yên tâm.
Lúc này, Thụy có viết thêm được nhiều
truyện không ? Ở ngoài này, các tuần báo chỉ có ít không nhiều. Hàng
tuần, mình
có mua báo Kịch Ảnh để xem những bài điểm phim, vì mình rất là ghiền
nghe nhạc
và xem phim. Sở thích của mình, đã lôi cuốn anh Nguyên theo luôn.
Nói qua cho Thụy biết một chút về
mình nghe. Tên mình thì Thụy đã biết rồi khỏi giới thiệu, gia đình mình
ở Đà Nẵng,
trên khu phố chính đường Hùng Vương, nhà ở gần chợ Cồn trông qua bên
kia là rạp
hát Thanh Hoa. Rạp hát này, một nửa cổ phần trong đó là của gia đình.
Những năm ở Đà Nẵng mình học ờ trường
Sao Mai, rồi hết trung học mình ra Huế vào trường Mỹ Thuật, năm nay là
năm thứ
hai. Vậy là mình đã có hai năm học ở Huế, năm đầu lớp dự bị, năm kế năm
thứ nhất
và giờ là năm thứ hai.
Huế, thành phố thật dễ thương và hiếu
khách. Những năm học ở Huế của Thụy chắc cũng thấy là Huế đẹp, thơ
mộng, và biết
bao nhiêu tà áo trắng thành phố này hẳn cũng làm Thụy ghi nhớ nhiều.
Thời gian Thụy về thăm nhà, lúc ấy,
mình cũng vào Đà Nẵng sống với gia đình
vui mấy tháng hè. Những ngày hè thật rộng rãi nên mình để nhiều thời
gian vẽ
tranh sáng tác. Kể ra mình chưa phải là họa sĩ, nhưng mình rất đam mê
hội họa,
cũng như Thụy yêu thích thú viết văn vậy mà.
Một hôm đó, nhân được nghỉ ít ngày
sau chuyến công tác dân sự vụ, anh Nguyên vào Đà Nẵng tìm đến nhà mình.
Anh vào
đúng lúc mình chuẩn bị ra Huế học, nên anh ở lại chơi và đợi mình cùng
đi luôn.
Ngày đi, thay vì bằng phương tiện xe đò cho nhanh, anh Nguyên lại đề
nghị với
mình là đi xe lửa để thong thả ngắm quang cảnh, và những cảnh vật gợi
cảm hứng,
ngồi trên con tàu đang chạy mình đã vẽ tranh. Thật là lý thú quá Thụy ạ.
Ra Huế được ít hôm, vì trường chưa
khai giảng nên anh Nguyên và mình hai người đi ra thăm làng quê bên nội
cùng
bên ngoại của Thụy. Quê nội của Thụy tuy nghèo nhưng có cảnh đẹp của
biển vắng,
của những đồi cát mênh mông trải dài, xa, rất xa về phía biển.
Ở quê nội một ngày, mình lại theo
anh Nguyên thăm quê ngoại. Quê ngoại xa hơn, từ Diên Sanh lên xe lửa ra
Đông
Hà, lúc xuống ga đón xe lam về thị xã xa chừng hai cây số.
Đông Hà là nơi anh Nguyên và Thụy trải qua
nhiều năm thời thơ ấu. Anh Nguyên dẫn mình đến thăm lại căn nhà cũ của
gia
đình, ở căn nhà này, trong một truyện ngắn Thụy đã nói đến và mình có
đọc. Nhà
cũ vẫn còn, người thuê nhà là người cậu bà con bên ngoại của Thụy . Anh
Nguyên
vào thăm cậu mợ Tuyên giới thiệu mình với hai ông bà, rồi anh xin phép
người cậu
cho anh đưa mình đi thăm lại ở bên trong và ngoài căn nhà cũ.
Khi hai người trên con đường ra bến
đò dọc, anh Nguyên kể cho mình nghe về
trận cháy kinh hoàng thiêu đốt hết cả thị xã vào năm
1953, trước một năm
đất nước bị chia cắt. Giọng nói xúc động làm anh khóc khiến mình thấy
chạnh
lòng. Anh nói căn nhà khi chưa bị cháy đẹp lắm, ngói
mới đỏ rực, và trong nhà có nhiều phòng, có
căn gác phía trước và ở đằng sau nữa. Thời kỳ đó, mẹ anh buôn bán hàng
vải, gia
đình thực sự có cuộc sống sung túc hơn gấp
mấy lần bây giờ.
Từ nhà ra bến đò không xa lắm.. Vừa
đúng lúc tan phiên chợ, đò dọc nhổ sào rời bến. Đây là lần đầu tiên
mình đi đường
sông và đi đò. Thật là vui Thụy ạ. Đúng, mình cô tiểu thư thành thị về
thăm quê
nên nhìn quang cảnh những làng quê qua dáng màu khói lam, và ẩn đằng
sau lũy
tre xanh, thật là êm đềm như bài hát. Ngồi
bên anh Nguyên trên mạn thuyền, tay đặt lên vai anh làm điểm t?a, bên
dưới dòng
nước con đò lướt trôi, sao mình có cảm giác cuộc đời quá nhẹ nhàng. Và
trong cảm
giác ấy, khiến mình b?ng nhớ đến những câu thơ hay của nhà thơ Huy Cận.
Nơi
đây, cảnh làng quê hai bên sông, có những bãi cát, những cánh chim
trời, không
khí ồn ào buổi họp chợ, rất là tương hợp
với từng câu trong bài thơ Tràng giang của thi sĩ.
Thỉnh thoảng, sóng nước vỗ mạnh làm
con đò chòng chành, nhưng mình không sợ đâu, vì mình bơi rất giỏi,
những ngày
hè đi tắm biển mình bơi rất xa, không chắc bạn bơi đuổi kịp đâu.
Cũng hơn một giờ đồng hồ thì đò cập
đến bến làng quê. Khi theo hành khách xuống đò, chỉ có mình và anh
Nguyên là
dân ở tỉnh còn những khách khác là người trong các làng quê lân cận. Từ
bến, những
người khách kia vượt qua bãi dứa lên làng trên,
còn mình và anh Nguyên theo con đường mòn đi qua
đình làng, qua cánh đồng
ruộng, và khi thấy ngôi nhà ngói đầu tiên xuất hiện, anh nói đó là căn
nhà của
ông bà ngoại. Tự dưng, mình thấy nôn nao lạ thường. Tới gần cổng nhà,
bàn tay
mình ở trong tay anh Nguyên. Rồi bất ngờ quay đầu lại, đứng trước cổng
hai người
hướng mắt nhìn qua những đồng ruộng và nhìn về phía con đê, trên con đê
ấy, anh
Nguyên nhớ tới những ngày xưa của người mẹ,
những ngày ấy vào mỗi buổi chiều anh trông thấy mẹ
xuất hiện trên đường
đê với gánh hàng nặng trĩu trên vai đang trở về nhà. Về quê nội, cũng
như là
quê ngooại, mình thấy trong truyện Thụy viết luôn có
nhắc đến , giờ đã tìm đến nơi đây, lòng thật
quá đỗi yêu thương.
Xuân Thành là tên làng ngoại. Quê
ngoại của Thụy thực sự giàu có, không chỉ nhà ông bà ngoại thôi mà ở
các nhà bà
con và nhà dân cư trong làng nữa. Cậu Bính
là con nuôi của ông ngoại. Khi anh Nguyên giới thiệu
mình, cậu khen quá
làm mình cũng thẹn thùng, thế nhưng mình nhận ra đó tình thân quí mến
rất thực.
Nhà ông ngoại quá lớn và còn để lại
nhiều thứ quí giá, trong đó, có bàn ghế xưa, tủ chè đựng chén bát,
trướng liễn
và những kỷ niệm, bút tích của ông ngoại thời đi làm quan. Có một tấm
ảnh nhỏ
chụp mấy anh em có anh Nguyên, Thụy, Lăng và các con cô Quyên.
Bữa ăn với gia đình cậu Bính làm
mình cảm động. Sau bữa ăn, anh Nguyên đưa
mình ra giếng nước rửa mặt, rồi đi thăm vườn, anh đã hái cho mình đủ
thứ trái
cây thơm ngọt, đầy cả một túi.
Ngồi nghỉ ở nhà ông bà ngoại cũng đến
hai tiếng , sau đó, anh Nguyên dẫn mình đi thăm những người bà con
trong làng.
Khi mắt trời sắp lặn, anh Nguyên và
mình về lại nhà chào gia đình cậu Bính xong đi bộ qua làng Giáo Liêm, ở
đó có bến
xe lam rước khách, và đưa thẳng vào đến tỉnh Quảng Trị. Vì quãng đường
không
xa, nên từ ngoài đó vào tới Huế chỉ mất gần hai giờ đường.
Tối hôm đó, anh Nguyên và mình không
ăn cơm nhà, tìm đến tiệm phở ăn một bữa rối rất ngon.
Thư viết cho Thụy đọc, mình kể nhiều
chuyện linh tinh quá phải không ? Với tình thân, mình viết dài để Thụy
đọc cho
vui. Chưa gặp gỡ, nhưng có thấy trong ảnh chụp gia đình, mình đã hình
dung được
và hiểu rằng Thụy là một con người thật dễ mến. Hơn vậy nữa, bạn là một
nhà
văn, trong đó truyện bạn viết mình rất thích.
Khi nào đến kỳ nghỉ phép về thăm
nhà, tin cho mình hay.
Thân mến,
Thiên Nga
XII
Những ngày vắng Nguyên, buổi tối Nga
chăm chỉ học bài thi với hai môn quan trọng là Pháp Văn và Triết. Ở môn
tiếng
Pháp, nàng học các bài luận mẫu trong sách, và cứ mỗi tuần, lấy theo đề
hướng dẫn
nàng làm riêng một bài luận theo cách viết của mình. Mỗi câu, nàng sử
dụng văn
phạm bằng các thì thông thường để diễn đạt ý tưởng rõ ràng, không sợ
nhầm lẫn.
Về Triết, nàng học rất kỹ phần giáo khoa môn Tâm lý để
làm bài luận văn.
Tuy
sống một mình trong căn nhà thuê rộng rãi, nhưng Nga luôn cảm thấy thật
dễ chịu.
Sau hai giờ học thường lệ như là ở lớp, Nga để sách lại trên bàn lặng
lẽ đứng
lên đến mở chiếc tủ lạnh nhỏ tìm một quả chuối và lấy ra chai nước uống.
Nàng ngồi ăn, trong tâm trí cũng
nghĩ ngợi nhiều. Khi nhớ về cô em gái, nàng có cảm giác hai bàn tay mở
rộng như
một chiếc khăn lớn, và lúc đó, nàng tìm thấy từng món đồ chơi bày biện
đấy là
những kỷ niệm quí giá trong thời bé dại của
Mỵ Châu. Ngồi bên cạnh cô em gái trong hồi tưởng,
hai chị em chuyện trò,
và thời gian bên nhau này, hai người cùng nghe tiếng quả lắc đồng hồ
treo tường
đếm nhịp.
Rồi, từ hơn một năm qua, hình ảnh của
Nguyên tràn ngập tâm hồn nàng. Khi nào có gặp nhau, bên nhau, là hai
người cùng
mừng vui. Tình yêu làm cho những tiếng nói và niềm vui sáng lên trong
những nụ
cười. Có Nguyên, Nga được thêm một người anh giúp sức che chở Mỵ Châu.
Có Nga,
Nguyên tìm ra được ý tưởng thành phố này là nơi chốn riêng biệt của hai
người.
Tình yêu, mình đem ra cho và rồi nhận lấy là hạnh phúc thật tốt đẹp của
thời
gian. Nguyên luôn nhận ra mình đến với Nga bằng ánh mắt của nàng. Nga
có đôi mắt
rất đẹp, rất buồn, như là màu ánh sáng êm dịu nhất trong buổi chiều.
Và, sự xuất
hiện của Nguyên, anh thường đến tìm người yêu với bóng dáng một người ở
xa trở
về dưới cơn mưa tầm tã. Về đêm, mối tình trở nên huyền nhiệm, bao la.
Buổi đầu
tiên gặp gỡ, hai người ngồi trên ghế đá nhìn ánh trăng đêm tỏa xuống
dòng sông.
Từ đó, mỗi mùa trăng, hai người luôn có một câu chuyện tình thật là thơ
mộng.
Và, từ hôm Nga dọn đến chỗ mới này, những đêm có trăng, Nguyên và người
yêu thường
đi bộ chuyện trò bằng những tiếng và những lời của ánh trăng sáng, đến
tối
khuya về nhà, họ ngồi bên nhau một lúc nơi bậc thềm tam cấp trước cửa
nhà trước
khi rời nhau.
Ngày lễ trong tháng mười một này rơi
vào thứ sáu, như vậy, cộng thêm hai ngày cuối tuần học sinh các trường
có được
ba ngày nghỉ thoải mái. Vào dịp này, học sinh, sinh viên ở các tỉnh xa
thường về
thăm nhà. Buổi sáng, Kim đến tìm Nga với tin buồn là cô sẽ từ giã Huế theo gia đình vào Sài Gòn. Kim sẽ bắt đầu nghỉ
học sau kỳ lễ này, cô hứa với Nga, sẽ có thư từ liên lạc với nhau.
Nga mời bạn đi uống cà phê. Hai người
lên xe buýt xuống phố. Có một quán cà phê nhạc gần bờ sông. Cà phê ở
quán này rất
ngon, không khí thân tình, và giá một ly rất vừa túi tiền cho học sinh,
sinh
viên.
Bên dưới dòng sông, thuyền bè qua lại
thong thả. Ở một góc bàn phía ngoài, chỉ có hai cô gái ngồi. Ly cà phê,
dĩa
bánh bày trên bàn. Nga lấy một chiếc bánh mời bạn, xong đến nàng. Nga
ân cần hỏi
cô bạn về chuyến đi, về nơi chốn ở sẽ đến. Kể ra, đôi bạn cũng khá thân
khi gặp
nhau từ năm đầu tiên ở trường Mỹ Thuật. Lớp học có hai mươi sinh viên,
và chỉ
có hai cô gái, nên chi, họ cần đến sự thân thiện để giúp đỡ nhau. Năm
dự bị ,
môn học chính là vẽ tượng, giờ học môn này mỗi sinh viên lần lượt thay
nhau lên
đứng làm người mẫu trong nửa giờ để cho các bạn khác được nhìn, quan
sát, và vẽ
lên giấy. Ít ngày sau trong tuần lễ nhập học, Nga đã là tên gọi thân
thương, và
trở nên một bức tranh quí hiếm của trường Mỹ Thuật mà từ trước cũng như
về sau
này, nơi đây, vẫn chỉ có nàng thôi.
Ngôi trường và kinh thành cũ quanh
đây, khi nàng xuất hiện đã làm thay đổi hẳn. Nàng in dấu lên từng viên
gạch những
bước chân của nàng. Và, bạn cũng thấy, nàng cho bạn những ý tưởng mới
mẻ về sự
hòa hợp giữa quá khứ và cuộc sống hiện tại. Những buổi ở lớp học, dáng
bước đi
của nàng luôn tạo nên một sự yên bình. Vẫn gương mặt đẹp ấy, nhưng mỗi
mùa bạn
sẽ nhìn thấy khác đi. Trên đôi mắt nhung lụa của nàng, bạn nhớ ra từng
chiếc áo
dài nàng đã mặc, màu hoa cúc mùa xuân, lan trắng mùa hạ, mây tím mùa
thu, và
xanh rêu là vào lúc mùa đông về.
Kim cũng có một đôi nhận xét làm Nga
hài lòng. Kim cho rằng, đối với Nga tình yêu nàng tìm kiếm phải đẹp
hoàn hảo
như nghệ thuật trong hội họa. Thiên Nga cũng hay nói với cô bạn thân về
Nguyên,
những đặc điểm ở chàng mà nàng yêu thích.
Ngồi chuyện trò một lúc, hai người rời
quán dạo phố. Thành phố thật vui vào ngày lễ, trên đường Trần Hưng Đạo,
đông
người đi bộ và người ta dựng xe đạp, xe gắn máy sát bên bờ đường. Dọc
theo đường
này những cửa hiệu buôn bán nằm sát liền nhau. Kim đề nghị Nga tới tiệm
ảnh để
chụp vài tấm hình làm kỷ niệm. Nga đồng ý, hai người đến cửa hiệu Kinh
Đô, vào bên trong sudio, đứng chụp chung
bốn kiểu
ảnh.
Khoảng gần trưa, Nga và Kim chia
tay. Về nhà, sau bữa ăn qua loa với gói mì nấu Nga lên giường nằm nghỉ
đọc tờ
báo Kịch Ảnh. Trên tờ báo này, có rất nhiều bài điểm phim, và phim ảnh
là một
món giải trí của nghệ thuật Nga yêu thích nhất. Năm đầu tiên ra Huế,
hai cuốn
phim để lại cho nàng một nỗi nhớ khó quên, đó là phim Valse dans l'ombre và Autant en emporte le vent, cả hai
phim cùng một nữ tài tử nổi tiếng người Anh Vivian Leidge đóng. Và, bạn
biết
không nàng tiểu thư Thiên Nga không chỉ có năng khiếu về họa mà còn ở
môn Kịch.
Nàng diễn rất thành công vai Tây Thi, trong vở kịch Cô gái nước Việt.
Tờ báo buông rơi, nàng thiếp ngủ lúc
nào không hay. Khi thức dậy, đã hơn một giờ trưa, Nga thong thả rời
giường đi
ra nhà sau ngồi xuống bể nước rửa mặt, xong trở lên nhà thu xếp quần áo
bỏ vào
túi xách. Đi xa, Nga rất ít mặc áo dài, nàng thường mặc áo sơ mi, quần
tây cho
tiện việc di chuyển trên xe tàu.
Mới đó, đã hai tháng Nga vắng nhà.
Huế -Đà Nẵng, xa cách hơn một trăm cây số, chỉ mất ba giờ xe nên đi về
trong
ngày rất dễ dàng. Nhưng bạn sẽ luôn có cảm tưởng là hai nơi thật xa
nhau, khác
biệt nhau khi nhìn thấy biển và những con đèo xuôi về phía Nam.
Nga đến Huế một mình. Và, dù biết
nàng không sinh trưởng ở đây, nhưng thành phố này đã là người bạn rất
thân
thương của nàng. Huế, dành cho Nga mỗi ngày một phong cảnh. Ở từng
phong cảnh
đó, bạn luôn tìm thấy nàng nổi bật qua bóng dáng chiếc áo dài. Với nàng
qua áo
tím, mái tóc mượt mà yêu thương ôm ấp trên lưng áo là hình ảnh của
những đám
mây trở về trong mùa gió. Khi hình ảnh nàng hiện lên trong chiếc áo
trắng, bạn
như trông thấy rõ trên con đường nàng đi
một mình lung linh bông hoa phượng nở đỏ rợp khung trời. Thiên Nga là
tình khúc
Hạ trắng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, và
nàng cũng là của mùa thu với hương thơm hoa lan ngào ngạt. Thiên Nga đã
góp lại
những hình ảnh đẹp của mình rất nhiều. Những hình ảnh này mãi mãi là
thời thiếu
nữ hạnh phúc của nàng. Bên cạnh mỗi tấm ảnh xếp trong cuốn album , nàng
ép một
cánh hoa pensée. Nàng mong đợi, tìm ai, yêu ai, bạn chưa hề rõ. Nhưng
với Huế,
bất cứ là dòng sông, chiếc cầu, mái nhà,
trường học, từng sự vật ấy luôn nhận ra có sự hiện nhữu của nàng.
Nga chỉnh lại sợi dây đồng hồ đeo
tay rồi đứng lên. Nàng đóng cửa sau, một thoáng nhìn lướt qua phòng
sinh hoạt của
mình, nàng đến giường kéo sửa lại chiếc gối để ngay ngắn xong đi ra
phòng
khách. Vừa mở cánh cửa, nàng trông thấy cả dòng sông đang ngập nắng,
phía bên
kia ngôi trường, những cửa sổ các lớp đều mở, nhưng bên trên tầng lầu
hai các
phòng học đều trống vắng. Hôm nay là ngày nghỉ lễ của học sinh.
Với cái túi nhỏ đeo vai, túi xách cầm
bên tay trái, Nga chậm bước đi ra phía cổng. Nàng dừng lại dưới bóng
cây chờ
xe. Vừa lúc ấy, từ dưới bến sông có một người đàn bà trẻ ôm thau quần
áo giặt
đi lên. Nàng biết người đàn bà đó là ai, nhưng không quen thân nên
không cất tiếng
hỏi chào. Tuy vậy, trong một thoáng, mắt hai người nhìn nhau.
Có một lần gặp người đàn bà này,
Nguyên nói với Nga:
-Chị ấy là
xướng ngôn viên.
-Giọng Bắc
hay Huế.
-Giọng Bắc.
Những bài anh viết hồi đó, đều là giọng đọc của chị ấy.
Nga cười hỏi:
-Khi nghe giọng
cô xướng ngôn viên này đọc, anh cảm động không ?
-Anh rất cảm
động khi được nghe bài viết đầu tiên của mình.
-Thời anh
làm việc cho Đài lâu không ?
-Năm anh còn
học ở đây. Thời đó thi tuyển phóng viên, chỉ mình anh đậu.
-Giỏi quá hả.
Nguyên kể lại hôm dự thi tuyển có mười
bạn, đề thi là tin thời sự về biến cố cuộc
đảo chánh 1/11/63 được đọc trong 5 phút, anh
là người viết đầy đủ, vừa dành các sự kiện cho bản
tin, vừa sống động
như một bài phóng sự.
Từ xa, người xích lô thấy một cô gái
đứng dưới bóng cây, anh biết nàng đợi xe nên đã tắp vào bên đường khi
tới gần.
Anh ta hỏi ngay:
-Đi bến xe
nào cô ?
-Bến Đông
Ba.
Khi yên chỗ ngồi, Nga để túi xách
ngay dưới chân.
-Cô về thăm
nhà ?
Nga hỏi lại khi nghe giọng nói:
-Anh cũng
người Quảng ?
-Dạ phải.
-Gia đình
anh ở ngoài này ?
-Dạ phải.
Lên phía cầu, xe rẽ trái và anh xích
lô bắt đầu đạp nhanh. Nga vẫn thong thả để mắt nhìn quang cảnh hai bên
đường,
bên phải là các công sở, trường học, bên trái có công viên và dòng
sông. Trên
con đường, những hàng cây nối dài , thẳng tắp. Những lúc sau này, nghĩ
nhiều đến
Nguyên nên mỗi chuyến về thăm nhà rồi trở ra lại mùa học, Nga không còn
có ý tưởng
của một người biết mình sắp đi xa hay đang trở về nữa. Nguyên đang là
một khung
cảnh trong ký ức nàng.
Vừa tới bến, Nga là hành khách chót
lên xe. Và chỉ ít phút sau, xe rời bến. Ngồi bên cửa, Nga lại nhìn
thành phố
qua những con đường bên này và bên kia sông Hương. Với hai năm học vừa
qua, Nga
đã quen Huế và rất yêu Huế. Nhưng lúc này, Nga chợt mang nỗi buồn xa
cách một
người bạn. Lớp học năm thứ hai còn mười bốn người, Nga và Kim là con
gái. Bây
giờ Kim đi, đơn độc mình Nga, thiếu vắng cô bạn làm Nga lo ngại. Nàng
luôn có cảm
giác sợ, dù rằng, trong lớp anh em nam sinh viên tỏ ra rất thiện cảm
với nàng.
Người nào cũng nhìn nàng với cặp mắt trìu mến, và rất muốn được có sự
săn sóc ,
giúp đỡ nàng. Những buổi học trong lớp, cũng như các buổi học vẽ ngoài
trời,
khi đi xa, đám coi trai hết sức là lăng xăng ai cũng thích xách giá vẽ
và cầm hộ
cho nàng các thứ dụng cụ khác để nàng được đi thảnh thơi, được chuyện
trò một
cách thoải mái. Cố nhiên, anh nào cũng mong có một chỗ ẩn núp trong cặp
mắt,
trong con tim của nàng. Và bạn đừng có tưởng cô Thiên Nga chỉ là một cô
gái dịu
dàng, e thẹn đâu, cô cũng có sự đùa giỡn , chuyện trò rất thông minh,
và thật
dí dỏm trong những câu trả lời với bọn con trai yêu thích, tán tỉnh
mình. Đến
các ông thầy trẻ, cũng yêu mến nàng, và khi vẽ tranh chân dung, các vị
này luôn
vay mượn người mẫu là nàng để vẽ. Nhưng ai cũng biết, người yêu của
nàng là
Nguyên. Những người thầy dạy vẽ ở trường Mỹ Thuật đều là những người
bạn thân của
Nguyên. Và, họ cũng nhận ra rằng, cặp tình nhân Nga và Nguyên rất đẹp
đôi. Huế,
thành phố của giới trí thức khoa bảng,
nhưng không hẳn rằng các cô gái của thế hệ mới ở
đây, dễ bằng lòng đón
nhận cuộc hôn nhân với những người có bằng cấp, hay giàu có của cải,
vật chất.
Nguyên không có bằng cấp Đại Học, nhưng trong quân đội anh là Sĩ quan
trẻ rất
xông xáo, nhanh nhẹn, trước khi nhập ngũ anh tạo được tên tuổi mình là
một ký
giả có tài năng và nhiều kinh nghiệm.
Trên chuyến xe đang chạy, ngồi bên cửa
nhìn ra hai bên đường, Nga cảm thấy như qua từng phút giây cuộc đời của
nàng có
những đổi thay lạ lùng, lúc nó đến như một phép thần tiên, lúc nó chợt
hiện lên
một bóng đen kỳ lạ gây cho nàng nỗi lo âu về ngày mai.
Nga vẫn luôn lo âu khi nghĩ về
Nguyên. Nỗi lo ấy, đầu tiên là mẹ nàng. Người mẹ nào cũng hết lòng lo
lắng cho
con, muốn rằng, con mình được chỗ nương nhờ tốt đẹp. Từ lâu nay, mẹ nàng đã gặp nhiều người đến mai mối, dạm hỏi con
gái của bà cho những người con hoặc bà con của họ. Những người trẻ này
về học vấn
và công danh thực sự thành đạt , đó là Bác sĩ, Kỹ sư, Dược sĩ, Giám đốc
ngân
hàng, không có ai trong đó là quân nhân
cả. Nhưng đấy là về danh vọng và vật chất,
về tình yêu, hẳn quan niệm của bà khác hẳn cô con gái. Nga biết mình có
nhan sắc,
nàng có thể lấy chồng giàu sang và được sống, được chiều chuộng như bà hoàng, nhưng nàng không mong, cũng
chẳng
màng một hạnh phúc quá dễ dàng như vậy. Nàng và Nguyên quen nhau trong
một sự
tình cờ ngộ nghĩnh ở quán cà phê, anh đã
yêu nàng, bằng tình yêu thật đơn sơ , chân thật. Và, những ngày tháng
đã qua rồi,
Nguyên dành cho Nga được một tình cảm vừa là của một người tình, vừa là
sự gói
ghém một tấm lòng quê hương trong đó nữa.
Một trạm gác bên ngoài ga Lăng Cô ,
những xe đến đây thường chạy chậm, có xe ngừng hẳn tài xế coi lại dầu
nhớt, nước
máy, trước khi lên đèo. Và, có khi, hành khách được nghỉ chừng năm,
mười phút
mua hàng quà. Những người đàn bà, những đứa nhỏ từ bên phía nhà ga đua
nhau chạy
băng qua đường để bán hàng quà mỗi khi thấy có xe ngừng. Đó là loại xe
khách lớn,
các xe nhỏ đi suốt, thường chạy luôn.
Nga chợt có cảm giác không khí lạnh
thấm đang thấm qua người. Hải Vân, tên con đèo huyết mạch rất thân
thương với
người trong vùng đất của hai xứ Huế và
Quảng. Hai mươi bốn cây số, chia đôi mỗi xứ một nửa chặng đèo, và giây
phút
luôn reo một niềm vui, đó là lúc tới giờ xuống đèo. Khi những tiếng còi
xe vang
lên mời gọi hành khách, khi một chiếc xe đầu rời đỉnh đèo, những xe
khác nối
theo, lúc ấy, hành khách bỗng cảm thấy lòng mình rộn rã. Quê nhà, gia
đình, bạn
bè, cảnh sinh hoạt quen thuộc đều cùng chung một sự đợi mong. Phía Nam của Hải Vân là Đà Nẵng, thấp thoáng
trong ánh nắng, trong cảnh trời may, thành phố nơi xa ấy dần hiện lên.
Phía Bắc
của Hải Vân là Huế, khi xe vừa xuống hết đèo, lòng mỗi người nhận ra
ngay được
tiếng nói thân thuộc của xứ mình.
Những chiếc xe sau cùng vừa dừng ở đỉnh
đèo, đúng lúc có hồi kẻng báo giờ đổ đèo. Ngồi ghế bên cửa, Nga thấy dễ
chịu với
cảm xúc của mình. Nàng đi loại xe nhỏ, nên qua từng đoạn dốc đèo, xe
chạy thật
êm, ngon trớn. Lúc này, trong xe hành khách quen lạ cùng lúc nổi lên
tiếng chuyện
trò râm ran. Và, ngước nhìn qua vùng sáng của mây và nắng giữa bầu
trời, phía
nơi đó, mọi người đều biết đó là thành phố Đà Nẵng. Rồi tiếng nhạc
trong radio
vang dậy nghe thúc dục, rộn rã niềm hân hoan.
Hết con đèo, đoạn đường còn lại vào
thành phố khoảng hơn mười cây số. Khi xe đưa khách về tới, rẽ vào bến
đậu,
trong quang cảnh buổi chiều, trời vẫn còn đầy nắng.
Sự tình cờ Nga gặp anh Kiêm. Anh
lái xe nhà binh đưa một người bạn đi chuyến
xe về Sài Gòn. Gặp Nga, anh rất ngạc nhiên, và rồi sau khi chia tay với
người bạn,
anh bảo Nga lên xe đưa về nhà. Anh Kiêm
là người con bà dì Thân , chị đầu của mẹ nàng.
Từ bến xe về nhà Nga nằm trên phố
Hùng Vương không đến mười phút. Khi xuống xe, Nga mời ông anh họ vào
nhà chơi,
nhưng anh Kiêm có việc phải trở lại đơn vị.
Bên trong nhà, Mỵ Châu bỗng vui lên
khi nghe tiếng chị Thiên Nga, cô biết ngay, người chị yêu dấu của cô đã
về thăm
nhà. Bà mẹ nói:
-Má tưởng
mai con mới vào ?
-Hôm nay là
ngày lễ nên con vào sớm.
Thiên Nga đi với mẹ vào thăm Mỵ
Châu. Vừa trông thấy chị và mẹ, đôi mắt Mỵ Châu mở tròn xoe. Mời bạn
tới đây gặp
Mỵ Châu, nhìn cô gái đôi mắt mở to, gương mặt dịu hiền, bạn cứ ngỡ cô
bé là
thiên thần.
Vui và cảm động khi gặp lại cô em
gái, Nga khóc. Mỵ Châu cười:
-Chị Thiên
Nga về nhà là em vui. Chị đừng khóc.
Với nụ cười còn thấm ướt nước mắt,
Nga tới gần ngồi xuống bên Mỵ Châu.
-Em nghe nhạc
?
-Em mới nghe
được bản Chiều tà thật hay.
-Chị rất
thích bản này.
Rồi Nga mở túi xách, lấy ra những thứ
quà mua ở Huế.
-Ngày mai chị
có đi đâu không ?
-Không, chị
luôn ở bên em .
-Ngày mai em
ngồi xem chị vẽ tranh.
Nga
gật đầu, nàng vội đứng lên kéo bức màn nhìn qua
phòng vẽ của nàng. Tất cả
đều được giữ nguyên. Căn phòng này dành riêng cho Mỵ Châu và Thiên Nga
. Hai chị
em bên nhau để có những lời tâm tình. Và, mỗi ngày, Mỵ Châu đều có mẹ
vào thăm.
Ngồi với em một lúc, Nga lên nhà
trên gặp ba nàng đang chơi cờ tướng với một người bạn. Nàng lên tiếng
chào, sau
đó đi về phòng mình.
Bữa ăn tối, có Nga về cả nhà rất
vui, trò chuyện râm ran. Rồi tiếng bà mẹ hỏi:
-Cậu Nguyên
lúc này ra sao ?
-Dạ, anh đi
công tác. Có đoàn văn nghệ ở Sài Gòn ra trình diễn cho lính tiền đồn.
-Cậu có
hay về thăm con không ?
-Dạ có, anh
về luôn, đang giúp con học luyện thi.
-Học cả hai
bên có thì giờ không ?
-Có. Những tối
không trực, anh Nguyên về giúp con học bài.
Ngừng một lát, Nga tiếp lời:
-Anh rất muốn
con lên Đại Học để lấy chứng chỉ. Khi ra trường đi dạy, ngoài môn vẽ
ra, con có
thể dạy thêm những môn khác nữa.
Bên kia bàn, hai cô em của Nga đang
chuyện trò sôi nổi về một cuốn phim vừa xem ở rạp Thanh Hoa. Đó là phim
chưởng
Tiếu Ngạc Giang Hồ phỏng theo tiểu thuyết Kim Dung. Loại tiểu thuyết
này, Nga
và Nguyên đều không đọc. Vốn yêu thích tiểu thuyết nhẹ nhàng, Nga là
độc giả
trung thành của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Hai nhân vật Nga yêu thích là
Loan ở cuốn
Đôi Bạn và Thu trong BướmTrắng. Nhưng hay nhất, với Nga, vẫn là cuốn
Hồn Mướm
Mơ Tiên.
Sau bữa ăn tối , trong nhà đi nghỉ,
chỉ mình Nga ngồi nói chuyện riêng với bà mẹ. Một cách nhẹ nhàng, người
mẹ
thông báo :
-Ông bà Hiếu
tới đây chiều hôm qua.
Nga đáp lời ngay:
-Ông bà Hiếu
đến thăm gia đình là hảo ý của họ. Nhưng chuyện của con, má đừng để họ
bàn tới.
-Đó là gia
đình bề thế mà con.
Nga nói:
-Con biết.
Anh Nghĩa con trai của ông bà Hiếu là Bác sĩ. Rồi bà Châu, lại cho
người mai mối
với mẹ xin con cho ông Dược Sĩ. Đâu phải có địa vị và bằng cấp đem lại
hạnh
phúc cho con.
-Nhưng cuộc
sống con sẽ được đảm bảo, bà mẹ nói.
-Rồi đây,
con cũng phải đi làm để sống chứ đâu nhờ vả ai được.
-Nga, má rất
muốn con nghe lời má.
-Không bao
giờ con dám cãi lời má. Nhưng cho cùng, con vẫn thấy anh Nguyên và con
rất hợp
tính tình với nhau. Với lại, con đang học, đến năm sau mới ra trường.
Người mẹ nhìn con gái của mình. Hình
ảnh cô con gái yêu đã làm bà nhớ lại nhiều, rất nhiều kỷ niệm giữa bà
và người
chồng bây giờ. Ngày xa ấy, ở một ngôi trường trung học thành phố Hội
An, ông
Tri, từ miền Nam ra đến trường bà đang dạy nhận nhiệm sở. Và, trong
buổi đầu
tiên gặp ở văn phòng giáo sư, ông Tri đã bị tiếng sét tình ái trước một
vẻ đẹp
duyên dáng của bà Thu. Ngồi ở bàn khách trò chuyện, ông Tri uống chén
nước trà
của bà Thu mời. Cử chỉ lịch thiệp và vẻ
đoan trang của bà làm ông Tri cảm mến. Ly nước trà, lúc đưa lên miệng
uống mắt
nhìn qua bà Thu, ông cảm thấy hương vị trà thật thơm.
Đã khuya, hai mẹ con chia tay về
phòng nghỉ. Nga còn đọc sách trong đêm khuya đến hai giờ sáng.
Về với gia đình, không khí thật ấm
cúng, nhất là những gì Nga làm em Mỵ Châu vui bên mình. Nhưng ngày nghỉ
rồi
cũng qua nhanh.
Trưa chủ nhật, sau bữa ăn Quỳnh lấy
xe gắn máy đưa chị Thiên Nga ra bến xe
đi Huế.
Nàng trở lại căn nhà trọ của mình,
xa lạ một chút, nhưng rồi trở nên quen như mọi ngày.
Nguyên rất nhớ đến Nga, anh đang
mong ngày về. Năm đêm trình diễn của đoàn hát Sài Gòn rất thành công,
tạo được ấn
tượng tốt. Mỗi Tiểu đoàn được xem một đêm trình diễn đủ các thể loại ca
nhạc kịch,
rất vui, sống động, và anh em văn nghệ rất sung sướng cảm động trước
tình nghĩa
của các vị Tiểu đoàn trưởng và binh lính. Những cái bắt tay ấm áp,
những bức ảnh
chụp với của một vài người lính với các ca sĩ mến mộ, những câu chuyện
về chiến
trường, những bài nhạc và tiếng đàn cùng hòa nhịp, bao nhiêu đó, đoàn
hát chất
đầy kỷ niệm tình yêu thương của những người lính ngoài chiến trường.
Sau các buổi
dành cho lính, đoàn cũng dành một buổi hát cho dân làng, và tập trung ở
một địa
điểm sân vận động nằm trung tâm các làng Hải Phượng, Phong Hoa, và Yên
Hồ. Từ
trẻ em đến các cô gái, những người mẹ, cả những người già đều cảm thấy
vui, hạnh
phúc được một đêm nghe hát. Mỗi bài hát kết thúc, tiếng vỗ tay vang dội
cả góc
trời, và rồi từ rừng núi bao quanh, gió thổi những âm vang ấy trôi giạt
về gây
một nỗi nhớ thật thương yêu, đậm đà. Và, đến những màn kịch vui, ai
cũng cười
chết bỏ.
Nguyên luôn là người ra đứng trước
máy vi âm nói lời giới thiệu trước khi đoàn hát khởi sự cho chương
trình với đề
tài Hát cho những người lính và những người dân vùng hỏa tuyến. Những
lời mở và
khép của Nguyên rất là cảm khái, tất cả
khán giả đều lắng nghe. Ở đêm chót hát cho dân làng
nghe, đứng ở bên
ngoài, nhìn bóng dáng, những khuôn mặt người dân hạnh phúc với đêm vui
trong
giá rét, Nguyên chợt nghĩ đến Thiên Nga và cảm thấy yêu nàng, nhớ nàng
hơn lúc
nào hết. Thiên Nga là hình ảnh của một tiểu thư, đã quen sống với thành
phố,
nhưng nàng là một cô gái có tấm lòng rất là nhân hậu. Nguyên không
những yêu
thích vẻ đẹp duyên dáng của Nga qua hình ảnh dịu dàng của một thiếu nữ,
mà anh
yêu thích hơn hết là cái vẻ buồn vui hòa dịu thật đẹp trên cặp mắt của
Nga. Nga
cũng có một giọng nói nhẹ, rất êm ái, và qua cách diễn tả một câu
chuyện, giọng
nói của nàng nghe như đó là sự dỗ dành, sự ràng buộc các mối liên hệ
trong cuộc
sống. Và rồi Nguyên tự nhủ, ngày về, Nguyên sẽ kể lại hết cho người yêu
mình
nghe về một chuyến đi theo đoàn hát.
Từ tiền đồn, có bốn chuyến bay trực
thăng đón phái đoàn nhưng hầu hết anh em nam nữ nghệ sĩ
muốn được đi bằng xe nhà binh trở về Huế theo
đường bộ. Anh em cùng nói, họ muốn được nhìn thấy quang cảnh những
đường đèo,
những núi đồi nơi các đơn vị bộ binh đóng quân , và các làng mạc nằm
ven những
vùng chiến trận.
Vì là đi xe, thời gian mất khá lâu kể
cả có những lúc dừng lại cho đoàn ngắm cảnh và chụp hình lưu niệm. Về
đến Huế
đã chiều, Nguyên thay mặt đơn vị mời cả đoàn đi ăn cơm Huế, giải trí
một đêm
vui, rốt cùng, thật nặng lòng với Huế ,
và nhớ Huế thật đau thương trong biến cố Mậu Thân, nên đoàn đồng ý ở
lại thành
phố lưu diễn một đêm ca kịch ở nhà hát Hưng Đạo, sau buổi diễn này,
đoàn thực sự
kết thúc chuyến đi.
Khi nhận được hảo ý của đoàn, đài
phát thanh Huế cho loan tin, rồi những biển
quảng cáo treo đầy trên các đường phố và giá vé vào
cửa được bán chia
làm ba hạng, hạng danh dự, hạng nhất, và hạng bình dân.
Nguyên đã trở về nhà. Anh trích số
tiền lương đưa cho mẹ, và cho mấy đứa em vé đi coi hát.
Tối hôm ấy, Nga trang điểm thật kỹ,
trong lúc ngồi đợi, Nguyên mở những tập vở và sách học của Nga ra xem.
Vừa
trang điểm, vừa nhìn khuôn mặt mình hiện bên trong tấm gương Nga mỉm
cười thích
thú. Nàng biết mình đẹp, và nàng cũng đã có một người yêu xứng đôi với
mình. Những
bức ảnh chụp hai người bên nhau, bạn bè xem, ai cũng khen là rất hạnh
phúc.
Nguyên chợt lên tiếng:
-Anh có nhờ
Thụy mua cho em cuốn Tìm hiểu hội họa.
-Em đã nhận
được sách.
-Vậy à.
Cuốn sách để trên kệ, Nguyên với tay
lấy xem và anh thấy có lá thư của Thụy gởi cho Nga nữa.
-Để em gởi
tiền lại cho Thụy .
-Em đừng gởi.
Coi như nó mua tặng cho em.
-Có thư
Thụy gởi đó, anh đọc đi.
Thư viết ngắn, chỉ vài dòng. Nguyên
đọc xong thư , nói:
-Em anh, bề
ngoài tuy khô khan nhưng rất có tâm hồn.
Nga quay lại nhìn Nguyên. Trong
thoáng ấy, nàng mường tượng người em cũng giống Nguyên, cùng lúc, nàng
đang muốn
chọn lựa màu áo nào thích hợp với đêm nay đi dự buổi ca nhạc.
Nga trang điểm xong rồi đi thay quần
áo. Nàng mặc áo dài tím, khoác ngoài chiếc áo vareuse nhung màu hạt dẻ.
Nguyên ngắm nhìn khuôn mặt kiều diễm
của Nga, trong lặng yên, đôi mắt anh như là ánh sáng buổi chiều trên
dòng sông.
XIII
Vào hai giờ ăn trưa và chiều ở phạn
xá, Thượng sĩ Trạch thường có mặt để xem cách nhà thầu cho ăn uống, và
luôn ghi
nhận những lời khiếu nại của anh em. Những lúc khóa sinh về trại, thỉnh
thoảng
vào buổi tối ông đến chuyện trò cùng anh em, có thuốc lá mời nhau hút,
và những
nhật báo cũ ông còn giữ cũng đem vào cho anh em mượn đọc. Những giờ
nghỉ ở
doanh trại, anh em thường tụ năm, tụ ba chuyện vãn, hoặc chơi domino,
cờ tướng,
cờ ca rô, và đến cả kể chuyện chưởng của Kim Dung rất lý thú. Thỉnh
thoảng cũng
có vài cá nhân xích mích, gây gổ, nhưng rồi anh em can gián, hòa nhau
trở lại.
Trong túi xách của Thụy có mang theo
một ít cuốn tiểu thuyết và sách học. Mỗi tối, anh dành thì giờ học bài
các môn
Vạn Vật, Sử địa, và Triết là môn chính yếu vì anh chọn thi ban C. Vào
hai ngày
cuối tuần, lúc cảm thấy trống vắng, Thụy mới đi ra phố chơi. Thụy đi
một mình,
ra phố có phim hay thì mua vé vào xem, không có , đi qua các nhà sách
đứng ở
hiên ngoài đọc báo cọp, sau đó ghé quán cà phê làm một ly, hút ít điếu
thuốc lẻ
xong quay về trại. Trên đường về, Thụy hay đi dọc theo con đường bờ
biển. Biển
Nha Trang rất đẹp, ở đây, cảnh buổi sáng và cảnh buổi chiều trông rất
là thơ mộng,
trữ tình. Ngày chủ nhật biển đông vui, trên bờ cát có nhiều cặp tình
nhân ngồi
bên nhau chuyện trò. Những cô gái ở thành phố này cũng rất yêu thích
các chàng
SVSQ. Ở đây có ba quân trường, một quân trường Hạ sĩ quan Đồng Đề, hai
quân trường
đào tạo Sĩ quan là Không Quân và Hải Quân. Khóa sinh như anh là đám lính trơn, ít khi được mấy cô em nữ sinh con nhà
lành quan tâm. Thụy đang cố gắng học nốt cho xong cái nợ mảnh bằng Tú
Tài II, để
đi Sĩ quan Kỹ thuật, và chẳng hề mong là cầm mảnh bằng đó để đi cặp bồ
với một
em gái nào trong thành phố này cả.
Lá thư cô Thiên Nga nhận đã lâu, Thụy
đang cất giữ, đọc lại đã mấy lần, vậy mà, chưa biết cách làm sao để
viết một lá
thư thăm hỏi, vừa có ý bày tỏ những mối đồng cảm của mình. Và, cứ mỗi
lần đọc
thư, anh lại hình dung, nghĩ nhiều đến nàng, rồi ước mong một ngày được
gặp. Ở
Nha Trang, có một cửa hiệu chuyên bán những mặt hàng lưu niệm, nhưng
Thụy không tìm ra được một một món quà
tặng vừa ý
để gởi cho người bạn gái của anh mình. Và rồi, Thụy nghĩ thêm, hết khóa
học về
Sài Gòn, anh sẽ tìm những tranh vẽ , những thắng cảnh chụp in trong
carte
postale gởi làm quà, vừa có ý hay, vừa gây được tình thân cho nàng và
anh trong
mối liên hệ gia đình.
Hôm nay nhà bếp cho ăn món thịt hem
và món đậu hầm rất ngon. Nhưng món canh
cải quá nhạt thếch. Những đồ ăn dành cho lính ăn thường ít khi có đồ
tươi mà
toàn đồ hộp được lấy từ các khẩu phần dã chiến. Theo đúng quyền lợi,
mỗi tháng
binh lính đều có nhu yếu phẩm gồm gạo sấy, thuốc lá, đồ hộp. Những thứ
này về
tay ai, họ không biết nơi khiếu nại rõ ràng nên đành thua thiệt. Thụy
đói nên
ăn nhiều cơm. Ăn xong, anh còn dằn một cà mên đầy mang về phòng, trù bị
cho buổi
tối đói. Cơm này, anh ăn với nước tương.
Khi Thụy về phòng nghỉ, giờ này lại
có một số bạn ưa đi ra phố chơi đêm. Cũng gần thôi, xóm chị em ta ở
đường Hàm
Nghi cách cổng trại của căn cứ chừng non cây số. Khi anh em đi khỏi,
căn phòng
trở nên trống trải vì ít người.
Thụy đem để cà mên cơm trên giá đựng
đồ xong trở ra ngoài sân, tản bộ hóng mát. Từ hôm ra ngoài này, Thụy
chưa đến
thăm hai bà dì bên họ ngoại. Nhưng luôn luôn anh nhớ
nghĩ về người thân của mình. Ngày mãn
khóa học tân binh về Sài Gòn, Thụy có viết thư thăm dì Kiều và Hường
Chi. Hai
tuần sau, anh nhận được thư dì Kiều. Dì Kiều còn trẻ chưa có gia đình.
Một tối hôm đó hai dì cháu chuyện trò như
hai người bạn.
Người đầu tiên được nói tới là ông ngoại bác. Sau đó, là chuyện những
người
trong gia đình dì vào khoảng thời gian bốn năm lưu lạc sống nhiều nơi.
Thế rồi,
bằng một sự sắp xếp chuyện của mình, dì Kiều kể cho Thụy nghe những tháng năm dì ở nhà dòng, trong bóng tối
trầm lặng, lòng thành kính, khuôn mặt các bà xơ còn trẻ là những người
bạn quí
của dì. Ai cũng nghĩ rằng, những cô gái bỏ đời vào nhà tu thường có
những
nguyên nhân thầm kín liên hệ đến bản thân trong đó hầu hết là tâm sự
gia đình
hay chuyện tình ái. Ở dì Kiều, không có nguyên cớ đó. Riêng tư của dì,
đó là ý
nghĩ cao đẹp muốn được dâng mình lên Đức Chúa Kito.
Có một chiếc phi cơ vừa cất cánh,
sau đó, bay vượt qua triền núi. Trời bắt đầu tối dần, Thụy đi bộ đã xa
nên quay
bước trở lại nhưng không về phòng. Có ánh đèn sáng trong hội quán, Thụy đến đó, rồi đẩy cửa vào.
Bốn bàn bi da đang có người chơi, những
trái bi chạm nhau chạy trên bàn. Thụy vào bàn trong cùng coi hai người
đang
chơi. Đây là cơ chung kết. Người đánh bi trắng có chấm đang dẫn trước 5
điểm.
Cách đánh anh ta nhẹ nhàng, điêu luyện. Trên tường chiếc đồng hồ quả
lắc chao động
nhẹ nhàng.
Thụy đứng yên chỗ coi hai người chơi
cho đến khi kết thúc. Có vẻ hai người là bạn thân với nhau. Sau khi để
cơ lại
trên bàn, người đánh thắng gọi chủ bàn tính tiền giờ và tiền nước. Rồi
cả hai
cùng ra về.
Thấy Thụy một mình, anh chủ hỏi:
-Bạn không
có tay chơi ?
-Không.
-Chơi với
tôi đi.
Thụy ngần ngừ rồi hỏi:
-Nếu thua,
ông cho ghi sổ không ?
Với cái khoác tay bất cần, anh chủ
bàn nói:
-Khỏi. Anh
chơi với tôi cho đỡ buồn. Anh thức khuya được không ?
-Dễ dàng.
-Anh gọi nước
uống đi.
-Cho tôi ly
trà đá.
-Không làm
ly cà phê.
-Không, đêm
mất ngủ.
Hai người chưa bắt đầu còn hỏi chuyện
nhau. Anh chủ bàn người Qui Nhơn vào Nha Trang đã lâu, nhưng giọng nói
vẫn
nguyên âm sắc. Cô con gái mang khay nước ra, hai người cầm ly uống một
hớp rồi
bắt đầu.
-Anh đi trước,
chủ bàn nói.
Thụy chọn bi không có chấm. Cú
départ của anh rất đẹp, ba trái bi chạy tán loạn trên mặt bàn xong nằm
thế giò
gà lúc đứng yên. Thụy tiếp tục đánh, anh gom ba bi về góc giậu. Khi
Thụy đánh,
anh chủ chú ý từng đường cơ của anh. Anh ta gật đầu, vừa cho rằng Thụy
đánh
hay. Và khi buông cơ, Thụy được 8 điểm. Đến lượt anh chủ đi, Thụy cũng
nhận ra
đường cơ của anh ta rất sắc nét.
Hai người thay phiên nhau đánh. Số
điểm mức là 50. Khi biết cách đánh của nhau, hai người không còn lấy
điểm dễ
dàng như trước nữa.
-Anh là khóa
sinh phải không ?
-Đúng rồi
anh .
-Học ngành
gì ?
-ALO/FAC
Anh chủ vừa đi một đường cơ rất đẹp,
Thụy khen hay. Hai bên hơn kém nhau một điểm. Và rồi cú xổ gom bi lợi
hại giúp
Thụy dẫn điểm và tới đích. Qua cơ thứ nhì, Thụy rất muốn nhường anh
chủ, nhưng
anh ái ngại sợ thua cơ thứ ba khó mà từ chối chuyện trả tiền giờ, nên Thụy đánh kỹ, tuy lấy được điểm cũng khó
khăn, nhưng Thụy cũng thắng được ván nữa.
Cuộc chơi ngừng vì đã khuya Hai người
uống nước, chuyện trò mấy câu xong chia tay. Vừa về tới phòng, Thụy
chợt dừng bước
lại khi thấy anh em đang tụ tập chơi bài.
Một người bảo:
-Nhảy vào mầy.
-Thôi, không
có tiền.
-Tao cho mượn.
-Khỏi.
Thụy về chỗ mình, giăng màn xong lấy
một cuốn truyện ra đọc để dỗ giấc
ngủ.
Rồi anh buông màn, lặng im . Thụy bỗng cảm thấy bồn chồn một chuyện gì
đó không
rõ. Khoảnh khắc ấy rơi vào lãng quên, Thụy biết mình đang ngủ say và
nằm mơ thấy
lại thành phố thời thơ dại của mình.
Nửa đêm, mưa rớt xuống mái tôn. Tiếng
mưa làm Thụy thức giấc. Căn phòng tối hẳn, Thụy ngồi dậy chốc lát sau
lại nằm.
Tiếng mưa nghe rõ, tự dưng gây nỗi nhớ muộn màng. Thụy mở to cặp mắt
tìm kiếm
hình ảnh Thúy Hà. Một lúc rất lâu, nàng mới xuất hiện. Và từ lúc đó,
anh nghe
rõ hết rõ một câu chuyện kể của nàng.
Ở tuổi hai mươi, dù thất bại một đôi
lần trong thi cử nhưng nó chưa hẳn muốn bạn ngừng để sớm ra đời. Thụy
cũng đã
có viết thư khuyên nàng nên học lại, cố gắng hoàn tất năm cuối cùng để
lên Đại
Học.
Thời gian nghỉ học, giúp việc trong
nhà chỉ là tạm thời khuây khỏa, sự mong đợi của nàng ở nơi Duy vẫn là
hơn hết.
Thế nhưng, chuyện thi cử của Duy cũng hỏng. Hai năm liền, Duy vẫn không
lấy nổi
chứng chỉ dự bị khoa học. Mỗi tuần Duy lên nhà người yêu hai lần, còn
nàng
không mấy thích xuống nhà Duy, vì ở đó, không khí trong nhà ngột ngạt
với tiếng
cãi vã ăn thua nhau trong bài bạc. Từ
nhà ngoài vào đến nhà trong, ngày nào cũng có mở hội. Người trong nhà
đánh ăn
thua với nhau, và Duy cũng ngồi đánh bạc khi vắng Thúy Hà.
Căn nhà Duy khá lớn, rộng rãi. Ở Đà
Nẵng trước đây ba của chàng là một trong những doanh gia giàu có nhất
thành phố.
Một dãy nhà phố năm căn trên đường Hùng Vương cho thuê ba căn, còn hai
căn làm
đại lý xuất nhập cảng. Một rạp hát ở đường Hùng Vương, ông cũng có hùn
vốn với
người bạn. Gia đình Duy gốc gác người Triều châu. Nhưng bốn năm trở lại
đây công
việc làm ăn thất bại, và trong năm qua, ông lâm trọng bệnh. Ông vào
bệnh viện rồi
về nhà, rồi trở lại bệnh viện. Mọi việc, vợ và các con ông quản lý. Duy
là con
út trong nhà nên rất được nuông chiều. Chàng được gởi vào học ở Sài Gòn
rồi trở
ra lại ngoài này.
Thực ra, Duy học hành không đến nổi
tệ, nhưng vì yêu sớm, từ khi quen Thúy
Hà, anh chỉ ước mơ được lấy nàng làm vợ. Thúy Hà cũng yêu Duy, nhưng
nàng chưa
muốn lập gia đình. Nàng sống với tình yêu bằng sự cởi mở, không nhất
thiết nàng
chỉ có một mình Duy mà những năm qua, gặp lại bao nhiêu người xưa cũ
nàng vẫn
vui đón tiếp, chuyện trò, có lúc đi chơi phố. Đôi khi, giữa Duy và nàng
có sự
xích mích, nhưng Thúy Hà cho rằng đó là sự bồng bột của tuổi trẻ. Tuổi
trẻ
không thích ràng buộc. Nàng muốn mình sống theo ý muốn, dù biết rằng,
trong các
chàng trai thì Duy là người nàng vừa ý hơn hết. Luôn luôn nàng vui,
thoải mái,
vì thế Duy nghĩ rằng nàng là một cô gái sống cởi mở, không muốn khép
kín, không
bày vẽ sự thủy chung.
Một ngày hôm đó nàng ra Huế thăm Nguyệt,
người bạn thuở nhỏ. Nhà Nguyệt ở đầu vùng ngoại ô, quay mặt với con lộ
chính. Khi tới lối rẽ vào sân, con sông
trước mặt nhà xuất hiện. Ở dưới, cạnh bến đá có trồng cây du thật cao
phủ xanh
bóng im xuống mặt nước. Và, từ khoảng
sân cũng nhìn thấy những bậc thềm tam cấp xây bằng gạch dưới một mái
hiên ngói
trải dài. Hôm ấy chủ nhật, Thúy Hà được cả gia đình Nguyệt
đón tiếp, coi cô như người con đi xa về. Tiếng
trò chuyện thật vui, rất tự nhiên khiến cho Thúy Hà cứ tưởng như đây
chính là
nhà của mình. Một giờ sau, bữa ăn được dọn ra với tất cả các món Huế do
mẹ của
Nguyệt làm lấy. Món nào Thúy Hà ăn cũng ngon, cảm thấy mê người, nhất
là vị ớt
trong nước mắm dậy lên thứ chất cay khiến cô cảm giác như mình đã để lộ
vẻ đẹp
trên gương mặt quá rõ. Vừa ăn, các em Nguyệt luôn tươi cười nhìn ngắm
Thúy Hà
nghe giọng cô nói tiếng Bắc thật mềm ngọt, trong vui như tiếng mưa vào
buổi
sáng sớm.
Đến tối, hai cậu con trai chơi cờ,
còn mấy cô gái cùng ra vườn ngồi trên những chiếc ghế thấp trò chuyện,
vừa ngắm
trăng. Đêm, vùng ngoại ô thật thanh vắng. Mỗi lần nghe tiếng nói, hay
tiếng động
những chiếc xe đi qua ngoài con đường, bạn có cảm tưởng như bao nhiêu
vang âm đều
trở thành cơn gió làm lung lay ánh sáng những ngọn đèn đường. Câu
chuyện thật gần
gũi, giọng trầm ấm, vừa vui, Thúy Hà làm mấy chị em Nguyệt bị lôi cuốn,
rất
thích nghe. Ngày hôm sau, có Phương Mai lên nhà chơi. Tuy mới gặp lần
đầu nhưng
Phương Mai tỏ ra thân thiện, mến Thúy Hà ngay. Nàng khen Thúy Hà đẹp,
duyên
dáng nhất là cặp mắt nhỏ bé sáng như hai vị sao. Phương Mai với dáng người cao lớn, mái tóc dài phủ kín
vai. Hôm sau, buổi sáng Nguyệt, Phương Mai và Thúy Hà đi chơi phố, ghé
tiệm phở
ăn trưa, xong vào rạp hát Châu Tinh xem cuốn phim Mirage de la vie. Tan
buổi
hát, ba người tản bộ dạo chơi một quãng trên con đường dọc theo bờ sông, sau đó đón xe buýt về nhà. Buổi chiều
tới, nắng thật ấm, nồng dậy mùi thơm cây trái chín nơi khu vườn tỏa ra.
Ba người
nghỉ mệt chốc lát, rồi đi tắm. Con sông bắt đầu vui nhộn, tiếng bọn trẻ
vừa bơi
vừa la hét. Hai cô em của Nguyệt cùng ba chị bạn tắm ở quãng trên, nước
trong,
năm người cùng bơi ra xa một cách thư thả, tận hưởng tất cả hương vị
nước mát
trên dòng sông.
Những ngày ấy rất vui, nên mùa hè
còn mãi. Nhưng chỉ ở với bạn một tuần vừa đủ hạnh phúc của chuyến đi,
Thúy Hà
trở về nhà. Nàng đi chuyến xe lửa khởi hành vào lúc buổi trưa. Đoàn tàu
chạy
không nhanh, ngồi bên cửa toa tàu cô gái có sự an nhàn thưởng thức
những cảnh
trí, nhà ở, đồi núi, sông biển xuất hiện hai bên đường. Trong mỗi cảnh
đó, có
những cảnh gây nên sự liên tưởng về quá khứ, về những nơi chốn mà tưởng
chừng
nàng đã đến đó qua giấc mơ.
Tàu ngừng lại khi tới ga Đà Nẵng.
Tàu sẽ đỗ lâu để thay đầu máy lớn, đồng
thời đón thêm khách đi vào những ga phía
Nam. Những tiếng rao hàng quà, cảnh những người đi buôn đưa hàng hoá
lên tàu
gây sự huyên náo trên sân ga ngay lúc
tàu vừa mới ngừng , giờ đã lặng yên. Len lỏi trên lối đi, Thúy Hà đeo
túi xách
bên vai, cô mặc chiếc áo sơ mi trắng, quần tây xanh trông thật dễ
thương. Vừa
đi, cô đưa mắt nhìn con tàu đang đậu, ngửi mùi vị ẩm khô trong khung
cảnh chật
hẹp của nhà ga, và cô như vẫn còn lưu luyến, ước mong có ngày trở lại
Huế.
Bỗng nhiên cô gái giật mình dừng bước.
Tiếng ai cất lên gọi cô, rồi mất hút. Sau đó, tiếng ấy lại cất lên,
nghe quen
thuộc. Cô gái đưa mắt nhìn quanh, nhưng cô chẳng nhận ra ai cả. Ngay
phút đó,
cái bóng người lính trẻ bước rất mau tiến lại gần làm cô gái chú ý. Và,
lúc ngừng
bước người lính nhìn cô hỏi:
-Thúy Hà phải
không ?
-Vâng.
Người lính mỉm cười, nói:
-Anh Thụ
đây, em nhớ không ?
Cô gái nhìn lại người kia, ít giây
sau mới gật đầu, nói:
-Vâng, anh
Thụ. Ngày trước anh ở Quảng Trị phải không ?
Người lính xuất hiện trước mắt cô
gái là SVSQ trường Võ Bị Đà Lạt. Thụ đi mười lăm ngày phép về thăm gia
đình.
Hôm nay, đã hết hạn phép, anh trở lại trường và không ngờ đi trên
chuyến tàu
này anh gặp lại người xưa.
Thụ mời Thúy Hà vào quán nước ở trong
ga. Cô gái không từ chối, và cô cũng rất muốn được nghe chuyện của
chàng trai
trước đây đã quen mình.
Lúc kéo ghế ngồi, cả Thụ và cô gái đều
rất tự nhiên. Người chạy bàn đến, Thụ hỏi:
-Em uống gì
?
-Cho em ly
nước chanh.
-Còn tôi, một
ly cà phê.
Thụ đưa mắt nhìn Thúy Hà thật trầm lặng.
Anh có ý muốn kể lại cuộc đời của anh nhưng chưa biết
mở lời bằng cách nào.
-Em rời xa
Quảng Trị lâu chưa ?
Cô gái đáp:
-Gia đình em
vào đây đã bốn năm rồi.
Người chạy bàn mang nước ra, đặt
chiếc khay nhôm xuống bàn tròn. Thụ đẩy
nhẹ ly nước về phía cô gái. Còn cà phê, anh cho mấy muỗng đường vào
xong khuấy
nhẹ. Cô gái bỗng cười nói:
-Anh còn nhận
ra được em hay thật.
Không nhìn lại cô gái, vừa để chiếc
muỗng xuống dĩa nhỏ, Thụ nói:
-Lúc thấy
bóng em xuất hiện, ngồi trên toa anh nhận ra ngay.
Cô gái uống hớp nước, hỏi:
-Lúc này anh
ra sao ?
-Anh đã đi
lính. Anh đang học ở Võ Bị Đà Lạt, năm tới đây ra trường.
Cô gái cố giữ vẻ mặt nghiêm trang
khi nhìn lại người quen ngày xưa. Lúc này, cả hai đều cùng hiểu buổi
gặp nhau
nó muốn cho mỗi người mong nói ra được những điều mình muốn nói.
-Gia đình
anh vẫn ở Quảng Trị ?
Thụ gật đầu, rồi nói thêm:
-Anh vừa đi
phép về thăm nhà.
Không cần hỏi ý cô gái, Thụ bật
diêm đốt điếu thuốc. Những sợi khói dâng lên in ra hình bóng trước
gương mặt
người lính. Cô gái cũng đang chờ đợi điều anh ta sẽ nói. Và rồi, anh ta
lên tiếng:
-Không ngờ,
xa nhiều năm nay chúng ta gặp lại.
Thúy Hà không đáp lời. Nàng vẫn
đưa mắt nhìn anh một cách nghiêm trang, thẳng thắn. Và dù rằng, nàng đã
thấy
trên ve áo của anh có gắn alpha nhưng đối với nàng không quan trọng.
Anh ta hỏi
nàng:
-Em thấy,
anh đã thay đổi nhiều phải không ?
-Vâng.
Thúy Hà cảm thấy không tiện nói gì
thêm, nên nàng im lặng. Từ trong nhà ga, tiếng người nữ nhân viên phát
thanh
báo hiệu giờ tàu khởi hành. Thụ có vẻ bối rối, không kịp uống nốt phần
cà phê vội
đứng dậy đi vào quầy trả tiền .
Thúy Hà đứng yên chỗ chờ anh. Lúc
trở ra, Thụ nhìn vào mắt cô gái rất lâu. Thế mà, anh chỉ nói:
-Cho anh gởi
lời thăm gia đình em.
-Cám ơn anh.
Chúc anh đi mạnh khoẻ.
Thúy Hà đưa tay cho anh
bắt. Không vội, Thụ nói:
-Anh mong nhận
được thư của em .
Thúy Hà nhìn Thụ, lặng im. Rồi có
tiếng còi tàu báo hiệu.
-Thôi. Anh
đi mạnh khoẻ.
Thụ quay gót chạy nhanh. Thúy Hà
nhìn theo Thụ bước lên toa, và lúc tàu lăn bánh quay đầu nhìn lại, anh
vẫn thấy
Thúy Hà còn đứng đó. Anh vẫy tay chào, cô gái đáp lại.
Nhà xa, Thúy Hà đón xích lô về. Người
đạp xích lô còn trẻ, anh ta không hỏi han, chuyện trò với cô gái. Mới
đi có mấy
ngày, nhưng trở về, Thúy Hà tự dưng thấy lạ, trên đường xe chạy mắt
nàng nhìn
thấy phố xá với vẻ rụt rè, bỡ ngỡ.
Vào lúc trưa, mẹ của Duy và cô Thi đến.
Vừa bước chân vào nhà, hai người tỏ vẻ nôn nóng. Không
khí lặng đi trong giây lát. Trên chiếc
bàn bốn cái tách đã bày sẵn, ông Kha ngồi yên, còn bà Uyên rót nước trà
mời
khách.
-Mời bà và
cô xơi nước.
Bà
Uyên vừa ngồi xuống, mẹ Duy mở lời
ngay:
-Ông nhà tôi
mới ở bệnh viện về. Bác sĩ đã bó tay, cho biết nhà tôi chỉ còn sống ít
ngày nữa
thôi. Tôi và cháu Thi vội vàng lên đây để thưa với ông bà về chuyện hai
cháu.
Nhà tôi, rất ước mong được thấy ngày vui của hai cháu trước khi nhắm
mắt.
Bà mẹ Duy nói những câu sau
cùng, nước mắt ứa ra. Bà lấy khăn mùi xoa trong ví ra lau. Cô Thi ngồi
bất động.
Cô để mắt chú ý đến màu nước đậm trong tách trà. Rồi cô cầm tách lên
uống một hớp.
Bà
Uyên đã hiểu ý định của mẹ Duy,
trong ít giây cố tìm một đôi lời an ủi, vừa có ý giải thích, nhưng rồi
bà không
thể nói ngay được. Bỗng bà cất tiếng gọi Vân. Nghe tiếng gọi, Vân đáp
dạ và đi
từ nhà dưới lên. Có mặt Vân , người mẹ hỏi:
-Chị Hà nói
hôm nào vào con ?
-Hình như
hôm nay chị vào, mợ.
Quay sang mẹ Duy và cô Thi, bà
Uyên nói:
-Cháu Hà ra
Huế thăm người bạn.
Mẹ Duy nói:
-Sự việc bất
ngờ quá. Theo mong ước của chồng, tôi lên đây xin ý của ông bà chấp
thuận cho
hai cháu được phép làm đám cưới để chạy tang.
Lúc này, ông Kha lên
tiếng:
-Hai cháu mới
làm lễ hỏi chưa đầy bốn tháng. Tôi nghĩ, nếu phải tổ chức đám cưới ngay
thì hơi
vội vàng, dù hiểu rằng, đó là ước mong của ông bà. Bên gia đình chúng
tôi, các
bác ở Sài Gòn vừa viết thư cho hay là khi nào có đám cưới của cháu Hà
các bác sẽ
ra dự, vì thế, xin bà và cô đây hiểu cho rằng chuyện một đời của hai
cháu rất
là quan trọng và ngày đó chính là ngày vui cho cả hai gia đình. Thế
nên, chúng tôi
rất sẵn lòng đợi sau một hay hai năm, mãn kỳ tang của ông, sẽ chọn ngày
tháng tốt
để làm hôn lễ cho hai cháu.
-Thưa ông
bà, tôi rất hiểu chuyện một đời riêng của hai cháu hết sức quan trọng.
Nhưng với
cháu Hà nhà tôi rất thương quí, đặt niềm tin về cháu rất nhiều, vậy
nên, ông rất
ước ao được nhìn thấy cháu Hà là con dâu của gia đình mình để nhắm mắt
cho toại
nguyện.
Mẹ của Duy lại khóc. Ông Kha và
bà Uyên trước tình cảnh này không muốn làm cho không khí trong nhà trở
nên ngột
ngạt, nghĩ ngợi ít giây, hai ông bà cùng nói:
-Hôm nay
cháu Hà đi Huế chưa vào.
Rồi bà Uyên tiếp lời:
-Thôi. Có
gì, tôi hỏi lại cháu rồi thưa chuyện với ông bà sau.
-Vâng, dù
sao cũng có ý kiến của cháu. Được như thế nào, xin ông bà thông báo cho
biết.
Hai người khách đến gặp trong nửa
giờ, vội ra về ngay. Xuống xe, trả tiền xong Hà bước nhanh băng qua
đường, lúc
vào nhà nàng chợt có cảm giác hụt hẫng vì một sự trống vắng lạ lùng.
Ông bà Kha
ngồi bên chiếc giường đang lặng im, suy nghĩ. Hai người đã ngừng nói
chuyện khi
thấy bóng cô con gái trở về.
-Có chuyện
gì không mợ ?
Người mẹ bảo:
-Con về mệt,
nghỉ đi, đến tối mợ nói chuyện.
-Nhà có
khách phải không mợ.
-Có.
-Các em đi
đâu mợ ?
-Đi biển từ
lúc sáng. Mình Vân ở nhà.
Thúy Hà bước qua lối hẹp đi lên
gác. Đây là căn gác dành riêng cho nàng. Trở về đây, không khí căn gác
đã bao
trùm lấy ngay gương mặt của nàng và cho nàng nhận ra cái tình cảm thân
thiện của
riêng mình. Nàng dừng chân ở chỗ bậc thang, đưa mắt ngắm khung ảnh. Bên
cạnh tấm
ảnh của nàng là ảnh của Duy. Duy đang là Sinh viên Đại Học Khoa Học
Huế. Duy
còn rất trẻ, gương mặt đẹp, dáng vẻ tao nhã, là con người mà Thúy Hà
yêu nhất.
Với nàng, nàng cũng biết mình đẹp, và trước khi Duy quen nàng, đính hôn
với
nàng, nàng đã gặp rất nhiều chàng trai say mê, ngưỡng mộ nàng, từ những
năm
nàng ở Nha Trang, rồi Quảng Trị, rồi Huế, và ở thành phố này nữa. Nàng
đang ở
tuổi mười chín, đẹp, nét quyến rũ của nàng có từ đôi mắt nhỏ, giọng nói
thật dịu,
vừa trong sáng.
Vân ngừng đọc sách, lên tiếng:
-Chị mới về.
Thúy Hà hỏi:
-Khách là ai
vậy ?
-Bà Lương.
-Có chuyện
gì không ?
-Em không rõ
lắm.
Thúy
Hà mở túi xách lấy ra một
ít thứ quà để trên bàn. Vân mỉm cười rời khỏi giường, đứng dậy đi tới
bàn cầm
gói mè xửng mở ra lấy một miếng.
-Đi vui
không chị ?
-Vui.
-Bao giờ chị
Nguyệt xuất ngoại ?
-Tháng tới.
Thúy Hà đi vào bên trong bức
màn kéo kín lại. Nàng thay quần áo, mặc vào người bộ đồ thường ở nhà.
Trên cổ
áo vuông rộng để hở, khuôn ngực nàng trắng nõn. Nàng trở ra ngồi xuống
giường
trò chuyện với Vân. Vân nói những chuyện vui trong mấy ngày nàng đi
vắng, và ăn
kẹo, cô cảm thấy rất ngon.
Ba anh em Vũ, Hằng và Phi đi
biển về. Trong lúc ba anh em lên tiếng ồn
ào về buổi đi chơi biển, trên gác, hai chị em Hà vẫn thì thầm kể tiếp
câu chuyện.
Vân nghe chị Hà nói về anh Thụ, người con trai ngày xưa ở Quảng Trị đã
hết sức
yêu nàng. Khác với vẻ thư sinh của Duy, trên gương mặt Thụ khắc rõ
những nét lạnh
lùng, cương quyết. Lúc hai người gặp lại nhau, Thúy Hà nhận ra sự xúc
động lẫn
vẻ bối rối của Thụ trong giọng nói, nhưng không vì thế mà chàng tỏ ra
yếu đuối
vì tình yêu khi chàng đã trở thành một người lính. Cái bóng của Thụ
chạy nhanh
về phiá con tàu vụt qua trí nhớ Thúy Hà. Giây phút đó, nàng muốn cho
anh ta biết,
nàng và anh đã phải xa cách thêm một lần này nữa.
Bữa cơm tối, cả nhà ngồi ăn
chung trên chiếc bàn khách dài dưới ánh sáng ngọn đèn néon. Bữa ăn vẫn
mang
không khí thân mật của gia đình như mọi ngày. Nhưng, trong bữa ăn, Thúy
Hà đã
không kể lại chuyến đi vui của mình, vì nàng nhận ra nó sẽ không xoá
tan nỗi buồn
lo của ba mẹ nàng.
Sau bữa ăn, vào lúc 9 giờ
tối, ở bàn khách Thúy Hà ngồi hầu chuyện với ba mẹ. Nước trà tuy nguội,
nhưng vẫn
còn đậm. Thúy Hà cầm tách nước xoay nhẹ, dáng nghĩ ngợi. Người mẹ mở
lời:
-Bà Lương và
cô Thi đến đây lúc con chưa về.
-Có chuyện
gì không mợ ?
-Ông Lương
đang hấp hối, mới đưa từ bệnh viện về nhà lúc trưa. Bên đó, muốn xin
làm đám cưới
chạy tang.
-Ba mợ trả lời
sao ?
Bằng một giọng thân thiết,
ông Kha lên tiếng:
-Con và Duy
đã yêu nhau, điều đó ba mợ rất bằng lòng. Nhưng chuyện cưới hỏi ngay
lúc này
không có sự chuẩn bị là không tốt cho con, cả gia đình nữa. Ở Sài Gòn,
các bác
rất mong ra dự đám cưới của con, còn ở đây, bà con cũng đông đều muốn
được thấy
ngày đám cưới của con là ngày vui thực sự, chứ không thể là một ngày
vui, sau
đó phải buồn vì chuyện tang chế trong gia đình. Ba nghĩ, dù ông Lương
mất, đợi
một hoặc hai năm mãn tang để tổ chức lễ cưới, cũng không mất lâu thời
gian. Nhiều
lứa đôi thương yêu nhau, đợi nhau đến năm sáu năm, mười năm mới lấy nhau cũng là thường, và riêng con hẳn
còn quá trẻ, còn đang tuổi đi học, chuyện này con nghĩ sao ?
Không do dự, Thúy Hà
đáp:
-Con tuỳ
theo ý của ba mợ.
-Không, ba mợ
để tùy con. Nếu con nghĩ, khoảng thời gian hai năm đợi là lâu, thì con
có quyết
định của con. Ba mợ rất thương con, muốn theo ý mong muốn của con.
-Vâng, con
hiểu lòng của ba mợ.
Nàng đáp, tự nhiên trong
câu nói khiến nàng bật khóc.
XIV
Thời còn là tân binh chỉ học về căn
bản quân sự, bây giờ qua chuyên môn, các khóa sinh đều cùng thấy những
môn mình
học như Khí tượng, Không lưu, Truyền tin, Quân báo, Chiến tranh tâm lý
đòi hỏi
đến kiến thức ở bậc trung học đệ nhị cấp.
Năm ngày trong tuần, hai buổi học mỗi
ngày, mỗi buổi bốn tiếng. Trường hợp có giảng viên đau ốm, bận họp, hay
công
tác giờ học đó anh em được nghỉ tại lớp tự động chia các nhóm sinh hoạt
học tập.
Nhờ các buổi này, anh em cùng ôn bài, vừa thảo luận, trao đổi ý kiến đỡ
thời
gian trong buổi tối về phòng. Mỗi tuần, cũng có hai giờ học tiếng Anh.
Nhưng
môn này, không học theo cách nhà trường, mà chỉ cần biết những từ
chuyên môn cộng
với một số câu được diễn giải qua phương tiện truyền tin. Vì rồi đây,
khi trở
ra đơn vị, các khóa sinh trở thành hiệu thính viên, qua máy truyền tin
không chỉ
liên lạc với quân bạn bằng tiếng Việt mà
còn với quân Đồng minh bằng tiếng Anh. Riêng Thụy, học Anh ngữ anh có
được thêm
cái lợi dành cho môn thi tiếng Anh ở kỳ
thi Tú Tài. Viên Trung sĩ dạy môn tiếng Anh, anh ta cũng đã tốt nghiệp
một khóa
Anh ngữ ở trường Không quân Lackland bên tiểu bang Texas. Tới giờ học,
Thụy có
mang theo sách học cuốn Khảo sát Anh ngữ, lâu lâu, được anh giảng bài
giúp, nhờ
vậy, Thụy dần hiểu khá thêm về cách dùng văn phạm và các thành ngữ.
Ngày hôm đó ở Đà Lạt, một buổi sáng
đi ngang qua căn nhà cũ của Thùy ở trên đường đất đỏ Phan Bội Châu Thụy
cố mong
tìm gặp lại Thùy, nhưng không thấy. Sự tình cờ, buổi sáng chủ nhật tuần
rồi đi
phố chơi, anh lại gặp nàng. Và, khác hẳn lần trước, lần này nàng đưa
anh về đến
nhà, giữ lại ăn cơm, chuyện trò, và đặc biệt được xem cuốn album của
nàng thời
còn đi học. Có những tấm ảnh chụp ngày đi cắm trại ở Suối tiên, và
trong số các
bạn cùng chụp chung trước căn lều vải bên dòng suối, có Thụy nữa. Hai
người bạn
ngồi gần nhau ở phòng khách, và cùng phá lên cười khi xem chung mấy tấm
ảnh thời
đi học. Thụy mở lời xin tấm ảnh, nàng gật đầu lấy trong cuốn album ra
và để vào
phong bì thư.
Nhà Thùy ở khu Phước Hải, trên đường
Huỳnh Thúc Kháng, và chỉ cách căn nhà bác Định ngày xưa bốn căn. Nhà
làm nền
cao, có bốn bậc cấp đi lên, đằng sau có sân rộng và căn vườn trồng cây
ăn trái.
Với tình bạn cũ thân thiết, Thùy đưa Thụy đi xem bên trong và ngoài
nhà. Thụy rất
là muốn hỏi chuyện riêng của Thùy, nhưng rồi cứ ái ngại.
Sau bữa ăn, không nghỉ trưa hai người
vẫn ngồi ở phòng khách chuyện trò. Những cô bạn học của Thùy, có một số
du học,
và hầu hết đều đi lấy chồng. Những bạn của Thùy có Hoa là Thụy biết rõ hơn cả, vì dạo đó, Thùy và Hoa rất
thân nhau. Khác ngày xưa là học trò, giờ hai người đã lớn, và nàng đã
có gia
đình, dù rằng cuộc sống có lẽ không mấy vui. Thụy lặng im ngước mắt
nhìn lên
chiếc đồng hồ treo tường. Lúc ấy, Thụy cũng bắt gặp cái nhìn của Thùy
hướng về
mình.
Khi đã đến giờ , Thụy đứng dậy xin
kiếu từ. Ngay lúc ấy, Thùy bảo anh đợi,
rồi nàng quay bước đi vào nhà trong. Cũng khá lâu, nàng trở ra và đưa
cho Thụy
một chiếc phong bì dày cộm màu vàng được dán kín.
Nàng nói:
-Đây là kỷ
niệm năm xưa của anh, em gởi lại để anh cất giữ.
Thụy nhìn Thùy, cảm thấy bâng
khuâng. Rồi, anh nói:
-Cám ơn
Thùy.
Trên tay Thụy, giờ là một kỷ niệm trở
về, và anh biết mình đang nắm giữ một vật gì. Thụy chợt hỏi:
-Em vẫn còn
buồn lắm ..., phải không ?
-Không,
không có gì cả
-Tại sao ?,
em nói cho anh hiểu đi.
-Không,
không có gì cả.
-Em không hiểu
anh sao ?
-Hiểu chứ.
Không hiểu, sao mà em còn cất giữ được kỷ niệm của tập lưu bút này.
Về trại, Thụy nôn nao mở chiếc phong
bì và lật từng trang của xấp truyện ngắn cũ chăm chú đọc. Miền sương
mù, trong
từng giòng nắn nót Thụy đã viết, hình ảnh Thùy hiện ra và biết bao
nhiêu kỷ niệm
của nàng rất là thân thiết, cảm động. Anh chợt nhớ câu nàng nói, không,
không
có gì cả, em hiểu anh.
Ít ngày sau, Thụy lấy truyện ngắn
cũ, vẫn giữ cái tựa Miền sương mù và chép sang một bản mới, xong qua
hộp
thư KBC 4721 của Trung tâm huấn luyện,
anh gởi bài về cho Tòa Soạn Tiểu thuyết Thứ Năm.
Đây cũng là tờ tuần báo đánh dấu kỷ
niệm buổi ban đầu Thụy bước vào nghiệp văn của cuộc đời. Khi xa Huế vào
Sài
Gòn, lòng Thụy nặng trĩu biết bao nhiêu nỗi lo buồn, về nỗi khó khăn
gia đình,
về tình yêu đơn độc, về tuổi trẻ không tìm thấy tương lai vì học hành
dang dở,
và đến nơi thành phố này tìm kiếm việc làm cũng thật khó khăn. Sự thể
chọn con
đường nhập ngũ đi lính, nó như đã là một hồ sơ làm sẵn cả rồi tùy thuộc
thời
gian đến nhanh hay chậm mà thôi. Nỗi buồn thường hay khiến tuổi trẻ
muốn nói ra
lời tâm sự, viết mấy câu thơ, vài dòng nhật ký, hoặc viết nên được một
câu chuyện
bày tỏ nỗi lòng mình. Đó, hầu như là tâm trạng chung của những kẻ bất
hạnh, thất chí, và anh cũng là một trong
bao nhiêu con
người đó, nên chi, nghĩ tới một lối
thoát mặc cảm Thụy bắt đầu bước chập
chững,
cố gắng theo con đường viết văn. Tối hôm ấy, Thụy thức khuya lấy tập
giấy ra ngồi
viết, và không ngờ anh viết xong được một truyện ngắn đầu tay.
Sau bữa ăn sáng, Thụy rời khỏi nhà
đi bộ trên đường Phạm Ngũ Lão. Ở khu chợ Thái Bình, bên này trông sang
anh thấy
tòa soạn báo Văn, nhưng không dám nghĩ đến. Nơi tờ báo này, nhắc Thụy
nhớ đến một
lá thư, nghĩ đến một món nợ với Thúy Hà mà chưa làm sao có được một món
quà kỷ
niệm quí giá dành cho nàng. Nhưng thế nào, anh cũng cố gắng một ngày
kia sẽ có
truyện ngắn đăng ở đây để tặng nàng. Và, bỏ lại đằng sau những mơ ước
có vẻ lớn
ấy, một mình, Thụy lại bước đi. Buổi sáng ở Sài Gòn, luôn luôn những
tiếng động
xe cộ vang lên khắp thành phố tạo sự
huyên náo, cảnh xô bồ, lúc làm bạn trở nên vui vẻ,
phấn khích, lúc bỗng
cảm thấy xa lạ, bâng khuâng. Ai đó, đã vén màn trong tâm tưởng, một
mình đứng
nhìn Thụy rất lâu.
Cách đây hai ngày, Thụy nhận
được thư của Thúy Hà. Lá thư nàng đọc thật
cảm động, Thụy hết sức vui sướng như có
được những phút giây
bên cạnh nàng. Gói sách Thụy gởi đi qua
Bưu điện nàng đã nhận được, và bây giờ trong những cuốn sách đó ắt cũng
thấy
bóng hình của anh in lên trang giấy vào mỗi đêm dưới ánh sáng ngọn đèn
khi nàng
ngồi học. Thụy muốn quên tất cả, trừ nàng ra. Sau đó, anh cũng hiểu dù
rằng
nàng đã có người yêu, nàng sẽ lấy Duy làm chồng, nhưng riêng một góc
con tim,
nàng cũng là người yêu của mình, để từ nay, anh luôn luôn nhận được thư
nàng. Từ
buổi xa cách, bao nhiêu lần Thụy thấu hiểu được lòng nàng thương mến
anh qua những
tấm ảnh nhỏ bé mang theo bên mình. Trong
gói sách gởi theo Bưu điện, Thụy có kèm lá thư. Những giòng thư đầu
Thụy nói
cho nàng biết về Sài Gòn, thành phố anh mới đến và một vài ý định của
anh về cuộc
sống. Sau đó, là những giòng tâm tình. Thụy nói cho nàng biết, lúc rời
Đà Nẵng
trở ra Huế để chuẩn bị chuyến đi, ngồi trên chuyến xe khách, lòng anh
cứ mãi
nghĩ đến nàng, nhớ khôn nguôi gương mặt của nàng, và khi cố gắng tìm
lại những
kỷ niệm trong một năm học qua, tự dưng anh khóc và nước mắt ấm hẳn lên
như có
được sự hòa lẫn giọng nói của nàng trong đó. Thụy khóc một mình, nhớ
bóng
nàng yên lặng cúi đầu dưới mái tóc bao
phủ, nàng cũng buồn khi xa anh, và cũng hiểu rằng mối tình của anh và
nàng thật
lẻ loi. Và, Thụy đã cứ ngồi im như vậy khi xe ra đến Huế, thành phố của
nơi chốn
mình trở về mới giải khuây.
Buổi sáng hôm ấy, Thụy cũng có ý định
đi Quang Trung thăm anh Quý, con trai thứ nhì của bác anh bị gọi quân
dịch. Thụy
mới nhận được thư của anh hôm thứ hai đầu tuần. Mới đó, anh vào Sài Gòn
gần hai
tháng, và những thư từ ở địa chỉ mới đều nhận được. Thường lệ, vào giờ
trưa người
phát thư đi ngang, và rất dễ biết ông đến bằng tiếng chuông xe đạp rung
leng
keng trước nhà.
Hết đường Phạm Ngũ Lão, Thụy tới bến
xe đi ngoại thành. Xe đi Quang Trung còn đậu ở bến, mới có vài người
khách, nên
Thụy chưa lên xe mà đứng chờ.
Một
lúc sau, Thụy vào quán cà phê kế bên tòa
soạn tuần báo Tiểu
Thuyết Thứ Năm. Trong quán chỉ vài người khách, bàn trống để nhiều, anh
bỗng
chú ý một người đàn ông đeo kính trắng, dáng vẻ hiền từ, đang chăm chú
đọc bài
báo, trên tay cầm bút nguyên tử đỏ. Khi bắt gặp anh nhìn ông, ông nở
một nụ cười
chào như thể muốn gặp. Thụy liền bạo dạn bước tới gần, lúc ấy, ông
ngừng đọc, vừa lấy tay kéo tập giấy và bỏ
ly cà phê uống
dở qua một bên.
-Em đi đâu
đó ?
-Em chờ xe
đi Quang Trung ?
-Thăm người
bà con ?
-Dạ. Em có
người anh đi quân dịch.
Thụy gọi ly cà phê. Bây giờ, anh thấy
rõ hơn tập giấy ông để trong kẹp và bài báo ông đang đọc. Thụy ngần
ngại hỏi:
-Ông làm nhà
báo ?
-Tôi là nhà
văn, ông nói. Tôi làm Chủ bút tờ tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Năm.
Thụy nhìn ông với sự ngưỡng mộ muốn
bày tỏ. Cà phê mang ra, anh cầm thià nhỏ khuấy nhẹ xong uống một hớp
đầy.
-Em rất
thích đọc tiểu thuyết.
-Em có viết
văn không ?
Thụy cười nhìn ông. Một chút sau,
anh cảm nhận được tình thân giữa hai người nên nói:
-Em mới viết
được một truyện ngắn.
-Vậy à.
-Em có mang
theo đây.
-Đâu, cho
tôi xem.
Thụy mở túi xách lấy
tập giấy viết đêm qua đưa cho ông.
Ông nhìn lướt, nói với tôi:
-Chà, viết
chữ đẹp ghê.
Thụy cảm thấy hồi hộp, bối rối. Rồi
anh yên lặng nhìn ông bắt đầu đọc truyện anh viết. Khi ông đọc, Thụy theo dõi dáng điệu, cử chỉ, nhất là đôi mắt
dò xét suy nghĩ của ông. Rồi anh thấy, ông cầm bút sửa lỗi hỏi ngã anh
viết
sai, và bỏ bớt đi một đôi chữ thừa, hoặc thay bằng một từ khác. Truyện
Thụy viết
tối qua dài tám trang, anh cứ nhìn ông
đọc,
lòng mừng thầm mỗi khi tay ông lật qua trang khác. Thụy vẫn lặng im
không hỏi
han gì, ngồi bên ông cho đến khi ông đọc
hết truyện.
-Em viết được
lắm, ông nói.
-Em cám ơn
ông, Thụy đáp lời.
-Tôi sẽ cho
đăng truyện này vào số tới.
-Em mừng lắm,
thưa ông.
-Tôi hiểu,
em viết được lắm. Hãy viết thêm một vài truyện nữa đưa tôi.
Tiếng nói của Thụy trong xúc động trở
nên vấp váp. Nhưng, thực sự anh rất mừng buổi sáng nay được gặp một con người tốt bụng, một nhà văn với cái dáng vẻ
hiền từ, hồn hậu của một thầy giáo. Thụy cũng thấy từ trên vẻ mặt ông
đến những
lời nói đều điềm đạm, không kiểu cách.
Thế là truyện ngắn đầu tay củaThụy sẽ
được đăng. Kim đồng hồ treo tường đã chỉ mười giờ. Thụy nửa muốn đứng
dậy, nửa
muốn được ngồi lâu bên nhà văn để trò chuyện. Sau bản thảo của anh, ông
Thanh
Thủy lại đọc tiếp bản thảo đã đọc dở lúc nãy.
Rồi Thụy đứng dậy, nói:
-Em xin phép
ông đi thăm người anh.
Và lúc anh gọi trả tiền cà phê, ông
ngăn lại.
-Em để tôi
trả cho.
Thụy nhìn ông, nói nhỏ tiếng cám ơn.
Ông bắt tay làm Thụy thêm vững tin.
-Lúc nào rảnh,
em ghé Toà soạn chơi.
Thụy đáp dạ, rồi rời bước. Bến xe nằm
trước mặt, và chiếc xe đi Quang Trung vẫn còn đang chờ khách cho đủ
chuyến. Thụy
vào ngồi băng ghế ngoài chờ đợi, mắt nhìn lại quán cà phê nơi anh vừa
ngồi với
một nhà văn tên tuổi. Thụy cảm thấy mình có chút hãnh diện. Một lúc
sau, có người
khách bước vào quán và anh thấy ông nhà văn đứng dậy xong hai người rời
bước.
Thụy chú ý theo dõi thấy ông và người khách đi qua tòa nhà kế bên, đó
là toà soạn
báo Tiểu Thuyết Thứ Năm.
Tự dưng, anh có ý muốn mua tờ báo để
đọc đi đường, rồi đến Quang Trung, anh sẽ đưa cho anh Qúy đọc. Lòng vui
lên, Thụy
xuống xe bước nhanh chân vào toà soạn. Vừa thấy Thụy, ông Thanh Thủy
hỏi:
-Em chưa đi
?
-Em muốn mua
tờ báo.
-Được, để
tôi biếu em ít tờ.
Ngay lúc đó, ông gọi qua cô thư ký bảo
cô lấy cho Thụy vài số báo ra gần nhất. Không khí toà soạn đông vui làm
Thụy
thêm nôn nao. Nhận được ba số báo biếu, Thụy nói lời cám ơn cô thư ký,
rồi vội
vàng bước trở ra xe khi nghe có tiếng người tài xế nhấn còi báo giờ
chạy.
Hạnh phúc văn chương cho
Thụy trong một buổi sáng nay đã hoà nhịp
cùng với không khí sinh hoạt của thành phố Sài Gòn. Xe lăn bánh, thong
thả chạy
qua từng dãy phố. Ngồi trong xe, Thụy để mắt đọc tên những con đường.
Không
lâu, xe bỏ thành phố đi ra vùng ngọai ô và tốc độ bắt đầu chạy nhanh.
Thụy nghĩ
nhiều đến anh Quý. Thụy còn nhớ rõ gương mặt người anh, trong hình ảnh
đó, Thụy
vẫn còn nhớ khung cảnh vùng quê nội của mình. Đó là một ngôi làng cát
trắng, nằm
ven biển, xa tỉnh lỵ Quảng Trị đến mười hai cây số. Những năm tháng ấy
còn nhỏ,
mùa hè trở về quê Thụy có được sống vui của thời bình yên. Đến lúc này,
tuổi đã
lớn, dù chưa đi lính nhưng đôi lúc, anh có cảm giác bị chiến tranh đe
dọa, sẽ
thay đổi cuộc đời mình.
Ra ngọai ô là nhìn thấy nhiều khung
cảnh giống vùng quê. Thụy chưa đi qua con đường này, chưa hề nhìn thấy
mọi cảnh
vật, sinh họat ở nơi đây, rồi tất cả lùi lại, xa dần để anh đừng bận
tâm nghĩ
nhiều nữa.
Xe đang chạy vào bến, rồi ngừng. Thụy
xuống xe, ngơ ngác nhìn khung cảnh thị trấn. Sau đó, anh hỏi mấy người
quanh đó
đường đi vào quân trường. Thụy lên xe
lam, ngồi đợi chừng mười lăm phút xe mới chạy.
Lúc xuống
xe, người tài xế chỉ cho Thụy hướng đi tới cổng gác. Thụy cảm thấy yên
tâm, và
đến đó anh được gặp người hạ sĩ quan trực
liền đưa tờ giấy ghi địa chỉ anh Quý nhờ ông tìm . Trong lúc ông ta lật
cuốn sổ
, Thụy đọc bảng tên ông viết trên áo.
Liên lạc qua
điện thọai xong, ông Thạnh bảo Thụy:
-Anh qua ngồi
bên kia chờ.
Thụy ngồi đợi ở lều tiếp tân. Anh bỗng
có ý nghĩ, chắc rồi mình cũng phải vào đây, bắt đầu cuộc đời quân ngũ
không một
chút gì sáng sủa. Không đợi lâu lắm, Thụy chợt trông thấy một người
lính đội
nón lưỡi trai đang bước nhanh như chạy. Khi anh ta đến gần, Thụy nhận
ra anh
Quý và gọi tên anh. Anh cười, mừng vui vì có người thân đến thăm. Anh
Quý đặt
bàn tay nắm vai Thụy thật chặt, Thụy rất
mừng nhìn thấy người anh khoẻ mạnh trong
bộ quần áo lính. Rồi anh dẫn Thụy đi tới một quán ăn ở gần Câu lạc bộ.
Thụy mở túi xách lấy gói quà và mấy
tờ báo biếu đưa anh trước khi vào chuyện. Anh cầm lấy và nhìn Thụy.
Thụy hỏi:
-Anh còn bao
lâu nữa mới ra trường ?
-Chừng hai
tháng nữa.
-Rồi anh có
ra Nha Trang không ?
-Không. Anh
ra đơn vị luôn.
-Anh đã viết
thư về ngoài nhà chưa ?
-Có, anh viết
rồi. Còn em vào đây học à ?
-Không, em
kiếm việc làm.
-Em làm ở
đâu ?
-Em mới vào
được mấy tháng, tìm việc chưa có.
-Sao em
không học nữa ?
-Em thi rớt,
chắc học không được nữa vì không có giấy hoãn dịch. Chẳng biết sao,
chắc em
cũng vào đây như anh hoặc ra Nha Trang.
Anh Qúy đưa mắt nhìn Thụy, ái ngại.
Có lẽ trong cái nhìn của anh, Thụy đọc được những ý tưởng về liên hệ
đến gia
đình, giòng họ, về một nỗi bất hạnh luôn đè nặng xuống những người thân
họ hàng
bên nội anh. Thụy tự hỏi, trong khi bên
ngoại anh là giòng khoa bảng, sao bên nội tôi từ đời ông cố, ông nội,
đời cha
và các chú các bác, đến anh em nhà mình không một ai học hành đỗ đạt.
Có một nỗi
oan khiên nào đó chăng ?
Hai anh em uống nước, trò chuyện về
người thân, và có lúc im lặng. Bất chợt nghe mùi thức ăn đang nấu dậy
lên, anh
Quý hỏi Thụy:
-Em ăn gì
chưa ?
-Em có ăn rồi.
-Đây có món
bò kho, anh gọi em ăn nghe.
Thụy ngần ngại, cũng muốn ăn nhưng sợ
anh Quý không đủ tiền.
-An nghe,
anh gọi.
-Anh ăn đi,
em không đói.
-An đi, anh
gọi.
Anh Quý cất tiếng gọi hai phần,
nhưngThụy nhìn chị chủ quán ra dấu là một thôi. Người kia hỏi lại:
-Hai hay một.
-Chị cho một
phần, hai bánh mì.
Trong lúc này đợi, Thụy muốn nói cho
người anh họ biết về tương lai của mình khi đặt chân về đến Sài Gòn.
Trong những
điều Thụy nói ra, nó vừa uất nghẹn, vừa cố ngoi lên một hy vọng. Anh
Quý ngồi
im, một lúc cũng với tiếng thở dài nhẹ, anh nói:
-Không biết
con cháu mình ra sao ?
Bữa ăn mang ra. Hai anh em ăn chung
một phần và cảm thấy bao nhiêu năm vắng xa giờ gần gũi hơn lúc nào hết.
-Anh có được
đi phép cuối tuần không ?
-Có.
Thụy cầm viết ghi địa chỉ và mảnh giấy,
đưa anh nói.
-Em vẫn đang
ở trọ nhà dì em.
-Tuần tới đi
phép, anh ghé thăm.
Bữa ăn xong rất mau, anh Quý rót trà
vào hai cái ly. Vẫn những chuyện người thân trong họ hàng hỏi đi, nói
lại, mỗi
lần vậy, hai anh em Thụy như cùng theo trí nhớ trở lại với quang cảnh
đồng quê
thật là tươi sáng, ấm áp. Nắng hè làm cho nỗi
bâng khuâng trong lòng Thụy trở thành một thứ màu
sắc rất dịu dàng khi
hòa vào cảnh vật. Anh có cảm giác ngửi được mùi đất, mùi gió, cặp mắt
vui với đồng
lúa trải dài hai bên, và cùng lúc nghe rào rạt
tiếng nước chảy dưới bờ kênh. Dọc bờ kênh, thỉnh
thỏang anh gặp những
chiếc xe đạp nước. Có xe còn trống không.
Có xe hai người đang đạp nước dẫn
vào ruộng.
Bỗng nhiên, Thụy trông
thấy cái bóng mình chạy
xe trên con đường quan rộng, đến quê nội không xa lắm
nhưng mà
quê ngọai thì xa đến gấp ba lần. Ngày trước, lúc gia
đình còn ở Đông Hà anh thường về thăm quê
ngọai
trong mỗi kỳ hè. Người hay đem anh về là me của Lăng. Khi về ( thường
vào lúc
buổi chiều tan chợ ) Lăng, Thụy, anh Nguyên đi theo dì ra bến đò. Bến
đò đông
vui, với nhiều chuyến chở khách hàng buôn xuôi ngược. Khi đò tách bến
ra giữa
dòng, mái chèo bắt đầu nhẹ lướt và rồi, mỗi lúc con đò trôi nhanh hơn.
Thị xã mờ
dần, khi quay nhìn trở lại chỉ thấy bóng
chiếc cầu bắc qua con sông gần bến chợ đã khuất dạng, và khi đến ngã ba
sông là
thấp thóang hình ảnh quen thuộc làng quê của mình.
Bãi Sa, quanh bến này có bãi đất trồng
dưa nhưng thưa vắng nhà ở. Đò ghé bến nhưng không neo đậu, chỉ có mấy
khách
buôn và mấy dì cháu cùng xuống. Mặt trời chiều vừa lặn. Từ đầu bến, bốn
người đi
theo con đường đất rộng dẫn vào làng khỏang chừng gần hai cây số. Con
đường đi
qua một ngôi đình, khu nghĩa địa có cây ngô đồng, và khi đến gặp trạm
thông tin
là tới nhà. Ngôi nhà của ông bà ngọai nằm về phía đầu làng. Ngôi nhà
lợp ngói
xưa, xây trên một nền cao có nhiều bậc cấp bằng gạch, sân trước rộng có
thể
chơi đá bóng, nhìn ra con đường bên dưới là đồng ruộng, và xa chừng vài
trăm
thước là con sông nhỏ chảy qua làng, còn phía bên trái và đằng sau nhà
là vườn
tược rộng rãi trồng nhiều thư cây lưu niên, mỗi mùa, hoa trái sum suê.
Bên
trong nhà ở, những lọai bàn ghế, đồ vật xưa lưu giữ nay vẫn còn.
Quê ngọai Thụy giàu và
có nhiều họ hàng đỗ đạt, làm quan. Ông cố
ngọai đỗ Tiến Sĩ đời Thành Thái. Bà cố người làng An Cư, là em gái
ông Nguyễn Văn Tường. Sau
đời ông
cố đậu Tiến Sĩ, đến ông bác ngọai đậu Phó Bảng và ông ngọai đậu Cử
Nhân, làm
quan tri phủ Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông ngọai có hai bà vợ là hai chị
em ruột
và sáu
người con. Các cậu, các dì em mẹ anh ai cũng học
hành, đỗ đạt, chỉ trừ mẹ
chỉ biết đọc, biết viết. Khi các cậu, các dì rời khỏi làng quê đi học
xa, mẹ ở
nhà trong coi công việc ruộng nương cho ông bà ngọai . Mẹ ít học, nhưng
giỏi
buôn bán. Buổi chiều, là hình ảnh của
người mẹ. Ngày xưa ấy, Thụy trông thấy hình bóng mẹ mình trong chiếc áo
dài nâu
đang gánh hàng buôn ở chợ phiên trở về trên con đường đê. Chỉ qua hình
ảnh đó,
về sau này lớn lên, Thụy tin chắc rằng
anh sẽ viết được cho mình những câu văn chân thật.
Nhân duyên ba mẹ Thụy
được nghe dì Quyên kể lại. Vì còn
nặng tình thương mẹ nên ba anh rời khỏi chùa Huyền Vân, sau ba năm tu
học tại
đó về lại đời. Ba anh có được bằng Tiểu
học, khi lớn tuổi xin đi dạy. Trường ba
anh dạy đầu tiên là Gia Độ. Đây là ngôi trường làng có đủ 5 lớp. Làng
Gia Độ
đông dân, rộng gần bằng một quận. Xuân Thành,
quê mẹ anh ở phía dưới cách xa đấy chừng bốn cây số.
Từ vùng ngoài này
đi vào quê nội anh rất xa, mỗi năm dịp Tết hay hè ba anh mới về thăm
gia đình.
Còn độc thân, ba anh sống chung với các
bạn đồng nghiệp ở một căn nhà thuê gần trường. Ngôi trường nằm ven
sông, quanh
đó có một đồn lính gác giữ an ninh.
Bác Hai và ông Xuân người chú họ của
mẹ anh là anh em cột chèo. Qua tình thông gia, ba anh thường ghé thăm
ông Xuân,
nhiều lúc ở lại chơi cờ tướng hoặc vui vài hội tài bàn. Ông Xuân thấy
ba anh
người lanh lợi, họat bát, nên giới thiệu với ông bà ngọai anh. Ngày
trước cũng
như sau này, nhân duyên vợ chồng thường là có mai mối, quen biết.
Khi ba mẹ anh lấy nhau, ông bà ngọai
anh cho một chút của cải và một khoảnh đất rộng bên vườn để làm nhà.
Ông ngọai
rất thương con gái đầu là mẹ anh. Ông ngọai cũng rất quí ba anh. Khi mẹ
sinh
anh Nguyên đầu lòng, hết cả nhà cưng
chiều.
Lúc bấy giờ, đang làm tri phủ Nga Sơn được hay tin ông
gởi thư về bảo mẹ anh mang cháu ra thăm. Vậy
là mẹ anh được đi một chuyến xe lửa từ Đông Hà ra Thanh Hóa ở chơi mấy
tuần sau
đó đi Hà Nội.
Khi trở về tìm lại, nhớ lại những
ngày tháng của tuổi thơ, Thụy nhớ đến mẹ và quê ngọai nhiều hơn hết.
Thụy và
anh Nguyên sinh ra ở nơi đó. Ngày xa xưa, anh có được tình cảm bao dung
của mẹ
và nỗi mừng vui hơn hết trong anh là mỗi buổi chiều ra đứng trước ngõ
cổng nhìn
về phía con đê trông đợi bóng dáng mẹ về.
Và, đúng vào lúc mặt trời sắp lặn là hình ảnh mẹ xuất hiện. Ngày nào
cũng vậy,
đi chợ buổi sáng sớm, buôn hàng rồi lên thị xã mua hàng đến chiều về,
dưới rổ mẹ
bao giờ cũng có hàng quà cho anh em Thụy và mấy cháu. Những xâu bánh
vòng, bánh
ram, kẹo đậu, kẹo gừng đó là những thứ quà dành cho mấy anh em, mấy đứa
cháu được
mẹ phân phát. Bây giờ đây với bóng dáng thân thuộc của làng quê, Thụy
có cảm tưởng
đang làm một bài luận văn với những kỷ niệm về gia đình anh đang chất
đầy lên
tâm trí.
Chiếc xe đạp mang hình bóng của Thụy
cứ chạy đều tốc độ. Rồi, quê nội dần dần hiện rõ. Anh sắp sửa về tới
rồi, chỉ
còn hơn một cây số nữa thôi. Có tiếng động
xa gần của những chiếc xe lam, xe gắn máy chạy. Những người đàn bà,
những cô
gái buôn hàng hay đi chợ mới về họ kéo nhau từng tốp,
và trên đường lúc gặp là vang tiếng ồn ào
chào hỏi. Thụy nghe được những câu chuyện họ nói khi đạp xe vượt qua.
Tới trạm cưa bên ngã tư, Thụy rẽ
trái. Nếu đi thẳng, từ nơi này đến biển còn cách xa khỏang bảy cây số.
Làng Đồng Nghi nằm kế
làng anh, chỉ cách nhau chiếc cầu
bắc qua con suối cạn. Anh đi vào con đường có bóng im trải dài. Khu chợ nằm đối diện với ngôi trường tiểu học. Anh
ngửi
được mùi vị cát quen thuộc của chính làng quê mình. Tới chiếc cầu nhỏ,
nước dưới
con mương chảy róc rách. Căn nhà bà nội lợp ngói, phía trước là sân
gạch, gần lối
cổng vào có giếng nước. Quê anh là vùng cát, giếng chỉ đào độ chừng hai
thước
là có nước dùng. Thụy bỗng cảm thấy trong sự mừng vui thầm lặng, có
bóng dáng
người yêu đang bước đi bên mình, hay ở một nơi xa nhớ đến mình.
Nơi đây, xa rất xa. Nơi
đây, Thụy thoáng nghĩ
đến mình vào những ngày đầu tiên đặt chân đến Đà Lạt. Ngày đầu tiên ấy
là một
ngày mưa, một ngày buồn lặng khi anh đứng ở bến xe lam nhìn những cơn
mưa chìm
nổi trong bầu trời sương mù bao phủ kín hết các ngọn đồi.
Thụy ngồi với anh Quý được hai tiếng
đồng hồ thì đứng dậy từ giã.
Năm ấy, Thụy chưa hề gặp Liên An. Năm ấy, nếu
trong lòng Thụy có hình ảnh Liên An, thì bao nhiêu nhung nhớ sẽ nhắc nhở anh luôn viết
thư cho nàng.
XV
Một tuần lễ nữa là Tết. Sau mùa đông
giá lạnh và mưa kéo dài suốt tháng, thời tiết đã trở lại với những ngày
ráo khô
và tràn ngập nắng. Trong lúc này, Nguyên rất là bận rộn. Buổi sáng,
ngày nào
anh cũng có hướng dẫn các đoàn thể trong tổ chức tôn giáo, từ thiện ,
sinh viên
học sinh đi thăm binh lính ngoài tiền đồn, đến chiều lại đưa họ trở về
thành phố
và đến quân y viện thăm và ủy lạo các thương bệnh binh. Nơi tiền đồn
hay hậu
phương, lính tráng, thương binh đều được các đoàn thể tặng quà và tiền
để trong
phong bì thư.
Khoảng tám giờ đêm từ đơn vị Nguyên
lái xe về, ghé nhà hỏi thăm sức khỏe của mẹ, chuyện học hành mấy em,
sau đó anh
đi qua nhà người yêu. Khi thấy Nguyên về, mọi việc riêng tư, kể cả
chuyện học
Thiên Nga đều ngừng ngay lúc đó. Và, niềm vui cho thấy, trên đôi mắt
hai người
luôn sáng dịu một nụ cười như thể đó là mấy nét bút phác họa đầu tiên
trên bức
tranh vẽ.
Dưới ánh đèn ấm cúng trong căn phòng
riêng, hai người trò chuyện, nay thì đâu còn những phút ngập ngừng để
nói ra ít
lời tỏ tình thương yêu, cuộc sống tự nhiên hơn, và câu chuyện chỉ là
những sinh
hoạt thường ngày. Nguyên luôn thích kể chuyện về đơn vị, về những người
lính,
và thành tích của Trung đoàn vừa mới gặt hái được, trong đó bao giờ
cũng có sự
góp công của anh. Thiên Nga rất là vui,
nàng cũng thích những chuyện kể ấy, chân thực, sống động, đầy tình
người.
Ngồi không lâu, hai người rời nhà.
Những ngày hè, những ngày thu , đôi tình nhân đi dạo chơi, trời có
trăng, kỷ niệm
lãng mạn để ghi nhớ là một hình bóng
chung đôi đang khua nhẹ tiếng bước chân trên những con đường của thành
phố nằm
ven theo dòng sông. Những ngày mùa đông, giá
lạnh như đêm nay, hai người đi bộ bên nhau, chuyện
trò thích thú, hơi lửa
ấm nằm trong tiếng nói, chiếu sáng từ nụ cười, họ tìm đến những quán cà
phê ít
khách, nhưng cũng hay có nhiều đêm bỏ trống cuộc tự tình lang thang
giữa đường
phố vắng, Nguyên lái xe đưa người yêu đi
ra các vùng ngoại ô hẻo lánh tìm một quán ăn khuya
rất bình dân, nhưng
thật ngon. Ăn xong, còn trò chuyện khá lâu mới lên xe trở về, đến nhà,
hai người
vẫn chưa thể rời nhau, và Nguyên luôn luôn dành cho người yêu những nụ
hôn âu yếm
trước khi nàng đi ngủ. Một mình trong đêm,
từ thành phố Nguyên lái xe vượt qua những con đường
chạy dài theo cánh đồng,
theo triền núi để trở lại đơn vị.
Huế cũng đang tổ chức lễ hội chào
đón mừng Xuân mới tại hai nơi, khu Morin và khu Đại Nội. Ở hai nơi này,
ban văn
hóa tỉnh sẽ có tổ chức nhiều đêm ca nhạc tân cổ và hai cuộc triễn lãm
về nghệ
thuật. Khu Đại Nội, phòng triển lãm
trưng bày những ấn tích cổ xưa của các đời chúa, đời vua
triều nhà Nguyễn. Khu Morin, dành cho hội họa,
đó là những tranh sáng tác của nhiều họa sĩ
trong thành phố và sinh viên trường Mỹ Thuật. Thiên Nga hoàn tất được bốn bức sơn dầu và lụa
rất ấn tượng, nàng sẽ dành bốn bức này tham dự cuộc triển lãm. Khởi từ đầu tháng chạp và chấm dứt tuần rồi, những
tranh thiệp của Thiên Nga vẽ cho mùa Giáng Sinh và lễ Tết bán rất chạy
ở các hiệu
sách, và nàng đã thu được một số tiền rất khá. Đây, đúng
là món tiền đầu tiên tưởng thưởng cho công
trình nghệ thuật của nàng. Ít ngày nữa, với số tiền này Thiên Nga sẽ đi
mua sắm
quà Tết, cho Nguyên, gia đình Nguyên và gia đình mình. Thiên Nga sẽ vào
Đà Nẳng
sáng ngày ba mươi. Trưa 28 , nàng buổi dự liên hoan ở lớp,
đến chiều Nguyên sẽ đón nàng đưa lên Trung
đoàn tham dự một tiệc tất niên với các gia đình anh em binh sĩ. Sau
Tết, Nguyên
sẽ vào Đà Nẵng thăm Nga và chúc Tết ba mẹ nàng cùng mấy cô em trong gia
đình.
Chắc chắn, Nguyên ở lại bên Nga một ngày để chơi xuân và thăm bạn bè.
Những ngày còn lại đến trường lớp, học
sinh, sinh viên không học hành nhiều. Ai cũng vui, chờ Tết. Và, nắng
xuân đã
làm cho cuộc sống manh nha, nẩy mầm. Lớp của Nga hai giờ đầu có vẻ
nghiêm túc,
sau đó trở nên hoạt náo, cả đám đùa giỡn, phá phách, rồi kéo nhau ra
quán cà
phê Mai bên ngoài cổng Thọ Nhơn, vào đây, cả đám cũng quậy phá , làm ồn
ào,
nhưng thực sự vui.
Nga ngồi bình thản với ly cà phê ,
nàng rất cảm thấy dễ chịu trước cảnh vui nhộn của các bạn cùng lớp.
Có một người từ bàn bên kia, đứng dậy,
giọng chững chạc nói:
-Chúng ta
hãy đề nghị với các thầy cùng ban Giám đốc
trường xin dành riêng một cuộc triễn lãm cho Thiên Nga.
-Đồng ý.
Nhiều bạn cùng đáp lời, vừa đứng dậy
hoan hô, tay anh nào cầm ly cà phê đưa
lên cao, rồi cụng nhau. Một lát sau, một bạn ngồi chung bàn với Nga,
nói:
-Năm tới tốt
nghiệp, Nga ra trường rời xa Huế, ngôi trường này, thành phố này không
còn bóng
dáng của Nga nữa.
Cô gái chỉ mím môi cười. Với một cử
chỉ đó thôi mà nàng làm cả bọn ngẩn ngơ nhìn ngắm. Giọng người kia, lại
tiếp:
-Rồi những
năm sau, ngôi trường này, kỷ niệm đáng ghi nhớ là hình ảnh Thiên Nga
thôi.
Vâng, không còn một bóng hồng nào thay
thế nữa.
Lập tức, Nga lên tiếng:
-Bộ sinh
viên học vẽ không có con gái sao ?
Câu chuyện ồn lên, người bàn bên kia
nói:
-Đồng ý là sẽ
có, nhưng chỉ một Dương Quý Phi là Thiên Nga của trường Mỹ Thuật thôi.
Không, sẽ
không còn một ai, mà nếu có, cũng không một ai thay thế được nàng tiên
Thiên
Nga hết. Thiên Nga xa Huế, rồi thành phố này cũng sẽ buồn vì thiếu vắng
người đẹp,
thiếu vắng bóng thiên thần.
-Thôi đi , đừng
có ca cải lương nữa.
Nga cố chống chế, nhưng nàng cười,
lòng cũng rất vui. Cả bọn lại ồn lên, ngay lúc ấy, anh chàng vừa đưa ra
những lời
tán tụng, bỗng bắt chước giọng người miền Nam cất lên một bài hát cải
lương . Dứt
bài hát, Nga cùng các bạn vỗ tay tán thưởng thật giòn giã.
Trưa hôm nay, sau buổi học về Nga
ghé vào chợ Đông Ba mua thức ăn. Khi nàng
đi ngang các gian hàng chợ, ai cũng chú ý, cười vui nói ra lời ngợi
khen sắc đẹp
của nàng. Họ không thể biết, nàng đã có người yêu. Nhưng với khuôn mặt
trái
soan, mái tóc trên vai áo như một khúc sông hiền hòa, nàng đã thể hiện
những
nét đặc sắc của một thiếu nữ, mà các cô gái ở thành phố này hầu như xa
lạ hẳn.
Thiên Nga không chỉ có năng khiếu về họa, mà đan áo, nấu ăn cũng là sở
trường của
nàng. Thiên Nga rất rành nấu món mì Quảng, và đó cũng là món Nguyên rất thích. Nguyên thích ăn món này, không phải để
chiều ý người yêu, nhưng đó là món bình dân anh ăn rất ngon, hơn cả phở
Bắc và
bún bò Huế nữa.
Nga về tới nhà. Vừa lúc chạy xe qua
cổng, nàng trông thấy người phát thư liền cất tiếng hỏi:
-Có thư
không anh ?
Người phát thư quay đầu lại, thấy
nàng liền đáp lời:
-Dạ có.
Anh
ta cầm gói ấn phẩm và thư đưa cho Nga. Nhìn anh ta, nàng nói:
-Cám ơn anh
nhiều.
-Dạ, không
có chi.
Nga nhìn xuống tên người gởi nơi gói
ấn phẩm, bỗng ngạc nhiên, vừa cảm thấy vui.
Còn lá thư là của Kim.
-Cám ơn anh
nhiều lắm.
-Không có gì
đâu cô, ngày nào cũng đi đưa thư mà.
Người phát thư ra cổng rồi lên xe đạp
đi về hướng cây cầu.
Nga dựng xe đạp dưới bóng im cây trứng
gà bên hông nhà, nàng quay trở bước, rồi đi lên bậc thềm, dừng lại một
chút tra chìa khóa mở cửa. Vào nhà
trong, Nga để ấn phẩm và thư ở bàn khách còn túi thức ăn thì đem vào
nhà trong
đưa xuống bếp đặt lên mặt bàn có để rổ chén bát.
Nga thay quần áo nhẹ màu cam xong trở
lên nhà. Nàng ngồi xuống phòng khách, mở thư
cô bạn ra đọc trước. Kim và gia đình đang ở Sài Gòn.
Sài Gòn quá ồn ào,
Kim rất là nhớ Huế. Rồi, qua những lời
tâm sự, Kim nói tới người bạn trai là Trình một Sinh viên Luật đang
theo đuổi
nàng. Nàng chưa quyết định, nhưng đã có những lúc phân vân, bối rối. Thư Kim viết hai trang giấy pelure, đọc xong Nga
gấp lại. Thong thả, Nga cẩn thận mở gói ấn phẩm , nàng cũng đang nghĩ
nhiều đến
người em của Nguyên.
Số tiền nhuận bút 700 đồng và thêm
hai tờ báo Xuân Tòa soạn gởi Thụy đã nhận được qua thư bảo đảm. Thụy
nghĩ ngay
lúc ấy đến hai người mình sẽ tặng quà là Thúy Hà và Thiên Nga. Đây cũng
là dịp,
Thụy tìm ra được một số ý để viết vào lá thư gởi cho người bạn gái của
anh
mình.
Còn đến ba tuần lễ nữa mới Tết
Nguyên Đán. Năm nay, kẹt thời gian còn trong khóa học nên Thụy cùng các
bạn
đang học phải đón Tết ở quân trường. Nhưng dù vậy, việc tổ chức Tết
dành cho
tân binh, khóa sinh, SVSQ cũng sẽ được vị Chỉ huy trưởng lưu tâm. Vào
tuần lễ rồi,
bên đoàn SVSQ có hai mươi người được gọi
về Bộ Tư Lệnh để làm thủ tục xuất ngoại. Tối hôm ấy, ở hội quán Câu lạc
bộ Sinh
viên rất ồn ào, náo nhiệt. Thành, một bạn học cùng lớp với Thụy đang ở
đây, chờ
ngày đi Mỹ.
Buổi chiều, đến năm giờ lớp học tan,
Thụy ghé phạn xá ăn cơm xong liền trở về
phòng nghỉ. Ngày nào, Thụy cũng có lấy cơm không để ăn thêm buổi tối vì
anh rất
mau đói. Khi đến kỳ lãnh lương, anh hay mua một ít kẹo bánh, đồ khô, và
cơ bản
là một chai nước tương để ăn với cơm. Ở phạn xá, thức ăn ít, nhưng cơm
nấu nhiều,
dư dả, thường chỉ có Thụy và vài ba khóa sinh hay lấy thêm mang về ăn
tối. Đây
là cơm loại gạo hạt tròn có bỏ thuốc
vitamin nên ăn ngon, nhờ vậy, Thụy rất là khỏe.
Sau khi cất sách vở, cà men cơm ở
trên giá chỗ giường nằm, Thụy trở ra
ngoài sân, làm một vòng đi bộ cho dễ tiêu cơm, vừa
là cách vận động thể dục. Hôm nay là thứ sáu,
ngày mai cuối tuần được phép ra phố. Đó là nguyên tắc, kỷ luật quân
trường, chứ
thực ra bọn anh coi như là lính cơ hữu, sau giờ làm việc ra vào cổng
lúc nào
cũng được. Ở trạm gác trong, SVSQ chỉ chú ý đến các khóa trong đoàn
Sinh viên,
không mấy ai quan tâm về khóa sinh và cũng chẳng khi nào gây khó dễ. Ở cổng gác ngoài cũng vậy, lính gác đều biết
rõ lớp của Thụy là khóa sinh. Tối nào, trong đám bọn anh cũng có người
đi, nhất
là vào mùa trăng, ra biển ngồi ngắm cảnh sóng nước, núi non cũng thích
thú,
lãng mạn. Nói chung, đám binh sĩ như anh, người nào cũng có bằng Thành
Chung,
cũng học đến chương trình Tú Tài, thi không đậu đạt thôi, chứ kiến thức
so với
SVSQ không quá chênh lệch.
Khoảng tám giờ tối, Thụy lên phòng đọc
sách báo ngồi viết thư. Đúng là với món quà tặng là tờ báo Xuân giúp anh dễ dàng viết nên được lá thư tự nhiên để gởi
cho chị Thiên Nga. Thụy nghe rõ trong lòng mình, gọi Thiên Nga bằng chị
thật là
chân tình, quyến luyến. Mới lúc đầu, Thụy có sự đắn đo, nhưng nghĩ nàng
là bạn
gái anh mình, anh xin gọi là chị, dễ có tình thân. Thụy viết khá nhanh,
dồi dào
ý, xong lá thư một cách thật nhẹ nhàng. Thụy muốn viết thư
cho Thúy Hà vào những ngày sau, có thể là gần
Tết, lúc đó kể cho nàng nghe những vui buồn của anh trong thời gian ăn
Tết ở một
nơi xa. Thúy Hà , tên nàng có lúc nhớ, Thụy bỗng gọi tên Nha Trang là
thành phố
dấu yêu của anh và nàng. Còn Thiên Nga, trong cái tên ấy, Thụy đang
mong tìm kiếm
một xứ sở, một thành phố làm thủ đô, và thành phố ấy
nằm trong trái tim hồng đỏ của nước Nga, nơi
đất nước này, anh mến yêu biết bao chừng khi nhớ nghĩ đến nhà văn
Antoine
Tchékhov, và ông, cũng như bây giờ có cả Thiên Nga nữa cho anh cả một
giấc mơ
trên những cánh đồng cỏ, những khu vườn anh đào, và những mùa chim hải
âu thiên
di.
Xong một buổi tối, Thụy
ôm tập giấy đứng lên,
rời phòng đọc sách.
Khi về đến phòng, có cuộc đấu cờ tướng
của hai bạn cao thủ, cả hai đánh rất hay, đông anh em xúm xít đứng coi,
Thụy
cũng ghé mắt vào, được thấy mỗi con cờ
có những nước đi thật sắc sảo, thông minh.
Về đêm, đến giờ kẻng báo ngủ Thụy
lên giường nằm yên lặng. Một lúc, trời có mưa. Thụy kéo tấm chăn đắp
lên ngực nằm
nghe mưa. Trong cơn mưa, anh vừa hình dung và nghe ra được những tiếng
nói thân
thiết, cảm động. Ở Nha Trang, tuy cũng đang thời tiết của mùa đông
nhưng không
có những ngày lạnh giá, và trời mưa dai dẳng như là ở miền Trung phía
Bắc, nhất
là ở Huế và Quảng Trị quê của anh.
Ngày hôm sau, Thụy chưng bộ quần áo
vàng đi phố. Không có lon lá đeo lên cầu vai, nhưng bộ quần áo vải kaki
trông đẹp,
khỏe mạnh, và đội chiếc nón cát kết xanh dây viền đen, nhận thấy mình
trẻ hẳn
ra, nào thua kém ai. Rồi đây, Thụy lấy xong bằng Tú Tài đôi, đi SVSQ kỹ
thuật,
rồi tìm ra một em xinh đẹp ở thành phố
này, đấy là nguồn vui, phải không bạn.
Trên đường phố chính hẳn còn vắng, một
số cửa hiệu buôn bán chưa mở cửa. Thụy ghé vào tiệm ăn sáng làm một tô
phở lớn,
rồi ly cà phê sữa. Ngồi trong quán, sau bữa ăn, Thụy đốt thuốc hút,
nhấm nháp từng
hớp cà phê, mắt vừa nhìn ra đường, còn tâm trí cố thể hiện một nhận
thức về cuộc
sống, và Thụy thấy rằng, mình được như thế này là đủ. Anh sẽ ở lính
Không quân
đến khi đất nước thanh bình, thống nhất, rồi được giải ngũ. Anh sẽ viết
văn, và
tin rằng ngòi bút mình ngày càng vững vàng, và anh sẽ viết khá, sẽ trở
thành
nhà văn, và sẽ lần lượt cho in nhiều tác phẩm truyện dài, truyện ngắn,
rồi sẽ nổi
tiếng, độc giả hoan nghênh, rồi sẽ hái
được nhiều tiền nhờ vào những cuốn sách in ra bán được. Nhưng mà thôi,
hãy để
bao nhiêu giấc mộng ấy qua mau, nãy giờ,
cứ miên man vậy mà anh không ước mơ chuyện mình sẽ lấy vợ. Đó là vì,
tuổi anh
còn trẻ, anh vẫn phải sống thật lãng mạn để viết văn.
Một giờ sau, khu phố chính thức dậy,
ồn ào với người và xe cộ đi qua lại trên vỉa hè, trên mặt đường, rồi
đâu vào đấy,
mọi thứ sẽ bắt đầu theo sinh hoạt thường lệ rất sống động vào hai ngày
cuối tuần.
Các cửa hiệu buôn bán đã mở cửa. Rạp hát chính cũng khởi sự buổi chiếu
phim đầu
ngày.
Thụy trả tiền tô phở, ly cà phê sữa,
mua thêm gói thuốc xong rời quán. Từ quán ăn, anh đi bộ tới hiệu sách
xa chừng
lối trăm mét. Vào trong cửa hiệu, anh tìm mua ngay mấy tờ báo Xuân, ảnh
chụp thắng
cảnh, và một tờ giấy màu để gói, một bao thư lớn để gởi, xong trở ra
quầy tính
tiền.
Hôm nay thứ bảy, nhà Bưu điện mở cửa
đến ba giờ chiều. Khi tới đó, Thụy qua chỗ bục đá có sẵn bàn dành cho
khách cần
viết thư. Thụy chiếm lấy một ô, rồi bắt đầu gói quà tặng xong bỏ vào
bao thư lớn
màu vàng. Chỉ mất thời gian nửa tiếng là xong, sau đó, anh đứng sắp
hàng chờ đến
phiên.
Từ nãy giờ, Thiên Nga im lặng với những
cảm giác của nàng như hương sắc trong cây lá mùa xuân được chan hòa,
cất giấu.
Nàng coi đây là giây phút hạnh phúc quí giá, và để nhớ tới người em của
Nguyên
nàng muốn lúc này, từng thứ một trong gói quà sẽ biểu hiệu tiếng nói,
khuôn mặt
người đó đang ở bên nàng.
Báo Xuân in rất đẹp, nhiều phụ bản.
Mỗi tờ cầm trên tay, Nga lật nhẹ từng trang, đọc qua tựa bài, tên tác
giả, và
luôn luôn nàng gật đầu cho rằng em của Nguyên đã chọn mua những tờ báo
có bài vở
rất hay, gây thích thú người đọc. Tờ báo Xuân sau hết là Tiểu Thuyết
Thứ Năm. Vừa
mở ra, thấy có chữ Kính biếu son đỏ, Thiên Nga đoán biết ngay là có
truyện của
Thụy viết đăng trong số báo này. Nàng vội
lật qua trang, đọc phần mục lục, và khi tìm thấy có tên của Thụy lòng
nàng hết
sức vui. Lập tức, Nga tìm ngay đến trang có đăng truyện, thấy dòng chữ
in, thấy
tên tác giả và bên cạnh truyện có tranh vẽ, nàng thật hãnh diện muốn
nhắn gởi
niềm vui chia sẻ với em của Nguyên.
Thật chăm chú, Nga đọc. Nàng không bỏ
sót một câu, một dòng. Và sau khi đọc xong, lòng Nga cảm thấy rất vui. Nàng vẫn ngồi đó xem những bức ảnh thắng cảnh
ở Nha Trang, những bức ảnh màu có nền vàng và xanh biển rất là đẹp.
Sau cùng, nàng mở lá thư của
Thụy.
Chị Thiên Nga thân mến,
Nhân dịp đón Xuân về, Thụy gởi tặng
chị món quà Tết và cùng với lá thư này viết ít lời gởi thăm sức khỏe
chị cùng
gia đình hai bác.
Thụy đang ở Nha Trang, học lớp
chuyên môn ngành điều không, còn chừng hơn tháng nữa là mãn khóa học,
sau đó về
đơn vị ở Sài Gòn làm việc như trước kia.
Như mấy năm trước, Thụy vẫn ăn Tết
xa nhà, nhưng bao giờ mỗi cái Tết cũng làm mình nhớ đến những người
thân rất
nhiều, năm nay trong những người thân quen thuộc ấy, có thêm hình ảnh
của chị nữa.
Những tờ báo Xuân gởi chị làm quà Tết,
trong đó có một truyện ngắn của Thụy được đăng ở tuần báo Tiểu Thuyết
Thứ Năm.
Khi viết xong truyện gởi đi, Thụy cũng chỉ mong đăng số báo thường thôi
là vui
rồi, đâu ngờ được tòa soạn chọn vào số báo Xuân. Một mầm non văn nghệ
mới tập tễnh
viết, mà truyện được lên báo Xuân thì le lắm chị Thiên Nga ạ. Không chỉ
cho
đăng thôi, Tòa soạn còn gởi một mandat tiền nhuận bút thật hậu hĩnh,
700 đồng,
bằng một phần ba tháng lương lính của Thụy đó.
Rất hy vọng món quà Tết với ít tờ
báo Xuân và ảnh thắng cảnh làm chị vui, và rồi thế nào cũng có một ngày
về phép
thăm nhà, Thụy sẽ được gặp chị. Vào ngày hôm đó, nhận được thư anh
Nguyên, anh
có nhờ Thụy mua cuốn sách Tìm hiểu hội họa của tác giả Đoàn Thêm gời
cho chị,
Thụy đã tìm mua được, nhưng không gởi ngay từ Sài gòn mà phải ra Nha
Trang vì
ngày đi học đã cận kề , với lại có địa chỉ Nha Trang, nếu chị đáp thư
cho biết
tin nhận được thấy an tâm hơn, phòng thêm nữa, bưu kiện có bị trả lại
mình vẫn
nhận được.
Thật là rất vui, cảm động khi đọc
thư của chị. Những chuyện nho nhỏ trong gia đình, trong cuộc sống, chị kể lại cho nghe qua thư thật là thân
tình, và rất ghi nhớ. Buổi tối ấy, anh Nguyên gặp chị ở quán cà phê,
rồi quen
nhau khi về đến nhà, đó là một mối tình thật dễ thương và đẹp. Rồi hai
người hiểu
nhau, anh Nguyên đã vào Đà Nẵng thăm chị và gia đình hai bác, rồi ít
ngày sau,
hai người cùng lên một chuyến tàu trở ra Huế cho kịp mùa học, rồi cũng
có một
hôm, anh Nguyên và chị rất là vui vẻ với
chuyến đi ra Quảng Trị, Đông Hà để thăm hai làng quê nội và ngoại của
anh. Một
chuyến đi như vậy thực là cả một tấm lòng, hạnh phúc dành cho chị ,
mang đến
cho chị một nguồn cảm xúc về quê hương, và chị đã sáng tác được những
bức tranh
quí giá, còn về Thụy thì
những hình ảnh làng quê cũ được sống lại
trong một nỗi nhớ quá dịu dàng, thật thân thiết, qua những dòng thư rất chân tình chị đã viết và gởi cho đọc.
Rất mong đến kỳ hè năm tới đây, Thụy
lại được hưởng kỳ nghỉ phép thường niên, lúc ấy, thu xếp một chuyến đi
về Huế
thăm nhà để gặp chị ở thành phố này, và
nếu chị về nghỉ hè ở Đà Nẵng, Thụy cũng sẽ đi theo anh Nguyên hoặc một
mình vào
đó thăm chị. Ở Đà Nẵng, mấy năm trước, Thụy có ở trọ nhà dì Vân và học
ở trường
Sao Mai. Năm học đó, Thụy cũng có quen một người bạn gái khá thân, giờ
thì nàng
vẫn ở nơi chốn cũ ấy, nhưng đã có chồng con rồi.
Chắc chị Thiên Nga còn đợi thêm một
năm cuối nữa sẽ ra trường, phải không. Sau này, tốt nghiệp chị sẽ
chuyên sáng
tác để triển lãm tranh, hay sẽ chọn làm cô giáo dạy môn Vẽ. Chà, cô
giáo Thiên
Nga với bóng dáng chiếc áo dài mà đứng trên bục gỗ ở lớp, thì đã là bức
tranh
thể hiện cuộc sống thực ngoài đời, đâu còn tưởng tượng ra gì thêm những
nét vẽ
khác nữa, phải không ?
Rất là mến chị, dù chưa gặp. Và, một
ngày nào đó qua hình ảnh cô giáo, bỗng dưng với cả tấm lòng mến yêu,
anh Nguyên
hay là Thụy sẽ đem được chị tới một nơi nghèo khó, và chị sẽ ờ nơi chốn này với tất cả những tháng năm trong
cuộc đời làm cô giáo của mình.
Đó là một ngôi trường ở tỉnh Quảng
trị. Hình dung lại thành phố nhỏ ngày
xưa, có một ngôi trường anh Nguyên, Lăng và Thụy đã học, và hình dung
vào ngày
đầu thu chị Thiên Nga xuất hiện làm cô giáo của trường, chừng bao nhiêu sự cảm nhận ấy kết hợp lại, mãi mãi thành phố
Quảng Trị sẽ là quê hương yêu dấu , và sẽ thuộc về tất cả chúng ta.
Sự đi thăm một lần đầu của chị ra
thành phố Quảng Trị, ra thị trấn Đông Hà, với anh Nguyên,
với khung cảng làng quê nội, quê ngoại
có phải
đó là một hạnh phúc được báo trước và chúng ta đang
đợi chờ không nhỉ. Với
Thụy, thì chị Thiên Nga người mẫu, là khung trời xanh, lúc nào cũng
trải rộng
cuộc sống của mình khắp nơi trong thiên nhiên, và rồi, đời của chị là
ký ức một
thành phố nằm bên những con sông êm đềm . Ở Quảng Trị có nhiều con sông
và hai
cửa biển. Rồi đây, có một ngày đưa chị đến dạy học ở nơi này, sông và
biển, cả
hai đều thủy chung một tấm lòng đối với chị.
Cám ơn nhiều lắm lá thư của chị gởi
cho Thụy đọc. Không biết, thư và bưu kiện
gởi quà cho chị sẽ đến với vào dịp trước Tết hay là sau đó.
Trước hay sau, đối với Thụy, từ đây
luôn giữ lâu hình ảnh chị trong tâm trí
để mong có một ngày về thăm gia đình và được gặp chị.
Nhớ đến anh
chị rất nhiều khi ở xa,
Thụy.
Mãi đến quá trưa, sau khi đọc xong
lá thư , Thiên Nga vẫn ngồi một mình rất
lâu ở phòng khách.
Phần Thứ Hai
I
Chuyến xe ca rời khỏi trạm hàng
không. Một mình bơ vơ, lúc lâu sau Thụy mới đi ra lối cổng đón xe buýt
về nhà.
Buổi sáng nắng lên cao, và lúc nhìn cảnh sinh hoạt vào giờ này trong
thành phố,
bạn luôn có cảm tưởng như mình từ đâu xa
vừa mới trở về. Về lại Sài Gòn sau mấy tháng ra Nha Trang học, nay Thụy mới thực sự ổn định về công việc, về một đơn vị có tính cách lâu dài, và anh cũng sẽ không còn vướng bận thêm chuyện
gì nữa. Vào hôm thứ sáu trình diện ở Bộ
Tư Lệnh, sau khi bốc thăm, Thụy trúng tỉnh
Cần Thơ, nhưng ước muốn được gần Sài Gòn nên Thụy đổi chỗ
Biên Hòa với Sang, cả hai bạn cùng đồng ý
không mặc cả hay bù trừ thêm một khoản nhỏ nào hết. Sang xuống Cần Thơ
là được ở
gần gia đình, còn Thụy, lên Biên Hòa, nơi này chỉ cách Sài Gòn 30 cây
số, đi về
trong ngày hay trong tuần thực dễ dàng.
Kể từ nay, theo chỉ số chuyên môn Thụy
sẽ làm công việc bên ban hành quân ngành điều không, và không thể trở
lại với
báo Lý tưởng như lúc đầu.
Lăng vừa thi đậu vào trường Hành
chánh, ban Cao học. Trước kỳ nhập học, Lăng về Huế thăm gia đình, bà dì
Quyên
me Lăng vẫn ở căn nhà trên đường Phan đình Phùng trông xuống bờ sông.
Căn nhà
này có vẻ bình dị, nhưng mát mẻ, sân trước khá rộng để có thể đặt một
bàn bóng
bàn hoặc chơi vũ cầu. Cũng còn hai năm nữa, dì Quyên đến tuổi nghỉ hưu.
Hồi nhớ
lại bao nhiêu năm tháng cũ, hình ảnh dì một góa phụ còn trẻ đã để lại
trong tâm
trí những đứa cháu gần gũi như Thụy và
anh Nguyên cả một tấm lòng nhân hậu với nhiều kỷ niệm của tuổi thơ rất
là nhớ,
thương yêu. Một năm đó, về quê ngoại không đi đò dọc mà bằng đường bộ,
dì Quyên
dắt Lăng cùng hai đứa cháu là anh Nguyên
và Thụy đã vượt cạn qua một con sông khá rộng. Thụy cũng còn nhớ nữa,
những năm
đầu ở lớp tiểu học, anh lắng tai nghe tiếng dì đọc bài tập đọc để viết
chính tả,
và mỗi bài tập làm văn anh được dì hướng dẫn cho cách đặt câu. Mẹ anh
và người
dì, tính tình khác nhau, học vấn cách biệt nhau, nhưng hai chị em rất
thương
nhau và ngoài đó, lui tới cũng chỉ còn hai chị em. Ở xa, các cậu và các
dì em
do công việc làm, do sinh kế, đã lâu rồi chưa có dịp trở về Quảng Trị
để thăm
làng quê.
Bây giờ đây, có thể nói dì Quyên đã
nhẹ gánh. Linh tốt nghiệp Sư phạm Qui Nhơn ra trường, dạy học được hai
năm.
Loan mới đậu Tú Tài II, còn Lăng cũng đã
xong Cử nhân Luật. Hai năm sau tốt nghiệp Cao học hành chánh, Lăng sẽ
có chức vụ
từ Trưởng ty trở lên. Vài hôm trước khi về Huế, Lăng tâm tình với Thụy
là ít
năm nữa ổn định việc làm Lăng sẽ đưa cả gia đình vào Nam xuống miền Tây
định
cư. Thụy hết sức đồng ý với dự định của Lăng. Thụy cũng rất yêu thích
miền Nam,
anh cảm nhận nơi vùng đất này luôn có sự bao dung đối với những người
tha
phương, lưu lạc và ước mong họ lập nghiệp với cuộc sống yên bình. Tuy nhiên, không chắc lắm dì Quyên muốn xa
khung cảnh trầm lặng ở Huế, nhất là đi quá xa Quảng Trị, quê hương ruột
thịt của
đời mình.
Mười giờ sáng phi cơ rời Sài Gòn,
sau gần hai giờ bay là hạ cánh xuống Phú Bài. Từ phi trường, luôn có
nhiều chuyến
xe ca đưa khách về thành phố.
Mùa hè đã tới, Huế lại rộn ràng
trong không khí giữa mùa thi. Thụy chợt nhớ Liên An, nhớ một đôi nét
tin yêu
trên gương mặt của nàng. Trong buổi chiều ấy từ biệt, đứng ở bậc thềm
sân nhà
ga anh nhìn theo bóng dáng một cô gái áo trắng trên đường về nhà. Với ý
tưởng ấy,
từ một thành phố không cần đem cho tên gọi nhưng anh vẫn gói ghém được
sự dịu dàng
của tình yêu trong tiếng nói.
Trưa, nắng gắt. Lăng xuống xe xách
va li bước qua sân, cả nhà vừa trông thấy cùng ùa reo lên nỗi mừng vui. Dì Quyên đứng một mình bên cửa, cặp
mắt lặng nhìn đứa con trai đã trở về với
gia đình. Lăng mặc chiếc áo sơ mi kẽ sọc xanh, chiếc quần tergal, nơi
cổ tay
đeo chiếc đồng hồ Movado.
Bên ngoài con đường vắng bóng người,
nhưng gió từ dưới sông thổi dậy lùa bay bụi đường trông như đã thấy mái
tóc quấn
dày của một cô gái đang bị xổ tung.
Loan hỏi:
-Anh về nghỉ
được lâu không ?
-Một tháng.
Một lát sau, vợ chồng Tri và Linh về
tới nhà, bữa ăn được dọn lên. Rồi bỗng dưng vội vàng, Tri quay trở ra
ngoài, ngồi
lên xe Honda nổ máy xong vèo đi ngay , chừng mười lăm phút sau trở lại
với một
két bia Hòa Lan.
Loan ngạc nhiên hỏi:
-Ở quán , có
ai núp mưa không anh Tri ?
Tri đáp lời ngay:
-Anh Lăng ở
xa về, cả nhà phải chào mừng anh.
Gia đình họp mặt đông đủ. Bữa ăn dọn
lên nhiều món, bày biện đẹp mắt. Tri ngồi cạnh Lăng, vừa cười, vừa nói
rằng món
bánh tráng cuốn với các thứ rau, thịt heo, cá, tôm quá hấp dẫn, thiếu
ly bia là
không thể được.
Hai anh em cụng ly, rồi
nốc cạn. Khi Tri rót thêm bia, Lăng hỏi:
-Tri có xin
cải ngạch không ?
-Không, em dạy
ở Tiểu học cho khỏe, ham chi chức giáo sư.
Bữa ăn bắt đầu, cả nhà cùng vui tiếng
chuyện trò. Nắng hè thoang thoảng dịu thơm thứ hương mùa của câu trái,
và dòng
sông thật êm ả.
Tri có học thêm trên trường Văn
Khoa, đã xong hai chứng chỉ. Tri không bị đi lính vì là con trai độc
nhất trong gia đình. Tri và Linh học cùng
khóa Sư
phạm Qui Nhơn, đôi bạn quen nhau ở trường ngay năm đầu mới nhập học. Ra
trường,
được ít tháng thì xin lễ hỏi, rồi một năm sau là đám cưới. Nhưng hai vợ
chồng
còn thư thả , vì chưa có nhóc tì nào cả.
Bữa ăn rất ngon miệng. Có ly bia,
Lăng uống từ từ , và trên mặt đã thấy hừng đỏ. Nãy giờ, dì Quyên rất
vui trong
lòng nhưng không nói gì cả, mỗi khi ngừng đũa, dì đưa mắt nhìn đứa con
trai.
Lòng dì dễ bị xúc động, trên ánh mắt thật muốn nói rất nhiều.
Bỗng Lăng nghe tiếng của Loan:
-Em muốn vào
Sài Gòn.
-Sao không học
ở đây ?
Loan cười:
-Em chán ở
Huế rồi.
Lăng hỏi:
-Nhưng vào
Sài Gòn, Loan tính ở đâu ?
-Thì ở
nơi nhà cậu với anh .
Một giọng dè dặt, cân nhắc, Lăng đáp
lời:
-Anh nghĩ
Loan nên học ở đây ít năm đầu. Anh ra trường rồi, sẽ cố gắng đưa me và
các em
vào miền Nam.
Rồi với chút băn khoăn, Lăng nói
thêm:
-Anh Thụy ở
Sài Gòn, mà cũng về trong trại lính.
Tri khui một chai bia nữa, rót đầy
thêm vào ly của Lăng.
Dì Quyên nói:
-Thôi, uống
chi nhiều vậy.
Tri cười nói:
-Anh Lăng ở
xa về, me cho anh say sưa một bữa.
Với gương mặt dễ thương, nụ cười rất
hảo cảm Tri muốn làm dịu đi sự lo lắng của người anh, và tuy là em rể,
nhưng
trong nhà, cảnh huống mỗi người Tri hiểu rõ hơn ai hết.
Lăng nói:
-Anh Thụy đi
lính rồi, cũng thấy khỏe.
Linh hỏi:
-Anh Thụy được
chức chi rồi ?
-Không chức
chi hết. Lính trơn thôi, nhưng ông sống tà tà.
-Anh có bằng
Tú Tài mà lính thôi sao ?
-Ờ, anh
thích vậy. Ở lính nhàn hạ, có thì giờ học thêm.
-Em rất đồng
ý với anh Thụy. Rồi đây, có lấy được bằng Đại học, em vẫn cứ dạy ở dưới
này cho
khỏe thân. Và, rảnh thì giờ, mình xin dạy trường tư.
Linh hỏi:
-Bên hành
chánh, anh học bao nhiêu năm mới xong ?
-Hai năm
thôi. Ra trường, anh được bổ nhiệm ngay. Anh cũng rất muốn đưa cả gia
đình vào
miền Nam sinh sống.
Bữa ăn trưa thư thả, kéo dài trong sự
ấm áp của tiếng chuyện trò. Khi mọi người
ăn xong, cơm và thức ăn còn dư nhiều. Tri hỏi Lăng:
-Anh Lăng uống
cà phê không ?
Lăng gật đầu. Dì Quyên và Linh dọn dẹp
gom thức ăn dư vào dĩa, xong đem chén bát xuống nhà. Tri đi đun nước
sôi để pha
cà phê. Loan và Lăng ngồi lại bàn.
Loan hỏi:
-Anh ở nhà cậu
mợ , khó khăn không ?
-Không,
nhưng đến lúc mình phải tự lập.
-Me rất muốn
anh đi làm việc sớm.
-Anh cần phải
đi làm nên học ngành này. Anh đã tính rồi, có muốn ra Luật sư thời gian
tập sự
đã lâu mà tìm việc cũng khó. Với lại , anh không thích việc Tòa án.
-Em rất muốn
vào Sài Gòn.
-Trường Đại
học đây cũng tốt.
-Không, em
chỉ muốn xa Huế.
-Anh muốn em
hiểu về me và gia đình những người thân.
-Em hiểu chứ.
-Sao em
không xin đi du học.
Loan cười:
-Em hỏi rồi.
Phải đậu hạng Bình trở lên.
Tri đem nước đá và cà phê lên. Loan
cười bảo:
-Hôm nay anh
Tri quá giỏi.
-Đừng có
khen anh.
Cà phê được pha trong một cái phin lớn,
sau đó sớt làm ba ly. Mỗi người nhận lấy phần mình, tùy theo lượng
đường, nước
đá tự động bỏ lấy.
-Chiều nay
có tới trường không ?
-Không, em
chỉ có mặt buổi sáng.
-Anh Tri
đang làm Hiệu trưởng.
-Vậy à. Đã
có giấy bổ nhiệm ?
-Em làm hai
tháng nay rồi.
-Vậy là ngày
nào em cũng phải đeo cà vạt, ngồi bureau ký giấy tờ.
Tri cười đắc ý.
-Linh
dạy trường nào ?
-Vỹ Dạ.
-Me dạy gần
hay xa ?
-Trên Nguyệt
Biều.
Ba anh em uống cà phê, chuyện trò
thân mật. Chỉ có mình Tri hút thuốc. Tri hỏi:
-Anh Thụy
còn viết văn không ?
-Còn. Ông là
thứ lính hạng nhất.
-Anh có bồ bịch
gì chưa ?
-Ông thì
lung tung.
-Anh viết
truyện tình ra rít lắm. Không biết ngoài đời ra sao ?
-Ông đâu có
người thật. Nhân vật dành cho các cô gái là tưởng tượng thôi.
-Vậy mà có
truyện anh viết tưởng như là thật.
Buổi chiều, Tri chở Lăng xuống phố
chơi. Xe đưa vào bãi gởi, sau đó, hai anh em lang thang trên phố Trần
Hưng Đạo.
Huế không thay đổi nhiều, nhưng mỗi lần trở lại, Lăng vẫn cảm thấy ngỡ
ngàng.
Lăng đã quen cuộc sống miền Nam, và Sài gòn là thành phố Lăng đã có sự
gắn bó về
cuộc sống, về tuổi trẻ của mình hơn đâu hết.
Ngày hôm sau, giỗ chú Vinh chồng dì
Quyên. Ông Hoàng em chú Vinh cùng vợ đến dự mang theo một mâm trái cây.
Khách mời
đông, cỗ dọn cả nhà trong và ở ngoài dưới mái hiên.
Đến chiều vãn khách, giờ đó Nguyên mới
đưa Thiên Nga tới. Cả nhà vui, hạnh phúc lúc thấy lên
khi đôi tình nhân xuất hiện, và ai cũng
khen Thiên Nga quá đẹp. Đợi anh Nguyên giới thiệu xong, Nga mới hỏi
chuyện
Lăng. Giọng nói nhẹ nhàng của thiếu nữ đem lại ý nghĩa trong một sự
giao tiếp
thân tình, mà nàng thể hiện được bản tính của mình tươi sáng như bông
hoa.
Trong lúc chờ ăn cỗ, mấy anh em ngồi
quanh chiếc bàn tròn với nước trà, bánh ngọt.
-Anh Lăng mới
gặp chị Nga lần đầu phải không ?
Loan hỏi, Lăng gật đầu. Với nụ cười
luôn có trên đôi mắt, Thiên Nga nhìn qua Lăng và nàng cố gợi nhớ đến
những chuyện
Nguyên đã kể về giòng họ bên ngoại anh cho nàng nghe. Không cần hỏi
nhiều thêm,
Nga cũng đã biết Lăng là em bạn dì với
Nguyên. Và,
nàng lại rất thân với Loan, lại còn được
dì Quyên quí mến coi nàng như là cô cháu thân thương nhất trong nhà.
-Anh Lăng có
hay gặp Thụy không ?
Loan bật cười, nhắc:
-Hai người sắp
lễ hỏi rồi, đổi cách gọi trước đi.
Thiên Nga chỉ mỉm cười nghe Lăng nói:
-Có gặp
luôn, chị. Anh Thụy đi Nha Trang học xong nay về Sài Gòn.
-Hôm gần Tết,
Thụy có gởi cho tôi mấy tờ báo Xuân.
-Lúc này,
anh viết truyện cũng khá nhiều.
-Được nổi tiếng
chưa ?
-Chưa. Nhưng
cũng kiếm ra chút ít tiền.
Bữa cỗ dọn lên. Ngồi quanh mâm cỗ là
những người thân trong nên Thiên Nga rất tự nhiên, với lại, nàng sắp là
cô dâu
mới trong gia đình Nguyên. Nguyên ngồi bên cạnh dì Quyên, hai dì cháu
vui chuyện
về những tháng năm thanh bình cũng như chiến tranh ở làng quê.
Mọi người đang cùng nghe tiếng
Nguyên chuyện trò với bà dì, Linh bỗng cắt
lời:
-Anh Nguyên
có trí nhớ hay thật. Sau này, anh phải
viết nên cuốn gia phả.
Loan hỏi:
-Năm nay chị
Nga ra trường phải không ?
-Không, năm
tới.
-Không phải
bên Mỹ Thuật học ba năm.
-Bốn năm chứ.
Có năm dự bị nữa.
-Năm nay chị
có thi không ?
-Có, nhưng rớt
loạt nhì.
-Vậy thì coi
như đậu khóa hai.
Lăng ít nói, nhìn Thiên Nga với một
cái nhìn thiện cảm, trong ý tưởng đó, sự hiện diện hôm nay của cô là
hạnh phúc
cho bao nhiêu người.
Bỗng Nga hỏi:
-Liên An, bạn
của Loan đâu ?
-Đi Sài Gòn
rồi.
-Liên An đậu
không ?
-Đậu cao nữa.
Vào Sài Gòn nạp đơn xin du học.
-Liên An học
giỏi nhỉ.
Nguyên vẫn hứng thú trong câu chuyện
nói về những người bà con, làng nước. Hai dì cháu thật tâm đắc. Với dì
Quyên,
không chỉ có Lăng thôi, mà đến cả hai thằng cháu trai cưng của dì nữa
được coi
như là con đẻ vậy. Nguyên có khoa ăn nói, kể chuyện về cuộc sống, tính
cách từng
người rất cụ thể. Ở trong quân đội, Nguyên làm việc xông xáo, đạt nhanh
kết quả
được Trung đoàn trưởng tin cậy, nhờ thế, anh rời đơn vị đi đâu cũng là
một chuyến
công tác. Những chuyến công tác từ đơn vị về thành phố, Nguyên dành
được chút
ít thì giờ rảnh để đến thăm Nga. Và, nếu Nguyên theo con đường viết
văn, anh sẽ
viết nên được nhiều tác phẩm hay, gây ấn tượng với độc giả.
Chiều nay, buổi họp mặt anh em trong
gia đình làm ai cũng vui và Lăng thực sự đã về nhà, quen lại không khí
ở Huế
như ngày nào. Lễ hỏi của Nguyên và Nga sẽ tổ chức vào ngày 24 tháng 10
âm lịch ở
Đà Nẵng. Tuần lễ trước sau khi thi xong,
Nga đã về thăm nhà, bây giờ, nàng sẽ ở ngoài này học thi khóa hai.
Trong khóa
I, những buổi Nga thi Nguyên đều về nhà, xem bài vở của nàng làm qua
giấy nháp.
Anh ước tính điểm từng môn và anh tin nàng sẽ qua được loạt đầu. Trong
bài thi
loạt II chỉ có môn Vạn Vật Nga được điểm khá, Sử Địa trung bình, Anh
văn, Toán
và Lý Hóa còn yếu nên rớt. Từ đây đến ngày thi lại, còn hơn ba tuần,
Nguyên sẽ
kèm cho Nga hai môn Toán và Lý Hóa.
Trời đêm có trăng. Sau bữa ăn, cả
nhà đem bàn ghế ra sân ngồi hóng mát, chuyện trò vui vẻ. Rồi Nguyên
khởi xướng
chương trình ca nhạc sống, anh cầm đàn đánh nhạc đệm để
mọi người cùng vui hát những bài nhạc dân ca.
Loan lên tiếng bảo Nguyên đệm bài Tà
áo xanh của Đoàn Chuẩn cho Loan hát. Nguyên cố nhớ nhạc điệu, xong anh
vào bài
nhạc qua một nhịp đàn dạo, rồi Loan liền cất giọng. Tiếng hát ngân
vang, nhẹ
nhàng, lúc thật lắng đọng, lúc nghe mơ hồ tản mác bay nhẹ như những làn sương mỏng. Loan hát xong, mọi người
vỗ tay, cùng có sự hứng thú. Rồi Loan hát thêm bản Giọt mưa trên lá.
Khi Loan
hát lên bài này, Nga cũng hát theo.
Sài Gòn đang trở lại mùa mưa. Thụy
xuống ca lúc sáu giờ sáng, về đến nhà trọ ở Thị Nghè đánh một giấc xong
xuống
phố chơi. Thụy tìm đến nhà Huê, không gặp nàng. Nhưng lúc ra khỏi con
ngõ, bất
ngờ nghe tiếng ai gọi, quay đầu nhìn anh bỗng thấy nàng ngồi trong quán
nước.
Với bước đi nhanh, Thụy vào quán. Vừa
kéo ghế ngồi, Thụy nói:
-Anh mới ở
nhà em ra .
-Tìm em có
chuyện chi không ?
-Không, ghé
chơi thôi.
-Anh uống
gì, gọi đi.
Thụy gọi cà phê đá.
-Em ngồi một
mình ?
-Không, với
bạn trai.
-Anh ta đâu
?
-Đi học rồi.
-Bạn em bên
Văn Khoa ?
-Không, anh
ta học ngành Dược.
-Em có bạn mới
mà anh không hay.
Huê nhìn lại Thụy. Đứa nhỏ mang cà
phê đá ra. Thụy uống một ngụm xong đốt điếu thuốc.
-Anh ta có
trở lại không ?
-Không, đi học
rồi.
-Em quen lâu
chưa ?
-Mới ít
tháng.
Cà phê làm Thụy tỉnh táo. Thụy uống
thêm hớp đầy và ngậm cục đá nhỏ cho mát cổ họng.
-Chiều nay
em không có giờ học?
-Không. Công
việc anh lúc này sao ?
-Bình thường.
Anh làm ở Biên Hòa, làm ca, một ngày 24 tiếng, hai ngày sau nghỉ. Anh
mới xuống
ca sáng nay.
-Sao anh
không ở dưới đó luôn ?
-Biên Hòa
đâu xa Sài Gòn. Có xe đơn vị đưa đón.
-Em thấy anh
thật là vô tư.
-Anh đang buồn
đây em .
-Sao mà buồn
?
-Nghe em có
bạn trai, anh buồn.
-Thì em cũng
phải có bạn trai chứ.
-Đã hẳn, em
cần có. Nhưng em có, thì anh và em không còn vui như xưa.
-Bình thường
thôi anh ạ.
-Không bình
thường đâu.
-Anh và
em là bạn, vui chuyện với nhau thôi.
-Không có
vui chuyện nhẹ nhàng được.
-Anh hiểu lầm
rồi. Em khác anh nhiều lắm.
Thụy đốt thêm điếu thuốc.
-Anh Chương
có gởi thư về không ?
-Có. Anh gởi
cho chị Yến chứ không cho em.
-Tuần rồi em
có coi phim không ?
-Không. Em
đi chơi với bạn trai. Hôm chủ nhật, hai đứa đi ra ngoại thành ăn chim
mía.
Thụy mỉm cười.
-Anh cười gì
?
-Em lúc nào
cũng làm anh cảm thấy vui.
-Em nói thực
không xạo đâu. Ngày nghỉ đi chơi với bồ , em thấy thích thú.
-Bạn em sắp
ra trường chưa ?
-Học tới năm
thư tư rồi.
-Hai năm nữa
thôi, phải không ?
-Anh có hay
ghé nhà cô Hồng không ?
-Có.
-Lâu quá, em
không gặp Thúy.
-Rồi lần hồi
em quên hết, trừ bạn trai của em.
-Anh nói rất
đúng. Người bạn vừa đi, ngồi đây em nhớ nên không về nhà.
-Và, anh xuất
hiện thật đúng lúc em cần có một người để nói lời tâm sự.
-Em rất là
ghét những lời tâm sự.
-Anh cũng
như em. Với anh, tìm cảm cũng như cuộc sống, luôn nhanh gọn, điều ước
mong là sự
may mắn.
Huê cầm gói thuốc lá Thụy để trên
bàn đưa lên xem, nàng lật quanh và đọc những hàng chữ.
-Anh hút một
ngày mấy gói ?
-Hai ngày,
ba gói.
-Hút nhiều
quá vậy. Ít thôi.
-Em muốn anh
hút mỗi ngày bao nhiêu điếu.
-Năm điếu.
Không nên hút nhiều, hút thuốc nhiều sẽ bị ung thư.
-Anh không sợ
chết. Em biết không, thuốc Bastos xanh này nặng nhưng hút rất là ngon.
Huê rút một điếu thuốc ra ngoài bao.
Nàng nhìn lâu điếu thuốc rồi nói:
-Em mà hít một
khói, chắc chết quá.
-Không. Em
nhớ đàn bà tây phương, họ hút thuốc ghê lắm.
-Em là người
Việt Nam.
-Người Việt,
hay người gì, các cô, các bà đều hút thuốc được.
-Nhưng mà
em, không.
-Má anh
ngoài nhà, hút cẩm lệ, răng nhuộm đen.
-Ủa, má
anh có nhuộm răng đen hả.
-Má anh nhuộm
răng thời con gái. Răng được nhuộm thuốc rồi, chắc lắm không sợ gì đến
sâu ăn cả.
-Em mà nhuộm
răng chắc kỳ lắm hả.
-Em nhuộm
răng, có cách đẹp khác.
-Rồi sao nữa
ông ?
-Không nhuộm
răng , em đẹp rất là dễ thương.
-Ngày mai
anh đi làm ?
-Ngày mốt.
-Từ hôm đi
lính đến giờ, anh chỉ ở trong thành phố thôi.
-Anh không
ra ngoài tiền tuyến được.
-Sao vậy?
-Vì anh là
lính thành phố.
-Anh đi làm,
công việc bận rộn không ?
-Ghê gớm lắm.
-Vậy hả. Bộ
lên ca là lu bu lắm hả.
Huê giương tròn cặp mắt nhìn một người
lính ngồi đối diện. Trông vẻ ngây thơ của cô thật dễ thương. Người lính
vui
chuyện, vừa mong trời có mưa buổi chiều, và bắt đầu kể cho Huê nghe
việc anh
đang làm ở Trung tâm không trợ đặt cạnh Bộ Tư Lệnh Quân đoàn III. Thụy
là hiệu
thính viên, mỗi ngày ngồi ở cái bàn trong phòng làm việc với hai chiếc
máy PRC
25 và PRC 47. Ở máy PRC 47, anh theo dõi những phi vụ
đánh bom của các phi công khu trục. Khi lên
vùng, phi công khu trục và quan sát viên (ngồi trong chiếc L 19) liên lạc hành quân với nhau để cùng vào
mục
tiêu. Khi đến mục tiêu, xác định lại đúng tọa độ, quan sát viên bắn
khói màu,
sau đó, các phi tuần khu trục bắt đầu đánh bom.
Với từng đợt đánh bom, quan sát viên sẽ điều chỉnh
và cho biết kết quả.
Khi ở trên vùng trời, khu trục theo hướng dẫn của quan sát viên để oanh
kích,
thì ở bên dưới, quân bạn đang hành quân cũng liên lạc và báo cáo thêm
kết quả.
Thời gian của trận chiến diễn ra trên vùng hành quân thật vừa hiểm
nghèo, vừa
lãng mạn, và bạn nghe những cuộc đối thoại của các phi công thật sôi
nổi, hào hứng
như một trận túc cầu. Thông thường, các
trận đánh bom diễn ra chớp nhoáng, thời gian chỉ trong vòng nửa giờ. Ở máy PRC 25, hiệu thính viên thường xuyên
liên lạc với phi cơ quan sát, theo dõi phi cơ này khi lên vùng và khi
trở về, rồi
ngoài cuộc hành quân với khu trục phi cơ quan sát còn hướng dẫn đoàn
xe, bay
bao vùng, và an ninh thiết lộ.
Khi đến ngày làm, Thụy lên đổi ca
lúc sáu giờ sáng. Nhận ca xong, anh đi kiếm bánh ngọt ăn sáng và cà phê để uống. Quầy căng tin phục vụ là
của
đơn vị biệt phái Mỹ, nhưng phía lính VN được ăn theo thoải mái. Cũng
nhờ làm việc
ở đây, ngày nào Thụy cũng học nói tiếng Anh với các lính Mỹ. Tối đến,
ít có phi
vụ bay đêm anh đọc sách, viết truyện, học bài. Vậy mà, hai năm rồi, mỗi
cái bằng
Tú Tài đôi, anh thi không đậu nổi.
Huê ngạc nhiên hỏi:
-Ủa, anh
chỉ làm dưới đất chứ không đi theo máy
bay.
-Không.
Nhưng công tác, hay hành quân với bộ binh thì mình đi máy bay lên tiền
đồn.
-Tiền đồn xa
thành phố không anh ?
-Xa lắm. Nằm
trên rừng, trên núi.
-Anh thường
đi công tác ngoài tiền đồn lâu không ?
-Cũng lâu,
khi một tuần, khi nửa tháng.
-Anh đi một
mình ?
-Không. Anh
đi với ông Sĩ quan. Anh mang máy, còn ông đi tay không . À, có. Ông có
đeo súng
colt cho le.
Huê nhìn Thụy. Thấy cô gái im lặng,
anh hỏi:
-Sao, em thấy
công việc anh như vậy là phục vụ đất nước hẳn hoi, phải không ?
-Ờ anh làm
được như thế là tốt. Em cứ tưởng lính thành phố chỉ đi dạo lòng vòng
thôi.
-Trời, em
nghĩ sao mà lãng mạn quá vậy. Bộ quân đội
phát lương mình chỉ dạo phố chơi thôi sao ?
-Em thấy anh
quá lè phè.
-Nghĩ vậy là
tội anh. Xếp anh mà biết là cho anh cả mười củ.
-Mười củ là sao
?
-Là mười
ngày bị phạt đó.
-Vậy hả. Anh
đã bị phạt bao giờ chưa ?
-Chưa, nhưng
em nên dè dặt trong những nhận xét về người lính.
Huê gật đầu. Và rồi, bây giờ người
lính và cô gái có muốn rời quán để về nhà cũng chưa được, vì trời đang
bắt đầu
mưa.
II
Về
đến nhà, bị ướt mưa nên Thụy vội lấy áo quần đi tắm. Tắm xong, anh giặt
đồ
luôn. Bà chủ thấy anh giặt đồ ngoài bể nước có vẻ chăm chú theo dõi làm
anh khó
chịu. Không thể nín nhịn, Thụy nói:
-Tháng tới,
tôi không thuê ở nữa ?
-Sao vậy cậu
?
-Bà khó quá.
-Tôi khó gì
đâu ?
-Tại sao mỗi
lần tôi giặt quần áo bà cứ đứng canh bên bể nước.
-Tôi thấy cậu
xài nhiều nước quá.
-Thật vậy
sao ?
-Đúng là sự
thật.
-Vậy thì báo
với bà hết tháng này, tôi dọn đi.
-Ờ, cậu muốn
đi thì đi.
-Tốt, bây giờ
bà lên nhà đi. Để cho tôi giặt đồ.
Bà chủ vẫn không dời bước. Thụy rất
bực mình nhưng không muốn gây gổ, đang cố
giặt nhanh cho xong. Thực sự bà chủ quá keo kiệt về điện nước, chứ từ
ngày đến
đây thuê ở, Thụy dùng nước không nhiều. Mỗi tháng, anh đi làm ca trực
tại đơn vị
là mười hai ngày rồi. Đến hai ngày cuối tuần anh cũng ít khi về nhà.
Tối đến,
mười một giờ anh không đọc báo, đọc sách gì nữa mà lên giường, đi ngủ
sớm. Cũng
may, thói quen dễ ngủ nên anh ngủ rất mau.
Buổi chiều qua thật lẹ. Khi Thụy
đem quần áo ra dây kẽm ở sân sau để phơi thì
bà chủ bỏ lên nhà. Thụy nghĩ là bà thấy mình hơi vô lý nên có suy đi nghĩ lại đôi chút.
Thụy đi lên gác thay quần áo, rồi xuống
nhà. Bà ta bảo anh dừng lại và nói đôi lời phân trần. Ngay lúc đó, Thụy
giải
thích cho bà ta biết, anh là người đàng hoàng, ở đây, anh cũng hay đi
luôn, nơi
làm việc ở đơn vị xa, rồi thường hay tìm đến nhà người quen, bạn bè.
Bà chủ rót nước mời Thụy uống. Nước
trà nóng, anh uống một ly cho ấm bụng rồi đi.
Khu phố Thụy thuê ở nằm gần chợ Thị
Nghè. Thụy kiểm lại tiền trong ví và túi trên. Tối hôm qua, chơi đánh
phé Thụy
ăn được hai ngàn. Về nhà, anh ngủ li bì, tới quán cà phê ngồi với Huê ,
khi đứng
dậy nàng trả tiền.
Đèn điện thắp sáng, cảnh sinh hoạt
đêm ồn ào. Thụy đi bộ ra phía chợ và tìm một quán cơm bình dân để ăn.
Vào quán,
Thụy ngồi phía bàn ngoài nhưng từ đó trông rõ các thức ăn bày hàng.
Thụy gọi
cơm phần ba món và một chai bia cao.
Sau khi tắm xong, Thụy cảm thấy nhẹ
người. Bữa ăn mang ra, Thụy lau đũa muỗng,
chén rồi xới cơm ăn. Từ ngày rời xa gia đình, Thụy
có cuộc sống bất thường.
Thụy quen được với mùi vị mồ hôi và sự nghèo khó, hai năm qua anh đã
thấm vào cổ
họng mùi vị cơm thuốc ở quân trường , ở phạn xá của trại lính. Anh cũng
thấm vị
thuốc đó khi đến quán cơm xã hội ngồi ăn, tuy nhiên, anh chẳng hề muốn
ray rứt
nỗi buồn khổ của mình. Thụy luôn cảm thấy tự do, bao nhiêu cái tốt, cái
xấu, sự
may, điều rủi là lẽ thường giữa cuộc đời nên anh chẳng phiền muộn, hoặc
mong được
sung sướng. Nhưng Thụy cũng không an phận, làm người ấy là nhận lãnh
trách nhiệm
như câu nói của một nhà văn Pháp anh rất tâm ý. Tuy là lính, anh làm
việc đúng
đắn và thật đàng hoàng, tư cách. Thụy hưởng thời gian nghỉ và quyền lợi
người
lính một cách bình thường. Và, anh vẫn xây đắp ước vọng của người viết
văn, sẽ
đến một ngày, anh có được những tác phẩm xứng đáng để người đọc tin
cậy. Thụy
viết văn, không hề mong trở nên hoặc được làm nhà văn để hãnh tiến,
khoa
trương. Anh viết văn, nỗi đam mê viết như là máu và thức ăn nuôi dưỡng
sự sống
con người. Vào kỳ lãnh lương tháng, hoặc có chút tiền dư kiếm thêm được
bằng tiền
nhuận bút với những truyện ngắn đăng báo, hay canh bạc đỏ được ăn, thì
anh cũng
chè chén một đôi ngày cho đã bữa.
Vào lúc chiều trời mưa, anh và Huê
ngồi trong quán cũng khá lâu. Khi nàng hỏi một câu đùa, anh yêu em thực
không,
Thụy đáp tỉnh bơ là không. Nhưng anh đã không làm nàng ngạc nhiên. Rồi,
nàng
nói:
-Có anh, em
vui. Vắng anh, em nhớ, thực sự là nhớ.
Thụy nói:
-Em biết uống
ly cà phê là anh vui rồi.
-Em bắt đầu
ghiền rồi anh.
-Anh rất khô
khan, nhưng lại vừa có trong người mùi vị của cà phê.
-Anh là người
đem lại cho em cái thú uống cà phê.
-Còn em, đẹp,
ửng đỏ như trái chín trên cây.
-Kể ra, những
lời văn vẻ anh nói nghe cũng được.
Thụy mỉm cười, nhìn thấy Huê để lộ
ra cái nét duyên tuyệt vời.
Lúc này, Thụy đang nhớ nghĩ đến Huê
, anh ăn chậm, vừa cảm thấy đói và ngon. Thụy sẽ ăn hết cả cơm và thức
ăn không
để thừa. Rượu bia ngấm dần làm mặt anh hừng
đỏ. Nhưng đó là thói quen về máu, chứ anh không hề say. Phần cơm để
trong tô
khoảng ba chén, thức ăn không nhiều lắm bày trên dĩa nhỏ. Thụy ăn xong
sạch, bắt
đầu thấy no.
Ly bia còn một nửa, anh uống chậm.
Khu phố chợ càng đông, giờ này, thêm một vài gánh hàng quà dọn bán trên
vỉa hè.
Thụy uống bia, rồi đầu óc suy nghĩ. Anh đang muốn tìm một câu chuyện để
gợi hứng
tối nay về viết. Thụy viết đã quen, nhưng chưa thể là nhà văn. Những
truyện ngắn
của anh chẳng qua như chiếc cần câu hạng nhẹ giúp anh có tí tiền còm
ghé vào
các tiệm ăn bình dân. Anh biết có rất nhiều nhà văn, nhà báo ở Sài Gòn
họ sống
bằng ngòi bút. Vào buổi sáng sớm, lúc thợ sắp chữ làm
trang nhất, thì ở ngoài quán cà phê những
nhà văn này uống cà phê, đốt thuốc hút, vừa viết feuilleton. Họ không
chỉ viết
cho một tờ, mà hai ba tờ, cứ mỗi kỳ chừng ba trang viết tay. Ngồi trong
buổi
sáng chừng vài tiếng đồng hồ họ viết xong mỗi đoạn truyện dài chạy
trong ngày
trên các báo. Xong việc, họ rời quán cà phê bình dân đến cà phê tiệm
hoặc đi ăn
sáng. Bây giờ anh Nguyên đã ra ngoài Huế, chứ thời Sài Gòn, một mình,
anh cũng
chạy show mấy tờ báo, cuộc sống tương đối thoải mái, lúc có tiền dư,
anh cho Thụy
một ít tiêu thêm. Nói vậy thôi, tiền anh cho, Thụy hay để dành gởi về
cho mấy đứa
em ngoài nhà.
Bên kia đường, một dãy quầy bán vé số
đối diện với khu chợ. Thụy cố nhớ mình còn tấm vé cũ nào chưa dò không.
Thụy vẫn
luôn mong chờ tới vận may. Vào kỳ lương hàng tháng, anh hay mua chừng
năm đến
mười tấm vé số. Thụy thường lựa hai con số cuối, tính
số nút, thấy số nào chẵn, vừa đẹp ý là mua.
Thụy trúng được mấy lần, nhưng không nhiều. Số anh trúng chỉ bốn con.
Thụy vẫn
ước mơ trúng lớn để được thoải mái với đồng tiền, và bây giờ anh không
mong
chuyện gặp cuộc tình duyên vừa ý, mà làm sao có được một căn nhà để ở.
Có nhà,
anh sẽ đưa hết mẹ và các em vào đây sinh sống, xa lánh hẳn những khung
cảnh quá
quen thuộc với sự nghèo khó ở miền Trung. Về miền Trung, để yêu thương
và cảm động
như một khúc hát tình ca, thì hãy về với kỷ niệm và nỗi buồn nhớ cho
đầy trọn
tình cảm, nhưng sống ở ngoài đó, thực là khó khăn không dễ chịu như là
đất miền
Nam.
Thụy uống hết ly bia, gọi người chạy
bàn đến tính tiền. Rời quán, anh băng qua đường đến dãy quay bán vé số,
qua mỗi
nơi, anh chọn một hai tấm, mua xong hết mười tấm anh cẩn thận cho vào
ví.
Trước khi về nhà, Thụy còn ghé hiệu
sách mua tờ báo mới hôm nay. Hồi ở trọ nhà dì Hồng, Thụy hay đọc báo
thuê cả
hàng ngày và hàng tuần.
Thụy cảm thấy thật là dễ chịu trong
ngày được nghỉ làm việc. Khi anh về đến nhà, bà chủ nhà đang nói chuyện
với một
bà khách trong xóm. Anh không để ý nghe chuyện và đi thẳng ra phía sau
lên gác.
Ngọn đèn dậy sáng khi Thụy bật núm công tắc, và mất ít giây anh mới
nhìn lại
căn phòng bình thường.
Căn phòng này rộng rãi, vừa ý anh một
phần nó khuất vắng, yên tĩnh dễ làm việc. Một hôm bạn Hoài cho Thụy quá
giang từ
phố về nhà bằng xe Honda, nhân tiện anh mời Hoài lên gác chơi, Hoài
nhìn nơi Thụy
ở quá thích liền ngỏ ý muốn đến ở chung,
sẽ chia đôi tiền thuê nhưng Thụy nói không, vì anh muốn sống một mình.
Hoài
nhìn lại Thụy dò xét, khiến Thụy phải giải thích với Hoài anh không thích ở chung vì sợ dễ mất lòng nhau khi
có chuyện không vừa ý, bạn bè lui tới thăm, có lỡ qua
đêm một vài hôm dễ dàng, chứ ở lâu, rất
là bất tiện. Với lại Thụy đi làm ca, luôn phải dậy sớm trong những ngày
đi làm.
Thụy cầm chai nước lọc rót một ly đầy.
Căn phòng bày biện ngăn nắp, sạch sẽ, nhưng cũng mấy tuần qua rồi, Thụy
chẳng hề
cầm lấy một cuốn sách để đọc hay là học. Thật là quá sức mỏi mệt về
chuyện thi
cử, học hành, nhiều lần Thụy quyết định thôi hẳn, nhưng rồi cứ dây dưa,
đến bây
giờ là qua năm thi thứ ba rồi, mà anh vẫn còn lận đận.
Lên giường, Thụy nằm đọc báo. Khi mở
qua trang tin tức thể thao, anh đọc, rồi dừng lại nhẩm đếm xem vào ngày
chủ nhật
hai tuần tới nữa anh có được xuống ca nghỉ để coi trận đá bóng giữa đội
tuyển
Sài Gòn và đội Nam Hoa. Có thể đến hôm đó, Thụy có được ngày nghỉ.
Tình hình chính trị miền Nam vẫn
chưa ổn định. Sau cuộc cách mạng đảo chánh, không khí tự do đem lại cho
người
dân, nhưng rồi, trong thành phần lãnh đạo
luôn có nhiều sự đố kỵ, bè phái, và chỉ mới trong vòng ba năm mà liên
tiếp với
nhiều biến cố chỉnh lý, đảo chánh.
Chỉ là anh lính trơn, nhưng Thụy
còn có nhận thức, suy xét về cảnh xáo trộn đất
nước, nói gì đến, những cấp sĩ quan, những người trí thức, chính trị
gia.
Mưa đêm. Thụy nghe mưa bất thình
lình đổ ào xuống mái tôn. Từ chỗ nằm nhìn qua cửa sổ anh thấy một vùng
đèn sáng
đang lênh đênh qua những vùng bóng tối trên các con đường dẫn ra ngoại
ô. Trời
mưa đều hạt . Thụy tắt đèn, đi ngủ. Thụy có cảm giác ngủ ngon, bên ngoài lắng sâu, rồi trời tạnh mưa.
Bỗng nhiên Thụy giật mình hoàn hồn với
tiếng sấm sét, sau đó mưa lớn đổ ập xuống. Thụy vùng dậy bật đèn nhìn
quanh
phòng, nhìn lên trần và nhìn ra ngoài cửa thấy trời mưa mù mịt. Thụy
chợt nghĩ,
đã qua giấc ngủ rồi, không ngủ trở lại nữa nên vừa nằm nghe mưa, anh cố gợi nhớ những ngày tháng đã qua về cuộc
sống
của chính mình.
Hôm ấy, lúc xuống trạm xe buýt bên
đường Cô Giang anh đi tìm nhà Khánh. Phượng đứng ở cửa, cô mặc bộ quần
áo nhẹ
có chấm bông màu đỏ đậm. Phượng nở nụ cười trên gương mặt trái soan đầy
đặn.
-Anh vào nhà
chơi.
Phòng khách đặt ngay lối cửa vào,
bày biện rất ngăn nắp dưới hai ngọn néon sáng dịu. Thụy ngồi xuống ghế,
một
mình với cảm giác nhẹ nhõm, vừa để mắt nhìn theo dáng bước của Phượng
đi vào
nhà trong. Không lâu, Phượng trở ra với một ly nước đầy để trên chiếc
khay nhôm.
Đốt xong điếu thuốc, Thụy hỏi:
-Em còn đi học
không ?
-Không, anh.
Em đã đi làm.
-Em làm cô
giáo ?
-Anh đoán
sai rồi.
Thụy mỉm cười nhìn Phượng. Nụ cười
trìu mến trên cặp mắt anh nói thêm sự chân thật của anh đối với cô em
gái. Phượng
nhắc:
-Anh uống nước
đi.
Thụy nghe lời Phượng cầm ly nước lên
uống. Nước ngọt, thơm mát cổ họng. Thụy hỏi:
-Anh Khánh
có nói chừng nào về không ?
-Không.
Thụy nhìn lại Phượng. Thụy đang ngắm
một cô gái Sài Gòn qua hình ảnh Phượng. Khi được ở bên cô, anh như thể
có ý tưởng
mình đang sống trong một thành phố tuổi trẻ. Thụy bắt đầu chú tâm nghe
một giọng
nói Sài Gòn, khuôn mặt đầy đặn của cô gái khiến anh cảm nhận được một
thứ hạnh
phúc cây trái trong cái hồn nhân hậu miền Nam.
-Trời, anh
không biết sao, anh Khánh có nhiều cô bồ lắm.
-Còn em?
Phượng nhún vai. Những cái nhỏ nhặt
của Phượng qua dáng điệu làm Thụy nghĩ mình nên ngồi lâu thêm chút nữa.
-Anh Khánh về.
Thụy vụt đứng lên, nhưng vẫn đợi. Một
lúc sau Khánh mới vào nhà sau khi chia tay với ai đó ở bên ngoài.
-Ủa, mầy vào
hồi nào ?
Sau cái bắt tay, Khánh thả túi xách
xuống cạnh chân. Phượng vẫn ngồi yên chỗ nghe hai người anh chuyện trò.
Mới đầu,
Khánh nghĩ là Thụy vào Sài Gòn học Đại Học. Nhưng rồi, với sự lặng yên,
cảm
thông, Khánh lắng nghe những lời Thụy tâm sự về duyên phận thi cử và cả
nỗi khó
khăn trong cuộc sống hiện tại của mình.
-Mầy đang ở
đâu ?
-Tao ở trọ
nhà người dì.
Một lúc lâu suy nghĩ, với giọng chân
tình Khánh hỏi:
-Tao có thằng
em học Đệ Tứ. Mày dạy kèm nó được không ?
-Sẵn sàng.
-Ông già tao
đã nghỉ hưu. Nhưng để coi, tao sẽ hỏi giúp công việc cho mầy.
Tối hôm đó, Thụy ở lại nhà Khánh ăn
cơm. Sau bữa ăn, Khánh đưa Thụy ra quán nước gần nhà. Không có Phượng,
vui miệng
Thụy khen cô em gái của bạn mình. Khánh bảo:
-Mầy thương
nó thì cứ nhảy vô.
-Không dám.
Trời đêm mơn man, có gió nhẹ. Ngồi
trong quán nước, hai người nhắc tới những bạn lưu học sinh, gợi nhớ bao
kỷ niệm
thân thương của thời gian ba năm trước ở Đà Lạt. Và, trong số các bạn
cũ, chỉ
mình Thụy là mang số phận hẩm hiu.
Hai người rời quán đi bộ rồi dừng bước
dưới ánh đèn đường bên trạm ngừng xe buýt. Gió đêm chợt làm Thụy nhớ
nghĩ đến sự
đợi chờ và nghe những tiếng bước chân. Thụy lên xe sau cái bắt tay từ
giã người
bạn. Khánh chắc cũng nghĩ rằng, Thụy sẽ trở lại, nhưng không, ít ngày
sau đọc
thông báo tuyển mộ chuyên viên Không quân, Thụy nghĩ ngay, tốt hơn hết
nên đăng
lính như một cách tìm kiếm ra việc làm.
Thụy lên cổng Phi Long, hỏi anh Hạ
sĩ quân cảnh gác cổng, anh ta chỉ vào văn phòng có người đang phát đơn
tuyển mộ,
Thụy liền vào đó xin đơn làm ngay và cùng với giấy tờ mang theo sẵn,
anh nạp
luôn. Nhận đơn Thụy xong, anh lính phụ trách cho Thụy giấy biên nhận và
chỉ sau
có hai tuần lễ Thụy được giấy của Phòng tuyển mộ gọi đi khám sức khỏe
liên tục
trong ba ngày. Sức khỏe tốt, những thanh niên đăng lính được tuyển Ban
Tuyển Mộ
cấp cho giấy chứng nhận, vậy là Thụy cảm thấy yên lòng. Ngày lên đường
không
xa, thời gian còn lại, Thụy hì hục sáng tác truyện, mỗi truyện viết
chừng năm
sáu trang viết tay, viết xong, anh đến các tòa soạn nhật báo, tuần báo
gởi bài
và truyện nào được đăng là ngày hôm sau anh
có nhuận bút. Số tiền nhuận bút Thụy tiêu dè xẻn, cốt giữ cất cho đến ngày đi.
Ngày thứ bảy, Thụy ở nhà đợi Lăng.
Vào lúc trưa, Thụy ngủ một giấc ngon. Khi thức dậy cảnh vắng im trong
nhà làm
anh nghĩ mọi người đã đi hết. Nhưng không, còn có dì Hồng đang ở dưới
nhà.
Lối cầu thang hẹp, xuống nhà rửa mặt
xong Thụy qua chiếc bàn tròn ngồi nói chuyện với dì. Lâu lắm, hai dì
cháu mới
có được những lời tâm sự. Bây giờ, ngoài quê ở Quảng Trị, bên nội cũng
như ngoại,
người thân không còn mấy, ai cũng đi phương xa tìm cuộc mưu sinh. Dì
Hồng và mẹ
Thụy là chị em cô cậu ruột, hai người rất thân như Thụy và Lăng sau
này. Hai
người đàn bà lớn tuổi có cùng cảnh ngộ, rất hiểu nhau. Vào năm đó một
chuyến đi
Sài Gòn, mẹ Thụy và dì có dịp chuyện trò gợi lại bao nhiêu kỷ niệm đẹp
của thời
con gái. Ngày xa đó, ở tuổi mười ba, mười bốn, quê
ngoại là một khúc hát thanh bình.
Năm 1945, VM cướp chính quyền. Qua
năm sau, chiến tranh Pháp Việt bùng nổ, từ đó làng quê trở nên điêu
tàn, vắng
bóng, lần lượt những người thân trong gia đình cả hai bên nội ngoại của
Thụy đều
rời bỏ quê nhà ra đi. Nơi đến, Đông Hà, Quảng Trị, Huế, rồi lần lượt về
phía
Nam. Những người ra đi không còn ai ước mong trở về lại quê nhà nữa.
Tất cả,
như nối gót theo tổ tiên của mình. Vào
thời chúa Nguyễn có rất nhiều dòng họ ngoài miền Bắc theo Chúa vào Nam.
Họ Lê,
gốc Hải Dương, họ Đặng từ Thanh Hóa. Vào miền Nam, cuộc di dân theo
đường biển,
họ Đặng trôi giạt đến Mỹ Thủy, họ Lê đến Thuận An. Đời thứ nhất của họ
Đặng giữ
nguyên, qua đời nhì đổi là Nguyễn khi lập nghiệp, xây dựng ở làng Cổ
Lũy, quận
Hải Lăng. Phía họ Lê, từ đời thứ nhất đến thứ ba định cư tại Tiên
Thành. Bà Trần
Thị Khánh, vợ ngài Lê Hữu Thành của đời thứ ba, sau khi chồng mất, một
mẹ, một
con lênh đênh trên thuyền nhỏ làm nghề kéo ngao trôi nổi đến sông Việt
Yên, quận
Triệu Phong tỉnh Quảng Trị. Trên vùng đất Việt Yên, bà cụ Khánh chính
là tổ mẫu
gầy dựng họ Lê. Khi bà Khánh qua đời, con bà Lê Hữu Diệu lập gia thất,
sinh hạ
đông con, người con đầu tìm đến Xuân Thành, Triệu Phong lập nên phái
nhất của đời
thứ năm. Từ đời thứ năm đến ngày nay, họ
Lê chính thống là ở làng Xuân Thành. Ông nội của mẹ Thụy tên Lê Hữu
Phát, đậu
Tiến Sĩ khoa Ất Mùi, năm thứ bảy Thành Thái, ông có hai bà vợ sinh hạ
bốn người
con, ba trai một gái. Dì Hồng, con bà cô
út sớm mồ côi mẹ được mấy người cậu thương yêu, đùm bọc từ thuở bé.
Bỗng dưng, một giây khắc vô cớ làm
cho câu chuyện ngừng trong yên lặng. Thụy cảm thấy nước bọt đang ứa ra
trong cổ
họng. Thụy nhìn dì Hồng têm trầu, và đợi dì ăn xong miếng trầu ngon mới
thốt lời:
-Chú dì đã
cho cháu được sống nhờ trong thời gian qua. Cháu luôn nhớ ơn chú dì.
Với nụ cười bao dung, dì Hồng nói:
-Ít ai hiểu
được chú. Chú ít nói, nhưng rất là tốt bụng.
-Cháu biết.
-Ở xa, cháu
nên viết thư gởi thăm chú.
-Dạ.
Sự yên lặng đang ngừng như thể quả lắc
chiếc đồng hồ sau một lúc đun đưa theo nhịp nhạc chuông đánh lên. Thụy
bâng
khuâng đưa mắt nhìn gương mặt dì Hồng. Dì lấy chiếc khăn tay thấm nước
mắt.
Có người bấm chuông ngoài cửa. Thụy
vội đứng lên nhanh chân bước. Cô Năm bạn dì Hồng ở nhà kế bên qua chơi,
Thụy đứng
lên chào, giọng vui cô Năm hỏi:
-Cô nghe mầy
đi lính phải không ?
-Dạ phải.
-Chừng nào mầy
đi ?
-Ngày mai.
-Tốt đó mầy.
Đi lính như mầy là sướng hơn người ta.
Thụy hiểu lời cô Năm nói. Cô coi bói
bài rất hay, cách đây ba tuần, cô coi cho Thụy một quẻ bài và nói anh
sắp đi
xa, nhưng mà tốt. Thú vị nhất là con đầm cơ, cô cho hay là có người ở
xa đang
nhớ nghĩ đến anh.
Thụy đưa cô Năm vào gặp dì Hồng xong
qua lối cầu thang đi lên gác. Những bước chân vang nhẹ trên bậc cầu
thang nghe
như là nỗi trăn trở về cuộc đời. Căn gác nhận ra Thụy qua ánh nắng buổi
chiều
còn chiếu dọi và những sự vật vẫn quen thuộc. Thụy có cảm giác như vừa
mới bắt
tay một người bạn và nói đến chuyện ra đi.
Thụy ngồi xuống sàn cạnh
chiếc kệ để sách. Những
cuốn sách xếp hàng ngay ngắn trên hai tầng kệ. Lúc này, Thụy chuẩn bị
một ít đồ
cần thiết bỏ vào túi xách. Thụy soạn quần áo và đem theo sách học, nếu
ra quân
trường có thì giờ rảnh thì anh ôn bài. Có mấy cuốn truyện dịch anh cũng
đem
theo, nghĩ rằng, tiểu thuyết có thể đọc dễ dàng. Sự ra đi, có định
hướng với cuộc
đời hay không, lúc nào cũng là một cảm xúc thật phấn chấn, nhưng cũng
có sự nuối
tiếc cái gì đó làm cho bạn cảm nhận được qua nỗi buồn. Ai ?, muốn nhắn gửi đến Thụy một lời. Thụy nghĩ
ngay đến Thúy Hà, anh tìm cuốn album đặt ở một góc tầng kệ trên. Thụy
mở cuốn
album, tìm những tấm ảnh nàng gởi tặng. Thời gian làm rõ nét cho anh
nhớ ra những
kỷ niệm của mình, của người bạn gái.
-Em không xa
anh đâu, nàng nói.
-Anh luôn
mong có những ngày trở về. Tới một ngày đó , cũng sẽ cho anh hạnh phúc
khi gặp
lại em.
-Em không
sao, chúng ta tuy không có được duyên nợ sống với nhau , nhưng vẫn luôn
nhớ đến
nhau.
-Em là một đối
tượng, một hình ảnh.
-Hãy nhớ rằng,
hình ảnh anh trong tim em.
-Anh đi đến
nơi đâu cũng có em hết. Em là tên gọi của mỗi thành phố.
Có tiếng chuông vang lên, tiếp đó là
tiếng dì Hồng gọi Thụy. Vội vàng đứng lên, Thụy đi nhanh xuống nhà và
ra mở cửa.
Lăng tới, Thụy rất mừng. Lăng đưa
cho Thụy cái túi quà nhỏ. Cài chốt cửa xong, hai người đi lên gác.
-Tháng sau,
tôi ra Huế.
-Về nghỉ hè.
-Cũng dịp
này, nhưng đi chừng một tháng.
Vừa chuyện trò thêm mấy câu, Thụy để
Lăng một mình đi xuống nhà để pha cà phê. Nước sôi luôn có sẵn trong
bình thủy.
Thụy cho đường vào hai cái ly nhỏ, xong đặt hai chiếc phin lên ly, mỗi
phin đầy
bốn muỗng cà phê nhỏ. Sau đó, Thụy đổ nước sôi đầy mỗi phin, xong đậy
nắp.
Không đứng chờ, Thụy đem hai ly cà phê đang pha lên gác. Nước sôi còn
bốc hơi từ
mỗi chiếc phin.
Lên tới cửa, Thụy thấy Lăng đang coi
ảnh trong cuốn album.
Câu chuyện sẽ hứng thú khi có cà
phê. Buổi chiều trên căn gác thật nhẹ nhàng. Nếu trời mưa, căn gác sẽ
trở nên tối.
Nhưng cách đây hai ngày, Thụy nhớ trời mưa lớn buổi chiều, có một canh
bạc, có
Huê ngồi nhìn mưa chuyện trò với anh về sự thú vị của cách uống cà phê
và mùi
cà phê.
Bây giờ ngồi với Lăng, Thụy nghĩ
thêm:
-Trong giọt
cà phê luôn có sự thân tình dù là chỉ uống một mình. Vắng người bạn,
nhưng nhờ
có cà phê nên mình sẽ gợi nhớ.
Lăng nói:
-Anh còn một
lô ảnh ở ngoài nhà me tôi.
-Những tấm ảnh
ở đây là thời ở Đà Lạt. Cũng có một ít chụp sau này.
Cà phê đã đầy hai ly cùng một lúc.
Thụy và Lăng cất chiếc phin qua một bên rồi cầm chiếc muỗng nhựa trắng
khuấy đường.
-Ngày mai
anh đi buổi sáng hay trưa?
-Sáng sớm.
Tám giờ có mặt ở điểm tập trung.
-Đông không
?
-Đông. Có cả
số SVSQ phi hành đi nữa.
Cà phê uống ngon. Rồi, Thụy hút điếu
thuốc. Bên ngoài, trời nắng ấm. Nếu trời mưa, căn gác sẽ tối, sẽ có
những kỷ niệm
muốn xuất hiện để chúng ta cùng nhau chuyện trò. Thụy đặt điếu thuốc
xuống gạt
tàn rồi cầm cuốn album. Thụy lật qua mấy trang nhìn lại những tấm ảnh
của người
yêu. Rồi , anh đưa qua cho Lăng.
Sự yên lặng rất cần thiết giúp Thụy
nghĩ đến nàng. Lăng nhìn từng bức ảnh, bỗng hỏi:
-Anh đã cho
cô ta biết anh đi lính chưa ?
-Chưa. Ra
ngoài đó, có địa chỉ tôi sẽ viết thư.
-Cô đang ở
đâu ?
-Đà Nẵng.
Thụy tiếp lời:
-Cô đã có
người đi hỏi rồi. Nhưng với tôi, cô vẫn còn thương.
Buổi chiều xuống vội vàng, nắng tắt
nhanh ngoài cửa sổ. Mây trôi xa, ánh sáng cuối ngày chùng xuống, buông
rủ. Vừa
lúc đó, mấy đứa cháu và con của dì Hồng về tới nhà. Cửa được mở sẵn,
Thụy nghe
tiếng dì Hồng chào cô Năm khi tiễn ra cửa. Cùng lúc, tiếng ồn vui của
đám nhỏ,
chúng vẫn còn ồn ào sau buổi đi chơi trong ngày cuối tuần.
Bữa ăn tối đông vui với mọi người
trong nhà. Sau bữa ăn, Thụy và Lăng chơi
cờ tướng. Đám nhỏ chơi domino. Có chuyện gì đó cần bàn bạc, chú Minh,
dì Hồng ở
nhà trong.
Khi nghe tiếng chuông, Thúy đứng dậy
mở cửa. Thúy vừa lên tiếng chào, nhìn ra, vừa trông thấy cậu Nghiêm và
bà ngoại
, cả Thụy và Lăng cùng lên tiếng chào. Chỉ đáp ờ một tiếng, bà và cậu
đi vào
nhà trong.
Một lúc sau, cậu Nghiêm gọi Thụy
vào. Thụy và Lăng cùng bỏ dở ván cờ đứng dậy.
Thụy
lên tiếng chào, ông cậu hỏi:
-Mầy đi học
bao lâu ?
-Dạ ba
tháng.
-Rồi có được
đi học ngành nghề gì không ?
-Dạ có.
Nhìn lại Thụy, vẻ mặt nghiêm ông cậu
nói:
-Tụi bay
không chịu học hành gì cả. Đứa nào cũng lông bông.
Thụy hơi cúi đầu, vẻ mặt ủ dột. Ông
hiểu, chẳng trách mắng gì thêm rồi tiếp lời.
-Ra ngoài
đó, cần gì viết thư cho tao.
-Dạ.
Bà ngoại nói điều gì với cậu Nghiêm,
Thụy không nghe rõ. Ông cậu hơi lớn tiếng:
-Nó không chịu
học hành, con làm sao bây giờ .
Thụy định rút lui. Bà ngoại đã cầm sẵn
tiền đưa cho Thụy. Thụy cầm lấy, nói nhỏ hai tiếng cám ơn. Một giọng
dịu hiền,
ông cậu nói:
-Rồi cố gắng
chịu khó học, đi thi lại.
-Dạ.
Chuông đổ mười giờ, cậu Nghiêm và bà
ngoại ra về. Thụy đi theo hai người ra đến cửa. Thụy lên tiếng chào lần
nữa rồi
cài chốt. Mấy đứa nhỏ vẫn tiếp tục chơi domino, còn Thụy và Lăng trở
lên gác.
Đèn sáng, hai bạn trải chiếu. Chốc
lát, hình như có âm thanh của cơn mưa nhỏ hạt. Rồi cơn mưa cũng đến.
Hai bạn nằm
nghe mưa, nói chuyện. Trong mưa, lòng Thụy rất buồn, mỗi một chút suy
nghĩ đắn
đo, dè dặt đều mang một cảm giác nặng nề như thể có lời ai ngăn cản anh
đừng ra
đi.
Huế, với một lời từ biệt quá khô
khan.
Anh Nguyên đã vào Sài Gòn trước ba
ngày. Vào buổi sáng thứ sáu là ngày Thụy đi. Anh chỉ có cái túi xách
nhỏ và chiếc
va li đựng quần áo, cùng một ít sách vở học đã cũ. Một đứa em trai em
thứ năm
theo Thụy xuống con đường trước mặt nhà đợi xe buýt. Hai anh em đứng ở
trên bờ
dốc. Đứa em quá nhỏ trong bộ quần áo kaki. Thụy rất thương em nhưng
không biết
nói thế nào. Sự ra đi của anh, đành phải vậy. Nếu vào trong đó, anh
kiếm được
việc làm, ba mẹ anh sẽ đỡ khổ hơn. Thụy biết gia đình mình rất khó
khăn. Ba anh
làm công chức, đồng lương eo hẹp mà phải nuôi đến bảy người con nhỏ đến
lớn. Nếu
như, hai anh em Thụy học hành đỗ đạt, thì đấy là nguồn vui gia đình, dù
khó
khăn mấy, ba mẹ anh cũng cố gắng. Đã mười năm rồi, từ trận cháy khủng
khiếp ở
thị xã Đông Hà, gia đình anh gặp quá nhiều rủi ro, không làm sao khá
lên được.
Thụy vào Sài
Gòn với một nỗi lo âu mà chỉ có ba mẹ anh hiểu. Ở Sài Gòn, có cậu
Nghiêm và hai
người dì. Thụy có thể ở nhờ được, nhưng anh vốn biết, bên gia đình anh
không mấy
được lòng của các cậu, các dì
. Chỉ có me của Lăng ở gần, mới hiểu nhau
thôi. Từ ngày trở thành con rể ông bà ngoại , ba anh đã hiểu sự thể của
các cậu,
các dì đối với ông như thế nào. Ngày trước khi mới hồi cư, lúc các cậu
các dì
chưa vào Sài Gòn thời gian ấy có sự gần gũi, nhưng về sau đi xa , ý
nghĩa một
cuộc đời đã khác đi nhiều.
Chiếc xe buýt vừa ghé vào trạm, ngừng
lại. Thụy đợi hai người khách xuống trước, xong nói với đứa em câu từ
giã. Thụy
hôn nhẹ bên má nó, nó mỉm cười vô tư làm anh khóc. Xe chỉ dừng trong ít
phút, rồi
chạy. Thụy thấy đứa em còn đứng lại trên
bờ dốc chưa trở lên nhà.
Xe chạy chậm qua chiếc cầu nhỏ, sau
đó, bắt đầu tăng tốc độ chạy nhanh hơn. Con đường Lê Lợi là con đường
đẹp nhất
bên khu hữu ngạn. Trên con đường này, những hàng cây phượng và cây sao
trồng thẳng
tắp, trên vỉa hè lát đá, hai bên là những nhà các công sở, trường học.
Khi xe
chạy ngang qua trường Quốc Học, Đồng Khánh, anh thấy bóng nhiều học
sinh trước
cổng trường. Mùa thi đã qua, nhưng bảng niêm yết kết quả còn treo trong
khung
lưới, và lúc này vẫn còn học sinh lảng vảng chờ đợi ngày tựu trường.
Xe buýt qua chợ, vào bến chính. Thụy
quàng túi xách nhỏ đeo vai và xách tay chiếc va li đi bộ tới trạm hàng
không.
Hành khách hầu như có đông đủ và đang chờ đợi xe ca lên phi trường.
Thụy đi một
mình, và anh cũng nghĩ rằng những hành khách cùng chuyến đi này không
có ai
quen anh. Vì dễ hiểu, họ toàn là người lớn cả.
Không đợi lâu, chừng mười phút sau
xe ca đến và lần lượt hành khách trật tự vào xe để lên phi trường. Nắng
đã tràn
ngập cả khu phố chính. Xe lăn bánh rời trạm, ngồi bên cửa, Thụy cảm
thấy nôn nao
nhìn lại thành phố Huế lần cuối cùng. Phố Trần Hưng Đạo nhộn nhịp trong
sinh hoạt
ngày thường đông đúc người qua lại, bóng dáng những chiếc xe đò chạy
trên đường,
những chuyến xe buýt vào bến và cùng lúc
rời bến, dọc hai bên đường những cửa hiệu buôn bán sát liền nhau. Chiếc
cầu Trường
Tiền, một biểu tượng văn hóa của thành phố Huế ánh lên một màu sáng bạc
in dưới
nắng. Xe đang chạy chậm trên đường nên Thụy để mắt nhìn thong thả. Thụy
có ý
nghĩ, mình đã ra đi lần này sẽ không bao giờ trở về lại thành phố này
nữa. Anh
có thể về đây để thăm gia đình, gặp lại bạn bè cũ, nhưng sau đó, anh
lại ra đi.
Hình như, anh chẳng bao giờ có sự hiện diện ở nơi đây, mà ở một phương
trời
khác. Huế, thành phố này không phải của anh, mà anh cũng không sinh
trưởng ở
nơi này. Anh có thể ở Huế một năm, hai năm, hay mười năm đi nữa, nhưng
thành phố
này không thể là của anh, vậy nên giữa anh và thành phố không một ai
cho ai sự
ràng buộc để luyến nhớ. Nhưng, trong giờ phút này đây ra đi, lòng anh
bỗng ngậm
ngùi.
Khi xe chạy qua cầu, nhìn xuống con
sông màu nước xanh dịu mát đột nhiên nó làm anh mơ nghĩ đến gương mặt
các cô
thiếu nữ trong thành phố này. Ngày hôm qua, Thụy ở nhà vui chơi trò
chuyện với
mấy em. Từng câu chuyện và nghe qua tiếng nói, hạnh phúc vô chừng. Đôi
khi, nỗi
bất hạnh, khổ đau làm cho bạn chợt cảm giác mình có được sự an ủi lẩn
vào bên
trong những giọt nước mắt chứa đầy vị ngọt. Thụy nói với các em , anh
đi xa tìm
kiếm việc làm, có tiền anh sẽ dành dụm gởi cho ba mẹ và các em. Anh và
anh
Nguyên rất nhớ các em, các em cố gắng học để khá lên sau này. Sau bữa
ăn tối,
Thụy lấy xe đạp thong thả dạo chơi. Trời có trăng, Thụy đi thăm những
con đường
quen thuộc trong thành phố. Mỗi con đường làm anh nhớ tới những người
bạn gần
cũng như xa. Anh đi ngang qua những căn nhà có ánh đèn sáng, với mỗi
ánh đèn
làm anh suy nghĩ cảm
nhận đến cái vô thường, và bao nỗi băn
khoăn từ hư vô.
Con đường Nguyễn Hòang dẫn ra ngọai
ô và xe ca bắt đầu chạy nhanh. Thụy mở túi xách lấy gói thuốc đốt một
điếu.
Khói thuốc loãng tan và lòng anh thực sự thanh thản. Sự ra đi của anh
không có
điều chi đáng trách cả. Ra đi, nỗi buồn lúc đầy quá, nó sẽ lại vơi cho
lòng thấy
nhẹ đi. Những đồng ruộng, nhà ở, cảnh làng quê, bóng dáng người trong
nắng tất
cả lùi lại rất nhanh, rồi hầu như biến mất.
Khi xe ca đỗ hành khách xuống phi
trường Phú Bài, tự dưng Thụy có chút bỡ ngỡ lạ lùng.
Vì xe tới sớm, nên hành khách vào
phòng đợi ngồi yên đó để chờ. Ở đây có cả quán ăn và giải khát. Thụy
mua ly cà
phê đá đem ra bàn ngồi uống và hút thuốc. Dần dần trong thóang nhìn bao
quát,
Thụy có cảm giác quen thuộc với mọi người. Ly cà phê làm anh tỉnh táo.
Trong
lúc chờ, Thụy lấy một cuốn truyện dịch mở ra đọc. Tuy chẳng thể nào bị
lôi cuốn,
nhưng mỗi trang sách vẫn hiện lên trong trí tưởng anh về những ý nghĩa
của tiếng
nói. Người ta có thể bắt đầu cuộc đời mình bằng một sự tình cờ trong
lúc đang
có mặt ở một nơi chốn nào đó. Về sau này, Thụy dấn mình vào công việc
viết văn
mỗi giai đọan anh đều có một nhận thức rằng con người phải hiểu thấu
hòan cảnh
của mình.
Bỗng hồi chuông dài nghe lạ tai tưởng
chừng như giờ ra chơi ở trường học. Sau đó, vừa nghe thông báo của nhân
viên
phi trường hành khách Thụy rời ghế đứng lên đi tới lối cửa ra phi cơ.
Chiếc phi cơ đậu xa khoảng trăm mét.
Trên chiếc cầu thang, bên cửa phi cơ có hai cô tiếp viên mặc áo dài
thiên
thanh. Thụy đã gởi hành lý túi xách lớn, còn túi nhỏ cầm tay. Vé máy
bay còn kiểm
sóat nên người nào cũng cầm sẵn vé trên tay.
Thụy bước chậm lên thang máy bay
theo những người đi trước. Hai cô tiếp viên người miền Nam đón hành
khách với nụ
cười và những lời chào niềm nở. Khi vào bên trong, Thụy nhờ một cô tiếp
viên chỉ
cho chỗ ghế ngồi. Thụy đi theo cô đến dãy ghế giữa và ngồi ở phía ô cửa
kính
tròn. Những tiếng chân bước hành khách đi vào các hàng ghế như được
khép kín lại,
điều chỉnh bằng sự yên lặng.
Phi cơ sắp sửa khởi sự chuyến bay.
Cánh cửa ở cầu thang đã đóng. Đèn trong phi cơ bật sáng. Một giọng nói
thanh
thóat vang lên từ trong phòng vi âm, Thụy lắng nghe, sau đó giọng nói
trở nên
nhanh khi chuyển ngữ bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Chuyến đi này có bốn
hành
khách nước ngòai.
Trên cặp mắt Thụy có sự máy động làm
anh vui với niềm vui của mình. Và, hết sức chú ý đến chuyến đi , ngồi
trên phi
cơ anh nhìn qua cửa kính xuống sân bay ghi nhận từng sự vật, quang
cảnh, và cố
gắng hình dung nó như vẽ lên một tấm bản đồ.
Tiếng động cở đã nổ, ít phút sau phi
cơ từ từ lăn bánh di chuyển. Bên ngòai cảnh trí lướt qua như là một
khái niệm về
không gian. Rồi, trong chốc lát cảnh vật lùi lại đằng sau.
Phi cơ vào phi đạo chính chạy một
quãng rồi dừng lại. Nơi xa là ngôi làng trong bóng nắng. Nơi gần , chỉ
thấy
cánh đồng bỏ hoang. Sự chú ý của Thụy làm tăng mạnh thêm cảm giác khi
thân phi
cơ càng lúc càng rung mạnh. Rồi từ cuối đường băng, chiếc phi cơ lao đi
cất
cánh.
Thụy đo được bằng mắt khi anh tìm thấy
một vùng không gian bao quanh chiếc phi cơ như thể vừa vẽ xong một bài
tóan
hình học. Ngồi bên cửa nhìn ra, những giây phút đầu tiên này anh có sự
thu nhận
từ ý nghĩa bên ngòai không gian và dưới mặt đất. Khi mà sự vật bên dưới
lại mất
đi, thì vùng không gian bao quanh phi cơ trở nên rộng lớn, mênh mông.
Mây trắng
xóa, phi cơ đang bay bình yên.
Sau ít phút bay, các cô tiếp viên phụ
vụ bữa ăn nhẹ có thức uống, trái cây, bánh ngọt và cà phê. Thụy xin cô
tiếp
viên một ly cà phê sữa và chiếc bánh croissante.
Huế-Sài Gòn xa cách khỏang trên ngàn
cây số. Đi xe đò, xe lửa chạy suốt đêm cũng hơn một ngày, nhưng máy bay
chỉ mất
gần hai tiếng đồng hồ.
Chừng độ qua nửa giờ bay, bữa ăn
trưa dọn lên. Thụy không cảm thấy đói,
nhưng cố ăn xong bữa. Ăn xong, anh không dùng trái cây tráng miệng mà
uống hết
phần cà phê của mình, xong xin thêm một ly nữa.
Cà phê thơm ngon. Thụy cảm thấy thỏai
mái sau bữa ăn được ngồi dựa lưng ghế hút thuốc. Lúc này, anh không
muốn mình
lo lắng bi quan về chuyến đi. Tới Sài Gòn, mình sẽ có một cuộc đời
khác, anh
nghĩ vậy.
III
Kim đồng hồ báo thức đã chỉ 5 giờ
sáng. Vừa lúc tiếng chuông reo lên, Thụy vùng dậy bấm nút tắt, sau đó,
chuẩn bị
cho buổi đi làm. Thật nhanh gọn, Thụy gấp tấm chăn, sửa lại chiếc gối
và tấm nệm
giường nằm xong xuống nhà dưới ra ngồi chỗ bể nước đánh răng, rửa mặt.
Chỗ này
Thụy thuê ở là căn phòng của phía nhà sau, thuận tiện nhờ có lối đi
riêng. Thường
ngày, lúc về anh hay qua lối cửa trước nhà bà chủ, còn vào buổi sớm đi
làm, anh
dùng lối đi riêng để tránh gây tiếng động.
Trời vẫn còn tối , chưa sáng rõ.
Nhìn qua vùng đất trống, Thụy trông thấy
xa lộ, và giờ này, đèn sáng khi có xe di chuyển trên đường. Thụy hơi
cảm thấy mệt
vì ít ngủ, nhưng lúc này cũng đã tỉnh táo hẳn.
Mưa trở lại. Cái bóng Thụy mất
trong vùng tối, sau đó, từ lối cầu thang
anh trở lên phòng, rồi vội vàng thay quần
áo đi làm.
Lúc nào Thụy cũng khóa phòng cẩn thận
trước khi đi. Con hẻm phía sau trơn ướt, Thụy đi nhanh ra đường cái,
tới gặp
ngã ba rẽ trái, anh theo con đường qua chợ Thị Nghè và tới đứng chờ ở
trạm đón
xe trước khu nhà thờ.
Đường Hồng Thập Tự vắng vẻ. Thụy hướng
mắt nhìn về phía cây cầu, lúc này, trời cứ mưa đều hạt. Một chập sau,
có hai người
lính nữa đến chờ, rồi thêm hai người nữa. Vừa lúc ấy, một chiếc xe GMC
xuất hiện
ở phía cầu, rồi đổ dốc với tốc độ chậm sau đó ghé vào trạm.
Năm người lặng lẽ leo lên xe. Trên
xe có khá đông người ngồi và xe có bạt
trùm kín nên không bị ướt. Trong khoang xe tối không nhìn rõ mặt nhau,
nhưng
nghe ra tiếng nói. Một bàn tay đập mạnh lên thành xe báo cho tài xế
biết mọi
người đã lên đủ.
Xe lăn bánh. Trong xe, có ánh lửa điếu
thuốc. Tới ngã tư xa lộ, xe rẽ phải, rồi phóng nhanh tốc độ. Thụy lặng
im nghe
những người lính nói chuyện. Và rồi, Thụy bỗng nhớ ra điều họ nói liên
quan đến
bản tin trên tờ báo Tiền Tuyến về việc cải tổ lương bổng cho quân nhân.
Trên bản
tin này, có hai điều Thụy nhớ rõ là tiền thâm niên công vụ sẽ tăng, và
từ nay,
tiền gạo và nhu yếu phẩm của quân nhân được tính luôn vào đồng lương
thay vì cấp
phát bằng hiện vật.
Trời sáng hẳn khi xe lên tới thị trấn
Tam Hiệp. Xe không còn chạy nhanh trên con đường vào thị trấn. Nhưng
rồi không
lâu, xe tới Quân đoàn đi vào cổng và ngừng
đỗ bên bãi đậu gần khu gia binh.
Khi xe ngừng hẳn tài xế tắt máy, mọi
người xuống. Từ bãi đậu, Thụy đi tới chỗ làm việc. Ngay lối vào hầm,
Thụy gặp
hai người lính Mỹ mang súng M16, họ cùng tốp làm với Thụy, hôm nay cũng
lên đổi
phiên.
Vào bên trong, không khí ấm hẳn ,
đèn sáng trưng các phòng làm việc. Thụy
tới quầy phục vụ kiếm cái bánh ngọt xong lấy ly giấy
rót cà phê. Thụy tập
thói quen uống cà phê Mỹ với crème không bỏ đường, vì đã có cái bánh
ngọt kèm
theo. Thụy ăn và uống tại chỗ, xong một chiếc bánh, xong một ly cà phê
Thụy lại
rót đầy ly nữa để uống thêm. Từ quầy, Thụy
đến phòng làm việc của ban ALO nằm ở cuối
dãy.
Phước đang trực nghe máy khi Thụy
vào.
-Sao, có gì
lạ không ?
-Vô sự.
-Hồi đêm
không có phi vụ nào cả.
-Có một phi
vụ tản thương.
Ở phòng làm việc này, có hai máy
truyền tin hiệu thính viên ngồi nghe và theo dõi hoạt động của các loại
phi cơ,
lúc có chuyện gì quan trọng mới tin báo đến Sĩ quan trực.
-Thôi, chuẩn
bị về đi.
-Ờ.
Phước nhường ghế cho Thụy, đứng dậy
đốt điếu thuốc. Thụy coi lại sổ trực ngày hôm trước để biết các sự
kiện, sau
đó, anh ghi ngày , tên Sĩ quan trực và hiệu thính viên nghe máy. Trên
sổ trực
này, khi có sự kiện, hiệu thính viên phải
ghi vào với ngày giờ bên lề. Cứ từng giờ, không có sự kiện nào, ghi là
vô sự.
Bỗng nhiên Phước hỏi Thụy:
-Sao, mày có
tính đi Sĩ quan không ?
-Đi Thủ Đức
hả.
-Không, bên
Không quân.
-Đâu có đủ
điều kiện đi Kỹ thuật.
-Đang tuyển
ngành phi hành.
-Khó lắm.
Tao không đủ sức khỏe.
-Bên văn thư
mới có thông báo của Phòng tuyển mộ gởi.
-Ờ, để tao
coi lại.
Hút xong điếu thuốc, Phước chưa về
còn chuyện vãn với Thụy.
-Mày đi đi.
Có cơ hội nên đi.
-Tao muốn đi
Kỹ thuật, dễ ra trường hơn.
-Đi Pilot
qua Mỹ học mày.
Thụy mỉm cười, một lúc sau nói:
-Mấy ông Sĩ
quan ALO ở đây, ông nào cũng bị gãy cánh hết.
-Sao mày biết
?
-Mày có thấy
ông nào có đeo cánh bay có ngôi sao ở giữa không ?
Phước có vẻ trầm ngâm . Lúc này
trong máy vô tuyến đang hoạt động giữa quân bạn và một phi cơ trực
thăng có phi
vụ tiếp tế đang trên đường bay.
-Sao hôm nay
có đi Mỹ Tho không ?
-Không, tuần
tới.
-Mầy đi xe
đò hay Honda.
-Honda.
-Sao mày
không chịu học lại.
-Học không
zô mầy ơi.
-Tao cũng vậy.
Không có hứng thú gì chuyện học.
-Nhưng mày
ngon rồi. Trong anh em, mầy có được bằng Tú Tài.
-Ở Không
quân này, lính, Hạ Sĩ quan, bằng cấp Tú Tài, Đại Học thiếu gì người. Ở
tòa soạn
Lý tương, có đến ba ông Đại học mày biết không ?
Trung úy Thái đến, ông luôn mặc đồ
bay mặc dù không phải là phi công. Với Thụy, ông khá thân thiện, vì anh
cũng có
máu văn nghệ như ông.
Khi Trung úy Thái đến, Phước mới ra
về. Viên Trung úy kéo ghế lấy gói thuốc mời Thụy một điếu hút và trên
tay ông
cũng có ly cà phê.
-Sao mầy thi
cử sao ?
-Thôi, em
thi kỳ nhì.
-Kỳ đầu rớt.
-Không, em
chưa thi. Mà, học không vô Trung úy ơi.
-Ráng đi chứ
mày. Có được cái Tú Tài đôi, đi kỹ thuật.
-Em biết.
Nhưng khó quá. Em thi hai năm năm rồi, không đậu nổi.
-Hay là mày
đi phi hành.
-Khỏe như
Trung úy mà không thành Pilot nổi, gì đến em.
-Mày phải tự
tin. Biết đâu, rồi mày thành tài.
-Em thấy
mình thiếu tự tin. Vậy nên, em chỉ thích cái nhàn hạ. Khi con người mình thiếu ý chí, thiếu cương quyết thì tương
lai sẽ không thành.
Có chuông điện thoại reo, ông Thái cầm
máy. Sau cuộc điện thoại, ông lên Phòng Hành Quân. Thụy vừa uống cà phê
vừa
nghe máy. Trên máy, chỉ là quân bạn và phi cơ trực thăng. Lúc này, phi
cơ đã ở
vùng hành quân:
Trung úy Thái trở lại, ông nói với
Thụy:
-Có L19 hộ tống
đoàn xe. Ông đưa manifeste cho Thụy ghi vào sổ và bắt đầu từ giờ này
theo dõi
đoàn xe.
Thụy nhận giấy, ghi chép cẩn thận,
và lúc này anh mới thực sự vào giờ làm việc. Nhỏm người đứng dậy, kéo
sửa lại
chiếc ghế xong Thụy ngồi xuống, thay đổi tần số trên máy PRC 25, rồi
tai lắng
nghe những thông tin liên lạc của phi cơ và đoàn xe.
Đoàn xe đã chuyển bánh. Bên máy PRC
47, có một phi tuần A 37 vừa tới vùng hành quân. Thụy nghe các phi công
nói
chuyện qua máy. Thụy để tai lắng nghe, làm việc ở ban ALO, giờ phút sôi
động
hào hùng nhất là được nghe tiếng các phi công đang cho phi cơ nhào lộn
với các
trận đánh bom. Những trận ném bom trên mục tiêu ngoài chiến trường đã làm anh
nghĩ đến một trận bóng tròn quốc tế đang diễn ra nhiều pha bóng tấn
công hồi hộp,
sôi nổi vào khung thành đối phương để ghi bàn thắng.
Thụy vừa ngồi nghe máy, ghi chép các
sự kiện hành quân vào sổ, và bên cạnh có tờ báo, thỉnh thoảng anh cầm
lên đọc.
Tới trưa, Trung úy Thái đến ngồi trực máy thay cho Thụy đi ăn. Trước
khi Thụy
đi, ông móc ví lấy tiền nhờ Thụy mua gói thuốc Pall Mall. Đây là thuốc
Mỹ loại
nặng, Thụy rất thích, nhưng đến mỗi tháng có lương anh mới hào phóng
mua một
gói hút cho thơm râu.
Ngoài cổng quân đoàn, dọc theo con
đường của thị trấn có rất nhiều quán ăn, giải khát. Thụy
đến quán cơm chị Hòa, giờ này đã đông khách.
Trong quán, lính có , Sĩ quan cũng có, họ ngồi riêng từng nhóm. Thụy gọi một dĩa cơm trứng và ly trà đá. Đây là
phần
ăn rẻ tiền nhất. Thường ăn một dĩa là còn thiếu, Thụy phải gọi thêm cơm
không,
ăn dặm với nước tương.
Nắng trưa, bụi, khói, tiếng xe cùng
lúc nổi trôi trên con đường. Bên ngoài này là khung cảnh thị trấn, từ đây vào thị xã Biên Hòa còn khoảng bốn cây
số nữa. Và, phía bên trái hàng rào doanh trại của quân đoàn là phi
trường. Tại
phi trường này, có đơn vị Không đoàn 23 trú đóng.
Dọc theo con đường chính của thị trấn,
nhà ở hầu hết là của lính. Những quán ăn và giải khát hầu hết cũng là
của gia
đình họ nằm ngay bên đường, luôn nhộn nhịp từ sáng đến nhiều. Buổi
chiều, sau
giờ còi hụ những quán nhậu mọc lên bằng
những tấm bạt, tấm dù, quán nào cũng có
rượu đế, có bia, thịt rừng, và đồ biển.
Hai quả trứng chiên, dĩa cơm nóng thật
hấp dẫn. Khi ngồi vào bữa ăn, Thụy luôn cảm thấy đói nên ăn ngon. Thụy
ăn nhiều
cơm, nên vừa sắp hết một dĩa là gọi thêm chén cơm không mang ra ăn tiếp
với nước
mắm mỡ, hay xì dầu. Nhờ ăn nhiều nên Thụy lúc nào trông cũng khỏe mạnh,
dềnh
dàng. Thời đi hoc, sự thiếu thốn làm Thụy luôn khắc khổ, luôn ám ảnh sự
không
may gắn liền cùng số phận, đến giờ đi lính, dù tuổi mới hơn hai mươi,
nhưng
trông anh cũng đã gió sương, dạn dày. Thực sự, anh vẫn còn ngây ngô,
non dạ,
non tình, vụng về nhiều mặt. Nhưng đôi lúc, ngồi cười thú một mình anh
hay có
những ý nghĩ lẩm cẩm về chuyện vụn vặt riêng của mình, của người khác,
rồi lan
ra tới chuyện đời. Thụy cho rằng cuộc đời
là không thể nào đơn giản, bình thường. Người ta hay ví dòng sông như
dòng đời
nhưng bạn có bao giờ thấy một con sông phát xuất từ đầu nguồn chảy
nguyên một
dòng ra đến biển hay không. Ta đây cũng có sự phân biệt về cuộc đời và
cuộc sống.
Cuộc đời thì dài, liên tục, còn cuộc sống nó đặt ra sự hạn định con
người trước
thời gian. Có một phụ nữ trí thức người Mỹ nói, chúng ta sinh ra một
mình, chết
một mình, còn lại với cuộc đời chúng ta sống làm sao cho có được một ý
nghĩa
đích thực. Có một ông nhà văn người Pháp, thì bảo, cuộc đời này có đáng
sống
hay không đáng sống. Và, cụ Khổng Tử nhà hiền triết bậc nhất Trung hoa
đã nói một
câu thật ý nhị, nhưng buồn quá. Một hôm ấy, đứng trên bờ nhìn sông
chảy, cụ
than thở, sông ơi sao mà cứ chảy hoài không ngưng nghỉ.
Giờ này đúng giờ ăn trưa nên các
quán đều đông khách, đúng hơn là đông lính tráng, và cũng có Sĩ quan
vào ăn. Thụy
bỗng nhớ mình có một người chị con ông bác ở ngay trong thị trấn này,
nhưng chỉ
mới đến thăm nhà chị có một lần. Hôm ấy, dì Hồng hỏi Thụy:
-Lâu nay, thằng
Nguyên đi đâu không ghé con ?
-Chắc là anh
đi công tác.
-Nó ở đâu,
con biết không ?
-Anh không
có nhà ở. Anh làm việc ở tòa báo, rồi ở luôn đó.
-Sao không về
ở dưới này với dì.
Có người bấm chuông ở ngoài, Thụy vội
ngừng giặt đứng dậy đi nhanh bước. Anh Nguyên đến, thực là hay khi cả
dì Hồng
va anh vừa mới nhắc tên. Khi thấy anh
Nguyên xuất hiện, dì Hồng cười lên tiếng:
-Đã không ?
Lâu nay đi đâu con ?
-Con mới đi
công tác về.
-Công tác ở
đâu con ?
-Dạ, xuống
dưới miền Tây.
Anh Nguyên để túi trái cây lên bàn,
nói:
-Con mua
trái cây biếu chú dì.
-Chà , thảo
không ?
Thụy tiếp tục giặt. Sau khi vò xong
cái áo mai ô, Thụy bắt đầu xả. Quần áo Thụy mặc không dơ lắm, chỉ xả
đến nước
thứ ba là mặc được. Nơi chiếc bàn tròn, anh Nguyên và dì Hồng nói
chuyện.
Lòng dì vui hẳn lên lúc
nghe đứa cháu kể chuyện đi
công tác về miền Tây, bỗng nhiên dì cất
tiếng cười sảng khoái khi nghe anh Nguyên nói, bây giờ anh là đệ tử
cưng của Thầy
Thích Tâm Châu.
Tiếng chuông đồng hồ trưa đổ. Ngừng
chuyện, anh Nguyên đứng dậy bảo Thụy:
-Đi với anh
thăm chị Số một chút.
-Ua , chị Số
ở đâu ?
-Chị ở Biên
Hòa .
-Sao anh biết
?
-Anh gặp chị
về Sài Gòn mua hàng.
Thụy để anh Nguyên nói chuyện tiếp với
dì Hồng rồi đi lên gác thay quần áo. Xuống nhà, hai anh em Thụy chào
người dì để
đi.
Bến xe Nguyễn Cư Trinh gần nhà dì Hồng
. Hai anh em Thụy vừa đi bộ, vừa nói chuyện nhà.
Khi tới nơi, hai người hỏi xe đi Hố
Nai. Chiếc xe búyt dài đang chờ khách nên hai anh em Thụy vào quán ăn
cơm trưa
cho chắc bụng . Trong lúc ăn, anh Nguyên nói:
-Ra Tết, anh
em mình dọn tới khu Bàn Cờ ở.
-Anh thuê
nhà ở đó.
-Nhớ anh
Công học lớp anh không ?
-Nhớ.
-Hai anh em
mình về ở chung nhà anh Công.
-Anh Công ở
một mình.
-Anh Công ở
nhà người anh rể. Bây giờ, gia đình người
anh xuống Mỹ Tho để lại nhà nhờ anh Công chăm sóc.
-Hay quá.
Hai anh em Thụy ăn cơm xong, vừa lúc
xe sắp chạy. Hai người lên ngồi băng ghế cuối. Ra khỏi bến, xe chạy
trên đường
Trần Hưng Đạo, rồi vào Hồng Thập Tự, đến
ngã tư Hàng Xanh xe rẽ phải vào xa lộ Biên Hòa. Từ
đấy, xe chạy nhanh và chỉ sau một tiếng đến
Tam Hiệp ngừng đỗ khách .
-Hôm nay chị
có biết anh xuống không ?
-Có.
Từ bến đỗ, hai anh em Thụy đi bộ đến
nhà chị Số xa chừng khỏang nửa cây số. Thụy hỏi anh Nguyên:
-Chị Số là
con của bác gái hai hay ba.
-Bác hai.
-Bác lớn có
mấy người ?
-Bốn người.
Trên đường đi, Thụy hình dung lại
bóng dáng của người chị thuở nào. Tuy ít học, nhưng chị có nhan sắc.
Thụy còn
nhớ hình ảnh chị lúc gia đình anh vào ở Quảng Trị. Và, Thụy nhớ rõ hơn
hết là một
buổi sáng sớm ba , anh Nguyên, Lăng và anh cùng đến nhà bác sau một đêm
đi ngủ
nhờ vì căn nhà ở trọ là nhà bác Biền bị cháy. Đêm ấy lạnh, ngủ ngoài
hiên không
có chăn đắp. Khi thức giấc, Thụy nghe tiếng ba anh khóc. Có lẽ ông nghĩ
nhiều đến
sự đời.
Sáng sớm hôm ấy, bốn người vội đi
lúc chủ nhà vừa thức giấc. Ba anh nói lời cám ơn, vừa trả lại tấm chiếu
cho chủ
nhà. Trên đường, một người cha dắt hai con và đứa cháu đi sâu vào ngôi
làng qua
một con đường dài , hai bên trải một hàng cây tre dày kín. Rất may, ba
anh tìm
ra được nhà bác Hai gái, rồi ở nhà bác ăn cơm, trò chuyện đến trưa đón
xe ra
Đông Hà, Hai tuần lễ sau, ba mẹ anh cũng mau thu xếp đem cả gia đình
vào Quảng
Trị ở.
Hai anh em Thụy đi bộ trên con đường
đất có bóng cây im mát. Cũng khá xa, từ bến xe đậu đi tìm nhà người
chị. Khi tới
cổng và thấy số nhà, hai người dừng bước, do dự. Căn nhà chính lợp
ngói, nhà phụ
lợp tranh, sân trước khá rộng, và Thụy trông thấy phía góc sân một người đàn bà mặc áo trắng cũ đứng quay
lưng đang phơi quần áo. Có tiếng chó sủa, người đàn bà quay lại nhìn về
phía
hai người lạ. Anh Nguyên nói:
-Chị Số đó.
Chị Số nhận ra anh Nguyên liền chạy
ào tới. Thụy cười hỏi chị:
-Chị nhớ ra
em không ?
-Trời, cậu.
Chị Số đã nhận ra Thụy, rồi vừa nắm
tay, chị nghẹn ngào nói, vừa khóc.
Năm đầu tiên Thụy lên trung học, chị
Số đi lấy chồng vào Huế ở, sau hai năm thì rời xa miền Trung miền Nam.
Ra đi
xa, ít có dịp trở về thăm làng quê nhưng Thụy vẫn còn nhớ rõ hình ảnh
chị thời
con gái với nét mặt dịu hiền, cặp mắt to đen, và chị thật đảm đang việc
nhà.
Anh Nguyên và Thụy chỉ có em gái
thôi, vì vậy, mỗi lần gặp chị, qua hình ảnh chị Thụy cứ nghĩ, ước gì
mình có một
người chị như thế để được gần gũi mỗi ngày trong cuộc sống bình thường,
bằng tiếng
nói, câu chuyện, bữa ăn, hay có một việc gì đó cần được giúp đỡ.
Sự liên hệ gia đình thân thuộc, dòng
dõi bên nội Thụy không có khoa bảng, nhưng anh chị em rất là thương
kính nhau.
Và, sau ngày chú Đặng mất, ba anh là người tương đối có chút học vấn,
vừa làm
nghề dạy học nên trở thành cái nôi cho cả gia đình, con cháu. Sớm hiểu
về cuộc
đời, nên ba anh đã cố gắng cho con cái đi học, đồng thời, cũng tìm cách
giúp đỡ
những đứa cháu ở làng quê cố ra tỉnh để theo học, may có tương lai về
sau.
Trong các bác, các chú, ba Thụy là người được các cháu kính trọng, nghe
lời,
trong đó riêng chị Số dành cho ba anh địa vị giống như một người cha.
Thuở đó, ở
làng quê ra, vì nghèo khó chị phải giúp mẹ buôn bán để nuôi em đi học.
Bù lại sự
thiếu thốn đó, trời cho chị chút nhan sắc để gặp người chồng tốt và
sống cuộc đời
hạnh phúc.
Quảng Trị là một tỉnh tuy nhỏ, nhưng
có nhiều tài nguyên ở trên rừng và dưới biển. Rừng núi ở phía Bắc, còn
biển trải rộng về phía Đông. Và, không chỉ
có con
sông Thạch Hãn chảy qua thành phố, mà ở mỗi quận, thị trấn, nơi nào
cũng có
sông, nơi nào cũng có những con đường đi ra biển, và làng Thụy ở gần
biển nhất.
Ngôi làng này nay vẫn còn nguyên vẹn sau chiến tranh. Ngôi làng dân cư
thưa thớt,
có khỏang chừng 100 nóc nhà ở trải rộng trên những con đường đất xa
gần. Có những
căn nhà đơn độc, hẻo lánh hướng về phía mặt biển trông qua những đồi
cát. Những
con đường nhỏ chính yếu của ngôi làng luôn mát dịu dưới bóng tre, và
trên mấy
con đường này nhà ở tụ tập gần nhau hơn những nơi khác. Quanh ngôi làng
, xa
cũng như gần ở đâu cũng nhìn thấy những đồi cát trắng trông tựa như
những đàn
voi. Vào mỗi buổi sáng, những đàn chim thiên di từ hướng núi bay ra
biển. Vào
buổi chiều, trước khi mặt trời lặn, sóng biển dội lúc nổi, lúc chìm,
nghe rào rạt
trôi xa, rồi mất hút. Và, đó là tiếng động báo hiệu trước mùa đang tới
sẽ yên
bình hay gặp cơn giông bão.
Từ Sài Gòn lên Tam Hiệp thăm chị Số,
hai anh em Thụy được một buổi chiều tối hưởng trọn hương vị đồng quê.
Qua trưa
hôm sau, hai anh em còn ăn bữa cơm với gia đình chị để sau
đó trở về lại Sài Gòn. Trong bữa ăn,
chỉ vắng anh Nghi chồng của chị, anh làm
ngành kiểm lâm và đang công tác ở Di Linh. Từ hôm qua đến giờ , Thụy
vẫn luôn
trông trông theo bóng dáng chị như để tìm kiếm
bóng quê nhà xa lắc. Khi nghe giọng nói của chị,
Thụy chợt nghĩ đến thời
con gái của chị, rồi bỗng thấy vui được nhớ đầy đủ mái nhà chị ở trong
khu làng
Thạch Hãn thật mát rợi với cây cối trong một khu vườn xanh kín lá cây.
Thụy đưa tay đỡ lấy chén cơm chị vừa
xới, rồi nở một nụ cười sung sướng như vừa
bắt gặp, vừa mới nhận ra cái đời sống sung túc của chị, đến lúc này,
gặp lại đứa
em nhỏ ngày xưa chị có thừa cơm gạo, thức ăn, để em nó ăn no đủ.
Thụy lên tiếng hỏi:
-Chị có được
tin tức gì của chị Thú và anh Quân không ?
-Bác có được
tin. Chị Thú ở Nghệ An, làm công nhân xưởng dệt. Còn anh Quân ở Hải
Phòng.
Hai anh chị con người bác mà Thụy vừa
hỏi đến đều tập kết ra Bắc sau hiệp định Genève năm 1954. Thụy chưa hề
được gặp
chị Thú, anh Quân nhưng được nghe nói nhiều qua lời ba anh kể lại.
Trong giòng
họ Nguyễn Đặng, ông bà nội rất đông con, 8 ông con trai hai bà con gái,
và hiện
tại ở ngòai làng quê chỉ có bác Hai, bác Oanh và hai người o. Còn lại, đi ra tỉnh kiếm việc làm sinh sống,
ba anh dạy học, bác Hoàn làm y tá, chú Luyện làm thợ nề. Và, có lẽ do
gen chung
trong giòng họ, từ bác Hai đến o Ut trong nhà, gia đình nào cũng đông
con mà lại
nghèo. Tuy nhiên, sự hòa thuận thương yêu từ ruột thịt đến bà con là
đặc điểm
mà Thụy biết được, không cần bộc lộ hay nói ra nhiều lời.
Những năm tháng gia đình Thụy còn
ở Đông Hà, Quảng Trị, lúc đó hình ảnh cuộc
chiến tranh đến với Thụy là nghe tiếng súng trên núi vọng về, cảnh hỏa
họan do
Việt Minh đốt trại lính lửa cháy tràn xuống vùng dân cư sinh sống tại
thị xã,
hay trong một lần anh được nhìn thấy những đòan xe chở lính tráng trên
con đường
qua vùng thị xã để đi lên mặt trận. Đó là những hình ảnh, ý niệm sơ sài
về chiến
tranh qua tuổi nhỏ, còn giờ đây lớn lên, Thụy ý thức được cuộc chiến
tranh trước
nhất là mình thấy sự đe dọa rồi sẽ phải đi lính, và dù chưa mặc áo nhà
binh,
nhưng mỗi ngày những biến động xáo trộn trong thành phố, những tin tức
báo chí
tường thuật các trận đánh của các đơn vị miền Nam với Việt Cộng, Thụy
có nhiều
nỗi băn khoăn, như thể chưa bao giờ mình gạt được những lo âu thường
ngày.
Hình ảnh làng quê nơi chốn xa vẫn
đem cho anh sự dịu hiền, quyến luyến. Và mỗi lần được nhớ, nhiều hơn
hết trong
lòng anh là gương mặt những người thân và tiếng nói. Thụy bỗng nghĩ đến
sự lìa
bỏ quê nhà đi theo lý tưởng của hai anh chị con bác Hai , nhưng anh
không cần
phải đặt câu hỏi hai người có nhận ra sự phi lý đối với một dân tộc,
anh chỉ tự
hỏi mình trong lúc này, anh có mang tâm
trạng của anh Quân ra đi là từ bỏ chốn quê nhà và
không mong nghĩ đến một
ngày trở về .
IV
Hai ngày xuống ca nghỉ luôn làm Thụy
cảm thấy rất thoải mái. Khi về tới Sài Gòn, không khí sinh hoạt của
thành phố
làm anh phấn khích và nhận ra thành phố này đích thực là dành cho con
người
luôn thúc đẩy mình chuyển động trong sự hăng hái tham dự vào cuộc sống.
Về nhà trọ, lên căn phòng vắng lặng,
Thụy chỉ cởi đôi giày trận xong lăn lên giường đánh một giấc. Trên
đường xe chạy
Thụy đã ngủ, giờ vẫn thèm ngủ. Trong giấc ngủ, đôi lúc anh nằm mơ. Và,
giấc mơ
hạnh phúc nhất cho anh là được thấy bóng hình Thúy Hà. Khi nàng đến tìm
anh
trong giấc mơ, luôn luôn nàng mặc áo dài nâu. Đó là một chiếc áo, một
bóng dáng
riêng biệt của nàng. Cũng đã có một đôi lần, nghĩ về chiếc áo dài nâu
nàng mặc,
Thụy có nhiều ý tưởng so sánh, một cảm giác về thời tiết trong mùa, một
bức
tranh được treo trong góc căn phòng, thảng hoặc nơi xa đó là một thành
phố mình
hằng mong tìm đến. Những tháng năm của thời đi học, Huế quen thuộc với
Thụy hơn
hết. Và, thành phố này đã cho anh những hình ảnh áo trắng rất là quen
thuộc. Áo
trắng ở thành phố này là hương sắc của thời gian, ngày với hương vị của
nắng ấm
và gió của dòng sông, đêm là của loài thảo mộc. Nhưng lạ thay, xa Huế
là Thụy
không nhớ nghĩ đến thời gian và bao nhiêu khung cảnh quen thuộc ấy nữa.
Và rồi,
một buổi sáng ấy Thúy Hà đến lớp với chiếc áo dài trắng, hình ảnh đó
mãi mãi với
tâm hồn Thụy là một nơi chốn riêng biệt giữa bốn phương trời.
Khoảng đầu giờ buổi chiều Thụy thức
dậy. Sự thức giấc sau giấc ngủ ngon làm anh tỉnh táo và thèm một ly cà
phê. Với
cà phê, đã có một thời gian kéo dài đến mấy tháng, uống vào buổi chiều
làm anh
mất ngủ, nhưng giờ thì rất là quen. Và, đã một lần anh bỗng nhận ra, ly
cà phê
vào đầu buổi chiều là thời gian uống ngon nhất. Những buổi sáng thức
dậy có bữa
ăn sáng với ly cà phê, chẳng qua đó là thói quen, chứ uống cà phê vào
không khí
đầu buổi chiều bên goài trời mưa hay nắng, đều có một cảm giác rất ngon
và rất
thú vị. Huê bắt đầu ghiền cà phê, nàng nói, Thụy là người đem lại cho
nàng thú
uống cà phê. Không chỉ đôi ba lần mà nhiều lần, khi ngồi trong quán
nước gọi cà
phê uống, Thụy và Huê luôn cảm thấy lòng mình vui, yêu thích cuộc sống
và trò
chuyện rất ăn ý , vừa được cơ duyên. Vậy
là hai người trẻ , chàng và nàng đích thực có một mối tình cà phê. Khi
Thụy nói
ra ý nghĩ này, Huê gật đầu.
Thụy xuống nhà rửa mặt, xong lên
thay quần áo. Với dáng dấp thô cứng, vụng về, bộ quần áo xi vin Thụy
đang mặc
nó nhẹ hẫng phất phơ như là chiếc lá, nhưng sự quan tâm mỗi ngày của
anh là coi
tiền cất trong ví có được bao nhiêu. Nếu ít quá, anh phải đến quán cơm
xã hội,
hoặc mua bánh mì. Anh không thể mua bánh mì nhân thịt ổ lớn, mà chỉ vừa
tiền
cho ổ nhỏ, xong đệm thêm một chiếc mì không để chấm với nước tương. Còn
lúc được
tiền kha khá, thì đến quán cơm bình dân anh ăn no bữa. Vào mỗi kỳ đầu
tháng, bữa
cơm anh đi ăn khá là ngon và có thêm chai bia nhấm nháp nữa. Kể từ ngày đi lính đến nay, Thụy luôn cố gắng
sống với những sự khó khăn hàng ngày qua đồng lương. Thế nhưng, anh vẫn
cố ngăn
mình đừng quá mặc cảm và khổ sở vì sự thiếu thốn. Có thể nói, không khí
thành
phố Sài Gòn làm anh luôn cảm thấy dễ chịu và tự tin.
Căn phòng Thụy đang thuê ở luôn bỏ
trống trong thời gian còn lại của buổi chiều. Và cơn mưa có khi tới,
thế nào
căn phòng cũng có một đôi chỗ ướt dột. Nhưng sau đó, mùi vị của nó vẫn
như là
đã quen thường ngày.
Khoản tiền nhà đầu tháng, Thụy đã trả
tuần trước. Bà chủ nhà rất vui vẻ lúc lấy tiền và bà đã nhận ra rằng,
bà quá cẩn
thận về điện nước, thấy rằng Thụy đàng hoàng và từ nay bà rất muốn anh
cứ tự
nhiên, thoải mái.
Vừa ra khỏi nhà, Thụy chợt
nghĩ đến Lăng. Từ Thị Nghè, Thụy đón xe
buýt xuống Sài Gòn, rồi từ bến chính lại đi chuyến xe khác xuống chợ
Thái Bình.
Xuống đây Thụy đi bộ đến nhà dì Hồng. Lối
hẻm vào rộng rãi, nơi đây Thụy nhớ nhiều đến bóng dáng người thiếu phụ,
và nơi
đây vẫn nhắc Thụy nhớ đến Huê.
Tiếng chuông cửa dội
lên, vang sâu vào bên trong. Một lúc sau,
có người ra mở cửa.
-Ủa, hôm nay
anh không đi làm ?
-Không, anh
vừa xuống ca lúc sáng.
-Anh mới ngủ
dậy phải không ?
-Ờ. Mấy hôm
nay có thư từ gì không ?
-Anh có điện
tín.
Thụy bỗng cảm thấy bất an, lo nghĩ.
Thụy cầm bức điện tín Thúy đưa, rồi theo cô em họ xuống nhà dưới ngồi ở
chiếc
bàn tròn, một mình dì Hồng đang têm trầu ăn.
-Công việc
con lúc này sao ?
-Dạ bình thường,
dì.
Thúy mở tủ lạnh đem ra cho Thụy một
ly chè đậu. Thụy đọc bức điện tín:
-Thứ sáu
24/10 em vào Sài Gòn. Thúy Hà.
Nỗi mừng vui lộ ra mặt.
-Điện tín ai
đó con ?
-Cô bạn học.
Thúy ngồi xuống, cười nói:
-Em biết là
ai rồi.
-Em đoán
coi.
-Chị Thúy Hà
phải không ? Từ ngày xa cách, anh chỉ nhớ nàng thôi.
-Si tình dữ
không ? Rồi bây giờ , sao ?
-Dạ có gì
đâu. Cô là bạn, có chồng rồi.
-Vậy à.
Thụy cầm muỗng ăn ly chè.
-Anh Lăng
vào chưa ?
-Em không biết.
Chắc là chưa vào.
Thụy đọc lại bức điện tín lần nữa,
lòng tự dưng bâng khuâng. Ngồi đây, anh bỗng nhớ đến buổi sáng ấy thức
dậy sớm
cùng với Lăng đi ra bến tàu, nhớ đến khung cảnh rất đông người đưa
tiễn. Nắng hừng
lên, con tàu tách bến, dần xa Sài Gòn. Ở trên bong tàu khi tàu rời bến
Cảng, Thụy
đưa mắt nhìn lại thành phố , nhìn quang cảnh thiên nhiên và nhà ở ven
dòng
sông. Rồi, tàu ra đến cửa biển. Nắng, gió lộng, bờ cát, nỗi nhớ nhung,
nỗi buồn
sự xa cách và nghĩ đến số phận. Lênh đênh trên biển hết ngày, rồi đêm
xuống,
Trong đêm đèn sáng phía xa bờ, và trong đêm tối hình ảnh những người
lính ngồi
dưới ánh đèn pin ngồi đọc thư và viết
thư cho gia đình, cho người yêu trong đêm tối mịt mùng trên con tàu vẫn
lênh
đênh giữa biển.
Khi nghe tiếng chuông ngoài cửa, Thụy
giật mình. Và rồi hết sức ngạc nhiên, khi nghe tiếng cười của Thúy và
giọng nói
của Lăng.
Dì Hồng lên tiếng:
-Chà, xa Sài
Gòn lâu dữ. Về Huế , vui không con ?
-Dạ vui.
Lăng đặt gói quà xuống bàn, nói:
-Me con gởi
biếu dì.
-Dì cám ơn
me con. Sao me ngoài nhà khỏe không ?
-Dạ khỏe.
-Me đã nghỉ
hưu chưa ?
-Chưa, dì ạ.
Thúy nói:
-Anh Lăng mới
về một tháng, coi mập ra.
Thụy vẫn còn để những giây phút
riêng tư nhớ đến Thúy Hà. Còn mấy ngày nữa thôi, anh sẽ gặp lại nàng.
Xa nhau
đã hai năm, gặp lại nhau chắc trong mỗi tâm hồn đổi khác nhiều.
Buổi chiều nghe vang lên hồi còi hụ
báo giờ tan sở. Luôn luôn trong câu chuyện về người thân là gợi nhắc dì
Hồng nhớ
đến cảnh làng quê cũ. Và, thực sự dì ước mong có được dịp đi xa, về tận
ngoài
đó thăm quê. Người rời làng quê đi xa sớm nhất là dì, từ thuở mới lên
mười.
Khi nghe tiếng xe ở ngoài, Thúy biết
ba mình đã về tới cô đi ra mở cửa.
-Chào chú.
-Ờ, chào hai
cháu.
Không vội thay quần áo, chú Minh ngồi
vào bàn chuyện trò với cả gia đình.
-Trông cháu
mập ra nghe Lăng.
Thúy cười:
-Con mới
khen anh.
-Ngoài nhà
ra sao ?
-Dạ bình thường.
-Me cháu vẫn
con dạy học.
-Dạ còn.
-Me con ở
nhà, kém dì một tuổi.
Chú Minh uống hớp trà nóng Thúy pha,
vừa cầm một miếng mè xửng lên ăn.
-Ngon quá.
Thúy lại đi ra ngoài khi nghe tiếng
chuông gọi cửa. Chị Lành đi chợ về. Đi qua bàn khách, chị lên tiếng
chào rồi thẳng
xuống bếp.
Thụy nói với Thúy:
-Huê hỏi
thăm em.
-Anh gặp chị
ở đâu.
-Ở quán nước
gần nhà.
-Lâu nay
không thấy chị ghé.
Thụy cười:
-Có bồ mới rồi.
Vui vẻ lắm.
-Thật hả.
-Thật chứ.
Huê khoe với anh.
-Anh gặp bồ
chị chưa ?
-Có.
Thụy và Lăng ngồi ở nhà dì Hồng chuyện
trò đến giờ ăn. Trời âm u, gió nhẹ. Trong nhà đén sáng. Sau bữa ăn, khi
cả nhà
dùng trà, Lăng nói:
-Anh Nguyên
sắp làm lễ hỏi.
-Chà, giỏi
không, dì Hồng khen.
-Anh Nguyên
và chị Thiên Nga rất là đẹp đôi.
-Tên hay
quá, anh.
-Tên hay,
người cũng đẹp.
Thụy cảm thấy vui. Dì Hồng hỏi:
-Chừng nào
đám hỏi con ?
-Hình như là
cuối tháng mười một.
Lăng đáp lời, xong quay sang Thụy:
-Anh có nhận
được thư ngoài nhà không ?
-Không.
Thụy rất muốn được nói chuyện riêng
với Lăng về chị Thiên Nga nên mong một ngày khác. Bức điện tín Thúy Hà
ở trên
túi áo của Thụy. Nãy giờ, những ý tưởng về bức điện tín làm anh bâng
khuâng.
Anh vẫn chờ đợi, nhưng chẳng biết tự nguyên do nào.
Khoảng chín giờ đêm, Thụy và Lăng
cùng ra về. Hai người đi xe Honda. Đây là chiếc xe cũ
Lăng mới mua lại của người bạn, với giá thân
hữu. Anh bạn cũng học trường Luật, thân nhất với Lăng, không chỉ bán
thôi mà
còn cho trả góp.
Chiếc xe Honda nước sơn màu xanh lá
cây. Tiếng máy nổ êm. Gió đêm thật mát rợi, trên đường xe chạy, Thụy kể
lại cho
Lăng nghe về công việc làm hiện giờ của mình, sôi nổi nhất là những
ngày đi lên
mặt trận vùng biên giới, sau hết, Thụy cho Lăng biết anh đang chuẩn bị hồ sơ gởi Ban tuyển mộ để xin đi học khóa
SVSQ hoa tiêu. Với quyết định này, ước mong chuyện học của Thụy tạm
thời ngừng.
Bến tàu đông vui. Lăng cho xe chạy dọc
theo con đường bến cảng để nhớ những ngày trở lại Sài Gòn sau hơn một
tháng đi
vắng, để hóng mát gió đêm trong thành phố, rồi sau đó, dừng xe lại bên
bờ đường
cạnh một quán giài khát.
Người chạy bàn ra ngay khi hai người
vừa kéo ghế.
-Hai ly nước
mía.
-Không bia bọt
gì anh ?
-Không.
-Ngồi bến
tàu hóng mát sao không bia bọt gì cả.
Thụy cười, xong bảo:
-Rồi, khui
hai chai.
-Có vậy, cho
em út nhờ.
Đứa con gái đi vào quán rồi đem bia
và hai ly đá ra bàn.
Thụy rót cho Lăng trước xong đến
mình. Có tiếng hỏi vọng:
-Gọi thêm gì
nữa không.
-Một gói đậu
phộng.
Thụy và Lăng cụng ly, xong uống cạn
và rót tiếp.
-Chừng nào
anh mới đi học ?
-Hy vọng
tháng tới, nhưng còn phải khám sức khỏe. Đi
ngành hoa tiêu, sức khỏe khám rất kỹ.
-Cần nhất là
mắt tốt.
-Mắt tôi, tốt
độ 8/10 thôi.
Lăng uống chậm rãi. Thụy nhìn Lăng,
một lúc hỏi:
-Ngoài nhà
ra sao ?
-Cũng thường.
-Vợ chồng
Tri , Linh khá không ?
-Cũng khá
hơn mấy năm trước. Tri đã lên chức Hiệu trưởng.
-Le vậy hả.
Lăng cười vui.
-Anh Nguyên
có về nhà thường xuyên không ?
-Có chị Nga
, anh về luôn.
-Sao, Lăng
thấy chị Thiên Nga sao?
-Rất là xinh
đẹp. Hoa khôi Đồng Khánh cũng không sánh bằng.
-Chị Thiên
Nga học bên Mỹ Thuật.
-Chị cũng
đang thi Tú Tài khóa II.
-Có kết quả
chưa ?
-Mới thi
xong loạt II.
Trong thoáng giây nghĩ ngợi, Thụy
nói:
-Tôi có nhận
được thư của chị.
-Chị có nói
lễ hỏi không ?
-Không, thư
này lâu rồi. Lá thư chị viết cám ơn về cuốn sách. Nhưng tôi cũng hay
biết về
hai anh chị từ hôm về phép cuối hè năm ngoái. Phương kể chuyện cho tôi
nghe về
chị, nói chị rất dễ mến.
-Anh Nguyên
nhà mình là hay lắm.
Rồi, Thụy hỏi Lăng về dự định học
hành. Lăng nói với Thụy ở xã hội của mình, cần cuộc sống vững vàng. Học
Luật, rất
dễ dấn mình vào con đường chính trị và con đường này dẫn đến lợi danh,
dễ hư hỏng,
tôi không muốn. Với Lăng, làm sao đáp lại tấm lòng yêu thương của người
mẹ.
Hai người đứng dậy rời quán. Lăng
đưa Thụy về nhà, lên xem căn gác Thụy ở còn ngồi chuyện trò một lúc
lâu, mới ra
về. Thụy theo Lăng xuống nhà tiễn chân.
-Ngày mai
anh đi làm không?
-Ngày mốt.
Thụy trở lên nhà, tự nhiên lạ lùng với
ánh đèn điện trong phòng. Ngồi xuống giường, anh mở bức điện tín ra
đọc. Nội
dung bức điện tín rất đơn giản, nhưng sao, anh
vẫn cứ mang trong mình nỗi bâng khuâng từ chiều đến
giờ.
Khi đi nằm, anh đọc tiếp mấy trang
truyện dịch cuốn Kẻ Xa Lạ. Những ý nghĩ về hình ảnh một người mẹ lúc
còn sống,
lúc đã qua đời, làm anh nhận ra rằng, trong đôi mắt của chàng Meursault
là mặt
trời và biển cả. Và dù cho rằng, người mẹ đau yếu, nhỏ nhoi, nhưng tình
của mẹ
vẫn là biển.
Khi Thụy thức dậy sáng hôm sau, trên
mặt bàn còn nguyên bức điện tín của Thúy Hà. Và trong lúc đứng im, Thụy
hình
dung lại những ngày tháng của một thời đã qua tưởng chừng lâu lắm,
trong ảnh tượng
của nàng.
Ngày trở lại ca làm việc, vào giờ ăn
trưa Thụy gặp vị Giám đốc. Thụy xin được một tuần phép. Sự chấp thuận
dễ dàng
này của vị Trung Tá là anh có sự khéo léo và chân tình trình bày câu
chuyện của
mình và người bạn gái. Trung tá B. làm Giám đốc Không trợ III là người
điềm đạm,
mực thước, rất giỏi về chỉ huy tham mưu. Xuất thân Khóa I Thủ Đức, sau
đó ông
qua Pháp học ở trường Salon de Provence về ngành hàng không. Thụy tuy
cấp nhỏ,
nhưng được sự thương mến của ông, ngòai khả năng làm việc,
anh còn có chút năng khiếu văn nghệ, và những
bài anh viết luôn được đăng trên báo Lý Tưởng. Chính ông là người
khuyến khích
anh theo con đường văn học. Đôi lúc có dịp chuyện trò trong giờ nghỉ,
Thụy và
ông nói chuyện văn chương. Văn học thế giới, ông hiểu rất sâu và rộng
về văn
chương Pháp và Mỹ. Thụy trò chuyện với ông qua những suy nghĩ độc lập
của mình.
Thời đi học, môn tiếng Pháp Sinh ngữ chính anh được học các tác giả cổ
điển
Racine, Corneille, Chateaubriand, còn những tác giả mới về sau này anh
được đọc qua các bản dịch, và tạp chí Văn
giúp anh mở
rộng kiến thức với những số báo giới thiệu các nhà văn quốc tế. Mỗi
tháng, Thụy
dành tiền mua hai số báo này và lưu giữ để học viết văn. Khi đọc xong,
Thụy hay
đưa cho ông đọc. Số đặc biệt về Saint Exuypéry có những bài nhận định,
tiểu sử,
và những đọan trích văn ông rất thích.
Ngày thứ sáu Thúy Hà lên đường. Chuyến
bay cất cánh rời Đà nẵng lúc 9 giờ sáng và tới Sài Gòn gần mười một giờ
trưa.
Ở phòng đợi, rất đông người chờ đón
thân nhân. Giữa khung cảnh sang trọng, lịch sự, Thụy cảm thấy một niềm
vui được
dự phần cùng mọi người, và đây là lần đầu tiên anh đi đến phi trường để
đón một
người mà người này đặc biệt hơn hết trong cuộc đời mình. Giữa anh và
nàng là bạn
học. Giữa anh và nàng, hiểu rằng sự xa cách là tình yêu, sự gần gũi là
tiếng
nói. Sau một thời gian biết nhau, nàng coi Thụy như người anh và những
lá thư
hai người viết cho nhau đọc đều cất giấu một nỗi niềm trong sự rung
động của ngôn
ngữ. Hôm nay Thụy có thể nhận ra tuổi trẻ của mình trong ánh sáng với
quần áo mặc
sạch sẽ, tươm tất, tóc chải gọn và anh đến đây tâm hồn vẫn còn chút dư
vị của
ly cà phê sữa vừa mới uống trước lúc đi. Và, khi gặp Thúy Hà ,Thụy có chuẩn bị mời nàng bữa ăn nhẹ, hoặc bữa ăn
trưa nếu chuyến bay đến trễ.
Hành khách của chuyến bay đang ra lối
cửa chính. Người nào cũng mang va li, hành lý xách tay bên mình. Thúy
Hà vừa xuất
hiện, trông thấy Thụy cặp mắt nàng vui lên với nụ cười sáng lên giữa
khuôn mặt
rạng rỡ. Thụy bước nhanh tới, nhìn Thúy Hà đẹp lạ lùng. Nàng mặc chiếc
áo dài
xanh có những chấm bông trắng lấm tấm, tóc xõa xuống vai, trên gương
mặt dịu
dàng với ánh sáng.
Nàng giữ lấy cái túi xách còn đưa
chiếc va li cho Thụy. Tới giữa phòng đợi, hai người chợt ngừng với đôi
mắt còn
bỡ ngỡ. Bên ngòai cửa, chiếc xe ca đưa hành khách về trạm ở thành phố
đang chờ.
Thúy Hà nói với Thụy:
-Em muốn về
nhà bằng taxi.
-Anh cũng
nghĩ là nên vậy. Theo xe ca về tới trạm, mình lại còn đón xe về nhà bác
T. nữa.
Thì giờ còn rộng rãi. Thụy và Thúy
Hà đi tới nhà hàng ăn ngay chỗ phòng đợi. Các dãy bàn ghế trong và
ngòai có
khách ngồi ăn uống chuyện trò. Thụy và
Thúy Hà ra ngồi bên ngòai hiên có đặt chiếc dù trên những bàn tròn.
Nắng ấm áp,
dễ chịu. Hai người cùng gọi một món ăn nhẹ và dùng cà phê sữa.
Nỗi vui mừng được gặp lại nhau lộ hết
ra trên gương mặt, Thụy cũng như Thúy Hà
đều sung sướng. Nụ cười thật sáng trên đôi mắt nàng. Thụy say sưa ngắm
Thúy Hà,
cặp mắt anh cứ tưởng như là cánh bướm màu xanh nhỏ nhởn nhơ quanh nàng.
Sự
duyên dáng của nàng thật tự nhiên, rất quyến rũ. Bên vai Thúy Hà , mái
tóc thả
dài xuống nằm yên như một đứa bé đang say ngủ.
Cô gái mang bữa ăn ra đặt trên chiếc
khay. Thúy Hà lặng im chờ cô dọn xuống bàn. Khi cô ta bỏ đi, Thụy lấy ra bức điện tín, rồi một giọng vui anh
nói:
-Anh thật là
hồi hộp.
-Có ngạc
nhiên không ?
-Anh thật mừng
được gặp lại em. Em vào ở lâu không ?
-Chừng một
hai tháng.
-Em có dự định
gì không ?
-Không. Em
vào thăm Duy . Duy đi Thủ Đức rồi, anh không biết sao ?
-Anh không
hay.
-Vậy à. Em cứ
nghĩ là em đã có viết thư cho anh.
-Không, anh
không nhận được thư.
-Ba cũng
không nói gì với anh sao ?
-Không
-Rất có thể
là em quên không nói rõ trong thư cho anh.
Thụy cười:
-Không sao.
Gặp em ở đây là biết tin đầy đủ rồi.
Tiếp lời, Thụy nói:
-Hôm nay là
thứ sáu. Ngày mai em đi thăm hay là ngày mốt.
-Em chưa chuẩn
bị gì cả.
-Anh nghĩ em
nên thăm ngày chủ nhật. Ngày mai rảnh rỗi, em đi mua sắm quà cho Duy.
Thúy Hà gật đầu đồng ý với Thụy. Bữa
ăn bắt đầu, giờ này cũng đã gần trưa. Tiếng chuyện trò nho nhỏ, hai
người hỏi
thăm nhau về chuyện gia đình, công việc làm, và anh hết sức chú tâm khi
nghe
Thúy Hà nói về dự định của mình trong thời gian sắp tới. Hiện tại, nàng
vẫn
chưa có ý định đi làm, nhưng rồi cũng sẽ phải lo liệu cho cuộc sống.
Duy đi
quân trường, sau chín tháng là mãn khóa học ra đơn vị. Có thể, nàng đợi
Duy ra
trường sẽ đi đơn vị nào rồi mới quyết định nơi ăn chốn ở. Thụy lặng im,
có những
phút giây nghĩ ngợi lo lắng cho người bạn gái của mình. Mới xa Đà Nẵng,
xa Huế,
xa đất miền Trung chưa đến hai năm mà Thụy cứ ngỡ như là mình đã đi
lâu, lâu lắm
chưa về.
Thúy Hà có giọng nói rất hay. Ngày
trước, tới nhà nàng chơi trò chuyện Thụy chỉ muốn ngồi nghe tiếng nàng
nói.
Không chỉ nghe, mà anh còn say ngắm vẻ đẹp khi nàng ham vui chuyện để
lộ ra những
nét tự nhiên qua dáng điệu của nàng. Khi nghe tiếng nói, lúc ngồi cạnh
nhau,
trước mặt nhau, tiếng nói ấy như thể bày ra cho bạn thấy một cô gái vừa
cầm con
dao cắt trái táo dòn cứng thành những khoanh nhỏ. Và nếu như, sau khi
từ giã cô
nàng ra về, ngòai nỗi nhớ về một gương mặt xinh đẹp, về một thứ tiếng
nói, chừng
ấy nàng cũng đã gợi thèm cho bạn âm thanh của những giọt rượu, nước
trái cây chảy
xuống lòng một chiếc ly thủy tinh.
Ngồi đây bên Thúy Hà, Thụy gói ghém
lại từng chút một của bao nhiêu kỷ niệm ngày trước đến một ngày đầu hôm
nay gặp
lại để cất giữ, để một lúc nào đó được cùng nói với nhau, chúng mình
suốt đời
thương yêu nhau.
Nhà bác T. ở gần chợ Bà Chiểu, đầu
con đường Đỗ Thành Nhân. Lên taxi, Thụy ngồi bên cạnh Thúy Hà . Khi xe
ra khỏi
phi trường, qua cửa kính, Thúy Hà đưa mắt nhìn thành phố. Trong cái
nhìn của
nàng, những cảnh vật hiện ra đều tươi
sáng và có sự vui vẻ, thân thiện đón tiếp nàng. Thụy lặng yên, vì muốn
để cho
người bạn gái của mình bằng sự mới lạ trong cặp mắt nhìn thành phố mới
đến, và
dù là lần đầu, nhưng nàng sẽ không bỡ ngỡ, xa lạ. Bên cạnh nàng, có một
người
thân quen là anh đây. Thụy còn ý nghĩ, anh muốn nói với Thúy Hà nàng là
người
tình của thành phố vừa đi đâu xa nay trở lại.
Chiếc taxi ngừng. Thúy Hà mở ví trả
tiền, Thụy mở cửa ra trước đem hành lý xuống.
Xe ngừng ngay trước cổng nhà. Căn
nhà rộng lớn như một biệt thự. Hai người đứng trước cổng đợi, bên
trong, một tiếng
chuông vừa bấm dội lên, ngân vọng.
Một lúc sau có người xuất hiện, mở cửa.
Bác T. cười reo hết sức mừng vui đón cô cháu gái. Thúy Hà giới thiệu
Thụy với
bác. Nhìn bác T., Thụy nhận ra ngay, vì ngày trước ở Quảng Trị bác là
một trọng
tài quốc tế duy nhất về bộ môn bóng tròn.
Bác T. đưa Thụy và Thúy Hà lên phòng
khách. Căn nhà bác rộng, phòng khách có trưng nhiều bức tranh sơn mài
rất đẹp.
Bác T. tóc đã bạc, nhưng trông rất khỏe mạnh, và rất tự nhiên trong câu
chuyện
nói với Thụy . Ngày trước, bác làm việc ở tiệm thuốc Giơ Neo, tiệm
thuốc lớn độc
nhất của tỉnh. Bức ảnh chụp bác và ông Dược Sĩ Léon Volve, Thụy được
trông thấy
ở ngòai nhà Thúy Hà.
Ngồi nói chuyện không lâu, Thụy đứng
lên xin kiếu từ. Với cái bắt tay nồng ấm, bác T. cũng mong gặp lại anh.
Thúy Hà tiễn Thụy ra cổng. Ngày chủ
nhật, Thụy đến
sớm. Trước khi đi, Thụy và Thúy Hà ghé
quán uống cà phê. Sau đó, hai người đi tới bến xe gần chợ. Chiếc giỏ
mây khá nặng,
đầy thức ăn và quà mang cho Duy. Buổi sáng trời mát dịu. Lòng Thụy hết sức vui đi bên cạnh Thúy Hà. Vì yêu thích
giọng nói của nàng, nên mỗi lần nghe ra tiếng, Thụy có cảm giác nhận
được từ mấy
ngón tay của nàng những viên kẹo ngọt và thơm. Đôi lúc, Thụy chợt nghĩ
trong tiếng
nói, nàng kéo anh trở lại tuổi thơ, về một
nơi chốn thanh bình ở quê ngọai , mỗi buổi chiều có một đứa bé đứng
trên con đường
làng nhìn về phía bờ đê trông thấy rõ vạt áo nâu của người mẹ đang trở
về nhà.
Như vậy, ở bên Thúy Hà anh có hạnh phúc, hai người rất muốn chia xẻ một
tình bạn
để được sống mãi bên nhau với cuộc đời.
Hôm nay, chắc chắn Duy đã sẵn sàng
chờ nghe tên gọi. Sài Gòn đi Thủ Đức, xe chạy mất gần bốn chục phút.
Vừa xuống
bến đậu, cùng với Thụy và nàng có rất đông thân nhân đi thăm. Gia đình
nào cũng
mang quà cáp, tay ôm, tay xách. Từ bến, mọi người đi bộ chừng hai trăm
mét hướng
về phía cổng chính quân trường. Và trên con đường đất tới cổng, ai cũng
đều trông thấy các SVSQ trong bộ lễ phục
màu vàng
đeo giây biểu chương, nón béret đen. Bên trong khu tiếp tân, nhiều
chiếc lều vải
được dựng lên. Lòng nàng dịu hẳn, mắt nhìn về nơi ấy qua bóng cây, thấy
màu cỏ
còn xanh tốt.
Hôm nay, Thúy Hà mặc lại chiếc áo
dài xanh có những bông hoa trắng nhỏ lấm tấm như hôm mới xuống phi
trường Tân
Sơn Nhất. Thụy nhìn nàng trong dáng vẻ của chiếc áo, thấy nàng thật
quyến rũ, đẹp
lạ lùng. Hai người bước đi bên nhau với tiếng nói chuyện gần gũi, ấm
áp. Thỉnh
thỏang, cặp mắt Thúy Hà sáng lên một nụ cười. Thụy đọc được qua nụ cười
ấy một
chút vui của hạnh phúc. Và, ý nghĩa đó như muốn nói cho Thụy hiểu rằng,
Thúy Hà
tuy đã đã đi lấy chồng, nhưng anh vẫn là một người bạn thủy chung, luôn
luôn
nàng nghĩ đến anh. Bất ngờ, cơn gió hất nhẹ thân trước chiếc áo dài bay
lên, vội
vàng, Thúy Hà đưa tay nắm giữ lấy. Và, thoáng trong giây phút đó, nàng
có một nụ cười mơ mộng, xa xôi.
Khu tiếp tân ồn ào, náo nhiệt. Dọc
con đường dốc từ quân trường ra khu tiếp tân, lần lượt từng nhóm tân
khóa sinh
đều bước đi ra. Ở quanh các lều, những anh em ra trước đang vui chuyện
với thân
nhân và đang ăn uống. Những SVSQ khóa đàn anh chia từng nhóm phụ trách
liên lạc
với các Đại đội để gọi tên tân khóa sinh ra gặp thân nhân. Quang cảnh
buổi sáng
chủ nhật thật vui, cảm động. Thụy và Thúy Hà đứng đợi dưới bóng cây.
Khi lắng
mình trong câu chuyện, tiếng nói của Thúy Hà làm Thụy nhớ da diết tuổi
học trò,
nhớ lại thời hoa mộng của tuổi trẻ, nhớ đến một buổi sáng, nhớ bâng quơ
một mối
tình thuở gặp nàng, và thành phố cũ ấy. Không lâu, Duy ra tới. Duy vừa
xuất hiện
trên đường dốc mắt đang tìm, cùng lúc, tất cả ba người mừng vui nhận ra
nhau và
cao tay vẫy chào.
Không mất công tìm kiếm, đã định chỗ
Thúy Hà đứng Duy nhanh chân bước tới. Gặp lại vợ sau mấy tháng xa cách,
Duy mừng
khôn tả.
Chỗ ba người đang gặp nhau là bóng
cây im mát tỏa rộng, nên không cần tìm ở nơi khác. Những tờ nhật báo
trải rộng,
và thức ăn, quà cáp từ trong cái giỏ mây được lấy ra hết bày thành một
bữa tiệc
vui. Hai chai bia lớn được rót đầy ba ly. Rót xong, ba người cùng nâng
ly chúc
mừng buổi gặp nhau. Những món ăn bày ra lúc này, tất cả, Thúy Hà tự làm
lấy. Một
con gà quay , bánh mì, cơm chiên, gõi tôm đu đủ, trái cây, và mỗi người
tự lấy
muỗng nĩa của mình bỏ thức ăn vào đĩa giấy làm phần ăn. Trong phút giây
này, niềm
vui ai cũng như ai cả. Thỉnh thỏang, Duy và Thụy nói chuyện với nhau về
một vài
tin tức thời sự và chiến tranh.
Xong bữa ăn, Thụy đứng dậy đi ra chỗ
căng tin mua cà phê về uống. Ba người tiếp tục câu chuyện, Thụy và Duy
vừa uống
cà phê, hút thuốc. Và đến lúc cần thời gian cho hai vợ chồng tâm sự,
rất nhanh
gọn, Thụy cuốn những tờ báo đứng lên mang đến thùng rác. Nhân lúc này,
Thụy
cũng nói cho hai vợ chồng Duy biết anh đi tìm mấy người bạn đồng hương
ở Quảng
Trị, đến chiều sẽ trở lại.
Thụy
một mình đi nhởn nha quanh các lều trong khu tiếp
tân đã dựng sẵn. Chỗ
nào cũng đông, và đúng như anh nghĩ, anh được gặp lại khá nhiều bạn bè
quen ở
Quảng Trị bị gọi nhập ngũ. Gặp nhau, anh cùng họ mừng vui ngồi chuyện
trò, tán
dóc, nhắc nhở những ngày vui đã qua. Bây giờ, tuổi trẻ của chúng ta đã gắn liền với cuộc chiến. Và những ước
mong, những mơ mộng, rồi cũng sẽ theo con đường chinh chiến để thử
thách sự đối
diện của mình trước chiến tranh .
Buổi chiều xuống, dần dần theo bóng
nắng đi xa rời khỏi quân trường. Hết giờ tiếp tân, mọi người chia tay.
Khi Thụy
trở lại, bỗng dưng bàng hòang trước sự giận dữ của Thúy Hà. Duy đang
bối rối,
anh đưa mắt nhìn Thụy cầu cứu. Không rõ chuyện gì, nhưng Thụy cũng đóan
chừng
có thể là chuyện riêng tư bên gia đình Duy có liên quan đến nàng.
Rồi một giọng nhỏ nhẹ, Duy nói với
Thụy:
-Anh đưa
giúp Hà về nghe.
Thụy bắt tay Duy, nói:
-Giữ gìn sức
khỏe. Gặp nhau sau.
Từ lối cổng tiếp tân, Thụy và Thúy
Hà cùng theo những thân nhân ra về, đi bộ đến bến đậu xe lam. Buổi
chiều trở
gió. Trên con đường đất, Thụy im lặng đi bên cạnh người bạn gái và đang
nghe tiếng
nàng khóc. Một đôi câu nói dỗ dành của anh tựa như một vệt khói tan rất
nhanh
giữa buổi chiều. Không nói gì với Thụy, nàng chỉ khóc.
Tới bến xe, vừa gặp chuyến, hai người
cùng lên ngồi cạnh nhau. Khách đông, vừa lên đủ là tài xế rồ máy chạy
liền. Thụy
ngồi im như là pho tượng. Tiếng Thúy Hà khóc, nước mắt nàng đã làm ướt đẫm chiếc khăn tay.
Sau gần một giờ chạy theo con đường
trong của quận lỵ, xe về đến Sài Gòn, dừng ở bến chính. Hành khách lặng
lẽ xuống.
Thúy Hà và Thụy xuống sau cùng. Buổi chiều
tắt hết nắng. Nhìn quaThụy, Thúy Hà nói:
-Anh Thụy về
nghe.
Thụy
ngỡ ngàng nhìn lại Thúy Hà. Tiếp lời, nàng nói:
-Em về một
mình được.
V
Ngày thứ sáu, thi xong hai môn vấn
đáp sinh ngữ Anh, Pháp, lòng Nga cảm thấy
nhẹ nhõm, nét hớn hở ửng hồng trên gương mặt, và niềm vui theo nhau
dâng lên. Ở
nhà một mình, bây giờ sau bữa ăn nhẹ Nga
bỏ giấc ngủ trưa vội thu xếp quần áo, ít sách vở và đồ dùng cho vào túi
xách rồi
rời khỏi nhà trọ, đón xích lô ra bến xe Huế đi Đà Nẵng. Nga sẽ ở chơi
với ba
má, các em cô trong hai ngày cuối tuần, đến sáng thứ hai sẽ trở ra lại
ngoài
này, và đến ngày thứ ba kết quả thiệt thọ chắc chắn là sẽ niêm yết.
Khi nhìn đoàn xe nối nhau vượt đèo,
Nga vừa ngắm phong cảnh bên phía biển, rồi
quay sang nhìn đồi núi chập chùng, lần đầu tiên Nga chợt mang cảm nghĩ
về cuộc
đời mình có dấu hiệu đổi khác, trong niềm tin thật mới. Bây giờ, hình
ảnh
Nguyên hiện ra càng rõ nét , nhớ anh, cô thật quá thương trong suốt
tuần lễ cô
chuẩn bị bài thi các môn loạt II, tối nào Nguyên cũng ở bên cô lúc
giảng bài,
lúc kiểm tra bài, và chú tâm hơn hết vào hai môn Toán, Lý Hóa. Vào
những đêm ấy,
hai người bên nhau sống trong tình anh em ruột thịt. Và, mối xúc động
này trở
nên có tác động hiệu lực, Nga lắng nghe giảng bài, và cô thực sự hiểu
bài. Vậy
nên, bài thi hai môn Toán, Lý Hóa, Nga làm đầy đủ hoàn tất, chắc chắn
là có điểm
dư phòng hờ bù cho môn yếu khác. Buổi chiều thứ tư vừa qua, kết quả
loạt II
niêm yết, Nga đậu, và nhờ coi điểm, tổng cộng 5 môn, cô dư được 8 điểm.
Tới lúc
này, cô đã tự tin , đầy hy vọng lấy được mảnh bằng Tú Tài II. Sáng nay
vào vấn
đáp, cô trả lời được, trong đó, phần đoạn dịch cô dịch suông sẻ, đúng
nghĩa.
Lòng Mỵ Châu reo vui lên mỗi lần
nghe tiếng nói Thiên Nga về đến nhà. Như nắng ấm trong ngày cuối thu, hay đầu hè, gương mặt Mỵ Châu sáng rở
lên và đôi mắt to của cô bé như thể vừa đang nhìn một con chim nhảy
nhót trên
cành cây. Không thể nào quên được cô em yêu dấu của mình, nên mỗi lần
gặp, lòng
Thiên Nga rất vui, vừa tuôn tràn ra nước mắt, đó là hạnh phúc của bao
nhiêu
thương yêu nàng dành hết cho em gái của mình. Khi nhìn từng giọt nước
ấm làm đỏ
cặp mắt Thiên Nga , bạn như có cảm giác nàng muốn cất giấu những nét vẽ
trên một
bức tranh về cuộc đời chính mình.
Hai ngày cuối tuần, thành phố Đà Nẵng
đông vui. Bữa ăn sáng ở tiệm phở, cả nhà ngôi chung bàn đông vui. Bữa
ăn trưa,
ăn tối, trong nhà luôn nghe ồn vui tiếng cười nói, hòa nhịp sống với
các gia
đình quen biết lâu năm sống cùng chung khu phố. Về nhà, thời gian nghỉ
Nga nghe
nhạc, đọc sách, chuyện trò với Mỵ Châu, đôi khi nàng thay thế mẹ tiếp
khách mấy
người bà con hai bên nội ngoại tới nhà thăm. Và, dự tính về lễ hỏi cho
Nguyên
và Nga đang tới lúc, mỗi ngày một gần. Ngày tới ấy, bông hoa hồng xinh
đẹp của
cô bắt đầu nở.
Rồi Nga lại trở ra Huế, sau hai ngày
vui về thăm nhà, và về đến nơi, bỗng dưng sự yên lặng theo bước chân cô
gái một
mình từ nơi bến xe đỗ đi về căn nhà trọ. Nga cảm thấy buồn nhớ vì vắng
Nguyên.
Nguyên có chuyến đi công tác lên tiền đồn, thời gian cũng phải hơn tuần
lễ.
Buổi chiều, Nga đạp xe qua trường Mỹ
Thuật, lúc này đang còn nghỉ hè, cô vào văn phòng nạp thêm số giấy tờ
liên quan
đến năm học tới, là năm cuối cùng thi tốt nghiệp. Khi xong việc ra về ,
vừa tới
cổng Nga gặp thầy Văn, hai thầy trò đứng nói chuyện chốc lát, và nhân
thể người
thầy hỏi cô đôi chút chuyện riêng về Nguyên, là người bạn, và cô Nga
học
trò là ý trung nhân yêu quí của chàng.
Chừng khoảng
nửa tiếng, thầy trò chia tay. Thầy Văn vào trường, còn Nga , một mình
thanh thản
đạp xe vào khu Đại Nội. Qua khỏi vòm cổng, hai bên là vườn trồng đủ các
thứ cây
ăn trái, nhiều nhất là mận, mùa này mận đang sai quả. Lối vào Thái Miếu
nhỏ hẹp
lát gạch, rất nhiều cây phủ bóng mát, và nơi này là nơi đặt những hương
án thờ
từ vua Thế Tổ Gia Long đến Duy Tân. Không khí trong Thái Miếu mang vẻ
âm u,
nhưng có ánh đèn điện rọi sáng, và qua từng bước nhớ tưởng, Nga lặng lẽ
vừa đi,
vừa nhìn lại từng bức ảnh của từng vị vua qua mỗi thời đại thăng trầm của lịch sử.
Triệu Miếu,
gần cạnh đó, nơi đây có đủ án thờ của 9 vị Chúa, từ
Chúa Tiên Nguyễn Hoàng đến Chúa Nguyễn Ánh .
Chúa Tiên, người có công trong cuộc di
dân vào đằng trong, cuộc di dân trở thành cuộc Nam Tiến được các vị
Chúa qua đời
kế tiếp thực hiện và bình định lãnh thổ. Tới vị cuối cùng, chúa Nguyễn
Ánh dẹp
được triều đại Tây Sơn lập nên nhà Nguyễn, trở thành vua Thế Tổ Gia
Long.
Trong khung cảnh tĩnh lặng, Nga chợt
có cảm giác mình đang ở vào một thời nào trong linh hồn lịch sử.
Nơi đây, chỉ có một mình cô gái.
Nga dắt xe đạp
qua vòm cổng, rồi theo một lối đi dẫn tới nơi trưng bày Cửu Đỉnh bằng
đồng, ở
chỗ này cũng là nơi sinh viên đến đây học vẽ theo lối rập (estampé) in
bằng giấy
dó những hình chạm trỗ trên mổi chiếc lư đồng lớn, rất là uy nghi, và ý
nghĩa Cửu
Đỉnh cũng là sức mạnh cầm quyền của các nhà vua.
Bên chiếc xe
đạp vừa dừng, áo trắng cô gái in lên trong nắng. Không có ai trong các
bạn chụp
được một tấm ảnh cho nàng. Nga đưa tầm mắt nhìn rộng và xa, nàng thấy
một con đường
dài băng qua bãi đất trống, thấy một chiếc cầu hẹp, qua khỏi chiếc cầu
này lại
có con đường dẫn đến Tàng Kinh Các, một con đường khác nữa đi tới Điện
Thái
Hòa.
Nàng lên xe
đạp, lại đi. Nắng chiếu in xuống bóng dáng nàng trong dáng chiếc xe đạp
đang di
chuyển. Gió thổi tung mái tóc sau lưng nàng bay lên. Nhưng cứ mặc cho gió ùa ngập đến và bao quanh mình.
Tới sân
ngoài Điện Thái Hòa, cô gái xuống. Tựa xe bên gốc cây sứ, Nga chậm
bước, và
luôn muốn dừng bước để chiêm ngưỡng quang cảnh. Bên ngoài Điện Thái
Hòa, cảnh vật
và quần thể của kiến trúc thật là hài
hòa, uy nghi, đúng là chốn cảnh cung đình
điện ngọc của thời các vua chúa ngày xưa.
Sân đình lát
gạch thật rộng, đi lần ra phía ngoài tới
một chiếc cầu lát đá bắc qua hồ nước,
rồi đến cửa Ngọ môn. Phía trên mái cửa Ngọ Môn là
Lầu Ngũ Phụng. Đứng
trên dãy lầu này nhìn xuống, bên dưới là hồ sen xanh mướt những cánh lá
và hoa
của mùa sen cũng đang nở.
Thiên Nga nhìn ngắm khung cảnh Đại Nội
, từ mấy năm qua, cảnh đã rất quen thuộc với nàng, nhưng hôm nay lần
đầu tiên
nàng đối diện với cảnh bằng những cảm xúc thật đặc biệt như thể cô là
một du
khách đầu từ xa mới đến. Một lúc sau, cô gái bước từng bước lên chín
bậc thềm cấp rồi đi vào bên trong cung
điện.
Nga cảm thấy
nhỏ bé, trong cảm giác ngập ngừng như thể cô vừa nhận ra cái non nớt về tài năng của mình trước một bức họa lớn.
Hai bên cung
điện, những hàng cột tròn bằng đá to lớn, chạm trổ ánh lên từng màu
sáng của
nghệ thuật, và chỉ cần chạm tay vào mặt
đá là nghe ra âm thanh huyền nhiệm một thời nào đó của lịch sử.
Ngay giữa
chính điện, là ngai vàng của Vua. Nền điện lát bằng đá thanh mát lạnh,
càng
lúc, cô gái nhận ra hương sắc thơm mát của đá hoa bên dưới thấm lạnh
lên chân
cô, và đến cả thân người cô. Vâng, nơi cung điện này chính là sự nghiệp
to tát
và lâu dài, từ đới vua Thế Tổ Gia Long khai lập đến các đời vua khác.
Viện Bảo tàng nằm gần cạnh trường Mỹ
Thuật của Nga học, nhưng cô không có ý định thăm viếng nữa.
Một mình với hạnh phúc đã làm nên vẻ
đẹp yêu thương, giờ thì cô gái ra về.
Nga không về nhà ngay sau khi ra khỏi
Đại Nội, cô đạp xe xuống phố Trần Hưng Đạo ý định vào các nhà sách, rất
có thể
cô xem ciné nếu có phim hay. Ngày hôm
qua buổi sáng chủ nhật ở Đà Nẵng, cô đi phố chơi, và xem cuốn phim
Vacance
Romaine ở rạp hát Lido. Cuốn phim thật hay, hai tài từ nổi tiếng đóng
là Audrey
Hepburn và Gregory Peck.
Huế, những buổi chiều dạo trên phố
chính Trần Hưng Đạo, bạn luôn thấy cảnh sinh hoạt chuyển động rất nhịp
nhàng. Nắng cuối hè đang cho thành phố
ít nhiều mùi vị thơm và ấm. Và trong nắng chiều, bóng dáng chiếc áo dài
trắng của
các cô gái Huế trông rất tha thướt. Nhưng mà, trong những dáng ấy, một
mình Nga
thật nổi bật.
Nga dừng xe đạp trước cửa hiệu sách
Gia Long. Đây là hiệu sách lớn nhất nằm trên dãy phố chính này. Những
ai sách
mua ở đây, thường được bớt 20% trên giá
bìa. Khi thấy Nga xuất hiện, nhẹ bước đi vào cửa hiệu, một người khách
trông thấy
bỗng đưa mắt nhìn. Và, chiều nay, trong hiệu sách cũng có đông các
chàng trai
đang là học sinh và sinh viên .
Nga chậm bước, mắt vừa ngước tìm kiếm
sách qua từng dãy kệ. Nàng đọc từng tựa sách, và đang có ý chọn. Bên
cạnh một
cô gái, Nga đứng tìm sách ở hàng kệ dành cho tiểu thuyết.
Nga với tay lấy cuốn truyện Gìn Vàng
Giữ Ngọc xuống, mới lật qua bỗng nghe tiếng cô gái đứng bên.
-ChịThiên
Nga.
-Ủa, Liên
An.
-Hay thật,
em và chị gặp nhau. Anh Nguyên đâu ?
-Anh đi công
tác chưa về.
Hai người nhìn nhau, đôi mắt chan chứa
niềm vui. Về thành phố này, sau này gợi
nhớ đến ai cũng tin rằng, một ngày đó mình đã sống một nơi phương trời
xa.
Trên tay hai cô gái, cô nào cũng giữ
lấy sách mình đã chọn Nga với cuốn Gìn Vàng Giữ Ngọc, Liên An là bộ Khu
rừng
lau. Những cuốn sách này trên tay hai cô gái, tác già là nhà văn Doãn
Quốc Sỹ.
Nga nói:
-Loan
cho mình hay, Liên An đi Sài Gòn ?
-Em cũng vừa
mới về.
-Đi Sài Gòn
chơi vui không ?
-Cũng vui,
chị Nga. Em vào đó nạp đơn xin du học.
-Liên An đi
Pháp ?
-Không, em
xin học bổng đi Mỹ.
-Chừng nào
Liên An đi ?
-Em đang chờ,
nhưng hy vọng.
-Loan
nói, Liên An đậu hạng Bình.
-Em cũng may
mắn.
-Nhưng Liên
An luôn là học sinh giỏi.
Liên An ngước mắt, nhìnThiên Nga, cô
nói:
-Chị Thiên
Nga đẹp quá.
-Khen hoài.
-Thật đó.
-Vậy mình
đãi bạn đi uống nước nghe.
Liên An nói:
-Để em khao
chị.
-Hay quá.
Mình rất mừng vui Liên An được đi du học.
-Cám ơn chị Nga.
Hai người dời kệ sách đi ra ngoài, tới
dừng chờ ở quầy tính tiền. Bên nhau, tiếng trò chuyện nho nhỏ vừa đủ
nghe.
Khi ra đường, hai cô gái áo trắng đạp
xe đi bên nhau hướng về phía cầu, vượt qua đó, đổ xuống con dốc rồi đến
một
quán nước nhìn ra bờ sông. Gởi xe ở bãi
đất trống phía trên, rồi hai người đi bộ trở lại
quán. Khi hai cô gái đi
qua, thanh niên trong quán đưa mắt nhìn. Nhưng cả hai cô rất tự nhiên,
và chọn
ngồi một bàn ngoài cuối mái hiên.
Đứa bé gái con chủ quán đến, Liên An
hỏi ý Nga xong bảo:
-Hai ly chè
đậu xanh.
Khi đứa bé gái trở gót vào quán, Nga
hỏi:
-Liên An đi
Sài gòn lâu không ?
-Em đi đúng
một tháng. Em có lên chơi Đà Lạt một tuần.
-Mùa hè, ở
Đà Lạt mưa phải không ?
-Có mưa,
nhưng buổi chiều nhìn thành phố rất đẹp.
Nga nói:
-Cảnh của Đà
Lạt là cảnh của sương mù, rừng thông.
Liên An hỏi:
-Chị Nga có ở
Đà Lạt rồi.
-Không, mình
có đi chơi. Nhưng cũng chỉ mới biết phố, một vài thắng cảnh về thác và
vườn
hoa.
Đứa bé gái trở lại với khay chè, nó
đặt ly bên Nga trước rồi đến Liên An. Trên bàn có một thau nhỏ vun đầy
nước đá
bào.
-Em mời chị,
Liên An nói.
-Cám ơn Liên
An.
Vị chè ngọt thanh, đậu mềm nhuyễn ,
vừa dẻo thơm. Hai cô ăn thật chậm, thưởng thức món chè như thể là chính
mình
nghĩ ra được câu chuyện hay.
-Năm nay là
năm cuối của chị ?
-Không, năm
tới.
-Chị có dự
tính triển lãm tranh không ?
-Cũng rất muốn,
nhưng chưa chuẩn bị.
-Bức tranh lụa
chị triển lãm dịp Tết, em rất thích.
-Hôm đó, lễ
hội thật là vui.
-Những lễ hội
làm thành phố này như có sự đổi mùa.
-Mình cũng
có ý tường như Liên An vậy .
Rồi ngừng ít giây, hai người đưa mắt
nhìn nhau. Bỗng Liên An hỏi:
-Anh Thụy có
biết chị không ?
-Mình chưa gặp
, chỉ nghe anh Nguyên nhắc.
-Em có gặp
anh ấy.
-Ở Đà
Lạt ?
-Không, ở
Sài gòn. Anh ấy rất là vui tính. Gặp nhau trên phố Catinat, anh mời em
vào quán
cà phê Pagode. Ở quán này, có bà caissière rất đẹp. Anh ấy coi bộ si
tình, nói
chuyện về bà này cho em nghe như một nhân vật tiểu thuyết.
-Liên An có
thấy bà không ?
-Em có thấy.
Quả thực bà ấy đẹp, một vẻ đẹp buồn trên cặp mắt.
-Thụy,
rất có tâm hồn nghệ sĩ.
Một giọng vui, Liên An kể lại buổi gặp
Thụy ở nhà Loan, mà trước đó tình cờ đi chung một chuyến xe buýt và
cùng xuống ở
trạm nhà ga.
Nga nói:
-Lần đó em
anh Nguyên về phép, mình đang ở Đà Nẵng.
-Anh Thụy có
hỏi thăm chị. Anh ấy nói, chưa hề gặp nhưng nghe qua tên chị, anh hình
dung được
một bóng dáng.
-Rồi anh thấy
sao ?, em hỏi.
Anh Thụy nói:
- Thiên Nga
cho anh một gương mặt thiếu nữ thân quen
đã gặp đâu từ trước. Và, chỉ một lần, hình ảnh ấy là mãi mãi .
Thiên Nga cười, nàng hỏi:
-Anh ấy có
biết Liên An du học không ?
-Có, em có
nói. Ít ngày sau đó, anh đến Nha du học tìm em.
-Mình chưa gặp,
nhưng luôn nghĩ người em của Nguyên rất có tâm hồn.
Ngồi trong quán khá lâu, Liên An gọi
đứa bé đến trả tiền nước. Hai người rời quán đến bãi gởi xe đạp.
Khi lấy xe ra đường, Liên An nói:
-Em phải đến
nhà bà cô ?
-Vậy hả.
Nhưng hai cô gái vẫn còn chuyện trò,
đạp xe đi bên nhau một quãng tới cây cầu
rồi mới chia tay.
Về nhà, sự yên lặng làm Nga cảm thấy
dễ chịu, nhưng nàng đâm ra nhớ Nguyên, rất mong đợi tối nay chàng về
nhà.
Nga kéo cửa màn khi thay quần áo.
Bên ngoài trời đang gió. Nga thay bộ quần
áo nhẹ màu xanh hạt cải, tự dưng có cảm giác sao mình còn
nhỏ bé quá.
Không cảm thấy đói, nên cô gái ra
phòng ngoài mở cửa sổ nhìn ra buổi chiều trên dòng sông. Ở Huế, hình
ảnh buổi
chiều trên các dòng sông luôn luôn là một khúc nhạc êm dịu thật đẹp
buồn. Ở mỗi
cảnh của khúc nhạc, bạn như trông thấy hình bóng một cô gái, lúc với
đôi mát,
lúc với khuôn mặt, và hẳn rằng, chúng ta phải đợi chờ những buổi sáng
thu, những
chiều mùa đông dài , tất cả trong sương mù bao phủ kín , lúc ấy, bạn
nghĩ nhiều
đến một mái tóc tha hương.
Nga đóng kín các cánh cửa khi trời tối.
Dưới đèn sáng, nàng bắt đầu bữa ăn. Và rồi, tối nay nàng đi nghỉ sớm.
Trong giấc
ngủ, nàng nằm mơ thấy mình đi lên Đà Lạt bằng một chuyến xe lửa. Nàng
có cảm
giác như mình đi thực, và ngồi bên cửa cửa toa nàng trông thấy cảnh vật
rừng
núi, dòng suối của miền cao nguyên trong buổi chiều. Nàng thức dậy khi
biết
mình đến thành phố vào một ngày mưa nặng hạt, trong cảnh vật dày kín
sương mù.
Nga bỗng nói với Nguyên:
-Hạnh phúc của
đôi ta là mưa.
Nguyên nói:
-Những ngày
mưa dài trên thành phố, anh và em đi bên nhau.
-Em rất
thích trời mưa.
-Anh cũng
như em. Vậy, nơi thành phố này, mình hãy đi bên nhau dưới trời mưa.
VI
Nga đứng ở trước cổng trường Đồng
Khánh rất lâu, và cô vẫn một mình vì không có gặp ai quen cả. Một lúc,
Nga bỗng
nghe tiếng gọi hối hả. Nàng nhìn quanh,
lòng vui hẳn lên khi nhận ra Loan. Bên
kia đường, Loan phóng xe nhanh qua. Chưa kịp
xuống, Nga đã cầm tay Loan , nói:
-Mình đậu rồi.
-Em biết. Đi
tìm chị nãy giờ.
-Loan ở dưới
phố lên, hay từ nhà tới.
-Em tới đây
coi bảng có tên chị, về nhà chị thấy đóng cửa liền phóng xe xuống phố
tìm chị.
-Đông quá,
mình chen nãy giờ.
Loan và Nga nhìn nhau cười. Một
giọng bình thường, Loan nói:
-Em biết thế
nào chị cũng đậu.
-Mình rất mừng.
Niềm vui còn bồng bột, náo nức,
nhưng Nga cũng không còn ước muốn quay lại nhìn tên mình trên bảng vàng
lần nữa.
-Về nhà
chơi.
Nga không đi xe đạp nên hai chị em
đi bộ, từ trường về đến nhà cũng gần.
Nga mặc áo hồng, hôm nay trước khi đi coi bảng nàng cầu mong màu áo
hồng là màu
của duyên may. Với áo tím, Nga rất yêu
thích, đó là một màu làm tôn vinh một vẻ
đẹp buồn của Nga, chết được. Nhưng mà tôi chỉ nói thế với bạn thôi, với
nàng,
trong bóng dáng những chiếc áo dài, hương sắc chiếc áo nào cũng đều làm
nàng đẹp.
Nàng xinh đẹp như áo vàng của thơ Nguyên Sa khi về yêu hoa cúc, nàng
thật duyên
dáng với áo xanh, một dòng nhạc tuôn tràn như gió bay từ muôn phía tới
đây ngập
hồn anh , nhưng hôm nay, Nga chỉ thích mặc áo của hoa hồng.
Loan nói lớn:
-Em thích đi
Sài Gòn mà anh Lăng không muốn.
-Loan
không thích học ở Huế sao ?
-Không phải
là nơi học. Nhưng ở Huế buồn lặng quá, nên em muốn đi Sài Gòn.
-Loan
vào trong đó một mình ?
-Em đi một
mình.
-Loan vào
đó, anh em bà con cũng đông.
-Em vẫn muốn
độc lập.
Nga định nói với Loan về người em của
Nguyên, mà thực lòng, đã lâu nay nàng rất mong gặp. Nàng vẫn có ý nghĩ, và sự qua hình dung, phần nào người
em ấy cũng giống Nguyên. Liên An , anh Thụy hiền lành và trông vẻ bề
ngoài khô
khan, trầm lắng. Ấy thế, những câu chuyện anh ta viết là những chuyện
tình lãng
mạn, rất hiện sinh nữa.
Khi những ngọn gió làm rung động những
chiếc lá, thân áo của Nga bỗng bay lên như tiếng đập nhẹ nhàng của cánh
chim. Nàng đưa hai tay ra nắm giữ , miệng
mỉm cười. Nắng cuối hè làm chói chang cả linh hồn phượng vĩ . Khi gió
thổi từng
cánh phượng đỏ rớt xuống, nhìn nàng qua mái tóc, và dáng bước đi, từ
phía đằng
sau đã có một đôi lúc tôi nói với bạn về nỗi ngẩn ngơ của lòng tôi nhớ
tưởng đến
nàng.
Về tới nhà, Loan dựng chiếc xe đạp ở
gốc cây trứng cá. Bước lên thềm, Nga lấy chìa khóa nhà mở cửa. Vừa mới
bước ,
Loan đã dừng lại ngay trước một bức tranh vẽ .
Đứng bên Nga, Loan nói:
-Em thích những
tranh vẽ của chị. Trong tranh chi, màu xanh và vàng rất là tươi. Nhưng
với máu
tím chị dùng, không thể đem so sánh với nét đẹp của chị khi mặc áo dài.
Thiên Nga nắm bàn tay Loan. Rồi nàng
tiếp lời về bức tranh vẽ con dang dở của mình.
Giọng thân tình của Loan:
-Đúng màu
xanh của chị rất hợp với cảnh trên biển.
-Loan thực
là hiểu mình.
-Em không vẽ
được, nhưng hội họa là nguồn sáng tạo của em trong cuộc sống.
Nga để lại Loan một mình trước những
bức tranh bên phòng vẽ. Phòng này nhỏ, không rộng, nhưng vừa đủ chỗ
ngồi tâm sự
với tách trà hay ly cà phê vào những
ngày thời tiết lạnh lẽo, và xa vắng.
Nga đem cà phê lên. Trên khay, một
chiếc phin, hai tách không và một hủ nhỏ đường. Lúc Nga để khay xuống
bàn, Loan
hỏi:
-Tuần này chị
có về trong nhà không ?
-Mình về rồi,
mới ra chiều chủ nhật.
-Chị có điện
tín cho bác hay không ?
-Mình viết
thư, sẽ viết cho Mỵ Châu em gái mình.
-Trong nhà,
chị còn mấy cô em nữa ?
-Ba. Mỵ Châu
là út.
Buổi chiều của một ngày cuối hè thật
dễ chịu. Hai cô gái ngồi ở phòng khách trong nhà với cảm tưởng về một sự tự do đến đúng lúc. Thời gian chợt dừng,
không di chuyển. Loan hướng đôi mắt dịu hiền nhìn Nga. Trong cái nhìn,
Loan có
ý tưởng về một quang cảnh trên dòng sông yên bình.
Khi cà phê trong chiếc phin ngừng chảy,
Nga đứng lên vào nhà trong lấy chiếc bình thủy mang ra, hạ chiếc phin
đặt xuống
khay, nàng cho thêm nước ít nước sôi vào cà phê, xong cầm thìa khuấy
đều. Nga đổ
cà phê trong ly ra hai tách.
Trên bàn chỉ còn để lại hai tách cà
phê, hủ nhỏ đường, còn bao nhiêu thứ khác dẹp cất vào trong.
Khi Nga trở ra, Loan hỏi:
-Anh Nguyên
đi công tác chưa về ?
-Chưa.
Không khí buổi chiều ở trong mùi vị
cà phê.
-Ngon quá.
Chị mua cà phê ở đâu ?
-Bên tiệm
Đông Anh.
Loan nhìn lên phía tường, nơi có
treo một bức tranh chân dung.
-Em thấy màu
sắc và các tranh vẽ rất thích hợp với chị.
Nga vui giọng nói:
-Cũng hay,
trời cho mình chút năng khiếu.
Loan nói:
-Em không
quá lời khen chị. Nhưng em nhận ra, đẹp như chị, hội họa là một tấm
gương hoàn
thiện cuộc sống của chị.
-Trong nghệ
thuật, mình có biết thêm một vài thứ khác nữa, nhưng vẽ tranh, mình yêu
thích
nhất.
Loan hỏi:
-Chị thích
văn chương không ?
-Thích chứ.
Nhưng mình chỉ đọc sách, không có khiếu viết văn hay làm thơ.
-Chị có suy
nghĩ về người phụ nữ viết văn không ?
-Không. Đó
là tài năng, nếu như họ thực hiện được.
Loan cầm thìa, khuấy lại cà phê trước
khi uống.
-Cà phê này
uống được, phải không ?
-Cà phê
ngon. Loan cười tiếp lời. Nhưng phải biết cách pha.
-Loan khen
nhiều, có thấy mặt mình đỏ hồng chưa ?
Loan cười ngắm khuôn mặt Nga.
-Chị thật
hoàn hảo.
Nga hỏi:
-Loan có viết
văn, phải không ?
-Em có viết,
nhưng không hẳn là thích.
-Loan có đọc
truyện của Thụy viết không ?
-Em có đọc.
Anh ấy thực tâm quyết theo đuổi nghề văn.
Ngừng ít giây, Loan tiếp:
-Nhưng anh ấy,
không muốn em viết văn.
Nga thốt lên:
-Sao lạ vậy
?
Một giọng thân tình, Loan nói:
-Trong gia
đình, bên dì và me em rất gần gũi, thân thiết. Anh Thụy mến em, cả anh
Lăng, chị
Linh nữa, nhưng chuyện em viết văn, anh không bằng lòng.
-Tại sao vậy
?
-Anh chỉ nói
đơn giản: phụ nữ không nên viết văn.
-Lạ nhỉ.
-Em có hỏi,
vì sao anh nghĩ vậy.
Anh suy nghĩ lâu lắm, rồi anh nói rất
dịu dàng.
-Người phụ nữ
luôn cho anh hình ảnh một người mẹ, người chị, cô em gái. Những hình
ảnh đó là
khuôn mặt đẹp của đức hạnh, hãy để cho bất cứ ai cũng nghĩ như thế,
đừng đổi
khác đi. Cuộc đời, ai cũng sống trong nghệ thuật, nhưng với phụ nữ..,
anh nghĩ
họ không nên viết văn.
-Những cô
giáo dạy môn Văn thì sao ?
-Đó là công
việc dạy học, và rất cần thiết cho học sinh.
-Viết văn là
sáng tác, tạo một tác phẩm văn chương, nghệ thuật, sao anh lại có ý
không
thích.
Anh Thụy giải thích:
-Với riêng
anh, có thể suy nghĩ của mình có tính cách cảm nhận thôi. Nhưng trên ý
nghĩa,
anh có thể nói được, khi người phụ nữ viết văn, đôi mắt của họ không
còn là cửa
sổ của tâm hồn.
-Vậy, đôi mắt
ấy là gì ?
-Là nỗi bất
hạnh. Người phụ nữ, bất cứ là có học thức hay không, họ phải được cuộc
đời dành
cho hạnh phúc. Không nên để cho người phụ
nữ chịu đựng những bất hạnh.
Loan hỏi:
-Nhưng anh
thấy, các nhà văn bên nam khi viết về phụ nữ có trung thực không ?
-Theo anh
nghĩ, với tuổi thơ hay người lớn, hình ảnh người phụ nữ luôn có trước
mắt họ một
sự thương yêu, kính trọng lớn vô cùng. Anh cho rằng, sự thật về các
nhân vật nữ
trong xã hội, họ có một cuộc đời rất thấm sâu. Tolstoi nhà văn Nga, ông
ta viết
về người phụ nữ trong sự xấu tốt, thật
kinh hoàng, khủng khiếp, ai cũng nghĩ ông ta nhìn người phụ nữ đến tận đáy, nhưng đó là một nhà văn viết về
phụ nữ hay nhất, không có ai so sánh được.
Nga gật đầu nhẹ, nói:
-Mình hiểu ý
của Thụy.
Loan nói:
-Em biết anh
không có mặc cảm với người phụ nữ viết văn, nhưng vì hình ảnh người phụ
nữ
trong anh là một hình ảnh mãi sáng đẹp, nên anh khước từ không muốn
thấy họ làm
công việc đó. Người phụ nữ khi viết văn, là lột xác mình, sống khác với
cuộc đời
bình thường. Ở những nghệ thuật khác, bất
cứ thể loại gì, họ vẫn sống nguyên vẹn.
Những điều Loan vừa nói về Thụy, Nga
hơi ngạc nhiên. Lúc này, Nga đã hình dung anh là một con người khác, xa
lạ hẳn.
Thế nhưng, qua ý Loan nói, Thụy còn cho
nàng một dấu ấn mạnh hơn.
Loan uống hết phần cà phê của mình.
Khi Loan đứng lên xin kiếu từ, không khách sáo, Nga nói lời cám ơn về
sự quan
tâm của Loan đến tin vui của nàng.
Nga tiễn Loan một đoạn ra đến cổng,
và nàng còn đứng ở đó nhìn theo Loan. Nàng thấy Loan không về nhà,
chiếc xe đạp
không rẽ trái qua lối cầu mà đi thẳng.
-Anh Nguyên
và mình còn đợi một năm nữa.
Nga nghe tiếng mình nói lúc trở gót
vào nhà. Chiều tàn, một buổi chiều trong những ngày cuối hè thật là êm
dịu.
Nga không cảm thấy đói, khi trong
nhà đèn bật sáng và ngoài đường trời đã tối hẳn. Lúc
vào bếp nhen lửa làm bữa ăn tối, Nga vẫn
còn cảm thấy vui với niềm vui vưa mới thi đậu. Nhưng niềm vui này,
không phải
là niềm vui thuở học trò. Nàng đã lớn, đã là một người được sự yêu
thương và
che chở của Nguyên.
Bất thần, Nguyên về lúc Nga đang dọn
cơm để ăn. Nàng mở to cặp mắt, hết sức ngạc nhiên như chưa bao giờ xảy
ra như vậy
cả. Hai cánh tay dang rộng nàng lao tới, Nguyên đón sẵn, hai người ôm
nhau mừng
vui, lẫn xúc động.
Tiếng Nga nói:
-Em quá nhớ
anh.
-Anh biết,
và còn biết cả tin vui của em nữa.
-Ai cho anh
hay vậy ?
-Không,
không có ai cả. Nhưng từ hôm em thi đến lúc có kết quả, anh cảm thấy
sao trong
người mình thật là dễ chịu, yêu đời.
-Em cám ơn
anh đã dạy cho em học.
-Còn anh, hạnh
phúc được nhớ em.
Hai người nhìn nhau, đôi mắt thật âu
yếm. Nguyên nắm giữ tay Nga , giọng vui nói:
-Con mèo yêu
quí của anh.
-Thôi, đi ăn
cơm.
Nguyên giữ tay Nga lại.
-Mình xuống
phố ăn đi em.
-Cơm dọn sẵn
rồi.
-Đi xuống phố
ăn cho vui, để mừng em thi đậu mà.
-Ngày mai,
hay mốt đi.
-Anh muốn
anh là người mừng tin vui của em trước hết.
Nga hơi lưỡng lự. Nàng
nhìn sang bàn ăn, hai chiếc ghế
đối diện và thức ăn đã dọn sẵn. Nhưng bữa ăn cũng bình thường, chỉ hai
món cá
và canh rau.
-Đi ăn đâu,
anh.
-Đi Bao
Vinh.
-Xa quá. Mấy
giờ rồi ?
Nguyên nhìn đồng hồ tay, nói:
-Còn sớm,
chưa đến tám giờ.
Nga nói:
-Anh ra
phòng khách đi.
Nguyên đi ra, vừa rút tờ báo nhét ở
túi dết. Phòng khách tương đối rộng, thoáng đãng, ánh đèn néon chiếu
xuống sáng
dịu. Ở phòng khách này, Nga trang trí rất mỹ thuật, có bình hoa và con
gấu bông
đặt trên chiếc tủ kính, hai bên tường có mấy bức tranh họa đóng khung
cỡ nhỏ.
Nguyên ngồi xuống ghế đọc báo. Bên
trong, Nga thay quần áo, nàng mặc áo sơ mi trắng, quần tây màu xám đậm.
Khi trở
ra, Nga lấy chiếc lồng bàn nhỏ đậy lại cơm và thức ăn, rồi nàng kéo
chiếc ghế
thấp ngồi xuống nhìn vào tấm gương soi trang điểm nhẹ trên cặp mắt.
Kim đồng hồ tường chỉ đúng tám giờ.
Nga đứng lên, vắt chiếc áo blouson bên cánh tay, rồi quay gót đi ra
phòng
khách.
-Trông em lạ
quá.
-Lạ không ?
-Em có chiếc
mũ nỉ hồi nào vậy?
-Có lâu rồi,
tại em ít đội.
Nguyên gấp tờ báo, xong để lại trên
bàn. Nga mở cửa nhìn ra đường, gió đêm lạnh. Trên đường, có hai người
đàn ông
đang đạp xe nhanh, tiếng nói chuyện đứt quãng. Rồi con đường vắng trở
lại. Bên
kia ngôi trường, ở tầng lầu thứ ba, các dãy phòng đều mở đèn sáng, có
bóng một
vài chủng sinh đứng bên cửa nhìn xuống dòng sông và trông qua bên đây
con đường.
Gió đêm thổi mơn man, sương mù trải
mỏng qua những hàng cây. Nguyên cười hỏi:
-Sao, em tìm
ra ý thơ chưa ?
-Đừng có
trêu em nghe.
Nga khép cửa, xong mở túi xách
lấy chìa khóa vặn theo chiều kim đồng hồ
hai vòng.
Chiếc xe Jeep đậu gần cổng, hướng
lên dốc. Bàn tay Nga trong tay Nguyên, hai người bước đi nanh.
Nguyên mở đèn sáng trước khi cho xe
nổ máy. Vào giờ này, có chuyến tàu về đến ga.
Nguyên đạp côn, gài số hai rồi xe
lăn bánh. Lên ngã tư, xe rẽ trái qua cầu. Vì không gấp vội, Nguyên cho
xe chạy
chậm thong thả chuyện trò với Nga. Nàng nói:
-Em thấy anh
đi công tác luôn.
Nguyên đáp:
-Ở cấp trung
đoàn, gần với mặt trận nên công việc của
anh cũng lưu động.
-Những công
việc chính của anh là gì ?
-Không phân
định rõ được. Tùy theo nhu cầu ở hậu phương cũng như ngoài chiến trường.
-Anh đi
luôn, em lo quá.
-Không sao
đâu. Em biết, việc nào ở ban anh cũng giải quyết nhanh gọn để luôn có
thì giờ về
với em.
-Hôm nay,
anh đãi em ăn món gì ?
Nguyên cười bảo:
-Ăn fromage
-Sao mà ăn
món này ?
Nguyên hãm thắng cho xe ngừng rất
êm.
-Sao vậy ?
-Em nghiêng
đầu qua đi.
-Thôi, coi
người ta đi đường trông thấy.
Nhưng rồi, Nga cũng chìu ý Nguyên.
Nàng nghiêng mình qua để anh cúi xuống đặt
môi hôn. Đôi môi Nga mềm ướt, ngọt ngào. Nguyên nuốt thật sâu nụ hôn
yêu dấu được
người yêu dành cho.
Hai người buông tay. Chiếc xe chạy
trở lại. Và, lúc này cả hai cùng cảm thấy thú vị khi hiểu ra được ý
nghĩ của
nhau.
Bên trái con đường Lê
Lợi , khu công viên xuất hiện.
Sương mù giăng kín trên dòng sông, bên kia kinh thành Huế ánh đèn cũng
mờ sáng
trong màn sương. Ở quãng này, bắt đầu nhộn nhịp xe đạp, xe gắn máy và
người đi
chơi đêm. Ngôi trường Đồng Khánh vẫn in cái bóng màu vôi tím.
Nga nói:
-Tối nay
quán sinh viên có trình diễn ca nhạc.
-Em muốn đi
nghe không ?
-Tùy anh.
-Tính sau,
đi ăn đã.
-Em cũng
đang đói đây.
-Hay là xuống
Bưu Điện.
-Vậy là em
khỏi yêu cầu anh.
Khu Morin đèn sáng trưng, không khí
đêm nhộn nhịp, và khói thuốc lá bay mù từ những quán cà phê dọc vỉa hè.
Quán
nào cũng đầy khách, đám thanh niên ngồi đông và chuyện trò nghe ồn ào.
-Em đã ghi
danh chưa ?
-Anh hỏi hay
không ? Mới có kết quả hôm nay, mừng chưa hết lớn mà...
-Ờ nhỉ, anh
lại tưởng như mùa thi qua lâu rồi.
-Em cũng có
ý nghĩ như anh vậy.
Xe vẫn chạy chậm. Tới khu
Bưu Điện, Nguyên nhìn quanh tìm chỗ đẫu
xe. Hai người bán quán ra chào mời, Nguyên không đáp lời mắt đang tìm
chỗ đậu
xe. Nguyên chạy xe lên phía trên rồi trở đầu, chạy một quãng đến đường
Trương Định
và dừng xe bên lề đường.
Trời đêm thu thật dễ chịu.
Có tiếng nhạc vọng từ hội
quán sinh viên, Nga nắm tay Nguyên, theo
bước anh dìu đi.
Có bốn quán ăn nằm trong khu Bưu Điện.
Nguyên đưa Nga trở lại quán ăn lần trước. Khi hai người vào, nhiều
người khác
đưa mắt nhìn, một vài người nói chuyện về nàng. Và, trên mắt người lạ
nào cũng
ánh lên một nụ cười thiện cảm.
Có bàn trống sâu bên trong. Ngồi ở
bàn đó tuy hơi tối, nhưng có thể trông ra được hai con đường nằm phía
sau dưới
bóng tối những hàng cây.
Huế, thành phố này đôi khi cho bạn một
cảm giác lạc lõng như thể bạn là kẻ từ đâu xa mới trở về.
Đứa nhỏ gái chờ Nga đọc món ăn trên
thực đơn. Nàng gọi cơm phần bốn món, nước uống làsinh tố.
Nguyên nhìn Nga, anh mỉm cười. Nàng
bảo:
-Anh nhìn em
hoài.
Nguyên vẫn lặng yên nhìn người mình
yêu. Đôi mắt anh thật trìu mến, và trong thoáng giây ấy anh nhận ra
được tình
yêu của anh dành cho nàng. Anh trở về thành phố, để quên được những
ngày vừa mới
qua trong chuyến đi công tác, trong sức nóng của cuộc chiến, không
phải, thế là
xong phần trách nhiệm của mình, nhưng cứ mỗi lần anh trở về, anh vẫn
cảm thấy
chỉ có Nga làm cho anh vơi dịu bớt đi nhiều
những nỗi ưu tư của tuổi trẻ về chiến tranh. Nga,
tên nàng là bóng cây
im mát, là không gian rộng của bao nhiêu xứ sở trên mặt đất này.
-Hôm nào anh
mới đi trở lại ?
-Có thể tuần
tới.
-Tuần này,
anh ở hậu cứ.
Nguyên bỗng nhận ra trong câu hỏi của
Nga, muốn cho anh tìm thấy một sự liên đới giữa nàng và đơn vị anh phục
vụ. Hai
năm qua, từ khi quen biết Nga, không chỉ tình yêu hai người đóng khung
trong
thành phố mà còn dành cho nhau một cuộc sống thật lãng mạn chan hòa
giữa không
khí chiến tranh. Nguyên nhiều lần đưa Nga lên thăm căn cứ đóng quân của
Trung
đoàn ở trên một vùng đồi cao, nơi này, nàng quan sát thấy khung cảnh
hoang vắng,
hiểm trở, thấy những cánh rừng, những bóng núi, khói lửa từ nơi ấy dâng
lên
trong cảnh yên lặng của buổi chiều. Nhưng, nàng có sự chia sẻ từ tấm
lòng chân
thật của mình, và khi đến đơn vị của Nguyên nàng luôn cảm thấy như mình
gặp lại
bao người thân. Nàng ngồi trong phòng Nguyên làm việc bề bộn giấy tờ,
sổ sách,
dưới cái nóng của những ngày hè, giá lạnh những ngày đông, và nàng cảm
thấy
không riêng với Nguyên thôi, nàng còn có sự liên đới nhiệt tình với các
chiến hữu
. Một khi đưa Nga đến, Nguyên cũng luôn
để cho nàng thoải mái quan sát cảnh sinh hoạt của
những người lính, chuyện
trò thân mật, hỏi han từng người trong thân tình của bè bạn, gia đình,
chị em.
Nguyên cũng dành cho Nga cái thú vui ngồi uống cà phê ở câu lạc bộ
trong căn cứ,
ăn cơm trưa, hoặc chiều tại những hàng quán khu gia binh, và chính
những nơi
này, nàng hiểu rõ hơn về cuộc sống , về cảnh đời của các quân nhân. Và
hơn hết,
Nga rất được sự quí mến của các Sĩ quan ở Trung đoàn, từ cấp chỉ huy,
đến các bạn
cùng ngang cấp bậc với Nguyên, hay nhỏ thấp hơn. Khi được các chiến hữu
Trung
đoàn khen ngợi phong cách làm việc của Nguyên, Nga làm vui thích, vừa
hãnh diện.
Biết bao nhiêu người lính chiến ở đây ước ao có được một mối tình đẹp
như
Nguyên và nàng, ao ước có một người yêu thật sự có tình yêu như nàng.
Hầu hết ở
đơn vị của Nguyên, lớp Sĩ quan trẻ khá đông, và cũng có trình độ Đại
Học, những
lần Nguyên đưa người yêu đến, đã có một số anh em ngoài tình cảm yêu
mến Nga
qua tính tình, qua sắc đẹp, có người con cho rằng nàng là một biểu
tượng sáng
giá của tình yêu. Cách xa đơn vị không đến mười cây số là thành phố
Huế, Nga
đang học, đang sống ở đây, và đây là thành phố của những dòng dõi về
khoa bảng,
về địa vị, gia phong , sắc đẹp của nàng đã làm cho biết bao nhiêu chàng
sinh
viên các trường Đại học, biết bao nhiêu Bác sĩ, sinh viên Sư phạm vừa
mới ra
trường, bất cứ ai gặp nàng cũng để mắt chú ý, cũng rất muốn làm quen,
muốn cùng
nàng xây dựng hạnh phúc, thế nhưng nàng không hề nghĩ đó là điều nàng
ước mong
về cuộc sống thật yên bình và muốn được chọn lựa. Nàng chỉ là người yêu
của
Nguyên, vì Nguyên thể hiện được cái tính cách hào hùng, độc đáo của người trai, hơn nữa là một người lính nhận
lãnh đúng trách nhiệm của mình. Những lần đi với Nguyên lên thăm đơn
vị, Nga
luôn mặc áo dài lúc là màu tím, màu vàng nhạt, màu rêu phong, để rồi
trong dáng
đẹp thướt tha, nhung lụa của nàng, mỗi
chiến hữu đồng đội của Nguyên, ai cũng được hái cho
mình một nụ hoa từ
trên cặp mắt dễ thương, trên gương mặt nhân hậu, đầm ấm của nàng.
-Sắp đến
ngày sinh nhật của em rồi đó.
-Anh sắp
nói, thì em đã cho biết rồi.
-Nhưng hôm
đó, có anh không ?
-Có chứ.
-Anh không về,
em lên đơn vị tìm anh.
-Em có nhớ
chuyến đi thăm Đại đội 3, Tiểu đoàn 1.
-Nhớ chứ.
-Vừa rồi,
anh trở lại công tác cùng Đại đội này hai ngày. Ai cũng nhắc đến em hết.
-Em vẫn nhớ
những ngày đi tiền đồn với anh.
Bữa ăn đến lúc này mới mang đến, vì
khách chờ khá đông. Nhưng từ nãy giờ, Nguyên và Nga cùng vui chuyện đã không để ý thời gian đợi của mình. Cơm nóng,
thức ăn nóng lên khói. Nga lấy khăn giấy lau chén xong
xới cơm đưa qua cho Nguyên. Và, Nguyên
cũng đợi Nga lo xong cho mình, anh mới lên tiếng mời nàng ăn. Từ đôi
mắt và cử
chỉ của Nguyên, luôn làm cho Nga cảm thấy sự hồn nhiên, trẻ thơ, tâm
hồn mới mẻ.
-Tối nay,
anh có lên trực ở Trung đoàn không ?
-Không. Tối
nay được ở nhà.
Nguyên tiếp lời:
-Ông Trung
đoàn trưởng rất quí anh. Những công việc anh làm cho phòng ban, cho đơn
vị, ông
rất hài lòng.
-Anh là quân
nhân gương mẫu.
-Em là bông
hồng của Trung đoàn.
-Không, em
phải là nữ quân nhân danh dự.
Nguyên liền gợi ý:
-Em may một
bộ quần áo lính, anh nói ông Trung đoàn trưởng gắn hoa mai cho em.
Nga vui, nỗi vui bừng sáng cặp mắt
nàng.
Một giọng thân tình, Nguyên nói:
-Anh em
trung đoàn, ai cũng nhắc đến em và nhớ những chiếc áo dài tím em mặc.
-Hân hạnh
làm người yêu của Trung úy Nguyên
-Anh sắp có
hoa mai nở.
-Thật không
?
-Anh có giấy
thăng cấp, hai tuần nữa văn thư gởi về.
-Em thực sự,
chỉ mong anh bình yên.
-Anh luôn cảm
thấy dễ chịu có được em và ở bên em.
Bữa cơm ngon miệng, Nga và Nguyên ăn
được nhiều, nhưng không hết, cơm và thức ăn vẫn còn.
Phía ngoài quán, không khí ồn vui của thực
khách, họ trò chuyện sôi nổi và cười lớn tiếng. Cũng có một hai bàn,
không khí
trầm lặng, ai cũng uống nhiều bia nhưng ăn nói thật chừng mực, cân nhắc.
-Lâu nay, em
không thấy bác trai về nhà ?
-Ba anh đang
đi công tác miền Tây
-Không phải
bác làm việc ở Bộ Xã hội.
-Ba anh ở
trong ban Thanh tra. Ông chỉ về Bộ sau
khi xong công tác, còn hay đi luôn, nhất là những vùng đang xây dựng cơ
sở.
-Anh cũng
như bác, cứ đi công tác hoài.
Rồi một giọng nhẹ nhàng, Nguyên nói:
-Năm nay là
năm cuối em ra trường.
Nga nhìn lại Nguyên, một giọng nói
trong âu lo:
-Nhưng em và
anh còn phải xa cách một thời gian mới ổn định.
-Anh cũng
nghĩ vậy.
Nguyên rót thêm trà vào ly đá vừa uống
hết. Nga chậm rãi uống từng ngụm nước sinh tố.
Trên bàn, Nguyên cũng rót sẵn một ly trà nóng để Nga
uống tráng miệng.
Khu phố Bưu điện đang hết sức nhộn nhịp, đông người qua lại. Có tiếng
nhạc vang
vọng giữa không gian, và đêm, trong không khí sinh hoạt nổi nổi, chìm
chìm. Từ
chỗ bàn Nguyên và Nga ngồi, hai người nhìn về phía thư viện Xavier đã
đóng cửa
nhưng đèn sáng bên goài, cạnh thư viện là một cửa hàng bán bánh ngọt,
bánh mì
nướng, ở đó, rất đông khách đứng sắp hàng chờ mua bánh.
Hầu như, ai cũng cảm thấy đêm nay
trong mùa thu mang một vẻ thân tình, ấm áp. Và, có một đôi tình nhân
đang ngồi
đây trong quán ăn đông khách, thấy mình hạnh phúc hơn cả.
-Anh nhớ đem
chiếc máy ảnh về nghe.
-Anh nhớ.
Nga cười hỏi:
-Đi đâu nữa
bây giờ ?
-Tùy em.
Nguyên gọi người chạy bàn đến tính
tiền. Nga dành phần trả tiền bữa ăn, nàng cười nhìn sang Nguyên.
Nga để lại tiền lẻ trên bàn cho người
phục vụ. Hai người đứng lên, lúc đi ngang qua những bàn phía trước, một
số
khách nhìn theo hai người và họ vẫn muốn nói nhiều điều trong suy nghĩ
của họ về
lứa đôi này.
Hương đêm trong những ngày đầu thu
ngào ngạt, đôi lúc bạn nhận ra vị mặn trong mùi cay của lá cây và sương
ướt. Rồi
hai cái bóng đi bên nhau, đến chỗ đậu xe.
Nguyên mở đèn sáng, chút sau xe nổ
máy. Trên con đường nhỏ xe chạy. Khi ngang hội quán sinh viên, tiếng
nhạc ồn, rất
khích động. Đã qua rồi, buổi gặp đầu tiên của hai người ở nới đây.
Hội quán nằm bên khu Đại học. Ở phía
trước là khách sạn Thuận Hóa. Khi ra tới con đường chính, Nguyên lái xe
rẽ trái
rồi chạy thong thả hướng về phía cầu Mới, rẽ phải lên cầu, rồi đổ xuống
phố
chính Trần Hưng Đạo.
Phố vẫn còn đông người, và các cửa
hàng mở đèn sáng. Những tiệm ăn , tiệm cà phê trên phố chính này đông
khách ra
vào. Nguyên cho xe chạy thật chậm dọc con phố, đến chỗ rạp hát, ngừng
lại trong
ít phút.
-Em thích
coi ciné không ?
-Vào đi anh.
Nguyên lùi xe lại khoảng vài mét, rồi
tắt máy. Xe đậu bên lề đường, giờ này, bên đường cũng không có nhiều xe
hơi đậu.
Rạp hát chiếu phim La seconde
chance. Nga lại dành phần mình đi mua vé, lúc Nga đi, Nguyên theo bên
cạnh người
yêu. Anh cảm thấy sung sướng, hạnh phúc hơn bao giờ hết vì có được Nga.
Nga,
đúng là một nàng tiên. Nga rất trẻ thơ, vui tính, và đôi mắt nàng không
chỉ tỏ
lộ cái đẹp của dòng sông, mà trong vẻ lắng sâu dịu dàng, ẩn chứa một
tâm hồn
nhân hậu. Nàng cũng luôn cho Nguyên một tiếng nói tự tin, và tiếng nói
của nàng
cũng là một điểm tựa.
Nga mua vé xong, nhưng cùng với khán
giả đang đứng chờ bên ngoài, vì xuất hát còn mười lăm phút nữa mới vãn.
Trên biển
quảng cáo, vẽ lớn chân dung hai tài tử Pháp: Robert Hossein và Michèle
Mercier.
Trong khung lưới rộng, là những bức ảnh chụp từng cảnh phim. Nữ tài tử
Michèle
Mercier rất đẹp, trẻ trung.
Không đợi lâu, cửa vào rạp mở rộng
và đông khán giả bên trong đi ra. Nhạc và đèn sáng gây nên cái cảm giác
rung động,
phấn khích, và khán giả xem xuất cuối đã cảm
thấy vui khi đi vào rạp.
Nguyên và Nga chọn ngồi dãy ghế giữa.
Không khí trong rạp hát bình yên trở lại, với ánh đèn vẫn chiếu sáng,
và điệu
nhạc trở nên êm dịu.
Nguyên nói:
-Em định
theo học Luật hay Văn Khoa.
-Em học Văn
Khoa, và anh còn phải dạy thêm cho em nhiều.
-Anh vui từ
nhiều ngày nay. Tin em thi đậu, niềm vui được báo trước.
-Năm dự bị,
học nhiều môn không ?
-Cũng nhiều.
-Nói cho em
nghe từng môn học đi.
Nguyên kể qua vài môn chính yếu mà
trước đây anh đã học. Nga ngạc nhiên hỏi:
-Có học cả
môn triết nữa.
-Có. Nhưng
Việt Văn là chính. Em cần phải học thêm cả Hán Văn nữa.
-Em thấy
khó.
-Khi đến trường
ghi danh, em hỏi thêm các bạn sinh viên năm trước.
Nga nắm tay Nguyên, nàng nói:
-Anh đi với
em.
Nguyên chợt có một thoáng nghĩ mơ hồ.
Anh gợi nhớ thời đi học của mình, nhớ những người bạn cũ.
-Hôm ấy, em
mặc áo màu thiên thanh. Anh muốn chụp em mấy pose ảnh em đứng trên thềm
ngưỡng
cửa Đại Học.
-Le quá, phải
không anh.
Bỗng nhiên đèn rạp hát tắt. Không
lâu, màn ảnh chuyển động, và những đoạn phim quảng cáo cho kỳ tới diễn
ra,
trong mỗi cảnh phim, tiếng động và cả tiếng nhạc di chuyển lúc nhanh,
lúc chậm.
Nguyên bỗng nói:
-Em cố gắng
nghe tiếng Pháp.
-Em đang tập
trung đây.
Rồi phim chính bắt đầu. Hình ảnh nữ
tài tử Michèle Mercier, mặc chiếc áo blouse trắng trong vai nữ sinh
viên y
khoa, thật là đẹp làm khán giả thốt lên những lời trậm trồ ngợi khen.
-Em có thích
học Y khoa không ?
-Cũng thích,
nhưng em không học nổi đâu.
Với một giọng thân tình, Nguyên nói:
-Bạn cứ hình
dung Thiên Nga của tôi mặc áo blouse , đeo kính trắng trên cặp mắt và
ống nghe
vắt qua cổ áo, nàng đứng trong phòng thực tập.., chà chà..
-Đẹp quá, phải
không ?
Nguyên tiếp lời:
-Em học ở Y
Khoa, sinh viên không có ai học hành gì được cả.
-Làm gì mà
gán chuyện ác cho em vậy ?
-Không thực
sao. Em quá đẹp, chàng sinh viên nào cũng ngẩn ngơ.
-Em vào trường
Y khoa, thì anh sao ?
-Em nhận được
thư của anh gởi hàng tuần.
-Em cũng lên
tiền đồn nữa, phải không ?
-Cô là Bác
sĩ đầy lòng nhân ái cho quân nhân.
-Ai cũng
khen như anh cả, em như là mây bay về trời
Robert Hossein trong vai luật sư,
ông ta đã có vợ con, nhưng ông ta đang yêu say đắm một cô sinh viên Y
khoa. Trước
khi gặp vị Luật sư này, cô gái đã có một người yêu là sinh viên học
cùng lớp.
Những đoạn đối thoại trong phim, có
lúc đi nhanh, cũng có lúc chậm, vừa phải. Khi hiểu được trọn vẹn từng
câu, Nga
lấy làm thích thú, hãnh diện.
-Ở Văn khoa,
có giáo sư Pháp dạy không anh ?
-Anh không
rõ sau này. Trước đây anh học, có ông thầy Cauro.
-Ông dạy văn
chương Pháp.
-Đúng rồi.
Một lúc sau, Nga chợt hỏi:
-Lúc này Thụy
có viết thư về nhà không ?
-Nó đang xin
đi học ngành phi hành.
-Học lái máy
bay hay sao ?
-Ờ, nó xin học
lái máy bay.
-Bao giờ mới
được đi.
-Chắc còn
lâu, trước tiên là đi khám sức khỏe, rồi học Anh Văn ở trường Sinh ngữ
quân đội.
-Xong hai giai
đoạn đó là đi qua Mỹ.
-Đúng rồi.
-Thời gian học
bên Mỹ lâu không ?
-Chừng hơn một
năm.
-Vậy là thế
nào Thụy cũng xin về phép trước khi đi học.
-Anh cũng
nghĩ vậy.
-Chắc Tết
này Thụy về thăm nhà.
-Không hy vọng
ngày Tết đâu, có thể trước hoặc sau.
-Em nghĩ chắc
là Tết, Thụy về.
-Em anh, nó
quý em lắm.
-Em biết.
Nga bỗng nhiên thấy hoảng hốt, vừa hết
sức ngạc nhiên. Trên màn ảnh, cảnh phim đang diễn ra một cuộc cãi vã dữ
dội giữa
cô gái và người bạn trai cùng lớp. Bất ngờ, cô rút súng, bắn liền mấy
phát
trúng tim, người bạn cô tử thương, dẫy dụa
trên nền nhà. Và, sau đó, một cảnh phim cuối cùng về cuộc đời cô gái,
trên chiếc
xe FIAT sơn trắng, hun hút trên con đường dài chiếc xe lao đi, đến khúc
quanh
lao vào vách núi, chiếc xe tan nát, và cô gái đã tử nạn.
Khi biến cố tai nạn xảy ra, xe cứu
thương và xe Cảnh sát bao quanh hiện trường. Người ta đã báo tin và chờ
đợi
thân nhân đến. Một lúc sau, có một chiếc xe Ford đen dừng lại, viên
luật sư bước
xuống. Ông ta ngán ngẫm, bị sốc vì cái chết của tình nhân.
Quay sang một phóng viên vừa đặt câu hỏi, ông
trả lời:
-Le
coupable, c'est moi.
VII
Trưa chủ nhật, Thụy đến thăm Thúy Hà
. Hôm nay là ngày cuối của nàng ở Sài Gòn. Buổi sáng sớm thức dậy trên
căn gác,
Thụy nhớ đến người mình yêu, hình ảnh nàng ở khắp căn phòng. Mỗi sự
vật, tiếng
nói thầm, cảm xúc bâng quơ, hầu như gắn liền với kỷ niệm Thụy đã có với
nàng.
Khi bỏ một viên đường vào tách cà phê, Thụy như chợt nhận ra, giữa anh
và nàng
là kẻ bơ vơ trên một con đường tìm trở lại quê nhà.
Khi thấy Thụy xuất hiện, Thúy Hà có
nỗi mừng vui hiện rõ trên gương mặt. Hai người ngồi ở phòng khách nói
chuyện một
lúc, sau đó, Thúy Hà lên phòng riêng thay quần áo. Khi Thúy Hà xuất
hiện ở lối
cầu thang xuống nhà, nhìn anh nàng mỉm cười, anh thấy nàng mặc chiếc áo
dài tím
có chấm bông trắng thật là đẹp.
Nhà vắng, nên trước khi đi Thúy Hà
phải coi lại các cánh cửa. Sau đó, hai người qua phía cửa bên, rồi theo
lối đi
đầu con hẻm ra đường lớn. Có chiếc taxi chạy qua, nàng vẫy tay.
Thụy ngồi bên cạnh Thúy Hà . Người
tài xế vặn lại khóa đồng hồ rồi mới cho xe chạy. Xe chạy lên hướng Bà
Chiểu, rẽ
trái qua cầu Bông rồi hướng về khu Dakao. Hôm nay là chủ nhật, ngày
cuối cùng của
Thúy Hà ở Sài Gòn. Thụy được ở bên nàng, nhưng không hề có chút gì về
sự hứa hẹn.
Thụy cảm thấy rất tự nhiên ở bên Thúy Hà, vì vậy, anh cũng chẳng có ý
sắp sẵn
những chuyện riêng tư để nói với nàng. Dù sao nữa, nay anh và nàng còn
có bên
nhau trong tình anh em.
Xe dừng ở ngay trước cửa chính chợ Bến
Thành. Khi ra khỏi xe, ánh nắng buổi chiều trong thành phố ấm hẳn như
thể cho
Thụy một cảm giác mình đang ở bên người yêu. Thụy đã quen gương mặt
Thúy Hà từ
một tháng gặp lại nhau ở đây, và cứ mỗi lần, đưa mắt nhìn nàng, trong
cái nhìn
phác họa cho anh thấy những nét riêng nào đó của nàng rất dễ nhớ. Cố
nhiên,
Thúy Hà biết Thụy yêu nàng, thích được nhìn ngắm nàng nên nàng cũng rất
muốn
dành sự yêu thích đó cho anh.
Hai người đứng trong đám đông chờ
đèn xanh. Trước mặt, con đường tràn ngập những dòng xe và tiếng người
ồn ào.
Chỉ đợi hơn một phút, mọi người xuống
lối đi bộ qua đường khi đèn xanh bật lên. Qua bên kia đường, mọi người
tản mác,
Thúy Hà và Thụy dừng bước. Nàng hỏi Thụy:
-Bây giờ đi
đâu anh ?
-Tùy em. Trước
hết, em phải đi mua sắm cho mình đã.
-Còn sớm. Em
còn bên anh cả buổi chiều.
-Vậy mình
ghé quán nước đi.
-Anh thích
xem ciné không ?
Tự dưng Thụy hơi ngần ngại, rồi nói:
-Tùy em.
-Anh biết rạp
nào chiếu phim hay không ?
-Chung quanh
đây có nhiều rạp.
Thụy và Thúy Hà cùng dời bước. Buổi
chiều Sài Gòn thật rộn ràng trong khung cảnh náo nhiệt, sầm uất, những con đường đông người, những dãy phố san
sát nhà ở, các hiệu buôn trông rất sáng sủa, đẹp mắt.
Thụy đang nghe Thúy Hà nói về Duy.
Giọng nàng vui, đùa nghịch. Hai người đi tới rạp Rex. Cuốn phim En
plein soleil
đang chiếu. Bên ngòai và dưới mái hiên rạp đông người. Thụy hỏi ý Thúy Hà , rồi sau đó, anh sắp hàng đứng
đợi trước quầy để mua vé. Lúc này, cả anh
và nàng cùng đưa mắt nhìn quanh như để tìm kiếm có
ai quen. Trong một
giây nhỏ, anh chợt nghĩ đến ngày mai dưới cơn mưa nhỏ hạt, qua ánh đèn
nhòa nhạt
trên những con đường, một chiếc xe ca lặng lẽ đưa Thúy Hà và bao nhiêu
người hành
khách nữa rời khỏi thành phố này.
Đến trước quầy, Thúy Hà trả tiền mua
vé, xong lấy hai tấm vé đưa qua cho Thụy cầm. Chưa tới giờ chiếu hai
người tới
quầy giải khát gần đó mua nước sinh tố. Cô bán nước làm xong, mỗi người
cầm một
ly đi bên nhau vào rạp hát bằng lối đi lên cầu thang.
Hàng ghế trước ngay balcon, chỗ Thụy
và Thúy Hà ngồi góc bên trái. Rạp hát rộng, có máy điều hòa, đèn đang
chiếu
sáng và có tiếng nhạc nghe nhẹ nhàng, êm dịu, thỏai mái. Không gian của
rạp
hát, ánh đèn, những hàng ghế có khán giả, nhưng Thụy vẫn thầm nghĩ
rằng, lúc
này chỉ có anh và Thúy Hà thôi.
-Ngày mai
đi, em nhớ Sài Gòn không ?
-Nhớ chứ.
Thúy Hà nhìn qua Thụy, nụ cười thật
dễ thương.
-Em không nhớ,
thành phố này cũng giữ lại em.
-Em cũng phải
về chứ.
-Em về, hình
ảnh của em vẫn còn ở đây.
-Rồi cũng có
ngày em trở lại.
Trong tiếng nói của nàng, Thụy nhỏ
bé quá. Sài gòn, nơi thành phố này nàng đến rồi ngày mai sẽ ra đi.
Ngày mai, tôi vẫn được ở bên nàng.
Hai ly nước trái cây thật ngon. Anh
đèn trong rạp hát chợt tắt, và buổi chiếu phim bắt đầu. Có hai phim
chiếu dạo
lâu chừng mười lăm phút, rồi đến phim chính. Tên tài tử nổi tiếng Alain
Delon
in chữ đậm trên màn ảnh.
Thụy và Thúy Hà vừa lặng yên xem
phim, vừa chuyện trò. Hạnh phúc này, như một món quà nhỏ nàng muốn dành
cho
anh. Và, anh hãy giữ lấy với sự yêu thương, bao dung của nàng. Giọng
nói của
Thúy Hà nghe trong âm thanh như những sợi chỉ màu đang nối kết những
niềm vui
trong nụ cười của nàng lại với nhau. Mỗi nụ cười trên mắt nàng, cho
chàng một
bóng ánh sáng. Đôi lúc, tiếng nói ngừng lại, Thụy chợt nghe nàng qua
hơi thở.
Thụy nhìn ngắm người mình yêu sao đẹp lạ lùng, Thúy Hà biết ý, nàng ngả
đầu dựa
lưng ghế, mái tóc xõa tràn, và trong lúc Thụy cúi xuống hôn môi, nàng
nhắm mắt
thật lâu.
-Em nói với
anh đi.
-Anh muốn em
nói gì.
-Nói với
anh, em đẹp.
Nàng khẽ gật đầu. Hai người ngồi lại,
hướng mắt lên màn ảnh.
Cuốn phim có nhiều đọan thật vui. Nước
Pháp, những thành phố ở đó trải rộng đem lại cho trí tưởng tượng của
Thụy và
Thúy Hà như thấy mình đang đi tới những nơi ấy.
Rồi cuốn phim kết thúc, đèn trong rạp
sáng lên. Thụy và Thúy Hà cùng đứng dậy
rời khỏi ghế .
Buổi chiều xuống mau, trời đang mưa.
Bởi cơn mưa nặng hạt nên khán giả còn đứng ở rạp chờ đợi. Thụy lật cổ
tay nhìn
đồng hồ, mới ba giờ. Bên ngòai, trời u ám vì mưa. Những cơn mưa ở Sài
gòn thường
nặng hạt trong buổi chiều nhưng cũng mau tạnh.
Nắng chợt bừng sáng ngay lúc mưa vừa
tạnh. Tiếng reo vui ồ dậy , ngay lập tức,
mọi người dời bước, cùng chạy ùa xuống đường.
Nắng hay mưa, trên các phố chính vẫn
luôn nhộn nhịp. Thúy Hà và Thụy vẫn bên nhau, không rời nhau. Hai người
đi vội,
nhanh bước trên con đường Lê Lợi. Khi vào chợ Bến Thành, Thúy Hà đưa
Thụy đến
các sạp hàng bán quần áo may sẵn. Nàng chọn lựa, mua nhiều lọai quần áo
đủ cỡ, và cũng mua thêm các lọai áo ấm.
Sau khi
mua quần áo xong, Thụy và nàng đến chỗ bán hàng bánh kẹo mua nho , táo,
hồng
khô, và nhiều thứ khác nữa.
Chỉ vào chợ mua sắm không đến một tiếng,
hai người trở ra. Trời lại mưa, và họ băng qua đường núp mưa dưới mái
hiên của
một công ty xuất nhập cảng.
-Ngày em vào
đây cũng vừa đúng mùa mưa khởi sự.
Thúy Hà không nói gì. Bất chợt, ý
nghĩ về ngày mai nàng rời khỏi thành phố này mang lại cho Thụy một nỗi
buồn.
-Em về, hành
lý nhiều không ?
-Cũng nhiều.
Các thứ này nữa là đủ hai va li.
Mưa lại tạnh, Thúy Hà nói:
-Em cảm thấy
đói. An gì đây anh ?
-Tùy em.
Thúy Hà không trả lời. Thụy nói:
-Đi ăn bánh
cuốn nghe.
Thúy Hà gật đầu.
Đường phố lại đông người. Thụy đưa
Thúy Hà đến dãy hàng bán bánh cuốn nằm cạnh
nhau trên đường Pasteur. Nơi chiếc bàn thấp, Thụy và nàng ngồi chờ.
Bánh cuốn
nóng, bốc khói lên trông hấp dẫn. Giọng vui, Thụy hỏi:
-Em đã ăn đủ
thứ quà ở Sài Gòn chưa ?
-Em cũng ăn
nhiều.
Ngừng ăn, nhìn Thụy nàng hỏi:
-Ngày mai
anh có đi làm không ?
-Ngày mai
anh được nghỉ.
-Anh làm việc
ở Biên Hòa cứ lên về mỗi ngày.
-Có tuần
thôi. Khi nào cần, anh mới về dưới này.
Thụy
quá hạnh phúc khi được ở bên Thúy Hà. Anh nhìn nàng
ăn, nhớ nàng vô
cùng.
-Em ăn ngon
không ?
-Ngon lắm.
-Em ăn thêm
đi.
-Vừa rồi,
anh ăn nữa đi.
-Thôi, anh
đi mua nước em uống.
Thụy
đứng dậy đi qua quầy nước mía bên cạnh. Không chờ
lâu, anh mang hai ly lớn
về đặt xuống bàn.
-Nước mía
ngon lắm, em uống đi.
Buổi chiều còn thư thả nên Thụy và
Thúy Hà còn trò chuyện. Thụy đốt điếu thuốc hút, nhìn Thúy Hà nói:
-Tối nay em
phải đi ngủ sớm.
Thúy Hà cười nhìn lại anh.
-Em dễ ngủ
mà cũng dễ thức dậy sớm.
-Nhưng cẩn
thận, em nên để đồng hồ báo thức.
-Có chứ.
-Ngày mai
anh đợi em ở trạm.
-Em sẽ đi
taxi đến.
-Về ngòai đó
công việc như thế nào, viết thư cho anh biết.
-Em sẽ viết
thư cho anh luôn.
-Từ ngày anh
đi xa đến nay, anh được đọc nhiều thư em.
-Ba mợ vẫn
nhắc anh luôn.
-Anh hiểu.
Anh đã có được tấm lòng yêu thương của gia đình em.
-Rồi anh
cũng phải lo cho anh nữa.
-Anh chưa
nghĩ xa chuyện gì cả.
-Anh cũng phải
nghĩ đến thôi.
Thụy lặng im. Giờ phút này đây, Thụy
còn được ngồi bên nàng. Giữa hai người, tình yêu đã cất giấu, muốn trốn
và đi
tìm, và chỉ còn chỗ ẩn náu trong con
tim. Thụy gợi nhớ đến những ngày vừa qua
nàng đến đây. Thụy cũng đang tìm lại những trang giấy màu, những dòng
thư nàng
đã viết cho anh. Thật là đẹp, nhưng rất buồn.
-Mau quá, mới
buổi chiều hôm đó em tới đây, giờ đã qua một tháng rồi.
-Anh lúc nào
cũng cứ gợi nhắc đến kỷ niệm. Em cũng không thể ở lâu hơn.
-Em có tính
đi học tiếp nữa không ?
-Thôi, em đã
lấy chồng rồi, học gì nữa.
-Anh đang
nghĩ tới một công việc phù hợp với em.
-Anh muốn em
làm gì ?
-Anh thích
em đi dạy học.
-Anh vẫn sống
với hình ảnh lý tưởng.
-Hình ảnh em
làm một cô giáo đẹp biết chừng nào .
-Không đâu,
em sẽ làm công việc năng động hơn.
Có tiếng còi hụ tan sở từ nơi nào đó
vang lên trong buổi chiều. Buổi chiều sắp qua hết. Lúc này, Thúy Hà
đứng lên đến
chỗ người đứng bán bánh trả tiền. Thụy
hơi ngỡ ngàng, bâng khuâng.
Thụy và Thúy Hà ra bến xe lam đón xe
về nhà. Khi tới cổng, Thúy Hà đưa tay cho Thụy
bắt cùng nói lời tạm biệt.
Về nhà dì Hồng, Thụy ở lại đây buổi
tối cho thuận tiện sáng mai đưa Thúy Hà lên đường.
-Anh nên
nghĩ cho mình đi.
Tiếng nói của Thúy Hà ắp đầy trong
trí nhớ Thụy. Lúc này, chắc Thúy Hà ngồi ở phòng riêng để sọan hành lý.
Nỗi ước
mong của anh là được ở bên nàng để giúp
nàng.
Sau bữa ăn tối, Thụy ngồi nói chuyện
với gia đình dì Hồng. Trong đêm, anh nằm mơ thấy Thúy Hà . Hình ảnh
nàng trong
giấc mơ, anh thấy nàng tươi cười từ trên cầu thang phi cơ bước xuống
phi trường
thành phố. Và hai người gặp lại nhau qua nụ cười của tuổi trẻ.
Khi nghe tiếng mưa trên mái tôn, Thụy
giật mình thức giấc. Lúc này là ba giờ sáng. Thụy nằm
nán một chút nghe mưa rồi trở mình dậy. Với
sự khẽ khàng, anh đi rửa mặt, thay quần áo, rồi lặng lẽ rời nhà dì
Hồng. Từ con
đường hẻm, Thụy bước nhanh ra đường chính và đứng đợi xe lam lên Sài
Gòn.
Tới trạm hàng không, Thụy đi thẳng đến
quầy cân hành lý. Không thấy Thúy Hà, Thụy đi qua phòng hành khách đợi
cũng
không trông thấy nàng.
-Thúy
Hà
chưa tới.
Thụy
nghe tiếng mình nói một cách tự nhiên. Bỗng anh đâm
ra lo ngại, sợ nàng
để quên đồng hồ reo, hay có khi giờ này chưa có taxi đi qua khu phố đó,
thảng
hoặc, người tài xế cho chạy vòng quanh nhiều chỗ để tăng thêm giờ trên
đồng hồ.
Thụy liền đến hỏi cô tiếp viên về chuyến
bay sớm nhất đi Đà Nẵng. Thụy hơi lo ngại,
và bây giờ, hành khách các chuyến bay tới dần dần đông thêm.
Thụy trở ra phía ngòai đứng nhìn ra
lối cổng vào sân. Có một chiếc taxi đang chạy vào, Thụy chú ý ngay khi
nó vừa lọt
vào cổng, và nỗi mừng vui dậy lên trong anh khi thấy bàn tay Thúy Hà
thò ra
ngòai cửa gương vừa lên tiếng gọi anh. Thụy bổ xuống thềm tam cấp bước
nhanh,
lúc xe vừa ngừng, anh vội mở cửa và đỡ lấy hành lý cho Thúy Hà. Trong
phút giây
này, anh muốn được ôm chầm lấy người yêu của mình.
Thụy đợi Thúy Hà trả tiền xe, và cố
định thần lại nỗi lo vừa qua của mình. Khi người tài xế taxi lái xe đi,
Thúy Hà
nắm tay Thụy, giọng hơi run nói:
-Em sợ quá,
anh ơi.
-Sao vậy ?
Có chuyện gì không, em nói đi.
-Cha tài xế
này không tốt. Từ nhà tới đây đâu có gì xa, mà xe ông ta cứ chạy vòng
qua nhiều
chỗ lạ, và lúc nào mắt ông cũng liếc vào tấm gương để nhìn em ngồi sau.
Em sợ
quá.
-Anh cũng có
ý nghĩ đó trước khi em thấy em tới. Biết vậy, anh đến nhà em để cùng đi
cho em
yên tâm.
-Lúc ấy trên
đường đi, em cũng mong vậy.
Thụy xách hai va li, Thúy Hà cùng bước
nhanh theo anh đi vào trạm, đến quầy cân hành lý. Vào sắp hàng sau hai
người,
anh và Thúy Hà đứng cạnh nhau. Giờ phút này, Thúy Hà và Thụy như không
thể rời
xa nhau. Đến lượt mình, Thụy nhấc hai chiếc va li đưa qua bục gỗ cho
người bên
trong nhận để đặt lên bàn cân. Thực là hên, số cân vừa đủ , khỏi phải
đóng thêm
tiền. Thụy nhận ba thẻ hành lý đưa cho Thúy Hà, hai cái để nhận, còn
một cái
móc vào túi xách đi đường.
Xong việc, hai người trở ra ngòai.
-Em ăn uống
gì không ?
-Thôi lên
máy bay, có bữa ăn sáng.
-Em uống cà
phê nghe.
-Em không uống
nhiều đâu. Anh mua một ly thôi, em uống với anh.
Thụy cảm thấy lòng vui vô hạn liền
đi tới quầy phục vụ ăn uống mua một ly cà phê sữa. Cà phê đã nấu sẵn
nên có
ngay, và Thụy cầm một ly đầy trở lại. Khi Thụy đưa mời Thúy Hà uống
trước, mắt
nàng cười, đón nhận. Nàng uống một hớp nóng rồi đưa lại cho Thụy ngay.
-Em uống
thêm nữa đi.
-Ra ngòai
băng ghế ngồi nói chuyện.
Hai người trở ra ngòai ngồi xuống
băng ghế trống. Thụy uống hớp cà phê xong đưa qua lại cho nàng. Nàng
cầm lấy,
giữ hơi ấm nơi thành ly, và Thụy đốt điếu thuốc. Lúc này, trời hãy còn
mờ tối. Ngòai
con đường, đèn điện chiếu sáng, những dãy phố im lìm, thỉnh thỏang có
tiếng động
một vài chiếc xe hàng, xích lô máy chạy qua, rồi mất hút, tiếng động
cũng tắt
theo, lặng chìm.
-Nhớ viết
thư cho anh nghe.
-Em nhớ.
-Em có nói
ai lên đón em không ?
-Không. Vì
xe ca trên phi trường về trạm đi qua nhà mà.
-Anh quên mất.
Thụy tiếp lời:
-Lên máy
bay, em ráng ngủ bù một giờ.
-Em không ngủ
đâu.
-Ngủ đi, cho
có sức. À..., em về lại ngòai đó, rồi hai tháng nữa Duy mới ra trường.
-Em cán ơn
anh những ngày em vào đây.
-Anh cám ơn
em nhiều hơn. Cả thành phố này nữa, cho anh được gặp lại em.
Sau câu nói, Thụy và nàng cùng lặng
im. Thụy như không thể còn đủ sức để nói thêm gì nữa. Ít giây phút giây
nữa
thôi, anh và nàng rời xa nhau.
-Ngày đó,
chúng ta không gặp nhau thì sao nhỉ ?
-Anh cũng
không biết. Từ khi gặp em, anh luôn nhớ đến em, lúc ở xa, cũng như ngày
gặp lại
em ở nơi đây.
-Em biết,
anh không quên được em.
-Nếu mà anh
quên, cũng vô ích thôi, phải không ?
-Có lẽ.
-Chúng ta ngồi
đây, mà thấy rõ sự xa cách hơn bao giờ cả. Anh rất mong em được hạnh
phúc, hạnh
phúc trọn vẹn. Rồi một ngày nào đó, anh cũng sẽ trở về tìm đến em, để
thăm em.
-Anh rất tốt
với em.
-Anh yêu em,
em biết phải không ?
Thúy Hà lặng không nói gì. Nhưng rồi,
có tiếng của nàng bên Thụy, rất rõ.
-Em biết chứ.
Dù sao, anh cũng đã nói với em, chứ không im lặng.
Bên ngoài, ánh đèn thành thành phố vẫn
giăng mắc qua những hàng cây. Trong yên
lặng, có bàn tay Thúy Hà nằm yên trong tay anh. Thế nhưng, anh không
chờ đợi gì
khác ngoài ánh sáng một ngày sớm xuất hiện.
Từ bên trong, tiếng một cô nữ tiếp
viên loan báo cho hành khách biết đã đến giờ hành khách lên xe ca để đi
phi trường.
Hai người đứng dậy. Chiếc xe đậu giữa
sân đang nổ máy. Thụy và Thúy Hà xuống bậc thềm, thong thả bước bên
nhau. Rồi,
chàng và nàng mở rộng vòng tay ôm nhau, nói lời từ giã.
Thụy vẫn đứng lại ở dưới sân, khi
Thúy Hà lên xe. Nàng ngồi ở ghế ngoài, gần cửa.
-Chừng nào
anh đi phép ?
-Có thể vào
tháng tới.
-Anh về Huế,
hay Quảng Trị.
-Anh sẽ về
Đà Nẵng, thăm em ít ngày đã.
-Nhớ nghe.
-Nhớ chứ.
-Rồi, anh ra
Huế sau.
-Anh cố gắng
xin cho được hai tuần, mới chọn ngày đi.
-Anh về
thăm, anh và em đi chơi phố.
-Em luôn là
một người bạn, suốt đời anh.
-Em vẫn muốn
dành cho anh, ít nhiều kỷ niệm đẹp trong tình bạn.
-Mãi mãi, phải
không ?
-Ờ , mãi
mãi.
-Em đưa tay
cho anh.
Thụy
nắm cánh tay Thúy Hà,
giữ bàn tay nàng rất lâu đến lúc xe ca
chuyển
bánh rời ga trạm.
-Nhớ viết
thư cho em.
Thụy gật đầu, mắt vẫn còn
cố trông theo.
VIII
Quán cà phê Mai Hương nằm ngay giữa
phố chính Lê Lợi, nơi này, như là chốn quê nhà, nó luôn muốn để dành
riêng một
chỗ ngồi, hoặc vài ba chiếc bàn ghế trống để cho những người đi xa, hay
đang ở
xa, nhớ Sài Gòn mong trở về, và sẽ ngồi ở đây để tìm lại một thành phố
của mình
thời tuổi trẻ. Một ngày thôi, thì rất thiếu, quá nhiều tháng năm ở mãi
nơi này
là dư thừa. Có thể, ý tôi và bạn hòa hợp cho rằng, một tuần lễ về Sài
Gòn là đẹp
nhất.
Sự tình cờ Thụy gặp lại Hạnh. Người
bạn cũ, nay đổi khác nhiều, có vẻ phong trần bụi bặm qua mái tóc, qua
bộ quần
áo trận, trên ve áo đã đeo bông mai rồi. Cũng thật là nhanh, từ hôm có
một kỳ
nghỉ phép về thăm Huế.
Người lính ở vùng biên trấn nhìn Thụy,
anh ta bảo:
-Mầy chẳng
có gì thay đổi cả.
Thụy cười, đáp lời bạn:
-Tao sắp được
đi học Sĩ quan.
-Vào Thủ Đức
?
-Không. Đã
muốn ở bộ binh, tao đi Thủ Đức còn trước mầy nữa.
-Vậy là mầy
sẽ là Sĩ quan Không quân.
-Đúng vậy.
Tao xin đi học khóa phi hành.
Hạnh vỗ vai Thụy, cười bảo:
-Le lắm
nghe. Ra Pilot, lái phi cơ vận tải cho tao nhờ quá giang những lần đi
phép.
-Không được
lái phi cơ vận tải đâu bạn.
-Vậy, mầy học
thứ gì ?
-Tao chỉ đủ
tiêu chuẩn học trực thăng. Vì mắt, xếp loại class A.
-Cũng được.
Ra trường la le rồi.
Thụy cảm thấy vui. Thực lòng anh thấy
vui là được gặp lại Hạnh, cứ tưởng sau buổi sáng lên phi cơ ở Phú Bài,
rồi mỗi
đứa một phương trời. Ở Pleiku, nơi đó là vùng biên trấn, nơi đó cũng là
thị trấn
của những người lính.
Bên ngoài, buổi chiều thật đẹp với
dòng người đi tấp nập, luôn nghe ồn vui những tiếng chuyện trò. Khi
thấy những
cô gái xuất hiện, trong quán, nhiều người đưa mắt nhìn ngắm, ngẩn ngơ.
Đã lâu,
Thụy không gặp Huê. Sáng nay, Thúy Hà rời Sài gòn trở ra Đà Nẵng. Sài
Gòn,
thành phố chỉ còn giữ Thụy lại, nhưng cũng nói với anh rằng, Thúy Hà
vẫn luôn nhớ
đến anh.
Hạnh hỏi:
-Chừng nào mới
đi học ?
-Chưa biết.
Đang chờ giấy gọi.
-Tao không
hiểu.
-Tao mới
pass về sức khỏe. Danh sách khóa sinh được gởi qua Phòng tuyển mộ, ở đó
mới gởi
giấy đến đơn vị gốc gọi đi học.
-Có tính đi
phép không ?
-Không.
Rồi với giọng thân tình, Thụy nói những
lời tâm sự với Hạnh.
-Mầy đi đúng
đường, không sai đâu.
-Không chắc
hẳn là đúng, nhưng cũng có thể sai. Kể ra,mình phải nhận những cái khó
khăn
trong đời binh nghiệp.
-Vậy sao mầy
không đi Thủ Đức sớm.
-Bởi tao còn
mong chuyện học. Có được tấm bằng Tú Tài, hay trên Đại học, về sau mới
thấy
tương lai.
-Bây giờ yên
chí, mầy sắp trở thành Sĩ quan.
-Không,
không nói chắc trước được.
Ngừng trong ít giây, Thụy giải thích
với Hạnh về thời gian học của các khóa sinh đi ngành phi hành.
-Nhưng chuyện
học của mầy, cũng đã thành.
-Không ,
không thành tao mới chọn cách này. Với ước mong, tao thích đi kỹ thuật,
ra trường
dễ như bên bộ binh.
Những điều Thụy nêu ra, lắng nghe rõ
lời tâm tình, Hạnh càng thêm hiểu bạn.
Trong
quán, khói thuốc mịt mù. Nhưng đám khói nào cũng tan nhanh nhờ các lối
cửa trống
nhìn ra đường đều đều thoáng rộng. Phía nào, các bàn
cũng kín khách ngồi, nơi đây, hạnh phúc thật
đầy và nỗi buồn những kẻ lạc lõng cũng thấm thía.
-Mầy ở
Pleiku cũng đã lâu ?
-Tao sắp được
về trường Thủ Đức.
-Về đó làm
cán bộ sinh viên .
-Không hẳn.
Tao thuộc bên ngành Tiếp vận.
-Mong mầy được
về sớm.
-Kể ra, tụi
mình sẽ còn gặp lại nhau.
Hạnh trả tiền cà phê. Hai người rời
quán, đi cạnh nhau một quãng trên phố chính. Thụy hỏi:
-Đến chừng
nào lên Trung úy ?
-Còn lâu, mầy.
-Dù sao, hoa
mai của mầy vẫn cứ nở đều đặn.
Hạnh cười, tay đập nhẹ qua vai bạn.
Rồi, một mình từ bên này, Thụy băng
theo lối đi bộ qua đường bên kia. Buổi chiều vẫn còn đẹp trong nắng ấm,
đường
phố vui, nhộn nhịp, và lúc nào trên phố chính này Thụy cũng hay lang thang qua những sạp bán hàng sách báo
cũ. Anh tìm sách, mua sách, hay là tạp chí như thể là có sự cám dỗ ,
hoặc đây cảm
giác ghiền mùi vị giấy cũ như ghiền mùi thuốc lá và cà phê. Kể ra, bạn
có chịu
khó đọc sách, mới khám phá trí óc mình mở rộng nhiều trong không gian
của tư tưởng.
Những cuốn sách làm bạn yêu thích trong khi đọc, luôn là là một điều
hay, một
câu chuyện đáng nhớ dù sớm hay muộn, và còn được giữ lâu, hay đã quên.
Bỗng nhiên, trời trở gió và gây cảm
giác lạnh. Những tảng mây xám vội vàng bao phủ bầu bầu trời, đùn cao
lên những
lớp dày, ra vẻ de dọa đến một trận mưa. Sài Gòn vẫn đang trong mùa mưa,
thường
lệ hay đến vào buổi chiều.
Thụy đến nhà dì Hồng. Con hẻm qua
nhà dì, sao vắng vẻ lạ lùng. Tiếng
chuông vọng sâu, rồi Thúy xuất hiện.
-Anh gặp chị
Hà chưa ?
-Chị Hà nào
?
-Trời, còn hỏi
gặng nữa ?
-Anh không
rõ.
-Chị Hà đến
đây tìm anh .
-Anh không
biết, thực tình.
-Em sẽ đưa
thư cho.
Thụy vẫn ngạc nhiên, anh ngồi xuống
chỗ ghế dựa đặt ở phòng khách. Lá thư để ở bàn, trên một cuốn sách, và
lúc Thúy
quay lại, Thụy nhìn cô em có một chút dò xét. Không hỏi gì thêm, Thụy
mở lá thư
ra đọc.
Vài giòng rất ngắn: Thời tiết xấu, nửa
đường phi cơ bay trở về lại Sài Gòn. Em đang ở khách sạn H. trên phố
Trần Hưng
Đạo, đối diện trạm hàng không. Thúy Hà.
Thụy trở về lại cảm giác bình thường,
anh hỏi Thúy:
-Chị Hà tới
đây lúc nào ?
-Lúc gần
trưa.
-Chị đến lâu
không ?
-Chừng nửa
tiếng. Em có nói chuyện với chị.
-Thúy nói
sao ?
-Bộ, em hỏi
chuyện với bạn gái của anh không được sao ?
-Không phải.
Ý anh muốn biết là chị ấy có thân tình với em không ?
-Cũng dễ chịu.
Em khen chị Hà đẹp, anh thấy vui không ?
-Chị ấy trả
lời em, sao mà lại bảo anh.
Cô em gái nhìn Thụy, cặp mắt cười và
một giọng nói vui.
-Anh và chị
Thúy Hà là sao ?
-Hai người
là bạn học hồi trước.
-Chừng đó
thôi, sao ?
-Chừng đó,
không có gì xa lạ cả.
-Có lẽ chị
đang đợi anh.
-Rồi anh sẽ
đến gặp.
Như gợi nhớ ra một chuyện gì đó,
Thúy nói:
-Giọng Hà Nội
của chị Hà, hay quá.
-Chị có nói
với em là máy bay phải trở về Sài Gòn vì thời tiết xấu.
-Có.
Thúy im lặng, khiến Thụy nhắc.
-Em cứ nói
đi.
-Nghe đây,
chị có hỏi em về anh, về căn nhà này.
-Em trả lời
sao ?
-Có gì khó
khăn đâu ? Đây là nhà người dì của anh.
Thụy gật đầu. Trên tường, phía bên
trái để dành một góc lớn treo những bức ảnh gia đình ngày trước. Lúc
đó, Thúy
chừng độ bốn tuổi.
-Hồi trước,
anh có ở với dì một thời gian, Thúy nhớ không ?
-Sao mà
không nhớ.
-Anh nhớ em
thích chơi đánh thẻ với mấy cô bạn trong xóm.
-Có cả Huê nữa,
anh nhớ không.
Thụy ngạc nhiên:
-Có Huê nữa
sao ?
-Anh bị xúc
động, mỗi lần nhắc đến tên chị.
-Thực tình
anh không hay. Anh vẫn cứ tưởng, gia đình chị Huê mới đến ở sau này.
-Không đâu.
Nhà trong con hẻm này có đến cả hai mươi năm rồi. Gia đình nào cũng
biết và
quen nhau hết.
Thụy đứng lên, vừa đúng lúc như chiếc
kim giây đồng hồ đã chạy tròn vòng của một phút.
-Bây giờ anh
đến chỗ chị Hà.
-Anh ăn uống
gì chưa ?
-Cám ơn
Thúy. Anh không đói.
Thụy coi lại lá thư. Thúy đưa Thụy
ra cửa, tay kéo chốt mở.
-Anh vẫn làm
việc trên Biên Hòa.
-Anh cũng sắp
đi học, Thụy nói.
-Tối nay,
anh có về đây không ?
-Chắc là
không. Anh gặp chị Hà, xong về nhà trọ sáng mai đi làm sớm.
-Hôm qua anh
không đến, có chị Huê ở đây.
-Huê có chơi
đánh bài không ?
-Anh thực
hay. Tới đây, không tụ hội chơi bài là Huê rất lạc lõng.
-Và, lúc
này, Huê còn ghiền uống cà phê nữa.
-Bệnh tương
lân với anh.
-Anh đi
nghe.
-Nhanh lên,
kẻo nàng chờ.
Bỗng dưng, Thụy có cảm giác như mình
đứng lại sau câu nói của Thúy. Có lẽ, Thúy Hà luôn đợi chờ anh. Anh
luôn là kẻ
ra đi, ở xa nàng, nhưng phần nàng lại là người thủy chung, cậy tin,
luôn tìm trong
tâm hồn anh một nơi chốn cư ngụ. Người ta hay bảo trái tim là nơi cất
dấu,
nhưng Thúy Hà lại hay nói với anh về một đôi mắt.
Trên con hẻm dài và rộng, những mái
nhà vươn cao, và ánh sáng buổi chiều mang một vẻ dịu hiền. Ra đường
chính, Thụy
đi bộ về phía khu chợ, anh chạy băng qua đường lúc thấy trống xe, rồi
đến chỗ
trạm ngừng đợi xe buýt.
Từ phía khu nhà thờ, xuất hiện bóng
đen một bay chim đang bay tới. Thành phố trở lại bình thường, không có
dấu hiệu
là sẽ có mưa đến.
Hai người khách bước xuống khi xe vừa
ngừng ở trạm. Thụy bước lên, trả tiền lấy vé, và anh ngồi chỗ ghế trống
cạnh
bên lối cửa lên xuống. Xe chuyến bánh, chạy nhanh một quãng rồi giảm
tốc độ. Xe
lại ngừng trạm kế, rồi một trạm kế nữa. Tới bến chính trông qua chợ Bến
Thành,
hành khách xuống hết. Có người tìm chuyến xe khác để về nhà.
Thụy đi bộ. Lúc vào phố Trần Hưng Đạo,
anh ngước mắt tìm khách sạn H. Anh tìm ra chỗ, lúc đẩy cửa vào văn
phòng anh chỉ
thấy một cô gái đang làm việc.
-Cô là quản
lý ở đây ?
-Vâng.
-Tôi xin gặp
bà Thúy Hà.
Cô quản lý bấm chuông, một cô gái
khác đến.
-Em lên
phòng 16, gặp bà Thúy Hà nói có khách đến tìm.
Cô gái bỏ đi ngay. Một lúc sau cô trở
lại và mời Thụy đi theo cô. Khách sạn H. là một dãy nhà dài, hai tầng,
phòng 16
nằm ở giữa, tầng thứ nhì. Cô gái bấm chuông, Thúy Hà ra mở cửa.
Gặp lại Thúy Hà, Thụy đứng trân, ngơ
ngác. Nàng mỉm cười, cô gái phục vụ chú ý nhìn hai người.
-Người bạn của
tôi, nàng nói với cô gái
Cô gái hỏi:
-Bà cần pha
trà không ?
-Hay lắm. Cô
cho một khay trà.
Phòng của những người phục vụ dãy lầu
hai nằm ở ngay phía đầu, cạnh chỗ cầu thang. Cửa phòng 16 vẫn mở đợi
người phục
mang nước đến.
Thụy hỏi:
-Em ra đến
đâu mới quay về lại.
-Đến Qui
Nhơn. Ngoài đó, trời đang có bão.
Khi trông thấy cô gái xuất hiện, Thụy
ngừng nói. Và cô gái rất nhanh nhẹn, tự nhiên khi phục vụ cho khách.
Cô gái nhìn Thúy Hà hỏi:
-Bà cần gì nữa
không ?
-Cám ơn. Có
gì cần, tôi nhấn chuông.
Vừa quay ra ngoài, cô gái khép cửa lại.
Trong lúc Thúy Hà rót trà vào hai cái tách, Thụy hỏi:
-Ngày mai,
em đi chuyến bay mấy giờ ?
-Cũng vào giờ
sáng sớm.
Thụy cầm tách trà, đợi một chút cho
Thúy Hà cầm tách mới mời nhau.
-Ở ngoài
nhà, chắc không biết em bị trễ ngày.
-Không sao,
anh. Với lại, em không báo trước gì cho nhà biết cả.
-Anh quá ngạc
nhiên.
Thúy Hà hỏi:
-Anh đi đâu
từ sáng đến giờ.
Thụy nói trong yên lặng, anh bày tỏ
tâm trạng sau khi Thúy Hà lên xe ca rời khỏi trạm ngừng. Nơi thành phố
này,
Thúy Hà đi vắng rồi, tìm con đường nào Thụy cũng chỉ thấy những bóng
hình trơ
trọi.
-Anh còn ngạc
nhiên nữa không ?
-Vẫn còn.
-Rồi, sẽ ra
sao ?
-Anh không
nói được.
-Sao mà
không nói được.
-Em nói đi.
Bỗng nhiên Thúy Hà đứng lên, đến bên
cửa , đóng chốt. Rồi nàng trở về chỗ ngồi, đối diện với người bạn.
-Anh cần em
nói gì.
-Nói với
anh.., lúc nào nghe được tiếng nói của em là anh mừng, được gặp.
-Anh mừng lắm,
phải không ?
-Anh mừng lắm.
-Em cũng mừng
như anh.
Thụy cảm thấy yên tâm, không bồn chồn
nữa. Hai người yên lặng, rất là muốn yên lặng trong lúc này.
-Anh muốn xuống
phố đi chơi không ?
-Tùy em.
Thúy Hà vào bên trong thay quần áo.
Một lúc sau nàng trở ra, đứng rất gần Thụy, xuất hiện một dáng vẻ quen
thuộc,
chiếc áo dài nâu, mái tóc phủ bờ vai, và đôi mắt rất sáng, rất tình tứ.
Nàng để yên cho Thụy nắm tay nàng
trong tay anh. Anh nói rất nhỏ cho nàng hay, nàng có một hình ảnh khác
nữa, làm
cho cái đẹp chết đứng, ngày hôm đó từ trường Thủ Đức trở về trên chuyến
xe lam
hai người ngồi bên nhau. Nàng khóc, tiếng khóc thổn thức. Thế nhưng,
bên nàng,
anh bỗng nhận ra trước mắt mình là một đồi cỏ, màu xanh của cảnh hoang
vắng, chỉ
thấy có hai người đang đuổi nhau chạy, rồi, nàng vấp ngã lúc anh kéo
tay nàng,
từ những âm thanh nhỏ như những giọt nước mưa trong tiếng cười khúc
khích của
nàng, đột nhiên nghe thật lớn , ồ ạt với cơn mưa đổ, nhưng cả hai cùng
yên lặng,
cùng chỉ nghe rất gấp những hơi thở, dần dần nàng đuối sức, còn anh cũng rã rời, nguôi lịm đi.
Bây giờ, một cảnh phim
mới rất là sống. Thụy hỏi:
-Em còn nhớ
không ?
-Không, em
đã quên.
-Anh không
cho em cười, nói gì nữa hết.
Trên cặp mắt nhỏ bé xinh đẹp, ánh
sáng nụ cười tỏa rộng ra như quần áo của nàng vừa mới buông thả xuống
hết.
Lên giường, anh vồ vập, tham lam như
con thú. Nàng không cất nổi tiếng cười cho bùng vỡ phút giây điên loạn,
nàng
cũng không khóc, nhưng trong sự đau đơn, nàng thèm được nghe tiếng mình
la hét.
Rồi nàng ngồi trở dậy, nói nhỏ với
anh:
-Em mệt quá.
-Anh cũng mệt
lắm.
-Anh gắng ngồi
thẳng người lên.
Thụy nghe lời nàng. Nàng đã cúi gục
xuống, dựa đầu lên vai anh.
-Anh đừng
quên em, đừng bỏ rơi em.
-Em mệt, mê
sảng rồi đó.
-Mấy giờ rồi
anh ?
-Bên ngoài,
trời đã tối.
Khi nghe tiếng mưa đập ngoài cánh cửa,
hai người mới thực sự bừng tỉnh.
-Em đói rồi,
đưa em đi ăn.
Hình ảnh nàng qua chiếc áo dài nâu,
đã nhắc anh nhớ lại thời đi học, nhớ lại buổi đầu tiên gặp nàng ở lớp
học. Và,
bây giờ, nàng trở thành người thiếu phụ. Nàng đang ở bên anh, và thực
sự anh
không cần thiết mong mỏi nàng bày tỏ những điều gì khác với anh, hoặc
là nàng.
Khi nàng ra khỏi giường, toàn thân
nàng để lộ hết mọi thứ ánh sáng. Anh muốn nàng lặng yên, đứng đó, không
dời bước
nữa. Từng cái một, anh mặc lại đủ tất cả quần áo của nàng.
Hai người rời căn phòng giữa tầng
hai của khách sạn, xuống dưới đường trong lúc trời mưa nặng hạt. Chiếc
taxi đưa
họ đếm một quán cơm của người Hà Nội ở trên đường Gia Long, gần một ngả
sáu.
Mưa chóng tạnh, lúc xe vừa ngừng trước
tiệm ăn. Hương vị của Sài Gòn trong mưa, cả trong đêm nữa như mang nỗi
nhớ nhà.
Một lúc sau, vào bữa ăn, hai người cảm thấy thật hạnh phúc. Trong quán,
giờ này
bắt đầu thêm đông khách, vừa nhộn nhịp.
Trên
đường tản bộ tìm đến một tiệm cà phê, nàng nói:
-Em và Duy sẽ
bỏ nhau.
Thụy im lặng. Một giọng nói hơi lạ,
bởi nghe tiếng cười trỗi dậy. Nàng vẫn để bàn tay mình trong bàn tay
của người
bạn.
-Anh có tính
nhảy vào không ?
-Không.
Trong hương đêm dậy thơm mùi vị của
nước mưa đọng và cây lá tươi ướt, Thụy cố sắp xếp một đoạn văn mà lúc
này anh
chợt nhớ nghĩ đến kỳ lễ Phục Sinh đã qua rồi, trong năm đó.
Buổi chiều, Thụy tìm đến nhà Thúy Hà
và không thấy có Duy. Duy vẫn còn đang ở Huế. Thụy luôn nghĩ nhiều đến
Duy khi
anh được gặp Thúy Hà. Về nàng, giống như các bài toán hình học, mỗi
người nàng
có một cách. Và khi nàng đã giải xong, cách nào bạn cũng thấy hợp lý.
Từ buổi đầu gặp Thúy Hà, sau đó là
Duy, Thụy vẫn luôn xét đoán mình với một sự tự tin thật xác đáng. Khi ở
bên cạnh
Thúy Hà, anh coi nàng là của mình. Buổi chiều ấy Thụy ở chơi nhà Thúy
Hà, trên
căn gác với nàng, ngắm một bức tranh khỏa thân của nàng vẽ, rất là
giống nàng
qua sự hiển hiện chính nàng trước mắt anh bằng xương thịt. Một cảnh
phim quá
tuyệt vời. Nàng bảo anh im lặng, tuyệt đối im lặng. Đứng xa anh một
mét, mỗi cử
chỉ, mỗi dáng dấp lúc nàng thả cho quần áo vừa cởi bỏ rơi xuống, Thụy
càng thấy
mình ngơ dại trong một cảm xúc quá căng đầy một cuộc sống do bao nhiêu
hơi thở
dồn ép. Khi vẽ xong bức tranh, nàng cho anh bước lại gần. Và anh nhẹ
bước, tới
gần nàng, lặng lẽ quì xuống, mắt chăm chú vào một cánh hoa và đã nhìn
nó thật
lâu, rất lâu, vẫn thấy cánh hoa vẫn bất động, vẫn thấy nó không nghiêng
mình, cũng không nghe nữa tiếng động lào
xào của những ngọn gió. Đến lúc, anh áp môi vào cánh hoa, hai tay nàng
buông xuống,
vừa nhẹ và chắc chắn, nàng nắm giữ vai anh, mỗi lúc chặt hơn để anh
đừng bị run
rẩy, té ngã.
Ngày hôm sau, Thụy ra Huế. Anh có
hai tuần lễ nghỉ Phục Sinh với gia đình. Suốt lộ trình xe chạy, anh nhớ
nghĩ đến
Liên An đã cho anh một cái tình yêu thương, và quí giá vô ngần. Liên An
như là
một thành phố nhỏ bé trong linh hồn của Huế, nhớ tới cô em gái, Thụy
như đang
ngửi thấy mùi vị thơm của trái hòa dịu với nắng, đó cũng là lúc, mùa hạ
sắp về
tới.
Vừa xuống bến xe ở phố chính bên chợ
Đông Ba, sự tình cờ Thụy gặp Duy. Một người lên tiếng hỏi:
-Anh cũng
nghỉ Phục Sinh hai tuần.
-Không, ít
này thôi. Anh có đến nhà Thúy Hà không ?
-Có, chiều
hôm qua.
-Ngoài này,
nhà anh ở đâu ?
-Ở gần nhà
ga, đường Huyền Trân.
Người tài xế lên tiếng báo cho hành
khách biết xe sắp chạy. Duy vội vàng bắt tay Thụy, vừa nghe người bạn
nói:
-Nhớ lên nhà
tôi nghe.
-Rồi.
Thụy tìm đến thăm Liên An thường lệ
vào giờ buổi chiều. Nhưng sau mấy ngày đầu, Thụy lo chuyện học.
Duy trở ra Huế sau mấy ngày nghỉ vào
Đà Nẵng. Anh tìm đến nhà Thụy, rủ bạn đi uống cà phê. Hai người đến
quán bằng
xe đạp. Quán nằm trong khu thành nội, rất đông khách vào buổi chiều và
tối.
Duy hút thuốc đã lâu, nhưng cái vẻ
ngập ngừng trên ngón tay, trông anh như mới bắt đầu tập hút.
-Về với Thúy
Hà vui không ?
-Tôi và cô
có đi Hội An.
-Đi trong
ngày.
-Ờ, đi biển
Cửa Đại.
-Có ăn mì Quảng
hay cao lầu trong đó không ?
-Sao mà thiếu
được.
-Cà phê đây
uống cũng được.
-Anh học
cùng chung lớp với Thúy Hà.
-Cùng lớp,
khác ban.
Duy nói:
-Năm nay mà
thi rớt, tôi bị kêu đi Thủ Đức.
-Còn tôi mà
rớt, số phận thảm hơn anh.
-Có gì bi
quan vậy.
-Thực mà.
Tôi rớt, chỉ có đi hạ sĩ quan.
-Thời chiến
tranh, quan hay lính, có hơn gì nhau.
-Cũng khác
chứ. Anh ra trường Sĩ quan, mau chóng lên lon.
-Tôi vẫn
thích đi dạy học, tốt hơn.
-Anh có thi
vào trường Sư phạm không ?
-Có, nhưng
không đậu nổi.
Ngồi lâu chừng một tiếng, thấy trời
đẹp hai bạn rủ nhau đi chơi phố. Duy trả tiền cà phê. Rời quán, hai
người đạp
xe chậm trên những con đường nhỏ, yên tĩnh trong nội thành.
-Anh quen với
Thúy Hà lâu chưa ?
-Cô ấy,
không kể hết chuyện cho anh nghe sao ?
-Không, về
anh. Những lúc chuyện trò, cô hay nói về miền Bắc, về tỉnh Quảng Trị
hồi gia
đình mới đến trong những năm đầu di cư.
Một giọng bình thản, Duy nói:
-Trước đây,
cô đang là bồ với bạn tôi.
-Rồi, sao mà
rớt nhanh vào tay anh ?
-Tôi giấu biệt
thư đứa bạn gởi, không đưa.
-Chắc anh
đánh cờ hay lắm ?
-Ông chơi cờ,
khá không ?
-Biết thôi.
Người bạn ông nay ở đâu.
-Trốn ra
bưng rồi.
-Trong biến
cố nào.
-Thời đấu
tranh ông Diệm.
-Ông còn biết
tin tức không ?
-Không.
-Thực sự,
ông quen với Thúy Hà ra sao tôi biết rõ.
-Tôi cũng
nghĩ vậy ?
-Rồi phần
tôi, thì sao ?
-Ông đang trồng
cây si trước nhà nàng ?
-Ông có thấy
cây tôi trồng ra trái không ?
-Không.
-Ông đừng chủ
quan.
-Anh mà yêu
nàng, ngày đêm chỉ có tương tư thôi.
-Nàng là một
cô gái rất cởi mở.
-Chưa đủ.
-Rất là quyến
rũ. Trên cặp mắt nàng, có sức hút của nam châm, lạ lùng lắm.
Duy cười thật sảng khoái. Hãy nên
yêu kẻ khác như là mình vậy. Thụy cũng chẳng ngán, anh sẵn sàng đáp trả
ngay, nếu
Duy có ngầm ý, hoặc dễ coi thường bạn. Nhưng Duy vẫn rất thẳng thắn,
lại còn hiểu
cả hai người, về mối liên hệ tình cảm của họ đã không có chút giấu
diếm. Và,
cũng chẳng cần Thụy phân bua, Duy biết, gia đình Thúy Hà coi Thụy như
là người
con nuôi quí trọng, đến anh sau này cũng phải phục tòng.
-Bây giờ,
anh lên nhà tôi chơi, Thụy nói.
-Anh đến nhà
tôi trước, xong chơi thử một ván cờ.
-Hay lắm.
Nhà Duy ở đường Hàn Thuyên. Về tới
nhà, xe đạp của Duy và Thụy cùng dựng bên hàng hiên. Bà chủ nhà đang ăn
trầu,
Thụy lên tiếng chào.
-Anh ở đây
lâu chưa ?
-Từ ngày ra
Huế học .
Căn nhà dài, rộng rãi, thoáng đãng.
Phía trông ra đường có mái hiên, cái bàn vuông để trống. Sau lưng nhà
là căn vườn.
Thụy chỉ đứng bên cửa trông qua chỗ ở của Duy, anh vào không vào phòng
riêng chỗ
của bạn thuê ở. Một lát sau, Duy đem bàn cờ ra, hai người tới đặt cái
bàn vuông
dưới bóng cây.
-Gia đình ở
ngoài này, sao anh học ở Đà Nẵng ?
-Tôi vào
trong đó ỡ với bà dì.
-À, ở Đà Nẵng
anh có nhà quen.
Duy nhường cho Thụy đi trước. Sau một
vài nước ra quân, Thụy nhận ra Duy đánh cao hơn mình. Trong lúc chơi cờ
Thụy nhớ
đến Liên An. Cô gái cũng đành chấp nhận cái tên anh yêu thương mà đặt
cho nàng.
Từ một buổi trưa hè, cô gái ngồi giặt áo
bên bến sông. Tất cả những ngày tháng đó, cô gái chỉ nói với anh về câu
chuyện
một dòng sông. Rồi, khi chợt thấy mùa hè, anh lại rằng mùa
hè đã quá muộn.
-Anh học
trong đó, vui không ?
-Vui hơn
ngoài này.
-Anh có bạn
gái rồi.
-Không, anh
đâu có.
-Đừng nên giấu
em.
Duy đưa con ngựa qua sông, phía bên
trái. Một cây diêm bật sáng, Duy châm điếu thuốc.
-Thúy Hà rất
cởi mở, nàng hay nhắc đến anh luôn.
Thụy đáp lời:
-Lúc này
nàng chưa là vợ anh nên chúng ta còn chơi cờ được.
Nhìn mắt Thụy, Duy nói:
-Tôi đã gắn
bó với nàng, nhưng tuổi trẻ không quá nên lụy vì tình. Còn phải nghĩ
cuộc sống
thực tế nữa.
-Anh nói
đúng. Và, anh đừng bắt nàng chờ đợi quá lâu ?
-Nàng vẫn là
thế, anh ạ.
-Anh nói sao
?
-Không chừng,
tôi sẽ thua anh.
Thụy cười.
-Anh đánh cờ
hay lắm. Tôi không thắng nổi anh đâu.
-Đây chỉ là
chơi giải trí thôi. Thực sự, tôi là con bạc. Trong đỏ đen, có lúc tôi
không vực
dậy nổi.
-Anh là một
người hiền, rất tốt.
-Tôi cũng rất
thích cuộc đời có đôi chút tiểu thuyết.
Tối hôm ấy trời có trăng. Hai người
bạn vẫn cảm thấy, những chuyện riêng của mình nói ra chưa hết. Vậy nên,
Thụy
đưa Duy ra ngoại ô, vào một quán ăn bình dân. Sau bữa ăn, Thụy trả tiền.
Hết kỳ lễ Phục Sinh, Thụy trở vào Đà
Nẵng. Sau năm học đó, kỳ lễ Phục Sinh không còn được là một mùa lễ kéo
dài lâu
đến hai tuần nữa.
Thời gian qua đi, với biết bao nhiêu
đổi thay. Thúy Hà bỗng nói;
-Em và Duy,
rồi cũng đến lúc tan vỡ.
-Nhưng có lý
do, em và Duy hay ây gỗ nhau.
-Em không chịu
nổi phía bên gia đình của Duy.
-Có một người
chị trong đó, phải không.
-Bà chị của
Duy, lúc nào cũng chống đối em.
-Còn Duy,
không bảo vệ cho em sao ?
-Không, anh
ta sợ.
Hai người chợt cảm thấy lạnh. Vào
trong quán cà phê, họ hơi nóng ấm tỏa khắp. Vào giờ này uống cà phê mất
ngủ,
nhưng Thụy và Thúy Hà vẫn cứ uống.
Thụy nói:
-Anh chờ đợi
em, lâu đến bao nhiêu năm, anh vẫn luôn nghĩ là có em.
-Tùy anh,
Thúy Hà nói.
IX
Sau buổi họp ban, Thụy được nghỉ ca
để về nhà chuẩn bị cho chuyến đi hành quân ngày mai lên căn cứ Vên Vên
nằm sát
biên giới Miên Việt, đây là bản doanh của Sư đoàn dù, và anh sẽ đi cùng với người trưởng toán là Trung úy
Ngoạn. Trung úy Ngoạn cũng có nhà ở Sài
Gòn, nên Thụy xin quá giang theo ông bằng xe Honda, đi ngang nhà thờ
khu Thị
Nghè ông thả cho anh xuống, từ chỗ này anh đi bộ về nhà trọ.
Vừa thấy Thụy bà chủ nhà ngạc nhiên,
anh liền cho bà ta biết về chuyến đi xa, vắng nhà từ một tuần đến mười
ngày, nếu
có ai tìm nhờ bà hỏi tên và địa chỉ . Trong đôi mắt thoáng lo ngại, bà
nhìn
anh, và lắng nghe kỹ những điều căn dặn.
Lên phòng, Thụy xếp lại chăn màn, ngồi
xuống giường nghĩ tới chuyến đi lên vùng hành quân .
Một lúc sau, Thụy bắt đầu soạn đồ,
đem đi mấy bộ quần áo, khăn mặt, kem, bàn chải đánh răng, mùng và chăn
đáp. Tất
cả, anh cho hết vào cái ba lô vừa lấy ở
móc treo xuống.
Xong việc, Thụy rời khỏi nhà tìm đến
quán hủ tiếu đầu ngõ . Khách ngồi đông, Thụy gọi tô hủ tiếu, ăn xong,
anh đứng
dậy trả tiền và đi qua quán cạnh bên uống cà phê. Loại cà phê bít tất
pha rất
nhanh, Thụy uống cà phê và lấy bánh tiêu để trên dĩa chấm vào cà phê ăn
cho có
mùi vị béo. Coi như bữa ăn sáng này thế
ăn trưa. Thụy ăn no, thở nhẹ hơi , nhưng
vẫn còn ngồi nán lại hút điếu thuốc.
Khi rời quán cà phê, Thụy đi bộ
thong thả và có ý định xuống Sài Gòn bằng
xe buýt. Đi ngang quầy vé số, Thụy móc ví
lấy mấy tấm vé đã mua đem ra dò, không có vé nào
trúng cả. Thụy xé mấy
vé trật vứt xuống đường, xong mua hai tấm mới sẽ xổ vào ngày mai.
Còn một tuần nữa mới tới kỳ lương.
Trong ngăn ví , tiền đã gần cạn nên Thụy đang cảm thấy lo.
Trạm xe buýt đi Sài Gòn nằm bên kia
đường, đối diện nhà thờ. Thường lệ, xe buýt trên đường này xuống Sài
Gòn, mười
phút là có chuyến đến. Đôi lúc, Thụy bị đãng trí, quên ngày, quên
tháng. Và anh
như hiểu ra rằng, sự kiện này do những mặc cảm bị ức chế từ bao nhiêu
thất bại
trong chuyện học hành của mình. Xe buýt đến rộng rãi nên có ghế ngồi.
Thụy xuống
phía dưới, ngồi ghế bên cạnh lối cửa lên xuống.
Xe chạy, Thụy nhìn đồng hồ tay đã gần
mười giờ. Dọc con đường này có nhiều trạm, nên xe chỉ chạy vài trăm mét
là ngừng lấy khách. Rồi , dần dần khách
lên đông. Thụy
trông thấy một người khách có vẻ quen, nhưng không hỏi, vì không nhớ
tên. Bên
ngoài, đường phố nhộn nhịp, đông xe đạp, xe gắn máy, người đi bộ.
Quanh trung tâm Sài Gòn, những con
đường ở phía ngoài đường nào cũng trồng nhiều hàng cây. Đường Nguyễn Du
trồng
me, đường Công Lý, Nguyễn trung Trực, Pasteur, trồng cây sao, cây bồ đề
và có cả
cây phượng.
Bến chính xe buýt nằm đối diện với
chợ Bến Thành, gần nhà ga xe lửa, nay dùng
làm trạm hàng không. Ở Sài Gòn, cũng có đường ray tàu điện như ngoài Hà
Nội
nhưng nay không dùng nữa. Thụy vẫn còn ghi nhớ những cảm giác trong
tuổi thơ của
mình về nhà ga Sài Gòn ngày đầu tiên đặt chân xuống thành phố này vào
một buổi
sáng sớm thành phố vừa thức giấc. Thụy nhớ mình thật thích thú khi được
thấy thủ
đô Sài Gòn. Và, lúc đó, Thụy ước mong được nhìn thấy sân banh Tao Đàn,
sân banh
Cộng Hòa, vào hai ngày cuối tuần sẽ được xem những trận cầu quốc tế
giữa đội
tuyển Sài Gòn và các nước khác trong khu vực Á Châu, hoặc Châu Âu. Thụy
rất yêu
thích môn bóng tròn, anh cũng đã là cầu thủ trong đội bóng học sinh lớp
nhỏ của
trường Nguyễn Hoàng. Trước khi biết Sài Gòn, những trận đá bóng quốc tế
anh đọc
qua các nhật báo, và nghe tường thuật trực tiếp trên đài phát thanh của
ký giả
Huyền Vũ .
Xe vào bến giữa cảnh náo nhiệt, ồn
ào. Bọn trẻ bán báo dạo, những người bán quà rong, các chuyến xe về
bến, các
chuyến xe bắt đầu đi, và lúc này, vẫn rất đông hành khách ở trạm đứng
chờ những
chuyến đi ra vùng ngoại thành.
Từ bến Thụy đi bộ, nhưng cũng chưa định
rõ mình sẽ đi đâu. Lúc này đã là giờ cao điểm sinh hoạt của thành phố.
Sài Gòn
ngày nào cũng náo nhiệt, xô bồ, luôn tạo nên sự phấn khích , ham muốn
có cuộc sống.
Những người quen sống ở Sài Gòn, đi đâu xa vắng chỉ một hai hôm là rất
nhớ
không khí Sài Gòn, ngày cũng như đêm. Thụy không là người miền Nam,
người ở Sài
Gòn, nhưng thành phố này là của tuổi trẻ. Thụy thích không khí buổi
sáng ở những
quán bán hàng rong bên đường. Vào buổi trưa, trong sự lắng yên của
tiếng động ,
Thụy luôn có cảm giác dễ chịu một mình lang thang qua những cửa hàng
bán sách
báo cũ trên vỉa hè. Anh cũng rất thích buổi chiều trời mưa, ngồi trú
mưa trong
một quán cà phê nhìn ra ngoài, luôn trong tâm hồn anh có những ý nghĩ
hay lạ về
những ngưới bạn từ đâu xa đến thành phố này để tìm mình. Trong mưa, cây
lá trên
đường phố lúc nào xanh tươi, đẹp, gợi cảm sự ướt át trên một gương mặt.
Về đêm
tối, Sài Gòn đúng là hòn ngọc, đèn đô thị sáng khắp nơi, và ở đâu cũng
nghe vọng
tiếng nhạc phòng trà khiến bạn không thể ngồi yên ở nhà được.
Ngang qua sạp báo, Thụy ghé vào mua
một tờ rồi tiện thể đứng ngay đó đọc cọp những báo khác.
Thụy bỗng nhớ có truyện ngắn đã gởi đăng ở tuần
báo Tiểu thuyết thứ năm, liền vội tìm báo này mở ra xem ở mục hộp thư.
Không thấy
có, Thụy về trang đầu và niềm vui đến với anh thật bất ngờ. Trong mục
lục, có
truyện ngắn của anh được đăng.
Hết sức là mừng, vội vàng Thụy bước
nhanh chân. Ý nghĩ đầu tiên là có tiền nhuận bút, từ
con phố anh đang đi đến tòa soạn, không mấy
xa. Khi Thụy đến, phòng ngoài có hai người
khách ngồi chuyện trò với nhà văn Thanh Thủy. Vừa trông thấy Thụy, ông
giới thiệu
ngay tên anh với nhà thơ Tường Linh và nhà văn Sơn Nam. Cả hai, người
nào cũng
đeo kính trắng.
Thụy kéo ghế ngồi chuyện trò, và để
khích lệ người viết mới ông Thanh Thủy nói nhiều đến những truyện ngắn của anh được chọn đăng. Khung cảnh và không
khí làm việc ở tuần báo này rất là quen thân, dễ chịu. Ngày mới đến Sài
Gòn, Thụy
có làm việc ở đây hai tháng trước khi chọn con đường đi lính vào chuyên
viên
Không Quân. Và sự chọn lựa của anh thực sự là điều may, vì ra quân
trường Nha Trang
anh chỉ học ba tháng, xong về làm việc ở Sài Gòn, phục vụ
bên phi đoàn 217 trực thăng rồi chuyển qua
báo Lý Tưởng, và nhờ làm việc cho báo này anh tạo được bút hiệu, viết
được nhiều
truyện ngắn, bút ký, đăng ở báo ngoài để lãnh tiền nhuận bút. Có những
tháng,
truyện ngắn đăng nhiều, anh dành dụm số tiền này cộng với tiền lương
lính, gởi
về Huế cho mấy em anh ăn quà, mua sách học. Thụy thật
có tâm hồn nghệ sĩ, lãng mạn, nhưng anh
cũng rất chừng mực, không bừa bãi để chỉ biết vui cuộc sống hôm nay,
chẳng dự tính ngày mai.
Hai ông nhà văn và nhà thơ nói chuyện
về những sách mới xuất bản trong tháng này, và họ cũng nói đến giải
thưởng văn
học của Hội Văn Bút. Ở hội này, hàng tháng có ra tờ Tin Sách, hàng năm
có giải
thưởng văn học, và vị Chủ tịch của hội rất uy tín, đó là Linh mục Thanh
Lãng,
giáo sư Đại Học dạy ở trường Văn Khoa.
Khi ông Quản lý tới, hai người khách
đứng lên theo ông lên phòng làm việc ở cầu thang, còn Thụy ngồi lại với
ông
Thanh Thủy.
-Công việc của
em lúc này sao ?
-Em ở Biên
Hòa, nhưng cũng có được thì giờ viết lách.
-Cố gắng đi,
viết được gì đưa cho tôi.
-Ông in được
bao nhiêu cuốn sách rồi ?
-Sáu cuốn.
-Em cũng ước
mơ có tác phẩm xuất bản.
-Em hãy viết
truyện ngắn thêm một thời gian, rồi khởi sự viết tiểu thuyết. Tới lúc,
bắt đầu
tiểu thuyết, nghề văn đã hình thành.
Thụy lắng nghe hết những lời nhà văn
nói, xong anh từ tốn đáp:
-Em vẫn viết
truyện ngắn thôi. Về tiểu thuyết, em nghĩ là mình cần nhiều đến kinh
nghiệm sống
và khả năng trong nghề văn.
Hai người khách kia xuống, đến lượt
ông Thanh Thủy bảo Thụy lên lấy tiền nhuận bút.
Thụy
đứng lên, và khi bước qua những bậc cầu thang gỗ anh
cảm thấy hồi hộp.
Ông Quản lý thật vui vẻ , đón tiếp .
-Lâu nay, thấy
vắng anh.
-Tôi làm việc
trên Biên Hòa.
-Công việc
ra sao ?
Thụy cầm điếu thuốc Lucky ông mời,
và kể sơ lược cho ông nghe về những việc anh làm ở đơn vị. Hết sức chú
tâm lắng
nghe, Thụy kể xong, ông gật đầu.
-Anh viết những
truyện ngắn hoặc là bút ký, phóng sự trong đời sống quân ngũ đi.
-Ngày mai
tôi lên vùng hành quân.
-Đi lâu
không ?
-Chừng một
tuần đến mười ngày.
-Ghi nhận
vào sổ tay, và viết bài cho báo của tôi.
Thụy quá vui mừng hớn
hở. Ông tiếp lời:
-Anh đã viết
khá. Tiền nhuận bút lần này được tăng.
Thụy
có được năm trăm cho truyện ngắn vừa đăng. Ngồi trò
chuyện với ông chốc
lát, Thụy đứng lên kiếu từ. Khi xuống nhà,
Thụy ghé qua chỗ cô Thư ký nhận báo biếu. Cô Hoa làm
việc cho tòa soạn
đã lâu năm, dạo làm ở đây Thụy có phụ giúp cô trong việc phân phối phát
hành
báo. Báo Tiểu thuyết Thứ Năm in mỗi kỳ 5000 số, phát hành riêng Sài gòn
là
2000, còn lại đưa đi các tỉnh.
Ông Thanh Thủy hỏi:
-Lãnh tiên
chưa ?
-Dạ rồi.
Thụy
cũng cho ông hay về chuyến đi công tác ngày mai. Ông
nhìn anh, trong cặp
mắt tỏ lộ một niềm tin cậy về thế hệ mới của những người viết trẻ.
Ra khỏi tòa soạn, lòng
Thụy vui lên với món tiền nhuận bút bất
ngờ. Thoáng có ý định xuống nhà dì Hồng, nhưng rồi, Thụy nghĩ thôi và
từ tòa soạn
anh về khu phố Lê Lợi , và sẵn dịp, tìm kiếm mua một ít sách báo cũ. Vì
nghĩ
mình viết văn còn kém, khả năng ngoại ngữ còn yếu, nên mỗi khi gặp các
tạp chí
cũ và những truyện dịch bán xôn Thụy đều mua để đọc, để học về cách cấu
trúc
câu chuyện và lối hành văn.
Trên đường đi, Thụy nhớ Thúy Hà lạ
lùng. Nàng đến thành phố này với một khuôn mặt đầy ánh sáng giữa những
ngày
mưa. Nàng đã cho anh có được mối tình của nàng qua âm thanh trong tiếng
nói của
nàng với từng câu chuyện kể. Và, như thế đó, tình anh yêu nàng qua từng nỗi nhớ nhung là một lần như cảm thấy
hao hụt.
Khi đi ngang rạp hát Vĩnh Lợi, Thụy
dừng lại chốc lát đứng xem biển quảng cáo. Rạp đang chiếu phim Le repos
du
guerrier. Hai tài tử đóng phim này là Robert Hossein và Brigite Bardot.
Thụy
nhìn qua khung lưới, nhìn thật lâu vào những tấm ảnh của BB trong mỗi
cảnh
phim. Thụy thích vẻ đẹp của BB. Thụy thấy
cô đào này có vẻ đẹp dễ thương, vừa trẻ thơ.
Bỗng dưng vừa mới quay gót trở ra,
Thụy nhìn thấy thành phố sáng lên giữa một vùng nắng mênh mông trải
rộng từ dãy
bên này qua tới bên kia. Thụy đã trông thấy nắng tràn vào thành phố
thành những
dòng sông. Trong lúc này tình cảm lãng mạn đến với anh quá bất ngờ,
chẳng qua,
nó mong muốn được làm vơi dịu trong lòng anh những nỗi buồn. Từ hôm
Thúy Hà từ
biệt đến nay đã hơn một tuần. Có nàng, Duy coi anh là người bạn. Nhưng
nàng đã
đi xa, giờ đây, giữa Duy và anh như không còn mối liên hệ mật thiết
nữa. Tuy nhiên,
Duy sẽ hiểu anh là một người bạn cần thiết trong mối quan hệ hoặc có sự
giúp đỡ
nhau. Thụy cũng lạ là giữa Duy và Thúy Hà luôn cãi nhau, giận lẫy nhau,
rồi làm
hòa ngay sau đó. Về phần mình, Thụy thật khó nói nên lời. Nàng biết anh
yêu
nàng, đã khóc thầm với mối tình , vậy mà, rất nhiều lúc nàng muốn nói,
bỗng
dưng ngừng lại. Không phải do bản tính rụt rè, nhưng có lẽ rằng, nàng
quá thấu
hiểu một mối tình lặng câm, vừa chua xót của hai người.
Một quầy sách lớn xuất hiện, nó ở cạnh
hiệu thuốc tây đang bày ra những sách vừa mới xuất bản trong tuần. Thụy
vừa dừng
bước , đã thấy choáng ngợp. Sách mới, in rất đẹp, nhưng giá tiền đắt.
So với
các hiệu sách bên kia đường, thì ở đây, bạn mua sách được bớt từ 30 đến
40%
trên giá bìa. Những cuốn tiểu thuyết dịch trưng phía ngoài, nằm ở hai cánh bên với các tựa
Một thời để yêu, một thời để chết, Mùa thu lá
bay, Về miền đất hứa, Người vợ cô đơn, Dừng cơn gió loạn
thật là hấp dẫn, bắt mắt, thu
hút sự tò mò của Thụy. Nhưng rồi, anh đã
có sẵn ý nghĩ, đợi một thời gian vài tháng sau nó sẽ xuất hiện trên
những hàng
sách cũ bán xôn.
Bên kia ngã tư, dọc từ dãy quán đầu
đến gần trụ sở Quốc Hội, phía này thuộc khu vực những gian hàng buôn
bán sách,
báo cũ. Hồi mới vào , Thụy mua được những sách giáo khoa về Triết và đã
gởi những
sách này về cho Thúy Hà học.
Thư nàng viết hồi âm cho anh ngay
sau khi nhận được sách. Lá thư thật dễ thương, cảm động. Và, từ ngày đó
quen
nhau qua buổi học đầu tiên, những kỷ niệm gì của nàng, Thụy đều cất giữ
bằng cả
tấm lòng một người bạn.
Có tiếng còi hụ giờ trưa vang lên.
Ngoài đường, xe qua lại như mắc cửi. Những quán ăn , quán nước bên
đường đông
khách tới ngồi. Tại gian bán sách đầu tiên, Thụy ngồi xổm xuống, mắt
tìm kiếm
những sách được trưng bày. Nhưng ở đây chỉ có báo Nhân Loại, Tân Phong,
và hầu
hết là sách giáo khoa trung học.
Thụy đứng lên, sang quán bên cạnh.
Có hai số báo Sáng Tạo cũ, và cuốn truyện dịch Mặt trận miền tây vẫn
yên tĩnh.
Rồi bất ngờ, anh tìm ra tập truyện Mưa của nhà văn người Anh Somerset
Maugham. Khi người bán cho giá, anh kỳ
kèo và được bớt chút ít. Anh bán sách cũng bằng lòng, rồi lấy những
sách Thụy
đã chọn cho vào túi nylon. Khi nhận sách anh ta đưa, Thụy nói lời cám
ơn.
-Hút điếu
thuốc cho vui.
Thụy cầm điếu thuốc Mélia vàng anh mời,
đứng hút và chuyện trò với anh ít phút.
-Anh là người
Qui Nhơn hay Tuy Hòa ?
-Anh đoán
sai. Tôi ở Nha Trang.
-Tôi cũng mới
ngoài đó về đây.
-Anh làm gì
ngoài đó ?
-Thì đi
lính. Tôi là lính Không Quân.
-Vậy hả. Anh
chịu khó đọc sách.
-Ờ đọc giải
trí cho vui.
-Những sách
báo anh mua rất là hay.
-Tôi cũng mê
đọc truyện.
-Anh có mê
kiếm hiệp không ?
-Không mê lắm,
nhưng có đọc vài bộ.
Người đàn bà trẻ mang cơm đến, Thụy
lên tiếng chào, được anh ta giới thiệu bà xã của anh.
Người vợ nhắc:
-Anh ăn cơm
đi.
Anh ta nhìn Thụy, nói:
-Khi nào cần
mua sách gì, ghé đây nghe.
Thụy
gật đầu. Ở gian sách kế bên, bán sách báo ngoại ngữ.
Thụy lướt mắt nhìn
thấy hầu hết là sách báo chuyên môn, khảo cứu. Có ở gian hàng này những
báo Thế
Giới Tự Do, Đối Thoại, Triển Vọng và Văn Hóa Á Châu.
Thụy
không mua gì cả. Rồi bất chợt anh nhớ ra một lần
trước có mua một ít
sách về hội họa gởi cho cô Thiên Nga, thì bây giờ, anh thực sự mong đi
tìm ra
được những loại sách đó.
-Ủa, mày đi
đâu đây ?
-Anh Dương.
-Kéo chiếc
ghế con ngồi đi.
Thụy ngồi xuống ghế, đưa mấy cuốn
sách vừa mua cho anh xem. Anh coi qua từng cuốn, còn người đàn bà đang
bán sách
cho khách hàng.
-Chào chị,
Thụy lên tiếng.
Người đàn bà đáp lời , nhìn
Thụy vẻ dò xét, vừa tỏ ra thân thiện.
Anh Dương hỏi:
-Lâu nay,
mày làm ở đâu ?
-Em làm trên
Biên Hòa.
-Không đoàn
23.
-Không, em
làm bên ASOC.
Thụy cầm điếu thuốc anh mời, tiện hỏi:
-Quán sách
này của anh ?
-Ờ , của
bà đây.
-Hôm nay anh
được nghỉ.
-Làm gì,
chút nữa tao tới nhà in.
-Báo Lý tưởng
in xong chưa ?
-Đang in, gần
xong.
-Lúc này,
anh có viết thêm cho báo nào không ?
-Có. Anh
đang đi feuilleton cho báo Độc Lập.
-Truyện dài
mới.
-Truyện mới.
Hôm nay , kỳ thứ mười.
-Em không
hay.
Anh Dương đưa Thụy tờ
báo Độc Lập. Thụy mở trang trong, thấy
truyện dài Người Lính Hào Hoa.
-Cuốn này
đúng đề tài của anh.
-Mình phải
viết, chứ mấy ông phi công bận đi bay đâu có thì giờ.
-Em sẽ theo
dõi truyện dài của anh.
-Ờ, tao
viết cũng để kiếm tiền.
Thụy không hỏi thêm, nhưng lúc này dễ
dàng nhớ lại những buổi đầu làm việc với anh ở phòng báo chí. Khi Thụy
vừa đến quân trường, báo Lý tưởng ra mắt.
Báo được
phân phối, Thụy đọc thấy hay, sau đó, anh lấy một truyện ngắn viết
trong Đặc
San gởi về Tòa soạn. Truyện ngắn anh được đăng, có sửa chữa một vài chi
tiết kể
cả câu văn. Người sửa là anh Dương đây. Anh Dương là nhà văn tên tuổi
trong
quân đội, trước khi theo nghề báo anh làm việc bên ngành Không lưu.
Thời trước
đi lính, anh qua Pháp học ở trường Cơ khí Rochefort như Thượng Sĩ
Trạch. Về nước,
vừa làm việc, anh vừa viết văn cho các báo Thần Chung, Nhân Loại, và
khi tờ Lý
Tưởng ra mắt, anh là người đầu tiên được vị Tư lệnh để mắt đến. Về phần
Thụy,
mãn khóa tân binh anh về Không đoàn 33, do có chỉ số hành quân nên sau
khi
trình diện bên Liên đoàn tác chiến, anh được đưa đến làm việc ở Phi
doàn trực
thăng 217. Trong giấy tờ, chức vụ của anh là thư ký hành quân, nhưng
thực sự,
công việc chẳng có gì là quan trọng cả. Thụy và một bạn cùng khóa - Tài, hai đứa làm thay ca, hàng ngày, những công
việc
linh tinh như gọi đài khí tượng để ghi tin tức thời tiết, sau đó, làm
phần hành
ghi sổ trực những phi vụ hành quân từ Liên đoàn tác chiến gọi tới, cho
đến đầu
hàng tuần lập danh sách cơ hữu về nhân viên và phi cơ, cuối tháng là
cộng giờ
bay cho các phi công.
Không khí làm việc ở phi đoàn thoải mái,
dễ chịu. Các phi công đều còn trẻ, từ cấp bậc Chuẩn úy đến Trung úy,
mỗi ngày, ở
phòng hành quân thường có đến mười phi công trực, ban đêm tăng cường
một số nữa.
Ở phi đoàn trực thăng, các phi vụ thực hiện là tiếp tế, tản thương, và
đổ quân.
Thụy có được những dịp trò chuyện với các Sĩ quan trẻ nên được hiểu
biết thêm về
phi công và phi cơ, được nghe những câu chuyện các phi công này trong
những phi
vụ ngoài chiến trường, và có hai lần Thụy theo chuyến bay, một chuyến
xuống Cần
Thơ đưa người tăng phái, và một chuyến tản thương đêm ở chiến trường
Hậu Nghĩa.
Sau phi vụ này, Thụy có viết được một
truyện ngắn và một bài phóng sự, cả hai được đăng lên báo Lý Tưởng. Nhớ
bài báo
trên, Thụy được gọi về báo Lý tưởng, và được làm việc chung với anh
Dương một
thời gian, nhưng rồi, lại rời Sài Gòn trở ra Nha Trang học đúng theo
ngành
chuyên môn của chỉ số ấn định.
-Ngày mai em
đi biệt phái .
-Ở đâu.
-Tây Ninh.
Thụy thèm cà phê, liền đứng lên gọi.
Người bán quán bên kia nghe Thụy gọi hỏi bao nhiêu ly, Thụy nói ba,
nhưng chị
Dương không uống. Thụy cười nói với anh
Dương:
-Em mới lãnh
nhuận bút, mời anh ly cà phê.
Anh Dương gật đầu. Chị Dương cũng cười,
vui mắt nhìn qua Thụy. Anh Dương nói:
-Thụy
đây có viết văn. Làm việc chung với anh ở báo
Lý Tưởng.
Rồi chị Dương nhớ ra, nói:
-Chị có đọc
bài của Thụy.
Người bán cà phê mang chiếc khay
qua, đặt hai ly cà phê ở chỗ Thụy và anh Dương ngồi. Anh Dương hỏi Thụy:
-Em có bằng
Tú Tài sao không xin đi Sĩ quan.
-Em đã nộp
đơn xin đi phi hành .
-Nộp rồi hả.
-Dạ rồi.
Thụy uống một hớp cà phê cảm thấy tỉnh
táo. Anh Dương lấy gói thuốc đưa Thụy một điếu.
-Em đã qua
được sức khỏe.
-Khi nào có
giấy gọi tin cho anh hay.
-Em hơi yếu
về mắt nên chỉ học loại trực thăng.
-Học loại
nào cũng được. Gắng đi, ít năm nữa thành sĩ quan.
-Em cũng thấy
lo.
-Sao mà lo.
-Không biết
nữa, anh cảm thấy vui, nhưng luôn lo lắng.
Hai người im lặng. Anh Dương nhìn đồng
hồ, Thụy biết anh sắp đi nên cũng vội vàng đứng lên. Trước khi đi, Thụy
và anh
còn nói lại chuyện vừa rồi, lúc ấy như tia sáng giúp Thụy cảm thấy có
sự tin cậy
về tương lai của mình.
Ngày hôm sau, Thụy lên đơn vị chờ
chuyến đi. Nhưng cả Thụy và Trung úy Ngoạn chờ đến gần trưa, giờ đó mới
có chuyến
bay Chinook lên vùng hành quân. Tới đây, Trung úy Ngoạn liên lạc về
ASOC, xong
xuôi, ông quay sang Thụy nói cho anh biết là chuyến đi biệt phái kỳ này
kéo dài
đến hai tuần lễ.
X
Lần đầu tiên bà Huyên gặp lại cô
gái, kể từ một buổi sáng hè năm ngoái cô đến đây, mới đó, đã qua hơn
một năm.
Khi còn đứng trên bậc thềm cửa, bà
trông thấy cô gái đang cắt tỉa những ngọn lá, nhánh cây, và chăm sóc
từng cánh
hoa, nhìn bóng dáng thiếu nữ hiện lên trong nắng sớm lòng bà nghe trỗi
dậy một
ni?m thương mến và cảm thấy những giây phút hạnh phúc đang được gửi
tới, riêng
cho đời mình.
Từng bước chậm, bà Huyên đi trong
dáng vẻ an nhàn, tự tin. Với bộ quần áo nhẹ vàng nhạt, khoác ngoài
chiếc áo len
màu cà phê, bà có cái dáng thật cao nhã, đẹp thuần hậu qua mái tóc bạc
trắng,
gương mặt đầy đặn, đôi mắt còn lấp lánh những tháng ngày tìm lại tuổi
thanh
xuân.
Hoa, cây lá, cũng là một thứ tình
yêu giữ rất lâu trong tâm hồn cô gái. Ánh nắng in xuống vai áo hồng của
cô.
Không để ý gì chung quanh, lúc này, cô ngây người ngắm từng bông hoa đã
nở rộng
hết các cánh.
-Chào cháu.
Cô gái hơi giật mình, quay đầu lại.
-Dạ, cháu
chào bà.
-Bà thấy
cháu thật là dễ thương. Cháu đã làm sáng đẹp cảnh trí của nhà bà.
-Cháu rất
thích chăm sóc cây cối, bông hoa.
-Và, cháu
cũng là một cô gái xinh đẹp.
-Cám ơn bà.
Hai người bên nhau trong nắng ấm của
những ngày đầu thu. Những ngày thu luôn mang dáng vẻ buồn dịu dàng,
nhưng thật
mới mẻ.
-Cụ ông khỏe
không bà ?
-Đã yếu đi
nhiều.
-Cháu thấy
bà vẫn còn mạnh.
Bên ngoài, con đường không một chút
vẩn đục. Tất cả nhẹ êm, sáng sủa. Dòng sông chảy hiền hòa, những hàng
cây dọc
theo bờ sông phủ kín lá xanh mướt. Dòng sông trôi đi, trong lúc này ánh
nắng từ
đâu xa tràn tới phủ kín lên chiếc cầu. Đây là khu nhà ga, luôn gần gũi
thân mật.
Ở khu phố này khi có đoàn tàu ở các tỉnh về đến, lúc nào bạn cũng được
nghe nó
báo hiệu một hồi còi vang vọng thật dài và rất lâu.
-Cháu vẫn
thường về thăm nhà ?
-Dạ, cũng có
về nhưng không thường lắm.
Cô gái lễ phép lên tiếng mời bà chủ
vào nhà mình. Yên lặng, bà Huyên theo chân cô gái bước lên bậc thềm vào
nhà.
Căn phòng phòng khách sáng hẳn, những
sự vật bày biện đang lộ ra sự vẻ hớn hở để đón tiếp bà chủ nhà. Cô gái
mời bà
Huyên ngồi xuống chiếc ghế nệm, rồi cô đi ra phòng sau. Một lúc cô trở
lại với
khay trà, và để nhẹ xuống bàn.
Trong khi cô gái rót nước vào tách,
bà Huyên nói:
-Bà rất hài
lòng về cháu.
-Cám ơn bà.
-Cháu tên gì
?
-Cháu tên
Nga.
-Đúng là cái
tên thể hiện con người của cháu.
-Mời bà dùng
nước.
Bà Huyên cầm tách trà lên uống một hớp.
-Nhà vườn có
bông mộc, cháu bỏ vào trà cho thơm.
-Dạ.
-Cháu đi dạy
hay còn đi học.
-Cháu vẫn
còn đi học.
-Cháu học
trường nào ?
-Dạ, trường
Mỹ Thuật.
Bà Huyên gật nhẹ đầu,
ánh mắt lan rộng cả niềm vui. Thật chú
tâm, bà Huyên nhìn những bức
tranh vẽ treo tường. Bà khen cách trang trí của cô gái. Bà nói:
-Cháu chọn
những bức tranh thật dễ thương.
-Những bức này
cháu vẽ lấy.
-Giỏi quá.
Bà ngắm cô gái, đôi mắt bà hạnh phúc
lạ thường. Và, theo ý mong của bà Huyên, cô gái đưa bàn tay ra cho bà
nắm giữ.
Giọng thân tình, bà Huyên nói:
-Rất tiếc,
con trai bà đã lập gia đình.
Cô gái bỗng thấy ngượng nghịu, bối rối.
Rồi bà tiếp lời:
-Hạnh phúc
cho ai được gặp cháu.
-Cám ơn bà
có lời khen cháu.
-Không, bà
nói thực lòng. Cháu ở đây thấy ra sao ?
-Dễ chịu lắm,
thưa bà.
-Cháu nói thực
lòng chứ.
-Dạ, cháu rất
thực lòng.
-Nào, cho bà
xem cuộc sống của cháu.
Cô gái đứng lên mời bà Huyên vào
phòng sinh hoạt của mình. Và, sự ngạc nhiên đến thích thú khi bà nhìn
thấy căn
phòng cô gái ở rất ngăn nắp, gọn gàng và sạch sẽ.
-Cháu thật
là một cô gái hoàn hảo.
-Dạ, cám ơn
bà. Cháu thật hạnh phúc trước những lời khích lệ của bà.
Không nói gì thêm, bà nhìn ngắm những
bức tranh cô gái vẽ. Những nét vẽ ấn tượng, màu sắc tươi sáng, trước
mỗi bức
tranh bà cảm thấy như mình được trở về lại những tháng ngày xưa.
-Nga,
cháu đi theo bác.
Cô gái vâng lời, bước đi theo. Ra
ngoài phòng khách, bà chủ nhà lấy chìa khóa mở một cánh cửa đi qua
phòng bên.
Đây là căn phòng còn bỏ trống. Ở bên
trong bức màn, gia đình cất những thứ đồ đạc riêng, nay không cần dùng
đến.
Nhìn gương mặt cô gái, bà nói:
-Bà dành cho
cháu căn phòng này để vẽ tranh.
Cô gái thoáng có chút lo ngại.
-Này cháu,
bà hiểu ý. Không, cháu đừng nghĩ ngợi. Bà muốn dành cho cháu căn phòng
này vì
cháu yêu nghệ thuật. Chỉ có cháu, bà mới mở cửa căn phòng này. Đây là
phòng
tranh của cháu.
Giọng ngập ngừng, cô gái hỏi:
-Mỗi tháng
bà cho cháu trả bao nhiêu.
Bà Huyên ngẩn người. Nhưng rồi nhìn
vẻ mặt lo ngại của cô gái, bà hiểu.
-Không, bà
không lấy tiền đâu. Bà dành cho cháu, cháu hãy dùng căn phòng này để vẽ
tranh.
Một giọng xa vắng, bà tiếp lời:
-Nhưng rồi,
đến một ngày cháu xa khỏi đây, xa khỏi thành phố này. Về sau, khi cháu
rời căn
nhà này, xin cháu gởi lại cho bà một vài bức tranh cháu vẽ để kỷ niệm
nhắc bà
luôn nhớ đến cháu.
-Vâng, cháu
xin hứa với bà.
-Bà rất
thương cháu.
Niềm vui quá bất ngờ, cô gái nói:
-Thưa bà,
hôm nay là ngày sinh nhật của cháu.
-Vậy sao ?
bà chúc mừng ngày vui hôm nay của cháu.
Rồi bà Huyên rút chiếc chìa khóa đưa
cho cô gái.
-Đây, cháu cất
giữ.
-Cháu cám ơn
bà.
Nga theo chân bà Huyên xuống khỏi bậc
thềm tam cấp.
-Bà về nghe
cháu.
-Dạ, bà về.
Nga trở lại chỗ khóm cây, nàng dọn dẹp
những cánh lá, cánh hoa và nhánh cây tỉa ruing vương rãi trên mặt đất.
Bằng lối
đi bên hàng rào, nàng cầm túi rác bỏ vào thùng xong đi tới bể nước rửa
tay.
Nga trở lên nhà, trong trạng thái
hân hoan và nàng nghĩ tới phòng tranh đặc biệt của mình.
Căn phòng lặng yên như thể mong đợi
nàng lên tiếng. Ngay lúc này, nàng nghĩ tới việc dời những bức tranh
bên phòng
vẽ chỗ ở của mình, qua phòng mới, và từng bức một với nghệ thuật trang
hoàng tranh
thật khéo léo, cân xứng như nghệ thuật cắm hoa, Nga làm cho bức tường
trở nên
sinh động, đầy ánh sáng qua màu sắc khiến bạn có ngay cảm tưởng, mỗi
bức tranh
là một khuôn mặt hiện hữu ngoài cuộc đời. Và, hôm nay, cái cơ duyên của
bà
Huyên đem đến cho nàng, trở nên một sự tái tạo và trưởng thành khi nàng
nghĩ đến
cuộc đời mình. Ngày mai, đầy ắp những hứa hẹn. Và, ngày mai, cũng luôn
luôn là
những ngày tháng của mỗi mùa, trong cái tốt tươi, hạnh phúc.
Lúc nãy, mới bước chân vào căn phòng
này, nàng giữ lấy một cảm giác có tính cách ước lệ, vừa thầm kín, nhưng
giờ, là
trước mắt nàng là một thế giới nhỏ bé được dựng lên thật bao dung, hài
hòa. Từ
một góc ánh sáng bên cửa Nga nhìn căn phòng, bất chợt nàng có ý nghĩ
đây là một
khung cảnh của sân khấu, và nàng đang tập diễn cho mình một vai kịch.
Không chỉ
đứng nhìn tranh vẽ của mình với tâm cảm của một người sáng tác, mà
trong sự thưởng
ngoạn nghệ thuật, Nga cũng đang ngây ngất với từng nét đẹp duyên dáng,
vừa chân
thực của tình yêu. Nga bỗng nhắm mắt lại, đây là giây phút huyền nhiệm,
và nàng
đã có ngay trong trí tưởng một bức tranh thật mới lạ, đầy ánh sáng của
màu nắng
và cây lá, mỗi màu là một niềm vui, mỗi màu là tiếng nói từ ngoài cuộc
đời đưa
nàng vào trong sự thể hiện của nghệ thuật.
Những giọt mồ hôi trên trán nhỏ xuống,
cảm giác của vị mặn trên môi làm Nga nhớ nghĩ đến Nguyên. Và, người yêu
của cô,
một bóng hình đâu đó, thật rất gần bên cô.
Nga trở về phòng mình. Nàng xuống bếp,
chiếc khăn mặt vắt trên vai, cả mái tóc đổ xuống khi nàng múc nước rửa
mặt. Sau
khi rửa mặt xong, Nga thong thả nghĩ đến
bữa ăn trưa, mà hầu như nàng không dự tính trước. Ăn gì đây, nàng cất
tiếng hỏi
đôi mắt hiền dịu đang đứng nhìn chung quanh gian bếp đã nguội lạnh,
không có một
chút lửa từ sáng đến giờ. Nhưng rồi, nàng chú ý đến mấy thứ thức ăn mua
sẵn chiều
qua để trên bàn, trong thoáng nghĩ, nàng nghĩ đến một vài món ăn sẽ làm
chiều
nay để mừng sinh nhật của nàng.
Nga nghĩ đến món ăn nhẹ. Nàng xách
chiếc ấm ra bể lấy nước, đặt lên bếp đun sôi, và trong khi chờ nước sôi
reo,
nàng làm món mì gói, có cải, tôm và trứng. Đây là món đơn giản, nhưng
với tài
khéo tay làm bếp, món ăn này của nàng luôn hấp dẫn.
Khi nước bốc hơi, Nga vẫn để nước
sôi thêm chút nữa rồi mới nhấc ấm, và từ từ nàng cho nước vào tô mì,
xong lấy một
cái dĩa đậy úp kín đợi lâu chừng hơn một phút, mì vừa chín tới.
Ngày chủ nhật bình yên. Nga ngồi ăn
ngoài phòng khách. Bỗng nhiên nàng chợt nghĩ, từ một ngày ấy đến giờ,
nàng ở
căn nhà thuê này một mình, nhưng không lúc nào nàng cảm thấy lẻ loi, cô
độc cả.
Nàng luôn cảm thấy hạnh phúc với cuộc sống, với không khí, cảnh vật
quen thuộc,
và hơn thế nữa, nàng luôn có Nguyên ngay cả lúc này đây vắng chàng. Hầu
như,
Nguyên vẫn hiện diện về bên Nga mỗi ngày.
Bữa ăn trưa ngon. Nga đứng lên đem
chiếc khay ăn vào nhà để xuống chậu thau dùng rửa bát bên cạnh bể nước,
xong
nàng trở lên phòng khách, ngồi một mình uống trà thật thú vị trong sự
yên tĩnh,
rồi bỗng nhiên nàng khép mắt lại như đó là giây phút thần diệu của
người họa sĩ
nghĩ đến một bức tranh vẽ chân dung.
Khi cảm thấy trong cõi tiềm thức có
một sự lay động êm dịu, nhẹ nhàng, Nga đứng lên, đi vào phòng nghỉ của
mình.
Trên mặt gối, tóc nàng xõa rộng. Nàng đọc tờ tuần báo Kịch Ảnh, số mới
nhất, ra
Huế ngày hôm qua.
Bài điểm phim của nhà văn Mai Thảo về
cuốn phim The Snows of Kilimanjaro thật hay. Hai tài tử chính đóng
trong phim
này là Gregory Peck và Ava Gadner. Nàng đã coi nhiều cuốn phim Gregory
Peck
đóng, nhớ nhất là phim To kill a Mockingbird. Nàng cũng rất yêu thích
nét đẹp
lãng mạn, phong trần của nữ tài tử Ava Gadner. Nguyên cho nàng biết, nữ
tài tử
này, gốc Mễ Tây Cơ, cô ta đóng rất nhiều phim phỏng theo tiểu thuyết
của nhà
văn Mỹ Enerst Hemingway, và anh có điều ngạc nhiên, trong phim A
farewell to
arms, đạo diễn không chọn cô ta đóng vai Catherine mà lại chọn Jennifer
Jones.
Phim A farewell to arms được quay hai l?n, đều cùng một nữ tài tử
Jennifer
Jones đóng, nhưng vai cô ta đóng không lột tả hết tính cách nhận vật
chính
trong truyện.
Thiên Nga đã thiếp ngủ , căn phòng lắng
im không tiếng động. T? báo buông rời khỏi tay nàng, nằm bên cạnh chiếc
gối.
Và, hơi thở nàng nhẹ, vừa dễ gây niềm xao xuyến. Nàng đẹp trong sự yêu
thương
trên gương mặt, và nàng đang ngủ ngon giấc. Bên cạnh dòng thác đang
tuôn chảy,
con đường đèo uốn quanh dẫn nàng đi xa lên thành phố miền cao nguyên.
Nga đang
nằm mơ thấy mình đi trên một chuyến xe ca vượt từng quãng đèo, cảnh vật
hai bên
là rừng núi, ghềnh thác. Trời không mưa, nhưng gió lạnh ùa vào khoang
xe, và
nàng ngồi ở chiếc ghế dựa bên cửa xe nhìn sương mù bao phủ cả một vùng
không
gian xa lạ, thật là thơ mộng. Trong xe, có tiếng nhạc, có cả tiếng nói
của hành
khách, nhưng riêng nàng vẫn một mình. Và rồi, quang cảnh thành phố hiện
ra, giống
thư thể lúc này nàng đang nằm mơ vậy. Nàng hết sức ngạc nhiên trước
khung cảnh
một thành phố nằm giữa một không gian của núi và rừng bao quanh. Khi xe
chạy
ngược về phía con đường dốc, nàng trông thấy những biệt thư nằm trên
các ngọn đồi,
những ngôi nhà màu ngói đỏ tươi bên cánh rừng, những vườn hoa xinh đẹp,
chim
chóc bay qua trên hồ nước, và ánh nắng sớm đang dần dần làm loãng tan
những đám
sương mù dày trên các góc phố.
Nơi thành phố ấy nàng đến là Đà Lạt.
Lúc này, trong giấc ngủ thật êm dịu, nàng vừa nhận ra được bóng dáng
mình, và
nhớ lại một mùa hè ấy nàng mới mười lăm tuổi. Nàng đến thành phố này để
thăm một
người anh ruột. Anh của nàng đi xa nhà đã lâu, và anh đang sống trong
thành phố
này ở căn nhà thuê chung với gia đình một người bạn thân.
Khi cô gái đến, sự xuất
hiện của cô làm mọi người ngẩn ngơ,
thấy cô đẹp như là thiên thần. Từ buổi gặp đầu tiên, những người trong
nhà ai
cũng quí mến, mỗi ngày ai cũng ai cũng dành được ở bên cô, ngắm vẻ đẹp
dễ
thương của cô, nghe giọng nói của cô như tiếng chim hót, và sự săn sóc
dành cho
cô là những món quà cô yêu thích.
Người anh của
cô, sau buổi đi làm việc ở sở về, là để hết thời gian dành cho cô với
mỗi buổi
chiều là một cuộc dạo phố, đi mua sắm, đi tới các tiệm ăn, mỗi cuối
tuần là đến
một nơi có nhiều thắng cảnh đẹp rừng Saint Benoit, hồ Than Thở, thác
Cam Ly,
thác Prenn, thác Gougha, hồ Xuân Hương, tu viện Domaine de Marie.
Ngôi nhà ấy nằm ngang lưng dốc đường
Duy Tân, bên kia đường là những hàng cây trồng anh đào và mimosa, ở sau
lưng
nhà, nhìn xuống bên dưới con đường là một ngôi trường trung học, về sau
này,
tôi mới nói cho cô gái hay tôi đã học ngôi trường đó, tôi đã ở thành
phố đó vào
thời gian cô đến thăm. Khi nghe tôi nói vậy, cô gái đã nhìn tôi bằng
cặp mắt
thân thiện, và bạn biết không, chỉ trong cái nhìn ấy mà bao nhiêu ý
tưởng về hạnh
phúc, về kỷ niệm, về tình yêu bỗng gợi nhớ lên trong sự hồi ức một
thành phố cũ
của tôi thời niên thiếu, ngày xa ấy, tôi
thấy bóng dáng buổi chiều sương mù trên các ngọn đồi, tôi nghe tiếng
thông reo
lưu luyến hoài mong những dư âm của tiếng đàn vĩ cầm, và tôi được ngắm
nhìn từng
mùa hoa nở, đáng yêu nhất là hoa mimosa và hoa anh đào. Tôi chỉ học ở
Đà Lạt hai năm,
rồi đi xa. Rồi một ngày đó, tôi nhận được lá thư của
cô gái, cô cho tôi
hay rằng người anh của cô đã chết, anh ấy chết khi chưa có gia đình,
hay tin
cái chết của người anh, cô đã khóc sướt mướt, thảm thương như thể một người vợ chưa cưới. Lá thư viết dài,
cô kể lại cho tôi nghe một mùa hè tuyệt vời của năm ấy, cô nói nhiều về
tình cảm
người anh của cô, và hiện giờ cô vẫn còn giữ lại kỷ niệm chiếc áo đầm học sinh màu xanh có dây thắt lưng màu hồng
tím rất là đẹp.
Một hôm ấy, ngồi bên nhau cô gái hỏi:
-Bao giờ mùa
hè mới trở lại anh nhỉ ?
-Cô cứ nhìn
những chiếc áo cô mặc sau mỗi mùa.
-Anh cũng
như thế chứ.
-Không đâu
cô. Tôi chỉ có một màu áo thôi, đó là màu của núi rừng.
-Màu ấy,
trông thật hoang dại.
-Tôi chỉ
có mặc một màu áo đó. Vì tuổi trẻ của
chúng tôi thuộc về chiến tranh.
-Anh không
có được những ngày nghỉ hè sao ?
-Không, cô.
Những lúc nào tôi cũng nhớ, và bên cô, trong giọng nói của cô, lúc này
đây tôi
là kẻ trở lại một mình với thời niên thiếu.
-Người anh của
em chết thảm thương quá.
-Cô thật đẹp
và có lòng nhân hậu.
-Anh vẫn còn
giữ những lá thư của em đó chứ.
-Tôi vẫn còn
giữ lá thư của cô và nhiều hình ảnh khác nữa.
-Rồi thời
gian cũng phôi pha.
-Với cô,
trong niềm phôi pha, luôn luôn tôi vẫn thấy những hình ảnh sáng đẹp của
cô.
Khi nghe tiếng chuông nhạc trên đồng
hồ treo tường, Thiên Nga bừng tỉnh khỏi giấc mơ, thức dậy. Nàng thức
giấc với một
cảm giác dễ chịu, và nàng cũng biết rằng, lúc này buổi chiều đã tới.
Bên ngoài cửa, có tiếng nói thân
quen của ba cô gái.
Vừa gặp nhau, các cô cùng cất tiếng
cười vang. Rồi ở ngay phòng khách, bốn cô ngồi xuống, ba cô đem hết
những quà tặng
của mình ra khoe, còn Nga, nàng luôn là biểu tượng của hạnh phúc.
Phương, em gái Nguyên tặng cho người
chị dâu tương lai một cuốn album và một tập ảnh phong cảnh về Hà Nội
thuở xưa.
Loan, tặng cho Nga bốn cây cọ và hộp sơn màu nước. Liên An nhìn Nga, nụ
cười
trong cặp mắt đen lánh. Cô gái muốn để cho Nga tự tay mở sợi dây buộc
gói quà.
Và, quà tặng của Liên An là một khung ảnh lớn.
Nga nhận quà xong, nàng để một vài
giây cho căn phòng thật là nồng ấm, rồi chút sau lên tiếng:
-Mình vừa mới
mở một phòng tranh ?
Tất cả ba cô gái nhìn Nga, kinh ngạc.
-Mời các bạn
bước qua phòng tranh của mình.
Ngay khi Nga nay cánh cửa bên, những
bức tranh của nàng mới treo xong lúc trưa dậy lên như một luồng sáng.
Bốn người
bước vào, những bức tranh đã xem trước đó, giờ là những bức tranh mới
hẳn mang
trọn vẹn một ý nghĩa về giá trị nghệ thuật khi nó có được vị trí của
mình trong
căn phòng này.
-Hay quá,
nhưng làm sao chị có cơ duyên này, Liên
An hỏi.
Bằng một giọng nhỏ nhẹ, thân tình,
Nga kể lại câu chuyện sáng nay của nàng và bà chủ nhà.
-Vậy là
là ngày sinh nhật của chị hôm nay đáng nhớ
hơn bao giờ hết.
-Chị cám ơn
Phương.
Sau một lúc khá lâu đứng ở phòng
tranh, giờ bốn cô qua phòng khách. Vừa ngồi xuống, cả bốn người tranh
nhau nói
về thực đơn của mình dành cho một tối sinh nhật.
Liên An chợt hỏi:
-Nãy giờ, chị
Nga giấu anh Nguyên đâu ?
-Anh Nguyên
đi đặt bánh.
-Loan
sẽ làm món bánh lá.
-Phương
là món bánh xèo.
-Liên An chỉ
chờ tới giờ ăn thôi. Nhưng mình cũng có thể làm được món chả giò.
-Hay lắm.
Rồi cả bốn cô cùng đứng dậy, rộn
ràng đi xuống bếp. Tự trưa, bếp nguội lạnh, giờ có lửa sáng, đã nghe ồn
lên với
những tiếng nói yêu đời của bao cô gái.
Nga nói với các bạn, nàng làm món mì
Quảng và món xôi gà.
Loan bỗng lên tiếng:
-Mình làm
nhiều món quá, làm sao ăn hết ?
-Đừng lo,
chúng mình ăn sinh nhật buổi tối mà.
Phương hỏi:
-Anh Nguyên
có mời bạn anh đến không ?
-Không, anh
Nguyên chỉ dành cho chúng mình thôi.
Nguyên được từng cô gái nhắc đến
tên, và một vài mẩu chuyện của anh thời trước.
-Em chưa hề
hay biết buổi gặp đầu tiên của chị Nga và anh Nguyên.
-Tối nay, chị
sẽ bảo anh Nguyên kể cho .
Liên An nói:
-Em muốn anh
Nguyên kể hết chuyện các cô nàng anh quen.
-Anh ấy sẽ
chiều ý Liên An.
-Còn chị thì
sao ?
-Bao nhiêu
chuyện của anh, chị nghe kể hết rồi.
Loan hỏi Nga.
-Có mấy phút
chị buồn ?
-Hơn một
giây.
Ngọn lửa bếp cháy sáng lên làm đỏ hồng
gương mặt các cô gái, và lúc này các cô đang chuyển qua những đề tài về
chuyện
học hành, thi cử, chuyện tình lãng mạn trong yêu đương của chính mình,
bạn bè.
Loan
lên tiếng hỏi:
-Chị Nga
thích làm cô giáo không ?
-Đó là ước
mong của mình.
-Chị không
thích làm họa sĩ sáng tác.
-Mình rất
thích vẽ, nhưng không là họa sĩ, sự nghiệp to tát quá.
-Ở thành phố
nào mà có chị Nga đến, sẽ là thành phố đẹp.
Nga đưa mắt nhìn qua Phương, nàng hiểu
được bao nhiêu ý nghĩ dễ thương của cô em gái Nguyên dành cho nàng. Và,
lúc
trưa nằm nghỉ nàng đã mơ thấy một thành phố trong cái đẹp huyền nhiệm
của thiên
nhiên. Nguyên cũng nói, tên của nàng là một thành phố trong con tim.
-Em chọn học
Luật, muốn trở thành Luật sư.
-Em mong năm
tới lên Đại Học.
-Liên An thì
sao ? Đã có tin đi du học chưa ?
-Vẫn chưa.
-Vẫn còn chờ.
-Vâng, em đợi
chờ.
-Liên An nên
đi ngành ngoại giao, Loan nói.
Nga mỉm cười nhìn qua Liên An. Vừa
xem Liên An là một người bạn, vừa coi cô như em gái của mình, Nga rất
mến Liên
An. Về Liên An, cô thật hạnh phúc mỗi khi nói về Nguyên. Nguyên cũng là
một lý
tưởng của Liên An.
Phương bỗng phá ngang giấc mộng, cô
nói:
-Với giấc
mộng nào đi nữa, chị em mình rồi cũng chỉ
làm đến chức nội tướng mà thôi.
Bốn người cùng cười vang. Buổi chiều
đi quá nhanh. Bên ngoài, nắng đã tràn qua hết phía bên kia sông. Hàng
cây trên
bến nước, nắng ở đó treo từng cụm vàng óng, và hình ảnh dãy nhà tu viện
dần dần
vươn lên cao khỏi bóng nắng.
Từ đơn vị, Nguyên lái xe về nhà, tắm
rửa xong anh thay quần áo xi vin rồi xuống phố, đến tiệm bánh Bảo Thạnh
.
Nguyên trả tiền, nhận bánh xong về
nhà ngay. Ba cô gái còn ở lại nơi gian bếp làm thức ăn để mình Nga lên
nhà trên
đón Nguyên.
-Trời, anh lạ
quá.
-Sao mà lạ ?
-Hôm nay anh
thật trẻ ra như sinh viên thời trước.
Nguyên mặc áo sơ mi kẽ sọc xanh và
chiếc quần tây xám. Nga nhận nghĩ thật đúng, những lúc như thế này,
Nguyên trẻ
hẳn trong dáng nét cũa thư sinh.
-Anh đặt
bánh ở đâu ?
-Tiệm bánh Bảo
Thạnh.
Rồi một giọng vui, Nga hỏi:
-Anh có thấy
gì lạ không ?
Nguyên nhìn quanh, bất chợt nhận ra
căn phòng bên mở cửa.
-Bà chủ cho
em mượn căn phòng để tổ chức sinh nhật.
-Anh đi theo
em.
Nga đưa Nguyên qua căn phòng mới,
anh rất ngạc nhiên khi đứng trước những bức tranh của Nga. Hai người
bên nhau,
Nguyên mong tìm được ý tưởng mới.
-Em nghĩ sao
?
Nga không đáp lời, nàng ngước lên
nhìn Nguyên với nụ cười trong cặp mắt. Nguyên đặt bàn tay lên vai người
yêu rồi
kéo nàng lại thật gần. Nga hé môi, lặng im để cho Nguyên đặt môi hôn.
Một giọng nhỏ, nàng nói:
-Em là của
anh.
-Cám ơn em.
Nghìn lần..
-Thôi, một lần
mới quí.
Nga nói, rồi nắm giữ lấy bàn tay của
Nguyên. Hai người trở qua phòng khách. Bất chợt, Nguyên bảo người yêu
tới đứng
bên cửa mở ra sân, anh lùi một bước và đưa máy ảnh lên ngắm cái dáng
nghiêng có
mái tóc dài thả xuống vai của thiếu nữ , rồi hai lần bấm nút, Nguyên
chụp được
cho Nga hai pose ảnh thật vừa ý.
XI
Nga trở xuống bếp một mình. Chỉ độ
mười lăm phút lên đón Nguyên về mà nàng có cảm tưởng thời gian như khá
lâu. M?t
bu?i chi?u nay, hai người bên cửa sổ, sau cái nhìn đằm thắm, si dại
trên đôi mắt,
Nga đứng yên cho Nguyên xổ tung mái tóc nàng, anh ngắm nàng rất cảm
động, và rồi,
anh đón nhận từng nụ hôn m?m ??t, trên cặp môi run rẩy của người yêu.
Liên An hỏi:
-Anh Nguyên
đi lại rồi ?
-Không, ở
trên nhà.
Trên chiếc bàn dài , bên phía Loan
và Phương để m?t tô bột trắng tinh vừa nấu
chính, xấp lá chuối xanh, và dĩa thịt kho tôm. Nga và Liên An lo về món
chả
giò. Nga rây dầu ăn và lòng trứng đỏ phết lên từng chiếc bánh tráng,
còn Liên
An ngồi cuốn. Những ngón tay thon nhẹ của Liên An tưởng như cũng làm
cho mỗi
chiếc giò càng nhỏ bé thêm.. Mỗi cô ngồi trên chiếc ghế gỗ vuông, thấp. Vừa làm, giọng
nói qua lời chuyện trò, những lúc được đùa giỡn trong tiếng cười vui,
cô nào
cũng cảm thấy thể hiện đúng tính cách người phụ nữ.
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc vui.
Đôi mắt đẹp của Nga, nhiều lần bị
chiếu tướng. Liên An, rồi Loan và Phương lúc nhìn qua nàng biểu lộ một
vẻ đằm
thắm, lạ lùng. Khi được có mặt nơi gian bếp lúc này, bạn chợt nhận ra
cô gái
nào cũng thùy mị , đảm đang. Và rồi đây, những cô gái của tuổi xanh này
sẽ lớn,
có thể họ chia tay bất ngờ, rồi đường đời dưới gót chân, những kỷ niệm
đẹp mỗi
lúc hao mòn, trong thoáng nhớ, có người thầm nhắc lại mấy câu thơ mà
ngày hôm ấy
chợt thốt lên.
-Em chỉ có tập
Gái quê của Hàn Mặc Tử.
-Không, chị ạ.
Em yêu thích sự trong sáng, hiền lành, không hề muốn nghĩ gì về nỗi khổ
đau.
-Chị thấy rằng,
người thi sĩ này quá bất hạnh.
Trên bếp nấu, lửa đang cháy đều ngọn.
Có hai lò, phía trong là nồi xôi đậu, ở
ngoài là soong nước chờ sôi để luộc gà. Hai món này,
do cô chủ Thiên Nga
đảm trách, và còn một món nữa chưa làm đến là mì Quảng.
Hôm nay, ngày sinh nhật Thiên Nga.
Nàng sẽ luôn nhớ mãi ngày này, một ngày vui không chỉ riêng cho mình mà
còn là
của các cô bạn ngồi đây nữa. Bốn cô đã
thành cô Tú hết. Phương kém tuổi hơn, vừa mới đậu xong phần nhất. Cô
học khá,
trúng tuyển ngay kỳ đầu. Ba cô Nga,
Loan, Liên An, kỳ thi vừa qua đều gặt hái được kết quả vừa ý. Trong tâm
cảnh
Loan và An, buồn vui lẫn lộn. Loan rất mong đi Sài Gòn, nhưng rồi, hiểu
được những
ý nghĩ sâu sắc của người anh mình về gia đình, cô đành ở lại Huế học,
và những
ngày qua, Nga, Liên An , Phương đã làm cho Loan khuây khỏa, vui lên,
nhờ đó
Loan mới nhận ra rằng, Huế là thành phố của tình bạn. Về Liên An, rồi
cô sẽ đi
xa. Nơi phương trời ấy, rất lẻ loi, nhưng những
thư cô sẽ viết gửi về cho những người bạn, mỗi lá là
chút lửa ấm với quê
hương và gia đình. Và, giống như Loan , cô thương mến Nguyên như người
anh ruột,
giờ đây người yêu của anh ấy là Thiên Nga muôn thuở với màu áo tím.
Liên An đã
nói với Thụy, trong linh hồn áo tím, em nhớ mãi Thiên Nga.
Suốt cả tuần lễ khu Morin rộn ràng
tiếng nói, tiếng bước chân hớn hở của bao nhiêu cô cậu học sinh mới đặt
bước
lên năm thứ nhất Đại học. Nga nay không còn ở cái tuổi mười tám dung
dăng, dung
dẻ, nhưng vẫn giữ được sự hồn nhiên, và bây giờ, hình bóng nàng xuất
hiện thật
là mới mẻ. Từ sinh viên bên trường Mỹ Thuật qua trường Văn Khoa, Thiên
Nga nhận
ra được mình trong một ý thức trầm tĩnh về nhân cách và cả học vấn.
Nguyên đã ở bên Nga trọn một
ngày, hai người rất thích thú khi đạp xe
trên phố chính Lê Lợi đến trường Văn Khoa. Thới tiết của Huế, trong
những ngày
đầu thu
thật là đẹp.
Những lúc nhìn qua Nguyên, với gương mặt nhỏ nhắn và dáng dấp thư sinh,
nhanh
nhẹn, nàng thấy anh rất là trẻ, chừng mới cái độ của lớp tuổi hai mươi.
Một giọng thân thương, Nga nói:
-Anh ghi
danh học lại đi.
Nguyên cười đáp:
-Anh thuộc lớp
sinh viên già.
-Không, em rất
muốn anh trở lại thời sinh viên.
-Anh đã có
em, em đem anh trở lại thời sinh viên.
Nga đạp xe chậm lại, trên đôi mắt
nhìn xa tới cuối đường, nàng nói:
-Anh đi học,
có thêm em nữa, anh vẫn là người thầy giúp đỡ em.
-Em yên tâm
học, lúc nào cũng có anh bên em.
Bên kia sông, hình ảnh kinh thành Huế
trải rộng dưới một bầu trời mang một vẻ đẹp buồn. Khu công viên đầy
nắng thật
sáng sủa, sạch đẹp. Ngôi trường Đồng Khánh đối diện với công viên,
trước cổng
trường quét vôi tím, nữ sinh Huế mặc áo trắng mới tinh. Nhìn lên bầu
trời, bạn
chợt trông thấy cả một đàn chim đang bay ngược hướng dòng sông, xa dần
khỏi
thành phố hướng về phía ngọn núi.
Nguyên bỗng nói:
-Anh và em,
chúng mình có nhau là đủ.
-Nhưng rồi,
chiến tranh cũng kết thúc.
-Em mà đã
mong đợi, ngày ấy sẽ đến thôi.
Thoáng có một ý tưởng vui trong nụ
cười, Nga nói:
-Anh mà trẻ
mãi, thì em mới ở bên anh.
-Thời gian sẽ
không làm thay đổi được anh.
-Anh đừng quá
tự tin, nhé.
-Em mới làm
cho anh tin tưởng về mình.
-Hay quá.
Nga đáp lời, cặp mắt vui như vừa thấy
một con chim chạy nhảy băng qua đường. chân sáo mình đang nhảy nhót như
con
chim se sẻ. Bên nhau, lòng vẫn nhớ. Nga luôn nhớ nghĩ đến Nguyên, những
lúc xa
cũng như ở mỗi giây phút gần. Mùa thu cũng đã làm cho thành phố trở nên
trang
trọng, tuổi trẻ vừa được sự yêu mến của thời gian, vừa đang nẩy mầm một
sự trưởng
thành trong nhận thức.
Khi đến khu Morin, hai người phải xuống
xe dắt bộ vì rất đông sinh viên đứng tràn ra đường. Tới chỗ gởi xe đạp,
Nguyên
và Nga ngó tìm một quán cà phê gần đó. Nguyên lấy chiếc máy ảnh ở trước
giỏ xe,
rồi trên vỉa hè lát đá, cách quãng chừng năm mười mét Nga dừng bước lại
vừa tạo
dáng để Nguyên chụp những bức ảnh cho
nàng. Nga mặc áo dài tím, nắng thu chiếu sáng lên áo nàng. Nguyên và
Nga rất hợp
ý nhau trong sự yêu thích những cảnh vật. Vừa chụp nhanh và chính xác,
những bức
ảnh Nguyên dành cho Nga rất là nổi bật các góc cạnh, tạo ngay ấn tượng,
bạn có
thể đem so sánh được với những người chụp
ảnh chuyên nghiệp.
Quán cà phê khá đông sinh viên. Khi
thấy Nguyên và Nga xuất hiện, rất nhiều cặp mắt chú ý nhìn chàng và
nàng, người
nào như cùng nhận rõ sự tương xứng của
đôi lứa này.
Hai ly cà phê nóng, bốc lên hơi
khói. Nga nhìn Nguyên hỏi:
-Tại sao anh
không biết hút thuốc ?
-Anh không
thích.
-Uống cà
phê, không hút thuốc, anh không thấy lạc hương vị sao ?
Nguyên mỉm cười, đáp:
-Ý tưởng của
em cho anh nhìn thấy màu khói.
-Cà phê đây
uống ngon, phải không anh ?
-Rất ngon.
-Chừng nào
Thụy về phép ?
-Chắc là
trong năm nay.
-Coi bộ, Thụy
thứ gì cũng lấn lướt anh.
-Em kể ra
xem.
-Phương
nói, Thụy rất là bụi đời. Những môn thể thao,
thứ nào cũng chơi được, rồi hút thuốc lá, ghiền cà phê, còn cả bài bạc
nữa.
-Có một thứ
nó không biết.
-Về nghệ thuật
?
-Thụy không
biết tí gì về âm nhạc cả. Coi một bản nhạc, nó không đọc được nốt, nói
gì đến
chuyện cầm đàn.
Nga nhìn vẻ mặt Nguyên một lúc khá
lâu, không hẳn cô gợi sự hình dung gương mặt người em của Nguyên thật
khá thân
như là một người bạn của nàng đang ở xa, mà có lẽ, với chút suy nghĩ để
tìm lấy
cho câu chuyện thân mật.
-Hãy bảo Thụy
học nhạc, học đàn đi. Tuổi trẻ với cây đàn ghi ta khác chi người lữ
khách đầy
mơ mộng, lãng mạn.
-Nếu Thụy có
được một cây đàn, chắc nó sẽ mơ làm nhạc sĩ.
-Đó cũng là
hạnh phúc.
Nguyên gật nhẹ đầu, rồi cầm chiếc
máy ảnh lên điều chỉnh. Bỗng anh đẩy nhẹ chiếc ghế, rồi lùi bước và hơi
thấp
người xuống. Nguyên lên tiếng:
-Em cầm ly
cà phê.
Nga uống khẽ một hớp, rồi trên tay vẫn
giữ ly cà phê để sát gần môi. Nguyên bấm máy, thêm hai pose nữa với đôi
mắt Nga
yên lặng nhìn xuống ly cà phê đơn độc để lại trên bàn. Nàng cũng vừa
chợt nghĩ
đến một tranh tĩnh vật, thiếu nữ và ly cà phê. Bức tranh sẽ có một lọ
hoa, với
hai thứ hoa trắng và tím.
Nguyên trở lại ghế ngồi, anh đón nhận
ở phút giây này cái nhìn đằm thắm của Nga. Nga có đôi mắt thật dịu
buồn, những
lúc yên lặng nhìn rất lâu, Nguyên có cảm giác Nga sắp nói với anh về
những kỷ
niệm thật sâu kín đã đến với cuộc đời nàng, mà chỉ riêng nàng mới biết,
và vẫn
ôm ấp. Những kỷ niệm đó, thường biểu lộ khi anh thấy nàng khóc.
Hôm nay trời se lạnh hơn mọi hôm,
nên không khí ngồi quán uống cà phê rất là thú vị.
Quán cà phê nằm phía trên khu nhà
Bưu điện, từ chỗ ngồi dưới bóng cây nhìn
qua khu Đại học Morin bạn trông thấy rõ tất cả cảnh mọi sinh hoạt.
Ngồi khá lâu, hai người mới rời
quán. Những đám sinh viên năm thứ nhất đến ghi danh xong ra về, dần dần
thưa vắng
bớt. Nga để tay mình trong tay Nguyên khi hai người băng qua đường.
Vừa bước lên bậc thềm tam cấp, Nga bỗng
thấy trong tâm trí nàng một cảm giác khác lạ không giải thích được. Có
thể, bạn
chợt thấy chỉ có một bóng dáng nàng trước ngưỡng cửa Đại Học. Khi vào
trong văn
phòng của trường, hai người dừng lại chờ. Bên trong, các sinh viên và
nhân viên
phụ trách ghi danh đang làm việc. Những tiếng gõ trên bàn máy đánh chữ nghe vang đều đặn.
Nga đang cầm giữ tấm bìa vàng, ở
trong là những giấy tờ cần thiết để xin ghi danh. Rồi đến lượt nàng,
sau khi bốn
sinh viên vừa xong việc ra về. Cô sinh viên phụ trách nhận giấy tờ, văn
bằng của
Nga xem kỹ, rồi ghi tên nàng vào một cuốn sổ giấy ca rô dày , xong, cô
cho nàng
biết tiền lệ phí phải nạp.
Xong việc thu nhận đơn ,
trong lúc đưa biên nhận cho Nga, cô gái bỗng
ngây người trước một vẻ xinh đẹp , duyên dáng của Nga. Nhưng rồi, cô
không biết
biểu lộ cách nào, mà nhìn Nga , cô cố gắng tạo dáng nên một nụ cười
thật lòng để
nhớ mãi.
Ngày nhập học sẽ được ghi rõ trên giấy
báo. Cô gái hỏi Nguyên:
-Anh có ghi
danh không ?
-Không.
-Sao lại
không ?
Cô gái vui miệng hỏi.
Nguyên cười đáp:
-Tôi không
có bằng cấp.
-Em không
tin đâu?
Rồi nàng nói với Nga:
-Chị nên
khuyến khích anh đi học.
-Anh không
thích đi học, Nga đáp.
Xong buổi ghi danh quan trọng này ,
Nguyên dành trọn cả cuộn phim mang theo
chụp cho Nga. Tới ngày sinh nhật , thêm những cuộn
phim mới ảnh của nàng sẽ đầy kín cuốn album.
Trên đường trở lại bãi gửi xe ,
Nguyên nói:
-Em sẽ là
người mẫu của trường Văn Khoa.
-Không dám
đâu, biết bao nhiêu cô Đồng Khánh đẹp hơn em nhiều.
-Anh sẽ đi
tìm một cô Đồng Khánh xinh đẹp để đứng gần em.
-Anh đi tìm
đi, rồi để cả một đời anh bên cạnh cô gái ấy.
Nguyên nói:
-Áo trắng của
Đồng Khánh đã phôi pha rồi.
-Thật không
?
-Em hãy tin
là có thật.
Vừa dắt xe đạp ra đường, Nga hỏi:
-Anh đi ăn
tiệm không ?
-Tùy em.
Nguyên có vẻ yên lặng, vừa lơ đãng.
-Hay là về
nhà ?
-Ừ, về nhà.
-Nhưng cũng
ghé vào chợ một chút.
-Vậy thì qua
phố.
-Thôi, tới
chợ Bến Ngự cho gần.
Một buổi sáng thật dễ chịu, Nga như
chỉ nói cho mình nghe lúc lên xe đạp. Từ
Morin đi đường tắt đến Bến Ngự rất gần, nhưng cả hai
ra đường chính Lê Lợi
, thong thả đạp xe bên nhau. Hôm nay, áo tím của Nga mang dáng vẻ của
mùa thu.
Và, ý thu của nàng rất dễ thương như Huế.
Dòng sông Hương đang lướt gió, trải
rộng trên từng lớp sóng nước như một mái tóc của nàng cung nữ. Nắng qua mỗi con đường, chiếu sáng lên công
viên, nước chảy của dòng sông hòa sắc với những đám mây trên bầu trời
tạo cho
thành phố không chỉ yên bình theo cuộc sống, mà mới đây, đã hình thành
một
phong thái rất nghệ thuật.
Dọc đường Lê Lợi, dòng người và xe đạp
lên xuống rất nhộn nhịp. Ít ngày nữa thôi, các trường trong thành phố
sẽ bắt đầu
niên học mới.
Nguyên và Nga vẫn đi chậm bên nhau.
Thời gian đã dành mỗi phút hạnh phúc trong ân tình, câu chuyện hai
người bình
thường trong cuộc sống, đôi lúc được nhớ về kỷ niệm từng nơi chốn đã
sống qua,
thảng hoặc xen vào chuyện học hành hay nhắc đến một hai người thân
trong gia
đình.
Bỗng nhiên Nga hỏi:
-Tại sao anh
luôn thích mặc đồ lính ?
-Anh là quân
nhân, phải mặc quần áo lính chứ sao.
-Nhưng vào
ngày nghỉ, anh cũng không mặc quần áo thường.
-Áo quần xi
vin nhẹ quá.
-Hay là anh
chỉ muốn làm người hùng ?
-Đôi khi,
anh vẫn cứ tưởng mình đã ở trong quân đội quá lâu.
-Anh vào
quân đội bao lâu rồi ?
-Hơn bốn
năm.
-Anh lên lon
như vậy có nhanh không ?
-Trong khoảng
thời gian vừa phải. Không nhanh lắm, không chậm lắm.
-Anh và Thụy
có hợp tính nhau không ?
-Em hỏi một
câu thực hay.
-Anh trả lời
em đi.
Nguyên nói:
-Anh chị em
trong gia đình, thường sống với nhau bằng tình thương, sự hy sinh, và
nhớ nghĩ
nhau khi ở xa. Nhưng không thể nào trở thành người bạn, hay coi nhau là
bạn, ai
có những ý nghĩ so sánh ấy anh cho là không đúng, cũng không thành thực
nữa.
Tới ngả rẽ bên trường Luật, Nguyên
và Nga đạp xe vào lối đường giữa đi tới phía cầu Nam Giao,
đoạn rẽ trái, men theo dòng sông phía bên này
tới chợ Bến Ngự.
Dòng sông nhỏ lại,
khoảng cách hai bờ cũng gần
nhau, nhà ở bên đây và bên kia bờ trông thấy rõ, và mỗi khu vực, có một
cây cầu
nhỏ bắc qua giữa hai bờ. Sông nhỏ này có tên An Cựu. Suốt dòng sông, có
đến sáu
chiếc cầu nhỏ bắc qua hai bờ nằm
cách
khoảng nhau chừng vài trăm mét.
Nguyên đứng ngoài chờ Nga
vào chợ. Lúc này một mình, dưới bóng cây
im nắng Nguyên đưa mắt nhìn khung cảnh sinh hoạt của
mọi người đi qua trên đường, về phía các
nhà ở, và những cảnh vật hiện lên trong không gian bình thường, lặng
lẽ, anh bỗng
có cảm giác thật dễ chịu khi được nhớ lại những tháng ngày đã qua.
Năm 14 tuổi, Nguyên rời gia đình ở
ngoài Quảng Trị vào Huế học ở trường trung học Hàm Nghi. Anh học tiếp
năm sau ở
trường này, rồi thi Thành Chung, sau đó, chuyển qua trường Quốc Học học
ba năm ở
ban Tú Tài xong bước lên Đại Học. Nhưng ở bậc Đại Học chỉ một năm Dự bị, hỏng thi vấn đáp, rồi trong không khí
chính trị bất an, anh rời bỏ Huế vào Sài Gòn tìm kiếm việc làm, cuối cùng chọn
đi lính. Vào lính, anh lột bỏ ngay được cái dáng vẻ thư sinh ngay từ
ngày đầu ở
quân trường, từ đó, anh cảm thấy mình thực sự yêu mến quân đội qua tâm
hồn lãng
mạn của người lính. Với anh, lãng mạn trong tâm hồn người lính không
phải để là
người hùng, mà qua một tập thể lớn mạnh này, ai cũng nhận ra tinh thần
trách
nhiệm của chính mình với bộ quân phục là biểu tượng. Vậy nên, từ mấy
năm ở lính đến giờ, hầu như Nguyên thấm
đậm hẳn về
cuộc sống người lính, lúc nào anh cũng nghĩ mình là người lính và luôn
cả những
bộ quần áo lính anh phải mặc, không thể rời bỏ. Tuy đây chỉ là thói
quen, một
cung cách, hay là suy nghĩ độc lập từ một cá nhân, nhưng nó thể hiện rõ
cá tính
của Nguyên về tình cảm cũng như về cách phục vụ. Nguyên rời Sài Gòn ra
đơn vị
Trung đoàn tân lập này nay cũng đã gần ba năm. Về lại Huế, Nguyên khác
xưa nhiều
với thời học sinh, sinh viên, nhưng Huế vẫn nhận ra anh là đứa con Huế
đã trưởng
thành, và giờ đây cho anh có được mối
tình đẹp, rất đẹp với một người con gái xứ Quảng.
Nga mua một ít rau, cá , thịt và
trái cây, mấy túi nhỏ bỏ chung vào cái túi lớn xách bên tay, chừng nửa
giờ vào
chợ nàng trở ra. Nguyên không hay khi
Nga từ phía sau đi tới. Anh quay lại nghe tiếng Nga hỏi, rồi một giọng
vui, anh
trả lời:
-Thật là lâu
, đó em.
Nga hỏi lại:
-Bao nhiêu
năm ?
-Năm thôi
chưa đủ, còn phải thêm cả ngày tháng nữa.
-Anh cảm thấy
lo lắng không ?
-Không, anh
có em.
Hai người lên xe đi. Nga vui giọng,
kể cho Nguyên nghe những lời ngợi khen của các cô bán hàng trong chợ
lúc nhìn
ngắm nàng đi qua.
-Em có được
là người mẫu không ?
-Em là người
mẫu của áo dài.
-Các cô Đồng
Khánh thì sao ?
-Các cô ấy dịu
dàng quá.
-Còn em, dữ
lắm nghe.
-Không, em rất
là duyên dáng.
-Anh giải
thích nghe mơ hồ quá.
-Cách nói mơ
hồ, rất dễ gây cảm xúc cho trí tưởng tượng.
Nga bỗng nói:
-Ngôn ngữ
triết lý thật là khó, nhưng càng gợi ý suy tưởng, em lại thích.
Giờ khắc của buổi trưa trở nên ấm
áp, lạ thường. Huế, mỗi không gian là bức tranh, cách bố cục cho nó,
bạn chỉ cần
lấy một đoạn sông có cây cầu nhỏ, và bên sông là một mái nhà. Huế, ý
thu rất dễ
thương khi bạn nghe tiếng nói từ các cô gái Huế , khi bạn đọc cho mình
một câu
văn của Anatole France, và tới tuổi trưởng
thành từ một nơi chốn xa về lại đây khung cảnh của thành phố này sẽ cho
bạn nhiều
sự liên tưởng đến một thành phố khác.
Nguyên bỗng nhớ một gương mặt trí thức
trẻ, nhà thơ Nguyễn đình Thi. Rồi tiếp đó là bóng dáng người thi sĩ.
Và, lúc
này, Huế cũng sẽ mãi đẹp như hai câu thơ của chàng:
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em
Về đến nhà, Nguyên ngồi ở phòng
khách đọc báo. Nguyên cảm nhận được sự thoải về không khí bình yên
trong một
gia đình, dưới một mái nhà, với tờ báo mình đang đọc cho anh liên tưởng
tới các
bài luận văn thời còn ở những lớp nhỏ dưới trung học.
Nga thay xong bộ quần áo nhe, nàng
đi làm cơm. Trước khi nhen bếp lửa, nàng pha hai ly nước chanh đường,
một cho
Nguyên và một cho nàng.
-Anh đói
chưa ?
Nguyên ngừng đọc báo, nói:
-Em nấu chín
cơm, bữa ăn sẽ rất ngon.
-Em có nấu
món canh chua.
-Em đúng là
con người thuần túy.
-Sao, anh
hay diễn tả ý rất mơ hồ.
Nguyên đáp lời Nga như bài soạn sẵn:
-Em ở xứ Quảng,
mà tất cả các món ăn ba miền Nam, Trung, Bắc em đều nấu được và rất là
ngon.
-Vậy, em còn
là người mẫu nấu nướng nữa, phải không ?
Nguyên gật đầu ngay, không do dự.
Nhìn qua Nguyên, Nga cười, ít giây sau nàng nói:
-Mứt bánh, mới
là món thuốc của em. Nấu ăn, em tạm thôi. Nhưng được anh khen ngon là
quí lắm rồi.
-Anh ăn ngon
thực sự.
Vừa chuyện trò với Nga,
Nguyên vừa xem báo. Anh chú ý đến bài xã
luận của ký giả Từ Chung.
Nga cầm ly nước chanh đứng lên, nhẹ
bước xuống nhà. Một giờ sau, bữa ăn trưa dọn lên ở ngoài phòng khách.
Cơm và thức ăn đang nóng. Lúc Nguyên
cầm đũa, anh không ngăn được cảm xúc của mình, và sau đó, anh tìm ra
được một ý
nghĩ trọn vẹn cho đời anh, là anh đang có được sự săn sóc của người yêu.
Bữa ăn chậm rãi, mỗi miếng ngon rất
chân thực như là kỷ niệm của tuổi thơ.
-Có thư Mỵ
Châu gởi cho em không ?
-Có.
-Mỗi khi có
thư Mỵ Châu, em nhớ cho anh biết và đọc thư Mỵ Châu cho anh nghe.
Nga bỗng nghĩ tới một ngày, khi nàng
và Nguyên có được mái ấm gia đình, gần hay xa tới đâu trong đất nước,
nàng sẽ
đem Mỵ Châu theo với nàng.
Sau một ngày nghỉ, Nguyên trở lại
đơn vị làm việc bình thường. Anh làm công việc với sự đam mê, thật cẩn
trọng về các thứ giấy tờ, đối
với thuộc cấp, không một ai anh quên nghĩ đến
họ. Những lúc sau giờ làm việc, sau bữa ăn trên Câu lạc bộ về phòng
nghỉ, anh
dành hết thời gian này nhớ đến Nga. Nga luôn hiện ra trong tâm trí anh
một
khuôn mặt dịu dàng, hạnh phúc. Có những bức ảnh anh chụp được cho Nga
qua trí
tưởng tượng, thật là mới mẽ, sáng tươi, hay đẹp, hơn cả những bức ảnh
Nga có
trong cuốn album. Và, hết tuần lễ này, anh phải mua sắm một ít thứ
chuẩn bị cho
ngày vui sinh nhật của Nga.
Hôm nay, ngày vui này đến. Nga nói với
Liên An:
-Anh Nguyên
còn là một người anh của chị.
An nói:
-Em rất
thích anh Nguyên. Anh ấy thật dễ chịu. Và, không chỉ riêng em, anh ấy
luôn là
người rất dễ thương với bao cô gái khác ở thành phố thân yêu này.
Bỗng Nguyên xuất hiện, An lên tiếng
:
-Nãy giờ anh
trốn đi đâu, không xuống coi tụi em làm bếp.
Nguyên cười hiền lành, rồi anh gọi
Nga lên nhà.
-Em thấy anh
trang hoàng như vậy, được không ?
-Giỏi.
-Anh muốn em
xem lại lần nữa.
Nga đưa mắt quan sát. Nàng học Mỹ
Thuật, nên cái nhìn của nàng, trong đó, mọi sự vật như thể đã được sắp
sẵn theo
ý nàng. Nga cầm bình hoa, dời qua phía bên trái một chút cho cân đối vị
trí.
Hai người nói chuyện một lúc, Nga trở xuống nhà, đúng lúc này, bánh lọc
đã hấp
chín, giò cuốn chiên xong, luôn cả món xôi và gà luộc cũng đã rồi. Chỉ món đặc biệt là mì Quảng, bây giờ Nga bắt
đầu.
Trên bếp, son nước sôi để luộc mì. Bốn
cô cùng đứng bên Nga, nghe nàng nói về món ăn đặc biệt này của xứ Quảng
mà nàng
học từ người cô em họ của ba nàng. Người cô này, lúc ở Hội An, có mở
một tiệm
mì Quảng ở Cẩm Hà, quán ăn nằm bên con đường lớn của vùng ngoại ô trông
xuống
sông Thu Bồn. Ở xứ Quảng, món mì rất bình dân, để được ăn ngon, sợi mì
vừa mềm
và dẽo, còn đồ nấu là thịt heo cắt lát thật mỏng, tôm nhỏ không bóc vỏ,
rồi cho
gia vị, tất cả thứ này nấu thành nước dùng mì, nó không được loãng nước
như
bún, phở hay hủ tiếu mà phải nấu thật rền, và thật kẹo.
Liên An nói:
-Chị Thiên
Nga đúng là một phụ nữ hoàn hảo.
Nga chỉ cười, tay trái nàng đang cầm
đũa khoắng nhẹ cho ớt màu hòa tan vào nước dùng. Liên An nhìn vẻ khéo
léo từ
bàn tay của Nga khi nấu món ăn, cô gái bỗng ước ao mình có được người
chị như
nàng.
Loan lên tiếng hỏi:
-Anh Nguyên
có hay khen chị không ?
-Trời, ông cứ
khen hoài.
-Và, chị thấy
anh sao ?
-Anh Nguyên
vui tính.
-Chưa hết
đâu.
-Em thấy anh
Nguyên và chị quá đẹp đôi.
-Hôm nào đến
lễ đính hôn, mình sẽ chụp ảnh và quay phim.
-Em ở xa, chị
nhớ gởi ảnh cho em.
-Chắc chắn rồi.
-Có chữ ký ,
lời đề tặng của hai người. Và cả thư nữa nhé.
Nga hỏi:
-Liên An muốn
mình viết hay anh Nguyên.
-Cả hai
người.
Nguyên đang ngồi một mình trên phòng
khách. Anh cảm thấy hài lòng khi nhìn cái vẻ sáng đẹp, tươi tắn trong
căn phòng
hôm nay được trang hoàng để mừng sinh nhật Thiên Nga.
Bên ngoài, buổi chiều thật nhẹ
nhàng. Phía dưới sông, có đông người giặt
giũ, bất chợt vang lên tiếng kêu xình xịch của một chiếc xuồng máy rẽ
sóng lướt
mau, rồi xa dần. Ngày chủ nhật, sinh hoạt
trên các khu phố quanh nhà ga vẫn giữ một nhịp độ như ngày bình thường.
Huyền
Trân là con đường từ đầu phố ga ra ngoại ô, con đường này khá dài, có
những
quãng ven theo dòng sông, buổi sáng sớm trông thấy sương mù còn bao phủ
trên những
cây cầu và những khu phố bên kia bờ sông, buổi chiều, cảnh hoàng hôn
xuống
trông rất đẹp, và cũng rất buồn. Khi ra đến cuối ngoại ô, con đường
càng thơ mộng,
êm ả, với tiếng gió ru hàng cây, với những căn nhà màu ngói đỏ, và nghe
dậy lên
những hương vị thoang thoảng mùi thơm cây trái từ trong các nhà vườn
tỏa ra. Hết
con đường này, bạn sẽ còn trông thấy còn một con đường đất rộng nối dài
theo, dẫn
đi qua các ngôi làng rồi vượt qua các dãy đồi, dần dần tiến đến núi.
Phương bỗng lên tiếng:
-Anh Thụy sắp
về phép đó chị Nga.
-Ờ, chị có
nghe anh Nguyên nói. Anh cũng sắp đi học ngành hoa tiêu.
-Anh Thụy đã
gặp chị Nga lần nào chưa ?
-Chưa.
-Anh có về
phép.
-Ngày Thụy về
phép, mình ở Đà Nẵng.
Liên An nói:
-Anh Thụy
quen cô nào, anh cũng mời người ta uống cà phê.
-Con người
nghệ sĩ mà.
Bỗng dưng Liên An muốn kể ra chuyện
về một người mình đã gặp nhưng rồi cô dừng lại, sợ có điều dị nghị. Tuy
nhiên,
Nga đã nghe cô gái kể một vài câu chuyện về người đó rồi.
Buổi chiều đã qua nhanh, vừa hết giờ
nguyện, chuông nhà thờ lớn của thành phố đánh lên vang vọng một hồi dài
nghe trầm
tĩnh, lắng đọng, sự sinh hoạt một ngày sắp hết.
Nguyên bật đèn sáng. Vừa đúng lúc,
các cô em mang từng món ăn lên dọn vào chiếc bàn xếp dài. Trên bàn, đã
có sẵn
ly giấy, nước giải khát, các thứ này Nguyên mua ở quầy hàng quân tiếp
vụ của
Trung đoàn.
Sau khi mì luộc chín xong, Nga vớt
ra ngoài để ráo khô trong cái thau nhựa, còn nồi nấu món mì, lửa được
hạ thấp để
giữ sức nóng. Ở bàn nhỏ bên kia, Nga đã để sẵn vài dĩa bánh và xôi,
dành biếu
bà chủ nhà và để cho Phương mang về cho mẹ và các em của Nguyên.
Ba cô em dọn tiệc xong, đi rửa mặt
và thay áo dài. Nga vào phòng mình, sau khi các cô đã xong.
Kim đồng hồ chỉ đúng sáu giờ, giờ mặt
trời lặn.
Nga trở ra ngoài với chiếc áo nhung
màu rêu thật là đẹp. Nàng đeo lên cổ một chuỗi hạt nhỏ màu hồng rất là
xinh.
Nguyên cầm máy ảnh, sẵn sàng, anh đề
nghị trước tiên các cô đứng cạnh nhau trước bàn tiệc, rồi lần lượt là Nga, bên cạnh mỗi cô trước chiếc bánh sinh
nhật với một ngọn nến hồng cắm ở ngay chính giữa chiếc bánh lớn.
Mỗi cô, một màu áo. Mỗi cô, duyên
dáng qua nụ cười. Nga cảm thấy hạnh phúc, nàng ứa lệ.
Rồi ngọn nến được thắp sáng lên. Nga
đứng trước chiếc bánh và ngọn nến. Hôm nay là sinh nhật thứ 21 của
nàng. Ngọn nến
hồng với dáng cao và đẹp vươn lên tỏa sáng xuống chiếc bánh. Nguyên
chụp Nga từng
ảnh một ghi dấu mỗi khoảnh khắc hạnh phúc của nàng.
Và, buổi sinh nhật bắt đầu. Ngọn nến
lung linh. Như một cảnh trong phim, Nga cúi xuống, chúm môi thổi tắt
ngọn nến.
Tuổi 21 vừa trôi qua sau một giây. Khi lửa nến đã tắt, tiếng vỗ tay của
Nguyên
và các cô em gái cùng reo vui lên, rồi lúc đó, tiếng hát những người
đang hiện
diện cùng cất lên:
Happy birthday to you, happy
birthday to you.
Happy birthday...
XII
Tối hôm ấy, sau bữa tiệc sinh nhật
mà món ăn nào cũng ngon, vừa miệng, Nguyên , Nga cùng mấy cô em ngồi ở
phòng
khách trò chuyện, cười nói rất là vui. Liên An là đề tài chính về
chuyện nàng sắp
đi du học. Nhân chuyến đi của Liên An, Nguyên kể cho các cô chuyến đi
của anh
sang Đài Loan hai tháng để học về khoa chiến tranh tâm lý. Anh vừa gợi
nhớ, và
dùng nét phác họa, rồi theo câu chuyện anh nói đến một biến cố lịch sử
Trung
Hoa, vào năm 1949, hồng quân Mao Trạch Đông nổi dậy giành chiến thắng,
Tưởng Giới
Thạch bại trận rút lui quân ra Đài Loan và
thành lập thành một quốc gia riêng trên đảo này.
Bên ngoài, có tiếng động gió thổi
rung cây lá , và trên mặt sân là màu sáng của ánh trăng. Trăng mùa thu
thật đẹp.
Từ cửa phòng khách mở rộng, bạn nhìn ra thấy con đường Huyền Trân, thấy
dòng sông
chảy bên dưới, một lúc sau, trăng sáng ngập lên hai bờ sông, dâng cao
và tràn
qua những mái ngói của ngôi trường, ngôi trường cũng vừa là một tu viện
cổ
kính.
Đến 9 giờ, Nga mời mọi người qua
phòng tranh. Khi bật đèn sáng lên, những bức tranh hiện ánh màu nước
thật là sắc
, và trong ánh màu của mỗi bức biểu hiện rõ năng khiếu hội họa của một
sinh
viên học trường Mỹ Thuật.
Một giọng vui, lớn trong phong cách
đĩnh đạc Nga nói:
-Bây giờ,
mình khai mạc phòng tranh với các bạn.
Các cô vỗ tay khen ngợi. Niềm vui của
Nga như thể là những hoa trái đầu mùa vừa được hái. Có mười bức tranh
được treo
trong căn phòng này. Nga hướng dẫn các cô bạn đi xem tranh, mỗi bức,
Nga để cho
các cô thưởng thức, bình phẩm, và nếu cần đến một lời giải thích, Nga
mới lên
tiếng.
Nguyên thay xong cuốn phim, thêm lúc
này nữa, anh chụp ảnh cho căn phòng triển lãm tranh của Nga.
Tùy theo cách chọn mỗi cô, Nguyên chụp
ảnh qua chân dung và bức tranh treo đằng sau. Tiếng bước chân lay động
nhẹ
nhàng gây nên sự ấm cúng. Rồi sau một lượt xem tranh xong, chiếc bánh
sinh nhật
được Nga cắt thật khéo để mời khách.
Mỗi cô gái dành cho sinh nhật Nga
một câu chuyện. Đây là câu chuyện hội họa
về những bức tranh được xem xong bên phòng triễn lãm. Và bây giờ, những
câu
chuyện này được nói ở phòng khách.
Những bông hoa Loan vừa nói đến, thật
sống động. Nhìn qua các bông hoa, bạn sẽ thấy rằng Loan nhận xét đúng,
cái đẹp
và cuộc đời Thiên Nga ẩn chìm trong những sắc hoa ấy.
Khoảng hai tuần sau, có toán ALO mới
đến , nhóm của Thụy bốn người được thay phiên. Trưa nắng gắt, đầy bụi,
sau chuyến
tiếp tế, cả nhóm được trực thăng đón đưa về Biên Hòa. Xuống sân bay ở
phi đoàn
229, họ quá giang xe pick up, xuống ở phòng tài chánh để lãnh lương.
Sau khi nhận lương xong, mỗi người tản
mác một nơi, hẹn gặp ở bên đơn vị vào đầu giờ làm việc buổi chiều.
Số tiền lương của Thụy được ba ngàn
hai trăm. Thụy tính đến tiền nhà thuê,
tiền ăn trong tháng, còn lại non một ngàn là tiền tiêu.
Quán cơm nằm cách cổng chính Quân
đoàn hơn trăm thước. Khi bước vào quán, người Thụy đầy bụi ở quần áo và
trên
chiếc ba lô. Nhưng anh không còn cảm thấy mệt mỏi, vì thế nào sau
chuyến công
tác cũng được nghỉ xả hơi đôi ba ngày.
Vừa ngồi xuống ghế, Thụy gọi:
-Cơm dĩa.
-Trứng
chiên, hay đồ xào chú.
-Cho chú
chung cả hai thứ.
-Nước uống,
chú.
-Trà đá, ly
lớn nghe.
Đứa gái nhỏ quay bước. Nơi bàn Thụy
ngồi trông ra con đường, nắng bụi, và tiếng động xe cố gây thêm cảm
giác buồn ngủ. Sau bữa ăn, Thụy còn muốn
uống cà phê
cho được tỉnh táo. Hai tuần đi hành quân, ngày đêm, Thụy nghe vang
tiếng súng đạn
giao tranh, tiếng súng trọng pháo của bên quân dù và bên Cộng quân, và
trong giấc ngủ chập chờn có khi gặp cơn
ác mộng, ngay lúc đó, Thụy có cảm tường mình đang ở một nơi chốn nào xa
lạ
trong khung cảnh nước độc, rừng thiêng.
Khi đứa gái mang cơm và nước uống
ra, Thụy gọi thêm một dĩa cơm không để
ăn no.
Cứ vào bữa ăn, Thụy luôn đói, nhờ vậy,
anh ăn cảm thấy ngon và ăn được nhiều cơm. Những miếng cơm anh ăn cũng
thật
thô, và anh ăn trong sự vội vàng, thiếu thốn. Những miếng anh ăn cũng
không
nhai kỹ, rất có thể sau này, khi tuổi càng lớn , bệnh đau bao tử sẽ gây
khó
khăn cho anh. Nhưng thậy kệ, anh đang sống với ngày qua ngày, có vậy
thôi.
Sau bữa ăn no, Thụy gọi ly cà phê
đá. Không đợi lâu, có cà phê đá Thụy cầm ly uống một ngụm đầy xong đốt
điếu thuốc.
Khi hít những hơi thuốc của một điếu vừa mới đốt, Thụy hít thật sâu,
xong nhả
khói ra từ từ, cảm giác lúc ấy, biết bao nhiêu là ý tưởng trộn lẫn cùng
giấc mơ
làm anh thật sự khoái trá. Như vậy đó, Thụy cho phép mình đã hiểu đời,
và rất
đáng được hưởng một cuộc sống.
Quán ăn đông khách, vì giờ này là
cao điểm. Quanh các loại bàn lớn nhỏ bày trong quán, bàn nào cũng có
đông lính
tráng ngồi ăn.
Thụy ngồi ở quán cho đến đầu giờ làm
việc. Khi trả xong tiền ăn, anh mua thêm gói thuốc trong số tiền thối
lại.
Một người lính nhìn qua khi anh vừa
đúng lên và quàng ba lô vào người. Bật chợt, anh thấy kim đồng hồ treo
tường
chí đến 2 giờ.
Ra khỏi quán, anh đi về phía cổng, rồi
từ cổng đi bộ tới Trung tâm Không trợ nằm ở dãy nhà bên trái.
Bộ chỉ huy Không trợ nằm dưới hầm,
có gắn máy lạnh. Ở đây, có cả một đơn vị Không quân Mỹ làm việc chung,
vậy mà,
sự cố gắng học Anh ngữ của Thụy với các ông Sĩ quan và lính Mỹ, không
được mấy
kết quả. Hai năm rồi, bốn kỳ thi Tú Tài đôi, anh vẫn lấy được nổi mảnh bằng.
Qua khỏi quầy căng tin,
Thụy rẽ
trái là đến phòng làm việc của ban ALO. Phước đang
trực máy, vừa thấy Thụy
người bạn đưa tay chào.
-Sao ? người
hùng.
Vừa buột miệng chưởi thề, Thụy tiếp
lời:
-Rét quá mày
ơi, ngày nào cũng nghe pháo.
-Đám kia đâu
?
-Lãnh lương
xong, anh em tản mác. Chắc tụi nó sắp qua.
Thụy mời Phước điếu thuốc. Đốt lửa
xong, Thụy hỏi:
-Có gì lạ
không ?
-Mày có giấy
gọi đi học.
-Lâu chưa ?
-Hai ngày
rồi. Mày lên văn thư gặp trung sĩ Bình.
-Ờ.
Vừa thấy viên Đại úy trưởng ban vào,
Thụy đứng nghiêm, chào kính. Ông hỏi Thụy:
-Mấy anh em
kia đâu ?
-Ở bên Không
đoàn, chắc sắp qua.
-Anh lãnh
lương chưa ?
-Dạ rồi.
Viên Đại úy nhìn áo quần Thụy mặc
khá lôi thôi, ông mỉm cười.
-Sao tình
hình trên vùng hành quân sao ?
-Nghe đạn
pháo suốt ngày, Đại úy ơi.
-Cho mấy cậu
đi theo hành quân cho thấm mùi chiến trận.
-Đại úy, cho
tụi em ít ngày nghỉ chứ.
-Cố nhiên.
Thụy định lấy gói thuốc đưa mời,
nhưng thuốc anh hút loại nặng và rẻ tiền nên thôi. Viên Đại úy ngồi ở
bàn làm
việc, còn Thụy vẫn đứng. Bỗng nhớ về Thụy, ông nói:
-Anh được gọi
đi học hoa tiêu.
-Dạ, mới
nghe anh Phước nói.
Với một nụ cười hảo cảm, ông nói với
Thụy:
-Anh sắp trở
thành hoa tiêu rồi.
Thụy đáp lời ngay:
-Chưa dám
đâu, Đại úy.
-Sao mà chưa
được. Anh đi học, chừng hơn một năm là trường.
-Nhưng biết
có đậu không. Ở đây, Sĩ quan ALO, ông nào cũng gãy cánh.
Với cái nhìn trầm lặng, thông cảm,
ông nói:
-Tôi hiểu
anh có nỗi lo. Nhưng khi đã chọn lựa sự ra đi, nhất quyết anh phải cố
gắng
thành công.
Rồi ông bảo Thụy kéo ghế ngồi. Ngồi
xuống ghế, Thụy nói lời tâm sự:
-Em vẫn muốn
học xong Tú Tài II, rồi xin vào ngành kỹ thuật.
-Tuổi em còn
trẻ, trở thành phi công hào hùng hơn.
-Vâng, em
cũng có ước mong này, nhưng được trở thành phi công như Đại úy, đâu dễ
dàng.
-Không khó lắm
đâu. Tùy vào khả năng, sức khỏe của mình khi học bay.
-Đại úy bay
đã quá ba ngàn giờ chưa ?
-Chưa tới.
-Ba ngàn giờ,
là được mang cánh có râu.
-Đúng rồi
anh. Vậy là anh cũng biết qua về hoa tiêu.
Thụy nói:
-Trước khi học
chuyên môn, em có làm việc ở phi đoàn 217 và báo Lý tưởng.
-Anh có viết
báo sao ?
-Em viết loại
truyện sáng tác thôi.
-Hay lắm.
Rồi nghề bay đem cho anh nhiều cảm hứng
viết văn.
-Em viết vui
thôi, không thể là nhà văn.
-Anh đọc cuốn
Đời phi công chưa ?
-Rồi, Đại
úy.
-Và những tiểu
thuyết của Saint Exupéry
-Có, em đọc
qua bản dịch. Em thích cuốn Bay đêm.
-Anh không đọc
được tiếng Pháp ?
-Không đủ sức.
Nhưng học chương trình thi, tác giả này em có học.
-Saint Ex,
viết truyện rất hay, thơ mộng, lãng mạn, đúng tâm hồn của phi công.
-Saint Ex
lâm nạn, chết trong kỳ đệ nhị thế chiến.
-Đúng rồi.
Bên ngoài, tiếng cười nói ồn ào, và
Thụy biết là các bạn trong toán đã tới. Trung úy Ngoạn xuất hiện, ông
đứng
nghiêm chào kính.
-Sao, khỏe
chứ Ngoạn.
-Cám ơn Đại
úy.
-Hai cậu sao
?
-Dạ, cũng
bình thường. Tài và Phú chào xong đáp lời ngay.
Viên Đại úy nói:
-Chuyến công
tác tốt. Tôi để cả toán nghỉ ba ngày rồi trở lại làm việc.
Thụy để anh em ngồi lại, xin phép
viên Đại úy đến phòng văn thư. Vừa thấy anh, trung sĩ Bình cười hỏi:
-Sao, chừng
nào bạn khao chúng tôi chầu bia đây.
Thụy chỉ cười. Bình hỏi lại:
-Sao mà cười
trừ.
Vừa kéo ngăn học, Bình tiếp lời:
-Thôi, để
cho bạn đi học ra Sĩ quan rồi về khao nhé.
-Đồng ý.
Thụy được xem Công điện gọi đi học,
danh sách gồm bốn chục người. Tên và cấp bậc của Thụy nằm ở hàng thứ 12. Thụy còn nhận được thư của Phương, em gái
anh.
-Rồi thủ tục
sao, Trung sĩ.
-Về nghỉ ít
ngày cho thoải mái, xong trở lại đây nhận giấy tờ đi học.
Trong phòng văn thư, có hai
người đang chơi cờ. Bên chiếc bàn trong
góc, hạ sĩ Phong đang đánh máy giây tờ về các tin tức tình báo, một vài
người nữa
đang làm việc, nhưng câu chuyện giữa Thụy và các bạn vẫn tiếp nối.
Bỗng nhiên, Thụy nhận ra thời gian trôi
nhanh. Lúc trưa, cả toán lên trực thăng, từ trên phi cơ nhìn xuống,
Thụy trông
thấy núi, đồng ruộng, thị trấn Tây Ninh và đường quốc lộ I. Gió tạt mạnh, tiếng cánh quạt kêu vù vù, ngồi nhìn ra
ngoài Thụy nghĩ nhiều đến chiến tranh trong khoảng thời gian hai tuần
lễ ở vùng
hành quân với Sư đoàn dù, và Thụy đã trực diện, nghe rõ tiếng súng nổ,
nhìn thấy
những cuộc giao tranh. Vào lúc ấy, Thụy không dám nghĩ đến những câu
chuyện chiến
tranh thật lãng mạn để kẻ cho Huê nghe (nhưng nếu nàng thích, mình sẽ
kể). Với
Thụy, có Huê một cô gái giúp anh hiểu
thêm đôi chút về một cô gái lạ lùng trong cuộc sống.
Kim đồng hồ phòng văn thư chỉ bốn giờ.
Thụy nói lời chào các bạn, xong trở lại phòng của ban ALO, nhưng thấy
vắng chỉ
có mình Phước làm việc.
-Chưa về à ?
-Đại úy Luyện
đi đâu ?
-Đi họp.
-Thôi, về
nghe.
-Ờ.
Với chiếc ba lô đeo vai, Thụy mở lối
cửa sau ra ngoài. Ở trong phòng có máy lạnh, người cảm thấy dễ chịu, ra
bên
ngoài trời hừng nóng, một lúc sau mới thấy quen mắt cảnh vật.
Từ khu vực Trung tâm Không ra đến cổng
cũng xa, vừa đi, Thụy đảo mắt tìm kiếm xe quá giang nhưng không có xe
nào cả.
Trời bỗng âm u như thể sắp có mưa.
Bên kia đường, có chuyến xe khách vừa mới ngừng. Thụy vội băng nhanh
qua và lên
xe, nhưng rồi xe vẫn chưa chạy ngay. Thụy ngồi dãy ghế giữa, phía
ngoài.
Hai chiếc phi cơ khu trục vừa cất
cánh bay lên tiếng động cơ vang giữa vùng trời.
-Chưa chạy
sao anh tài ?
-Chưa. Chờ
lấy thêm ít người khách.
Chiếc ba lô Thụy treo trên giá. Và
lúc này chờ, anh mở thư Phương ra đọc. Nỗi
vui đến với tôi ngay những giòng đầu thư, Phương báo tin cô thi đậu
được bằng
bán phần, rồi sau đó em Thụy kể chuyện gia đình, gần cuối thư, Phương
mới cho
biết cô được dự ngày vui sinh nhật của chị Thiên Nga bạn gái anh
Nguyên. Bỗng
dưng lòng Thụy bâng khuâng, vì không có được ảnh củaThiên Nga. Vậy là,
từ kỳ
nghỉ phép hồi năm ngoái đến giờ, Thụy chỉ nghe tên người con gái xứ
Quảng, và
hình dung nàng qua mỗi câu chuyện, qua những hàng chữ viết của người
thân trên
dòng thư. Phương nói, chị Thiên Nga bằng lòng cho gởi mấy tấm ảnh chị
đến cho
anh, nhưng vì hay tin anh sắp đi phép nên cô em gái muốn dành cho Thụy
một sự
ngạc nhiên, vào lúc ấy, không biết anh sẽ nghĩ như thế nào, hay cảm nhận ra sao sau một thời gian lâu chỉ
hình dung nàng qua trí tưởng.
Có bốn người khách tới một lượt , họ
lên ngồi ghế sau. Xe hàng nổ máy trở lại, từ từ
lăn bánh. Thụy gấp lá thư của Phương
bỏ vào túi áo trên.
Ngồi bên cửa xe Thụy yên lặng nhìn
ra ngoài. Ý nghĩ về một nơi chốn xa lạ, về một cuộc chiến đã xảy ra nơi
ấy mà
Thụy vừa ở đó cách đây hai tuần, giờ đây, trên chuyến xe hàng anh đang ở trên con đường đi đến một thành phố.
Rồi,
anh sẽ thấy lại những khung sinh hoạt bình thường ở Sài Gòn như trước
khi đi. Rồi,
anh cũng sẽ mau chóng quên những ngày lửa đạn vừa mới qua.
Sài Gòn, trời đang mưa. Xuống xe ở
bên hông nhà thờ chợ Thị Nghè, Thụy đến trạm xe buýt đứng núp mưa, đồng
thời, mở
ba lô lấy chiếc áo mưa ra mặc.
Trời mưa nặng hạt , rồi tạnh. Về tới
chỗ nhà trọ, hầu như mọi việc tôi cùng làm một lúc cho nhanh chóng, sau
đó, Thụy
trút bỏ hết cảm giác nẳng nề của chuyến đi khi đã giặt, phơi xong hết
quần áo,
rồi bước vào phòng tắm.
Mỗi giờ, thời gian lại chuyển dịch
Thụy qua một ví trí khác. Bên ngoài, trời chưa tối hẳn. Từ trên gác,
nhanh chân
qua lối cầu thang đi xuống nhà, tay cầm sẵn tiền đưa cho bà chủ.
-Cám ơn cậu.
Hai tuần rồi, cậu đi đâu xa ?
-Tôi đi công
tác.
-Có một người
tới tìm cậu.
-Ai vậy ?
-Tôi nhớ anh
này có đến đây một lần.
-Anh ta có
nhắn lại gì không ?
-Không. Anh
hỏi cậu, tôi nói đi vắng, xong là anh lên Honda đi liền.
Thụy
đoán nghĩ chắc là Thành.
-Cậu ra
ngoài ăn cơm ?
-Ờ cũng đi
ăn, rồi xuống phố.
-Tôi quí cậu
làm nghe. Thật là một người đàng hoàng.
-Cám ơn bà.
Cứ đến đầu tháng, tôi lo trả tiền nhà cho bà kẻo sợ bà lo lắng.
-Không,
không sao đâu.
-Sao, lâu
nay, anh con trai của bà có thư về không.
-Có, này cậu.
Có ảnh của em chụp ở trường, tôi đưa cho cậu xem.
Bà chủ nhà đi lấy thư đưa
cho Thụy đọc. Thụy chỉ đọc qua, xem sơ mấy
bức ảnh rồi trả lại cho bà.
Hoàn toàn, lúc này anh không nghĩ đến
tương lai của mình.
Vừa bước chân ra tới đầu đường, bất
chợt Thụy có ý nghĩ hỏi mình sao lâu nay, không tìm sắm một xe đạp để
đi đây,
đi đó. Chưa tìm ra cách giải quyết, mưa ào xuống.
Tới mười giờ đêm, tiệc sinh nhật
vãn. Chỉ còn Nguyên và Nga ở lại dọn dẹp bàn ghế, ly tách, và dĩa giấy.
Những
phần ăn còn dư cũng được đem cất. Mỗi cô , người nào cũng có một phần
quà mang
về nhà, vì các món ăn và bánh trái hôm nay làm khá nhiều.
Sauk hi dọn xong, Nga để Nguyên lại một mình, nàng qua bên bà Huyên
chủ nhà. Bà Huyên đón nàng, vừa vào nhà Oanh để nguyên chiếc khay
xuống, rồi
theo ý bà Nga ngồi xuống chuyện trò.
Nga làm bà Huyên vui qua những câu
chuyện. Chừng sau nửa giờ, nàng đứng dậy xin kiếu từ. Bà Huyên tiễn
nàng đi ra
lối cửa trước, dừng lại bên thềm mái hiên.
Trăng sáng đẹp lạ lùng. Bây giờ, Nga
mặc quần áo nhẹ trong nhà, nàng cảm thấy gió đêm hơi lạnh nhưng cũng
hay, lúc
đi, nàng đã quấn khăn quàng ở cổ.
Cửa phòng khách vẫn còn mở, Nguyên
đang ngồi đọc báo. Nga vào nhà, vừa đóng cửa lại, nàng lên tiếng hỏi
Nguyên:
-Anh uống cà
phê không ?
-Em không sợ
mất ngủ, thì uống.
Nga nói:
-Em đi làm
cà phê.
Nguyên đọc báo. Cà phê, Nga chỉ pha
một phin, với bình thủy nước sôi vừa mới nấu xong.
Nga hỏi:
-Sao, anh
giúp em cả ngày nay, mệt không ?
-Có em, việc
gì anh cũng làm tốt.
-Thật không
?
Hai người bên nhau ngồi chung ở chiếc
ghế lớn. Nguyên ôm Nga trong cánh tay, vừa vuốt tóc nàng. Hai người
đang chờ cà
phê chảy xuống ly.
-Ngày mai Tổng
thống ra thăm Sư đoàn.
-Ông có ghé
Huế không ?
-Không, ông
chỉ thăm các đơn vị rồi về lại Sài Gòn.
-Có thăm
Trung đoàn anh không ?
-Có chứ.
Nguyên hôn mái tóc, hôn xuống cánh
tay để trần của Nga anh cảm thấy dễ chịu, nhẹ nhàng với mùi vị trái cây
nơi da
thịt người yêu.
Nguyên nói:
-Rồi em sẽ bắt
đầu thấy hăng hái, yêu thích chuyện học hành.
-Anh mượn một
số cours năm học đầu cho em.
Nguyên nói:
-Thụy sẽ gởi
cho em một số sách văn học em cần.
-Sách dành
cho Đại Học.
-Ở trường
Văn khoa Sài Gòn, có một số bài giảng được in thành sách.
Nga chợt mỉm cười, nói với Nguyên:
-Một mình em
mà đến hai người săn sóc.
-Chẳng phải,
em sắp là chị dâu của Thụy đó sao ?
Nga hỏi:
-Rồi đến lúc
nào Thụy mới về phép.
-Có lẽ vào
tháng tới.
-Vậy anh viết
thư nhắc Thụy mua sách Đại học cho em.
-Ngoài sách
ra, em cần gì nữa không ?
Nga chỉ nói:
-Em cũng rất
thích học. Nhưng học Đại học, đâu có dễ dàng.
-Em nghĩ
đúng.
-Tại sao,
anh không muốn học nữa.
Im lặng, một lúc sau Nguyên nói:
-Anh không
duyên nợ với khoa bảng. Năm lên Đại Học, anh thi vào trường Sư phạm đậu
đến hạng
nhì, nhưng vào vấn đáp bị đánh rớt. Anh có thể học ở Sư phạm, nhưng học
không
có học bổng, nên anh bỏ, qua học Văn khoa, ở khóa nhì, anh đậu viết,
nhưng rồi
rớt vấn đáp. Thực ra, lúc ấy đừng xảy ra biến cố chính trị, có thể anh
đậu được
rồi....
Nga nói:
-Mới rớt một
năm thôi, anh đã nản chí.
-Anh không nản,
nhưng duyên nợ với sách đèn, anh không có.
-Anh buồn lắm
phải không ?
-Có buồn chứ.
Nhưng bây giờ, em đã học thay cho anh.
-Em sẽ cố gắng.
-Và rất
ngoan ngoãn nữa, phải không.
-Không đâu,
em dữ lắm, Nga cười ngước mắt nhìn Nguyên.
Rồi nàng hé môi để cho Nguyên hôn
nàng.
Khi xuống tới Sài Gòn, Thụy đến nhà
dì Hồng. Trong nhà, ai cũng ngạc nhiên vì cả mấy tuần nay Thụy không
đến. Thụy
không nói về chuyến đi công tác, mà chỉ trò chuyện bình thường về công
việc
đang làm ở đơn vị.
Có tiếng chuông, Thúy ra mở cửa,
Lăng đến.
-Ủa, anh đi
đâu mấy tuần nay ?
-Đi theo
hành quân với Sư đoàn dù.
Ngay lúc ấy, Thụy nhớ ra người khách
đến tìm gặp Thụy là Lăng, không phải bạn
Hoài như mình nghĩ.
XIII
Vừa tới ngày nhận giấy tờ đi học,
lúc tìm gặp anh em trong đơn vị nói lời chào từ giã, bất ngờ,Thụy được hay biết hôm nay là ngày kỷ niệm bốn năm
thành lập đơn vị biệt phái. Và, tiệc liên hoan mừng ngày này được tổ
chức lúc
sáu giờ chiều.
Sau bữa ăn trưa,Thụy đón xe lam ra
Tam Hiệp thăm gia đình chị Số. Tới khu chợ, anh thấy chị ngồi ở sạp
hàng, hai
chị em nói chuyện, và đợi chừng nửa giờ có cháu gái lớn ra trông hàng,
chị đưa
anh về nhà. Lối đường từ chợ đến nhà chị ở xa hơn cây số, nhưng đường
đi có
bóng mát của hàng cây nên không cảm thấy mệt nhọc.
Đã vắng hơn bốn tháng, nay Thụy mới
trở lại nhà chị. Có một vài thay đổi nho nhỏ, bên phía trái cạnh vườn,
chị
làm hai cái chuồng cao nuôi chim bồ câu.
Từ phía đường trên có tiếng chó sủa, vào sân, Thụy thật vui mắt được
nhìn bầy
gà của chị đang mổ thóc, và nghe tiếng gà mẹ, gà con ríu rít bên nhau
mà nhớ đến
làng quê trong thuở thanh bình. Nhớ rõ lần đầu cách đây bốn năm, Thụy
và anh
Nguyên từ Sài Gòn tìm lên thăm chị. Rồi, Thụy làm việc ở Biên Hòa, rất
nhiều lần
chị mongThụy đến nhà chị ở cho có tình
chị em, cũng gần chỗ làm việc (mà em có ngại lắm, em chỉ vẻ cho cháu
học giúp
chị) nhưng thực lòng, Thụy không muốn có điều kiện như thế, Thụy vẫn
luôn nhớ đến
chị, có dịp đến thăm, và tự nhủ rằng, chị là người nhân hậu, rất thân
yêu trong
gia đình, giòng họ, và riêng với cuộc đời anh nữa.
-Cháu chào cậu.
Ở bàn học bên cửa sổ, cháu Hùng con
trai chị vừa thấyThụy đứng dậy chào.
-Hôm nay
cháu nghỉ.
-Dạ không,
cháu học lớp chiều.
Hai chị em ngồi ở bàn khách, trông
ra cửa chính mở rộng. Chị Số hỏi, vừa rót trà nóng ra ly.
-Cậu có về
phép thăm nhà không ?
-Em có về
năm ngoái.
-Chú thím, mấy
em khỏe không ?
-Ngoài nhà
bình thường. Em cũng có ra làng quê.
-Chị cứ
trông về thăm một lần mà chưa đi được.
Thụy
nhìn gương mặt người chị, đôi mắt to, vẻ lặng buồn
như chỉ gửi gắm trong
câu nói.
-Em thăm chị
lần này, có lẽ lâu nữa mới gặp lại.
-Cậu thuyên
chuyển đi đâu ? Về ngoài Trung hay lên cao nguyên.
-Em đi học.
Chị Số nhìn lại người em trai. Khi
Thụy rút điếu thuốc trong bao, chị để anh châm lửa hút, và rồi không
đợi chị hỏi,
Thụy giải thích cho chị hay. Niềm vui dậy dàng làm sáng khuôn mặt chị.
-Vậy đến chừng
nào em đi qua Mỹ ?
-Chưa đâu,
đơn em xin đi học mới được chấp thuận.
Thụy cũng nói cho người chị hay về
điều kiện được cho đi học hoa tiêu là phải có sức khỏe tốt. Thụy xong được giai đoạn này, trong kỳ khám sức
khỏe
vừa qua, phần nào anh cũng tốt, chỉ có mắt hơi yếu bị xếp loại A, nghĩa
là rồi
đây chỉ học về ngành trực thăng.
Bữa ăn trưa, nhà chỉ có mấy người.
Anh Nghi làm việc ở ngành kiểm lâm, trưa ở lại sở. Thụy đã ăn ở quán
trước khi
đến tìm chị, nhưng rồi cũng cầm đũa cho chị vui. Có món bún cá thật
ngon, Thụy
ăn hết tô, và gắng thêm một chén cơm.
Chị Số hơi thất vọng khi thấy anh ăn
ít, sớm ngừng đũa. Nhưng rồi, chị vui trở lại, và trong mắt chị ánh lên
một niềm
vui, sung sướng có được một người em nay mai sẽ đi học ở Hoa Kỳ.
Khi được mẹ cho biết cậu đi học lái
máy bay, cháu Hùng cứ nhìn anh, cắp mắt sáng lên có vẻ thán phục. Thụy đọc được trong mắt đứa cháu những ý nghĩ và
những ước mong của cháu trong sự tưởng tượng về một người cậu.
Bữa ăn qua mau, Thụy lên tấm phản nằm
nghỉ đọc báo, còn cháu Hùng cũng đã vội thay quần áo vì sắp đến giờ đi
học.
Trước khi đi, cháu Hùng lên tiếng
chào Thụy, anh đáp lời vừa đưa mắt nhìn đứa cháu. Đợi cháu ra ngoài,
Thụy mới hỏi:
-Cháu học
hành khá không chị ?
-Cháu học
khá, cậu.
-Mong cháu học
khá, Thụy nói. Rồi tiếp lời: Bên giòng họ mình không có khoa bảng. Ai
cũng chăm
chỉ, cần cù, nhưng rồi đường học cũng không có ai đi được xa. Thế hệ
anh, chị
em mình qua rồi, mong đến các cháu thôi.
-Chị cũng thấy
vậy. Nhưng dù sao, trong gia đình mình tình anh chị em, vẫn còn máu mủ,
giòng họ.
-Chị ra quán
bây giờ ?
-Không, chị
làm việc nhà. Cậu nằm nghỉ đi.
Thụy
qua tấm phản, ngả người xuống nằm đọc báo. Một lúc
anh thiếp ngủ, rồi thức
dậy với một cảm giác xa lạ, mơ hồ. Khi nhìn qua kệ sách, Thụy lấy làm
lạ có mấy
cuốn truyện dịch, Thụy nghĩ chắc không phải của cháu Hùng mà là của anh
Nghi.
Anh Nghi cũng rất ghiền tiểu thuyết, mấy lần trước ghé thăm, ở lại một
hai tối,
trời có trăng sáng, hai anh em ngồi uống trà ngoài sân trò chuyện về
thơ văn rất
thú vị. Và trong các nhà thơ xưa, Nguyễn Bính là thi sĩ anh rất ngưỡng
mộ.
Ở trên kệ không có sách truyện kiếm
hiệp của Kim Dung, nhưng Thụy biết anh Nghi đã đọc từng kỳ tên nhật báo
và có
trí nhớ rất tốt. Những truyện Kim Dung anh đã đọc, ngoài trí nhớ ra,
anh có những
cách mô tả nhân vật rất ấn tượng, hấp dẫn
và những lời bình luận cũng độc đáo. Thụy có đọc hai cuốn Cô gái Đồ
Long và Tiếu
Ngạo Giang Hồ. Hai nhân vật nữ trong hai bộ truyện này Thụy rất nhớ,
rất vọng
tưởng là Chu Chỉ Nhược và Nhạc Linh San. Và, sau hai nhân vật này , có
một nhân
vật phản ảnh rõ tính cách người đời trong xã hội là Nhạc Bất Quần.
Thụy rời tấm phản, tới kệ sách, nhìn
lướt qua một lúc, xong chọn cuốn Giã Từ Vũ Khí là cuốn anh luôn bị cuốn
hút với
nhiều lần đọc.
Thụy trở lại tấm phản, nằm xuống mở
rộng cuốn sách. Nhưng anh không đọc từ đầu
cuốn, mà lướt qua nhiều chương, xem chương nào thích thì dừng lại đọc.
Đến chương XXIII, Thụy cảm thấy muốn
đọc. Henry hết kỳ nghỉ bệnh trở ra lại chiến trường. Trước khi đi, anh
gặp những
người trong bệnh viện nói lời chào tạm biệt. Khung cảnh một buổi chiều
thật buồn,
cảm động. Lúc sáng nay, nhận
giấy tờ
xong Thụy đi gặp vị Trung Tá Giám đốc, các Sĩ quan, anh em Hạ sĩ quan,
rồi các
bạn lính như anh để nói lời chào từ giã, bỗng dưng anh có cảm tưởng
những kỷ niệm
về một đời lính của mình đã thực sự hình thành và làm anh xúc động. Mới
ba năm
lính, vậy mà Thụy thấy thời gian như đã lâu. Nhớ lại buồi đầu tiên,
Thụy và Tài
bạn cùng khóa đến trình diện làm việc ở phi đoàn 217. Trong phi đoàn,
hầu hết
là các Sĩ quan phi công, hạ sĩ quan và lính chỉ khoảng mười người. Thụy
có chức
vụ là thư ký hành quân, buổi sáng lên ca, Thụy gọi điện thoại qua Đài
khí tượng
xin tin tức thời tiết để ghi lên bảng, sau đó, ngồi ở bàn làm những
việc linh
tinh về giấy tờ, vừa nghe điện thoại. Giờ nghỉ trưa, chiều, đi ăn xong
Thụy trở lại làm việc, đến tối , một mình
với chiếc
ghế bố ở nơi phòng trực. Về
đêm, rất thường xuyên có những phi vụ tản
thương ở chiến trường. Vào ngày đầu tuần và đầu tháng Thụy phải vẽ biểu
đồ hoạt
động của phi đoàn, rồi làm tính cộng số giờ bay của mỗi phi công trong
tháng.
Trong cuốn sổ bay hàng ngày, các phi công có phi vụ sau khi hoàn tất,
thường
ghi giờ bay vào sổ ở hai cột, cột hàng đầu là giờ cất cánh, cột hàng
nhì là giờ
đáp khi trở về, hàng cột thứ ba là ghi tọa
độ và mô tả mục tiêu. Khi tổng kết xong giờ bay, Thụy làm trên một tờ
giấy trắng
viết tay để trình chi vị Đại úy phi đoàn phó vừa kiêm nhiệm Trưởng
phòng hành
quân. Thụy chỉ làm một thời gian ngắn, rồi đi. Nhưng với đơn vị đầu
tiên này đã
cho anh một chút hương sắc hào hoa của người lính không quân. Ở phi
đoàn, các
sĩ quan trẻ rất vui tính, người nào cũng có thiện cảm với cấp dưới và
khi thấy
trong lúc rảnh, Thụy đem sách học, ai cũng khuyến khích. Ngày ra đi
lính, Thụy
thấy tương lai mình buồn bã, nhưng rồi sau ba tháng học căn bản quân sự
ở quân
trường Nha Trang xong về đơn vị này công việc thật nhàn hạ nên anh cảm
thấy dễ
chịu, và cầm chắc chữ thọ cho số mạng của mình. Ngoài công việc ra, đôi
lúc,
anh cũng có đôi chút nghĩ ngợi, suy tư về cuộc chiến tranh. Mỗi ngày,
từ sáng đến
tối khuya, phi đoàn có rất nhiều phi vụ tiếp tế, tản thương, công tác,
biệt
phái. Khi các phi công trở về sau một phi vụ hoàn tất, nhìn hình ảnh họ
qua bộ
quần áo bay màu lam, màu đen, hay màu da cam, Thụy có ngay một ý tưởng
về họ là
người hiệp sĩ của không trung. Và tiếp
đó, anh liên tưởng những trang sách tả các những chuyến bay chở thư,
những chuyến
bay đêm, những chuyến bay hành quân của nhà văn phi công Pháp Saint
Exupéry.
Vào một tối lên phiên trực,Thụy được Trung úy Thạnh trưởng toán cho anh
theo một
chuyến bay đêm đi tản thương ở Hậu Nghĩa với hai phi công trong phi
đoàn. Bãi đậu
phi cơ của phi đoàn nằm xa doanh trại chừng hai trăm mét, lúc lên phi cơ, anh ngồi phía sau với một cơ khí
viên, đội mũ bay, phía trước là hai ghế ngồi của phi công bên trái là
người
chánh, bên phải là người phụ. Sau những vòng quay rất nhanh của cánh
quạt, phi
cơ cất cánh. Từ chỗ ngồi nhìn ra khoang cửa, lúc phi cơ dần dần lên cao
Thụy
trông thấy quang cảnh Sài Gòn bừng sáng ánh đèn. Nhưng chỉ ít phút sau,
phi cơ
bay vào trong đêm tối, và lúc đến vùng hành quân Thụy trông thấy những
tia sáng
của lửa đạn và có cuộc chạm súng đang diễn ra. Vừa liên lạc với quân
bạn, phi
cơ vừa giảm độ cao và đáp xuống một trảng cỏ. Gió cánh quạt vẫn quay
đều làm
tung những đám cỏ ở khu tiền đồn , ngay lúc đó, bốn người lính chuyển
hai băng
ca của hai thương binh lên máy bay. Trời tối, Thụy không nhìn rõ mặt
họ, nhưng
nhận ra các vết thương đã được băng bó tạm.
Từ tiền đồn về quân y viện Cộng hòa
khoảng nửa giờ bay. Sau mười phút đổ thương binh, trực thăng lại cất
cánh. và
trước khi trở lại phi đoàn, hai phi công bay mấy vòng bay trên thành
phố Sài
Gòn, lúc này,Thụy được thỏa mắt nhìn thấy
một thành phố sáng rực, tưng bừng như ngày hội.
Thụy về viết một đoản văn về chuyến
bay đêm gởi báo Lý tưởng và được chọn đăng. Rồi anh gởi thêm ít truyện
ngắn,
các sáng tác của anh được chúy ý, và đến một ngày ấy Thụy được kéo về
báo Lý tưởng
làm việc với tính cách phóng viên cho tờ báo. Thời gian này, Thụy đi
công tác
luôn, chuyến công tác nào anh cũng được lên máy bay. Những gì đã qua,
đó là những
gì vẫn còn lại (rồi sẽ theo anh).
Vừa ra khỏi bệnh viện, Henry bước
vào quán cà phê . Bên ngoài, trời đêm xuống lạnh lẽo, nhiều sương mù.
Henry ngồi
uống cà phê, lúc trông thấy Cathérine đến, anh đứng lên gõ vào cửa,
nàng quay đầu,
trông thấy anh nàng mỉm cười.
Henry rời khỏi quán, bước ra ngoài
và cùng với người yêu đi chơi trên phố. Đây cũng là một buổi tối cuối
cùng, rồi
hai người từ biệt. Rất có thể, họ sẽ gặp lại, và cũng có thể là không.
Chiến
tranh, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất đang diễn ra, Cathérine
là người
Anh làm nữ y tá phục vụ trong bệnh viện
của người Anh, còn Henry là người Mỹ phục vụ trong đội quân Hồng thập
tự , cả
hai đang ở mặt trận trên đất Ý.
Về đêm, đường phố lặng
yên, vắng bóng người. Những bước
đi của hai người bên nhau là những lời tâm tình, những ước mơ, những
điều muốn
nói, có vẻ như chỉ mong tìm nguồn hơi ấm, một chỗ ẩn núp, vì trên mỗi quãng phố họ đi qua trời đang lạnh, rất tối,
và mưa.
Một lúc sau, họ đón xe ngựa trở về
khách sạn trước mặt nhà ga nghỉ ngơi, ăn bữa cơm tối, trước khi chia
tay. Suốt
buổi ăn, Cathérine vắt chiếc áo của Henry trên vai nàng. Đây là kỷ niệm
giản dị
và chân thực. Xe lửa từ Turin sẽ đến ga vào lúc mười hai giờ đêm. Tới
giờ đó,
Henry ra đi và chuyến tàu sẽ đưa anh đến đơn vị đang ở ngoài mặt trận.
Lúc hai người chia tay, trời mưa nặng
hạt. Cathérine không vào sân ga để tiễn người yêu, chiếc xe ngựa đưa
nàng trở về
bệnh viện, ngồi trên xe, nàng ngoái đầu nhìn lại bóng dáng chàng.
Còn một chương nữa kết
thúc phần thứ ba của
tác phẩm nhưng Thụy ngừng hẳn, không đọc thêm,
trong khoảnh khắc này, những cảm xúc trong buổi tối
ấy đã làm Thụy lây lất
nghĩ đến chiến tranh, đến các cô gái anh đã quen hoặc một đôi lần gặp
trong những
ngày tháng qua của tuổi trẻ. Và, không có một ai như
Cathérine cả. Thụy nghĩ đến Thúy Hà , đến những
người bạn đã quen biết nàng, trong đó có Thụy nữa. Sau cùng, Thụy nhớ
đến Thiên
Nga. Trong sự nhớ nghĩ về nàng, Thụy trở lại những ngày nghỉ phép năm
trước, đó
cũng là hạnh phúc tưởng như mình đã tìm thấy.
Chị Số ở nhà dưới đi lên, lúc đặt
mâm ăn xuống bàn, chị lên tiếng:
-Có chè
ngon, em dậy ăn.
Thụy
ngửi được hương vị thơm của món chè, liền ngồi dậy,
đem cuốn sách sang
chỗ kệ, để vào chỗ cũ.
-Em ở đây
chơi với gia đình chị ít ngày.
-Em không có
ngày nghỉ phép.
-Vậy biết đến
lúc nào gặp lại em.
-Rồi cũng có
ngày chị ạ.
-Ăn chè đi
em.
Chị Số dọn mâm chè đến sáu chén. Thụy
cầm muỗng múc chè ăn. Chè ngọt thanh, những hạt đậu thật mềm, vừa dẽo.
Vừa ăn,
Thụy thưởng thức món chè cùng với khung
cảnh làng quê ở nơi đây. Bên ngoài, trời chiều thật dễ chịu.
-Lúc này chị
buôn bán khá không ?
-Cũng tạm cậu.
-Nhìn
thấy cuộc sống yên ổn của chị ở vùng quê em rất
là thích.
-Rồi ít năm
nữa thôi, cậu có gia đình.
-Chưa đâu chị
ạ.
Ngon miệng, Thụy ăn thêm chén nữa.
Người chị cảm thấy vui, hỏi anh thêm nhiều chuyện. Thụy hết sức hạnh
phúc được
nhìn và nghe tiếng chị nói. Bằng một giọng hơi nặng, nhưng rõ ràng, chị
Số kể lại
những năm tháng rời xa Quảng Trị, vào sống ở Huế rồi
lấy chồng, ít năm sau đi theo chồng vào miền
Nam. Từ thuở ấy, cái tuổi con gái lớn lên và đi xa gia đình, đã gần
mười năm
nay chị chưa có dịp về thăm làng quê nội ngoại ở Quảng Trị. Trong các
chú, các
cô, ba Thụy rất được chị quí trọng. Với ba anh, ông cũng không chỉ coi
chị là
cháu mà còn là đứa con ruột thịt.
Ngày xa ấy, Thụy chỉ gặp chị một đôi
lần, đến bây giờ, gặp lại lòng anh trở nên thân thiết hơn. Thụy có anh
trai và
em gái. Cả hai anh đều lấy làm thích, nhưng vẫn còn thiếu, ấy là anh
cũng rất cần
có một người chị. Bây giờ, anh có thể nghĩ rằng, chị Số là người chị
ruột thịt.
Thụy thích có được một người chị để được nhớ nghĩ tới và mong mỏi tin
tức khi ở
xa. Và có được người chị, ở xa về với gia đình, thì nhà người chị là
nơi trước
tiên mình tìm thăm, đến đó, mình cảm thấy vui được chuyện trò, và nếu
lúc mình
đến chị vắng nhà, mình sẽ giúp cho chị công việc gánh nước, bổ củi, để
khi chị
còn lo buôn bán ngoài chợ khỏi phải bỏ công làm thêm việc nhà. Và rồi,
buổi chiều
hôm ấy chị em gặp lại nhau, cùng nhau vui với bữa cơm trong gia đình.
Tối đến,
thời gian thư thả tiếng chuyện trò vang âm cả một vùng làng quê ở trong
trí nhớ
cũng như bên ngoài của cuộc đời.
Năm giờ chiều, Thụy chào người chị để
đi. Chị Số đi theo tiễn anh ra lối cổng, dừng lại đó, Thụy nhìn chị
trên gương
mặt buồn và đôi mắt mở to, lúc ấy, chị đưa tay lên quệt mấy giọt nước
mắt.
-Em cám ơn
chị. Đi xa em nhớ đến chị và các cháu luôn.
-Cậu nhớ viết
thư cho chị.
-Em nhớ.
Thụy dời bước, không ngoái đầu lại.
Dưới bóng im con đường quê Thụy bước thanh thản, ra đến bến xe gần chợ,
anh vừa
gặp kịp chuyến xe lam đi Biên Hòa.
Khoảng đường từ Tam Hiệp lên Biên
Hòa chừng mười cây số. Thụy ngồi dãy ghế bên trái, chỗ phía ngoài cạnh
bậc
thang lên xuống, đầu quay nhìn những cảnh vật đằng sau mỗi khi xe lướt
qua. Trời
chiều bâng khuâng trong nắng ấm. Thụy không nhận ra một quang cảnh xa
lạ, và
cũng chẳng thấy nó quá thân thuộc với mình. Đã qua hơn một năm Thụy đến
làm việc
ở thị trấn này, chừng đó không lâu, nhưng rồi, cuộc sống của Thụy ít
nhiều cũng
có sự gắn bó nên đôi lúc nhận ra vẻ thân tình của đời sống, Thụy thật
sự bằng
lòng, chẳng đòi hỏi cái gì cao hơn, hay một ước vọng gì lớn hơn.
Thực lòng, Thụy không mấy vui về
chuyện được đi học lớp sĩ quan ngành hoa tiêu. Điều ước của anh là dứt
khoát lấy
cho được mảnh bằng tốt nghiệp trung học, xong việc này là món nợ anh
trả dứt.
Thụy ước mong có tấm bằng này là để giải tỏa mọi mặc cảm tâm lý về
chuyện thi cử
đã dồn đọng từ nhiều năm tháng qua. Và rồi, Thụy có thể xin đi học khóa
Sĩ quan
kỹ thuật ra trường được mang cấp bậc Thiếu úy làm việc dưới đất, có
đồng lương
kha khá để có thể nghĩ tới được một mái ấm gia đình. Nhưng đây cũng
chưa hẳn là
điều ước mong thực sự của Thụy, điều ước
chính là con đường văn nghệ, một con đường viết văn anh đang đi và luôn
ấp ủ
bên mình.
Khi có được một tâm hồn tự do, phong
phú, Thụy sẽ viết văn hay và tin tưởng vào năng khiếu, vào sự sáng tạo
của mình
và luôn luôn trong mọi tình huống là nhìn về phía trước. Ở đây, trong
cái nhìn
này, là sự cố gắng khám phá những bí ẩn của con người trong văn chương.
Thụy
đang nói với chính mình, tôi sẽ không đi tìm sự linh diệu, huyền bí về
con người
trong đức tin của tôn giáo, mà tôi chỉ mong đạt tới được con người bằng
giá trị
nhân bản của hiện sinh. Và riêng tôi, những nhân vật trong tiểu thuyết
tìm kiếm,
không là toàn thể nhưng có được tính cách biểu tượng. Mới ít năm trên
đường văn
nghệ, nhưng tôi cũng nhận ra sự bộc phát của riêng mình, đồng thời, có
một ý niệm
về bản sắc của văn chương miền Nam từ sau ngày chia đôi đất nước. Theo
cái nhìn
chung, thời của văn chương tiền chiến và văn chương kháng chiến đã qua,
được
đem vào văn học sử một cách trang trọng. Nhà trường vẫn cất giữ những
sách này
trong thư viện, độc giả bên ngoài vẫn đọc
sách, và các tác phẩm cũ vẫn làm họ yêu thích, nhưng dù vậy, nó đã
không còn nằm
trong luồng gió mới của miền Nam. Từ ảnh hưởng lớn lao của văn chương
hiện
sinh, thế hệ mới của tuổi trẻ đã chuyển dòng, khởi sự cho miền Nam một
cách viết
mới, và cách viết này được có cảm hứng từ những suy nghĩ mới. Nhóm Sáng
Tạo là
tiền phong, nhóm này tuy không nhiều
người,
nhưng gây nên được ngọn lửa, thổi bùng cháy sức sáng tạo ảnh hưởng lớn
cho toàn
cõi văn học miền Nam. Khi khởi viết những truyện ngắn đầu tiên, tôi đã
nương nhờ
theo cách viết của nhóm nhà văn này, và càng viết, tôi nhận ra mình có
thêm cảm
xúc mới, cái nhìn mới, nhờ đó chữ nghĩa trở nên vừa lạ lùng, vừa trong
sáng.
Nhưng theo tôi, gió mới trong văn học
miền Nam chỉ ảnh hường nhất thời. Sau những mới lạ ban đầu trong cách
viết mới,
hầu hết các nhà văn tiên phong đã dừng lại, không đi xa nữa. Tại sao ?
Nguyên
do chính, vì những cái vốn sống, vốn kiến thức của họ chỉ đến tầm mức
trung
bình. Có hai hình ảnh nhà văn ở miền Nam: nhà văn tự học, nhà văn có
bằng cấp. Ở
các nhà văn tự học, thường là có năng khiếu đặc biệt về sáng tác, về sự
cảm thụ
, nhưng dễ chết non, vì rằng, ở buổi đầu
họ viết hay đều là những dạng hồi ức, tự truyện, khi đến giai đoạn
trưởng thành
của tiểu thuyết được ví như dòng sông ra
đến biển, thì các nhà văn này không thể viết tác phẩm lớn có bề dày cả
hình thức,
nội dung, vì rằng, họ thiếu kiến thức học vấn, thiếu cả kinh nghiệm
sống, đồng
thời điểm quan trọng nhất là đọc. Sự phát triển trong việc đọc là tìm
hiểu hiểu
văn chương nước ngoài, sự kiện này, các nhà văn tự học do thiếu trình
độ ngoại
ngữ, và ở miền Nam còn quá nhiều sách dịch. Đó , xem ra, đọc là một
bước cản rất
lớn hầu như rất ít có nhà văn tự học nào có đủ khả năng vượt nổi. Về nhà văn thuộc lớp có học, có bằng cấp, thì
những tác phẩm của họ viết ra lại nhiều
phần khó hiểu. Những nhà văn này có thể đem lại cho
độc giả sự tin tưởng
về cái sở học của mình ở cách viết đúng câu, đúng văn phạm, nhưng không
tạo cho
họ những hứng thú trong một bài thơ, một truyện ngắn có tính cách sáng
tạo, vì
rằng sự vắng bóng cảm xúc, đến cả đời sống thực cần thiết cho kinh
nghiệm. Ở lớp
nhà văn có học, hiểu rộng trên sách vở về triết lý hiện sinh nhưng
không biểu
hiện được con người hiện sinh trong cuộc sống qua tác phẩm của mình.
Nguyễn Du
không là một nhà văn, nhà thơ của thuyết hiện sinh , nhưng truyện Kiều
ông viết
là một tác phẩm hiện sinh đặc sắc, toàn diện.
Thụy
luôn có tâm niệm muốn đi đúng con đường văn nghệ, và
chân thực nên luôn
luôn anh tự đo lường khả năng của mình. Để đi được xa, trước tiên anh
cần kiến
thức, đó là sức đọc. Thụy chịu khó, cố gắng đọc. Ít ra, mỗi nhà văn,
anh phải
tìm ra một cuốn đặc sắc để đọc. Với vốn đọc nhiều, anh tin rằng, mình
sẽ nghĩ
ra được một cách viết. Thụy muốn viết những gì anh hiểu được, không làm
dáng
trí thức để viết những điều mà mình không hiểu. Trong những câu danh
ngôn, anh
có được đọc câu của nhà văn Boileau, ông nói rằng, điều gì mình hiểu thì sẽ diễn đạt ra rõ ràng. Thụy cũng không
thích viết lập lại những khuôn sáo của người khác.Thụy chỉ muốn viết,
ước ao viết
ra được những gì chân thực, dễ hiểu, đầy cảm xúc, và phải có một kỹ
thuật văn
chương về cả hai mặt bố cục và bút pháp. Khi đạt điều này, anh đi được
một
mình. Không có nghĩa, trên con đường độc đạo, chỉ riêng mình anh đang
đi, mà thực
ra trong cái bóng của anh có sự hiện diện của một người thầy. Người
thầy của
anh là tác giả và những tác phẩm mà anh vừa yêu thích, vừa khám phá
thấy. Nhờ
vào người thầy mà Thụy chọn như là định mệnh, và con người
này sẽ là hướng đi dẫn dắt anh đi tới một
chân trời văn học.
Thụy đang ở tuổi hai mươi, cùng lứa
tuổi của anh, có rất nhiều anh em cũng
làm văn nghệ, sáng tác thơ văn. Những anh em này là
học sinh, sinh viên,
và đa phần do tình hình chiến tranh, những người trẻ này đã mặc áo
lính. Thụy
đang tìm đọc những tác phẩm của bạn bè hôm nay, dù chỉ nghe tên, dù chỉ
sơ thân
hay đã quen biết. Và đọc họ, anh nhận ra được một đôi điều họ có cái
nhìn mới,
cảm xúc mới, và rất là táo bạo trong sự diễn tả. Vào thời điểm này, văn
chương
lớp trẻ trở thành một biểu tượng cho văn học miền Nam,
một văn học của khói lửa và chiến tranh.
Và những người bạn văn này có tài năng hơn Thụy, nhưng không vì thế,
anh không
nhận ra sự yếu kém của họ, nhìn chung vào mặt yếu, anh thấy chưa có ai
viết thực
với suy nghĩ và cảm xúc, không những thế, rất nhiều anh bạn còn ưa sự
làm dáng
trong văn chương. Rồi, cái nhất thời ở phía ngoài bề mặt chiến tranh,
cũng sẽ
chỉ còn là những sự kiện thông tin, sáng tác của họ một thời gian sau
cuộc chiến
sẽ trở nên cũ kỹ như một lớp sơn đã tróc.
Trưa hôm ấy nhà vắng, chỉ có mình Thụy
và Thúy Hà. Riêng hai người ngồi ở bàn khách chuyện trò, nàng biết anh
yêu nàng
nên để nguyên vẹn cả khuôn mặt của nàng cho anh được ngắm.
Với một giọng thân tình, Thúy Hà hỏi:
-Anh đi xa
như vậy có nghĩ đến lúc trở về không ?
-Anh không
nghĩ tới. Nhưng có em, anh luôn ước mong có một ngày trở về của mình.
-Anh trở về,
sẽ cảm thấy vắng bóng em.
-Không, em
không vắng bóng đâu. Em sẽ có những đổi khác, nhưng mà trong kỷ niệm
anh biết
mình đang có là của em.
-Anh có đi theo
con đường viết văn không ?
-Anh muốn
nói với em, anh sẽ theo con đường này. Không, nó không là mơ ước, không
là sự
thành công, không là đi tìm kiếm danh vọng, tên tuổi, nhưng nó đã báo
trước cho
anh biết số phận của mình. Văn chương như thể đã trói buộc, vận vào đời
anh.
-Em nghĩ là
anh sẽ viết văn.
-Có em, anh
tin là anh viết được. Rồi một ngày nào đó của bao nhiêu năm sau, em là
nhân vật
chính trong tiểu thuyết của anh.
-Nếu anh thực
hiện được đó là niềm vui em đã dành cho anh.
-Em đã nói
ra những lời anh ấp ủ.
Sau một ngày ấy, và từ buổi ấy ra
đi, giấc mơ để trở thành người viết văn ở nơi Thụy vẫn luôn là sự đợi
chờ một
hình bóng. Khi Thụy gặp lại Thúy Hà ở Sài Gòn, nàng có đổi khác đôi
chút, và
nàng có thêm nữa chút vẻ đẹp quyến rũ, rất mặn mà. Những ngày ở Sài
Gòn, Thụy
và nàng cùng cảm thấy hạnh phúc. Anh yêu nàng, có được nàng qua những
ngày mưa
nặng hạt buổi chiều. Thụy nhớ chiếc áo dài xanh chấm bông trắng nàng
nàng mặc.
Thụy như luôn ở bên nàng, và nàng đã cho anh một khuôn mặt thiếu phụ
thật trẻ đẹp,
mỗi ánh mắt nhìn nàng, anh cố giấu đi nỗi buồn của mình vì thực sự
trong lòng
đang có niềm khao khát tình yêu. Và ở bên nàng, anh rất thích nghe
tiếng nàng
nói, tiếng nói của nàng âm thanh trong trẻo như tiếng đàn, có lúc thấy
mờ đục
như thấm nước mắt, và với giọng nói khô ngọt như miếng mứt hồng cũng
hết sức gợi
ra trong anh lòng thèm muốn có được tình yêu trong vòng tay ấp ủ của
nàng.
Nàng vào thăm Duy đang học ở quân
trường, hai tháng sau đó, nàng về. Sáng sớm hôm ấy, Thụy đến trạm hàng
không đưa
tiễn nàng.
Trước khi chia tay, nàng để cho anh
ôm hôn nàng, và nghe nàng nói:
-Anh phải
quên em mới viết văn được. Đừng nên giữ lại em, nhớ em trong những ngày
mưa ở
Sài Gòn, vì như thế, anh sẽ chỉ quá nặng lòng tươngtư không viết được.
Hãy quên
em đi, hãy nghĩ em là một người khác thì anh sẽ viết được và thành công.
Từ lần nghỉ phép đầu tiên về thăm
gia đình, Thụy được hay tin Thiên Nga là người bạn gái của anh Nguyên.
Và, đến
nay, hình ảnh Thiên Nga mà Thụy mường như nàng là một nhân vật tiểu
thuyết.
Xe lam vượt lên hết quãng dốc, rồi
giảm tốc độ xuống, rồi dừng lại phía bên ngoài con đường trước cổng gác
chính của
Quân đoàn.
XIV
Tiệc liên hoan tổ chức ở phòng hội,
hai chiếc bàn dài trải khăn màu và mấy chục chiếc ghế xếp. Trên mỗi bàn
bày nhiều
thức ăn, rượu, bia và nước ngọt. Anh em
trong đơn vị khoảng ba mươi người họp mặt đông đủ.
Sau lời ngỏ của vị Trung tá Giám đốc
kết thúc, tất cả đồng loạt vỗ tay, rồi bữa tiệc vui bắt đầu, mỗi người
tự động
lấy phần ăn và thức uống cho mình. Có ghế, nhưng ít ai ngồi. Dù là
chung đơn vị,
nhưng vẫn theo thứ cấp, các Sĩ quan đứng một nhóm riêng, hạ sĩ quan và
lính một
nhóm riêng. Tiếng chuyện trò nổi lên vui vẻ, thoải mái, và không thiếu
những
chuyện tiếu lâm là cả một kho tàng của binh chủng Không quân, bao nhiêu
chuyện
này thường hay đăng trên Lý tưởng, nhưng cũng có một số chuyện được
phịa ra
nghe vừa lạ, và vui.
Thụy chỉ uống bia, không dùng rượu.
Và, hôm nay cùng các bạn, người nào cũng bắt anh cụng ly. Trong đám
lính bạn Thụy,
có bốn tên đã đậu Tú Tài, vậy mà chỉ mình Thụy đi học Sĩ quan, ba bạn
kia vẫn
muốn làm lính để có được nhiều thì giờ học thêm lấy cho xong cái bằng
Tú Tài
đôi.
Khi gần tan tiệc, Thụy mới tìm đến
chào tạm biệt các vị Sĩ quan. Các Sĩ quan không trợ đều thuộc ngành phi
hành ,
tuổi tác họ chỉ hơn một hai tuổi, tính tình rất vui vẻ.
Người sau cùng, Thụy đến chào là
Trung úy Khải. Thụy nói xong, ông đưa mắt nhìn lại anh rất lâu. Rồi
bằng một giọng
chân tình, vừa nghiêm nghị, ông nói:
-Mầy đã đi
Sĩ quan, thì gắng cho thành. Dù tình huống nào cũng phải trở thành Sĩ
quan,
không được thoái bước mà quay lui, nghe rõ chưa.
-Nghe rõ
Trung úy,Thụy đáp.
Ông đưa tay ra bắt tay Thụy.
Tám giờ tối, tan tiệc. Sau khi thu dọn
xong, anh em trong đơn vị chia tay ra về. Chỉ những toán trực ở lại làm
việc.
Vừa trông thấy Thụy, vị Trung tá
Giám đốc hỏi:
-Anh có về
Sài Gòn không ?
-Dạ có.
-Lên xe tôi
về.
Chiếc xe pick up sơn màu xanh. Ngoài
chỗ ghế lái, băng bên cạnh rộng và dài ngồi được ba người.
Khi xe trên đường hướng ra cổng, một
giọng hơi nhỏ, Thụy nói:
-Em cám ơn
Trung tá đã giúp cho em nhiều trong thời gian qua.
Một giọng vui, ông hỏi:
-Anh ra Sĩ
quan, rồi có muốn đi ngành Không trợ không ?
-Em chưa dám
nghĩ gì cả. Em chỉ mong sao được đi Mỹ học, rồi ra trường.
-Rồi ngày ấy
sẽ đến với anh, ông nói.
Chiếc xe rẽ trái khi ra khỏi cổng
Quân đoàn. Giờ này, dưới đèn điện sáng dọc con đường, sinh hoạt thị
trấn nhộn
nhịp, đông vui. Các quán ăn đông khách, và các quán cà phê vọng lên
tiếng nhạc,
giọng hát Khánh Ly nghe văng vẳng, chán chường.
-Thời trung
tá đi Pháp, thời gian học lâu không ?
-Gần ba năm.
-Thời đó, đi
Pháp thật là hiếm.
-Lớp của tôi
là lớp đầu, có chừng ba chục anh em.
Một giọng vui Thụy hỏi:
-Thời trẻ
đó, Trung tá có quen cô đầm nào không ?
-Có chứ.
Thụy không cần hỏi thêm, đã được
nghe ngay câu chuyện tình của ông với một cô sinh viên người Thụy Sĩ
qua Pháp học.
Trên gương mặt vị Trung tá ửng hồng
vì uống khá nhiều rượu whisky, nhưng ông không say. Những câu chuyện
ông vừa kể
cho Thụy nghe rất hứng thú, và có những câu thơ Pháp ông đọc lên nghe
thật đậm
đà, mới lạ. Paris, Thụy không dám hình dung nơi kinh thành ánh sáng ấy
những gì
lớn lao mà chỉ nhớ nghĩ nơi ấy bởi có tâm hồn yêu thích thơ văn.. Thụy
thích những
bài thơ của thi sĩ Cung Trầm Tưởng, anh thèm mùi vị cà phê Magots, điếu
thuốc
Gitane và khu phố sinh viên Latin, những hình ảnh ấy nằm ở trong trí
nhớ anh
qua một đoạn văn rất đẹp trong tiểu thuyết Đời phi công của nhà văn
Toàn Phong.
Và, còn thêm một nơi chốn nữa là khu vườn Luxembourg, nơi đây, vào mỗi
buồi
sáng đi đến trường học, chú bé Pierre Nozière(chính là Anatole France)
vừa đi,
vừa nhảy nhót như một con chim sẻ. Thụy rất yêu chú bé nếu anh được gặp
chú bé
ngoài đời, vì chú cũng có một tâm hồn dễ mơ mộng giống như anh.
-Ngày Trung
tá về , đất nước đã chia đôi ?
Thụy hỏi điều ấy, ông gật đầu. Xa lộ
dài hun hút, bắt đầu chìm trong bóng tối. Hai bên rất là vắng vẻ, thưa
thớt ánh
đèn qua những căn nhà, về phía trong xa là bóng núi và các làng mạc.
-Lâu nay,
anh có sáng tác được gì thêm không ?
-Dạ, cũng
có. Em viết được vài truyện ngắn.
-Anh có tác
phẩm in nào chưa ?
-Dạ chưa. Em
cũng chỉ mới tấp tễnh viết văn thôi.
-Anh viết
cũng khá. Rồi đây, được cơ hội đi xa anh có thêm nguồn cãm hứng sáng
tác.
-Em rất muốn
viết một cuốn tiểu thuyết về người phi công trong thời chiến.
-Ý nghĩ đó
hay. Lâu nay, có một số rất ít viết về cuộc chiến tranh của người phi
công.
Thụy suy nghĩ một lúc, rồi nói:
-Khi trở
thành phi công, em sẽ viết, và tin là tác phẩm hoàn tất. Em muốn viết
để tiếp nối
cuốn tiểu thuyết của nhà văn Toàn Phong. Ở cuốn truyện này, độc giả chỉ
mới biết
được giai đoạn đầu của người phi công vào những năm còn đang huấn
luyện, về cái
đẹp của tình yêu, về phần em , nếu tiếp nối được em sẽ viết về những
người phi
công đang hiện diện trong cuộc chiến tranh ở trên vùng trời miền Nam và
cả miền
Bắc nữa.
-Anh hãy đọc
thêm tiểu thuyết của Saint Exupéry.
-Sách nhà
văn phi công này đã được dịch mấy cuốn. Em có hai cuốn Bay đêm và
Chuyến thư miền
Nam. Nhưng thực sự, thời của Saint Ex, cũng vẫn là thời huấn luyện, thử
thách từng
dặm đường bay trên không gian, và thời ấy, phi cơ hẳn còn đang thô sơ
chưa hiện
đại như sau này.
Vị Trung tá trở lại thời gian cũ của
mình, ông cho Thụy biết những tháng năm khó khăn lúc ông học ở bên
Pháp, và điều
ông cũng như tôi hãnh diện là thế hệ của ông sau này là những người làm
vinh dự
cho binh chủng Không quân.
Tới ngã tư Sài Gòn, xe rẽ trái đi
theo đường Hồng Thập Tự. Khi xe dừng lại bên đây cầu, trông qua bên kia
là khu
nhà thờ, Thụy nói lời từ giã cám ơn ông
lần nữa rồi xuống xe.
Mới tối hôm đó, đã qua hai tuần lễ
Thụy rời xa đơn vị. Ngày mai, Lăng đi
xuống
miền Tây thực tập ở ba tỉnh Mỹ Tho, Cần Thơ và Long Xuyên. Thời gian
thực tập bốn
tháng xong trở lại trường, rồi học hết chương trình Cao học trong hai
năm. Khi
ra trường, Lăng sẽ được hưởng lương ngạch Đốc sự và đảm nhận chức vụ
Trưởng ty,
Quận trưởng, có khi là Phó tỉnh trưởng.
Sau khi xem xong trận đá banh, Thụy
và Lăng tìm đến quán ăn ở đường Nguyễn tri Phương. Thụy nói với Lăng dù
được gọi
đi học nhưng lòng anh không mấy vui, vì món nợ với cái bằng Tú Tài hai
anh chưa
trả dứt được. Không hiểu sao, Thụy cứ lấn cấn và luôn bị ám ảnh về tấm
bằng này
đến nỗi khiến anh có ý nghĩ mình làm gì cũng cứ thất bại.
Bữa ăn ngon, và hết sạch các món hai
đứa gọi. Không ngồi lâu, vì Lăng phải về nhà để ngày mai đi chuyến xe
sớm. Chiếc xe
Lăng mua, bề ngoài cũ nhưng máy còn tốt, chạy vẫn
nghe êm. Sài Gòn,
thành phố này luôn ồn vui, sinh động, cho Thụy một cảm giác mình còn
trẻ và rất
yêu thích cuộc sống. Kể từ nay, có thể nói, cả Lăng và Thụy đều có một
một
tương lai định hình.
Lăng ngừng xe , thả Thụy xuống ở
khu chợ Bàn Cờ.
-Có rảnh, nhớ
viết thư.
-Có chỗ ổn định,
anh xuống dưới chơi.
Một vài giây còn đứng với nhau, Thụy
nói:
-Tôi tính
xin ít ngày phép về Huế thăm nhà.
-Xin được,
anh nên đi.
Từ ngõ đường ngoài Thụy đi bộ đến
nhà Huê. Có tiếng Thụy và nghe cả tiếng gõ cửa, Huê đi ra.
-Ủa, anh
hả.
-Anh đến mời
em đi uống cà phê.
-Sao mà có
chuyện lạ vậy ?
-Bình thường
thôi, có gì đâu mà lạ.
Huê khoác chiếc áo len nhẹ ở ngoài bộ
quần áo thường có chấm bông, rồi cùng Thụy đi ra quán nước đầu đường.
Quán nước có mái hiên, đèn sáng,
nhưng khách hơi thưa vắng. Cả Thụy và Huê cùng uống cà phê đen nóng.
Khi đứa nhỏ chạy bàn bỏ đi, Thụy
nói:
-Em có thấy
uống cà phê lúc nào cũng thú vị.
-Em cũng thấy
thế.
-Em và anh
có vài sở thích giống nhau.
-Nhưng suy
nghĩ về tình cảm lại rất khác nhau.
-Dù thế nào,
em cũng không quên anh.
Mỗi ly cà phê nóng được đặt trên dĩa
lót. Thụy múc hai thìa đường bỏ vào tách của Huê .
-Lâu nay anh
đi đâu không thấy ?
-Anh vẫn làm
việc ở trên Biên Hòa và ở trên đó luôn, ít về Sài gòn.
-Em cứ tưởng
anh lại đi xa.
-Đi xa, anh
đã viết thư cho em rồi.
-Trời, anh
làm như em là người yêu.
-Cà phê
ngon, em uống đi.
Thụy
đốt điếu thuốc sau một hớp cà phê uống đầy. Thụy
muốn tìm một lời chân
thật để nói với Huê và anh đang nhìn nàng uống cà phê. Lúc nào gặp nhau
cũng vậy,
Huê rất là tự nhiên khi nàng cho anh ngắm
lâu vẻ đẹp của nàng.
-Sao đó,
công việc làm của anh ?
-Cũng bình
thường. Anh luôn nhớ đến em.
Huê mỉm cười nói:
-Anh luôn hiểu
sai những ý của em.
-Nhớ, đâu hẳn
chỉ là tiếng của tình yêu, mà tình bạn cũng có.
-Nhưng lúc
nào, em cũng thấy anh mượn nhiều ẩn dụ.
Thụy mỉm cười, nghĩ đến giọng nói của
Huê. Trên khuôn mặt Huê, cả một vẻ sáng đẹp hiện ra dưới ánh đèn.
-Anh sắp đi
phép.
-Về Huế, phải
không ?
-Đúng rồi,
em. Ở Huế, em chưa hề biết phải không ?
-Chưa. Này
anh, gái Huế đẹp lắm phải không ?
-Anh không
biết .
-Trời đất,
anh ở ngoài đó mà không biết hả.
-Anh đã xa
ngoài đó lâu rồi.
-Bộ, anh
không thích gái Huế hả.
-Anh không
quen cô nào cả, xa quê hương vào đây được gặp em nên chỉ biết có em
thôi.
-Anh thấy
em, sao ?
-Em là một
thiếu nữ đẹp.
-Anh nói
cũng đúng thôi.
-Em thật
duyên dáng như người mẫu.
-Mấy giờ rồi
anh ?
-Mười giờ
hơn.
Thụy
gọi đứa nhỏ lại trả tiền cà phê rồi cùng Huê rời
quán. Thụy đưa Huê về
nhà, cả hai cùng vui câu chuyện trong cách bình thường.
-Em thích
anh tặng em chiếc nón bài thơ không ?
-Ờ hay đó,
anh mua tặng cho em.
-Sẵn lòng.
Trước cửa nhà, Thụy và Huê dừng bước.
-Hôm nào anh
đi phép ?
-Anh chưa định,
vì còn một số việc về giấy tờ anh làm chưa xong.
-Trước khi
đi, anh có ghé em không ?
-Có, anh sẽ
ghé. Không có anh, em chẳng có bạn uống cà phê.
-Nhớ ghé, lần
tới em bao anh.
-Em quá dễ
thương.
-Không đúng
đâu.
-Em ngủ
ngon.
-Nhớ ghé em
trước khi đi.
Thụy chợt kéo tay Huê giữ lại và
nàng để cho anh ôm nàng. Buổi tối về nhà,Thụy thức khuya ngồi viết
truyện, qua ngày hôm sau, đọc lại truyện
đã viết Thụy
sửa chữa đôi ba chỗ, sau đó viết thêm một truyện mới nữa.
Những khóa sinh ở các đơn vị xa được
gọi đi học về trình diện vẫn chưa đông đủ. Lúc thấy Trung úy Cẩm đi ra,
Thụy lại
gần chào ông. Khi ông lấy điếu thuốc, Thụy bật ngay que diêm để ông mồi
lửa.
Sau khi kéo một hơi đầy, ông hỏi:
-Có chuyện
gì không ?
-Dạ có.
Ông nhìn lại Thụy. Thụy nói:
-Trung úy
cho em xin ít ngày phép về thăm gia đình.
-Gia đình
anh ở đâu ?
-Dạ ngoài Huế.
-Sao ở đơn vị,
anh không xin đi.
-Có giấy gọi
đi học, em phải đi gấp sợ trễ khóa.
Ông nhìn lại Thụy.
-Anh thi đậu
không ?
-Dạ rớt.
Ngày thi thứ nhì, em đau bỏ cuộc.
-Tôi đậu rồi.
-Em chia mừng
với Trung úy.
-Tôi thi ở
Trưng Vương, cùng trường với anh.
-Em không gặp
Trung úy.
-Tôi có thấy
anh hôm đầu.
-Lên Đại học,
Trung úy học ngành gì ?
-Tôi học Luật.
-Ở Không
quân, có nhiều Sĩ quan học bên ngành Luật.
-Tôi không
thích học văn chương.
-Em thích,
và em có viết văn.
-Tôi biết
anh.
Ở ngoài hành lang hai người nói chuyện
chốc lát, sau ông trở vào phòng làm việc ,
bảo Thụy đi theo. Khi ông ngồi xuống ghế, Thụy đứng
quan sát bàn làm việc
của ông. Bên trong chiếc kệ nhỏ, có một số sách sắp ngay ngắn.
-Cho anh đi
phép một tuần. Nhớ về trình diện đúng ngày.
-Dạ.
Trưa hôm ấy, từ Tân Sơn Nhất Thụy
đón xe buýt xuống Sài Gòn. Sau khi rời quán ăn, suốt buổi trưa anh đi
dọc theo
dãy hàng sách cũ trên phố Lê Lợi mua được một ít sách cho anh Nguyên,
sau đó
qua chợ Bến Thành mua một ít quà biếu về cho bên gia đình Thúy Hà và
gia đình
anh.
Trước ngày đi, Thụy có được 700 đồng
tiền nhuận bút hai truyện ngắn được đăng trên nhật báo Ngôn Luận và
Miền Nam.
Từ Sài Gòn, Thụy đi chuyến bay C47 cất
cánh lúc 10 giờ sáng, đến Đà Nẵng gần mười hai giờ trưa. Từ trạm tiếp
liên, có
xe thồ và xe lam đưa khách ra phố. Thụy đi xe thồ về thẳng nhà Thúy Hà.
Vừa thấy Thụy xuất hiện, cả nhà ngạc
nhiên, mừng rỡ, các em đến nắm tayThụy rất
cảm động.
Nàng hỏi:
-Anh về phép
lâu không ?
-Anh đi được
mười ngày.
Thụy không thể giấu được sự xúc động
khi gặp lại Thúy Hà. Trong ánh mắt nàng, bóng dáng anh
bất động, đã
in lên đó.
-Cậu đã ra
nhà chưa ?
-Dạ chưa.
-Anh ở chơi
với gia đình ít ngày rồi ra.
Thụy kéo chiếc ghế ngồi, cảm giác thật
nhẹ nhõm. Cả nhà đông đủ, mỗi người hỏi anh một đôi câu. Thụy nghe rõ
tiếng
nói, nhất là nhớ rất lâu từng âm sắc của Thúy Hà.
Có khách vào mua hàng, bà Uyên đứng
lên đi ra quầy, trong thoáng nhìn,Thụy
quan sát cửa hiệu nước hoa của gia đình, và thấy mới
mẻ hơn ngày xưa.
Hai tủ kính bày những loại hàng mẫu nước hoa nhiều màu sắp đẹp, ở ngoài
mái
hiên có một cái tủ kính cũng lớn bày bán thuốc lá, bật lửa, đồ trang
sức.
Từ
khuôn mặt và trên cánh tay để trần của Thúy Hà dâng
lên một màu sáng dịu,
vừa phảng phất chút hương thơm.
-Anh lúc này
mập ra .
-Em đi làm
chưa ?
-Em sắp có
việc làm rồi, tuần tới bắt đầu.
-Dạy học phải
không ?
-Nghề đó,
nghèo lắm.
-Anh biết,
việc gì em cũng làm được.
Ông Kha nói:
-Em Hà làm
cho hãng xuất nhập cảng.
Thụy nhìn qua Thúy Hà , đôi mắt nhỏ
bé của nàng sáng lên một nụ cười.
-Trưa rồi,
mình đóng cửa em ạ.
-Vâng.
Bà Uyên mở hai sợi dây buộc, bức màn
buông rũ khép lại. Hai cánh cửa vẫn mở, và lúc này, cả gia đình chuẩn
bị ăn
trưa.
Khi hai người giúp việc dọn cơm lên,
Thụy không thấy chị Trà. Bà Uyên nói:
-Mấy người
giúp việc trước lúc cậu còn ở đây, họ về quê rồi. Hai người này, cũng
là người
Quảng Trị.
Quanh chiếc bàn tròn, gia đình ngồi
ăn. Thụy ngồi cạnh Thúy Hà và mấy em nàng. Nhìn Hằng,Thụy hỏi:
-Em học lớp
mấy rồi ?
-Đệ Lục anh.
Thụy ngắm cô bé bắt đầu để tóc thiếu
nữ, giọng vui anh mở lời:
-Anh nhớ thời
đi học, em mặc chiếc áo đầm, cứ lúp xúp theo bên chị Thúy Hà.
-Nay em đã lớn
rồi đây.
-Xinh nữa.
-Em không
dám đâu.
-Anh Thụy
lúc này có viết truyện nữa không ?
-Có, nhưng
không nhiều lắm.
-Anh có mang
những truyện đăng báo về không ?
-Có.
Ông Kha hỏi Thụy:
-Cậu ở lính,
thăng được cấp gì rồi.
-Thưa hai
bác, cháu sắp đi học Sĩ quan.
-Cậu không ở
Không quân nữa sao ?
-Dạ, vẫn ờ
Không Quân, cháu xin học về hoa tiêu.
-Vậy là cậu
lên cấp Sĩ quan rồi.
-Cháu mới được
giấy gọi đi học. Giờ đang là khóa sinh.
-Hoa tiêu là
làm phi công phải không anh ?
-Đúng rồi
em.
-Vậy là anh
học lái máy bay.
-Đúng rồi.
-Anh đã lái
được chưa ?
-Chưa. Anh mới
có giấy gọi về đi học.
Cà nhà nghe Thụy kể chuyện của mình.
Thúy Hà nói:
-Anh đi qua
Mỹ học, có gì vui bằng.
-Chừng nào
đi, anh Thụy.
-Anh chưa biết.
Giờ anh đang chờ khóa học Anh ngữ.
Thụy đã có được một ngày vui với gia
đình người bạn gái. Tới đầu giờ buổi chiều các em đi học. Rồi ông bà
Kha cũng
đi thăm gia đình một người bạn mới từ Qui Nhơn ra. Trước khi đi, ông
cho Thụy
hay, người bạn này trước đây ở trong quân ngũ, cùng đơn vị với ông. Xa
nhau từ
sau ngày đình chiến, nay mới bắt được tin tức.
Thụy không đi đâu, ở nhà với Thúy Hà
trông coi cửa hiệu.
-Anh Duy sao
không về ?
-Anh đang ở
Quảng Tín.
-Làm việc
trong đó.
Thúy Hà nhìn Thụy nói:
-Từ ngày anh
Duy ra đơn vị, hư hỏng lắm.
-Sao vậy ?
Có chuyện, em nói cho anh biết đi.
-Em buồn lắm.
Người khách đến mua gói thuốc lá.
Thúy Hà bỏ dở câu chuyện đứng lên đi ra bán hàng. Khi trở vào, cô đưa
cho Thụy gói thuốc Pall Mall.
-Anh có đây
rồi.
-Anh giữ
lấy mà hút.
Thụy đốt điếu thuốc, giọng trầm lặng
nói:
-Lúc nhận được
thư em, anh thấy lo lắng. Từ ngày ấy đến nay, anh chỉ ước mong em có
cuộc sống
dễ chịu.
-Anh Duy sa
vào cờ bạc, em không nói nổi nữa.
Khi bắt gặp thấy đôi mắt, Thụy và
nàng nhìn nhau rất lâu. Rồi anh hỏi:
-Nơi hãng em
sắp làm việc, là trong nước hay ngoại quốc.
-Hãng này của
Đại hàn.
-Có việc
làm, em sẽ bớt phiền muộn.
-Em chán lắm,
đôi khi ân hận cho đời mình.
-Em nên nói
rõ cho Duy biết.
-Anh ấy chỉ
biết con bạc. Anh đánh thua sạch, con người anh không còn tư cách gì
nữa.
Thụy dụi mẩu thuốc lá vào chiếc gạt
tàn, cầm tách trà đưa lên miệng uống một hớp đầy.
-Anh ăn gì
không ?
-Không, anh
không đói.
-Em gọi cà
phê cho anh nghe.
-Không, anh
uống trà, được dịp về phép thăm em, lòng anh vui.
-Anh qua Mỹ
học lâu không ?
-Cũng đến
hai năm.
-Sao, anh đã
có cô Phượng nào chưa ?
-Em đã đọc
cuốn truyện ấy rồi.
-Có. Em rất
thích.
-Vậy mà em lại
không làm cô Phượng cho những chàng phi công.
-Ở xa, viết
thư cho em, anh phải viết hay như những lá thư trong cuốn sách.
-Anh không
chắc mình viết hay, nhưng thành thực.
-Những thư
anh viết gởi cho em hẳn còn đó.
-Anh cũng giữ
những thư của em, và bao nhiêu tấm ảnh của em cùng gia đình.
-Anh đã khởi
sự viết cuốn sách chưa ?
-Chưa, nhưng
anh rất nhớ những lời em nói, và căn dặn.
-Anh nên viết
cho đời mình một cuốn sách.
-Về ngoài
này, em nhớ Sài Gòn không ?
-Rất là nhớ.
-Sài Gòn vẫn
còn mưa. Những ngày mưa nhắc anh nhớ đến em hơn hết. Bây giờ đây, bao
nhiêu
hình ảnh cũ của em vẫn còn trong đó. Sài Gòn, cứ đến về chiều trời mưa,
và nhắc
anh nhớ tên em, nhớ đến từng bóng dáng của em.
Nàng nghe tôi nói, chỉ im lặng. Một
lúc sau, Thụy nghe rõ tiếng của nàng:
-Em nhớ đến
anh luôn.
XV
Xe Phi Long hẳn còn đậu chờ khách. Mới
có bốn người trên các dãy ghế trống. Thụy để túi xách lên giá , xong
ngồi xuống.
Bỗng dưng, anh có cảm giác trống trải lạ thường.
Một lúc sau, có thêm khá nhiều khách
tới tìm xe. Thằng lơ đón mời họ lên những dãy ghế trước, vừa cho biết,
chừng
hai mươi phút nữa là xe chạy. Người tài xế đứng ở ngoài, dáng nặng nề,
anh ta
đang hút thuốc. Bà chủ xe mặc bộ quần áo bà ba màu đất, bên vai đeo cái
túi
xách lớn.
Thụy không ngồi lâu, một lúc sau anh
mở lối cửa bên hông đi xuống rồi chậm bước đến quán cà phê. Anh gọi ly
cà phê
đen nóng. Không quá hai phút, đứa nhỏ
mang cà phê ra, vừa bỏ xuống bàn, nó hỏi có lấy thuốc hút, anh đáp
không.
Thụy cho hai muỗng đường vào cà phê,
khuấy nhẹ, hẳn còn nóng nhưng anh đưa lên miệng làm một hớp đầy để đốt
điếu thuốc.
Nắng buổi sáng thật dễ chịu. Bến xe ồn
ào, quanh bến khá nhiều xe đậu và đông khách đợi chờ, còn những người
bán quà
rong, bán báo dạo vừa mời mọc, vừa cất tiếng rao.
Khói thuốc trườn lên từng sợi mỏng dần
ngả màu tím. Thụy là người lính trở về phép, đi chuyến bay từ Sài gòn
ra Đà Nẵng,
lúc xuống phi trường anh đón xe thồ về thăm nhà người bạn gái nghỉ chơi
ở gia đình nàng, hai ngày qua, đối với
nàng
cũng như gia đình nàng, anh được coi như là người thân.
Lúc sáng nay, nàng tiễn chân anh một
đoạn ngắn ra con đường trước mặt nhà.
Trong lúc chờ xe lam đến, nàng và anh có được sự gần gũi bên nhau trong
ít
phút.
-Anh có trở
vào Đà Nẵng nữa không ?
-Không, hết
phép, anh đi luôn từ Huế.
-Nhớ viết
thư cho em.
-Anh nhớ
luôn.
Một giọng vui, nàng hỏi:
-Anh sắp đi
Mỹ, mơ mộng gì không ?
Với giọng điềm nhiên,
Thụy đáp lời:
-Anh vẫn còn
lo lắng qua từng giai đoạn. Khó nhất với anh, là học Anh ngữ.
-Mình học ở
bên đây mới đi.
-Đúng đó em.
Nhưng qua tới Mỹ cũng còn phải thi trắc nghiệm nữa.
-Anh đừng lo
lắng quá.
-Cám ơn em.
Khi từ giã, nàng đưa tay cho anh bắt.
Chiếc xe lam vừa lăn bánh, anh ngoái đầu nhìn thấy nàng đứng vẫy tay,
thật là một
nỗi nhớ da diết, u buồn. Thụy vẫn mãi nhớ đến nàng, đến những ngày ở
Sài Gòn.
Thời gian cũng đã qua nhanh. Rồi đời lính nói với anh rằng, năm nay, bạn hai mươi lăm tuổi.
Cà phê nguội dần, Thụy cũng đang uống
chậm. Trong lúc ngồi quán uống cà phê, mắt anh không ngừng chú nhìn
quang cảnh
sinh hoạt buổi sáng nay ở bến xe, có lúc, anh nhớ nghĩ nhiều đến Huế,
có lúc,
anh trông thấy bóng dáng mình vào một
năm ấy đã tìm đến thành phố này, rồi bất chợt, anh hướng về Sài Gòn,
nơi thành
phố đó bây giờ anh đang là kẻ vắng mặt.
Hành khách tới xe đã khá đông. Bỗng
nhiên, một bóng chiếc áo dài tím xuất hiện làm Thụy chú ý. Nàng đứng
quay lưng
nên anh không nhìn được rõ khuôn mặt, nhưng qua áo tím, và cái dáng
thật uyển
chuyển trong mỗi bước đi, Thụy hình dung ra được một vẻ đẹp trên khuôn
mặt của
nàng.
Bỗng tiếng thằng lơ xe cất lên:
-Mời quý cô
bác lên xe.
Vội vàng đứng dậy, trả tiền cà phê
xong, Thụy trở lại xe, và mở cửa hông bước lên.
Cô gái nhìn Thụy, có vẻ chú ý. Thụy
chưa ngồi, còn đứng với cao tay để mở cái túi ngoài lấy mấy tờ báo
xuống, chút
nữa đọc giết thì giờ lúc xe chạy.
Vừa đặt tờ báo trải ra, và trong ánh
mắt nhìn qua cô gái, ngay lúc này, anh phác vẽ được vào tâm trí mình
hình ảnh một
bức chân dung thiếu nữ mà chiếc áo tím của nàng là một dĩ vãng đẹp.
Nàng có
khuôn mặt trái soan, mái tóc không dài lắm, thả xuống chỉ tới gần vai,
và nàng
có một đôi mắt nhung vời vợi, đẹp vô cùng.
Tự dưng Thụy ái ngại không dám tìm lời
làm quen. Ngồi im gần như bất động, anh cũng thật bối rối. Không hiểu
sao anh
có mặc cảm, vì anh nhận ra rằng, tuy vẻ đẹp ngoài của nàng rất giản dị,
nhưng
thật ra, nàng tự mình cất giấu trong linh hồn một vẻ khuê các của các
nàng tiểu
thư, càng mường tượng, càng tưởng như thấy nàng qua bao nhiêu hình ảnh
kiêu sa
trên từng lớp nhung lụa. Vậy đó, ích gì
mà mình nghĩ đến hay trông đợi mối tơ
duyên, hoặc có diễm phúc được trao đổi ít lời thành nên một câu chuyện
cùng với
nàng.
Người tài xế nhấn một tiếng còi, liền
đó, tay thằng lơ xe đập mạnh vào mái cửa,
vọng lớn tiếng:
-Xong rồi,
chạy đi.
Xe rời bến. Thụy nhìn ra cửa, nhưng
không hề sắp xếp một chuyện gì quan trọng
trong đầu đề suy nghĩ về mình nữa cả. Quang cảnh khu phố quanh bến xe
mau biến
dạng, chỗ này khuất, chỗ kia hiện và sau khi chạy lướt một vòng bến, xe
tiến ra
ngoài phía cổng. Dừng lại ở đó đợi , ít phút sau xe mới rẽ trái vào
đường lớn của
phố chính. Khu phố chính thật đông đúc, ồn ào, xe trên đường, và người
đi qua lại
tấp nập.
Đà Nẵng cách Huế gần một trăm cây số.
Chỉ chạy chậm trên một đoạn khá dài hơn ba trăm mét , rồi thấy đường
bắt đầu trống
xe liền tăng tốc độ để chạy nhanh. Ngồi bên cửa xe, Thụy vẫn chú tâm
nhìn quang
cảnh. Mỗi chuyến ra đi hay trở về, anh luôn tự cho mình là lữ khách.
Khi đi phi
cơ, Thụy luôn tìm và tưởng tượng trong cái nhìn của mình vào không gian, ở bên dưới là đất liền cho anh
gắn ý nghĩ của mình vào cuộc sống qua tâm tưởng
từng con người, ở trên bầu trời, phi cơ đã bay qua những vùng mây,
trong mỗi
bóng mây anh có sự hình dung về nó, nó hiện lên hình dáng những thú vật
không lồ,
nó cũng sẽ hiện lên những cánh đồng mây trắng bao la, nó cũng cho thấy
những
dáng hình vươn lên rất cao như là những ngọn núi, và đẹp nhất nhất là
lúc nó tạo
nên được những hình ảnh kiến trúc lạ mắt bằng những đền đài, hay bằng
những
dáng vẻ của một hay nhiều thành phố giữa khung trời thật cao và thật
rộng. Thụy
đã ghi nhận bao nhiêu hình ảnh đó, và ước mong đến một ngày anh sẽ viết
nên được
trọn vẹn những cảm xúc chân thực của mình. Ở trong mọi cuộc di chuyển,
đời anh
gắn bó nhiều nhất là với con tàu. Có lẽ, hình ảnh đầu tiên đã ghi khắc
trong
trí nhớ của anh là tháp nước, nơi ấy, mỗi khi tàu về đến ga thường dừng
lại
trong mười phút để lấy nước, rồi sau đó, mới tiếp tục cuộc hành trình.
Ngày xa ấy,
gia đình Thụy còn ở Quảng Trị và căn nhà gia đình anh ở ngay trước con
đường
bên dưới phía cổng ga, nhìn đối diện sang bên kia là tháp nước và xa
hơn một
chút là rừng thưa. Từ một thuở ấy, trong ký ức Thụy đã nghe vang dội
lên những
tiếng còi tàu. Vậy nên, khi trở về hay đi đâu xa, ngồi trên xe lửa, đó
là thời
gian của sự hồi ức đưa anh trở lại nơi chốn cũ ở thành phố Quảng trị
nhỏ bé,
nơi chốn ấy, cũng là một thứ quê nhà cho lữ khách. Đi, bao giờ bạn cũng
dễ biết
mình sẽ tới một nơi nào đó xa. Và, bạn cũng biết rồi đó, trong đời tôi,
đã đầy ắp
biết bao nhiêu kỷ niệm còn hơi nóng của tuổi thơ , những kỷ niệm ấy làm
nên cuộc
hành trình lang thang trên những con tàu và đưa tôi đến từng nhà ga.
Khi xe bỗng giảm tốc độ, rồi chạy chậm,
Thụy nhìn thấy phía trước có một trạm gác nằm gần cây cầu. Tối hôm qua,
với một
giọng thân tình nàng nói:
-Anh hãy cố
gắng quên em đi.
Thụy lặng im, ít giây sau nàng tiếp
lời:
-Anh quên được
em, đó cũng là lúc cuốn sách anh ước ao viết sẽ hình thành.
-Em vẫn mang
một hình ảnh trong đó chứ.
-Không. Hãy
nên đem một ảnh hình khác thay thế em.
-Có thể như
em nói, rồi anh sẽ gặp.
Trong giấy nghỉ phép, Thụy được đi
mười ngày. Chiều hôm qua, Thụy đi chơi phố một mình. Sau khi ghé nhà
sách Lam
Sơn trở ra, Thụy bỗng có ý nghĩ muốn đi tìm nhà cô Thiên Nga. Không
biết cô ở
phố nào, nhưng cũng mong tìm nên Thụy cứ lang thang qua nhiều dãy phố,
tình cờ
anh buột miệng hỏi một vài người qua đường, nhưng rồi, không có ai hay
biết cả.
Xe ngừng hẳn. Người tài xế mở cửa xe
đi xuống. Viên Cảnh sát gác đứng chờ, lúc đến gần, người tài xế trình
giấy.
Viên Cảnh sát không nói gì, anh ta đưa mắt quan sát từ phía bên ngoài
vào trong
xe. Rồi anh ta bước chậm, mắt ngước nhìn qua từng hàng ghế hành khách
ngồi
trong xe.
Một lúc sau, đứng chỗ giữa xe mắt
anh ta nhìn lên phía trần, bỗng hỏi:
-Gì trên đó
?
-Hàng hóa
thường thôi xếp.
-Còn gì nữa
không ?
-Không.
Thụy để ý vẻ mặt người tài xế và cả
viên cảnh sát nữa. Chắc là có chuyện không ổn với những người đi buôn.
Vừa chợt
nghĩ vậy, Thụy bỗng thấy khó chịu khi thấy viên Cảnh sát tới bên cửa
hông, rồi
anh ta đu mạnh người lên. Đứng trên bậc cao của thanh sắt, anh ta đưa
tay dỡ tấm
bạt, vừa lục lọi tìm từng bao hàng. Cũng
khá lâu, viên Cảnh sát mới nhảy xuống.
Người tài xế đi theo anh ta vào trạm,
hai người nói chuyện gì với nhau hơi lâu, rồi họ trở ra, vẻ mặt anh tài
xế
không mấy vui, còn viên Cảnh sát giờ như có được cảm giác thoải mái với
điếu
thuốc hút đang cháy đỏ ngậm trên môi.
Vừa quay đầu vào trong, Thụy bắt gặp
cái nhìn cô gái. Tôi cảm thấy bâng khuâng trước vẻ đẹp lạ lùng. Xe lăn
bánh chạy,
lặng yên Thụy mở tờ báo ra đọc. Bỗng dưng Thụy có cảm tưởng như cô gái
định hỏi
anh điều gì đó. Thụy ngừng đọc, nhìn qua cô gái nhỏ nhẹ hỏi:
-Còn dư một
tờ, cô đọc không ?
Cô gái gật đầu. Thụy có
hai tờ
báo, đưa qua cho cô một tờ.
-Báo cũ nghe
cô.
-Không sao .
Thụy
đọc tin tức trên trang nhất. Rồi sau đó, lật qua tìm
trang trong Thụy đọc
lướt vài bài xong đến mục quảng cáo.
Rất bất ngờ, Thụy trông thấy cô gái
đang cúi mắt chăm chú đọc trên trang văn nghệ có một truyện ngắn của
anh.
Với sự ngại ngần khi không muốn tự
mình khoe khoang, Thụy gấp tờ báo lại để trên đùi xong quay mặt ra
ngoài.
Xe đang chạy lên đèo. Những đoàn xe
đang nối nhau tạo nên một chuỗi biểu tượng, hình ảnh nào cũng phản hiện
những
dáng màu sắc rất là sinh động. Thụy nhìn thấy núi qua từng
tảng đá chênh vênh và nghe tiếng nước suối chảy.
Phía bên kia xa cách biển, nhưng trong nắng, Thụy cũng nhìn thấy rõ mặt
biển
lóa sáng, trên biển có bóng dáng vài con tàu đang di chuyển ra ngoài
khơi. Nơi
xa kia nữa, bạn có thể ước độ qua một tầm nhìn phóng và định hướng về
phía đó
là Cửa Đại.
Lên đèo xe chạy theo triền núi, nhiều
vòng cua, nhiều lối đổ dốc, nhưng xe vẫn chạy êm không bị nhồi xóc. Hải
Vân,
tên con đèo nghe dễ thương như tên người con gái. Lúc này, Thụy thực sự
rung động
đi tìm những nguồn thơ, nhưng không sáng tác, mà muốn
được dành riêng cho mình hạnh phúc nhớ lại những
câu thơ hay.
Khi càng lên cao, núi và sương mù
dâng một thứ khí lạnh trong hồn thơ Huy Cận, và hương vị
ấy len vào tâm tưởng làmThụy nôn
nao. Thế rồi, từ trong âm vang của bài
thơ Thụy chợt nghe có tiếng động và hình bóng một con chim vụt bay qua
cánh rừng
Bỗng dưng buồn bã không gian
Mây giăng lũng thấp một màn âm u
Nai cao gót lẩn trong mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về
Hải Vân ơi, hãy để cho tôi nghe tiếng
gọi thầm như thể đó là tiếng của nàng.
-Anh Thụy ạ,
em luôn hiểu anh.
-Anh cũng có
ý nghĩ như em.
Bên dưới này nhìn lên, Thụy trông thấy
trạm ngừng của đỉnh đèo xuất hiện. Đã có những chuyến xe đến sớm ngừng
đỗ khách
ở đó.
Cô gái đã coi xong truyện ngắn đăng ở
trang văn nghệ. Lúc cô lật qua trang khác, giọng thân tình Thụy hỏi:
-Cô đang dạy
học ở Huế ?
Với nụ cười trên ánh mắt, nhìn qua
Thụy, cô đáp:
-Không, tôi
đang còn học.
-Tôi được về
phép thăm nhà.
-Ông đang ở
trong quân đội ?
-Vâng.
-Ông xa Huế
lâu chưa ?
-Cũng mấy
năm rồi cô. Cô học bên Văn khoa hay Luật.
Thụy được nghe rõ tiếng cô gái nói,
giọng chậm rãi:
-Tôi học
chính bên Mỹ Thuật, còn ở Văn Khoa mới là năm dự bị.
-Bên Mỹ Thuật,
cô học sắp xong chưa ?
-Năm nay là
năm cuối.
-Tôi có một
người quen đang học ở Mỹ Thuật. Thực ra, cô ấy là bạn gái của anh tôi.
-Ai đó ?,
nàng hỏi Thụy.
-Cô bạn gái
anh tôi tên làThiên Nga.
Một nụ cười rất vui trên cặp mắt, cô
gái nói:
-Ở trường Mỹ
Thuật chỉ có một nữ sinh viên thôi.
Hai người có vẻ bắt đầu thân tình với
nhau trong câu chuyện. Người lính nói:
-Tôi chưa gặp,
chỉ đọc thư nhà nghe nói tới người bạn gái của anh mình thôi. Cô gái
người xứ
Quảng, ra Huế học về ngành Mỹ Thuật. Năm trước, tôi có về thăm nhà
nhưng không
gặp, em gái tôi nói, chị ấy về gia đình nghỉ hè.
-Vậy là ông
chưa gặp lần nào cả ?
-Chưa. Nhưng
tôi có nhận được thư. Từ ngày ấy, trong tôi luôn có một sự hình dung,
đến bây
giờ, hình ảnh mường tượng về cô gái vẫn đẹp, không mất đi một nét nào.
-Người anh của
ông có ở trong quân đội không ?
-Có. Anh tôi
là Sĩ quan, vừa mới thăng cấp Đại úy.
-Ông thì sao
?
Người lính đáp:
-Tôi thì rất
tầm thường. Tôi là lính bên binh chủng Không quân, nhưng làm lính thành
phố
cũng nhàn.
-Ông được về
phép lâu không ?
-Mười ngày
cô ?
-Hôm nay là
ngày đầu ?
-Cũng mất
hai ngày rồi.
Nắng rực sáng bên lưng đèo thật là đẹp.
Ở phía trước cũng như sau, các đoàn xe nối đuôi nhau chạy. Và mỗi quãng
đèo, cảnh
vật trở nên đẹp, tươi lên giữa màu nắng.
Người lính hỏi:
-Cô đã có dự
cuộc triễn lãm nào chưa ?
-Cũng có một
vài lần vào những kỳ lễ hội hay dịp Tết.
-Năm Dự bị,
cô học bên ban nào ?
-Ban Pháp
văn.
-Ngày đó,
anh tôi chẳng gặp duyên may thi cử. Anh ấy thi đậu viết ở trường Sư
phạm ,
nhưng vào vấn đáp lại rớt. Ở trường Văn khoa, năm Dự bị anh cũng đậu
viết,
nhưng cũng rớt vấn đáp.
Cô gái nhìn qua người lính, trên mắt
nàng có một nụ cười rất dịu hiền. Một chút sau, nàng lật trang báo,
xong đưa ra
một truyện ngắn trong đó hỏi:
-Truyện ngắn
này ông viết phải không
?
-Đúng đấy.
Sao cô đoán hay vậy ?
Nàng cười, bảo:
-Tôi biết hết
chuyện ông kể.
-Nghĩ là
thân tình trong chuyến đi, tôi kể cô nghe thôi.
-Tôi hiểu.
Xe đã lên tới đỉnh đèo đang tìm chỗ
đậu để nghỉ. Hai người ngừng chuyện, và hành khách lần lượt xuống xe.
Giờ đợi đổ
đèo xe đến rất đông, các hàng quán tấp nập khách ra vào.
Bên Thụy, vẫn còn bóng cô gái. Từ đỉnh
đèo cao nhìn xuống biển, cảnh trí rất là đẹp mắt, Thụy
bỗng thốt ra lời về điều mình nghĩ.
Cô gái bỗng hỏi:
-Hồi trước
ông có học ở Đà Nẵng không ?
-Có, cô. Tôi
có học một năm ở trường Sao Mai.
-Cô gái ông
viết trong truyện là nguyên mẫu ngoài đời.
-Một cái
bóng thôi cô. Viết truyện, ai cũng tưởng tượng và hư cấu.
-Ông còn đi
học tiếp không ?
-Không, tôi
thực sự không sáng dạ với sách đèn.
Giữa đám đông ồn ào trên bãi đậu xe,
có những đứa trẻ bán quà rong. Một lúc sau, người lính và cô gái đi tới
một
quán giải khát. Lúc ngần ngừ dừng lại bên ngoài, người lính nói:
-Mời cô uống
cà phê cho vui.
Cô gái không đáp lời, rồi cùng người
lính vào quán ngồi ở cái bàn nhỏ bên chái hiên. Trong quán người ta
đang ăn uống
và có mùi thịt rừng dậy lên tỏa bay ngào ngạt.
-Cô uống được
cà phê vào lúc tối không ?
-Cũng uống
được.
-Cà phê tôi
uống lúc nào cũng được.
Đứa nhỏ mang hai tách cà phê nóng
ra. Trời ấm nắng và có chút lạnh. Ở nơi đây, vang âm tiếng suối bên
lưng đèo thỉnh
thoảng nghe trỗi dậy.
-Mỗi tuần cô
về thăm nhà một lần ?
-Không thường
lắm. Thường là mỗi cuối tháng.
Người lính nói:
-Ngày hôm
qua đi chơi phố, trong đầu tôi có ý nghĩ muốn tìm thăm nhà người bạn
gái của
anh tôi. Tôi đã được đọc thư, hình dung ra bóng dáng và khuôn mặt của
nàng. Dù
chưa gặp, nhưng trong thư từ đã có tình thân. Bây giờ tôi phải gọi nàng
bằng chị,
vì anh tôi và nàng sắp làm lễ hỏi vào tháng tới. Tôi mong lần về này
được gặp,
và cũng mong rằng những gì mình tưởng tượng là đúng người thực ngoài
đời.
Người lính dừng lời nhìn qua cô gái,
thấy khuôn mặt cô, và trên cặp môi dễ thương đang có một vệt màu cà phê
đọng lại.
Trên mắt cô gái lại có lớp nhung rất mịn màng, và nụ cười thật là hiền
dịu trên
ánh mắt. Rồi, trong những nét ấy lại còn trải ra một vẻ buồn, thật xa
vắng vừa
nên thơ.
-Ông được
coi ảnh người chị dâu tương lai của ông chưa ?
-Chưa.
-Ông có mong
gặp người đó không ?
-Rất mong.
Tôi nghĩ lần này về chắc là gặp. Vì lúc này, đang là mùa học, không
phải là mùa
hè.
Ngồi chuyện trò với người lính, cô
gái vẫn giữ nét trang nghiêm và khi nghe người lính nói về những cuốn
sách mà
anh bỏ công tìm mua để mang về cho cô học, cô thật là cảm động.
Hành khách rời quán trở lại xe, người
lính rút ví lấy tiền trả, cô gái ngăn lại:
-Để tôi trả
cho.
-Tôi mời cô
mà.
-Tôi biết.
Chút nữa lên xe mình tiếp câu chuyện.
Người lính được trở về và tìm thấy một
thứ hạnh phúc thật êm ái trong thời tuổi trẻ của mình.
Khi xe chuyển bánh, rồi cùng chạy
theo đoàn xe đang xuống đèo phía trước bỗng nghe vang lên một điệu nhạc
hành
khúc, rồi tiếng hát bắt đầu.
Hành khách nghe xong hết bản nhạc, vỗ
tay.
Người lính quay sang hỏi:
-Ở Huế, nhà
cô ở đâu ?
Một giọng vui, cô gái cười đáp lời.
-Tôi ở gần
nhà anh Nguyên.
XVI
Khoảng quá trưa, xe đò đến Huế. Hai
người chưa về nhà, cùng đi bộ tìm một quán ăn đầu phố cách bến xe chừng
hai
trăm mét. Người lính và cô gái cùng cảm thấy vui, giờ họ đã là hai chị
em. Nghĩ
như thế nên cô gái chợt cảm thấy mình lớn hẳn, nghiêm trang ra, còn
người lính,
anh ta cũng thấy vui trong cảm giác mình đang nhỏ bé lại.
-Chị Nga có
hay ghé nhà Thụy không ?
-Ghé luôn
mà.
-Có chị, chắc
anh Nguyên hay về nhà.
-Thụy
nói đúng. Trước khi quen mình, anh hay ở luôn
trong trại ít khi về.
-Đọc thư của
chị, lòng rất vui. Thư đó, Thụy còn giữ.
Rồi, Thụy nói tiếp: mới có một thư thôi đó.
-Một thôi.
Thư khác dành cho các cô ở đây. À, Thụy quen Liên An lâu chưa ?
Người lính này đang yêu, nhưng không
tỏ bày. Liên An là cánh bướm trắng, còn Thụy đang phất phơ như chiếc áo
giữa
vùng trời mây tím.
Hai người vào ngay quán ăn nằm đầu
dãy phố. Trưa đầy nắng, và cái lạnh gây nên một cảm giác thú vị, vừa ấm
áp.
Hai người để túi xách xuống chân, rồi
kéo ghế ngồi. Người hầu bàn đi ra, dừng bước ngay bên bàn nghe Thiên
Nga đặt
món ăn cho bữa cơm phần hai người.
-Rồi chừng
nào Thụy mới đi học ?
-Hết kỳ phép
này, vào trong đó vừa đúng lúc nhập học.
-Thụy học
lái máy bay.
-Chưa, mới bắt
đầu học Anh ngữ, thi đậu bên đây sẽ được cho đi. Qua bên đó, còn học ở
trường dạy
Anh văn thêm một khóa nữa mới chuyển qua học bay.
Thiên Nga nhìn lại Thụy, ánh mắt cười
biểu hiện niềm vui. Rồi anh nghe tiếng nàng nói, và lúc này, đang chờ
dọn bữa
cơm trưa, Thụy cảm thấy mình thật là nhỏ bé trước một người chị dâu
thật là đẹp,
vừa rất đáng yêu. Cũng yểu điệu nữa chứ, hay quá, mình nên để nàng nói,
một giọng
nói xứ Quảng nghe đậm đà, thân thiết, và
mình cũng đang nghĩ rằng, nàng hay biết
trong đôi mắt mình lúc nào cũng thầm lặng ngắm say sưa khuôn mặt đẹp
của nàng.
Khi bữa ăn được người hầu mang chiếc
mâm nhôm ra, rồi dọn từng món ăn lên bàn, mùi vị thức ăn và cơm nóng
làm Thụy cảm
thấy đói.
-Chị ở nhà
thuê chung với bạn, hay một mình.
-Ở một mình.
-Nhà thuê rộng
không chị ?
-Cũng rộng
rãi.
Hai người cầm đũa, nhìn nhau trong
niềm vui, rồi cùng lên tiếng mời ăn.
-Sách Thụy
mua cho chị, có mấy cuốn in từ bài giảng dạy ở trường.
-Cám ơn Thụy
nhiều lắm.
-Rồi tốt
nghiệp bên Mỹ Thuật, ra trường chị có xin đi dạy không ?
-Chưa biết,
nhưng dạy học mình rất thích.
-Rồi trở vào
Đà Nẵng, chị xin dạy ở đó.
Với nụ cười đằm thắm, nàng ngừng đũa
nhìn Thụy hỏi:
-Thụy
muốn mình dạy ở đâu ?
Nhìn nàng, Thụy nói:
-Chị xin ra
Quảng Trị dạy nghe.
Nàng gật đầu, ánh mắt của một phương
trời.
Trong giọng vui,Thụy nói:
-Ước gì, cho
tôi được nhỏ bé để ngồi học lớp cô Thiên Nga.
-Anh Nguyên
cũng nói mình xin ra Quảng Trị dạy để gần Huế và gia đình.
-Chị đã có
biết Quảng Trị rồi phải không ?
-Có. Anh
Nguyên đã đưa mình ra thăm ngoài làng quê và ngoài tỉnh lỵ.
Nhìn Thụy, một giọng vui nàng tiếp lời:
-Quảng Trị ,
mình không chỉ thấy ngoài thực tế, mà cũng rất chia sẻ với một quê
hương Thụy
đã viết nhiều trong truyện.
Thụy uống hớp nước. Một giọng tâm
tình, anh kể cho nàng nghe câu chuyện của anh và người bạn gái thân
thương.
Thiên Nga hỏi:
-Sao cô ấy
không muốn mình là nhân vật trong cuốn sách Thụy viết.
-Cô ấy không
muốn muốn người mình yêu đè nặng mối tương tư.
-Vậy là Thụy
phải tìm một hình ảnh khác thay thế cho cô.
-Chị nói
đúng, hình ảnh đó là muôn thuở.
-Liên An phải
không ?
-Liên An là
cánh bướm trắng, rất mỏng manh.
-Vậy thì ai
trong đo ?
-Nàng là một
tấm áo, và với tấm lòng quê hương cũ.
-Thụy có
thích nhân vật cô Loan trong Đôi bạn ?
-Khi mong
tìm gặp người thân của mình, Thụy luôn nhớ nghĩ đến Loan.
Thụy
ăn rất tự nhiên. Thiên Nga cũng đói, nàng ăn ngon.
Thụy thỉnh thoảng ghi
nhận được những nét duyên dáng của nàng trong cách cầm đũa muỗng, trong
cách gắp
thức ăn, và mỗi miếng vừa ăn xong, Thụy cũng ghi nhận thêm cái vẻ hay
hay từ dư
vị thức ăn còn lại trên đôi môi xinh đẹp của nàng. Nỗi buồn thật duyên
dáng và
tự nhiên từ hình ảnh đôi mắt có nụ cười của nàng, ánh sáng cứ dịu lại,
nhỏ dần,
và ngưng đọng rất lâu.
Nàng bỗng nói:
-Liên An có
giấy gọi đi du học rồi.
-Chắc cô ấy
đã vào Sài Gòn .
-Chưa đâu.
Có thể về lần này Thụy sẽ gặp.
-Nhưng sao
chị biết Thụy quen Liên An.
-Cô ấy kể
chuyện cho mình nghe.
-Hôm ấy Liên
An nói: Về chị Thiên Nga, biết lấy ai mà so sánh.
Thiên Nga cầm ly nước trà đá đưa lên
miệng uống. Thời tiết trong thành phố đang bắt đầu những ngày mới mẻ
vào đầu
mùa đông, ánh nắng đã làm gương mặt Thiên Nga ửng hồng như màu chín của
trái
cây.
Một giọng thân tình Thụy nói với
nàng:
-Thụy thực sự
chưa mong điều chi cả. Nói vậy, không hẳn đúng. Ước mong của Thụy là
viết nên
được một cuốn sách. Còn về những cô gái mình quen, đó chỉ là những kỷ
niệm
trong hương sắc gió mùa.
-Về phép,
ghé Đà Nẵng Thụy ở nhà ai ?
-Nhà cô bạn.
-Cô gái ở
trong truyện Thụy viết, phải không ?
-Vâng, bạn
gái thân lắm.
-Người chồng
của cô này, có họ hàng bên gia đình mình.
-Vậy à , chị.
-Anh Nguyên
hay nói về Thụy, và mình cũng cho anh biết.
-Gia đình cô
coi Thụy như là con, nhận làm con nuôi.
-Thế với cô ấy
là sao ?
-Hai người rất
hiểu nhau.
-Cô ấy trước
đây là bạn học cùng lớp.
-Vâng.
Tối qua, Thúy Hà cũng nói chuyện cho
Thụy nghe về Duy chồng nàng. Thụy đem lời tâm sự của nàng nói với Thiên
Nga.
-Gia đình
bên Duy, người nào cũng vậy hết.
-Anh Duy
đánh bạc thua nhiều lắm.
-Bên nhà Duy
có họ hàng với bên má mình. Nhưng, cũng không gần gũi, ít qua lại với
nhau.
Bữa ăn thong thả cùng thời gian rảnh
rỗi cho câu chuyện. Trong im lặng, Thụy và Thiên Nga dành một vài giây
nhỏ cho
nụ cười, và trong thâm tâm nàng biết, anh thật ngưỡng mộ nàng, vì thế,
nàng
cũng thật vui tạo dáng cho mình thành
người mẫu để cho Thụy thật vui trong cặp mắt khi được ngắm nàng.
Thụy bỗng nói:
-Hình ảnh
Thiên Nga vẫn nguyên vẹn trong trí tưởng.
-Nghĩa là
sao ?
-Buổi chiều ấy,
em Phương nói về Thiên Nga, câu chuyện kể ấy đã cho Thụy hình dung về
bóng dáng
một thiếu nữ, và bây giờ, sự không ngờ gặp
đã thấy rõ nét người trong trí tưởng vẫn là người của nguyên mẫu.
-Chắc không
? Sao mà có ý khen mình vậy ?
-Cái đẹp của
Thiên Nga rất thuần khiết, đúng là hình ảnh của văn chương .
-Những nhân
vật trong truyện của Thụy đều có thực ở ngoài đời.
Câu chuyện của hai người nghe thật
thú vị qua giọng nói, vừa thân mật, vừa chất chứa những cảm tình trong
sáng.
Thiên Nga ngừng ăn, cầm ly nước đưa
lên miệng uống. Thụy cũng muốn ngưng, nhưng còn lại ít cơm trên dĩa,
anh ăn nốt
cho hết.
-Chiều nay
chị có đi đâu không ?
-Không, ở
nhà.
-Anh Nguyên
về, tối đi uống cà phê.
Thiên Nga gật đầu. Người đàn bà ngồi
ở quầy tính tiền đưa mắt nhìn ra cửa. Bên ngoài, nắng tràn qua những
mái nhà,
trên con đường, tiếng động xe cộ qua lại vang lên thật đều đặn.
Thụy
quay đầu nói:
-Cho tính tiền
chị ơi.
Thiên Nga ngăn lại:
-Để mình trả.
Thụy
mỉm cười, lắc đầu. Khi rời quán ra đường, Thụy nói:
-Lần về phép
này, Thụy lãnh được tiền nhuận bút cho hai truyện ngắn.
-Họ trả nhiều
không ?
-Mỗi truyện
được bảy trăm. Báo ngày, báo tuần trả không nhiều. Ở tạp chí, nhuận bút
đến
2000, khá lắm.
-Sao Thụy
không gởi truyện cho tạp chí.
-Khi nào cảm
thấy mình viết thật khá, lúc ấy Thụy mới gởi.
-Truyện Thụy
viết có nhiều cảm xúc lắm.
-Mình phải
đi từng nấc thang. Và muốn viết khá, cần đọc nhiều. Khi Thụy gởi truyện
cho tạp
chí đó là lúc, chị coi Thụy là nhà văn được rồi.
-Bây giờ gọi
nhà văn không được sao ?
-Chưa. Bao
giờ truyện Thụy viết hay, và đẹp như hình ảnh Thiên Nga, lúc ấy hẳn gọi.
Với ý tưởng ấy, giọng nói vui của Thụy
tình cờ buông theo cơn gió hất tung chiếc chiếc áo dài tím Thiên Nga
bay lên.
Nàng đưa một tay ra cầm giữ, khi nhìn tới phía trước, Thụy trông thấy
có một
bóng người khách đứng chờ ở trạm xe buýt.
Khi đến đó, Thụy và Nga cũng
đợi. Trạm xe búyt cách xa bến xe đò chừng
hai trăm mét, và từ chỗ hai người đứng, nhìn một quãng xa trông thấy
ngôi nhà
thờ có bức tượng lớn Đức Mẹ vươn lên cao khỏi bóng nắng.
-Năm đầu
tiên đến Huế, gia đình ở trong vùng này, căn nhà nằm trông ra con đường
nhỏ bên
trái khu nhà thờ.
Thiên Nga hồi tưởng lại thời thơ ấu,
nàng kể một câu chuyện vừa thực, vừa trẻ thơ.
Thụy bỗng nghĩ đến cô Mỵ Châu, qua gương mặt ấy là
dáng nét của thiên thần.
Xe buýt đến. Ba người khách lên xe.
Người khách kia với dáng vẻ một công chức, trong lúc chờ xe, Thụy và
Nga trò
chuyện còn ông ta đọc báo, vừa hút điếu thuốc.
Xe chạy nhanh. Thụy trông
thấy ngôi nhà thờ và thấy bóng dáng căn
nhà cũ anh ở con đường bên cạnh. Trong phút giây này, Huế
làm Thụy ngập ngừng, vừa xa lạ.
Xe buýt đỗ khách ở trạm nhà ga. Nhiều
khách đứng ở đó đợi xe, chỉ có hai người xuống bến là Thụy và Thiên Nga.
Không về nhà ngay, Thụy theo Thiên
Nga đến nhà nàng. Từ ga đi bộ tới nhà nàng hơn trăm mét. Con đường
Huyền Trân nằm
ven theo dòng sông. Thụy trông thấy dòng sông, cây cầu, và ngôi trường
cổ giống
như tu viện bên kia sông.
Lối cổng sắt mở rộng, nhà thuê Thiên
Nga cuối dãy cạnh đó có mấy cây nở hoa trắng và tím thật đẹp. Khi Thiên
Nga lấy
chía khóa mở cửa Thụy đưa mắt nhìn qua bờ tường, nhìn cảnh sân trước
nhà, và
bên ngoài là con đường dưới nắng ven theo dòng sông.
Vừa bước vào nhà, Thiên Nga nói:
-Ngồi nghỉ
đi, mình làm nước chanh cho uống.
Thiên Nga đi vào nhà trong. Thụy ngồi
xuống chiếc ghế ở phòng khách, túi xách để bên cạnh chân. Nắng ngoài
sân tràn
vào phòng qua cửa lớn mở rộng, Thụy cảm thấy có chút bâng khuâng về
người chị
dâu đẹp và thương mến của mình. Trong phòng khách bày biện giản dị, có
mấy bức
tranh vẽ treo trên tường.
Một lúc sau, Thiên Nga trở ra với
khay nước và bộ quần áo mặc thường.
-Chị thuê chỗ
này, có đắt không ?
-Không. Bà
chủ đây là người rất tử tế, phúc hậu.
Thụy
nhìn bao quát căn nhà. Thiên Nga nhắc:
-Uống nước
đi.
-Mời chị.
Thụy
và nàng cùng cầm ly nước chanh uống một hớp nhỏ.
Lặng yên, Thụy kéo túi
xách mở ra, và lấy những cuốn sách đã mua theo lời dặn của anh Nguyên.
Thụy để gói sách trên mặt bàn.
-Chị mở ra
đi.
Thiên Nga mở gói giấy một cách cẩn
thận. Trong gói mặt trên là những sách về văn học, bốn cuốn, còn mặt
dưới là những
tập bài giảng in ronéo.
Trong lúc nàng xem qua các bài giảng,
Thụy nói:
-Thụy
có người bạn đang học trên Văn Khoa. Những
bài giảng này anh ấy học năm trước còn giữ, tặng cho Thụy, tiện mang về
cho chị.
-Hay quá.
Với những sách học rất cần, và các
bài giảng thật là hữu ích, Thiên Nga chăm chú, cúi mắt tìm kiếm trên đó
một sự
chờ đợi cho thời gian học của mình. Thụy
ngắm nhìn dáng vẻ của nàng, mái tóc thả vai, gương
mặt đẹp, rất dịu hiền,
hòa nhã.
Khi ngẩng mặt lên, nhìn Thụy, nàng
cười.
-Uống nước
đi.
-Mong là anh
Nguyên về chiều nay, Thụy nói.
-Chiều nay
anh về.
-Uống nước
đi rồi qua xem tranh.
Một lúc sau, Thiên Nga đứng dậy. Thụy
cũng đứng lên, rồi bước theo nàng qua phòng bên cạnh.
Vừa nhìn thấy căn phòng và tranh vẽ
xuất hiện, Thụy thốt lên:
-Đẹp quá. Chị
có máy ảnh đó không ?
-Không có.
-Có máy ảnh
thì hay nhỉ. Những bức tranh chị vẽ Thụy muốn chụp. Và, có cả cô họa sĩ
nữa, phải
không ?
-Có rồi Thụy
, cả phòng tranh này anh Nguyên đã dành cho mình nguyên một cuốn album.
-Thật là tuyệt
với.
-Sao, thấy
tranh mình sáng tác được không ?
-Bức tranh
nào cũng có một khuôn mặt hạnh phúc, Thụy nói.
Thiên Nga mỉm cười. Khi hai người bước
chậm bên nhau cùng xem tranh, nàng cũng đã cho Thụy chút hương thơm
nhan sắc của
nàng.
Một hồi lâu, Thụy lặng im không nói
gì. Nàng hỏi:
-Có gì mà
băn khoăn vậy ?
Thụy nhìn về phía khoảng tối bên
trong, bỗng nói:
-Sao Thiên
Nga không vẽ bức chân dung của mình.
-Đó tác phẩm
cuối đời.
-Sao không vẽ
ngay bây giờ.
-Không,
không nên vẽ.
-Nhưng dù vậy,
có người đã vẽ rồi.
-Ai vẽ, thực
không ?
Hai
người trở qua lại phòng khách. Ánh nắng từ ngoài sân
tràn vào dâng cả
vùng sáng, làm mềm dịu mái tóc thiếu nữ. Nàng như hiểu được ý Thụy đã
nói ra với
nàng, nhưng đó là của trí tưởng tượng in bóng cho mình, chứ không thể
nào anh vẽ
nên được bức chân dung cho nàng. Vì rằng, anh không có chút năng khiếu
nào về hội
họa. Nếu anh có , anh không chỉ vẽ một bức chân dung của nàng thôi, mà
nhiều ,
rất nhiều.
Nhìn vẻ mặt buồn của Thụy, nàng hỏi:
-Đang nhớ
Thúy Hà hay Liên An ?
Một thoáng giây, Thụy nhìn Thiên
Nga, anh nói:
-Không,
không một ai cả.
Trên tường, nhạc chuông đồng hồ trỗi
lên, ngân vang trong mối tình cảm thật dịu dàng.
Phần Thứ Ba
I
Thụy hẳn đã có được một
sự an lòng về Thúy Hà. Anh rất
xúc động khi gặp lại nàng, buổi chiều ấy bên người yêu, anh cảm thấy
lòng mình
vui lạ thường khi được nhìn sự chăm nom săn sóc của một người mẹ trẻ
dành cho đứa
con đầu lòng. Từ khung cửa, mắt anh quan sát căn phòng dành riêng cho
người mẹ
và đứa bé trai sắp đầy tuổi. Chiếc giường gỗ trải tấm chiếu rộng, chiếc
nôi có
giăng mùng tuynh trắng trông nó giống như con tàu nhỏ, trên các ngăn kệ
sắp những
hộp sữa mới nguyên, những chồng khăn, chồng tã trắng tinh, thứ nào cũng
đều cho
anh một cảm giác và một ý nghĩa. Và, trong câu chuyện trao đổi, Thúy Hà
còn cho
anh biết thêm về chuyện gia đình, tự dưng, vắng mặt Duy anh như thấy
mình thật
cần thiết khi trở về bên nàng.
Chỉ lưu lại một hôm rồi Thụy ra Huế
thăm gia đình. Trên chuyến xe khách, sự tình cờ anh gặp một thiếu nữ
xinh đẹp,
nàng mặc áo dài tím, mái tóc trên vai nàng, và nàng cũng ngồi gần bên
anh cùng
một dãy ghế. Nhìn nàng, tự dưng anh có linh cảm, để rồi một lúc sau,
anh đã
không ngờ được nàng là người bạn gái thân thương của anh Nguyên. Từ
cuộc gặp gỡ
ngạc nhiên, thú vị, Thụy viết ra được một truyện ngắn. Và, sau khi
truyện đăng
báo, Thụy gởi về ngay cho Thiên Nga. Nàng rất vui, mở truyện ra đọc
ngay, không
bỏ sót một dòng. Khi nàng cầm tờ báo chăm chú đọc, chung quanh nàng là
cảnh trí
đầy nắng sáng tràn qua cửa sổ, lối đi xuống cầu thang, các thứ đồ đạc
trong căn
phòng bày biện rất ngăn nắp. Trên ánh mắt
nàng, đôi lúc niềm vui trở nên khuất lặng và thoáng một vẻ buồn đẹp dịu
dàng. Từng
trang giấy, mỗi dòng Thụy viết nàng nhận ra được tấm lòng của anh đối
với nàng.
Đọc xong, Thiên Nga mỉm cười. Buổi
chiều, nàng ra phố đến một hiệu sách mua thêm vài cuốn nữa, về đến nhà,
nàng sắp
hai cuốn ở tầng một kệ sách, còn của Thụy gởi, nàng cắt từng trang và
đem dán
vào album ở những trang cuối, bạn có thể nghĩ đây là một lời bạt Thụy
viết cho
tặng phẩm ngày đính hôn của nàng. Và, rồi
đây, kỷ niệm này sẽ được giữ mãi, mãi mãi với Thiên
Nga.
Thiên Nga đối với Thụy, chân thực
như tình bạn. Anh và nàng cũng còn có sự đồng cảm về nghệ thuật. Những
bức
tranh của Thiên Nga luôn gợi hình trong tâm tưởng Thụy một thứ ánh sáng dịu dàng và mùi hương tinh khiết.
Thụy
cũng còn nhận ra trong đó nữa, sự trỗi dậy
tiếng nước chảy trên dòng sông , hay vẳng
xa, rất xa từng âm vọng của tiếng nhạc nghe rất bâng khuâng với nỗi
buồn. Còn
Thiên Nga, nàng rất thích đọc truyện Thụy viết, nàng luôn coi Thụy là
nhà văn của
mình. Những truyện Thụy viết như thể là dành cho Thiên Nga rồi gắn ngay
số phận
của nàng vào một gia đình mà nàng đã có sự chọn lựa rất đúng về phần
mình. Thụy viết nhiều về tuổi thơ thật
trong sáng,
vì trong đó, anh tìm ra được những nơi chốn anh đã sinh sống, lớn lên
và trưởng
thành.
Chuyến bay rời Huế, cất cánh vào lúc
giữa trưa. Hành khách đông chật, không còn một chỗ
trống, hầu hết là lính tráng đủ các binh chủng,
và cũng có một số thường dân xin quá giang được viên Trung uý trưởng
trạm tiếp
liên chấp thuận.
Thời tiết tốt, bên ngoài không trung
vàng rực nắng làm Thụy cảm thấy dạt dào mộng ước trở thành người phi
công. Đối
với anh, ngoài hình ảnh cánh chim bằng
lướt gió, thì không gì hơn nữa.
Ngày trở lại Sài Gòn, Thụy gặp Liên
An. Liên An mặc áo dài trắng, nàng vội băng qua đường, hình ảnh đó Thụy
ghi nhớ
mãi. Tới gần, nhìn thấy nhau, trên gương mặt Liên An hiện rõ một niềm
vui. Rồi
nàng nói:
-Em mong gặp
anh.
Chiếc túi giấy Thụy đang cầm có ba
cuốn sách cũ vừa mới mua. Hai người bên nhau, ngược con đường đi lên
phía rạp
hát. Ngôi nhà thờ ở xa thấp thoáng ánh sắc đỏ của màu ngói và cả một
vùng nắng
tỏa rộng, sáng lòa.
-Anh mới về
phép thăm nhà.
-Anh có gặp
chị Thiên Nga không ?
-Có.
Sau những lời Thụy kể, cô gái nói:
-Bất ngờ như
vậy, hay quá. Có thể thành nên một câu chuyện để anh viết.
-Anh đã viết
như ý em muốn.
-Anh có đăng
truyện này lên báo không ?
-Có chứ.
Thụy tiếp lời:
-Thiên
Nga, bây giờ là chị dâu của anh.
-Em biết.
Khi Thụy đưa Liên An vào quán
Cái Chùa, bà Huyền Chi trông thấy, mỉm
cười. Quán đông khách, nồng lên mùi khói thuốc, và lúc đứng chờ Thụy
cũng có ý
tìm gặp bạn quen. Ở bàn trong cùng có ba người khách rời ghế, Thụy liền
nắm tay
Liên An kéo đi.
Người hầu bàn đến, chờ ông ta dọn dẹp
xong, Thụy nói:
-Hai cà phê.
Liên An nhìn Thụy, nàng nói:
-Em thấy lúc
này anh khỏe ra.
-Ngày anh về
Huế không có Liên An.
-Chị Thiên
Nga ra sao ?
-Nàng là áo
trắng của hoa hồng.
-Em biết.
Hai ly cà phê mang ra. Thụy bỏ vào
ly của Liên An hai viên đường.
-Anh cho
thêm một viên nữa.
Thụy bỏ thêm cho Liên An, còn bên
anh hai viên là đủ. Và, đôi mắt Liên An cũng đẹp như viên đường mới
thấm ướt
màu cà phê.
-Anh về thăm
nhà vui không ?
-Anh có mười
ngày với Huế, nhưng đi đâu cũng không tìm thấy em.
-Ngày mai em
lên đường.
-Em đi chuyến
bay sáng hay chiều ?
-Ban đêm
anh, 12 giờ đêm.
Khi đặt tách cà phê xuống dĩa lót,
Thụy đốt điếu thuốc.
-Em uống cà
phê giờ này, sợ mất ngủ không ?
-Không, em
cũng thích cà phê.
Người lính thở nhẹ làn khói. Những sợi
khói mỏng lãng đãng trước đôi mắt Liên An. Với ánh mắt ngập ngừng trong
dáng vẻ
nghiêm trang, Liên An ngồi đó nhìn Thụy, mỗi lúc tưởng như trong cái
nhìn ấy,
những điều gì nói được với nhau dần dần thể hiện rõ. Liên An thật chỉ
muốn dành
cho Thụy một hình ảnh áo trắng. Thụy chợt nghĩ đến Huê. Rốt cùng, anh
vẫn một
mình, trơ trọi.
Tự nhiên Thụy có cảm giác lạ lùng
lúc nghe tiếng Liên An hỏi. Vừa ấp úng, anh đáp:
-Không,
không có ai cả.
-Đừng có giấu
em, nàng cười.
Vừa thấy người hầu bàn đi ngang, Thụy
gọi lấy thêm bánh.
-Hai cái.
-Không, một
thôi.
Khi dĩa bánh mang ra, Thụy để dành
cho Liên An.
-Anh ăn đi.
-Anh muốn
nhìn em ăn.
Cà phê đã nguội, nhưng uống vẫn
ngon.
Liên An ăn bánh. Thụy bắt đầu cảm thấy
dễ chịu, và nói:
-Anh về phép
được mười ngày, những ngày ở Huế thật vui.
-Anh có ra
Quảng Trị không ?
-Không, lần
này chỉ ở Huế. Bữa cơm thân mật trong gia đình có Loan nữa. Thiên Nga
làm món
mì Quảng, hôm đó, vắng mình em thôi. Phương cho anh hay sách vở học của
em và
Loan cô có đủ hết.
Liên An cười, trong ly cà phê viên
đường trắng chưa tan hết. Trên dĩa, chiếc
bánh còn một nửa.
-Em có viết
thư cho anh đọc không ?
-Không.
-Em qua Mỹ,
học bao nhiêu năm ?
-Bốn năm.
-Em ở
tiểu bang nào ?
-California.
Thụy nói với Liên An:
-Nếu anh được
gởi đi học, anh sẽ ở bên Texas.
-Anh cũng sắp
đi Mỹ.
-Anh xin đi
học về ngành hoa tiêu. Nhưng khóa học thì vẫn đang chờ.
-Anh mà đi,
nhớ cho em hay.
-Em nói
không viết thư cho anh đọc mà.
Nàng bảo:
-Anh đừng
làm bộ ngây thơ.
-Anh lúc nào
cũng tin lời người khác, nhất là em.
-Em cũng giống
như Loan thôi.
-Em nói
không đúng. Em là người ở phương xa.
-Không chính
xác. Em là người sắp đi tới phương trời xa.
-Liên An bắt
đầu lãng mạn rồi.
Liên An cười, ánh sáng trên đôi mắt
khép lại như giấc mơ.
Không ăn nốt phần bánh còn lại,
nhưng cà phê cô gái uống hết.
Và, Liên An đưa tay ra ngăn lại
không để cho Thụy trả tiền.
Ra ngoài đường phố, buổi chiều Sài
Gòn trời thật đẹp.
-Nếu trời
thình lình đổ mưa, em có đón xe về nhà không ?
-Không đâu,
em ở bên anh hết buổi chiều nay.
Hai người đi lên phía khu nhà thờ.
Bên phải nhà thờ là nhà Bưu điện, bên trái có một hiệu sách. Lúc nãy,
khi quay
đầu về phía trong quầy có cửa kính, Thụy trông thấy bà Huyền Chi. Bà
chỉ nhìn
anh, và có lẽ bà còn nhìn theo anh và Liên An lúc hai người đi ra ngoài.
-Thời gian
anh đi học lâu không ?
-Anh chưa biết.
Nhưng khoảng chừng hai năm.
-Em mới nhận
được thư của Lộc. Sáu tháng nữa, anh ấy về nước.
-Anh Lộc
đang ở đâu ?
-Texas, anh
qua sớm sẽ gặp Lộc.
-Anh sẽ nói
gì với Lộc, nếu gặp.
-Anh kể chuyện
về anh, và có những lần gặp em, ở Huế, rồi Sài Gòn.
-Anh và em,
còn nhớ nghĩ đến nhau không ?
-Luôn luôn.
-Nhớ thôi,
không có chờ đợi.
-Không.
Nhưng anh không có gì để làm em quên anh cả.
-Vậy anh chỉ
có một tình yêu em gái thôi.
-Anh nói
đúng.
Khu nhà thờ với dáng màu ngói đỏ và
nơi đây lá cuối mùa thu rụng xuống hết trên các lối đi và trên vỉa hè.
Thụy đưa
Liên An tới phía công viên có cỏ, rừng cây, nằm đối diện với dinh Độc
Lập.
-Em thích chụp
ảnh không ?
-Cũng thích
lắm.
-Không có
chiếc máy ảnh cho anh chụp em một vài tấm kỷ niệm.
Buổi chiều chợt trở lạnh. Liên An và
Thụy ngồi xuống băng ghế. Hai người bên
nhau nhìn quang cảnh phố, nhìn màu cỏ xanh tươi và những hàng cây trong
công
viên. Quanh đó, nghe tiếng những con chim ríu rít, vừa nhảy chuyền cành.
-Liên An đã
làm lễ hỏi chưa ?
-Chưa, anh.
-Rồi Lộc,
còn chờ đợi Liên An về nước.
Cô gái gật đầu.
-Anh vẫn
nghĩ mình xa lạ với em.
-Em không phải
là người anh mong đợi.
-Anh không
có một ai hết.
-Em biết.
-Nhưng, anh
không nghĩ mình là bơ vơ, đơn độc.
Liên An nhìn qua Thụy:
-Anh chỉ giữ
mãi ảnh hình của Thúy Hà.
-Người bạn học
của anh thời trước. Anh không có gì trong cuộc sống của nàng cả.
-Có chứ, anh
đừng giấu em.
-Chỉ có
trong tiếng nói, nàng làm anh nhớ
nghĩ thôi.
-Em ở bên
anh lúc này, anh cảm thấy vui không ?
-Anh rất vui.
Liên An là buổi chiều của anh.
-Em luôn nhớ
đến anh.
-Biết đến
bao giờ anh gặp lại em.
-Thời gian sẽ
nhắc nhở cho anh hay.
Đôi mắt Liên An nhìn lâu vào gương mặt
Thụy. Và, nàng mỉm cười. Lúc này bên anh, nàng muốn kể cho anh câu
chuyện giữa
nàng và Lộc. Nàng lại nghĩ, kể xong hết
chuyện, Thụy sẽ không có chút gì ngạc nhiên, cũng
không tự so sánh để ôm
lấy mối mặc cảm. Dù sao, Thụy đã là một người lính.
Rồi một mình, Liên An đi xa. Đêm vừa
xuống, trời đã thấm lạnh. Từ căn nhà đầu phố Gia Long gần bùng binh ngã
sáu, bạn
vừa trông thấy một chiếc taxi đang chạy chậm, rồi ngừng lại, vào lúc ấy
xuất hiện
bóng một cô gái đứng bên đường, ít phút sau, cô mở cửa bước lên xe.
Cũng còn ở
nơi đó, trên lề đường một người đàn ông, hai người đàn bà, cả ba người
cùng vẫy
tay chào theo cô gái lúc xe lăn bánh.
Người tài xế mặc chiếc áo sơ mi đã
cũ, có nhiều đường sọc, trạc tuổi chừng hơn bốn mươi. Trên mái tóc để
dày, và
những sợi tóc như đã khô cứng. Hai cánh
tay ông ta trông khỏe, vừa lớn, bao kín hết vòng tay lái của chiếc taxi
nhỏ. Vừa
lúc xe đang chạy, ông ta chỉnh lại đồng hồ cây số ghi giá tiền. Mỗi
quãng, đồng
hồ nhảy lên một nấc. Và, chiếc xe vẫn đang chạy chậm theo con đường
cũng nằm
trên khu phố thuộc căn nhà gia đình cô gái ở.
-Cô được đi
du học ?
-Vâng.
-Cô du học
nước nào ?
-Dạ, Hoa Kỳ,
-Cô mới đi lần
đầu, phải không ?
-Đúng, ạ.
Rồi đột nhiên, xe rẽ lối trái, sau
đó chạy qua một con phố nhộn nhịp, đèn điện sáng trưng. Người tài xế
mỉm cười,
nói:
-Đấy, cô
nhìn lại Sài Gòn để nhớ lần cuối khi đi xa.
Cô gái cười, thốt lên:
-Hay quá.
Ông thật là người có tâm hồn.
Người tài xế giữ nhẹ chân ga cho xe
chạy thong thả. Ngồi trong xe, cô gái nghe ra những tiếng động xe cộ
qua lại
trên phố chính, nghe tiếng bước chân người đi trên lề đường, và cả
những tiếng
chuyện trò của họ, sau cùng, cô thấy nơi đây là thành phố cô đã dừng
chân từ
hôm rời Huế vào đây, và tối nay cô lên đường trong một chuyến ra đi đến
xứ sở
khác.
Người tài xế lại nói:
-Tôi cũng đã
có nhiều chuyến đưa tiễn khách lên đường đi tới một xứ khác.
-Vâng.
Rồi ít giây sau, cô gái hỏi:
-Ông chỉ đưa
thôi, có vào phi trường không ?
-Không.
Nhưng lần nào tôi cũng cảm thấy lòng mình vui.
-Cám ơn ông.
Lúc này, xe đang chạy trên đường
Catinat, hướng về khu nhà thờ và nhà Bưu Điện. Trong đôi mắt Liên An,
ánh sáng
của nụ cười thật là hiền dịu. Khi trông thấy quán cà phê Pagode, cô nhớ
đến Thụy.
Trong bóng dáng của Thụy, có cả bóng những người nghệ sĩ thường ngồi ở
quán
này, và anh luôn làm cho cô vui khi anh kể nhiều chuyện dễ thương về
một người
thiếu phụ trẻ đẹp, nàng là bức tranh vẫn còn treo ở đó.
-Hết Sài Gòn
rồi, giờ tôi cho xe chạy nhanh nhé.
-Vâng, ạ.
Tiếng cười nhẹ, và cô gái cảm thấy
thực vui, háo hức về chuyến đi của mình.
-Gia đình cô
ở Huế, phải không ?
-Đúng, sao
ông hay vậy ?
-Không, tôi
không hay đâu. Chỉ muốn nhắc lại những lời mấy người thân của cô lúc
tiễn cô
đi.
-Vâng, ông
nói phải.
-Tôi cũng
mang một tâm trạng gần giống như họ.
Cô gái chợt có cảm giác lo ngại, một
thoáng nghĩ về điều gì đó, nhưng rồi vội vàng cô xóa ngay đi. Và, trong
sự lặng
im, cô đang lo sợ.
Mười lăm phút sau, chiếc taxi đưa cô
gái đến phi trường. Vừa thấy bóng dáng Liên An lúc xe ngừng, Thụy liền
chạy đến.
Cô gái vẫy tay chào mừng Thụy, vừa hỏi
người tài xế :
-Thưa ông
bao nhiêu tiền ?
-Hai trăm,
cô.
Cô gái trả đủ tiền, nói lời cám ơn rồi
mở cửa xe. Thụy chờ sẵn bên cạnh xe để đỡ hành lý cho Liên An. Ngay lúc
đó, anh
thoáng để ý từ cái nhìn lạnh lùng của người tài xế.
Rồi, hai người dời bước không quay đầu
nhìn lại. Người tài xế như có vẻ bất bình, cặp mắt nóng đỏ trong cái
nhìn dõi
theo bóng cô gái đi bên cạnh người lính đang khuất dần phía trong.
Mưa đêm xuống, nhẹ hạt.
-Em đổi tiền
được không ?
-Có, nhưng đổi
theo giá ngoài.
Liên An chỉ cầm tay cái túi xách nhỏ,
chiếc túi lớn của cô Thụy đeo ở vai bên trái, còn tay phải anh kéo chiếc va ly lớn có gắn bánh xe. Hai người
vui chuyện lúc đi bên nhau. Bỗng Liên An nói:
-Em vẫn còn
cảm thấy sợ.
-Sao vậy em
?
-Hình như
ông tài xế mắc bệnh tưởng ?
Câu nói của Liên An làm Thụy bâng
khuâng. Lúc bước đi chậm hẳn, Thụy hỏi:
-Em ngồi
trên xe ra sao ?
-Không có
gì, nhưng ông ấy hỏi em những điều có vẻ là lạ.
-Em có trả lời
những câu ông hỏi.
-Có. Nhưng rồi,
không hiểu sao em ngờ ngợ có chuyện gì đó.
-Và em cảm
thấy lo lắng.
-Vâng.
Nhìn qua Liên An, Thụy nói:
-Em đừng
nghĩ ngợi. Hãy bình yên , để thanh thản với chuyến đi của mình.
-Vâng, có
anh em yên tâm.
Hai người đi theo những hành
khách phía trước đến quầy số 4 để ghi vé
và ký gởi hành lý. Tới đó, hành khách dừng
lại, thứ tự đứng sắp hàng. Thụy nhìn đám đông hành khách tìm thử người
quen, và
trong số này, có bốn vị Sĩ quan và hai SVSQ, những người này mặc lễ
phục màu
xanh của binh chủng Không Quân. Hai chàng SVSQ du học, còn bốn ông Sĩ
quan là
đi tu nghiệp. Bốn vị này đều là Sĩ quan kỹ thuật, vì không có người nào
đeo
cánh bay trên túi áo.
Thủ
tục ghi vé và nhận hành lý rất nhanh chóng. Mỗi hành
khách chỉ mất hơn
mười lăm phút là xong phần việc của mình.
Bên cạnh quầy ghi vé có một cửa hàng
bán rượu , thức uống và đồ ăn nhẹ. Bây giờ, ai cũng thảnh thơi ngồi
nghỉ chờ ra
sân bay.
Cùng với hành khách khác, Thụy và
Liên An đi vào quán .
-Em uống cà
phê nghe ?
-Cà phê , em
sợ không ngủ được.
Một giọng vui, Thụy nói:
-Nhưng mà
đi, là để thức chứ có ai mà ngủ.
-Không, em
không thức nổi. Nhưng thức để làm chi ?
-Thức để mà
nhớ.
Liên An cười nhìn Thụy. Thụy đứng
lên, đi đến quầy mua cà phê pha sẵn, trong chốc lát đã quay trở lại.
Thụy đặt
chiếc khay giấy xuống, trên khay đã có sẵn mấy gói đường
nhỏ.
Liên An rất muốn tạo nên một dáng đẹp,
dễ thương để cho Thụy tha hồ mà ngắm, nghĩ ngợi và tưởng tượng. Với cặp
vui, cô
nhìn Thụy săn sóc mình. Thụy đang cho đường vào ly cà phê, xong cầm
thìa khuấy
nhẹ. Rồi, anh đặt ly cà phê trước mặt
Liên An:
-Em uống đi.
-Em chờ anh.
Trong lúc Thụy cho đường vào ly cà
phê của mình, Liên An hỏi:
-Bao giờ
khóa học của anh mới bắt đầu ?
-Anh chưa biết.
-Đừng nhìn
em lâu quá.
-Em uống cà
phê đi.
-Anh ở Sài
Gòn một mình.
-Ngày đó,
anh vào đây tìm kiếm việc làm.
-Anh làm
công việc gì ?
-Vào thời
gian ấy, việc làm không có nên anh tình nguyện đi lính.
Hai ly cà phê còn để nguyên, chưa uống
vì còn quá nóng. Ngồi ở bàn chỉ có riêng hai người, một lúc sau, cà phê
bớt
nóng hai người cầm ly mời nhau uống và nhìn mưa bên ngoài. Mưa làm cho
bóng tối
trở nên dày hơn, nhưng tiếng mưa đổ không nặng hạt. Người lính chợt cảm
thấy lạnh,
lạ thường. Cô gái mở to cặp mắt chợt nghe anh ta nói:
-Khi đi xa
là một dịp để cho mình nhớ. Đêm nay, ngồi trong phi cơ, lúc phi cơ bay
trong trời
đêm em chẳng nhìn chi những vì sao ở ngoài trời, mà cần sự hồi tưởng về
một thời
nào đó của mình. Hạnh phúc nhất của mỗi người là được nhớ. Trong bao
nhiêu kỷ
niệm về em, gia đình em, và một nơi em sinh trưởng là hiện ra rõ nét
hơn cả.
-Cũng có anh
trong đó nữa, phải không ?
-Anh nghĩ là
cũng có.
-Còn anh thì
sao ?
-Anh thấy
mình đơn độc khi em đã khuất trong chân mây.
-Lãng mạn
quá. Trên đường đưa em tới đây, và lúc này có anh, em nhớ ra thật rõ
điều người
tài xế nói, và em hiểu vì sao ông ta muốn cho em được nhìn một đêm cuối
ở Sài
Gòn trong giờ phút ra đi.
-Thế đó mà
em lo sợ.
-Em sợ, vì
ông ta như là người sống trong bệnh tưởng.
-Rất có thể,
em là một khuôn mặt nào đó trong đời, ông ta có sự liên hệ.
-Biết đâu,
điều anh nói ra là đúng.
-Nhưng mà,
em phải để sự bình yên cho mình. Hay là, em nghĩ đến sự chờ đợi em và
Lộc gặp
nhau.
-Không, em
chưa nghĩ đến Lộc. Em nghĩ nhiều đến anh.
Thụy nói:
-Anh vẫn là
người lính của một ngày đó về phép. Và, tối nay, anh phải mặc đồ lính
để qua được
bên đây mà tiễn em.
-Em nghĩ đến
anh, vì chúng ta sắp chia tay.
-Em có đói
không ? Gọi một món cho em ăn nghe.
-Đừng gọi, uống
cà phê với anh được rồi.
Trời vẫn đang mưa. Tiếng hành khách
trò chuyện vang lên trong niềm vui trầm lặng thật ấm cúng. Thụy đã hút
hết điếu
thuốc thứ ba. Liên An nhìn anh châm điếu thuốc thứ tư, cô nói:
-Anh hút thuốc
nhiều quá.
-Trong buổi
tối nay thôi.
-Không hút nữa,
đưa điếu thuốc cho em.
-Em thích
hút thuốc sao ?
Liên An gật đầu. Thụy nói:
-Em hút đi.
Có khói thuốc em hút, anh thấy em bay trong mây.
Liên An mỉm cười. Nàng ngậm điếu thuốc
khô trên môi, hít nhẹ một hơi rồi thở ra làn khói. Có thêm nhiều xe du
lịch và
xe taxi đang đưa khách đến. Mới được bên nhau khoảng thời gian chưa đầy
nửa tiếng,
vậy mà trong ký ức, hai người cùng cảm thấy có một sự dằng xé vì nỗi
buồn của
ngày tháng. Thụy nhìn ra mưa, trong lúc tiếng Liên An đang nói bên anh.
Từ nãy giờ, bạn nghe rõ một câu chuyện
về bên gia đình Liên An. Cách kể câu chuyện, giọng nói của Liên An dần
dần sắp
xếp cho bạn từng thứ lớp, đó là những gì nàng đã gói trọn và đem cất
trong chiếc
va ly hành lý của nàng , và nó sẽ được gởi theo chuyến bay.
Thụy nở một nụ cười hiền
hậu, anh nói:
-Em đã có được
một khuôn mặt thời gian.
Thụy uống cà phê thật chậm. Anh đang
uống một chút men trong hương vị của một mối tình.
Liên An tháo chiếc đồng hồ tay đưa
qua cho Thụy. Thụy cầm lấy chiếc đồng hồ, anh chỉnh lại
ngày và giờ sau khi đã so giờ bên Việt Nam và
giờ ở tiểu bang Cali bên Hoa Kỳ.
-Lúc này là
mấy giờ bên Mỹ ?
-Sáu giờ
sáng. Em qua bên đó, đến tháng mười là đổi giờ vào mùa đông.
-Em biết.
-Có ai đón
em không ?
-Có chứ.
-Người thân
bên Lộc ?
-Không. Người
của trường ra đón.
-Vậy là em ở
nội trú.
Liên An mở túi xách, lấy ra một
phong bì thư khá dày đưa cho Thụy xem. Thụy mở thư đọc, đây là thư của
ông bà
Smith , người bảo trợ cho Liên An.
Liên An nói:
-Có lá thư
này em đỡ lo.
Với một nụ cười dễ thương, Thụy nhìn
Liên An. Cô gái cũng nhìn lại anh, màu mắt của cô thật đẹp như màu một viên kẹo sô cô la.
-Anh cứ mãi
nhìn em, thôi nhé.
-Chung quanh
em niềm vui như là ánh sáng, Thụy nói.
-Bây giờ là
đêm, với ánh sáng là màu vàng.
-Đèn sáng vẫn
đợi giây phút em lên đường.
-Anh vẫn
luôn mơ mộng.
-Em vẫn là
Liên An, cái tên anh rất thích gọi
-Chỉ có tên
thôi, phải không ?
-Em vẫn là
Liên An, Thụy khẽ nhắc.
Từ máy vi âm trong phòng phát thanh
chợt vang lên tiếng nói của nhân viên phi trường. Đã tới giờ Liên An,
ra đi. Thụy
chợt rùng mình, ngẩn ngơ. Khi anh và cô gái cùng đứng lên, giọng cô
xướng ngôn
viên đã thay đổi, và giọng nói trở nên nhanh với hai thứ tiếng Anh và
Pháp dành
cho những hành khách nước ngoài.
Lối cửa ra phi cơ gắn tấm biển số 2.
Những người kiểm vé đứng chờ. Thụy và Liên An chưa dời bước, mắt nhìn
nhau bối
rối.
-Em đi nghe,
tiếng cô gái nói và nước mắt ứa ra.
-Anh nhớ em
lắm.
-Em hiểu.
-Anh nói với
em một lời được không ?
-Anh cứ nói
đi.
-Anh yêu em.
Liên An gật đầu, rồi đưa tay ra cho
Thụy bắt.
II
Liên An đến một phương trời khác.
Nàng cũng đã khép đôi mắt, lúc muốn để cho chàng thấm lấy một chút vị
ngọt trên
cặp môi khô của nàng. Ít ngày sau, Thụy cũng rời xa Sài Gòn. Mưa, thành
phố này
nghe trong mưa, bạn có được cả cuộc sống người miền Nam. Thêm lần này
nữa, Thụy
trở ra Nha Trang. Nơi thành phố ấy đã nhiều lần anh trở lại, nhưng anh
vẫn
không có một nỗi rung động, sự đợi chờ, và ở đó, vẫn là biển, cát
trắng, những
hàng phi lao, những bóng dáng con tàu đi quanh qua các hòn đảo nhỏ.
Từ sân phòng tuyển mộ đến phi đoàn vận
tải chừng hơn mười phút. Khi đoàn xe tới, rẽ vào lối cổng và ngừng lại
trên bãi
đất trống bên cạnh nhà kho. Lập tức, 218 khóa sinh nhảy xuống tập trung
nhanh
thành bốn khối theo danh sách đã có ghi sẵn tên. Mỗi khối, sẽ đi một
chuyến
bay. Thụy ở trong khối 4, đi chuyến sau cùng.
Trong lúc chờ, anh em chia nhau thuốc
hút, chuyện trò rất thoải mái. Chen lẫn giữa số đông khóa sinh mặc đồ
trận, đội
mũ vải, có khoảng mười SVSQ niên trưởng mặc đồ vàng đeo dây biểu
chương, người
nào trông gương mặt cũng sáng sủa, tự tin.
Tới 9 giờ, khối 1 và 2 lên phi cơ.
Hai chuyến bay kế tiếp được thông báo sẽ đi lúc 10giờ. Số khóa sinh còn
lại được
tự do, nhiều anh em đứng dậy rời hàng đi về phía câu lạc bộ của phi
đoàn. Khi
trở ra, trên tay anh nào cũng có bánh mì, cà phê.
Thụy mở nắp túi áo lấy gói thuốc.
Đây là điếu thứ tư anh hút trong buổi sáng nay. Bất chợt, Thụy nhận ra
mình già
hơn các bạn chung quanh. Cũng dễ hiểu, anh đã đi lính, được theo học Sĩ
quan nhờ
có bằng Tú Tài, còn những bạn kia ngoài đời là học sinh, sinh viên vừa
đến tuổi
nhập ngũ. Cũng khoác áo lính nhưng trông họ rất trẻ trung và mới lạ.
Trong sự
trầm lặng của mình, Thụy có đôi chút mặc cảm dù rằng, lúc này anh và họ
là cùng
chung một khóa học.
Thụy kéo dây ba lô, lấy ra một cuốn
truyện nhưng vội vàng cất vì đã có lệnh di chuyển ra phi cơ. Hàng quân
bước đều,
trật tự hướng về chỗ hai chiếc phi cơ đậu.
Bỗng nhiên, Thụy khựng bước. Người
áp tải viên nhìn anh, hỏi:
-Nhớ tao ?
-Nhớ.
-Sao, được
đi học Sĩ quan hả.
-Ờ, được đi
học.
Thụy vừa đáp lời, nhìn anh bạn cố nhớ
tên. Lần lượt, khóa sinh lên tàu. Hai bên dãy ghế đầy
chỗ , số còn lại ngồi xuống sàn. Đây là
chiếc vận tải, loại C119. Nếu đi C130, chỗ ngồi thoải mái hơn.
Khi bửng cửa sau kéo lên, đèn trong
phi cơ bật sáng. Một lúc, tiếng động cơ nổ, rồi di chuyển.
Phi cơ cất cánh rời Tân Sơn Nhất.
Anh bạn đi tới chỗ Thụy ngồi, nhìn Thụy bằng một ánh mắt lạ lùng. Thụy
lấy gói
thuốc, đưa ra mời , anh ta rút một điếu.
-Ra Nha
Trang học bao lâu ?
-Học ba
tháng quân sự, xong về đây học Anh ngữ.
-Lấy xong Tú
Tài II chưa ?
-Chưa, lấy
không nổi. Nếu biết lận đận thi cử, tao đi sớm được ba năm rồi.
-Nãy giờ nói
chuyện, mày nhớ ra tên tao không ?
-Thực tình
không nhớ.
-Tao nhớ tên
mày.
-Cám ơn.
-Tao là
Chung.
-À, nhớ rồi.
Nhớ cả bài thơ của mày đăng trong đặc san của khóa.
Chung gật đầu cười, hài lòng.
-Mày là chủ
biên tờ Đặc San mà.
-Anh em mình
cùng làm, tao chỉ lo bài vở rồi đánh máy, quay ronéo.
-Còn giữ tờ
báo không ?
-Còn, lần
nay ra Nha Trang cũng cố làm tờ Đặc San nữa.
-Mày viết
khá lắm. Truyện mày đăng báo Lý tưởng, tao có đọc.
Thụy có được cảm giác nhẹ nhõm với
người bạn lính cũ đã lâu không gặp.
Chung trông
khỏe mạnh, cao lớn trong bộ đồ bay như là một phi công. Năm đó, khóa
tân binh
chuyên viên có tuyển lựa thêm một số áp tải viên, Chung được chọn theo
học một
khóa về ngành này.
Lúc này, phi cơ đang bình phi, hai bạn
chuyện trò vui vẻ, cởi mở. Những kỷ niệm đầu tiên bước chân vào quân
trường được
nhắc lại, với từng người bạn, với từng căn lều trại lợp tranh.
Thụy hỏi:
-Ở phi đoàn,
có đứa bạn nào trong khóa nữa không ?
-Không, một
mình tao.
Thụy nói:
-Dáng dấp
mày không khác gì là phi công.
Một giọng trầm lặng, Chung nói:
-Tao đi theo
tàu luôn. Không có thì giờ học.
-Có khi nào
ra Huế, Đà Nẵng không ?
-Khỏi nói,
đi như cơm bữa.
-Tiền phụ cấp
bay khá không ?
-Bằng nửa mấy
ông Pilot.
-Vậy cũng đỡ.
-Mày lên được
gì mới đi học.
-Hạ sĩ. Còn
mày.
-Cũng ngang
đó thôi.
Thụy thả mẩu tàn thuốc, dí mũi giày
dập tắt. Cũng vừa lúc,
tiếng chuông reo. Chung đứng lên, áp ống
nghe vào hai bên tai. Thụy quay nhìn ra cửa, trông thấy bên dưới là
biển. Một nỗi
bâng khuâng, Thụy còn níu tay trong những hình bóng ngày cũ. Rồi, anh
trông thấy
bóng dáng ngọn núi, những con đường của thành phố xuất hiện, lúc này,
phi cơ từ
từ giảm cao độ để chuẩn bị đáp. Thụy vẫn cứ dõi theo những sự vật như anh đang tìm kiếm một bóng hình nào thân
thuộc.
Thụy nhớ nghĩ nhiều đến Thúy Hà, đến bao nhiêu hẹn ước xa xôi trông đợi
có được
một ngày ở bên nhau.
Những con đường trong thành phố đã
khuất dạng. Phi cơ vừa chạm bánh rất êm xuống phi đạo, bỗng nhiên tiếng
chuyện
trò im bặt. Lúc này, anh em khóa sinh người nào cũng lo lắng, lặng yên
xem xét
lại quân trang và quân phục.
Từ phi đạo bên ngoài, phi cơ lướt
bánh rất nhanh một đoạn đường xa, rồi tốc độ chậm dần , đến lúc ngừng
hẳn .
-Nhanh lên,
các anh còn tà hả.
Thụy đeo vai ba lô, tay phải nhấc
túi xách marin, anh điềm nhiên chờ lệnh lạc. Chung mở cửa sau, từ trong
khoang
tàu đám khóa sinh vội vàng, hối hả lao ra ngoài.
-Các anh tập
trung nhanh lên.
Giữa những tiếng la hét
dữ dội, bất chợt có một
hình ảnh như áng mây làm Thụy chú ý, đó là cái bóng nắng in đậm nét
viên Đại úy
phi công còn rất trẻ trong bộ đồ bay màu
cam đứng riêng một mình, lặng im .
-Các anh vào
hàng ngay.
Người nào cũng đều khiếp sợ, tối mặt
tối mày chẳng thấy gì cả, chỉ nhìn theo những chiếc áo treillis và
những cái
túi sac marin mà chạy đến chỗ sắp hàng.
-Đếm số.
Người đứng đầu cất tiếng lớn một,
hai, ba, bốn, đến Thụy là số 68 đứng ở hàng cuối.
-Sac marin
lên vai, chuẩn bị.
-Sẵn sàng.
-Chạy.
Đoàn quân chạy đều bước, đều hàng, vừa
hô to những tiếng khỏe, khỏe. Trời đầy nắng nóng, tiếng hô, tiếng ồn ào
rầm rập
bước chân chạy, và tiếng la hét của mấy ông SVSQ niên trưởng vang dội
cả quân
trường.
Nhưng chỉ vượt được chừng hai trăm
thước, đoàn quân chạy bắt đầu rời ra,
người trước kẻ sau không còn thành hàng, thành lối nữa. Trên vai Thụy
chiếc sac
marin mỗi lúc càng đè nặng, anh cứ chạy, nhưng
hoa mắt không nhìn thấy quân trường đâu cả.
-Chỗ trại
còn xa lắm. Các anh rõ chưa ?
-Rõ.
-Chạy nhanh
lên.
Đoàn quân thấm mệt, rời rạc trong bước
chạy, bước đi, bước nghỉ. Thụy trông thấy có bóng im, anh vội buông túi
xách ngồi
nghỉ. Trước anh, chừng năm mười bạn, cũng đã xỉu, rơi
dài dài.
-Tại sao anh
không chạy nữa ?
-Mệt quá rồi,
cán bộ ơi.
Nghe Thụy đáp vậy, anh
ta bật cười, nhưng liền nín ngay
và làm mặt nghiêm.
-Ông chống
thế chờ, xuống cho tôi trăm cái hít đất coi.
Vừa được nghỉ qua ít phút, Thụy tuân
lệnh chống thế chờ hít đất. Được hai chục cái, vị này bảo anh đứng lên,
sac
marin lên vai tiếp tục chạy. Thụy bạo dạn hỏi:
-Gần tới
chưa cán bộ ?
-Còn xa lắm,
ông. Nhà trại các ông ở trên núi kìa. Chỗ có
vọng gác ông thấy không ?
Thụy nghĩ tay này xạo, nhưng ông ta
hỏi lại lần nữa, anh đáp rõ . Giờ Thụy đang cố gắng chạy, bị đứt quãng
mấy đoạn,
rồi sau cùng về tới khu vực chính của trại.
Về đây anh em tưởng được nghỉ mệt,
đâu ngờ, một trận dã chiến ra trò. Trên mặt sân cát, anh thì bò, anh
thì lăn
thùng phi, anh nhảy xổm, và còn cả một đám đông đang đếm nhịp hít đất.
Cảnh tượng
diễn ra trong tiếng la hét không lúc nào ngừng. Rồi cả bọn bị bắt lột
con cá
alpha, bị làm thịt từng đứa một. Bọn lính mới đứa nào cũng nín câm, lầm
lì thi
hành lệnh phạt. Mấy ông niên trưởng cứ thay nhau quần thảo từng toán
một, và mắt cứ lăm le vào anh nào thi hành
không đủ
tiêu chuẩn.
Sau đoạn đường bò dã chiến trên cát
hai vòng, nóng bỏng cả hai cánh tay, đến lượt
Thụy phải nhảy 30 cái nhảy xổm đúng thế. Hai tay để
lên đầu, thế chân
trước, chân sau, anh cố gắng nhảy, cuối cùng cũng đủ. Lúc Thụy đang sửa
lại quần
áo để báo cáo thi hành lệnh phạt xong, bất
ngờ , một niên trưởng ở toán bên kia bước nhanh sang, rồi dừng trước
mặt Thụy,
nạt nộ hỏi:
-Ông có biết
tôi là ai không ?
-Dạ, là niên
trưởng cán bộ.
-Trời, ông dạ.
Quân đội không có thưa dạ, ông ơi.
-Là niên trưởng
cán bộ.
Người kia hỏi:
-Ông có quen
biết niên trưởng này không ?
-Không ?
-Ông có quen
tôi không ?
Thụy đã nhận ra Giáp, bạn học cũ, chỉ
nhìn.
Tiếng anh ta quát lớn:
-Ông có quen
tôi không ?
Sợ quá, Thụy đáp:
-Không.
-Ông không
quen tôi hả.
-Không.
-Hai chục
cái hít đất.
Thụy không đáp lời,
tuân lệnh thi hành. Xong, anh đứng
lên nghiêm chỉnh chào kính và trình diện. Một giọng từ tốn, Giáp hỏi:
-Cho ông
nhìn lại mặt tôi, có quen không ?
-Không, Thụy
đáp.
-Ông không xứng
đáng là SVSQ/KQ.
Thụy lặng im nhìn Giáp. Giáp nói:
-Binh chủng
Không Quân, tình bạn là trên hết. Không bỏ anh em, không bỏ bạn bè. Ông
là bạn
học với tôi thời xưa, mà giờ vào đây ông lại không nhìn tôi. 50 chục
cái nhảy xổm.
Thụy
thi hành lệnh phạt lập tức. Và anh
chỉ biết mình còn gắng sức, được bao nhiêu hay bấy
nhiêu. Nắng trưa càng
gắt, trên bãi cát, đám khóa sinh đã xỉu nằm dài, nhưng tiếng mấy ông
cán bộ la
hét vẫn còn chói tai nhức óc. Bất thần, Giáp cất tiếng:
-Cho ông đứng
dậy.
Thụy chỉ mới nhảy được 20 cái, Giáp
đã cho đứng dậy. Lúc anh sửa quần áo để trình diện, tiếng Giáp bỗng nhẹ nhàng nói:
-Tao là
Giáp, nhớ ra không ?
-Nhớ, Thụy
đáp nhỏ tiếng mắt vừa nhìn lại người bạn cũ.
-Có biết
thằng Há không ?
-Biết.
-Hắn mới về
Sài Gòn tuần trước. Cuối tháng này hắn đi Mỹ.
-Còn ai bạn
quen ở đây nữa không ?, Thụy hỏi.
-Không.
Dưới nắng, mồ hôi ra ướt đầm áo Thụy
mặc. Niên trưởng lúc nãy bắt anh thi hành lệnh phạt, đã bỏ đi. Thụy và
Giáp nói
chuyện nhỏ tiếng, nhắc lại tên mấy người bạn học với giọng khàn đục
khơi trong
nỗi nhớ một chút ngậm ngùi, cay cay trên
cặp mắt. Khi xuống máy bay là mười một
giờ hơn, đến lúc này đã quá một giờ trưa, 218 tân khóa sinh chịu đựng
hai giờ
huấn nhục trong ngày đầu đã ngất ngư , mệt nhừ rồi, chỉ mong được nghỉ
ngơi. Vừa
trông mong như vậy, bỗng có lệnh tập trung toàn khóa để nghe một Niên
trưởng
cán bộ trong chức vụ Không đoàn trưởng nói chuyện. Vị niên trưởng này
đứng trước
hàng quân, dáng uy nghiêm, miếng vải cà
rốt mang trên cổ áo có đến bốn lằn gạch trắng nghiêng, trông ra vẻ là
một vị chỉ
huy cấp tá. Bằng một giọng trầm, vừa nghiêm, sau lời chào mừng đón
tiếp, vị này
lần lượt giới thiệu thành phần SVSQ cán bộ phụ trách đoàn khóa sinh
trong thời
gian huấn nhục, rồi tiếp theo là những điều lệ, nội qui của quân trường.
Từ ngoài
sân, lần lượt tân khóa sinh đi hàng đôi vào nhà ăn. Rồi đứng nghiêm
trước mỗi
bàn, lặng im
như cầu kinh, tất cả cùng lắng tai nghe những
lời hướng dẫn cách ăn uống dành cho SVSQ. Năm phút sau, tất cả mới được
phép ngồi.
Bữa ăn chỉ có cơm, món canh và cá
kho. Mệt và đói, nên người nào ăn cũng nhiều. Hết thức ăn, có người lấy
nước
trà thay canh để ăn cho đủ sức. Lúc này, tất cả niên trưởng thay vì la
hét , nạt
nộ, ông nào cũng lời lẽ nhẹ nhàng, luôn có mặt từng bàn, vừa trò
chuyện, vừa
thúc các tân khóa sinh phải gắng ăn thật nhiều, thật no, vì thời gian
huấn nhục
còn kéo dài đến bốn tuần. Trong khoảnh khắc ấy,
ai cũng cảm động, vơi dần đi nỗi mỏi mệt.
Bữa ăn thong thả, kéo dài hơn nửa tiếng.
Khi trở ra ngoài, với túi sac marin trên vai, từng khối đi nhận phòng.
Bên trái
khu nhà ăn, một tòa nhà dài hai tầng, có
lối cầu thang ở hai đầu. Được phân chia và hướng dẫn trước, hai khối C
và D tầng
dưới, A và B lên tầng trên.
Hai dãy giường
sắt đôi song song, một lối đi rộng ở giữa,
bên mỗi giường có đặt chiếc tủ nhỏ cao hơn một mét, anh em khóa sinh
khi đi vào
cứ theo thứ tự hàng đôi mà nhận chỗ. Thụy ở dãy giữa, giường trên, bên
cạnh là
bạn Lưu Vinh , đối diện có một bạn người Quảng tên Đặng gần đó, là ba chàng trai Huế là Hiệp, Vê và
Định.
Hôm nay là ngày chủ nhật, giờ này,
có nhiều niên trưởng mới bắt đầu ra phố,
nhưng cũng có một số đã trở về trại.
Thụy ngả lưng xuống giường chợp mắt
được một giấc. Khi anh thức dậy, các bạn chung
quanh đang ngồi đánh giày, soạn sac marin sắp xếp
quần áo, hoặc viết thư. Trong cảnh sinh
hoạt giờ nghỉ
ai nấy đều yên lặng, nhưng cũng trong giờ phút này, anh em có dịp hỏi
chuyện
làm quen nhau.
Hai ngày trước, tất cả khóa sinh tập
trung đông đủ ở trước sân phòng tuyển mộ. Điểm danh xong, có ngay tin
tức thông
báo về khóa học. Viên Thượng Sĩ đứng trước
hàng quân bắt đầu đọc danh sách những người đi Nha Trang , anh nào có
tên sắp một
hàng riêng. Trước buổi tập họp, trong anh em đã lao xao bàn tán về
chuyện đi hoặc
ở lại Sài Gòn. Thụy nghe các bạn nói, điểm thi Anh Ngữ dưới 21 sẽ ra
Nha Trang
học quân sự trước, còn trên mức này, sẽ ở lại Sài Gòn học Anh Ngữ . Với
tin
này, Thụy tự nghĩ chắc là mình ở lại để học chứ không ra Nha Trang, vì
kỳ sát hạch
vừa rồi ở Trung Tâm Nguyễn Trãi anh làm bài được, nhất là phần viết và
văn phạm.
Nhưng bất ngờ, sau con số 200, lại
có tên Thụy. Cho đến 218 người thì danh sách ngừng lại ở đó, và không
cần thông
tin nhiều, viên Thượng Sĩ loan báo ngay những ai có đọc tên ra Nha
Trang về nhà
chuẩn bị quân trang, sáng chủ nhật sẽ lên đường.
Hàng quân tự động giải tán. Số đông
anh em chưa về ngay, vẫn còn đứng lại chuyện trò , bàn tán sôi nổi.
-Như vậy, tụi
mình bị mất ba tháng.
-Đằng nào
cũng phải học quân sự giai đoạn II mới ra trường.
-Nhưng đước học
Anh Ngữ , đi Mỹ sớm hơn.
-Bạn ạ, ông
có đậu Anh Ngữ, đậu bằng lái Pilot, ông cũng phải học xong quân sự mới
đeo lon.
-Không đâu,
đi qua Mỹ học về là đeo lon luôn.
Từng đám đông đang tụ tập, vẫn cứ
bàn đi, nhắc lại mấy điều kể trên mà thực
sự cũng chưa ai nắm rõ, nên chẳng biết tin bạn nào là đúng. Nhưng dù đi hay ở , Thụy không bận tâm nữa. Ra Nha
Trang cũng vui thôi, điều cốt yếu ngày nào ra trường, trở thành phi
công mới là
quan trọng. Và, trong lúc 218 khóa sinh chờ lên đường ra Nha Trang thì
khoá 69A
từ ngoài đó vừa mãn khóa học mới trở về. Có một vài SVSQ của khóa này
xuất hiện
trong bộ quân phục vàng, có gắn alpha và mang dây biểu chương.
Ngày chủ nhật, gần tới
rồi. Thụy tự dưng nôn nao, nửa muốn về
nhà, nửa còn nấn ná ở lại. Sau hơn một giờ tụ tập, thấy anh em ra về
Thụy cũng
về theo. Trước khi tới bến xe lam trong căn cứ,
Thụy ghé Phòng Báo Chí gặp anh Dương và được anh cho
vài tờ báo Lý Tưởng
mang theo đọc.
Trong một thoáng nhớ ,
cuộc đời có vẻ chênh
vênh, chập chờn. Lúc này, có những người bạn ngồi cúi đầu lặng yên theo
ngòi
bút viết thư về cho gia đình. Thụy cảm thấy nao nao,
anh nghĩ đến cha mẹ, những đứa em, và bao
nhiêu người thân cùng bạn bè. Anh cũng bất chợt nhớ đến bóng dáng một
cô gái Huế
cùng anh đi trên chuyến xe buýt, rồi cùng anh xuống một trạm ở nhà ga.
Không biết
tận phương trời xa, Liên An có nhớ lại một chút gì về
anh không, hay buổi gặp gỡ tình cờ đó, đối với
cô thật bình thường, dửng dưng, chẳng hề gọi là kỷ niệm . Riêng anh,
bóng dáng
nàng như gió mát tâm hồn, phút giây này, lòng anh thực muốn gửi về Huế,
thành
phố thân yêu ấy một mối tình. Sau cùng, trong trí nhớ Thụy hiện rõ một
khuôn mặt
hiền dịu Thúy Hà, anh như nghe tiếng nàng nói và đem lại cho anh một
nỗi buồn, từ nay anh chỉ biết giữ mãi sự
thầm kín của một
câu chuyện tình mà chỉ có riêng hai người biết nhau thôi.
Bỗng nhiên, từ ngoài lối cửa vào
Giáp xuất hiện trên tay cầm một gói giấy báo. Vừa đến bên Thụy, Giáp
lên tiếng:
-Ông vừa mới
vào quân trường mà đã có thân nhân gởi quà rồi.
Các bạn chung quanh nhìn Giáp và Thụy.
Nhưng Thụy biết ngay gói quà nhỏ là Giáp
mua ở khu cantine, chứ không hề có ai gởi
cả. Thụy nói với người bạn tiếng cám ơn rất nhỏ, hơi rụt rè, rồi lúc
Giáp ngồi
xuống cạnh giường mình, Thụy mới mở gói giấy. Đó một chiếc khăn mặt,
cái bàn chải
mới và một phong kẹo nhỏ.
Giọng xúc động, Thụy hỏi:
-Gia đình
anh còn ở Đà Nẵng không ?
-Vẫn ở ngoài
đó.
-Anh sắp
đi Mỹ học lái chưa ?
-Không đi Mỹ,
đang học khóa Cessna ở đây.
-Vậy cũng được.
Anh đã bay solo chưa ?
-Rồi, mới
xong tuần trước.
-Như vậy,
trên ngực áo anh có nửa cánh chim rồi.
Giáp cười nhẹ nhàng. Có bạn khác hỏi:
-Chừng nào
niên trưởng mới ra trường ?
-Chưa biết,
suôn sẻ , chừng sáu tháng nữa.
III
Xong buổi khám phòng, còn được nửa
giờ nghỉ nhiều anh em đem công việc riêng ra làm. Tiếng trò chuyện cũng
nghe
râm ran, chỗ này ch?y ??n chỗ kia, b?ng ch?c ồn ào lên với những tiếng
cười hả
hê, thoải mái. Rồi, cũng trở về yên lặng.
Thụy đang viết thư trong lúc rất
nhớ Thúy Hà, và nàng diễn qua tâm trí anh
như một đoàn tàu hồi hương. Đến các nhà ga, hay một nơi nào đó, anh
cũng chỉ thấy
sự xuất hiện một bóng dáng của nàng. Tình yêu, nàng và anh luôn chỉ nằm
trong
tâm cảnh, và bạn tìm thấy ý nghĩa đó qua đôi mắt nàng, qua tiếng nói,
rồi là nắng
gió của thời tiết mỗi mùa.
Vừa lúc lá thư viết xong, hồi kẻng
đánh lên báo giờ đi ngủ. Hôm nay, mới hết tuần lễ huấn nhục thứ nhì.
Không một
ai biết, thời gian thử thách qua giai đoạn này là bốn hay tám tuần. Có
lẽ, chỉ
bốn thôi, vì khóa học quân sự ba tháng, rồi trở về Sài Gòn vào trường
Anh ngữ.
Với Thụy, anh không dám vụt bay cao, mà chỉ mong lên được từng bước.
Những năm
gian nan, lận đận trong thi cử, Thụy đã muốn quên, nhưng rồi nó lại vẫn
cứ thôi
thúc. Thực lòng, Thụy rất ước mong lên Đại học, bốn năm trước có được
tấm bằng
Tú Tài I, anh vẫn yên phận làm lính để có được thời gian rảnh học thi
lấy bằng
Tú Tài II. Khi giật được mảnh bằng này, không gian của tương lai mở
rộng. Hoặc
ghi danh vào, hoặc bằng hai lối thăng tiến, một xin đi học lớp Sĩ quan
ngành kỹ
thuật, hai la, trôi theo mộng viễn phương của nhà văn Toàn Phong. Đời
phi công
thật là đẹp, lãng mạn khi mình được khoác áo hiệp sĩ không gian đứng
bên cô Phượng.
Và, nếu trong giấc mơ thành đạt, Thụy sẽ tìm ra Phượng có thực ngoài
đời.
Những lá thư quân trường Thụy viết,
đã gởi cho Thúy Hà, Lăng, Huê và chị Thiên Nga. Liên An đang ở Mỹ, mới
ra
đi cách đây vài tuần, những ngày đầu
trên xứ lạ hẳn sẽ làm cho cô gái bỡ ngỡ, nhưng rồi cô cũng sẽ quen với
không
khí tự do và nếp sống ở xứ người. Với Liên An, cô em gái dành cho anh
một kỷ niệm
như bài thơ, bài hát anh yêu thích. Thụy
luôn nhớ Huế, bóng dáng nhà ga, chuyến xe buýt ghé trạm ngừng anh và
Liên An
cùng xuống. Thụy nhớ buổi chiều trước khi ra đi sau thời gian hết nghỉ
phép,
anh và Liên An đi bộ qua những chiếc cầu và nhìn xuống dòng sông. Thụy
nhớ tiếng
nói của Liên An rất là nhẹ như cơn gió mát, lúc này đây nàng và anh
chắc cũng
đã gói kín Huế lại để thương yêu một mối tình.
Bỗng nhiên, trời đêm trở nên lạnh. Vừa
kéo tấm chăn đắp lên người, Thụy nghe tiếng mưa rớt hột. Trong đêm gió,
mưa rơi
xuống nhanh. Có nhiều người thức giấc lúc nghe mưa, rồi tiếng động
những bước
chân di chuyển, không lâu, căn phòng yên tĩnh trở lại, chỉ còn mưa bên
ngoài.
Mưa trở nên nặng hạt, mưa này có khi kéo dài đến sáng.
Bất thần, cuốn sách Thụy để đầu giường
rớt xuống sàn. Tiếng động làm anh bạn nằm giường bên giật mình thức
giấc.
-Mưa hả.
-Ờ, trời
đang mưa.
-Bạn không
ngủ sao ?
-Có, tôi mới
chợt thức lúc trời mưa.
-Chưa qua
đêm.
-Chưa.
Người bạn trở mình, nằm quay lưng ra
phía cửa trước. Thụy vẫn thao thức, vì quá nhớ Thúy Hà. Sự ra đi của
anh Bình
ngày đó gây cho Thụy một nỗi buồn, quyến luyến. Những ngày đầu vắng
lặng , Thụy
rất nhớ đến anh. Thụy nhớ những buổi tối có trăng ngồi đánh cờ, chuyện
trò với
anh, nhớ tới những cuốn sách truyện anh
đưa cho mình đọc. Và , lại còn tình thân của anh với gia đình Thụy nữa,
mỗi lần chuyện trò Thụy rất thích những
chuyện
anh kể về Hà Nội, về những tỉnh lỵ, những vùng quê miền Bắc.
Trưa hôm ấy, nằm nghe cơn
mưa xuống thật nhẹ mát, Thụy đọc lại cuốn
truyện Bướm Trắng của nhà văn Nhất Linh. Cô Thu trong Bướm Trắng đã cho
Thụy
hình dung một thiếu nữ đẹp, sắc nét, rất có thể rồi đây anh sẽ gặp nàng
qua
hình ảnh một cô gái ngòai đời. Thụy đọc xong trọn chương đầu, cảm thấy
buồn ngủ
rồi buông sách. Thụy ngủ ngon giấc và nằm mơ thấy Thúy Hà. Nàng và anh
ngồi
trong lớp học ồn ào, đông bạn bè vây quanh. Các cô bạn mặc nhiều màu áo
khác
nhau, chỉ có Thúy Hà là một linh hồn áo trắng. Lớp học đang giờ nghỉ,
học sinh
nói chuyện, và hầu như ai cũng chú ý đến đôi tình nhân. Một lúc sau đó,
Thúy Hà
và Thụy lên ngồi trên mặt bàn học cạnh bên nhau. Tà áo của nàng lấp qua
một
bên. Nàng đưa tay qua kéo Thụy lại gần, rồi nàng hé môi. Thụy cúi xuống
đặt môi
hôn, vừa ôm nàng. Thụy cảm thấy cả môi anh và nàng cùng thơm một thứ vị
ngọt
trái cây. Thụy ngửi được cả hương vị thơm gạo mùa nơi áo trắng nàng
mặc. Hai
người vẫn quấn quít trong cặp môi hôn, không rời nhau. Chiếc áo trắng
Thúy Hà mặc
trong lúc đó đã làm tỏa ngập ánh sáng khắp căn phòng.
Khi Thụy thức giấc, trời tạnh mưa.
Chiếc đồng hồ để trên bàn học chỉ 3 giờ chiều. Thụy ngồi dậy yên lặng,
sau đó
đi rửa mặt, rồi trở về phòng thay quần áo. Thụy mặc chiếc áo sơ mi màu
nâu đậm,
quần vải kaki vàng nhà binh. Thụy mở
ngăn ví, thấy có ít tiền còn ở ngăn giữa.
Đường Trưng Nữ Vương bắt đầu từ Viện
Cổ Chàm chạy qua khu chợ Mới và lên thẳng đến vòng đai phi trường. Nhà
dì Vân ở
quãng giữa, cách một ngả ba đường đi ra
phía biển chừng vài chục mét. Ở khu dưới này chỉ có một ít nhà xây, còn
hầu hết
là những xóm nhà lao động. Quán ăn, quán giải khát cũng mọc lên nhiều.
Vào sáng
thứ bảy, chủ nhật, con đường này đông khách ăn, vì các quán bán món ăn
bình dân
ngon và rẻ. Từ ngày ở Đà Nẵng, Thụy đâm ra ghiền món mì Quảng. Món ăn
này đặc
biệt của người ở miền trong này, và khi bạn đến đây, ghé vào quán mì
Quảng bạn
sẽ thấy món ăn này thật hấp dẫn, no mắt và ngon miệng. Đó là những sợi
mì dai
và dày bỏ vào trong cái tô có rau, thịt kho ba chỉ, bánh tráng, đậu
phụng. Khi
bạn đói, có thể bạn ăn đến hai tô là thay thế cho bữa ăn trưa hoặc tối.
Ở thành
phố này những quán bán mì Quảng mở cửa từ sáng sớm đến chiều tối.
Buổi chiều vang lên giữa hư không tiếng
còi tàu vọng từ bến Cảng. Thụy hình dung thấy một con tàu đang rời bến.
Ngày
mai Thụy ra Huế. Ngày mai, anh về lại với gia đình. Còn lại buổi chiều
nay cho
anh nhớ đến Thúy Hà. Trong giấc ngủ anh mơ thấy nàng và giờ đã tan
biến. Nhưng
mà nàng vẫn còn đi từng bước chân qua trí tưởng khiến anh, như nghe
tiếng mình
đang gọi một người ở xa.
Thụy
đạp xe ngang qua khu công viên, đối diện với trường
anh học. Bên trong
sân trường, có một số học sinh đang chơi bóng chuyền.
Gió thổi mát, bóng nắng in lên
vai Thụy khi anh dừng
xe trước nhà Thúy Hà. Cửa hiệu luôn có
khách ra vào mua các lọai mỹ phẩm. Thụy nghĩ là nàng có ở nhà. Nếu như
có Duy
vào, rất có thể giờ này nàng ở nhà Duy trong căn phòng riêng của chàng.
Duy và
nàng đã gắn bó nhau cả tâm hồn và thể xác. Thụy có ý nghĩ, thân xác của
hai người
luôn đầy đủ, có lúc dư thừa. Và, họ sẽ nói gì với nhau ngòai chuyện
thân xác.
Trên gương mặt Thúy Hà, Thụy luôn nhận ra, nàng có một đời sống riêng,
một câu
chuyện riêng mà Duy không thể biết. Tiếng nói của Thúy Hà khi dành cho
Thụy như
biểu hiện điều đó.
Hai khách hàng rời cửa hiệu. Vừa lúc
thấy Thụy xuất hiện, ông Kha vui vẻ kêu
lên. Thụy cũng lên tiếng chào hai ông bà.
-Cậu ngồi
chơi. Tôi trở lại bây giờ.
Thụy đáp dạ, ngồi xuống chiếc ghế rộng
cầm tờ báo đọc. Rồi ông Kha trở lên nhà, ông có vẻ thỏai mái sau công
việc vừa
mới pha chế hàng mỹ phẩm xong.
Ông Kha đưa gói thuốc mời Thụy một
điếu. Thụy cầm lấy, mồi lửa từ cây diêm vừa bật cháy. Có tiếng nhạc từ
trên căn
gác vọng xuống. Tiếng hát Thái Thanh nghe rõ và trong.
Về đây khi mái tóc còn xanh xanh
Về đây với màu gió ngày lang thang
Thụy lắng nghe đến khi tiếng đàn đệm
bản nhạc buông nhỏ dần, rồi tiếng hát ngưng. Sau ít giây còn xúc động,
Thụy định
thần trở lại, vừa lúc ông Kha hỏi:
-Các trường
có nghỉ lễ Phục Sinh không ?
-Dạ có.
Ngày mai cháu ra nhà.
Cửa hiệu chiếm hết một nửa phòng
khách với nhiều tủ kính lớn nhỏ dựa lưng tường. Ở ngòai mái hiên, một
cái tủ lớn
bày hàng và có bán cả thuốc lá.
Khi chị giúp việc đem lên hai cái ly
lớn có nước đá, vừa nghe giọng mời, Thụy đóan chừng chị là người ngòai
quê
mình.
Bà Uyên nói:
-Cậu đây là
người ở Quảng trị.
-Chào cậu.
-Chào chị.
-Ở Quảng Trị,
cậu ở ngay tỉnh.
-Dạ, ngay tỉnh.
Ông Kha rót bia vào hai ly.
-Tôi ở Trường
Sanh, chị nói.
-Trường Sanh
gần Hải Lăng, quê nội của tôi.
Chị giúp việc tên Trà. Nói qua chuyện
ít câu với Thụy xong chị xuống nhà. Ở cửa hiệu, thường có hai người đến
giúp việc
vào ngày thường trong tuần. Công việc của họ là súc rửa chai , rồi cho
hàng vào
chai và dán nhãn.
Thụy cầm ly bia uống một ngụm đầy. Ông
Kha nói:
-Các ông Tướng
làm Cách Mạng bị quản thúc hết.
-Các ông bị
đưa lên Đà Lạt.
-Tình hình vẫn
chưa yên ổn.
-Bây giờ,
ông Khánh được Mỹ ủng hộ. Ông ấy cũng là tay chân ông Diệm.
-Cậu có nghĩ
là mấy ông Tướng trung lập không ?
-Cháu không
biết. Nhưng cháu nghĩ những vị Tướng bị quản thúc thân với người Pháp.
Nắng sáng lên ở ngòai. Lúc Thụy rời
khỏi nhà, trời còn âm u sau cơn mưa tự lúc trưa. Thụy nôn nao mong được
gặp
Thúy Hà. Bỗng anh nhớ đến giấc mơ gặp nàng ở lớp học. Giấc mơ hẳn còn đây, đang dâng lên mùi thơm chiếc áo
trắng nàng mặc.
-Uống đi cậu.
Thụy cầm ly bia ông Kha vừa rót
thêm. Thụy nhìn lại gương mặt của ông. Mỗi lần nhìn ông, Thụy như cố
gợi nhớ
trong đầu một con người anh đã gặp ngày nào đó. Và, anh luôn có cảm
giác, lướt
qua hình ảnh ông là một chuyến xe lửa trở về dừng lại bên tháp nước nhà
ga.
Dòng nước mạnh tràn chảy trên máng xối. Khói đầu máy tàu, buổi chiều
xôn xao những
tiếng động quanh vùng núi, rồi một lúc sau, con tàu rời ga xép ra đi.
-Uống bia tốt
lắm cậu. Đỡ khát nước.
Lòng Thụy vui hẳn lên cùng với men
rượu và nụ cười chợt sáng khi ngước mắt trông về phía cầu thang anh
thấy bóng
Thúy Hà đi xuống. Tiếng bước chân nàng nghe thật rung động, nôn nao, và
Thụy
đang nghĩ đến những lời mình mong tìm ra để thành một câu chuyện nói với nàng, và được ở lâu bên nàng.
Thúy Hà đi xuống nhà dưới, rồi một
lúc sau trở lên gặp Thụy.
-Ba cho con
một ly.
Ông Kha khui chai bia lớn, rót vào
cái ly nhỏ cho nàng uống.
-Anh có ra
thăm nhà không ?
-Có. Ngày
mai anh đi.
Hai người đưa mắt nhìn nhau. Gần bên
nhau, Thúy Hà luôn cho Thụy thấy vẻ đẹp của nàng. Nàng không chỉ đẹp
với những
tà áo dài anh thường gặp nàng ở lớp học. Nàng đẹp giản dị và quyến rũ
cả trong
bộ áo quần nhẹ mặc ở nhà. Nàng mặc quần áo nhẹ như
gió mát và hương gió ấy chập chờn làm rung động
những cây lá trong vườn. Hai cánh tay nàng để trần, vòng cổ thon thả và
trên
khuôn ngực, ánh sáng của làn da đầy lên một lớp sữa trắng đọng, đây hẳn là một phần của bức tượng nghệ thuật mà chất
liệu sáng tạo là sự pha trộn các thứ trái cây.
-Em đang dọn
lại căn gác.
-Xong chưa ?
-Em nhờ anh
đưa chiếc kệ lên căn gác, được không ?
Không giấu được xúc động, Thụy nhìn
người bạn gái. Nàng hiểu, mỉm cười.
Ông Kha đứng lên nói:
-Tôi trở lại
làm việc. Hết giờ nghỉ.
Ông nói với Thụy một câu tiếng Pháp.
Còn lại Thụy và Thúy Hà bên nhau:
-Hai tuần
nghỉ, em có tính đi chơi đâu không ?
-Không.
Khi thấy Thụy nhìn nàng lâu, nàng ra
vẻ nghiêm trên cặp mắt. Rồi nàng bảo:
-Lên gác đi.
Thụy theo Thúy Hà xuống nhà dưới.
Chiếc kệ chùi rửa xong được đặt cạnh bể nước. Thụy nhấc thử chiếc kệ,
nói:
-Anh đem lên
một mình được.
Thụy nhấc chiếc kệ để lên vai. Vào lối
cầu thang, Thúy Hà nhường Thụy đi trước, một tay nàng đỡ phía sau. Từng
bước chậm,
chắc chắn. Khi lên khỏi cầu thang hẹp, Thụy thực sự cảm thấy sức nặng
nhưng cố
gắng đặt xuống nhẹ nhàng, lòng anh cứ mãi vui vì được ở bên Thúy Hà .
Thụy
nhìn qua lối cửa, hỏi:
-Em muốn đặt
ở đâu ?
Thúy Hà bên Thụy, má ửng hồng làm
anh đắm say nhưng cố che giấu sự ngượng nghịu.
-Anh muốn đặt
ở đâu ?
-Bên cửa sổ.
-Em theo ý
anh.
Thụy và Thúy Hà mỗi người một đầu nhấc
chiếc kệ di chuyển đến chỗ đặt dựa vách tường sát cửa sổ.
Hai người yêu nhau qua ánh mắt. Tiếp
đó, khung cảnh và những đồ đạc trên căn gác hiện ra. Chiếc giường ngủ,
chăn màn,
tủ đựng quần áo, bàn học, sách vở và báo chí. Chiếc radio nhỏ hiệu
Nationale với
cần ăng ten đã kéo lên.
-Em để lại
anh một mình.
Thúy Hà cười, xong bỏ đi. Thụy gật đầu
với vẻ mặt lo âu. Nàng đã rời căn gác đi xuống cầu thang. Thụy bâng
khuâng nhìn
theo bóng nàng, lòng tiếc nuối, và ước mong chỉ được ở bên nàng.
Thúy Hà không ở bên mình nữa. Thụy
nói thầm, giờ bạn biết mình làm gì. Căn
gác bỗng dưng trống vắng, lạnh lùng. Bất chợt, Thụy để ý đưa mắt nhìn
những chiếc
áo dài của Thúy Hà được để vào móc áo, treo thành hàng trên một sợi dây
kẽm bên
lưng tường. Ánh sáng từ ngòai chiếu lên, cái vẻ sáng mở ra màu sắc
những chiếc
áo dài vừa dửng dưng, buồn lặng. Thụy biết mình không thể nói, đôi mắt
anh bình
yên nhìn từng chiếc áo của nàng với cảm giác đang trông theo bóng dáng
nàng đi
qua một con đường trên các dãy phố. Trong phút này, tình yêu thương
người bạn
gái của anh thật đằm thắm, lặng yên nghe lời nói an ủi, mỗi chiếc áo là
một
hình bóng, một quãng đời đã in dấu lên trên đó bao nhiêu kỷ niệm thân
thương của
nàng. Đến cả tiếng nói nữa, mỗi chiếc áo đã gói lại nỗi buồn, và tiếng nàng nói nghe như một lời gọi bâng
quơ rất xa, rất nhớ của một người mẹ trong tình mẫu tử. Nàng rất đẹp,
quyến rũ
biết bao nhiêu mỗi khi nàng lấy một chiếc áo dài để mặc.
Bỗng anh nghe tiếng nàng thốt lên:
-Anh cất giữ
của em, phải không ?
Thúy Hà lên gác, đứng ở cửa lúc nào
Thụy không hay. Trên tay nàng cầm hai ly nước đá chanh.
Thụy đang tìm một câu hay để nói.
Thúy Hà đến gần đưa một ly nước cho anh. Hai người kéo ghế ngồi xuống
bàn học.
Khi chiếc muỗng khuấy nhẹ trong ly nước ngừng tiếng động, Thụy nói:
-Anh có được
những chiếc áo dài của em. Có được trong đó nữa, biết bao nhiêu là hình
ảnh của
em.
Thúy Hà nhìn sang phía những chiếc
áo đang treo ở sợi dây kẽm. Nàng bỗng hỏi anh:
-Anh thương
em, bạn anh có biết không ?
-Bạn bè anh
và em, ai cũng biết.
-Anh thấy
màu áo có sặc sở lắm không ?
-Không, màu
nào cũng phác vẽ cho em một nét đẹp riêng.
-Em biết, những
gì của em anh cũng đều thấy đẹp.
-Không lúc
nào hình ảnh em vắng trong anh cả. Em vắng đi, anh cứ đợi chờ.
Hai người uống nước, cảm thấy đỡ
khát. Thúy Hà làm nước chanh thật ngon. Rồi một lúc sau, Thụy đứng lên
bắt đầu
công việc.
Thúy Hà chuyền sách cho anh sắp.
-Ở Huế, nhà
anh ở đâu ?
-Ở gần chùa
Từ Đàm. Hồi ở Quảng Trị, em có hay đi Huế không ?
-Có, một đôi
lần. Em đi với ba bằng xe lửa.
Thụy cầm cuốn sách truyện Thúy Hà mới
đưa lật coi nội dung vài trang rồi gấp lại. Anh bỗng nói với người bạn:
-Nhà anh ở
Quảng Trị đối diện với tháp nước. Những năm sống ở đó, anh luôn nhớ rõ
những
chuyến tàu khi về đến ga. Thời kỳ đó, mẹ anh có mở một quán hàng cơm
ngày nào
cũng đông khách.
-Anh có phụ
giúp cho mẹ anh không ?
-Có, bưng
cơm nước phục vụ cho khách ăn. Công việc này, mẹ anh có cho anh tiền ăn
quà.
-Anh giỏi lắm.
-Cám ơn em.
-Thúy
Hà ạ.
-Gì anh ?
-Anh nhớ thời
xưa đó anh gặp một cô bé có cặp mắt giống em.
-Có em, anh
lại tưởng tượng thêm nhiều hình bóng khác nữa.
-Có em, một
hình ảnh thôi , chưa đủ.
-Anh ra Huế
bao nhiêu ngày ?
-Hết kỳ lễ
Phục Sinh.
-Anh có đi
Quảng trị không ?
-Có. Anh muốn
về thăm lại thành phố nhỏ đó.
-Anh nhớ
thăm cả thành phố cho em.
-Anh nhớ đến
em khi về lại ngòai đó.
-Nhưng mà...
-Sao em ?
-Thôi, chẳng
có gì cả.
-Em thích thứ
quà gì ở Huế.
-Hay quá.
Lúc vào, anh nhớ mua cho em mè xửng.
-Anh sẽ mua
mè xửng, cả bánh đậu xanh nữa. Em thích không ?
-Rất thích.
Công việc đang làm như thể là cái cớ
để cho Thụy và Thúy Hà chuyện trò, gần gũi nhau, và có được chút cơ
duyên vừa
buộc ràng tình bạn, vừa thắt tình yêu thêm một gút. Bên ngoài, mây trời
và
quang cảnh phố trôi đi trong bình yên. Khi câu chuyện ngừng hẳn, tự
dưng Thụy
có cảm giác lâng lâng, lạ thường. Những cuốn sách sắp thành hàng ngay
ngắn, đẹp
mắt, anh hài lòng và cô bạn cũng cảm thấy vậy.Tiếng nói Thúy Hà hay lạ,
rồi
trong tiếng nàng xưng em dịu ngọt, Thụy cố gắng ngăn chận cảm xúc ôm
hôn nàng.
Sau đó, Thụy nghe âm thanh của hư vô và trong im vắng, anh có cảm giác
mình trải
rộng cánh tay để đón lấy những tiếng nói của người yêu,
nhẹ nhàng như những chiếc lá từ từ rớt từng
chiếc một.
Bỗng Thúy Hà cất tiếng:
-Đây này,
cho anh Thụy xem.
Thụy vừa quay đầu lại, Thúy Hà đưa
cho anh cuốn album. Thụy vội ngừng công
việc đứng lên đi tới chỗ bàn học kéo chiếc ghế ngồi xuống. Thúy Hà ngồi
bên anh,
gần hơn. Thụy cầm ly uống hớp nước, cố lấy sự tự nhiên.
Hai người cùng yên lặng. Thụy hơi
run rẩy trên đầu hai ngón tay. Sau đó, sự rung động như muốn anh bày tỏ
bằng lời
nói. Cuốn album lớn bằng khổ một cuốn sách. Thụy mở ra trang đầu, hạnh
phúc thật
mát lạnh , ùa ngập, tràn đầy lên cả mặt anh. Rồi nhẹ nhàng, hương vị ấy
tan dần.
Những bức ảnh đen trắng, lớn có, nhỏ có, được dán thành hàng ngay ngắn,
và mỗi
tấm cho anh đoán được tuổi của Thúy Hà trên gương mặt. Mỗi cái nhìn từ
ánh mắt
anh tỏa xuống trên bức ảnh người bạn, đó là tình yêu mà anh biết nàng
rất hiểu.
Không để yên lặng lâu, Thụy hỏi chuyện để được nghe tiếng nói của Thúy
Hà. Có một
bức ảnh chân dung rất lạ tạo nên gương mặt Thúy Hà thành một bức tranh
sống động,
gần gũi, đam mê. Giọng nói nhỏ, mắt anh nhìn qua người yêu.
Thúy Hà nói:
-Em chụp tấm
hình này ở Quảng Trị.
-Anh cảm động
nhớ em ngày trước ở đó.
Thụy vẽ lại thành phố cũ, căn nhà
xưa, qua sự mường tưởng những âm thanh
trong giọng nói của Thúy Hà , và anh cố gắng tìm đúng trong lòng mình
một giọng
nói trung thực để gửi hết quê hương tới cho nàng.
Thụy lật xem những tấm ảnh khác.
Thúy Hà đang ngồi bên anh. Thụy có được Thúy Hà cả hình ảnh và con
người. Từng
phút giây thời gian cứ lũy thừa gấp nhiều lần cho anh cảm tưởng rằng,
hạnh phúc
trong kỷ niệm, về sau sẽ được ghi nhớ rất là lâu.
Cuốn album xem xong được gấp lại để
trên bàn. Trở sang chuyện khác, hai người cùng nói về học hành, thi cử. Thúy Hà, nàng cho anh hay nàng muốn
theo ngành Dược khi lên Đại Học. Hình dung Thúy Hà với bao nhiêu nét
trẻ đẹp,
tươi vui, qua chiếc áo blouse trắng , thời gian sẽ trở thành vùng ánh
sáng, ôi,
hạnh phúc cho bất cứ ai được lấy nàng làm vợ. Thụy nhận ra rằng, anh
chỉ là người
bạn của nàng. Người bạn của nàng trong thời thơ ấu, và những kỷ niệm
khi tìm kiếm,
anh luôn cố nhớ ra từng âm sắc trong tiếng nói của nàng.
Thúy Hà bật đèn sáng. Những hàng
sách sắp trên kệ trông ngăn nắp, sạch sẽ, sáng sủa.
-Ngày mai
anh ra Huế.
-Ngày mai
anh về với ba mẹ và các em của anh.
-Anh có đi
Quảng Trị không ?
-Có.
Thụy nghe sự lập lại của bao nhiêu
câu hỏi, bao nhiêu lời nói và ghi nhận thêm một thoáng ý nghĩ trong đôi
mắt
Thúy Hà . Thành phố quê hương anh, Thúy Hà đã ở đó, đã qua một thời
thiếu nữ với
những lớp học, bạn bè, những con đường đi học thân quen.
Khi thấy Thúy Hà mở cuốn album ra
xem, anh viết trong trí nhớ mình một dòng chữ.
Đó là những dòng lưu luyến của anh khi yêu nàng, và
luôn nhớ đến nàng
qua những chiếc áo dài nàng mặc.
-Em tặng
anh.
Thụy nhận tấm ảnh của Thúy Hà. Dưới
nhà, có tiếng ông Kha nói với người vợ.
-Anh sẽ đi
giao hàng ba nơi.
-Có kịp
không ?
-Kịp chứ. Chừng
một giờ thôi, anh về.
-Em đợi cơm.
-Nói với cậu
Thụy ở lại ăn cơm.
-Vâng. Cậu
đang ở trên gác.
Thụy cất tấm ảnh của Thúy Hà vào cuốn
sách học nàng cho anh giữ. Nụ cười Thúy Hà làm cho Thụy nghe mình có
một nỗi
vui của giờ ra chơi. Thụy thật muốn nấn ná ở lại trên căn gác này, bên
nàng.
-Em có bài học
nào cần anh giúp không ?
-Có.
Thúy Hà rút ra một tờ giấy lớn. Khi
Thụy cầm bút, nàng nói:
-Cho anh đi
trước.
Thụy đánh dấu nhân lên ô giấy. Khi
chơi, anh và nàng nghĩ đến nhau trên mỗi quân cờ. Thụy cũng còn mường
tượng những
tờ giấy mà hai người thường chơi cờ ca rô, Thúy Hà vẫn giữ làm kỷ niệm.
Ông Kha vừa rời nhà. Thụy nghe tiếng
xe đạp lăn bánh ra ngòai thềm hiên.
-Anh đi tiếp.
Thụy lơ đãng đánh một dấu nhân gần
hàng ba.
-Anh lơ đãng
rồi.
Thụy nhìn lại Thúy Hà. Nàng cũng
nhìn lại anh và cuộc chơi như thể muốn ngừng.
-Anh chỉ muốn
có em bên anh.
Thụy viết lên mặt giấy điều anh muốn
nói.
-Em đang ở
bên anh.
-Anh...
Thụy chỉ viết được một chữ, tay run
lên. Thúy Hà cười, nàng bảo:
-Anh đánh tiếp
đi.
Ván cờ chơi dở, lại tiếp tục. Trong
lúc Thúy Hà cúi xuống với mái tóc, Thụy đặt bàn tay anh lên tay nàng.
Nàng để
yên.
Cuộc chơi ngừng. Thụy đứng lên dịch
chiếc ghế lại gần Thúy Hà. Ngồi bên nàng, anh mở rộng cánh tay ôm lấy
thân
nàng. Nàng không có gì nôn nao, bối rối. Trong phút giây lặng yên, Thúy
Hà vẫn
để bàn tay nàng trong tay anh. Rồi, từng ngón tay đan nhau, cho đến lúc
cả hai
cùng đứng lên, và ngay lúc đó Thúy Hà khép kín đôi mắt lại. Thụy ghé
môi, cúi
xuống hôn quanh vòng cổ nàng. Một chút sau, trên cặp môi nàng vừa hé
mở, anh nuốt
thật chậm, thật sâu, hương vị ngọt của trái cây ứ đầy ướt ngập cả miệng
anh.
Và, từ phút này, Thụy và Thúy Hà chỉ muốn có được suốt đời một cuộc
sống riêng
chỉ hai người.
IV
Bên ngoài phạn xá, sáng nay bỗng
nhiên thấy xuất hiện bốn cái thùng phi đặt cách đều khoảng dọc theo bờ
tường,
và lúc này, một anh lính cơ hữu đang cho bơm đầy nước. Nước lấy từ cái
vòi lớn,
sức chảy rất mạnh qua một ống dây nhựa màu xanh dài đến hai chục mét.
Tối hôm qua, giờ khám phòng rất
nghiêm nhặt, gắt gao. Không một anh nào được thoải mái, đứng im nhìn
các bạn
mình thi hành lệnh phạt. Giờ khám phòng, khốn khổ nhất là màn móc giò
lên tủ.
Bên binh chủng dù, người lính tập nhảy từ chuồng cu, sau đó, mới thực
hành trên
phi cơ. Bên đây không quân, bạn lái máy bay tác chiến lúc lao vào phòng
tuyến của
địch tác xạ bằng súng máy hay dội bom, phi cơ từ độ cao phải cắm chúc
xuống, thì đây là một màn
diễn tập để sau này bạn quen khi lâm chiến.
Đó, là một lý luận rất hữu lý của các bậc niên trưởng. Khu trại của
đoàn SVSQ
có hai dãy nhà xây hình chữ L, dãy lớn nhất dành cho khóa 69B, gồm 218
tân khóa
sinh, còn một dãy đối diện với sân cát và phạn xá là dãy đặc biệt của
các bậc
niên trưởng. Trong số bốn mươi niên trưởng, có một vị thuộc khóa 65 D,
nay mang
cấp Đại táSVSQ. Những vị khác là sinh viên từ các khóa 67 C đến 68B. Ở
Nha
Trang, các ngành chuyên môn và kỹ thuật, thời gian học có kỳ hạn hẳn
hoi, còn
ngành phi hành không thể xác định rõ được.
Từ tân khóa sinh, học căn bản quân sự ba tháng, rồi đến học Anh ngữ
phải đạt
tiêu chuẩn từ 70 đến 80 điểm ECL, kế đó, là kiểm tra an ninh và sức
khỏe. Hãy cứ
để cho bạn dễ dàng rời Việt Nam đi du học, qua bên đó, trước tiên bạn
phải vào
trường Anh ngữ Lackland thi trắc nghiệm Anh ngữ , không đậu, bạn phải
học lại cứ
bốn tuần là thi lấy điểm, được phép ba lần thi, nếu mà rớt thì bạn phải
khăn
gói lên đường về VN, ở đây, Bộ Tư Lệnh làm giấy quyết định đưa bạn qua
trường
Thủ Đức học lớp Trung đội trưởng để ra đơn vị Bộ Binh. Mới nửa đường,
bạn đã thấy
nhiêu khê, rồi nếu có đi tiếp , nửa phần đường còn lại là học bay. Đây
chính là
phần đẹp nhất của cuộc đời bay bổng, nhưng rất gian nan, và có thể nói
sinh mạng
của bạn nằm trong phần bay quan trọng này. Những sinh viên phi công
được chuyển
qua trường bay, vừa học lý thuyết về khí tượng, về phi cơ, vừa thực
hành bay với
huấn luyện viên qua những động thao diễn lúc phi cơ khi cất cánh, lúc
đang bay,
rồi lúc đáp. Một khoảng thời gian học lúc ban đầu là 16 giờ , bạn phải
được huấn
luyện viên thả bay một mình. Nếu trong những giờ học bổ sung, huấn
luyện viên vẫn
không thể thả cho bạn bay một mình được, coi như bạn bị đánh rớt, hãy
từ giã giấc
mộng bốn phương trời. Còn như, bạn pass qua phần bay đơn phi quan trọng
này, bạn
sẽ cảm thấy hãnh diện với chiếc nón, với nửa cánh bay trên ngực áo. Từ
đó, các
phần tiếp theo bạn sẽ học là về kỹ thuật như bay phi cụ, bay đêm, bay
không
hành, mỗi phần có cái khó của nó nhưng chắc chắn bạn sẽ sẽ vượt qua cho
đến
ngày thi mãn khóa, tốt nghiệp,
Thụy hiểu khá rõ về những điều kể
trên, trong đó, anh vốn có kinh nghiệm mấy năm làm việc ở ban hiệu
thính viên
ngành điều không. Trong phần ban này ở Trung tâm Không
trợ, các Sĩ quan rất ít người là chính
hiệu phi công, hầu hết đều ra trường từ những khóa quan sát viên, sau
đó, thành
sĩ quan không trợ. Về phần mình, trầy trật mấy năm qua không lấy nối
mảnh bằng
Tú Tài đôi nên Thụy đâm ra nản chí, nhân cơ hội sau biến cố Mậu Thân,
cùng với
lệnh tổng động viên và nhu cầu của binh chủng Không quân cần tuyển mộ
thêm phi
công trực thăng và khu trục, Thụy nạp đơn, hy vọng đây là một cuộc đổi
đời. Cho
đến lúc này, Thụy có nuôi chút hy vọng đến một ngày sẽ trở thành hoa
tiêu,
nhưng anh vẫn chưa dám tự tin, vì đây là một ngành học rất khó, không
chỉ đủ sức
khỏe mà còn khả năng về cả lý thuyết và thực hành với những dụng cụ
trên phi
cơ.
Vừa mới nghe dứt xong hồi kẻng, bỗng
tiếng la hét của mấy ông niên trưởng ra lệnh tập trung ầm ầm, dội xuống
như trời
sập. Từ nhà ăn, đám tân khóa sinh vụt chạy gấp về phòng, chuẩn bị ba lô
và sac
marin. Không ai biết có chuyện gì, vì trái ngày thường, hôm nay thứ
sáu, vẫn
còn là ngày học quân sự.
-Các anh
nhanh lên coi.
Những tiếng bước chân rầm rập chạy
ra các lối cầu thang ùa xuống sân tập họp.
-Điểm danh,
đếm số.
-Một, hai,
ba, bốn…
Thụy vẫn luôn chọn đứng xếp hàng
phía sau. Hôm nay, không có người khai bệnh. Người cuối cùng đếm dứt,
lập tức,
đại diện khóa, đằng sau quay đúng thế, đứng nghiêm chào kín xong báo
cáo.
SV Không đoàn trưởng lớn tiếng ra lệnh:
-Thao diễn
nghỉ.
Trong hàng đứng im, bất động.
-Các anh có
biết chuẩn bị đi đâu không ?
-Không.
Với một nụ cười mỉa mai, ngạo mạn,
anh ta nói:
-Các anh ra
phi cơ về Bộ Tư Lệnh nhận quyết định qua trường Thủ Đức.
Trong hàng , đám tân khóa sinh vẫn tỉnh
bơ.
-Rõ không ?
-Rõ.
Hai vị niên trường đứng sát hàng
quân, một vị lật cổ tay nhìn đồng hồ. Bỗng nhiên, ông kia hỏi:
-Đã liên lạc
với trạm tiếp liên chưa ?
-Rồi. Mười
giờ ra phi cơ.
Với một vẻ mắt nghiêm, ông ta lớn tiếng;
-Các anh còn
một giờ nữa ra phi cơ bay về Sài Gòn.
-Rõ chưa các
ông ?
-Rõ.
Giáp đứng ở giữa. Một chút sau, đi
qua lại trước hàng quân rồi bỗng cất cao giọng.
-Đã qua tám
tuần lễ huấn nhục, nhưng khóa các anh không có một tiến bộ nào cả.
Phòng ốc bê
bối, nếp sống bừa bộn, giày mũ không khi nào đánh bóng, vậy các anh
không thể
nào xứng danh là sinh viên Không quân.
Bất thần, một niên trưởng hạ lệnh:
-Tan hàng,
ra sân cát tập trung từng phi đội.
-Nhanh lên.
-Qua 8 tuần
rồi. Các anh còn chậm chạp như vịt đẹt.
Nắng buổi sáng đã bắt đầu lên, cao dần
và tỏa rộng. Không khí căng thăng đến nghẹt thở.
-Sac marin
lên vai, chạy hai vòng sân.
-Thi hành
ngay.
Sân cát bằng phẳng êm như mặt biển.
Hai vòng sân, mỗi vòng hơn trăm mét, đây chỉ mới là khúc dạo đầu, hôm
nay, chắc
cũng là ngày đặc biệt như buổi đầu tiên chào quân trường.
Rất đông các niên trưởng mặc quần áo
vàng, nón cát két, cầu vai đeo alpha, và từ khi bắt tân khóa thi hành
lệnh phạt,
tiếng la hét không một ai ngừng. Ông này nói chưa hết lời, ông khác đã
chen
vào, lúc hầm hà nạt nộ, lúc khiêu khích đê chờ các tân khóa sinh nổi
máu mặt phản
ứng.
Hai vòng sân chạy rất đều bước, đều
nhịp. Những tuần lễ qua đã quen chịu đựng, nên anh nào trông cũng khỏe,
hít đất,
nhảy xổm, từ 50 đến 100 đều đạt tiêu
chuẩn,
nhưng càng đủ, cán bộ càng gia tăng thêm.
-Tất cả , bò
hai vòng dã chiến.
Lệnh ra, thi hành ngay. Mới buổi
sáng, mặt sân cát còn dịu, và trước lúc bò, người nào cũng kéo hai tay
áo xuống.
Hình pạt bò dã chiến cũng như thi
bơi. Nhưng lúc này, hàng ngũ trở nên rời rạc, người về trước, kẻ đến
sau không
đồng nhất.
Sau mỗi hình phạt, tân khóa sinh được
một phút nghỉ để chỉnh trang quân phục và báo cáo. Rồi như cái máy, anh
nào
xong nhận tiếp những hình phạt khác. Như cái máy, không ai có thì giờ
khiếu nại.
Anh nào được các niên trưởng chỉ cho nhảy xổm, hít đất, anh đó còn được
chút thời
gian cầu giờ, chứ còn chạy và bò, lê lết, một chặp thôi là bắt đầu thở
dốc.
-Có người
đang xỉu cán bộ.
-Ai.
-Phía đằng
này.
-Nhanh lên,
khuân tới chỗ phi nước.
Thì ra, lúc sáng, anh lính cơ hữu đã
làm một công việc rất là có tác dụng. Và, đến lúc này, trời gần trưa,
không một
tân khóa sinh nào không lừ đừ, ngất ngư, và lúc được dội vài nón nhựa nước là cảm thấy khỏe người. Có anh
há mồm ra uống vài ngụm
nước cho đỡ khát. Và, đám các vị niên trưởng
cũng bắt đầu mệt theo, hét quá nghe khan tiếng cả rồi. Nhưng, các hình
phạt,
không gia giảm, cứ đều đều, tiếp tục.
Những
trận dã chiến dồn dập không khác gì cả một đồn binh bị pháo kích. Nắng
trưa dần
lên cao, gay gắt, sân cát nóng bỏng,
nhưng không ai hay biết gì về giờ giấc cả. Trên sân
cát như là bãi chiến
trường với cảnh người xỉu, ba lô, nón sắt, túi sac marin vương vãi.
Lưng áo mấy
anh tân khóa sinh đã ướt dầm, đến các xếp niên trưởng, áo kaki vàng
cũng thấm nắng,
thấm mồ hôi. Thình lình, đang nằm lim dim vì mệt xỉu, anh em vùng dậy
nghe:
-30 giây, tập
trung toàn khóa.
-Nhanh lên,
các anh còn tà tà hả.
Trở lại sân tập họp, ai cũng mừng.
Khi hàng quân đã ngay ngắn, đại diện khóa lại cất tiếng hô nghiêm nghỉ,
chờ lệnh
mới. Lúc này, anh em được một ít phút để thở phào, nhẹ nhõm.
-Có ai chống
đối không ?
-Không.
-Đã có sẵn một
đoàn xe đưa các anh ra Dục Mỹ huấn luyện sình lầy.
-Trong các
anh, giờ có ai muốn chống đối không đi.
-Sao, các
anh im lặng, không trả lời.
Bỗng nhiên, đám tân khóa sinh hết sức
ngạc nhiên giờ lại thấy vẻ mặt mấy ông niên trưởng tươi rói, nụ cười
rạng rỡ
trông ông nào cũng sáng lên.
Một ông, hai ông, rồi đến ba bốn ông
niên trưởng cùng lên tiếng hỏi:
-Sao, các
anh thấy đã chưa ?
-Đã thấm người
chưa ?
-Rồi.
-Hãy nghe :
Hôm nay là một ngày tưng bừng để các bạn nhớ mãi cuộc đời hoa mộng được
làm
SVSQ. Vậy, cơm nước xong, tất cả tân khóa sinh 69B phải sạch sẽ từ
trong ra
ngoài để tối nay, dự lễ gắn alpha.
-Nghe rõ
chưa ?, các ông.
-Rõ.
Vừa được lệnh tan hàng, anh em vội
bay về phòng để cất ba lô và sac marin. Sau đó, tự động đi xuống phạn
xá, vì đã
có kẻng báo giờ ăn.
Ai cũng mệt, nhưng l2ng thấy vui.
Trong bữa ăn, Thụy uống nhiều nước.
Và, lúc này các niên trưởng chuyện trò rất thân tình với tân khóa sinh
như hôm
đầu mới tiếp đón. Và, kỷ niệm về lễ gắn alpha, mỗi khóa mỗi khác, nhưng
không
khí rất là cảm động. Niên trưởng Tiến nói về đêm alpha của khóa mình,
không khí
bên ngoài và bên trong bặt im thật là sợ hãi lo lắng. Trong phòng, trên
mỗi chiếc
tủ cá nhân có gắn nến, tân khóa sinh mang lễ phục, đeo găng tay, quì
gối, và một
tay giữ nón cát két. Từ ngoài cửa, nghe vọng vào tiếng gót giày đinh,
rồi, các
vị niên trưởng tiến bước vào, đến mỗi
giường dừng lại, lấy cặp alpha của mỗi tân khóa sinh gắn lên cầu vai.
Lúc ấy, bạn
biết nỗi lo lớn nhất là sợ đèn nến bị tắt.
Thụy lắng nghe từ đầu lời kể chuyện,
đến chỗ đó, anh cũng thấy rùng mình đến toát mồ hôi.
Rồi một niên trưởng khác, tiếp lời:
-Khóa này,
các anh nhẹ lắm đó. Những khóa chúng tôi, từ Liên đoàn trưởng đến Đoàn
trưởng
toàn là Sĩ quan Đà Lạt, ngày nào bọn chúng tôi cũng ngất ngư con tàu,
có bữa ăn
không nổi cơm, chỉ uống nước trà và nghỉ thở.
Thụy hỏi:
-Đại úy Hoàn
mới đến, phải không niên trưởng.
-Ông mới đến,
các anh là khóa đầu tiên của ông. Trước ngày đón tiếp các anh, một buổi
họp
chung của Đoàn ông chỉ thị cho chúng tôi không được dùng hình phạt với
tân khóa
sinh quá nặng, có tính cách nhục hình như bên trường Đà Lạt, hay các
trường Bộ
Binh khác. Ông nói, chỉ áp dụng hình phạt nào giúp các anh tập chịu
đựng và
tăng cường sức khỏe để học bay.
Rồi không khí trong nhà ăn bắt đầu ồn
vui. Người nào ăn xong, muốn ngồi nán
trò chuyện hay về phòng nghỉ, hoàn toàn tự do.
Khi về lại phòng, hôm nay, có một cảnh
lạ
mắt hơn ngày thường là quần áo,
mũ, dây biểu chương, cà vạt được để sẵn trên tấm nệm trắng mỗi giường.
Đôi giày
dự lễ cũng được đánh bóng, tất cả rất đồng nhất.
Người nào cũng lo phần việc của
mình, chăm chút cẩn thận vào bộ lễ phục, đến giày mũ, cà vạt, và còn
soi gương
lại khuôn mặt trẻ trung của mình.
Chừng một giờ sau, các
niên trưởng xuất hiện và đem thư đến mỗi
phòng phát cho tân khóa sinh. Thụy nghe có tên, lòng anh vui như thể
nhận được
quà.
Sáu giờ chiều, 218 tân khóa sinh mặc
lễ phục đeo dây biểu chương hướng về Hội quán Sinh viên, đây là địa
điểm hành lễ.
Không khí rất trang nghiêm trước sự hiện diện của hai vị
chủ tọa là Thiếu tá Liên đoàn trưởng và Đại
úy Đoàn trưởng .
Một SVSQ đại diện cấp Không đoàn được
chỉ định làm chỉ huy buổi lễ.
Sau các nghi thức rước quốc và quân
kỳ, phút mặc niệm chiến sĩ trận vong, phần chính thức bắt đầu:
-Quì xuống
các tân khóa sinh.
Tất cả 218 khóa sinh
cùng quì xuống. Anh khóa sinh đại
điện, một mình ở vị trí hàng đầu, nón két bi dây viền trắng được đặt
xuống ở
phía gối bên trái. Rồi, SVSQ chỉ huy lên tiếng mời hai vị Chủ tọa xuống
điểm
hành lễ gắn cặp alpha danh dự cho tân khóa sinh trưởng khóa.
Hai người cùng xuống, cặp alpha danh
dự, được mỗi người lấy một chiếc gắn lên cầu vai. Hai vị này gắn xong,
lần lượt
đến các SVSQ niên trưởng gắn cho cả toàn khóa. Rồi, những cánh tay ,
những lời
tuyên thệ dõng dạc, hùng hồn cất vang lớn hội trường.
Tiếng người chỉ huy buổi lễ hô lớn:
-Đứng dậy,
các SVSQ.
Toàn khóa cùng đứng dậy, nón két bi
đội lên đầu.
Vị Đoàn trưởng đứng trước hàng quân
của khóa hô lệnh nghiêm nghỉ, sau đó, quay người , đứng nghiêm chào
kính trình
diện khóa SVSQ 69B trước vị Liên đoàn trưởng. Vị Thiếu Tá đáp lời chấp
nhận, rồi
đứng trước micro, ông ứng khẩu tự nhiên, nói với tất cả tân SVSQ những
lời tâm
tình, mà lúc này, ông cũng đã gợi lại
những
tháng năm xây dựng nên binh chủng Không quân, thành lập quân trường, và
những
hình ảnh của các phi công trong thời trẻ được qua Pháp học rồi về đất
nước phục
vụ ở các phi đoàn từ cấp Sĩ quan nhỏ Thiếu úy, đến ngày hôm nay đã trở
thành những
cấp chỉ huy ở các đơn vị Sư đoàn, Không đoàn, Phi đoàn.
Khi ông dứt lới, 218 tân SVSQ đồng
loạt đọc lời tâm niệm:
Hào Hùng và Độc Đáo
Chúng tôi biết thương yêu và giúp đỡ
đồng bào
Chúng tôi biết nhà loan trong không
gian
Chúng tôi biết nghiêng mình trước mỹ
nhân
Chúng tôi biết quay cuồng theo điệu
nhạc
Hào Hùng và Độc Đáo
Rồi, tiếp theo, là cả khóa cùng hát
bản Không Quân Hành Khúc của nhạc sĩ Văn Cao.
Kết thúc buổi lễ, tất cả tân SVSQ
cùng hướng về khu nhà ăn, đây là địa điểm được trang hoàng để tổ chức
tiệc liên
hoan. Từ đầu buổi chiều, ban tiếp tân đã đón thân nhân, khách mời từ
ngoài cổng
căn cứ Long Hoa vào đây để xem triển lãm và dự liên hoan. Khi được tận
mắt xem
triển lãm, người nào cũng thấy vui, ngạc nhiên trước những bức ảnh lưu
niệm về
khoảng thời gian huấn nhục qua các khóa trong quân trường. Trên ảnh,
trông anh
nào cũng ngố, lờ đờ như là những con gà chết. Và, rồi họ nói, những kỷ
niệm quí
hiếm như thế này, được ghi nhận tài tình, sống động qua ống kính máy
ảnh, là những
kỷ niệm cảm động, đẹp hơn bao giờ hết đối với tuổi trẻ khi quân trường
là nơi họ
được huấn luyện để trở thành người chiến sĩ.
Từng lúc một, thân nhân và nhiều
khách mời đến đông. Thật là hương của gió mùa, đến đây hầu hết là nữ
sinh các trường
trung học công và tư thục của thành phố, và mỗi cô , người nào cũng
thướt tha,
duyên dáng trong chiếc áo dài.
Thụy không có thân nhân hay bạn gái,
nhưng anh được giới thiệu tên với thân nhân và khách mời của một số anh
em bạn
cùng khóa. Trong đêm nay, riêng Thụy biết mình thay đổi hẳn một gương
mặt. Ngày
đó, nơi quân trường này buổi đầu tiên anh là một người lính hèn mọn,
tầm thường, có những lúc ngước mắt nhìn
lên bầu trời, anh
cũng chỉ thấy đó là sự hiện diện của thiên nhiên như là núi sông, anh
chẳng hề
ước mơ mình sẽ trở thành phi công với những giấc mơ của mây gió bốn
phương.
Tới lúc này đây, rộn ràng trong anh
một đôi ý tưởng lãng mạn, hào hoa, thế nhưng anh thực sự không muốn
mình tạo
dáng, làm một đôi chút kiểu cách như những bạn trẻ cùng khóa. Trong
khóa này,
đông thành phần trẻ là sinh viên, kiến thức các bạn này hơn Thụy rất
nhiều. Năm
nay, Thụy 25 tuổi, anh vẫn còn được thời gian công nhận là thuộc lứa
tuổi hai
mươi, nhưng anh cảm thấy mình già sau mấy năm làm người lính trong công
việc hiệu
thính viên hành quân. Chữ nếu, luôn luôn là một chữ để cho mỗi người tự lý giải
về hoàn cảnh của mình. Thụy đi lính chuyên viên Không quân, nhập ngũ ngày 20 tháng tư năm 1965,
hết ba tháng mãn khóa quân sự anh may mắn
thi Tú Tài I trong khóa thi đầu mùa hè
năm đó. Sau bao nhiêu lận đận, lấy được một mảnh bằng, và qua được cửa
ải của
hai chế độ quân dịch, anh trở nên hưng phấn, háo hức ước mơ được lên
Đại học.
Thế nhưng, cái may chỉ đến có một lần đó thôi. Từ mấy năm qua, anh cũng
lo chuyện
sách đèn, thi cử, nhưng thi hoài không đậu nổi phần thứ nhì. Cho rằng,
Thụy hiểu
được ngay trong thời gian vừa mới lấy được mảnh bằng Tú Tài I, là ngang
sức đó,
thì anh đã tính ngay chuyện đổi đời bằng chuyện xin đi học lớp Sĩ quan,
không
được bên Không quân ngành phi hành, thì sang trường Thủ Đức, và dù cho
ở Bộ
Binh, lúc này đây, anh cũng đã có được một, hoặc hai bông mai vàng in
sáng trên
ve áo trận rồi.
Giáp , bạn thân với Thụy thuộc khóa
68B đang học khóa 35 Cessna. Với Giáp cũng đã trễ muộn, vì bạn anh cũng
lận đận
với thi cử. Người bạn còn cho anh biết, sở dĩ không được xuất ngoại
được vì lý
do an ninh.
Trên sân khấu, ban nhạc đang chơi những
đoạn nhạc dạo nghe thật vui, và rất hay. Đây là những điệu nhạc ngoại
quốc được
làm nhạc cảnh cho nhiều cuốn phim, bạn nào ghiền xem chiếu bóng thường
nghe
quen.
Trong buổi liên hoan tối nay,
trên các bàn của quan khách cũng như
sinh viên chỉ có nước giải khát đá chanh và bánh pâté chaud, bánh ngọt,
kẹo. Thế
nhưng, ai cũng thực hài lòng, cùng nhau
vui trong nhiều câu chuyện, và đến cả các cuộc gặp gỡ cũng rất bất ngờ.
Ban nhạc càng lúc làm
cho không khí buổi liên
hoan thêm hào hứng, và tưởng như, ai cũng thích được lên sân khấu trình
diễn
bài hát của mình.
Khoảng trống của hội trường được
dùng chỗ để khiêu vũ. Mỗi lần có một điệu nhạc tấu lên là khoảng trống
được lấp
đầy bởi những cặp tình nhân bước chân nhẹ nhàng theo từng nhịp điệu, và trong ánh đèn mờ ảo, những lứa đôi cùng nhận
ra sự quyến rũ, vừa thân tình.
Từ đầu buổi chiều đến giờ, Thụy cũng
chỉ biết chia sẻ niềm vui chung của khóa, anh không hát, không mời ai
ra nhảy.
Với nghệ thuật, âm nhạc và hội họa, Thụy không biết nhiều, nhưng anh có
được sự
cảm xúc dồi dào khi nghe một bài hát, hay nhìn ngắm một bức tranh.
Trong khóa
anh đang học , mỗi tuần luôn có hai giờ cho sinh viên thực tập môn
khiêu vũ nên
Thụy cũng có biết một vài điệu nhảy căn bản. Nhưng, Thụy là con người
bị nhiều
mối mặc cảm ức chế, rốt cùng, anh luôn đơn độc. Và, cũng biết rằng,
mình thuộc
loại người tầm thường, nên anh không thích hợp với hình thức làm dáng,
tạo dáng
. Năm 1968, từ biến cố Mậu Thân mới nẩy
ra một chương trình quân sự học đường. Và qua chương trình này, nở rộ rất mau phong trào tuổi trẻ trở thành
những người hùng của chiến tranh trong thành phố. Ở ngay Sài Gòn, rất
đông sinh
viên các trường Đại học thích mặc bộ quần áo kaki vàng, đội nón kalo đi
chơi phố,
ngồi nhan nhản ở các quán cà phê, kể cả những buổi sáng chiều đến học ở
giảng
đường. Và, đây cũng là một mốt hiện sinh mới của tuổi trẻ miền Nam ưa
thích một
không khí chiến tranh trong phim ảnh, trong
nhạc Trịnh Công Sơn, nhạc du ca, và nhạc tiền chiến.
Thụy bỗng trông thấy
Giáp vừa nắm tay một cô
gái dìu đi. Vừa bụm hai tay lên miệng,
Thụy chưa kịp gọi thì Giáp đã trông thấy, liền kéo cô bạn theo tới bàn
Thụy ngồi.
Giáp giới thiệu:
-Anh Thụy, bạn
học cũ của anh.
Cô gái nhìn Thụy qua bảng tên, cười
nói:
-Anh giới
thiệu như vậy, không có le cho anh Thụy.
-Ủa, phải giới
thiệu sao ?
-Đây là Sinh
viên Sĩ quan Nguyễn Quân Thụy.
Thụy vui, nhưng hơi lấy làm ngượng.
Thụy lấy thêm ghế để ba người cùng ngồi. Trên bàn đã có sẵn nước ngọt,
Thụy rót
đầy hai ly mời bạn và cô gái. Trong lúc
Thụy rót nước vào ly, cô gái nhìn gương mặt Thụy cố nhớ ra anh là người
mà cô
đã có lần gặp. Mời cô gái xong, đến lượt mời bạn, Thụy nói:
-Nãy giờ
ngóng tìm bạn.
-Mình ra
ngoài đón Liên Hương.
-Nhớ ra anh
Thụy rồi.
Cô gái bỗng thốt lên , Giáp hỏi:
-Hai người
có quen nhau phải không ?
-Đúng.
-Bạn nói về
cô này đi.
-Có giọng
hát hay lắm.
Giáp đưa tay cho Thụy bắt.
-Vậy là lý lịch
được xác nhận, phải không ?
-Đúng.
-Chưa đủ.
Cho bạn biết thêm, ngày trước Liên Hương học ở Đà Lạt, trường Việt Anh,
và tôi
cũng học ở đó hai năm.
-Thì ra thế
.
-Chứ sao .
Hình ảnh Liên Hương, cô em gái ngày
xưa như hiện lên trước mắt Thụy cả một vùng sương mù thành phố cũ. Nơi
thành phố
ấy , những kỷ niệm yêu thương luôn gây một chút lạnh vừa ấm cho tâm hồn.
-Hai người
nói chuyện đi, tôi ra ngoài gặp Quảng một chút.
Khi Giáp đi khỏi, Thụy hỏi cô gái.
-Liên Hương
còn ở Đà Lạt không ?
-Gia đình em
vẫn ở trên đó.
-Liên Hương ở
Nha Trang một mình.
-Em ở nhà bà
dì, em đang dạy học ở trường Nữ.
Thụy châm điếu thuốc. Liên Hương cầm
ly nước chanh lên uống từng ngụm. Chiếc áo dài màu hoa cải của Liên Hương nổi bật lên trong không gian lễ hội và
sáng dịu dưới ánh đèn. Nàng đang lắng nghe tiếng Thụy , trong lúc nói,
anh nhìn
vào gương mặt và đôi mắt nàng. Tối hôm ấy,
có một buổi ra mắt lớp học của Liên
Hương. Tại hội trường rất đông học sinh tham dự, và ai cũng cảm thấy
vui thích
khi chương trình văn nghệ bắt đầu.
Từ một khoảng hẹp trên sân khấu lúc
bức màn vừa hé mở, Liên Hương xuất hiện
với chiếc áo dài tím rất đẹp dưới ánh đèn màu. Nhạc dạo một đoạn thật
êm ái, rồi
tiếng hát cô gái cất lên cao và rất trong. Bản nhạc có tên Mấy độ thu
về , trong
từng giây phút, tiếng hát của cô gái làm cho mọi người lắng đi, êm ả,
để cùng với
sự luyến nhớ mà đi tìm một mùa thu về nơi đâu không rõ. Khi tiếng hát
dứt,
riêng Thụy thật mơ màng. Thụy giữ lại ảnh hình đầu tiên của cô gái cho
đến khi
bức màn trên sân khấu che khuất lấp.
Về phòng, Thụy không ngủ được. Bản
nhạc buồn như tiếng đàn vĩ cầm, mùa thu ấy trở về từ nơi nao, xa vắng quá. Hình dung lần
nữa với cặp mắt, Thụy thấy lại Liên
Hương trong chiếc áo tím, và ánh đèn màu vẫn giữ rất lâu hình ảnh cô
gái trên
sân khấu, dù cho tiếng hát không còn nữa.
-Liên Hương
có quen với Thùy không ?
-Quen chứ.
Chị Thùy cũng học ở trường mình, trên em một lớp.
-Anh có gặp
Thùy, nhưng cách đây hơn ba năm.
-Em mới đến
Nha Trang dạy năm ngoái.
-Liên Hương
gặp anh Giáp lần đầu ?
-Em cũng mới
quen ít tháng nay thôi. Ngày hôm đó, anh đi tìm một người bạn cùng dạy
ở trường
em.
Thụy đã gặp lại Liên Hương, kỷ niệm
đã cùng nhắc nhở anh và nàng về một mối tình cũ. Sau nhiều năm xa cách,
cô gái
ngày xưa đã lớn và thay đổi nhiều. Đêm văn nghệ, vui nhộn và hết sức
thân tình.
Một lúc sau, từ sân khấu, người điều khiển chương trình mời Liên Hương
lên hát.
Nàng đứng lên vẫy tay chào quan khách và tất cả sinh viên. Quay sang
Thụy, nàng
hỏi:
-Anh thích
em hát bài gì ?
-Em có nhớ bản
Gợi giấc mơ xưa.
-Có chứ. Nhạc
tiền chiến em thuộc nhiều lắm.
-Em hát cho
anh nghe bản anh yêu cầu.
-Còn bản nào
nữa không ?
-Cũng tùy
em. Bài nào, em hát cũng được.
Liên Hương lên sân khấu, nàng cầm
micro với dáng điệu rất tự nhiên. Thụy ngước mắt nhìn người thương năm
cũ với nụ
cười hạnh phúc, anh không ngạc nhiên mà còn cả một nỗi niềm dấu yêu nữa
khi
Liên Hương hát một bài ruột thuở xưa của nàng, Mấy độ thu về. Tiếng hát
cất
lên, tất cả đêm nay, sự vật và mỗi người tình, mỗi người bạn là sự đồng
cảm với
mùa thu. Tiếng hát dứt, bao nhiêu tràng pháo tay dội lên, ngưỡng mộ
nàng. Và, một
giọng nói rất thân tình, nàng giới thiệu tiếp bài hát Gợi giấc mơ xưa.
V
Rồi mai khi anh xa kinh đô
Em khóc cho tàn một mùa thương
Nhớ người em nương theo cơn gió
Ru hồn về dĩ vãng mộng mơ
Nhà
Liên Hương ở đường Thi Sách. Từ trường,
Thụy đi bộ lên khu nhà thương, qua một quãng đồi thông rồi rẽ xuống con
đường đất, đường này là Thi Sách. Liên
Hương đang chơi
trước sân bỗng vui mừng khi thấy Thụy đến, cả hai cùng lên tiếng chào
nhau.
-Anh đi đâu
trên này ?
Thụy nhìn lại cô gái nay đã lớn hẳn,
giọng thân tình nói:
-Anh tới thăm
Liên Hương để từ giã.
-Từ giã. Có
chuyện gì quan trọng, nói cho em nghe.
-Anh về Huế,
ngoài miền Trung. Cô gái lặng im nhìn Thụy,
nghe anh nói thêm: Anh về ngoài đó học, ở luôn với
gia đình.
Đôi mắt cô gái có chút dò xét sau những
điều Thụy vừa giải thích.
-Anh vào nhà
chơi.
Thụy theo Liên Hương vào nhà. Nhà vắng,
đầy bóng tối vì cửa đóng và phía sau là khu vườn cây cối bao phủ. Nhưng
rồi,
ánh sáng tràn vào phòng khách khi Liên Hương mở rộng mấy cánh cửa sổ.
Sau đó,
cô gái đi lấy nước để anh đứng một mình.
Liên Hương quay trở lại đặt khay nước
xuống bàn, Thụy mới vào ghế ngồi. Rót nước cho ly bên
Thụy xong, cô gái nói:
-Nước đậu
ván rang có mùi cà phê.
-Anh rất
thích thứ nước đậu này.
Thụy cầm ly nước đậu lên uống, cảm
thấy đỡ khát. Liên Hương có rót vào ly mình, nhưng chưa uống. Hai người
chợt
nhìn nhau. Thụy ngắm Liên Hương ngồi,
dáng tự nhiên, dễ thương.
-Liên
Hương có học lớp hè không ?
-Không. Em
nghỉ chơi cho đã.
Bắt đầu muốn vào chuyện riêng tư, Thụy
nói:
-Anh về
ngoài đó xa Đà Lạt, buồn quá.
-Anh ở đây
lâu chưa ?
-Mới hai
năm.
-Sao anh
không ở học luôn ?
-Thầy Hiệu
trưởng là cậu anh bị gọi tái ngũ, trường sẽ chuyển giao cho người khác.
-Thầy Hiệu
trưởng là cậu anh sao ?
-Cậu của
anh, cậu út trong gia đình. Mẹ anh là chị
cả.
-Anh nói em
mới biết.
-Anh ở nội
trú, em không biết sao ?
-Không.
-Năm tới, em
vẫn học ở Việt Anh ?
-Không, em
chuyển trường. Em vào Bùi Thị Xuân.
-Tốt cho em.
Học trường công đỡ trả học phí.
-Em không
nghĩ vậy, nhưng em học Bùi Thị Xuân vì cô của em nay về dạy ở đó.
Thụy lặng im mấy giây nhìn Liên
Hương. Thụy muốn được nói hết những điều chân thực trong những ngày anh
quen
nàng. Nàng chợt mỉm cười nhìn lại anh và có lẽ đoán hiểu được điều anh
muốn nói
ra .
Bỗng, Thụy nói:
-Buổi tối
đó, Liên Hương hát hay quá.
-Em thích
hát, nhưng không đam mê.
-Liên Hương
hát rất hay, rất có tâm hồn. Anh nghĩ…., thoáng qua anh định khuyên cô
gái nên
theo nghiệp cầm ca vì có tài năng, nhưng bỗng nhận thấy điều ấy không
hay khi
nói ra, nên thôi.
-Anh nghĩ
sao ? cô gái hỏi.
-Anh thấy
Liên Hương hát hay nên luyện tập thêm, Thụy nói.
-Không có
đâu, em lười lắm.
-Hai lần
nghe Liên Hương hát, anh khó mà quên.
Liên Hương nghe Thụy khen, nàng vui,
vừa xúc động. Thụy tiếp lời:
-Anh sẽ nhớ
mãi tên hai bài hát đó.
-Bài nào anh
?
-Mấy độ thu
về và Trường làng tôi.
Ở đây, Liên Hương sống với bà ngoại,
hai bà cháu luôn bên nhau để có tiếng chuyện trò thân tình, ấm áp. Có
lẽ, gia
đình cô gái ở đâu xa, nhưng không bao giờ Thụy hỏi hoặc cố tạo nên hoàn
cảnh để
mong biết rõ cuộc đời của cô . Có tình yêu chăng, Thụy chưa biết, nhưng
anh nhận
ra thấy Liên Hương có cảm tình với anh như người em gái.
Thụy đang nghe tiếng Liên Hương hát,
bây giờ anh lang thang trở lại thành phố xưa , tìm trong thành phố ấy
những kỷ
niệm và hình bóng người bạn cũ.
Khi bước vào trong tiền sảnh Thụy vội
đưa mắt tìm bản thông cáo mới yết thị để
đọc. Đây là thông cáo của Bộ Quốc Phòng dành cho các lớp tuổi thanh
niên còn đi
học xin hõan dịch vì lý do học vấn. Thụy chăm chú đọc từng giòng. Trong
bản
thông cáo có rất nhiều đề mục nêu ra những trường hợp cứu xét. Thật hết
sức mừng,
trường hợp của anh nằm trong cột số bốn đã được cứu xét.
Thụy đọc lại tòan bản thông cáo lần
nữa, rồi thở phào nhẹ nhõm.
Buổi chiều, bên ngoài bóng im từ những
hàng cây đổ xuống, sân trường phía sau
đang dội lên những tiếng reo hò, cổ vũ của đám học sinh đứng xem đánh
bóng chuyền.
Bất chợt, nghe có tiếng chân bước từ trên cầu thang vọng xuống Thụy
ngẩng mặt
nhìn, lòng bỗng vui lên vì nhận ra Thúy Hà. Người bạn gái mặc áo màu
xanh biển
có chấm bông trắng, tay xách chiếc cặp da. Vừa trông thấy Thụy, nàng
mỉm cười vừa
đi nhanh bước về chỗ anh đang đứng.
Thụy đón nàng bằng cặp mắt vui,
trông chờ. Khi Thúy Hà tới gần, Thụy hỏi:
-Hôm nay ra
lớp trễ.
-Ở lại chép
bài.
Sau câu hỏi đáp hơi ngập ngừng khi mở
lời, hai người lặng im. Thụy định cho nàng hay là anh vừa đọc thông cáo
của Nha
động viên và giờ bớt cảm thấy lo, nhưng rồi anh
không nói. Nhìn nàng, đột nhiên Thụy buột miệng:
-Thúy
Hà có cặp mắt đẹp quá.
-Trời đất, tự
dưng lại khen người ta.
-Thúy Hà có
cặp mắt đẹp quá. Và, trong cặp mắt lúc nào cũng thấy những niềm vui.
Nàng rất sung sướng trước lời khen của
Thụy. Ở phòng tiền sảnh của trường, thật là vắng lặng chỉ có riêng anh
và nàng.
Thụy đăm đăm, đôi mắt nhìn gương mặt nàng lâu hơn. Nàng chỉ cười, rồi
quay mặt
để tránh nỗi e thẹn trước vẻ đắm đuối của người bạn trai.
-Nhà ở gần
đây không ?, nàng hỏi
-Chừng mười
lăm phút đi bộ thôi, Thụy đáp.
Hai bạn bên nhau, mà không biết gợi
ra thêm chuyện gì để nói. Từ buổi đầu quen biết, một số chuyện trao đổi
làm
quen anh và nàng đã nói rồi, giờ trở nên khó khăn. Nhưng trong im lặng,
Thụy càng muốn giữ nàng lại đây lâu hơn để
nhìn
nàng, yêu nàng qua mái tóc thật mượt mà đang buông thả xuống bên vai.
-Về chưa ?,
nàng hỏi.
Hai người dời bước. Khi ra khỏi tiền
sảnh, xuống cầu thang hướng về cổng chính, mùi vị của lá, của cỏ, ánh
nắng,
cùng hơi gió mang chút vị mặn từ con sông dưới bến Cảng dâng lên làm
hai bạn
như cảm thấy buổi chiều thật êm dịu. Bên
kia cổng trường là công viên xanh màu lá
của những hàng cây và bãi cỏ .
Tự dưng, Thụy không biết nên nói điều
gì để chia tay với người bạn. Thúy Hà hiểu ra sự bối rối của anh, nàng
cười nói
một câu đùa trêu chọc. Tiếng Thụy nói nhỏ:
-Cám ơn Thúy
Hà nhiều lắm.
-Gì, mà phải
cám ơn.
-Thúy
Hà đã coi mình là bạn thân, đúng không ?
Cô gái đưa cặp mắt nhìn lại Thụy rất
lâu, và anh hiểu ra được cặp mắt ấy nói gì. Thụy cũng
muốn nỗi buồn nhớ tan đi.
-Bây giờ
Thúy Hà về.
Nàng không đáp lời, chỉ nhìn anh.
Nhìn lại gương mặt nàng, Thụy bỗng nói nhỏ:
-Nhà gần, đi
bộ một quãng nghe.
Thúy Hà gật đầu bằng lòng.
Hai người vẫn còn bên nhau. Gió buổi chiều
đang thổi lay động cây lá và tung nhẹ chiếc áo dài của nàng. Thụy cảm thấy sung sướng, hãnh diện vô cùng vì
mình đi bên cạnh một người con gái đẹp và được nàng yêu. Thụy cứ nghĩ
nhiều đến
vẻ đẹp Thúy Hà đang âm thầm trong lòng anh, sung sướng biết nhường nào
khi nghe
rõ từng tiếng nàng nói. Thụy biết nàng có người yêu rồi, rồi nàng sẽ
lấy chồng
với chàng trai ấy, nhưng mà chiều nay chỉ có anh và nàng thôi.
Nhà Thúy Hà
rất gần trường, nhưng câu chuyện đang nói bằng một giọng thân tình đã
làm anh
nghĩ nó trở nên xa hơn, và anh còn có cảm giác như được đặt bàn tay lên
vai
nàng, tựa theo hình ảnh nàng trong trí tưởng.
Thụy sung sướng , lặng im. Đêm
qua, trong giấc mơ hiền dịu, anh gặp nàng. Bây giờ đây, nó là ảo tưởng,
nhưng nếu
anh hiểu rằng giấc mơ là sự tái hiện của hình ảnh thật trong đời sống,
thì sự
hiện diện của anh bên nàng trong giấc mơ cũng có thực như lúc này đây
anh đang
bước đi bên cạnh nàng. Và, mình có nên nói ra cho nàng hay không, nhưng
Thụy
nghĩ sự ấp ủ giấc mơ ấy vẫn là để cho mình biết tôn trọng, yêu quí
nàng. Và,
nàng với những âm sắc bao dung trong giọng
nói của mình, thật sự nàng rất muốn cho anh góp lại
tất cả những gì của
kỷ niệm theo ngày tháng qua mà anh đã có được nàng. Hình như, nàng cũng
đã biết
anh yêu nàng, sung sướng trong cặp mắt mỗi khi gặp nàng. Hôm nay, hai
người là
bạn học của nhau, rồi đây tình bạn sẽ làm cho lứa đôi tuy xa cách nhưng
vẫn
luôn nhớ đến nhau, và rồi đây, sự xa cách cũng sẽ đưa mỗi người đến một
phương
trời. Bạn đã thấy mình hạnh phúc trong tiếng nói cô gái, nhưng bạn sẽ
ngạc
nhiên vì mình chẳng còn nhớ được những điều gì mình
nói với nàng cả. Thụy vui, nghe thầm được những
tiếng nói đang nhủ trong lòng.
Hai người về đến nhà. Không chú nhìn
qua vẻ mặt, Thúy Hà bảo Thụy vào chơi. Căn nhà tỏa sáng dưới ngọn đèn néon hầu như để suốt ngày,
và Thụy nhận ra những màu sắc của loại mỹ phẩm
ánh lên một vẻ rực rỡ.
Ông Kha đứng dậy, đón Thụy bằng nụ cười hảo cảm.
-Cậu khỏe
không ?
Ông nói, vừa bắt tay .
-Dạ khỏe,
thưa bác.
Thụy ngồi xuống ghế salon ở phòng
khách. Ông Kha ngồi kế bên , hỏi nhỏ:
-Cậu biết
tin gì chưa ?
-Dạ chưa.
-Sài Gòn
đang có đảo chánh.
Ông đưa điếu
thuốc, bật chiếc quẹt zippo cho Thụy
châm lửa. Thụy hít nhẹ một hơi, vừa cố lắng nghe tin tức.
-Quân đội đã
chiếm được Đài Phát Thanh.
Thụy ngạc nhiên, vừa mừng, vừa lo lắng.
Chiếc cầu thang lên gác nằm bên lối cửa
trống đi xuống nhà dưới. Thụy nhận ra cái bóng Thúy Hà, và lúc nàng
quay nhìn lại phòng khách vẫn thấy anh
đang ngồi đó mắt còn
trông theo nàng. Nàng mỉm cười, mái tóc rung nhẹ trên vai áo.
Bà Uyên sắp hàng mới vào trong tủ
kính xong, tới bàn ngồi. Bà đã hiểu diễn tiến câu chuyện. Một giọng hơi
e ngại,
bà nói với Thụy:
-Cầu mong
cho Cách mạng thành công.
Thụy hết sức bồn chồn, nôn nóng khi
hay được tin này. Bản tin đã dứt, giờ là âm nhạc đang trỗi lên.
-Cháu thật
lo bác ạ.
-Cậu nghĩ
sao ?
Thụy nói:
-Trong này,
hầu như không chuyện gì. Nhưng Huế, có thể là cả một tấn thảm kịch như
ở
Budapest.
-Tôi nghĩ cuộc
Cách mạnh này sẽ thành công. Ông Nhu, ông Diệm đã thoát được hai lần
rồi.
Thụy chợt nghĩ điều ông bác nói
đúng. Nhưng sự kiện không chỉ hai lần, mà đã đến ba rồi. Ông Diệm bị ám
sát hụt
ở Ban Mê Thuột. Cuộc đảo chánh năm 1960 mà lúc đó Thụy đang học ở Đà
Lạt, rồi
cuộc ném bom Dinh Độc Lập vào năm 1962. Quá tam ba bận, đó câu ngạn ngữ
thường
hay dùng. Với cuộc đảo chánh đang diễn tiến, Thụy tin chắc lần này Quân
đội đứng
lên sẽ thành công.
Khi trở xuống nhà, Thúy Hà mặc bộ quần
áo thường có châm bông cải màu tím. Lúc thấy Thụy , nàng mỉm cười rồi
lấy chiếc
ghế tròn thấp đặt ngồi gần bên phía anh.
-Bác vừa cho
biết, ở Sài Gòn có đảo chánh.
-Lúc nào ba
?
-Hai giờ chiều
nay.
Bên ngoài, nắng cuối ngày đã lan qua
bên kia con đường. Thụy cảm thấy ngần ngại, vừa mừng thầm là đã được
đến nhà
nàng, ngồi đây bên nàng, nhưng anh tự biết giới hạn cho mình. Kim đồng
hồ treo
tường đang chỉ 5 giờ 45, anh nghĩ trong
nhà chưa bắt đầu bữa cơm tối , chừng mười lăm phút nữa anh có thể đứng
dậy chào
xin kiếu từ.
Thời gian có vẻ muốn chậm lại. Rồi
sau đó, câu chuyện bình thường trong gia đình mà anh được nghe qua lời
người mẹ.
Bà Uyên kể cho Thụy nghe chuyện gia đình bà từ ngày di cư vào Nam,
những nơi chốn
đã ở và sinh sống. Trong chuyện kể của bà, Thụy thấy có cái riêng từng
cảnh ngộ
gia đình, nhưng cũng có một tâm trạng chung của bao nhiêu đồng bào miền
Bắc vào
thời kỳ đó khi vào Nam. Rồi Thụy được bà mẹ nói đến cô con gái đầu đang
ngồi
đây bên anh, lúc đó mới có tám tuổi thật
đảm đang chịu khó, chịu khổ trong việc giúp mẹ buôn bán và chăm sóc mấy
em còn
nhỏ. Nàng cười nhìn qua Thụy, và anh vô cùng thích thú, hãnh diện thay
cho
nàng.
Sáu giờ mười lăm, Thụy đứng dậy chào
cả nhà để ra về. Ông Kha hết sức cởi mở, cầm lên một gói thuốc tặng cho
anh với
lời lẽ bình thường, Thụy nhận ngay , vừa nói lời cám ơn ông.
Có vẻ cái bóng của Thụy lớn
hẳn qua chiếc áo sơ mi trắng đã cũ. Thụy
cầm sách và tập vở trên tay nói lời chào lần nữa, và lúc đó, Thúy Hà
cùng đi
theo anh ra ngoài.
-Về nghe,
nàng nói.
Thụy nhìn lại gương mặt nàng, nói với
nàng lời cám ơn bằng cặp mắt. Buổi chiều hôm nay không khí mang một vẻ
lạ thường,
và lần đầu tiên Thụy nghĩ đến hiện tình đất nước mang trong một mối
tình học
trò của hai người, riêng anh và nàng.
Trên đường trở về, có hình ảnh Thúy
Hà bên cạnh, đôi lúc Thụy tưởng như mình nói chuyện với nàng, hay bộc
lộ một cử
chỉ vui sướng, bồng bột nào đó mà không nhìn thấy.
Từ mỗi căn nhà thấp nằm hai bên
đường Trưng Nữ Vương, mỗi lúc Thụy thấy nó cứ
theo nhau, trải dài, vừa ra vẻ hoang mang trong âm thanh sôi nổi của
nhiều điệu nhạc hùng vọng ra từ máy thu
thanh, hay sau
đó, lúc Thụy chậm bước nó đang cùng anh lắng nghe những bản tin tức
thời sự về
cuộc cách mạng mới xảy ra chiều nay. Thụy bỗng nôn nao, muốn nhập ngay
vào đám
đông người đang tụ họp để nghe tin radio
và hăng say bàn luận cuộc đảo chánh. Trên gương mặt từng người, Thụy nhận ra vẻ phấn khích, hoan hỉ đón nhận tin
vui, rồi càng lúc anh càng tin tưởng hơn vào cuộc đảo chánh do Quân đội
đứng
lên sẽ hoàn toàn thắng
lợi. Suốt con đường mỗi lúc thêm đông người tụ tập, tràn lấn ra ngoài gây nên
cảnh huyên náo . Thụy chợt dừng bước khi có một đoàn xe nhà binh xuất hiện, trên xe rất đông lính tráng ngồi
mang súng ống, họ đang tươi cười, cởi mở, và cứ thấy dân chúng vẫy tay
chào là
họ đưa tay chào lại. Rồi, con đường trở lại sự bình thường khi bóng
đoàn xe xa
dần về hướng tới phi trường.
Khi Thụy về đến nhà, đúng lúc gặp
anh Bình nhưng anh vội vàng chỉ kịp trả
lời câu Thụy hỏi rồi lên xe đi.
-Tối nay anh
không về ?
-Không.
Thụy về phòng mình, nghỉ
một lúc thấy chị Thuận lên mời anh xuống
ăn cơm. Thụy xuống phòng ăn, vừa ngạc nhiên lên tiếng hỏi thì chị cho
biết hôm
nay cả nhà đi ăn giỗ bên cô Chín, em bác Hội.
Hôm nay là ngày thứ sáu, đầu tháng
11. Ngày mai và mốt là hai ngày nghỉ, tự dưng Thụy muốn bay ra Huế xem
tình
hình ra sao. Thế nhưng, trong lúc này quân đội cắm trại, di chuyển từ
nơi này đến
nơi kia có an toàn không ? Thụy vừa ăn cơm, lòng cứ nôn nao nghĩ ngợi tới cuộc đảo chánh,
từ giai đoạn này biến chuyển của đất nước sẽ
như thế nào.
Trời mau tối.
Sau bữa ăn, Thụy uể oải đứng dậy lấy nước uống rồi trở về phòng mình.
Ngày mai,
môn Lý Hóa sẽ làm bài tập tại lớp. Thụy bước qua kệ, lôi ra cả ba cuốn
sách
giáo khoa Điện, Quang và Hóa để ôn bài. Thầy phụ trách môn dạy này cho
học sinh
biết, cứ mỗi tháng, thầy sẽ cho bài làm tại lớp một lần. Buổi làm bài
này, được
thử thách giống như trong kỳ thi lục cá nguyệt hay Tú Tài.
Thụy học
bài đến khuya. Bỗng nhiên, nghe một lọat
súng nổ làm anh ngừng, nín im. Tiếng súng nổ nghe càng gần , gây nỗi sợ
hãi.
Sau khi tiếng súng dứt , anh lại nghe có
tiếng động ầm ì của một đoàn xe đang chạy qua ngoài đường . Thụy chợt
có ý nghĩ
là tình hình cuộc đảo chánh hẳn chưa ngã ngũ.
Mười hai giờ đêm, gia đình bác Hội mới
về tới nhà. Khi nghe tiếng cười nói các cô chị nhỏ lúc vào nhà, Thụy
vội rời
phòng tìm gặp bác và dì để hỏi thêm tin tức. Vừa thấy anh, bác hỏi ngay
là anh
có biết tin đảo chính ở Sài Gòn. Thụy đáp có, trên vẻ mặt
còn lo âu.
Các cô chị nhỏ đã trở về phòng của
mình. Ngoài phòng khách, đèn sáng. Chiếc radio được vặn lên, âm thanh
một bản
nhạc hùng đang dạo càng lúc càng nhanh, sôi nổi. Khi điều chỉnh núm
volume nhỏ
lại vừa đủ nghe, bác Hội trở về ghế ngồi.
Sau vài giây im lặng, Thụy lên tiếng
hỏi:
-Đã có tin
gì về ông Diệm chưa bác ?
-Chưa.
-Bác vẫn
theo dõi từ lúc chiều đến giờ ?
-Coi như cuộc
đảo chánh đã thành công . Các tướng tá chỉ huy theo phe đảo chánh hầu
hết đều
xưng danh trên đài, lên tiếng ủng hộ.
Dì Vân bảo Thụy:
-Dì chưa
nghe tên cậu Nghiêm.
-Con cũng thấy
lo . Theo dì, cậu có theo phe đảo chánh không ?
-Cậu phải thức
thời, chứ trung thành là không được đâu.
Sau khi tiếng nhạc kết thúc , Đài
Phát Thanh Sài Gòn đọc bản thông cáo số 4 của Hội Đồng Quân Nhân Cách
Mạng gồm
mười điểm. Cả ba người lắng nghe. Và tiếp đó, là danh sách các vị Chỉ
huy, các
Bộ trưởng đứng lên xưng danh. Mười lăm phút trôi qua, Thụy vẫn không
nghe tên
người cậu. Còn một số vị Tướng và Bộ trưởng nữa
chưa xuất hiện, lên tiếng nói trên Đài Phát Thanh
tối nay. Và, mặc dù
quân đội đã làm chủ tình hình Sài Gòn Chợ Lớn, nhưng tin tức về hai ông
Diệm và
Nhu vẫn chưa biết rõ.
Thụy nói với bác Hội:
-Vẫn chưa có
tin tức ông Diệm.
-Bác đang lo
nghĩ như cháu.
-Biến cố 60
thất bại, không biết lần này sẽ ra sao ?
Trên vẻ mặt đanh lại, bác Hội nói:
-Cuôc đảo
chánh này mà không thành công, số phận các Tướng tá chống đối sẽ vô
cùng bi thảm.
Lại thêm một vụ xử của năm 60 ở Tòa án
Quân Sự.
Bác Hội nói xong, Thụy chợt nghĩ đến
cái chết của nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Nhà văn này đã tự tử
không chịu
khuất phục chế độ và không chịu ra trình
diện trước Tòa An Quân Sự. Cậu Nghiêm em ruột của mẹ là người đã ngồi
ghế ỦyViên
Chính phủ trong vụ xử này. Hiện giờ, cậu Nghiêm đang nắm giữ chức vụ
Giám Đốc
Nha Hiến Binh Quốc Gia, có thể nói là người rất thân tín của ông Diệm.
Lẽ đó, cậu
sẽ không lên tiếng theo phe đảo chánh.
Giờ này đây,
tình hình còn căng thẳng và mặc dù có thêm các Tướng tá, các vị Bộ
trưởng xưng
danh, nhưng tin tức về ông Diệm và Nhu vẫn chưa được loan báo.
Đã hơn một
giờ khuya, ba người cùng đi nghỉ chờ đợi tin buổi sáng. Thụy trở về
phòng, lên
giường nằm.
Thụy chợt nghĩ đến Thúy Hà. Ngày
tháng nhẹ nhàng trôi đi, mối tình của
anh và nàng càng trở nên gần gũi, vừa thân thiết tự nhiên trong tình
bạn, vừa
có một sự cất giấu âm thầm để hiểu đích thực về tình yêu. Nhưng anh
cũng biết,
đó là tình học trò lãng mạn, chứ tìm một cơ may hay đuổi theo mục đích thì không thể nào thực hiện được. Hẳn
nhiên, Thụy không phải so sánh giữa anh và Duy vị hôn phu của nàng.
Thụy lại nghe có tiếng súng nổ.
Ngoài đường, sau khi đoàn xe nhà binh khuất xa, sự yên tĩnh trở lại. Đã
ba giờ
sáng, đầu óc anh trở nên trống rỗng.
Thụy thiếp ngủ quên, thức dậy muộn
nhưng cũng kịp giờ để tới trường. Khi Thụy ra ngoài đường đã thấy các
bạn
anh chờ sẵn. Vừa gặp nhau, cả bọn vui vẻ
mặt đứa nào cũng hứng khởi. Cát nói:
-Hôm nay, chắc
chắn có mét ting.
-Chắc rồi.
-Có tin gì mới
không ?
-Ua, mày
không nghe tin đài B.B.C à.
-Không.
-Hai anh em
ông Diệm Nhu bị xử bắn.
-Ghê vậy.
-Cuộc Cách mạng
triệt để.
Từng đoàn học sinh cùng rảo bước,
lòng rất vui, hăng say bàn chuyện đại sự. Trên đường Trưng Nữ Vương,
giống như
chiều qua, sáng nay vẫn bừng bừng khí thế sôi nổi, qua mỗi nhà, nhà nào cũng
thấy
tụ tập, nhóm họp nhiều người bàn tán về tin tức cuộc đảo chánh ở Sài
Gòn. Và,
tiếng vọng máy thu thanh loan tin tức rộng khắp trên con đường.
Từ khu phố Thụy và các bạn ở tới trường
chỉ mất có mười lăm phút đi bộ. Khi đến đầu phố Độc Lập, nhìn xa trông
con đường
sáng hẳn, xanh tươi lá cây. Khu công viên cũng rất đông người đứng tụ
tập kể cả
học sinh của trường. Ngoài bến Cảng, tiếng
còi tàu hụ nối nhau như để chào mừng ngày chiến thắng của Quân Đội.
Thụy hơi chậm bước, dừng trước cổng
chính của trường mắt tìm kiếm bóng Thúy Hà. Ở phía dưới khu Hải Quan,
bắt đầu
đông học sinh đi lên hướng về trường Sao Mai.
Thụy rất mong gặp nàng để cùng chia niềm vui .
Hôm nay, một ngày náo nhiệt lạ thường.
Sân trước và sân sau của trường, học sinh lớn nhỏ đều vui mừng trò
chuyện về cuộc
đảo chánh tại Sài Gòn xuất phát lúc một giờ chiều qua. Vào lúc 6 giờ
sáng nay,
đài Sài Gòn và các đài quốc tế đều xác nhận hai anh em ông Diệm Nhu đã
chết.
Tuy nhiên, các bản tin đều rất sơ lược, không đi sâu vào chi tiết vụ
thảm sát
và cũng không nói rõ nguyên nhân.
Giờ vào lớp với hồi chuông dài ngân
lên, nhưng ngay lúc đó, từ loa phóng thanh thầy Tổng Giám thị thông báo
cho tất
cả học sinh Đệ Nhị Cấp tập họp ở sân sau để đi dự mét tinh. Rất vui vì
được nghỉ
học, các lớp vào hàng rất trật tự. Rồi tất cả học sinh cùng hướng về
chỗ bậc thềm
cao của nhà hội, nơi đó Cha Hiệu trưởng
đang đứng trước máy vi âm. Bằng một giọng trầm ấm, Cha ngỏ lời với học
sinh.
Ngay khi bắt đầu, Cha vào đề về biến cố
cuộc đảo chánh, và riêng Cha thật cảm thấy sung sướng, hân hoan trước
sự thành
công cuộc Cách mạng do Quân đội đảm nhận
để đem lại tự do, đời sống ổn định cho toàn dân miền Nam. Sao Mai là
một trường
Công Giáo, nhưng không vì vậy mà tự đặt mình vào tình thế đối lập, và
rất tha
thiết, Cha mong rằng học sinh của trường hãy nên nhận thức sáng suốt về
tình
hình đất nước mà tỏ tình đoàn kết, không nên vì lý do khác tôn giáo để
hiềm
khích nhau.
Không đến nửa giờ, nói đầy đủ ý
nghĩa cuộc Cách mạng và tình hình đất nước cho học sinh hiểu Cha Hiệu
trưởng ngừng
lời, rồi kết thúc bài nói chuyện bằng sự mong mỏi toàn thể học sinh cố
gắng học
để có một tương lai tươi sáng cho ngày mai.
Cuộc diễn
hành đi dự mét tinh bắt đầu. Từ lối cổng sau, đoàn học sinh các lớp lớn
của trường
đi ra đường Lê Đình Dương rồi rẽ trái vào phố chính Độc Lập. Thụy đi
hàng
ngoài, cạnh Giáp và Hùng. Trên đường, bọn học sinh đùa giỡn, vừa trò
chuyện rất
vui. Lúc ngang qua nhà Thúy Hà, Thụy đưa mắt nhìn vào thấy ông bà Kha
đứng trước
cửa hiệu nhìn ra vừa vẫy tay chào thân ái đoàn học sinh.
Ý nghĩa của ngày Cách mạng thành
công làm không khí chính trị ở miền Trung rất là sôi nổi. Từ Huế vào
đến Quảng
Ngãi, luôn có những cuộc mét tinh, những cuộc hội họp cùng với rất
nhiều thông
cáo của các đảng phái. Đà Nẵng, thành phố Thụy đang ở cũng rộn ràng sôi
nổi,
anh và nhiều bạn bị lôi cuốn bởi những ngọn sóng đang dâng trong tinh
thần cách
mạng của tuổi trẻ . Suốt tuần qua, hầu như Thụy không mấy quan tâm
chuyện học
hành. Buổi chiều, sau giờ tan học Thụy thường
xuống phố ghé qua các hiệu sách để xem báo cọp. Vì
muốn xem nhiều báo nên đứng mỗi nơi, Thụy
coi xong
một tờ rồi lại đi. Với lại, Thụy không thể coi hết cả tờ báo, mà chỉ
đọc ở
trang nhất và trang tiếp theo những bài tường thuật về những ngày vừa
qua ở Sài
Gòn. Nơi đây ở xa, nhờ đọc báo, anh mới hiểu ý nghĩa lịch sử của ngày
1/11/63 .
Những bức ảnh trải rộng , bao quát trên nhiều đường phố Sài Gòn cho
thấy một
khuôn mặt thủ đô vừa đổi thay khi cuộc cách mạng bắt đầu . Từ đầu buổi
chiều
ngày thứ sáu khi nghe tiếng súng nổ, dân chúng Sài Gòn đã ùa ra đường
chạy theo
các đoàn xe binh sĩ. Ai cũng lo sợ, hồi hộp, nhưng thích thú khi thấy
từng đoàn
quân tiến đi thật dũng cảm.
Ngày hôm sau 2/11, Sài Gòn náo nhiệt
đông vui, trăm ngàn tờ truyền đơn tung bay trong gió sớm mừng ngày cách
mạng
như lễ hội. Bất cứ nơi đâu, người dân Sài Gòn cũng ùa ra khắp ngả đường
mừng
vui khôn xiết khi biết chắc chắn triều đại nhà Ngô đã sụp đổ. Tại khu
chợ Bến
Thành đồng bào vây quanh những chiếc xe GMC đông lính tráng, họ mang
nước uống,
bánh mì, và tranh nhau chuyền quà bánh lên xe đưa tận tay từng người
lính. Mỗi
khuôn mặt đều rạng rỡ, nhưng không giấu được những giọt nước mắt lăn
trên má. Tại
bến Bạch Đằng, nơi có bức tượng hai mẹ con bà Ngô Đình Nhu bị sinh viên
học
sinh kéo đổ xuống. Dân chúng vây quanh hai dinh Độc Lập và Gia Long, ồn
ào bàn
tán. Ở mọi con đường lớn nhỏ trong thành phố, dân chúng
vỗ tay hoan hô nhiệt liệt khi thấy có quân
lính hay những đòan xe quân đội đi qua. Tại các trường học, sinh viên
học sinh
cũng xuống đường, tổ chức hội thảo, tất cả đều ý thức về sự tự do, về
cuộc cách
mạng, đồng lòng muốn nhận lãnh một trách nhiệm trước tổ quốc. Và, tất
cả những
nhật báo lớn của Sài Gòn từ mấy ngày qua đều đăng hình đầy đủ các vị
Tướng Lãnh
trong chân trong Hội Đồng Cách Mạng. Ba vị Tướng đầu não cho cuộc đảo
chánh này
là Tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn và Tôn Thất Đính.
Nỗi xúc động trước niềm tin đất nước
rộng mở trong ngày mai khiến Thụy không ngăn được mình khỏi khóc. Và,
lòng anh
thật vui. Trên đường đi bộ về nhà, tâm tư anh đầy ắp những hình ảnh
nhân vật tiểu
thuyết anh hùng. Thụy đã đọc cuốn Giờ Thứ
25 của nhà văn người Lỗ Ma Ni, Constant Virgil Goerghiu. Thụy cũng nhớ
đến nhân
vật Antipov trong tiểu thuyết Docteur
Jvago.
Khi ngang qua nhà Thúy Hà, anh dừng
chân ghé vào. Căn nhà với các cánh cửa sơn màu xanh, sáng ánh đèn, và
đông
khách đến mua hàng mỹ phẩm làm cho khu phố Độc Lập
trở nên vui, sống động. Lúc nãy, trên đường về
nhớ những trang sách trong bản dịch cuốn Docteur Jvago, Thụy như mơ
thấy có
hình ảnh nàng Lara bên anh. Thụy có nên đem Thúy Hà người bạn gái anh
thương để
so sánh với nàng Lara không ? Thụy thật
sự hạnh phúc được nhớ cả hai người trong cùng một thời gian với những
tiếng động
của bước chân, và anh cũng có một ước ao về công việc viết văn. Thụy sẽ
chờ đợi
một ngày đó rất gần, anh khởi sự sáng
tác để tạo nên một tác phẩm văn chương. Cố nhiên qua gương mặt, bóng
dáng Thúy
Hà là nhân vật mà anh luôn hình dung trong trí tưởng.
Vừa thấy anh đứng trước cửa, ông Kha
lên tiếng:
-Vào nhà
chơi đi cậu.
-Cháu đi xuống
phố đọc báo, Thụy đáp lời.
Ông Kha thở nhẹ một hơi khoan
khóai rồi cầm bình trà rót nước ra
tách. Từ lối cầu thang bên căn gác, bóng Thúy Hà đang đi xuống trên
từng bậc gỗ.
Thụy nghe tiếng bước chân nàng, lắng đợi
một sự gói ghém để cho tình cảm của mình thêm phấn chấn.
Thụy cầm điếu thuốc ông Kha mời, bật
cháy que diêm . Thụy luôn được hút những điếu thuốc ngon. Bên quầy , bà
Uyên
đang tính tiền và gói hàng cho khách. Khi gặp lại người bạn gái, Thụy
được thấy
nàng chào anh bằng nụ cười thân thiện.
-Ngày mai
cháu ra thăm nhà, Thụy nói với ông Kha.
-Tuần nào cậu
cũng ra Huế cả.
-Dạ không.
Có khi một tháng hoặc hai. Lần này, cháu muốn về thăm nhà để xem tình
hình
ngoài đó ra sao ?
-Tôi nghĩ là
thành phố Huế rất sôi động. Nơi đó là trung tâm đấu tranh. Cuộc cách
mạng này,
Huế xứng đáng được vinh danh.
-Cháu cũng
có ý nghĩ như bác.
Thụy nói chuyện với ông Kha, và những
điều anh vừa nói ra rất muốn được Thúy
Hà chia sẻ. Thụy yêu nàng, luôn ước mong
được ở cạnh bên nàng. Và nghĩ đến nàng,
Thụy hình dung qua các nhân vật nữ trong tiểu thuyết
mà anh yêu thích.
Thụy đọc khá nhiều truyện của Nhất Linh. Cô Thu
"bướm trắng" cho anh một
vẻ đẹp thật quyến rũ. Cô Loan với mối
tình "đôi bạn" làm anh cảm động, nhớ rất nhiều đến một miền quê êm đềm.
Loan, nàng là hình ảnh của sự yêu thương, của một quê nhà bao phủ mây
trắng
thanh bình.
Thụy ra đến Huế trong
bu?i chi?u thứ sáu. Căn nhà thuê ở gần
bên dòng Chúa Cứu Thế, nay gia đình anh trả lại, dọn lên chỗ mới vùng
Nam Giao,
nằm sát bờ dốc bên dưới chùa Từ Đàm. Không riêng gia đình anh, mà hầu
như cả
thành phố Huế năm nay ai cũng mừng vui chờ đợi mùa xuân đến để trong
năm nay,
đón một cái Tết thực sự an bình, tự do, không còn nỗi
sợ hãi như trước đây nữa. Trong lần về
trước, mẹ Thụy có nói dự định bán nhà ở Quảng Trị, việc này đã thực
hiện xong,
còn chuyện muốn vào Nam sinh sống do dình hình thời cuộc đã đổi thay
nên ba mẹ
anh vẫn cứ ở Huế. Với lại, dì Quyên dạy học ngoài Đông Hà nay cũng vào
ở Huế ,
có vậy gia đình bên dì và bên anh được sống gần nhau để giúp nhau.
Huế, thành phố khởi đầu cuộc nổi lọan
vẫn đang còn sôi sục . Dòng sông Hương dậy sóng. Nắng trong thành phố
đã thấm đậm
vào niềm tin mỗi con người. Nơi đây, có những khát vọng qua tiếng kêu
gào tự
do, cả lòng thù hận. Nơi đây, nỗi phẫn uất còn nung nấu . Hai ngày ở Huế, Thụy sống vui với bao cảm giác cùng những ý nghĩ
mới
mẻ, lạ thường. Sau cuộc Cách Mạng, thành phố đông người, ngập tràn đón
mùa gió
cách mạng trên những con đường như lễ hội. Giọng nói Huế luôn sôi nổi,
đồng nhất.
Thụy đi chơi, gặp những người lạ cũng thành quen, ai ai cũng tường
thuật cho
anh hay những giờ phút nghẹt thở của Huế khi hay tin có đảo chánh ở Sài
Gòn.
Hôm đó, từ đầu giờ buổi chiều mới nghe
tin đồn, cả thành phố rất xao động, nôn nao, hồi hộp, vừa cảm thấy sợ
hãi, lo
âu. Tưởng như hôm nay là một ngày phán xử, đang hết sức nặng nề. Bỗng
dưng, mọi
sinh hoạt đình trệ. Những cửa hiệu buôn bán vội vàng đóng cửa sớm. Và,
mỗi lúc,
các đường phố vắng dần, rồi các trường Đại học, trung học, sinh viên,
học sinh
rời trường ra về mà hầu như chưa có ai hiểu rõ về một biến cố đang xảy
ra ở
đây, hay là Sài Gòn. Đài phát thanh Huế hoạt động bình thường, nhưng
không có
tin tức thời sự, chỉ có ca nhạ, thỉnh thoảng có vài tin ngắn địa
phương. Và,
trong giờ phút quan trọng này, cũng không tiếp vận đài
Sài Gòn. Tuy nhiên, trong gia đình, nhà nào
cũng đang theo dõi trực tiếp Đài Sài Gòn. Vào lúc hai giờ, có lời tuyên
bố của
quân đội loan báo có đảo chính do tất cả các vị Tướng lãnh đạo. Nhưng
rồi, sau
đó, lại im lặng vô tuyến. Đột nhiên, có tiếng nói của Tổng Thống Ngô
Đình Diệm
qua làn sóng đài Sài gòn. Sự hiện diện của ông khiến mọi người lo ngại,
vì uy
quyền và triều đại của ông chưa sụp đổ. Huế, thành phố như đang hấp
hối, hoang
mang. Người nào đang ở ngoài đường cũng hớt hãi, mong sớm về nhà. Ngoài
bến xe
và nhà ga cũng rất vắng. Những chuyến xe buýt trong nội thành, những
chuyến xe
hàng đưa khách đến tỉnh khác, đều rất vội vàng sợ bị kẹt giữa giờ giời
nghiêm.
Và, người ta vẫn cứ tin rằng, hai anh em ông Diệm và Nhu vẫn còn nắm
quyền chủ
động. Nhưng sau một lần lên tiếng đó, tin tức về ông Diệm cũng im bặt
luôn. Thời
gian qua từng giờ, phía chính phủ, phía đảo chánh cả hai bên, không bên
nào nắm
được quyền chủ động. Thế nhưng, đây phải là một trận chiến một mất, một
còn.
Và, cũng qua từng giờ, đài Huế vẫn chỉ có nhạc, không có tin. Những phố
chính
giờ này đã đóng cửa hết, nhưng người ta vẫn ra bên ngoài tụ tập từng
nhóm trước
nhà bàn tán về tin tức đảo chánh. Tới 5 giờ chiều, Đài phát thanh Sài
gòn loan
tin quân đội đã làm chủ tình hình cuộc đảo chánh. Ngay lúc đó, dân
chúng nhảy
múa, reo mừng và trên đường phố bắt đầu xuất hiện nhiều người đi xe gắn
máy, xe
đạp, tin đồn loan đi mỗi lúc một nhanh, khắp cả thành phố. Tới sáu giờ,
Tướng
tư lệnh vùng ban lệnh giới nghiêm. Và, đêm vừa xuống, thành phố Huế như
là một
nghĩa trang. Sau buổi cơm chiều nguội ngắt, mỗi gia đình đều tập trung
một chỗ
cố định quanh chiếc máy thu thanh, người nào cũng nín lặng với từng
giây phút
nghẹt thở, từng giây phút được biểu lộ nỗi hân hoan, vui mừng, tin
tưởng, và
lúc đó, cũng không thể ngăn được dòng nước mắt. Vào giờ phút này, tất
cả dân
chúng miền Nam, chân tay người nào cũng cử động, cũng đưa ra bám níu
lấy từng
tiếng nói, từng cái tên của các vị Tướng. Khi nghe có thêm tên một vị
Tướng, một
vị công chức cao cấp xưng danh trên đài, đó cũng là lúc thấy được thêm
những kết
quả chiến thắng. Nhưng, sự chờ đợi, cứ trông vào sự chờ đợi, trông vào
mệnh trời,
nó vẫn còn dai dẳng, chập chờn, vì , hoàn toàn không ai rõ về tin tức
hai ông
Diệm Nhu và cả gia đình ông nữa. Người ta được biết Đức Cha Ngô Đình
Thục đi La
Mã, bà Trần Lệ Xuân và cô con gái đang ở Mỹ giải độc, ở Huế, vẫn đang
còn vị
lãnh chúa Ngô Đình Cẩn. Có thể lúc này,
Huế vẫn rùng mình, lo sợ ông cậu. Nếu bạn có thể nghĩ xa hơn, thì ông
cậu không
chi bối rối cả, bên ông, đủ mặt các cận thần, và riêng một mình ông
đang suy
nghĩ một đường lối sâu sắc, một chiêu thức hiểm độc, đồng thời ông cũng
muốn
tìm kiếm một địa điểm nào rộng rãi, đầy gió tanh, mưa máu để làm nghĩa
trang
chôn sống hàng trăm ngàn sư sải, ni cô và thành phần dân chúng Phật tử
Huế.
Ngày mai, nếu hai người anh của ông còn nắm quyền, còn vững mạnh, ông
sẽ thực
hiện ngay những điều ác trong cái tâm của ông đang suy nghĩ.
Dòng sông Hương vẫn lặng chìm giữa
đêm tối. Người ta hầu như cố lắng tai để nghe, nhưng dòng nước đang
chậm ngừng,
không muốn chảy nữa. Người dân còn lo sợ với ảo tưởng, sông sẽ biến
thành máu.
Trong đêm khuya này, những gia đình theo đạo Phật, nhà nào cũng có
hương khói
trước bàn thờ, cũng có cái bóng của một người mẹ, hay người cha hai tay
lên ngực
nguyện cầu cho đạo pháp và dân tộc được sống còn.
Tự nửa đêm, một tin quan trọng được
loan báo trên Đài Sài Gòn là quân đội đang tấn công đánh thành Cộng Hòa
và bao
vây dinh Gia Long. Người chỉ huy hai mặt trận này là Tướng Tôn Thất
Đính, dòng
dõi bảo hoàng.
Nơi xa này, mọi người đang cố hình
dung ra một trận đánh. Người ta nghe ra tiếng di chuyển của xe cơ giới,
của
đoàn quân, và tiếng súng nổ ồ ạt qua từng đợt xung kích.
Bất thần, nhà nào cũng mở toang cửa,
dân chúng ùa hết ra đường ngay sau khi đài phát thanh ở thủ đô loan tin
chính
thức hai vị tướng Tư lệnh
vùng 1 và 2 cùng lên tiếng ủng hộ cuộc đảo
chánh.
Khắp các ngả đường, dân chúng ùn ùn
chạy, rầm rập đổ về phía tòa tỉnh trưởng, các công sở, tòa lãnh sự Mỹ,
và tập
trung đông đảo nhất là nơi tư dinh của ông cố
vấn Ngô đình Cẩn. Trong đêm, những trái pháo từ bên
kia kinh thành bắn
lên vụt sáng lẫn với tiếng hoan hô chào mừng cuộc đảo chánh của các
tướng lãnh
là tiếng gào thét nguyền rủa, đả đảo chính quyền độc tài gia đình trị
nhà Ngô.
Và, có thể nói bao nhiêu biểu tượng về gia đình này, cùng một lúc sụp
đổ, cùng
một lúc mọi dấu vết đều bị xóa sạch.
Từ đêm khuya ấy của ngày cách mạng đến
hôm nay đã qua hai tuần, nhưng cả thành phố vẫn không yên lặng. Ít khi,
về đêm
Huế có thể gây cảnh náo nhiệt, vậy mà, sự tự do trong cuộc cách mạng đã
cho
thành phố này những tháng ngày sôi nổi, hiếu động. Những nhà sách, quán
báo,
đông nghẹt người đứng chờ. Không đủ báo để mua, ở khu vực Đài Phát
Thanh trước
khuôn viên Đại Học Morin người ta xúm nhau coi chung một tờ báo, và có
người sốt
sắng tình nguyện đọc hết các bản tin, các bài phóng sự cho mọi người
nghe. Rồi
lại nghe tiếng cười vui, hoan hô, vỗ tay hài lòng. Hai ngày về thăm gia
đình,
Thụy chỉ có mặt ở nhà trong bữa ăn tối, còn từ sáng sớm là lấy xe đạp
đi chơi
nhiều chỗ, bên trong cũng như ngòai nội thành.
Huế , đã là thành phố tuẫn nạn trong biến cố Phật
Giáo, vì thế, sự hồi
sinh ở đây là sự sống lại của mỗi người dân. Vị thiền sư Nhất Hạnh đã
viết hai
câu thơ:
Nếu ngày về khung trời có đổ nát
Hãy tìm em nơi tận đáy hồn anh
Khi Thụy đến thăm nhà Dạ Hiền, ai
cũng ngạc nhiên và dồn dập hỏi anh về tình hình ở Đà Nẵng.
Đứng bên Hiền, một giọng vui Thụy
nói:
-Không đâu
có thể so sánh với Huế, kể cả Sài Gòn.
-Thụy
nói đúng. Không tưởng tượng nổi cảnh tượng Huế
trong ngày 2/11.
Thụy đưa mắt nhìn Hiền, thấy nàng có
một vẻ đẹp rất là Huế.
-Không biết
người Sài Gòn có hướng về Huế không ?
-Có thể
không. Nhưng nơi đó, là cả một niềm tin.
Hết hai ngày về thăm gia đình, Thụy
lại vào Đà Nẵng. Ngồi trên xe, một hình bóng trở lại trong tâm tưởng
anh là
Thúy Hà.
Tháng mười một qua đi, tình hình
trong thành phố Đà Nẵng thực sự lắng dịu. Mùa đông đã tới. Buổi sáng
trời lạnh,
đôi khi có những cơn mưa nhẹ hạt. Vào buổi chiều, lúc mặt trời lặn
sương mù
trên sông bao phủ cả khu bến Cảng. Và, những buổi chiều như vậy, sau
giờ tan học
Thụy và mấy người bạn chưa muốn về nhà còn dạo chơi
ở công viên nhìn những con tàu đậu, bóng dáng
các thủy thủ trên boong, và đứa nào cũng
thật thú vị với điếu thuốc hút ấm cổ họng
, mắt nhìn từng làn khói lượn lờ, lãng đãng,
có đứa tìm được những vần thơ hay liền đọc lên nghe
rất dễ thương nhưng
cũng men chút ngậm ngùi. Sau đó, cả bọn
cùng kéo nhau lang thang dạo phố, nói cười thật ồn ào, vui trong gió ấm
mùa
đông với cái lạnh của nắng, có khi là những cơn mưa nhè nhẹ đem buổi
chiều dần
dần vào bóng tối.
Sau lễ Giáng Sinh, kỳ thi Đệ Nhất lục
cá nguyệt bắt đầu. Kỳ thi kéo dài đúng một tuần lễ. Mỗi môn thi được
các giáo
sư phụ trách ra đề và quây ronéo phát cho mỗi học sinh. Thụy vững tin
về môn
Toán, hy vọng sẽ lấy điểm cao. Hôm thi hai môn tiếng Anh và Pháp, anh
và Thúy
Hà giúp nhau nên bài làm suông sẻ. Giữa anh và nàng, tình yêu đã có ,
và các bạn
học ai cũng đều biết.
Rồi cả thành phố chuẩn bị đón Xuân.
Trước kỳ nghỉ Tết, nhà trường khuyến khích các lớp từ nhỏ đến lớn làm
bích báo
, đồng thời tổ chức một chương trình văn nghệ liên hoan cuối năm.
Khu phòng hội ở lầu ba gần lớp Thúy
Hà là nơi các lớp Đệ Nhị Cấp tập trung để làm bích báo sau giờ học buổi
chiều.
Tại đây, sinh hoạt thật vui, anh em qua lại xem bài vở của nhau và lúc
nghỉ
cùng vui chuyện trò, ăn kẹo bánh của trường cho. Thúy Hà cũng có chân
trong Ban
báo chí ở lớp nàng, phụ trách phần vẽ tranh minh họa. Bên lớp Thụy, bài
vở các
bạn đóng góp thật phong phú. Có thơ lục bát, thơ bảy chữ, thơ tự do,
một bài nhận
định của thầy Cố vấn lớp, vài đoản văn, tùy bút, và đặc biệt, Thụy viết
truyện
ngắn. Riêng truyện ngắn anh sáng tác, anh nhờ Thúy Hà vẽ giúp tranh.
Nàng sẵn
lòng, không ngại ngùng gì cả.
Khi ngồi bên cạnh nàng, nhìn nàng vẽ
tranh cho truyện của mình, Thụy rất hạnh phúc, sung sướng, coi bức vẽ
này là kỷ
niệm quí giá ví như là một món quà nhỏ mà anh được nàng thân tặng .
VI
Thiên Nga đậu hạng khá trong kỳ thi
tốt nghiệp. Cô là nữ sinh viên duy nhất của lớp và của trường. Ngày hôm
đó, cô
chụp nhiều bức ảnh kỷ niệm với các thầy và các bạn cùng lớp. Riêng mỗi
bạn, ai
cũng ước mong được đứng bên cô trong một tấm hình làm kỷ niệm, nhưng cô
từ chối.
Với các vị giáo sư, cô cũng chỉ chụp hình chung để lưu niệm cho trường,
chứ
không riêng với vị thầy nào cả. Cô đã nhận được tấm bằng tốt nghiệp và
một bó
hoa hồng. Khi cô nhận lãnh phần thưởng này, ánh đèn chớp sáng của những
chiếc
máy ảnh bùng sáng lên. Những nhà nhiếp ảnh đã chụp rất nhiều ảnh cho
cô, và phần
này, cô ưng thuận cho họ sử dụng một tấm
để treo ở phòng ảnh làm mẫu của tiệm.
Mùa hè đã tới. Một ngày đầu hè, hoa
phượng nở sáng đẹp. Và tên cô gái, những hình ảnh về cô nữa (trong ngày
tháng
năm qua , và hôm nay) làm cho ngày ra trường trở nên vui như lễ hội.
Một bông hồng
trên tay cô gái là ánh sáng của nụ cười, biểu tượng một thành phố trong
tâm hồn
nghệ thuật. Những ánh mắt hướng về cô, những lời tán dương thì thầm,
biểu lộ cho
cô gái thấy đây là những món quà thân ái dành cho cô. Và, tấm lòng
riêng mỗi
người cũng rất ước mong có được cho mình một khuôn mặt của cô.
Rồi, phần chương trình tiếp theo là
tiệc trà và văn nghệ. Giữa chương trình, một bạn cùng khóa mời cô lên
sân khấu
hát một bài nhạc mà cô yêu thích. Không từ chối, cô đứng dậy, rời bàn
lên sân
khấu. Khi đứng trước máy vi âm, cô ngỏ lời chân tình cám ơn quan khách
tham dự,
cám ơn các thầy cô, sau cùng với giọng xúc động cô nói những lời chia
tay với
các bạn cùng lớp từ bốn năm qua. Có vài bạn được nhắc tên, bất ngờ lấy
làm
thích thú, trên gương mặt hạnh phúc sáng rỡ. Từ phút ấy, ai cũng đều
chú tâm lắng
nghe những lời cô gái phát biểu. Cách diễn đạt của cô qua từng ý rõ
ràng, chân
thực.
Mọi người cùng vỗ tay vang lên khi
nghe cô giới thiệu bài nhạc mình sẽ hát ,
Bến Xuân của nhạc sĩ
Văn Cao.
Tiếng hát cất lên, vừa dịu êm, vừa
làm cho người nghe có cảm giác như chiếc thuyền đang dâng sóng. Tiếng
hát thật trong , vừa lạnh và ngọt, âm
thanh chuyển từng
cảm xúc nghệ thuật đến người nghe, không những nghe, mắt còn chú ý đến
ánh sáng
từ những ngọn đèn làm rõ hơn gương mặt cô gái , mỗi một phút, mỗi một
giây, nét
đẹp đức hạnh của cô là nguồn sông tồn tại với cuộc đời.
Không một
ai phiêu bạt, giang hồ, và trở nên người lữ khách,
nhưng nghe tiếng cô
hát , tâm hồn của họ đã được chan hòa với sông nước.
Tới đây núi đồi chập chùng
Liễu dương hơ tóc vàng trong nắng
Tà áo em rung theo gió nhẹ thẹn
thùng
Ngoài bến xuân
Ai tha hương….. .
Thiên Nga hát trở lại nguyên bài một
lần nữa, và đoạn nhạc đẹp khách vừa được nghe hát là vạn hộc sắc nước
mùa xuân
trong tình yêu của nàng.
Bài hát dứt, tiếng vổ tay nghe thật
đầm ấm. Không hát thêm một bản nữa theo yêu cầu, cô nhường micro cho
người
khác. Không khí tiệc trà trở nên thân mật, gần gũi, và hôm nay, cô gái
thật hồn
nhiên ( như nắng mới, bạn hãy nghe lắng nghe tiếng cô chuyện trò, thân
tình
trong sự thẳng thắn và cởi mở. Số quan
khách dự khá đông, ngồi kín hết các chiếc bàn tròn có trải khăn hoa.
Những vị
khách này, có một số phụ nữ là những
giáo sư dạy các trường học trong tỉnh. Các bà, các cô ai cũng mến yêu
nàng, hạnh
phúc cho nàng. Khi thấy cô gái đến chào, một bà giáo kéo chiếc ghế mời
cô ngồi
xuống bên cạnh. Ở bàn khách này, hết người nọ đến người kia tranh nhau
hỏi nàng.
-Một mình
trong trường em là gái, có sợ không ?
-Có, em sợ lắm.
Năm đầu nhập học, em cứ nghĩ trường cũng có đông nữ sinh, đâu ngờ chỉ
mình em
thôi.
Ở bên bàn kia, khách cũng đang nghe
tiếng của nàng, có hai người trìu mến đưa mắt nhìn nàng. Và, cả hai
cùng tỏ lời
khen nàng dịu hiền và đẹp.
Buổi tiệc trà và chương trình văn
nghệ góp vui cũng khá dài, lâu đến hai giờ đồng hồ. Rồi cuộc vui tàn,
mọi người
chia tay. Ngày hôm nay xa nhau, ngày mai vào đời, buổi chia tay của
toàn anh em
trong khóa học rất cảm động, ngậm ngùi,
rồi tất cả đều chỉ muốn một người giữ lại
những kỷ niệm quí giá này hơn ai hết, là Thiên Nga.
Nga lấy xe đạp, xong ra về một mình.
Trên đường về, nàng muốn dành một ngày vui hôm nay mà nhớ đến Nguyên.
Nguyên lại
đi công tác chiến dịch lên tiền đồn sau thời gian bốn tuần làm việc tại
hậu cứ.
Hầu như, đời lính đã gắn bó một cách chân thực với con người Nguyên.
Anh làm việc,
yêu thích công việc, hoàn tất nhiệm vụ trong khoảng thời gian cần
thiết, đầy đủ.
Bộ chỉ huy nặng của Trung đoàn cố đô
vẫn nằm trên căn cứ Bastogne. Lên đó, Nguyên cùng đoàn văn nghệ tâm lý
chiến lội
bộ đến các tiểu đoàn. Tại mỗi điểm, đoàn trình diễn văn nghệ cho lính
xem,
chương trình gồm các tiết mục kịch vui, đồng ca, đơn ca. Nguyên luôn
dẫn dắt
chương trình, anh có những lời giới thiệu hấp dẫn, dí dỏm, làm lính vui
và
khóai thưởng thức chương trình văn nghệ của lính. Sau khi phần văn nghệ
kết
thúc, đến phần chính là công tác học tập chiến tranh chính trị. Nguyên
giảng giải
cho binh sĩ nghe về các bài học chính trị một cách sáng sủa, vừa cụ
thể. Lồng
vào đoạn giảng, anh kể một câu chuyện, thường là chuyện xưa, tích cũ,
những chuyện
này để luận cổ suy kim, rất dễ cho lính và họ đã cảm
nhận được ngay cho
chính bản thân, cùng đồng đội. Có vài người lính bày tỏ niềm ngưỡng mộ
nói với
Nguyên rằng, bài anh giảng hiệu quả hơn cả ngàn mẫu truyền đơn thả
xuống vùng địch.
Và, không chỉ văn nghệ mà còn có cả chiếu phim. Nguyên giỏi xoay xở,
anh mượn
những bộ phim thời sự bên phía đài truyền hình, bên các cố vấn Mỹ những
phim về
chiến tranh ca ngợi sự dũng cảm của người lính chiến đấu ngoài mặt
trận. Và,
hình ảnh những trận chiến trên màn ảnh thực sự đã có tác dụng vào trí
tưởng tượng
của những người lính đang hiện diện ngay trong vùng đóng quân trách
nhiệm của
mình.
Nguyên gắn bó với đời lính không chỉ
riêng cho sự cảm nhận của mình, mà anh còn rất được tình cảm mến thương
của đồng
đội. Tình cảm đó như một dòng sông rẽ nhánh, càng cho anh có được thêm
tình yêu
và nỗi nhớ Thiên Nga. Nguyên nhớ Thiên Nga, từng giây, từng phút trong
công việc
của mình. Nguyên làm việc để nhớ nàng và đặt nàng vào ngay trong công
việc của
mình. Thiên Nga cũng vậy, hình ảnh
Nguyên là một vầng sáng của hào quang. Sự đam mê công việc của Nguyên
rất hòa hợp
với quan niệm sống của Thiên Nga. Trên nhung lụa của đời nàng, sự dũng
cảm của
một con người chiến sĩ được nàng thêu dệt, gói ghém. Nàng cũng luôn thể
hiện
cái hay, cái đẹp, cả hạnh phúc gia đình rồi đây sẽ hình thành với cuộc
chung sống
trong từng công việc của Nguyên. Vậy nên, hôm nay dù vắng Nguyên, nhưng
nàng
đang nhớ nghĩ đến anh nhiều hơn hết.
Về tới nhà, Thiên Nga thay quần áo
xong lên giường nằm nghỉ. Giấc ngủ ngon làm nàng cảm thấy dễ chịu. Nắng
ấm của
ngày hè đọng lại như mật, rồi chỉ một thoảng gió lay động là mùi hương
tản mác,
nhẹ nhàng tan ra thành hương vị trái cây.
Khi một mình nằm lặng im trong thức
giấc, Thiên Nga thường để trí tưởng mình nhớ đến cô em gái Mỵ Châu, và
nhớ Đà Lạt
hơn hết. Đó là thành phố đầy kỷ niệm đẹp của những tháng năm trong thời
thiếu nữ của nàng. Và, nàng đến đó, để rồi
về sau mang
nỗi nhớ thương đau đến một người anh trai sống ở nơi đó, và chết cũng ở
nơi đó.
Thiên Nga xóa nhẹ giấc mơ đã chảy thật
ướt mát trên gương mặt nàng. Nàng ngồi dậy, đến ngăn tủ lấy quần áo đi
tắm. Ánh
sáng một bóng đèn vừa đủ cho căn phòng nhỏ và tối, nhưng thật là kín
đáo. Nga
đã múc nước đổ đầy trong cái xô lớn. Xong rồi, nàng bắt đầu tắm. Nàng
dội ướt một
gáo lớn lên thân người, tiếng nước vang lên, rồi những gáo nước khác,
làm tiếng
nước vang lên nữa, mỗi lúc, nước càng tuôn chảy rất mau. Sự trong trắng
của
nàng là hoa lan. Nàng luôn hiểu về mình, yêu thích cuộc sống mình, đó
là cuộc sống
mang những nét đẹp giản dị và thật uyển chuyến. Nàng thực sự luôn tạo
dáng,
nhưng đó là sự khéo tay làm bạn ngơ ngẩn người vì vẻ đẹp của nàng trong
lối tạo
dáng ấy rất là tự nhiên. Thiên Nga là nguồn sáng hiền dịu của bức tranh
khỏa
thân. Nàng có dáng đẹp từ ánh mắt của bạn nhìn nàng khi thấy rõ toàn
thân người.
Ở dáng đẹp này, nàng có thêm duyên may của trời cho một khuôn mặt dễ
thương vừa
gợi cảm, một đôi mắt âu yếm, một mái tóc yêu thương không hề biết đến
sự lung
lay của tiếng động , và còn nữa, nó nói tới ý nghĩa sự đợi chờ của tuổi thanh xuân.
Sau khi tắm xong, Thiên Nga dọn dẹp
lại phòng tắm. Không khi nào nàng ở lâu để trang điểm hay ngắm kỹ nhan
sắc của
mình. Nàng cũng không chải tóc, mà cứ để cho mái tóc ướt sủng, xong đem
ra
ngoài nắng ráo để hong khô . Khi tóc ướt
và nắng pha trộn, nó làm thành hương vị của một thứ
nước hoa có mùi dịu, ngây ngất.
Vừa lúc ra khỏi con dốc cuối vườn
Thiên Nga chợt dừng bước khi trông thấy bóng bà Huyên từ
phía đầu mái hiên đi về hướng căn phòng nàng
thuê ở. Có lẽ, bà tìm nàng, nghĩ vậy, nàng bước nhanh. Hai người gặp
nhau trong
tiếng chào hỏi thân thiện.
-Bao giờ
cháu mới nghỉ hè ?
-Dạ, bắt đầu
hôm nay.
-Ngày mai,
cháu vào nhà chưa ?
-Thưa bà,
chưa. Cháu còn ở đây một tuần nữa.
Với nụ cười hiền hậu, bà Huyên nói:
-Cháu đừng
đi xa bà lâu quá.
-Hôm nào có
dịp đi Đà Nẵng, bà ghé chơi nhà cháu.
-Hẳn rồi.
Thiên Nga mời bà Huyên vào nhà. Hai
người đi lên phòng khách. Cánh cửa lớn mở rộng, ngoài sân đầy nắng, và
dòng
sông bên dưới kia con đường thấp thoáng hiện những chiếc thuyền đang
ngược lên
phía ngả ba sông.
-Mau chóng
quá, mới ngày nào cháu đến ở, giờ đã qua hai mùa hè.
-Đến chừng
nào cháu mới ra trường ?
-Dạ, cháu mới
ra trường hôm nay.
Bà Huyên liền đứng dậy nhìn ngắm cô
gái. Hạnh phúc như sắp được thể hiện trong lời cầu mong của bà.
-Rồi đây căn
phòng này sẽ vắng cháu, bà Huyên nói xong, lại ngồi xuống.
Một giọng chân tình của cô gái:
-Cháu vẫn có
sự ràng buộc với Huế. Ở đây, cháu cũng luôn có được bà.
-Bà cần cháu
giúp một việc được không ?
-Cháu sẵn
lòng.
Nàng vừa đáp, dịch người tới một
chút ra dáng vẻ đợi và nghe.
-Bà có một bức
ảnh cũ bà rất thích. Cháu vẽ lại tranh chân dung cho bà được không ?
-Dạ được,
cháu sẽ vẽ lại cho bà.
Bà Huyên nói:
-Kỷ niệm của
bà là để nhớ cháu.
-Cháu rất
cám ơn bà.
Rồi một lúc sau, nàng nghe tiếng bà
Huyên nói:
-Hạnh phúc của
mỗi người luôn tìm được trong sự thiếu thốn. Rồi đây căn phòng này
không còn sự
hiện diện của cháu, bà sẽ đóng cửa không cho ai thuê nữa. Thế nhưng, bà
sẽ qua
lại căn phòng này, và những gì nơi đây đều nhắc nhở bà tiếng nói của
cháu. Sự
luyến nhớ đem đến cho mình có thế thôi, nhưng bà vẫn nghĩ, những lúc ấy
bà và
cháu thật gần nhau.
Thiên Nga không biết nói gì, nàng
đưa mắt nhìn bà Huyên bằng sự yên lặng trong buổi chiều. Nàng bỗng nhớ
đến Thụy,
phút chốc, trong tâm trí nàng hiện ra một thành phố biển xanh rất đáng
yêu.
VII
Trong tuần lễ chờ Nguyên về, Thiên
Nga vẽ xong bức chân dung cho bà Huyên. Nét vẽ của nàng thật kỹ và sắc,
lột tả
được một khuôn mặt trí thức của bà Huyên.
Khi nhận món quà là bức chân dung,
bà Huyên nói:
-Hãy nghĩ bà
là một người mẹ nuôi của cháu.
-Vâng, cháu
xin phép.
-Căn phòng
này thuộc về của cháu. Những lúc nào cháu ra Huế, hay từ đâu đến Huế,
cháu hãy ở
căn phòng này.
-Cháu xin cảm
tạ tình thương của bà.
Trưa hôm ấy, Thiên Nga dùng cơm với
vợ chồng bà Huyên. Sau bữa ăn, dùng trà, bà Huyên kể về câu chuyện của
đời mình
cho cô con gái nghe. Thiên Nga thật hãnh diện được biết người mẹ nuôi
mình là một
phụ nữ trí thức, ngày ấy, đã từng nổi dậy trong những cuộc biểu tình
bãi khóa,
rồi với cách mạng tháng tám bà đi theo kháng chiến chống thực dân Pháp.
Lòng
yêu nước của bà rất sáng suốt, hiển lộ cái lý tưởng đẹp với tổ quốc của
một người
phụ nữ trí thức.
Tới ngày thứ bảy, Nguyên dẫn đoàn
công tác về Trung doàn. Khi đoàn trình diện,
vị Trung đoàn trưởng tưởng thưởng mỗi người một huy
chương đồng và mời
ra hội quán dùng bữa ăn trưa. Đoàn văn nghệ này thuộc quân khu I nên
xong công
tác họ đi Đà Nẵng. Nguyên ở lại hậu cứ và tường trình về chuyến công
tác trong
buổi họp. Vị Trung đoàn trưởng thật hài lòng khi đơn vị có một Sĩ quan
trẻ,
năng động, xông xáo, và rất thông minh. Nguyên không chỉ trách nhiệm
trong lãnh
vực về tâm lý chiến, anh còn được xem là cố vấn cho vị Trung đoàn
trưởng về
tham mưu ở hậu cứ cũng như ngoài chiến trường. Đã bốn lần Trung đoàn
nhận cờ
danh dự , và cuộc đón tiếp Tổng Thống vào hai tháng trước đây rất thành
công.
Nguyên về, sau chuyến công tác rất vất
vả vì thời tiết và đối diện với những ngày trận chiến xảy ra ngoài vùng
hành
quân. Nguyên thực sự cũng thấy mình thể hiện được tinh thần chiến đấu
như binh
lính và cấp chỉ huy trong đơn vị tiểu đoàn, địch quân đã bị loại khỏi
vòng chiến,
rút lui sau hai giờ giao tranh.
Căn cứ Trung đoàn nằm ở Dạ Lê, xa Huế
khoảng hơn mười cây số. Nguyên lái xe một mình. Anh về thẳng nhà Nga
đang ở, dừng
xe bên con đường Huyền Trân ngoài cổng. Đây là con đường từ đầu thành
phố ra
ngoại ô, có một quãng chừng nửa cây số
đi ven theo dòng sông.
Nguyên xuống xe với chiếc ba lô, anh
bước nhanh chân, lòng cảm thấy mừng vui như một đứa trẻ đi xa về thăm
nhà.
-Nga ơi, tiếng
Nguyên gọi.
Vội vàng buông tờ báo, rời khỏi giường
hai chân Nga thật cuống quit. Vừa mở cửa, nàng la lên khi thấy Nguyên
xuất hiện
trước mắt nàng.
Nàng cầm chiếc ba lô, hai người ngồi
xuống phòng khách. Vừa mở gút dây buộc ba lô, nàng nói:
-Em đợi anh
một tuần nay.
-Chuyến đi
này thật vất vả.
-Anh hơi gầy
đi.
Trong ba lô có mấy cuốn sách, tài liệu
chính huấn, và một gói nylon cất những áo quần lính chưa giặt.
-Ngày lễ ra
trường vui không ?
-Vui lắm.
Nhưng em cũng hơi buồn vì vắng anh.
-Ngày đầu
đoàn mới đến, đơn vị Tiểu đoàn 1 chạm súng với địch.
-Ban đêm,
đơn vị có bị pháo kích không ?
-Không.
-Mỗi lần anh
đi công tác tiền đồn, em lo. Có đêm không ngủ được.
-Nhưng em
cũng đã quen với không khí chiến tranh.
Thiên Nga mỉm cười, gật đầu. Nàng rất
hãnh diện cho Nguyên và cả mình nữa.
-Sao, em có
muốn dạy học ngoài Quảng Trị không ?
-Em đợi, để
anh về đưa em đi.
-Thụy có viết
thư cho em không ?
-Có. Em cũng
mới nhận. Đi Quảng Trị về, em sẽ đáp thư.
-Chắc nó viết
thư thuyết phục em ra ngoài đó dạy.
-Rất đúng.
-Tội nghiệp,
nó rất là quí em. Hình ảnh của em không chỉ là hạnh phúc của gia đình,
mà riêng
nó, ghi nhận nhiều hơn hết.
-Thụy hiểu
tâm tình em hơn cả anh nữa.
-Anh biết.
Ngày hôm sau, Nguyên và Thiên Nga đi
Quảng Trị. Khoảng chín giờ sáng xe khởi hành. Khi Nguyên đi công tác,
xe công vụ
đem tu sửa, và tài xế của anh nhận được xe một chiếc loại mới, trần
thấp, tay
lái nhẹ.
Huế - Quảng Trị, đi chừng gần hai giờ
xe là tới. Nguyên và Thiên Nga nói đủ thứ chuyện từ một tuần lễ vắng
nhau. Có
lúc ngừng trong lặng yên, Nguyên chăm chú lái xe, còn nàng đưa mắt mơ
mộng nhìn
ngắm khung cảnh làng quê trong buổi sáng êm dịu, trời mát.
-Em thấy lạ,
Huế và Đà Nẵng cách nhau một con đèo, mà giọng nói hai nơi rất khác
nhau.
-Nhưng cách
dùng chữ giống nhau nhiều.
-Một số chữ
thôi.
Nguyên chợt hỏi:
-Tiếng Quảng
Trị, em nghe hiểu hết không ?
-Hiểu thôi,
nhưng không đúng hết.
-Anh là người
Quảng Trị.
-Làm như em
không biết chi cả.
-Ý anh muốn
em hiểu, anh nói tiếng Quảng Trị.
Nga phân tích:
-Rất ít chất
Quảng Trị. Tiếng anh không quá nặng, nhẹ gần với giọng Huế và có tiếng
của miền
Bắc.
-Năm 1954,
Quảng Trị nhận đến hơn mười ngàn người Bắc di cư. Nhà anh lúc đó, có
đến ba gia
đình người di cư thuê ở.
-Nhà rộng lắm
hả ?
-Đất hoang rộng
nên ba anh có làm thêm một căn nhà phụ ngăn bốn phòng.
-Anh nói
chuyện thời di cư, em không biết gì hết.
-Đó là năm
anh vừa lên trung học.
Nàng đưa mắt nhìn qua Nguyên. Nàng
hình dung lại gương mặt của Thụy. Hai anh em, mỗi người có một nét
riêng, thân
thiện và dễ nhớ. Nguyên vẫn giữ được dáng dấp trẻ của một thư sinh, còn
Thụy
khô khan, cứng cỏi, nhưng có giọng nói nghe ấm và đầy cảm xúc. Nàng
hiểu rằng,
dù Thụy không bao giờ nói ra những lời tâm tình của anh, nhưng nàng
hiểu, và
trong mắt nàng, sự giải thích về mối liên hệ bao giờ cũng đúng.
Bỗng Nguyên lên tiếng hỏi:
-Em có thấy
lo lắng không ?
-Dĩ nhiên là
có. Nhưng không sao, đây cũng là một thử thách cho mình khi vào đời.
Một giọng thân tình, Nguyên nói:
-Tuy thành
phố Quảng Trị nhỏ, nhưng cuộc sống cũng yên bình, dễ chịu.
Nga nói, giọng hơi nhấn mạnh:
-Không,
không thể có sự yên bình. Miền Nam, không nơi nào không có chiến tranh,
không
có tiếng súng. Chiến tranh luôn đe dọa từng ngày ở vùng núi, nông thôn,
cũng
như các thành phố.
-Em đừng bi
quan với những điều mình lo nghĩ.
-Em ra ngoài
quê anh, cũng là để chia sẻ với kỷ niệm cũ của gia đình.
-Em nói một
ý hay.
Nguyên vừa lách tay lái, qua mặt xe
trước rồi tăng ga cho xe hướng lên con đường dốc. Hai bên đường có
trồng loại
cây bồ đề, nhưng quang cảnh hoang vắng. Phía bên trái là đồng ruộng, cỏ
hoang,
bên phải hiện ra dãy đồi cát hình yên ngựa. Nga buột miệng:
-Quê nội
anh, cát thật là trắng.
-Em có thấy
những đồi cát tựa như đàn voi.
-Anh thực
giàu tưởng tượng.
-Quê hương mỗi
người luôn đẹp trong trí tưởng và cả thực tế nữa.
-Mùa hè này
Thụy có về phép không ?
-Chắc là
không.
Con dốc khá cao. Lên tới đỉnh dốc,
hai người trông thấy một ngôi làng xa, cách những đồi cát đến hơn một
dặm. Từ
quãng dốc này, hai cây số nữa là tới lằn ranh tỉnh lỵ.
Nguyên đưa chân qua rà thắng, đến
lúc, anh cho xe ngừng trước sân một quán nước lợp tranh.
Hai người xuống xe, đi vào quán.
Trong quán, hai bàn tròn có khách. Còn lại, ba bàn trống vắng. Khi
chàng và
nàng vào quán, khách đưa mắt nhìn, họ chú ý đến nàng hơn là viên Sĩ
quan. Nàng
mặc áo dài tím, tóc dài không buộc nơ mà buông thả xuống vai.
Chị bán quán đến chỗ hai người vừa
ngồi, cầm khăn lau bàn.
-Thưa Đại úy
và cô dùng chi ?
Nguyên hỏi Nga:
-Em ăn gì
không ?
-Không.
-Uống cà phê
nghe.
Nga gật đầu. Nguyên bảo chị bán
quán:
-Cho hai cà
phê sữa.
-Dạ, uống
nóng hay đá.
-Uống nóng.
Khi chị bán quán rời bàn, Nguyên hỏi:
-Lâu nay Mỵ
Châu có gởi thư cho em không ?
-Có. Mỵ Châu
cũng muốn em đi xa nhà ít năm.
-Vậy hả, em
Châu nói lúc nào ?
-Anh hãy tin
Mỵ Châu lúc nào cũng có nhiều tâm sự với em.
-Anh biết,
anh cũng rất thương Mỵ Châu.
Thiên Nga mỉm cười. Nụ cười trên mắt
nàng rất hiền dịu. Trong những khoảnh khắc lặng thầm với suy tưởng, ánh
sáng lạnh
màu xám tro trên đôi mắt nàng như thể hạ thấp xuống và tìm một chỗ đậu
lên hai
bàn tay của nàng.
Hai phin cà phê mang ra. Những giọt
cà phê chảy xuống đều, dần lấp kín lớp sữa dưới đáy ly.
Khi cà phê đã ngừng chảy, Nguyên nhấc
phin ra, cầm chiếc muỗng khuấy tan sữa rồi đưa cho Nga. Đến ly của
mình, Nguyên
cũng khuấy kỹ cho tan sữa vào cà phê.
Hai người mời
nhau uống. Cà phê không tệ, uống được, có chút vị thơm.
Trên khóe môi nàng, có dấu in một vệt
sữa. Nàng đẹp, luôn luôn đẹp. Nguyên nói về Quảng Trị như là một bài
giảng về
môn địa lý.
-Có đúng là
ngày xưa mẹ mở quán hàng cơm ?
-Đúng. Kỷ niệm
những ngày buôn bán của mẹ, anh nhớ cảm động.
-Em cũng
tin. Đọc truyện của Thụy viết, mọi sinh hoạt của gia đình luôn hiển
hiện trong
đó.
-Những năm ấy
anh vào học ở Huế, mỗi cuối tháng mới về thăm gia đình. Còn Thụy ở nhà,
giúp mẹ
chạy bàn cho khách. Thời kỳ đó, còn có thêm khách ăn cơm tháng.
-Anh là con
đầu nên rất sung sướng.
-Thời đi học,
anh nhớ được nhiều kỷ niệm đẹp.
-Bây giờ còn
không ?
-Còn, em cất
giữ.
Nga cười, nụ cười thật có duyên ở cửa
miệng. Ánh mắt nàng cũng cười, trong đôi mắt, những hạt cám vàng nở như
hoa.
Nga uống nốt phần cà phê còn lại.
-Kể ra, uống
cà phê là một cái thú.
Nguyên hỏi:
-Em có biết
ông Kim Thánh Thán không ?
-Không.
-Kim Thánh
Thán là một nhà phê bình lỗi lạc Trung hoa. Trong cuộc sống đẹp, ông
nói con
người có 32 cái thú.
-Ông có nói
đến thú uống cà phê không ?
-Thời xưa,
bên Tàu chưa có cà phê.
Nguyên nhớ một vài mẩu chuyện nhỏ,
anh kể lại cho Nga nghe. Nàng thích thú, và lúc mắt cười, nàng cứ nhìn
sang
gương mặt Nguyên.
Chị bán quán muốn nghe chuyện tâm
tình của ông Sĩ quan và cô gái, nhưng chị vẫn đứng bên quầy hướng mắt
nhìn về
phía bàn hai người. Một lúc lâu, mấy người khách ngồi phía bàn gần quầy
rời ghế
đứng dậy. Hai thanh niên, bốn đàn ông và hai người đàn bà. Người trả
tiền ra cửa
sau cùng. Ngoài sân, tiếng người thanh niên nói với đứa bạn:
-Vợ ông Đại
úy đẹp quá.
Đứa bạn nghe, vội quay đầu nhìn vào
trong quán. Nàng đang cười nghe chuyện Nguyên, mái tóc rung rung.
Nguyên chợt trông thấy chị bán quán
mang khay trà đến.
- Bao nhiêu
tiền cà phê đây chị ?
-Dạ, xin sáu
chục.
Nguyên mở nắp túi áo lấy tiền trả.
-Cám ơn. Mời
cô và Đại úy uống trà.
Nga tráng tách trà xong, rót hai
tách. Nguyên nhìn đồng hồ, uống xong chén trà nhỏ hai người rời quán ra
xe.
Nắng trưa tràn ngập qua cánh đồng.
Lên xe, Nguyên tra chìa khóa nổ máy. Tiếng máy nổ nghe êm,
từ phía sân chiếc xe Jeep lăn bánh ra ra đường.
Chiếc xe dừng bật đèn hiệu để rẽ, và đợi chiếc xe hàng vượt qua xong,
Nguyên mới
vào quốc lộ chính và tăng tốc độ.
Những cột cây số hiện ra trên đường.
-Đồng Hới,
60 km.
Nga quay sang hỏi Nguyên:
-Đồng Hới
thuộc tỉnh nào, anh ?
-Tỉnh Quảng
Bình, phía miền Bắc.
-Anh ra tới
ngoài đó chưa ?
-Chưa. Nhưng
anh có biết.
-Biết sao,
nói em nghe.
-Đồng Hới là
thị xã của tỉnh Quảng Bình. Ở thị xã này, nhà nào cũng có vườn trồng
hoa hồng.
-Hay nhỉ.
Nguyên tiếp lời:
-Ngày xưa,
thời chúa Nguyễn từ Quảng Bình vào đến miền Nam, người ta gọi là xứ
đằng trong.
Đây là những vùng đất mới của người di dân từ Thanh Hóa.
Đến mỗi nơi, di dân lập nghiệp sống gần nhau,
tạo thành thôn, thành xã. Cứ vậy, dân số phát triển dần dần theo cuộc
Nam Tiến.
-Anh nhớ hết
tên các vị Chúa không ?
-Không nhớ hết.
Người đầu tiên đem dân vào xứ đằng trong, lập nghiệp trên đất Ái Tử
Quảng Trị
là Nguyễn Hoàng, sử gọi ông là Chúa Tiên.
-Có bao
nhiêu đời Chúa ?
-Chín đời.
-Vị Chúa nào
giỏi nhất ?
-Chúa Hiền
Vương. Thời đó, miền Nam trải dài đến vùng Cà Mau, là công lao bình
định của
Chúa Hiền Vương. Thời của vị Chúa này, miền Nam rất hưng thịnh.
-Đồng Hới,
thị xã hoa hồng, còn tỉnh Quảng Bình có lớn hơn Quảng Trị không ?
-Cũng nhỏ
như đây thôi. Có động Phong Nha, đèo Ngang trong thơ Bà Huyện Thanh
Quan, và di
tích lũy Thầy của Đào Duy Từ.
Một giọng vui, Nga nói:
-Em khen trí
nhớ của anh. Chuyện anh kể, giống như học sinh thuộc bài hồi nhỏ.
Nguyên điềm nhiên hỏi:
-Em thấy anh
dạy môn Sử địa được không ?
Liếc mắt nhìn qua, nàng cười nói:
-Người ta đã
khen, còn làm bộ hỏi nữa.
Tới Quảng Trị, đã gần mười hai giờ
trưa. Từ ngã tư quốc lộ rẽ vào đường tỉnh, Nguyên cho xe chạy chậm.
-Em muốn đi
ăn, hay tới nhà thầy Hiệu trưởng.
-Tùy anh.
-Anh nghĩ,
giờ này thầy có ở nhà, mình tới dễ gặp.
Nga gật đầu. Phố Trần Hưng Đạo, trước
đây có tên là đường Ga, đường này dẫn từ ngã tư ngoài quốc lộ I về đến
trung
tâm tỉnh. Trong tỉnh, cũng có nhiều đoạn ngã tư, ngã ba, mỗi ngả đi về
một dãy
phố, sinh hoạt quần tụ, liên kết, nối tiếp nhau như những con đường
ngang dọc
trên một bàn cờ. Khi xe vào trung tâm phố chính, Nguyên chú tâm lái còn
Nga đưa
mắt nhìn quang cảnh sinh hoạt phố vào giờ này tấp nập, đông vui. Tiếng
nói người
Quảng Trị nghe nặng thật, Nga mỉm cười nhưng không nhìn sang Nguyên. Trước khi đến ngã tư, con đường Trần Hưng Đạo
có một cửa hiệu chụp ảnh và hai cửa hiệu sách.
-Em không thấy
có hiệu thuốc tây.
-Chỉ có một
hiệu thuốc tây nằm trong khu chợ.
Nguyên dừng xe ở ngã tư chờ cho người
đi bộ băng qua đường, rồi rẽ phải vào đường Quang Trung. Nga hỏi:
-Thầy Hiệu
trưởng dễ chịu không anh ?
-Thầy là một
người rất mẫu mực, tính tình thật điềm đạm.
-Thời anh
còn học, thầy đã làm Hiệu trưởng chưa.
-Rồi, thầy
nhận chức Hiệu trưởng đúng vào niên khóa anh lên lớp Đệ Tam.
Nga lại hỏi:
-Theo ý anh,
thầy nhận em dạy không ?
-Em đừng lo
lắng. Anh đã nói chuyện trước với thầy rồi. Và, thầy còn mong nữa.
Trường đang
thiếu giáo sư phụ trách môn hội họa.
-Em cũng
nghĩ môn này, ít giáo sư tốt nghiệp trường Mỹ Thuật nên thầy dễ nhận.
-Nếu em muốn
dạy các môn phụ Việt văn, Nhạc, Sử địa, anh sẽ nói với thầy.
-Em dạy môn
Việt Văn được không ?
-Sao mà
không được. Em có Tú Tài văn chương, thêm một năm Dự bị nữa, quá đủ
điều kiện.
Nga cảm thấy mình hết sức hưng phấn
trong sự khích lệ của Nguyên. Ngoài môn Họa ra, nàng sẽ dạy thêm vài
môn khác nữa.
Một giọng hồi tưởng rất ân tình,
Nguyên nói với Nga về tiểu sử của người
thầy và ngôi trường cũ.
-Thầy quê ở
Cam Lộ, có bà con bên bà ngoại. Năm 1950, thầy thi đậu Tú Tài ban Cổ
ngữ. Vì Huế
lúc đó chưa có trường Đại Học nên thầy về Quảng Trị với ý định làm nghề
giáo.
Năm 1951, thầy ở trong ban Hội đồng tỉnh vận động xin mở trường trung
học, đầu
tiên trường lấy tên Quảng trị, sau đổi thành Nguyễn Hoàng, tên trường
này chính
thức được Bô Giáo dục chấp nhận. Những năm trường mới mở, thầy dạy các
môn Anh,
Pháp, Việt Văn. Niên khóa 1958-1959, từ chức vụ Giám học thầy được bổ
nhiệm làm
Hiệu trường cho tới bây giờ.
-Anh còn nhớ
thật là rõ chi tiết .
-Ở Quảng trị,
thầy là một biểu tượng không chỉ riêng ngành giáo dục mà còn là nhân sĩ
của tỉnh.
Một lá thư gởi đến thầy, không cần ghi địa chỉ, người Bưu tín viên cũng
đưa đến
tận tay.
-Anh rất là
giỏi, em khen anh.
-Cám ơn em.
-Đồng ý,
nhưng chỉ cần nói một lần thôi. Lập lại nhiều lần, em cất không hết.
Xe dừng bên ngoài đường, cách đường
kiệt vào nhà thầy Hiệu trưởng khoảng vài chục mét. Nguyên và Nga xuống
xe đi bộ.
Trên đường đi, Nguyên còn nhớ lời của
thầy Hiệu trưởng nói với anh lần gặp trước đây.
-Hay lắm,
trường Nguyễn Hoàng cũng đang thiếu thầy.
Và, nhớ lời thầy tâm sự:
-Ai đến dạy
học ở Quảng trị cũng thương thành phố này.
Nga cầm lấy tay Nguyên. Hai bên đường
kiệt chỉ mọc lên vài căn nhà, và nhà thầy Hiệu trưởng ở cuối hết.
Cái bóng một người đàn ông dáng vừa
cao trong bộ quần áo nhẹ màu lam đang chăm sóc mấy chậu hoa, đó là thầy
Hiệu
trưởng. Đến trước cổng, cả Nguyên và Nga dừng bước đợi, mắt chăm chú
nhìn người
chăm sóc mấy bông hoa, nhưng cả hai không lên tiếng gọi. Bất chợt,
người đàn
ông ngẩng đầu lên nhìn ra cổng, vừa ngạc nhiên, vui mừng. Đến bể nước
rửa tay
xong, thầy ra cổng mở cửa.
-Mời hai em
vào nhà.
Trước sân là giàn hoa giấy có bông hồng,
bông trắng nở rất đẹp. Có một bức bình phong và nhiều chậu hoa sắp
thành hàng.
Hoa lan có giàn riêng, mỗi chậu có móc hai vòng thép
để treo lên giàn, bên dưới giàn là một bể nước
hình chữ nhật vừa nuôi cá, vừa dùng lấy khí mát giữ độ ẩm ướt cho tốt
những giò
lan để lan được sống lâu.
Nhà lợp ngói âm, quay lưng với mặt
đường phố, từ cổng sân nhìn qua hồ nước, phía trước là một cánh đồng
ruộng, nhưng
đất ruộng không phải là sở hữu của gia đình.
Phòng khách để chiếc bàn dài chính
giữa, bốn ghế đẩu. Bàn gỗ đánh véc ni sáng bóng. Trên bàn có sẵn khay
trà, bình
trà, hộp trà, và một chiếc bình thủy. Nhà thường có khách hay viếng nên
chủ
nhân lúc nào cũng có sẵn trà nước để đón tiếp . Hai người khách ngồi
yên lặng,
thoáng để mắt quan sát cách bài trí , nổi bật là những bức hình chạm
trổ và những
chữ nho dát vàng trên mỗi câu đối. Người thầy đang pha trà, vừa hỏi mấy
câu
chuyện với khách.
Nước sôi đổ đầy trong ấm. Sau một
phút đợi ra trà, thầy rót trà vào ba cái tách. Rất lịch thiệp, thầy đưa
tách
trà qua cho cô gái, giọng vui nói:
-Mời cô giáo
mới của trường tôi.
Nga rất vui, nàng nói
như reo lên:
-Như vậy, thầy
đã nhận em vào dạy cho trường.
-Không nên
giải thích nhiều.
-Em cám ơn
thầy.
-Không có
chi đâu.
Ba người cùng nâng tách, uống một hớp
trà. Nguyên hỏi:
-Năm tới,
trường có mở thêm lớp không thầy ?
Một giọng chậm rãi, người thầy nói:
-Có xin,
nhưng hẳn còn chờ phụ huynh đóng góp và ngân sách của tỉnh cho.
Tiếp lời, thầy nói:
-Mỗi năm, học
sinh vào trường một nhiều. Nhưng trường lại thiếu lớp, thiếu thầy. Tỉnh
Quảng
Trị ở cuối miền Nam, đầu vùng giới tuyến nên ai cũng ngại đến vì lo sợ
an ninh
và chiến tranh. Nhưng đến đây dạy, tình người dân và học sinh của tỉnh
chân chất,
ai cũng yêu mến, lúc ra đi đều luyến tiếc. Nhưng trong cuộc sống, hoàn
cảnh mỗi
người một khác, nên ở Quảng Trị, nơi này có tình nghĩa mấy cũng chỉ giữ
được
các giáo sư tới đây dạy học chừng một hai, ba năm là cùng. Năm tới, một
số thầy
của trường cũng đã xin đi.
-Dạ, tiếng
Nga đáp rất nhỏ.
Nàng đưa mắt nhìn vị thầy, thấy một
nỗi băn khoăn hiện rõ trên gương mặt một con người lương tri, và đang
giữ lấy tấm lòng.
-Uống trà đi
em.
-Dạ.
Nguyên chợt hỏi:
-Cuốn sách
thầy viết được tới đâu rồi ?
-Được hơn một
nửa. Về những chương sau này, tài liệu rất khó tìm.
Giọng rụt rè, Nga hỏi:
-Thầy có soạn
sách.
Một cái gật đầu nhẹ, thầy Hiệu trưởng
nói:
-Có. Tôi
đang soạn một cuốn sách về địa lý, danh nhân và văn hóa tỉnh Quảng trị.
Sách
biên khảo này, cần có tài liệu chính xác nên không thể viết nhanh được.
Nguyên tiếp lời thầy, nói với Nga:
-Thầy là người
Quảng trị, sống trong tâm tưởng quê nhà, ở đây thầy xây dựng trường học
và gắn
bó với trường đã bao nhiêu năm. Học sinh trong mỗi thế hệ đều rất quí
thầy, và
luôn nhớ đến thầy. Nhưng với bao nhiêu công việc của trường, thầy không
thể
cáng đáng nổi một mình. Như lúc nãy qua lời thầy tâm sự , ai dạy ở đây
cũng qúi
mến tình người dân và học trò, nhưng họ không thể nào ở lâu, vì cần
phải theo sự
thăng tiến trong ngành.
Chiếc quạt trần vẫn quay đều, nhẹ
nhàng từ lúc ba người trò chuyện. Bất chợt, có bóng người đàn bà mặc áo
dài, đội
nón Huế, đẩy cánh cửa cổng vừa dắt xe đạp
đi vào sân. Người đàn bà để ý, mắt nhìn vào trong, thầy Hiệu trưởng nói:
-Nhà tôi đó.
Khi người đàn bà xuất hiện, cả
Nguyên và Nga đứng lên chào. Một giọng thân tình, người thầy nói:
-Đây là cô
Thiên Nga, hôn thê của anh Nguyên. Niên khóa này, cô sẽ dạy ở trường
Nguyễn
Hoàng.
Cô Ý Tâm là vợ của thầy Hiệu trưởng.
Với Nguyên, cô đã quen biết, còn rất thân tình nữa. Trước đây, cô học
trên
Nguyên đến hai lớp, và thời kỳ ấy, học sinh mỗi lớp và cả trường không
đông lắm
nên cũng dễ biết khi gặp nhau. Bây giờ, Nguyên đã trưởng thành, là một
Sĩ quan.
Ý Tâm rất ngạc nhiên, nhưng mắt vui
được gặp một thiếu nữ xinh đẹp.
-Hay
quá, rất là hay, nàng nói - nhìn qua
Nguyên đoạn tiếp lời - Nguyên thật là có tình với Quảng Trị, đem cho
thành phố
nhỏ một bậc hoa khôi nhi nữ. Ai đây nhỉ, các cô giáo trong trường, các
cô nữ
sinh, có đem ra so sánh được với Thiên Nga của Nguyên không ?
-Thưa cô,
quá khen em.
-Không. Mình
nói thực mà, Nga hỏi anh Nguyên đi.
Thầy Hiệu trưởng qua ngồi ghế bên,
nhường chỗ mình cho vợ ngồi. Trong lúc thầy dời chỗ, Thiên Nga cầm bình
trà rót
vào tách để mời cô chủ nhà. Ngồi đối diện với Thiên Nga, Ý Tâm nhìn
nàng với
đôi mắt vui, hạnh phúc và thiện cảm.
-Ra đây dạy
học, Thiên Nga ở nhà ai ?
-Em có thuê
chỗ nhà người quen.
-Nếu chưa
tìm ra, mình giúp cho.
-Cám ơn cô.
Em tìm được chỗ rồi.
Bàn khách bốn người. Câu chuyện thân
tình giữa khách và chủ như người trong gia đình. Nhưng thời gian ngồi
lâu, Nga
cũng lo lắng khi nhìn lên đồng hồ treo tường.
Ý Tâm, bằng một giọng quả quyết nói:
- Nguyên và
cô Thiên Nga ở lại ăn cơm trưa với gia đình.
Hai người, Nguyên và Thiên Nga thật
khó chối từ.
Thầy Hiệu trưởng tiếp lời vợ:
-Hai em ăn với
gia đình thầy một bữa cơm. Người Quảng Trị chân tình lắm cô Nga ạ. Còn
Nguyên,
từ năm em rời xa trường đến nay đã lâu lắm.
Giờ ăn tuy hơi trễ, nhưng có được
cái tình cũ của người thầy và học trò. Thiên Nga đứng lên cùng với cô Ý
Tâm xuống
gian bếp. Bốn đứa con, hai trai, hai gái được mẹ giới thiệu với cô giáo
mới,
các em cùng vui sướng, khoanh hai tay ra trước ngực vừa cúi đầu chào.
Thiên Nga được cô Ý Tâm cho biết tên
mỗi em.
Gian bếp rộng, bày biện ngăn nắp. Lò
bếp được nấu bằng ga, rất tiện lợi. Nồi canh và các món đã nấu sẵn được
làm
nóng lại trên lò bếp trước khi đem dọn ra trên dĩa. Cô con gái lớn lau
chén
bát, đũa để vào mâm. Cô em kế, lên nhà trên trải khăn bàn ăn. Ngồi lại
ở nhà
trên, Nguyên và người thầy bàn chuyện một cuốn sách. Nguyên nói:
-Em nghĩ, cuốn
sách rất là cần thiết cho độc giả.
-Theo ý
em, có nên xuất bản không ?
-Thầy đã bỏ
công lao nghiên cứu, biên khảo, sách cần phải được in.
-Ở ngoài
này, tỉnh không có nhà in.
-Huế có hai
nhà in, Thuận Hóa và Đại Học. Thầy cứ viết cho xong, em sẽ giúp thầy in
thành
tác phẩm.
-Hay quá. Thầy
cố gắng hoàn tất.
Bữa ăn được dọn lên chỗ bàn ăn đặt gần
cửa sổ. Lúc nãy dưới bếp, đứng bên nhau trò chuyện , Ý Tâm rất là thích
thú được
nghe tiếng nói của Thiên Nga, và được nàng kể một câu chuyện về buổi
đầu tiên gặp
Nguyên ở quán cà phê. Lòng Ý Tâm, vui,
trong sáng, hãnh diện mình được trở thành người chị của cô gái. Các
cháu cũng
quấn quit bên mẹ và cô giáo Nga. Cậu con trai út nói:
-Mẹ để cô
Nga dạy lớp con nghe.
Ý Tâm cười bảo:
-Mẹ đâu có
quyền, con phải nói với ba.
-Em học lớp
mấy ?
-Con học lớp
Đệ Thất.
-Vậy là nhập
học lên Đệ Lục.
-Dạ.
Trên bàn ăn bốn cái ly cao dùng cho
người lớn, ly vừa cho đám true nhỏ. Mỗi chai xá xị được khui đổ vào một
ly có
nước đá. Bốn đứa con, hai đứa được một chai. Khi nhìn gương mặt mỗi đứa
con của
thầy cô Hiệu trưởng, Thiên Nga cũng thầm ước hạnh phúc gia đình cho
nàng và
Nguyên sau này.
Bữa ăn thân tình qua tiếng trò chuyện
của người lớn, bốn đứa nhỏ vừa ăn và cố chỏng tai nghe. Thằng út tên ở
nhà là
Bin, thèm được hỏi chuyện cô giáo, nhưng sợ mẹ không cho, nó chỉ nhìn
ngắm cô
giáo thấy cô hiền, đẹp, dễ thương, ước mong vào niên khóa được học với
cô thôi.
Giọng người thầy luôn chậm rãi, đều
tiếng trong cung cách thật điềm đạm. Nguyên nói:
-Anh Bảo
đang dạy học ở Đà Nẵng.
Trong sự gợi nhớ, người thầy nói:
-Trường Nguyễn
Hoàng có được nhiều học sinh giỏi, ra đời cũng thành danh.
-Có anh nào
trở lại dạy cho trường không thầy ?
-Có vài em
thuộc lớp sau Nguyên.
Trong một thoáng hồi tưởng, gương mặt
Nguyên bỗng tỏa sáng, anh nói:
-Em thuộc
vào lớp học sinh đầu tiên trường được công nhận tên Nguyễn Hoàng của Bộ
Giáo Dục.
-Có thực
không ?, Ý Tâm hỏi.
-Em nhớ rõ.
Lớp đầu tiên của cô, lúc đó trường còn mang tên Quảng Trị của tỉnh.
Ý Tâm hỏi chồng:
-Có đúng
không anh ?
-Nguyên nói
đúng. Hai năm đầu em lên trung học, trường chưa đổi tên mới.
-Anh Bảo và
cô là cùng một lớp đầu. Khi trường đổi tên, đúng vào năm cô ở lớp Đệ Tứ.
-Nguyên nhớ
giỏi ghê.
Thiên Nga được nghe chuyện ba người
bàn cãi, cảm thấy vui. Ý Tâm làm bộ vừa nghiêm, một giọng vui nói với
Thiên
Nga:
-Chị là học
trò của thầy. Lớp học sinh trung học đầu tiên của trường Quảng Trị.
Thiên Nga ngạc nhiên, trên gương mặt
đỏ ửng. Và lúc ấy, nàng cũng ngừng đũa sau một bữa cơm khách ăn thật
ngon miệng.
VIII
Ngày chủ nhật, vào giờ này mới là đầu
buổi chiều trong thành phố, ngồi trên xe Thiên Nga mặc áo dài tím sang
đẹp
như một bà hoàng. Nguyên lái xe chạy xe
lòng vòng quanh những con đường, những nơi chốn cũ quen thuộc, mỗi nơi,
anh kể từng mẩu chuyện cho người yêu
nghe. Và, như thế này, bạn có ngay cảm tưởng được nhìn thấy Thiên Nga
khắp nơi.
Từ trong một quán cà phê, tiếng hát
Khánh Ly cất vọng:
Có đường phố nào vui cho ta qua một
ngày
Có sợi tóc nào bay trong trí nhớ nhỏ
nhoi.
-Anh thích
nhạc Trịnh Công Sơn không ?
-Không.
-Hoàn toàn
không.
Nguyên gật đầu.
Quán cà phê bỏ lại đằng sau, tiếng
hát mất hút. Nga không hỏi thêm, nhưng Nguyên cũng nói ra ý nghĩ của
mình.
-Nhạc của Trịnh
Công Sơn là nhạc dành cho người chết hát. Người chết trong đó cũng có
rất nhiều
những góa phụ chiến tranh. Khi em nghe Khánh Ly hát, lời ca và tiếng
hát như là
vọng âm của các oan hồn.
-Trời, anh đừng
làm em sợ. Lúc nãy nghe mấy câu Khánh Ly hát, em thấy hình ảnh đẹp,
sinh động ,
hay lạ lùng.
-Bài hát đó
cũng là oan khuất, ước mong của người chết được sống trở lại trên trần
gian.
-Em cũng thấy
lạ về anh, một người lính mà không sợ hãi nỗi đe dọa của chiến tranh.
-Anh rất ý
thức và phân biệt đúng về lịch sử và chiến tranh.
Thiên Nga hơi ngả người phía sau lúc
đưa hai tay sửa lại mái tóc. Trong khu hành chánh tỉnh, những con đường
yên vắng,
vỉa hè có lát đá và cây cối rất xanh. Xe chạy chậm, Nga có cảm tưởng
đây như là
khu phố cổ, tường thành rong rêu, những ngôi nhà ngói nâu, rồi bất ngờ
ngôi nhà
Bưu điện tỏa sáng lên một màu ngói đỏ , name bên kia cạnh ngả ba là thư
viện của
thành phố.
-Có phải chỗ
này là khu phố cổ.
-Em nghĩ vậy
cũng đúng. Đây là khu cổ thành, thành Đinh Công Tráng.
-Miếu đôi nằm
ở đâu ?
-Bên kia
thành, ngoại ô đầu tiên của thành phố có một con đường rộng dẫn xa ra
đến biển.
Nhưng sao mà em biết Miếu Đôi.
-Em có đọc một
truyện ngắn của Thụy viết về cô giáo Trâm, lớp học là mái nhà tranh,
sân chơi
có cây trứng cá, bên kia là một đầm sen.
-Ngày xưa, tỉnh
lỵ nghèo, Ty giáo dục phải mướn nhà dân cho học sinh có chỗ học.
Nga im lặng nghe, không nói gì. Nguyện
chợt hỏi:
-Em nghĩ sao
?
-Đây là quê
hương của tình người.
-Em có tâm hồn
thi sĩ.
-Anh cứ tưởng,
em chỉ biết về họa thôi sao ?
-Không đâu,
em còn tài hoa với những ngón tay xinh đẹp trên phím đàn dương cầm.
Thiên Nga đưa tay qua tát yêu bên má
Nguyên, anh và nàng cùng cười với hạnh phúc của tình yêu.
-Em học nửa
chừng, tự dưng bỏ. Nếu chịu khó học thêm vài năm nữa, giờ em sẽ đàn
thuần thục
hơn.
-Trong sự dang
dở, đôi khi cũng cái hay.
-Thôi đi,
ngài Đại úy.
-Thực chứ. Sự
dang dở luôn làm mình nghĩ mà tiếc. Nhưng trong đó, mình hoàn toàn rất
thành thực
khi nhớ đến.
-Cuối cùng,
em đã hoàn tất bốn năm ở trường Mỹ Thuật.
-Có vậy, em
mới thấy mình rất tự tin.
-Anh nói
đúng.
Thật quá bất ngờ, dòng sông trải rộng,
nước xanh biếc hiện ra như là một bức tranh vẽ. Và, nó gây ngạc nhiên
đến độ
Thiên Nga thấy mình như đang khác hẳn đi.
Nguyên đang cho xe chạy trên con đường
dọc bờ sông. Dòng sông miên man chảy, gió ập tới thổi tung mái tóc
nàng, một cảm
giác ngây ngất đến mê lịm đi. Rồi định thần trở lại, nàng bắt đầu nhìn
quang cảnh
dòng sông. Đây là con đường Gia Long, nước dòng sông thật êm đềm đang
chảy bên
dưới, trên đường những hàng cây cao nối tiếp nhau. Nắng chiều cũng đã
làm đẹp
dòng sông bằng những dải khăn lụa vắt qua hai bờ. Xe chạy trên con
đường ven
sông, mỗi lúc, nàng thấy dòng sông đã trải ra một mái tóc thiên nhiên
giữa một
quê hương đứng ở hai bờ.
-Sông này
tên gì anh ?
-Sông Thạch
Hãn.
-Tên dòng
sông như tên một vị tướng.
-Mùa nước
lũ, nước sông dâng cao lắm.
Thiên Nga nhìn qua sông, phía bờ bên
kia nắng đã lặng chìm nằm im trên một nửa bãi. Nửa bãi trong bài thơ
Ngậm Ngùi
của Huy Cận. Nàng cất tiếng hát, bên dưới ấy, nước và dòng sông miên
man.
Xe chạy hết con đường ven dòng sông,
lên tới cây cầu, Nguyên cho rẽ trái nhập vào đường quốc lộ , hướng
thẳng con đường
này đi Huế.
-Má nói với
em, ngày mốt nhà có đám giỗ.
-Em tính
ngày nào vào nhà ?
-Anh được
nghỉ mấy ngày ?
-Anh xin nghỉ
lúc nào cũng được. Về hậu cứ công việc trở lại bình thường.
-Em không bận
tâm gì hết, việc hôm nay đã xong.
-Việc của
em, không khó khăn. Anh chỉ ái ngại, ở Quảng trị một mình em lại lo
lắng, và nhớ
nhà.
-Không sao cả.
Với một nụ cười thương yêu, nàng nói
như chỉ là để mình nghe.
-Hương xa của
cuộc đời.
-Mỗi tuần em
dạy chừng 16 tiếng, trong ba buổi.
-Em vẫn mơ một
cuộc triển lãm tranh mình.
-Cuốc sống mới
sẽ là nguồn hứng cho em sáng tác.
-Ngài Đại úy
nói đúng.
Trong câu chuyện, lúc này, muốn kéo
dài hay lan man tới đâu cũng được. Ngày chủ nhật, có vẻ như là một ngày
hạnh
phúc của đời sống. Con người vui, thiên nhiên hài hòa, và ở đâu, cảnh
vật cũng
được sắp xếp như thể làm cho bạn có cảm tưởng các thứ quần áo sạch sẽ,
thơm
tho, được cất vào tủ hay là chiếc va li. Ngày mai tới, bắt đầu một ngày
bận rộn.
-Bao giờ chiến
tranh mới kết thúc anh nhỉ.
-Anh cũng rất
nhiều lần thao thức với câu em hỏi.
-Em thấy đất
nước mình có thiên nhiên quá đẹp, gắn bó, và rất ân tình.
Nhưng rồi bao nhiêu cuốn sách học về
các môn Sử, Địa lý là sức mạnh vô song mà cũng không tìm ra được cách
nào để dập
tắt khói lửa.
-Lịch sử của
đất nước mình chỉ được nghe trong tiếng hát.
Nguyên lặng im suy nghĩ rất lâu.
Nàng đang nói, bất chợt giật mình, cứ tưởng phút giây qua là ảo vọng.
Khi nghe tiếng rúc còi của đoàn tàu,
trên quốc lộ đoàn xe bắt đầu giảm tốc độ chạy chậm lại. Khói đầu máy
tàu dâng
lên cao, đoàn tàu đang đi qua một chiếc cầu.
Nhiều chiếc xe ngừng xa trạm gác bên
cây cầu chừng trăm mét. Đám trẻ bán quà rong từ trong ngôi chợ gần đó
túa ra, vội
vàng đi qua từng xe cất tiếng rao.
-Bé con, lại
đây.
-Bánh nóng
không ?
-Mới nấu,
thưa cô.
-Cho cô năm
chục cái.
Con bé lấy bánh trong rổ cho vào túi
nylon màu cam, rồi nhận tiền của nàng đưa.
Khi người bẻ ghi móc lại cây đèn báo
động, cánh cổng giở cao, bọn trẻ hàng rong tản mác chạy về khu chợ.
Đoàn xe nối
nhau qua cầu. Từ các chuyến xe hàng đậu ở
trước, tiếng ca nhạc từ trong radio vọng ra ngoài, rộn ràng, háo hức.
Thiên Nga trải rộng tờ báo trên
chân, bắt đầu bóc lá. Bánh còn nóng, bóc xong một chiếc, nàng đưa qua
cho
Nguyên. Với một chục bánh lọc gói lá ăn dặm, tuy không có nước mắm,
nhưng bánh
mềm nóng, dẻo thật ngon.
-Tối nay
mình đi cơm tiệm hay ở nhà.
-Có em, anh
vui, cứ vậy mà mình hưởng cơm nhà, quà của vợ.
-Có chắc
không đấy.
-Em là đơn vị
trưởng, lúc nào anh cũng theo lệnh cắm trại 100%.
-Không tin
đâu, anh lông bông lắm. Hồi trước, quen
một cô nhân viên Bưu điện, tuần nào anh cũng đến gởi thư và đánh điện
tín cho
Thụy.
Nguyện lặng im. Đường quốc lộ mới sửa
xong, mở rộng thêm vài đoạn và lớp nhựa đổ dày nên xe chạy rất êm.
-Đúng không,
ngài Đại úy.
Nguyên chỉ lặng cười trên cặp mắt,
nhìn anh nàng cười theo. Rồi, nàng gói tờ báo lại để dưới chân.
Huế, 8km. Nhà ga nằm bên phải quốc lộ.
Không có tàu, không có khách, có hai chiếc toa hàng hóa nằm bên đường
ray phụ.
Nhà ga này không có tháp nước.
Nga nói:
-Sáng thứ
tư, em vào nhà.
-Đến lúc nào
em trả lại nhà thuê cho bà Huyên.
-Bà Huyên nhận
em làm con nuôi.
-Em nói sao
?
Nga kể lại chuyện hôm gặp bà Huyên
liên quan đến bức vẽ chân dung. Nguyên nói:
-Dì Kim Miên
là bạn học cùng lớp với bà Huyên.
-Lạ không,
lâu nay em anh không nghe nói.
-Bà Huyên có
cuộc đời cũng bí ẩn.
-Em cũng hiểu
như anh vậy. Bà là người tốt, phải không anh.
Nguyên gật đầu, tiếp lời thêm:
-Người phụ nữ
trí thức hiếm có. Một hôm nào đó, em nhắc dì Kim Miên cho bà hay.
-Nay dì ấy ở
đâu ?
-Dì mất năm
anh lên sáu tuổi.
-Vậy sao mà
anh biết bà Huyên là bạn học của dì.
-Biết chứ.
Không cần Nguyên giải tích rõ thêm,
Nga vẫn tin. Trong gia đình bên mẹ, dì Kim Miên là chị dì Quyên. Nguyên
chợt thấy
xuất hiện một mảnh trời của tuổi thơ, ngày xưa đó, bóng dáng ông bà
ngoại, các
cậu dì mặc đồ tang đứng trước quan tàu dì Kim Miên. Dì Miên mất vì đau
bệnh
thương hàn, thời đó, thuốc ngoại chữa trị rất là hiếm hoi. Dì đã lấy
chồng,
nhưng không con cái. Chú ấy theo kháng chiến, chỉ được biết tin của dì
mất mấy
tháng sau đó. Rồi chú ấy, cũng ngã gục ngoài chiến trận trong một đánh
ác liệt
giữa quân đội Việt Minh và Pháp ở mặt trận biên giới Lào.
Trên vẻ mặt buồn trong một thoáng hồi
tưởng, ánh mắt Nguyên tự nhiên xa vắng như gởi một cái nhìn tới tận nơi
đâu.
Anh cũng nhớ lại về mình, về đoàn công tác vừa qua trong những ngày lên
tiền đồn,
và anh nhớ rất rõ từng diễn tiến cuộc chạm
súng của đơn vị Tiểu đoàn và Cộng quân.
Nga chợt hỏi Nguyên:
-Trong nhà,
mẹ là chị c?.
-Mẹ, dì Kim
Miên, dì Quyên rồi đến cậu Nghiêm.
-Ủa, cậu
Phiên, dì Ngọc là sao ?
-Hai c?u dì
em nói là con của bà ngoại em.
-Vậy ông ngoại,
hai bà cũng là hai chị em ruột.
Nguyên gật đầu đắc ý. Nga mỉm cười,
chợt hỏi Nguyên:
-Anh thì sao
?
-Anh là của
Thiên Nga.
Nàng không hỏi chàng điều gì nữa. Nụ
cười giữ hạnh phúc thật lâu trên cặp mắt
nàng. Về tới Huế, Nga cảm thấy sự yên
bình sau một chuyến đi. Nàng thở nhẹ, cảm thấy hài lòng.
IX
Trong thành phố Quảng Trị nhỏ bé
này, Thiên Nga được coi là khuôn mẫu về cả đức hạnh và nhan sắc. Nàng
rất thẳng
thắn với các bạn đồng nghiệp bên nam cũng như bên nữ, còn học sinh các
lớp dạy,
nàng rất yêu mến , luôn khích lệ sự học tập các em cho tất cả các môn
và, không bao giờ nàng phân biệt bất cứ
một em
nào cả. Nàng có thể vượt hơn nhiều phụ nữ
khác trong sự thể hiện tinh thần giáo dục qua tính cách một người làm
công tác
từ thiện.
Thành phố Quảng Trị thật là xinh xắn
nhờ lối kiến trúc do người Pháp xây dựng. Trên
các khu phố chính, đường nào cũng có một dáng dấp
mùa thu với nhiều ngôi
nhà còn tươi màu ngói đỏ, bóng xanh mát của từng hàng cây trồng bên
đường.
Bên này và bên kia con sông, đời
sống luôn được khơi day ( chuyển mình qua
một ý niệm, từ bên trong và bên ngoài dòng sông chảy. Nhà Thiên Nga
thuê ở trên
đường Gia Long, đây là một con đường tình tự của buổi chiều, và của
những tà áo
trắng bên dòng sông.
Bến Hộ nằm ở ngay đầu ngã ba đường
Gia Long và đường nhà đèn. Bến xây bằng đá lát, sạch sẽ, nơi bến này
nước rất
trong và sâu. Nhà Thiên Nga thuê nằm phía trên, cách bến chừng khoảng
trăm thước.
Căn nhà có gác riêng, cầu thang phía sau, và một mái hiên gác ở phía
trước . Từ
chỗ đứng ở hiên gác, buổi chiều Thiên Nga có thể phóng một tầm mắt xa
để nhìn
các làng mạc và những cánh đồng lúa, những hàng tre, hàng dừa, để cảm
thấy một
sự rung động chân tình trước cảnh đồng quê thật êm ả. Nhưng, với nàng,
đẹp và
quyến rũ nhất là vào buổi sáng sớm, bạn được nhìn thấy
dòng sông sương mù bao phủ. Khung cảnh
hoàng hôn cũng thật kỳ diệu, lúc ráng đỏ hừng lên, đó là lúc trí nhớ
của dòng
sông nghe một tiếng ai vừa gọi vô cùng thân thương và xa vắng.
Nguyên chỉ có một ngày chủ nhật cuối
tuần ra thăm Nga rồi trở lại Huế trong ngày. Và, anh luôn chia tay với
nàng lúc
mặt trời sặp lặn. Trên đường về, Nguyên nhớ Thiên Nga da diết. Vào
những phút
giây đó, anh ước mong vô cùng cuộc chiến tranh kết thúc, rồi từ cuộc
sống yên
bình của đất nước, anh và nàng sẽ được sống mỗi ngày, mỗi người làm
những công
việc theo ý thích và khả năng của mình, và cả hai luôn có những đêm
trăng thu
ngồi tình tự trước thềm cửa nhà, đến hai ngày cuối tuần, hai người dã
ngoại vui
với đời sống thiên nhiên, mà, với họ, vẫn trời mây, biển, núi, sông
nước, ao hồ,
nhưng mỗi sự hiện diện bằng hình bóng của họ là mỗi cảnh trở nên khác
đi. Từ cảm
nhận đó, họ nhận ra, quê hương là một tấm lòng.
Tối đến, cơm nước xong Thiên Nga ngồi
soạn bài trong một cuốn tập giấy ca rô đóng bìa thật khéo. Ngoài môn
dạy Họa là
chính, nàng còn phụ trách thêm Việt Văn và Địa lý ở hai lớp nhỏ Đệ Thất
và Đệ Lục.
Trong bài soạn, Nga làm một dàn bài chính, rồi ghi vào phụ chú những
chi tiết cần
giảng. Ở lớp, nàng không đứng giảng mà không cần sách hay xem bài soạn,
với
nàng, trách nhiệm việc giảng dạy luôn phải cẩn trọng thấu đáo. Trong
giờ dạy, cứ
giảng xong một phân đoạn, nàng trở lại bàn, xem trong cuốn tập soạn bài
đề mục
tiếp, rồi nhẹ nhàng bước ra bục giảng. Vào giờ nàng có mặt ở lớp, các
em học
sinh rất ngoan ngoãn, hồn nhiên, đứa nào cũng chăm chú để hiểu bài, và
đứa nào
cũng rất muốn bày tỏ sự yêu thương, quí mến nàng. Khi học môn Địa lý,
điều
chúng thích nhất là hình vẽ bản đồ các nước, nàng vẽ, dùng cả phấn
trắng và phấn
màu khiến chúng thấy thích thú, ham học, vì nó đẹp mắt. Ở môn Việt Văn,
giọng đọc
thơ của nàng nghe thật êm ái, truyền cảm, nhưng giờ chúng thích nhất là
giờ hướng
dẫn thuyết trình các sách truyện mà chúng theo từng nhóm cần phải đọc
và trình
bày.Với 20 giờ dạy, mỗi tuần phụ trách sáu lớp, Thiên Nga dồn hết trong
ba
ngày, từ thứ hai đến thứ tư. Từ hôm lễ khai giảng, bắt đầu trở thành cô
giáo
trung học, Thiên Nga không tránh khỏi niềm ái ngại, vừa lo âu về khả
năng giảng
dạy của mình, nhưng rồi, người đem lại nghị lực và sự tự tin, vượt
thắng cho
nàng là Nguyên. Thêm vào đó, có thầy Hiệu trưởng, luôn quan tâm coi
nàng như một
người em. Khi nhắc đến Nguyên, người thầy tỏ ra hài lòng, mãn nguyện.
Vào hôm ấy,
trong bữa cơm khách với gia đình thầy, Thiên Nga cũng biết thầy đang
biên soạn
một cuốn sách giá trị, những lúc gặp ở trường, nàng thay Nguyên hỏi
đến, và
nàng hứa với người thầy rất đáng quí mến, khi nào cuốn sách hoàn tất
đem in,
nàng sẽ giúp thầy vẽ bìa sách.
Thời gian của một niên học đã qua
hai tháng. Nga đến trường đều đặn với các giờ dạy sáng chiều ghi trong
thời
khóa biểu. Nàng đi và về bằng xe đạp. Không chỉ học sinh lớp nhỏ quí
mến nàng,
mà học sinh lớp lớn dù không học, nhưng vẫn có lòng ngưỡng mộ và rất
thiện cảm
với nàng. Và, với đồng nghiệp, nàng không để mất lòng ai cả. Nàng chỉ
gặp gỡ,
trò chuyện với đồng nghiệp ở trường, không bao giờ nàng tiếp ai ở nhà
riêng cả.
Nguyên đã đeo chiếc nhẫn đính hôn vào ngón tay của nàng, nên không còn
một ai
khác trong tâm tưởng của nàng. Nàng luôn nhớ đến Nguyên trong bữa ăn
tối dưới
ánh đèn, những buổi sáng thức dậy sớm, và đôi lúc buổi chiều về đến nhà
nghe những
tiếng bước chân lên cầu thang nàng có cảm giác anh bên cạnh nàng.
Bỗng dưng tiết trời trở bất
thường gây nên bệnh cúm. Trong thành phố,
không khí như ngưng đọng, ngột ngạt , dưới một bầu trời đầy những tảng
mây đen
xám đang nặng nề di chuyển.
Thiên Nga mắc bệnh cúm, vì thế ý định
vào Đà Nẵng thăm nhà đành dời đến dịp sau. Buổi sáng nay lúc rời nhà,
đến cửa
hiệu thuốc tây nàng phải đem theo áo mưa, và mặc cả áo ấm. Hiệu thuốc
tây nằm
trong khu chợ, ngay trước con đường Hoa Viên. Đây là con đường dài
khoảng bốn
trăm mét, dẫn ra tới bờ sông. Nơi này, có một cái bến dành cho thuyền
bè của những
người buôn hàng ở các làng xa đến. Họ đem bàn các thứ nông phẩm, trái
cây, và
mua lại những thứ thuốc men, vải vóc, những mặt hàng tạp hóa tiêu dùng.
Khu chợ
khá lớn, cảnh buôn bán sầm uất, vừa rất là thân tình. Khi nàng bước vào
hiệu
thuốc, nàng thấy một người ngoại quốc cao lớn, tóc bạc, ông ta đang nói
tiếng
Pháp với một người Việt nhỏ thấp hơn, chắc là người chủ cửa hiệu. Trong
hiệu
thuốc có hai phụ nữ trẻ mặc áo blouse trắng đứng bán hàng. Nàng mua cả
ba loại
thuốc, trụ sinh, cảm cúm và ho. Người bán hàng bỏ các loại thuốc vào
trong túi
giấy, nhận tiến nàng trả, rồi thối lại.
Rời khỏi hiệu thuốc, nàng đạp xe tới
nhà Bưu điện vào trong guichet mua tem và gởi đi mấy lá thư ngay ở quầy.
Không đi đâu nữa, nàng quay xe trên
đường về nhà. Rồi nhân thể nàng ghé tiệm chụp ảnh lấy cuộn phim và ảnh
được gởi
sang tuần trước. Nhìn đồng hồ đã trưa, nàng liền ghé tiệm phở ăn một tô
nhỏ để
uống mấy viên thuốc. Nàng cảm thấy người mình hơi nóng, vẻ mặt hồng đỏ
trong cặp
mắt mệt mỏi. Trong lúc nàng bắt đầu ăn, bên ngoài trời mưa. Nàng nhìn
ra mưa với
nỗi lo ngại. Không đói, miệng vừa đắng nên nàng không ăn hết nổi tô
phở. Ngừng
bữa ăn, nàng lấy các viên thuốc đã mua uống cùng một lần với nước trà.
Nàng chợt
thèm một ly sữa nóng, nhưng tiệm ăn không có bán.
Mưa không lớn, nhưng vì cảm nên
Thiên Nga cảm thấy người khó chịu. Nàng mở ví lấy chai dầu nhị thiên
đường chấm
vào ngón tay giữa xức vào giữa cổ và hai bên thái dương. Cũng may,
những ngày
đang bệnh rơi vào ngày nàng được nghỉ không có giờ dạy.
Một đứa nhỏ từ nhà trong đi ra, tay
cầm khăn lau chùi những bàn trống. Tiệm ăn cũng lớn, sạch sẽ. Khi thấy
nó làm
việc, nàng nẩy ý định nhờ nó mua ít tờ báo ở hiệu sách cách tiệm ăn vài
căn.
Nàng cầm bút ghi vào miếng giấy nhỏ, và lấy tiền ra sẵn. Vừa xong việc,
nó quay
đầu lại khi nghe tiếng nàng gọi.
Đứa nhỏ rất lễ phép, lắng nghe lời dặn
của nàng xong cầm tiền và mảnh giấy đi ngay. Nàng đợi cũng lâu, nó mới
trở về
quán. Vừa thấy nó về, nàng vui, nở một nụ cười nhìn nó đi tới bàn nàng
ngồi.
Lúc này, tiệm có hai người khách ăn mới vào. Những tờ báo nàng nhờ nó
mua, có đủ.
-Cám ơn
cháu.
Nàng cho nó tiền lẻ, và bảo nó tính
luôn tiền tô phở.
Mưa ngừng tạnh. Gió thổi những đám
mưa còn lại bay qua trên dãy phố, nghe tiếng động làm rớt rất nhanh
những hạt
mưa xuống lòng đường.
Về tới nhà, nàng lên gác bằng lối cầu
thang phía sau. Mưa ướt xuống những tấm ván cầu thang, sợ ngã, nàng
bước chậm.
Khi mở cửa vào phòng , nàng bật đèn sáng, lấy khăn lau mặt, vội vàng
thay bộ quần
áo nhẹ, xong lên giường nằm nghỉ.
Trong giấc mơ, nàng khóc. Người anh
ruột của nàng vắng bóng đã lâu, nay trở về. Anh nói với nàng, căn nhà ở
Đà Lạt
hiện bỏ trống không người ở. Anh nàng chết trong một tai nạn xe hơi bị
lật ở
quãng đèo Prenn. Ngày đó, được tin nàng khóc sướt mướt, tiếng khóc than
của cô
em gái như thay cho người vợ, vì anh của nàng chưa lập gia đình. Những
kỷ niệm
về các món đồ chơi, quần áo người anh sắm cho nàng, nàng đã cất giữ.
Khi nhớ đến
người anh, nàng hay kể chuyện xưa cho cô em gái Mỵ Châu nghe. Nàng có
một hộp
giấy đựng thư từ, thư rất nhiều, số thư của Mỵ Châu chiếm gần một nửa.
Ngủ thiếp đi, mê mệt trong nhiều giờ
tới quá nửa buổi chiều Thiên Nga mới thức dậy. Nàng cảm thấy đói nên
xuống nhà
bếp lấy củi nấu một soong nhỏ cháo. Gian bếp có cửa hông, bên ngoài
trời gió,
nàng húng hắng ho rồi khép cửa. Một lúc sau bị ngột khói, nàng lại mở
cửa nhìn
ra ngoài. Ngoài sân sau có giếng nước và hai cây khế đang ra hoa tím.
Nhìn ngọn
lửa, Thiên Nga thấy nhớ Thụy, nàng cảm thấy như mình có chút cơ duyên
mến yêu
vô cùng người em của Nguyên. Nàng nhận ra, Thụy hiểu nàng, và thấy được
rằng
nàng mới là người có hạnh phúc khi lấy Nguyên làm chồng.
Nồi cháo sôi, hơi đặc, nên nàng múc
thêm một ly nước lạnh đổ vào, khuấy đều, và để cho sôi lại lần nữa.
Trong lúc
chờ cháo chín, nàng lấy cái bát nhỏ lau khăn xong để sẵn một bên. Và,
cháo đã
sôi lại, vừa chín tới nàng bắt đầu bỏ
hai thứ gia vị, nước mắm và tiêu vào soong cháo xong khuấy đều. Lửa bếp
tắt,
nàng múc cháo vào tô nhỏ xong đem lên nhà. Tô cháo hẳn còn nóng, nhưng
nàng vẫn
ăn cho ra mồ hôi, và để uống viên thuốc.
Mưa, bên ngoài trời đang mưa. Nàng
ăn tô cháo cảm thấy vừa miệng hơn là tô phở ở tiệm lúc trưa, và sau khi
uống một
viên thuốc cảm, một viên trụ sinh, nàng bắt đầu cảm thấy khỏe người.
Nàng đứng lên rời khỏi bàn ăn ra
ngoài phòng khách, trên tay đem theo mấy tờ báo và xấp ảnh mới sang.
Đèn bật
sáng, bên cửa sổ nhìn ra nàng thấy trời ảm đạm và con sông có nhiều lớp
sương
mù khuất che bờ bãi bên kia và những ngôi làng xa.
Nàng ngồi xuống ghế nệm, dựa lưng, cầm
ly uống hớp trà nóng. Cuốn phim 32 tấm ảnh được sang đủ. Vào chủ nhật
tuần trước
Nguyên ra, đưa nàng đi chơi các vùng quê xem thắng cảnh, ra đến biển
Cửa Việt,
nơi nào cũng có một hai bức ảnh chụp lưu niệm. Thiên Nga, tên nàng, và
nàng đã
đẹp rồi, những bức ảnh nào của nàng cũng tạo một vẻ đẹp riêng. Hai
người ăn một
bữa cơm ở quán nằm gần quận lỵ, đi chơi đói, ai ăn cũng ngon.
Khi về, Nguyên và Nga vào thăm ngôi
trường cũ lợp mái tranh, nơi đây, Nguyên đã học hai lớp đầu tiên khi
lên bậc
trung học. Ngôi trường vắng, có chút xa lạ, hoang tàn nhưng vẫn còn
nguyên vẹn.
Ngôi trường cũ lợp tranh, nền đất bằng đã trải dài một căn nhà chia ra
làm sáu
lớp học. Ngày xa ấy, mùa đông Nguyên và các bạn đến lớp học trong những
buổi
sáng mưa và gió lạnh, buổi học chiều, vì mưa nên trời tối, lớp nào cũng
thiếu
đèn điện, giờ học đó, học sinh chỉ lắng nghe thầy giảng bài mà ghi nhớ.
-Em thay thế
anh đứng trước mỗi cửa lớp.
Không cần tạo dáng, mỗi lớp Nga đứng
bên cửa với bao nhiêu nụ cười rất hồn nhiên. Nguyên không chụp cho Nga
ở bên
trong lớp mà đưa nàng ra chỗ sân cờ và trước cổng trường. Vẫn còn đó,
tấm bảng
gỗ mộc mạc với cái tên ngôi trường cũ ngày xưa.
Nguyên nói với Thiên Nga:
-Ngôi trường
này vẫn lưu giữ để nhớ một thời trong quá khứ được xây dựng, hình
thành. Nơi
đây, những người học sinh trưởng thành, đi lưu lạc phương xa, về thăm
lại Quảng
Trị, những bạn nào trong thế hệ của các anh từng học ở đây đều có ghé
lại để nhớ
trường cũ, ngày tháng cũ, và để có được một nỗi xúc động với cuộc đời
mình qua
thời gian.
Lúc trưa, đứa nhỏ mua cho nàng hai tờ
nhật báo và một tờ tuần báo Văn nghệ tiền phong. Tờ
tuần báo này thay thế tờ Kịch Ảnh vì hiệu
sách đã bán hết.
Khi Nga cầm tờ nhật báo lên đọc, tin
tức chiến sự chạy dòng chữ lớn trên trang nhất, và rồi nàng không khỏi
ngạc
nhiên có bài phóng sự của Nguyên viết về các trận giao tranh của Trung
đoàn với
địch quân. Nàng phải đọc ngay bài chàng viết, cảm thấy người khỏe hẳn
trong niềm
hãnh diện.
Hình ảnh Tết Mậu Thân là cả một cơn
ác mộng với Huế. Chiếc cầu Trường Tiền bị sập vài giữa chưa được sửa
chữa lại.
Đây là nỗi đau của Huế, vì chiếc cầu và con sông là một biểu tượng văn
hóa của
thành phố. Người ta yêu con sông thật đằm thắm ,và dòng sông cũng nói
với thành
phố, nàng là hiện thân một mái tóc muôn thuở của người cung phi. Còn
chiếc cầu ở
đây thật là một dáng người học thức, thanh tú, yêu cái đẹp về cuộc
sống, và anh
ta là một người rất nghiêm túc với thời gian.
Trận chiến Mậu Thân đã gây tang tóc
cho miền Nam, nhưng Cộng quân thất bại, hiện nay, Hà Nội-Sài Gòn đang
đi đến cuộc
hòa đàm để giải quyết chiến tranh. Nhưng hai năm qua rồi, diễn tiến
cuộc hội
đàm vẫn ngưng trệ, bế tắc.
Thiên Nga buông tờ báo, cầm tách trà
uống một hớp đầy. Nước trà đã âm ấm, không còn nóng khói và thơm như
lúc đầu.
Trong tờ báo Tiền Phong ở phần
giữa có một truyện ngắn của Thụy. Nàng bỗng thốt lên:
-Sao mà hôm
nay mình gặp cùng lúc hai anh em.
Giữ tờ báo trên tay, nàng chưa đọc,
nàng ngả người dựa lưng ghế, đôi mắt khép lại. Trời vẫn còn mưa, nàng
nghe rõ
tiếng mưa nặng hạt.
Quảng Trị, cuối tháng mười…
Thụy thân mến,
Một thiếu nữ sinh trưởng nơi xứ Quảng,
đến Huế học trường Cao đẳng Mỹ Thuật qua thời gian bốn năm, vừa mới tốt
nghiệp
xong, và nay đã trở thành một cô giáo. Trường trung học Nguyễn Hoàng là
một nơi
ghi dấu kỷ niệm đầu tiên buổi vào đời của nàng.
Vậy là mình giữ được một lời hứa với
anh Nguyên và cả Thụy nữa. Sau chuyến đi
công tác lên tiền đồn ba tuần lễ, anh Nguyên trở về hậu cứ ngày thứ
bảy, sáng
hôm sau chủ nhật anh lái xe đưa mình đi Quảng Trị, đến nhà thầy Hiệu
trưởng.
Và, mình không những hân hạnh được hai thầy cô nhận cho dạy, còn là
khách mời dự
một bữa cơm trưa thật ngon miệng với gia đình .
Thầy Hiệu trưởng là một người rất điềm
đạm, nhân ái. Anh Nguyên và Thụy là học trò cũ của thầy, hẳn là hiểu
rất rõ về
thầy nhiều hơn chính mình.
Trường Nguyễn Hoàng, đúng là một trường
công lập lớn nhất tỉnh. Trong sân trường, những cây lớn trồng để lấy
bóng im,
dáng hình vừa cao, chắc chắn và đẹp mắt. Những căn phòng học cũng rộng
rãi,
thoáng mát, tiện nghi.
Lễ khai giảng của trường là ngày thứ
hai, đầu tháng 9. Đó cũng là một ngày mình rất đáng nhớ , và mình được
trở
thành cô giáo. Nỗi xúc động rất lớn, cho bản thân chính mình, và buổi
sáng đó
mình nghĩ nhiều lắm đến các em học sinh, khi đến cả ngàn em của toàn
trường cất
tiếng hát bài quốc ca lúc làm lễ chào cờ.
Rồi, cũng như bao nhiêu giáo sư khác
đã nhận thời khóa biểu từ buổi họp tuần trước, mình đi đến lớp. Thụy
ơi, bạn sẽ
ngạc nhiên là lớp Đệ Lục đầu tiên mình đến đúng ngày phòng học ngày xưa
Thụy được
học ngôi trường này. Có vẻ như, khi mình sắp làm vợ anh Nguyên thì
những gì
mình có hay tìm thấy đều có chút liên hệ với cả những người thân bên
gia đình
anh.
Đây là lớp Đệ lục B4, hai giờ học đầu
là môn Việt Văn. Khi mình vào nhận lớp, các em trố mắt nhìn. Có một em
học sinh
ngồi đầu bàn mình nhận ra trước tiên và em cũng thật sung sướng trong
buổi gặp
gỡ này, em đó không ai khác là con thầy Hiệu trưởng. Thụy biết không,
em Bin
khi biết mình là cô giáo dạy ở trường, cứ xin mẹ cho cậu được vào lớp
học của
mình. Hôm nay, cậu được mãn nguyện.
Trước bảy mươi em học sinh, mình tự
giới thiệu tên mình, trường mình đã học, sau đó mình đề nghị chọn một
em khá vững
vàng làm Trưởng lớp. Về môn học, mình
cho các em biết chương trình học cho cả năm chia làm hai lục cá nguyệt.
Không để
mất thì giờ, mình cầm phần viết lên bảng và bảo các em chép chương
trình ngay
vào trang đầu tiên của tập vở.
Lớp học có cả nam và nữ, tuy khá
đông nhưng các em ngoan ngoãn. Để dọa dẫm, mình nói các em ngoan ngoãn
cô sẽ dạy
suốt năm, còn như ồn, phá phách quá thì cô sẽ dạy ở lớp khác.
-Chúng em
xin nghe lời cô.
Ngày xa ấy, bằng tuổi này, Thụy ngồi
ở lớp tâm hồn như thế nào nhỉ. Có thể, cũng vào giờ đầu tiên Thụy gặp
một cô
giáo mới xinh đẹp như cô Trâm, nhưng hẳn rằng tâm trạng cậu bé Thụy lo
lắng
hơn, chứ không mơ mộng quá sơm như lúc đến tuổi trường thành.
Hôm nay, ngồi viết thư cho Thụy, một
tháng bình yên của mình ở ngôi trường mình dạy đã trôi qua, không có
một điều
kiện chi khó khăn, hoặc vấn đề gì lo ngại. Với đồng nghiệp, khi giới
thiệu mình
đã là hôn thê anh Nguyên, học sinh cũ Nguyễn Hoàng nhiều giáo sư cũng
đã biết
và có lời nhận xét khen ngợi khả năng của anh.
Với thời khóa biểu dạy mỗi tuần 20
giờ nên mình có được chút thời gian rảnh rỗi làm công việc riêng, nhất
là sáng tác
tranh. Và, mỗi cuối tháng, mình lại đi xe lửa về thăm nhà, lúc ra thì
ghé Huế
thăm bên gia đình và gặp lại anh Nguyên.
Lúc này, việc học tập của Thụy ở
quân trường ra sao ? Nhận được thư của Thụy, mình mới hay là Thụy đang
ở thời
huấn nhục và còn là tân khóa sinh. Khi hết thời gian huấn nhục sẽ được
gắn
alpha để trở thành SVSQ. Rồi đây, những thư từ thành phố Nha Trang Thụy
viết sẽ
giúp mình biết thêm về thành phố biển này, nhất là với một cô Phượng
nào đó
ngoài đời Thụy mong gặp. Rồi, không chỉ là nơi thành phố biển ấy thôi,
đến một
ngày tận nước Mỹ xa xôi Thụy còn sẽ viết nhiều lá thư nữa gởi về cho
mình đọc,
trong đó, mình luôn theo dõi từng bước ngày tháng trong thời gian Thụy
được huấn
luyện để trở thành một phi công.
Có lẽ, công việc học của Thụy chiếm
nhiều thơi gian nên không có kỳ nghỉ phép. Và từ nay, Thụy vẫn luôn
trông đợi đến
ngày ra trường trở thành Sĩ quan phi công. Với tình cảm gia đình, mình
rất mong
Thụy thành đạt.
Nay thì mình đã khăn gói vào đời để
thu xếp lấy một cuộc sống. Riêng Thụy, tuổi trẻ vẫn còn những giấc mộng
viễn
phương.
Thân mến,
Thiên Nga.
Và, trong tháng mười một này, khóa
69B bắt đầu bước vào tuần lễ thi các môn học quân sự. Hầu hết các môn
học đều
thi viết, chỉ vài môn thi thực hành như tháo ráp vũ khí, tác xạ, cơ bản
thao diễn
và đoạn đường chiến binh.
Trong thời gian học quân sự tại đây,
anh em ai cũng nghĩ rằng, chỉ cần dự đủ môn, đủ thời gian ở lớp, còn
thi mãn khóa thì có tính cách hợp thức
hóa cho điều kiện ra trường sau khi học xong ngành bay, thế nhưng, từ
bốn khóa
trở lại đây, trường quân sự đã đánh rớt một số khóa sinh vì kém khả
năng. Tuy
nhiên, giấc mơ đến Mỹ vẫn là những câu chuyện lúc vào lớp học, và đến
cả thời
gian ở phòng.
San Antonio ở tiểu bang Texas là
một thị trấn lớn, nơi đây có một trường huấn
luyện hoa tiêu. Trước khi sang trường bay, các khóa sinh phải đậu được
Anh ngữ
với số điểm định mức là 80ECL. Thời gian học bốn tháng, hai tuần thi
test một lần,
nếu rớt trường cho học lại bốn tuần để thi , và sau bốn kỳ không đạt
được số điểm,
những khóa sinh kém khả năng sẽ bị loại và trả về lại Việt Nam. Rồi
theo số phận,
các chàng trai không thỏa mộng giang hồ sẽ được đưa qua trường Thủ Đức,
học
chín tháng ở đây xong ra đơn vị bộ binh. Thụy hiểu rõ hiện trạng này,
nên lúc
nào anh cũng có sự lo lắng. Vào binh chủng Không quân, chọn theo ngành
phi
hành, khi mang được đôi cánh, khoác được chiếc áo bay, lúc ấy, bầu trời
mới thật
là màu xanh, và cuộc đời mới thật là đẹp.
Nhưng, học ngành này không thể biết thời gian ra trường, rất nhiều cái
nhiêu
khê đến với bạn, nào là vấn đề sức khỏe, ba lần khám, qua được quân sự
giai đoạn
hai, sau cùng là khả năng thi đậu Anh ngữ. Với môn Anh ngữ, bạn phải
đạt mức
90% về khả năng nghe , nói, và hiểu lý
thuyết bài học. Còn lại, bước cuối cùng là lên ngồi chiếc máy bay học
lái với
huấn luyện viên. Khi một khóa sinh sau chừng hơn mười giờ học bay, được
thầy
tin tưởng thả ra cho bay một mình, đây là phút thành bại của một người
muốn
theo đuổi nghiệp bay. Vì, không lấy nổi mảnh bằng Tú Tài toàn phần để
vào học
bên kỹ thuật, nên theo ngành phi hành với Thụy chỉ là mong thử thời
vận. Nếu
anh thực hiện được giấc mơ cùa một cánh chim bằng lướt gió, thì một tác
phẩm
chiến tranh của người phi công trong thời chiến anh sẽ viết ra được
trọn vẹn bằng
con tim mơ mộng và bằng những khát khao của sự suy tưởng.
Từ quân trường Nha Trang, lần nào gởi
thư cho gia đình, bạn bè, Thụy cũng đều có viết cho Thiên Nga đọc, và
nàng luôn
viết trả lời thư cho anh. Không có ai thay thế một người bạn thân
thương và đồng
cảm với nàng bằng Thụy. Và, qua Thụy, nàng gắn bó với Nguyên, yêu
Nguyên nhiều
hơn cả tình anh có với nàng. Với nàng, Thụy còn là một điều lý thú gợi
ý cho
nàng hương vị cuộc đời từ một ly cà phê thơm ngon, và nàng thật lãng
mạn trong
ánh mắt nhìn những sợi khói lãng đãng từ điếu thuốc gắn trên môi Thụy.
Nguyên nói, trong nhà, anh thương nó
nhất, và anh rất muốn em hiểu được tình cảm đó của anh.
-Em cũng rất
là mến Thụy.
-Mỗi lần có
thư em, chắc nó vui lắm.
-Thụy nói với
em, ở Nha Trang, những ngày cuối tuần được phép xuất trại ra phố, lúc
nào chàng
cũng muốn tìm ra một cô Phượng ngoài đời, nhưng vẫn không thấy.
-Nó ít có bạn
gái. Sự ước tưởng của nó luôn luôn mong tìm gặp người ngoài đời như là
nhân vật
trong tiểu thuyết.
-Đúng là tâm
hồn của một nhà văn.
X
Giáp có được mười ngày đi phép về
thăm nhà ở Đà Nẵng. Về ngoài đó, anh có đến thăm trường Sao Mai, gặp
cha Hiệu
trưởng. Ngồi chuyện trò với cha, anh đọc thấy trên gương mặt một con
người hiện
thân ý Chúa đang có nỗi băn khoăn trước hiện tình đất nước. Trên mái
tóc đã bạc
nhiều, trông cha gầy yếu đi. Và trước khi từ giã anh học trò cũ, cha
nói, năm tới
cha sẽ thôi làm Hiệu trưởng và cha Huỳnh sẽ thay thế.
Giáp có đem thư của Thụy gởi thăm
gia đình Thúy Hà. Nhưng, anh chỉ gặp ông bà Kha, không gặp nàng. Thúy
Hà đang ở
Hội An.
Hết những ngày phép, Giáp trở lại
quân trường. Khi trở về, buổi trưa, Giáp tìm đến phòng ở của Thụy và
cho anh một
hộp kẹo gương. Cơm nước vừa xong, sẵn có nước trà trong bi đông, Thụy
khui hộp
kẹo mời Giáp và mấy bạn nằm gần ngồi ăn. Kêu gương mỏng dòn, có ướp
chút gừng nữa
nên ngọt thơm, uống với nước trà là đúng ý.
-Sao, ông bà
cụ khỏe không ?
-Cũng khỏe.
-Đà Nẵng có
chi thay đổi không, niên trưởng.
-Quán cà phê
mọc đầy.
Anh em cười vui vẻ. Một bạn dân Huế
nói:
-Cả miền
Trung, chỗ nào cũng mọc quán cà phê và nghe nhạc Trịnh Công Sơn.
Một giọng nói nghe thật là nhẹ:
-Anh đó bây
giờ đang sáng tác nhạc cho Việt Cộng hát.
Giáp hỏi:
-Thi cử xong
chưa ?
-Rồi, hết tuần
này về Sài Gòn ?
-Niên trưởng
sắp ra trường chưa ?
-Một tháng nữa.
Trước ngày đi phép, Giáp cho Thụy biết
anh đang ở giai đoạn hoàn bị của chương trình phi huấn. Đây là phần khó
nhất,
được chấm điểm rất kỹ để xác định khả năng tốt nghiệp. Trong phần này,
khóa
sinh thực tập các tác diễn: cất cánh và đáp với các độ cánh cản, triệt
nâng có
máy, triệt nâng không máy, nhào lộn số 8 chậm, chandelle, và hạ cánh
bắt buộc.
Từ phần này, khóa sinh phải bay với Huấn luyện viên mỗi ngày hai phi
suất, sáng và chiều, mỗi phi suất thời
gian bay một
tiếng ba mươi phút.
Vừa mới kết thúc khóa học quân sự
sau một tuần lễ thi khảo hạch các môn lý thuyết và thực hành nên lúc
này khóa
69B được nghỉ không đến lớp, hàng ngày lo vệ sinh, tạp dịch doanh trại,
thu xếp
lại quân trang chờ ngày lên máy bay về Sài Gòn. Ngoài công việc đó ra,
anh em
có thì giờ nghỉ đi câu lạc bộ uống cà phê, đánh bóng bàn, bi da hay
ngồi nhà tụ
tập từng nhóm tán gẫu, phá phách. Khu trại của Liên đoàn sinh viên nằm
trên một
con đường rải đá, xa cổng chính lối chừng hai trăm mét. Từ hai ngày
nay, có một
chương trình phát thanh đặc biệt của Liên đoàn với các bản tin liên
quan đến những
khóa học của sinh viên. Những thông báo về tuyển mộ, sinh viên được du
học, hay
vừa tốt nghiệp được coi là tin mới nhất làm mọi người chú ý, và hẳn
nhiên rất lấy
làm phấn khích. Ở văn phòng , viên Đại úy rất bận rộn. Trên bàn ông làm
việc,
luôn có sẵn một gói thuốc Salem và ly cà phê đá. Anh em khóa 69 B đã
làm ông rất
hài lòng, đây là một khóa mẫu của ông. Với trách nhiệm và tâm tư của
một vị
Đoàn trưởng, ông rất có lòng. Kết quả kỳ thi giai đoạn II quân sự, có
đến năm bạn
bị thiếu điểm đáng rớt, nhưng ông đã đứng ra, nhân danh là Đoàn trưởng
xin trường
quân sự dành cho điểm vớt để số người này giảm thiểu được một thời gian
ba
tháng học lại, và sớm được học bay để trở thành hoa tiêu. Trong số
người thiếu
điểm này có Thụy. Tuy nhiên, xin vớt điểm là một chuyện, nhưng ông rất
nghiêm
khắc khi đưa ra những lời cảnh báo, phải gắng nghe lời ông học tập
chuyên cần,
chăm chỉ , đạt mục đích sau cùng là ra trường với đôi cánh bay gắn trên
ngực
áo.
Uống hết ly trà, Giáp đứng dậy. Thụy
tiễn chân bạn ra cửa phòng, xong quay lại. Hộp kẹo vẫn còn để trên tờ
báo lót,
Thụy mời các bạn ăn cho hết luôn.
-Hồi trước
ông là bạn của niên trưởng Giáp hả.
-Ờ, bạn học
cùng lớp.
-Vào năm nào
?
-Năm đảo
chánh ông Diệm.
-Ủa, bạn học
năm đó, sao giờ mới nhập ngũ.
Thụy đáp:
-Tôi đi lính
trước mấy bạn ba năm.
-Rồi sao bạn
được đi học Sĩ quan ?
-Thì tôi có
bằng Tú Tài I như mấy bạn ?
-Bạn mới thi
đậu trong năm rồi.
-Không có
đâu. Vừa mới nhập ngũ được mấy tháng, khóa thi hè năm 65, tôi đậu được
Tú Tài I
rồi.
-Có bằng,
sao năm đó không xin học sĩ quan.
-Tôi muốn lấy
nốt phần hai rồi tính chuyện.
-Lúc ở lính,
bạn thuộc binh chủng nào.
-Dạ, Không
quân.
Mấy người kia à lên một tiếng, gật đầu
hiểu ý của Thụy.
-Rồi, bạn
xong phần II chưa ?
Thụy lắc đầu, cảm thấy mình thất vọng.
Anh nói:
-Ý định của
tôi là đi Sĩ quan kỹ thuật, không phải là phi hành.
Một người nhìn Thụy nói:
-Trông bạn
lóng cóng, vụng về, trói gà cũng không chặt.
-Rồi sao nữa
?
Người đối diện cười đùa nói:
-Bạn không
hiểu ý tôi nói sao ?
-Không, Thụy
đáp.
-Tôi cần nói
điều thật không ?
-Bạn cứ nói.
-Bạn không
lái máy bay được đâu ? Lên máy bay, bạn làm rớt máy bay liền.
Có nhiều tiếng cười cùng giễu cợt.
Thụy điềm nhiên hỏi:
-Vậy bạn cho
biết tôi làm gì ?
Với nụ cười tinh quái, anh ta nói:
-Bạn làm thơ
được. Hai câu thơ bạn làm giữa nắng trưa, đọc nghe hay.
-Tôi không
nhớ.
Mỗi ngày một miếng bánh mì
Với hai hớp sữa, còn gì cho em
Thụy ngồi dựa lưng tường. Chung
quang năm sáu người đang nghe chuyện, rồi thêm vài người tới nữa.
Sau vài giây yên lặng, người kia hỏi:
-Sao tôi nhận
xét vậy, bạn thấy đúng không ?
-Bạn nhận
xét rất là đúng.
Thụy đánh que diêm đốt điếu thuốc, một
giọng bình thản anh tiếp lời:
-Lúc đi học,
tôi có nhiều mặc cảm với bạn bè và cả thầy dạy nữa. Một đứa bạn cùng
lớp, nó nhỏ
con nhưng rất ngổ ngáo, lúc nào cũng kiếm chuyện gây gổ,
hay giấu sách vở tôi vào giờ ra chơi, nhưng
tôi nhịn. Một bữa đó, tan lớp học chiều đi về cùng đường nhiều bạn, có
nó nữa,
nó vừa chọc ghẹo, vừa gây sự, lúc ấy, các bạn đi cùng xúi tôi đánh nhau
với hắn.
Lập tức, tôi dang tay ra thách thức, nó cười cợt, đứng nhìn tôi , rồi
hai tay
múa điệu võ quyền anh. Tôi chẳng cần võ, điên người từ lâu nay, tôi lao
tới, và
lúc đó hai đứa quần nhau. Khi nó tung cú đấm, tôi gạt được cánh tay, và
không để
chậm, tôi tống ngay vào mặt nó cú đấm tay trái, nó loạng choạng, tôi
dồn tới đấm
liên tiếp trong tiếng hò reo của lũ bạn, và cú cuối cùng, tôi đá một cú
thẳng
chân cho nó ngã xuống hố, và cơn điên giận của tôi kinh hoàng lắm, tôi
nhấc một
tảng đá nặng chừng hơn một ký, cũng may cho nó, các bạn
đứng ngoài đã can không cho tôi bổ xuống đầu
nó. Thực với các ông, tâm hồn tôi là của kẻ sát nhân, nếu giết nó, tôi
không ân
hận chút nào cả. Đó là chuyện nhớ đời về một thằng bạn cùng lớp. Tôi
xin kể tiếp
chuyện mấy ông thầy. Một ông thầy dạy Sử ở lớp dưới trong lúc đang kể
chuyện
riêng của mình, chợt ngừng, hỏi ý kiến cả lớp điều ông vừa nói và cách
hành xử
là đúng hay sai, cả lớp im lặng, khi không tôi buột miệng khen ông làm
đúng. Lập
tức, ông cho tôi con zéro với lời gải thích là học trò khen thầy là vô
phép, vô
tắc. Khoảng bốn năm sau tôi được lên học lớp trên, vào một buổi học môn
tiếng
Pháp với ông giáo gia, vì tôi có chuyện xích mích với một bạn ngồi gần
bàn, hai
bên xì xào tiếng cãi vã và chửi nhau, đi ngang ông thầy nghe được,
tưởng là tôi
chửi ông, ông liền giáng xuống người tôi một trận đòn oan nghiệt, tôi
thấm lắm.
Năm học sau, một vị thầy trẻ dạy môn Lý Hóa nhìn thấy bản mặt tôi coi
bộ làm
ông không ưa, đang giảng bài, đột nhiên ông nói với cả lớp rằng, con
người như
tôi rất là tầm thường, học hành không ra gì , và năm nay tôi sẽ thi
không đậu,
tôi đánh cá là không thi đậu, và cũng sẽ không thể nào đủ sức lấy nổi
cái bằng
Tú Tài I để cầu may ra đi lính được Sĩ quan.
Tôi không hề có một phản ứng nào với
ba vị thầy trong ba sự kiện vừa kể trên với các bạn. Về sau, tình cờ
tôi được
biết tin, ông giáo già bị án sáu năm tù vì can tội hiếp dâm một cô học
trò bạn
học cùng lớp con gái của ông, còn ông thầy trẻ tử nạn vì do bác sĩ
chích nhầm một
lại thuốc trụ sinh.
-Còn ông thầy
cho bạn zéro điểm.
-Tôi đang chờ.
Không ngừng đến nửa giây, Thụy nói:
-Rồi cũng tới
số.
Những sợi khói thuốc bay lên trong một
cảm giác đang phiêu bồng. Thụy cười nhẹ, nụ cười của anh như hiện ra
một cái nốt
ruồi.
Một người trong đám bỗng hỏi:
-Ông có viết
văn, phải không ? Kể ra, thơ truyện ông làm cũng được.
-Hút một điếu
thuốc nghe bạn.
-Cứ tự
nhiên, Thụy nói vừa đẩy nhẹ gói thuốc tới gần cho anh bạn.
Chung quanh Thụy, có bạn ngồi trên
giường, có bạn dưới sàn, bây giờ ai cũng chú ý đến mấy chuyện anh vừa
nói.
Một cái lon nhỏ được chế biến thành
cái gạt tàn. Những bột tàn thuốc mới rải
mỏng một lớp mỏng dưới đáy lon.
-Trong khóa
mình, có ai ghét bạn không ?
-Tôi không
biết.
-Ai thân với
bạn nhất ?
-Không có ai
cả. Tôi cũng chẳng nghĩ hay bận tâm tới bạn nào hết. Tôi chỉ biết rằng
đây là
khóa 69B, tôi đang học cùng với các bạn một khóa.
-Chúng tôi
là lính trẻ, còn bạn là lính già.
Một vài anh thích chí, cười to lên.
Thụy luôn nhìn vào làn khói thuốc
khi nói:
-Năm nay tôi
hai mươi lăm tuổi. Kể ra, tuổi này chưa già. Nhưng giữa tôi và các bạn
không
cùng một tâm tưởng. Trong các bạn, đa phần là sinh viên, tuổi trẻ nhanh
nhẹn và
có học thức, các bạn sẽ trở thành phi công. Trong các bạn, ai cũng đang
mong chờ
ngày tung mây, lướt gió. Còn tôi, chỉ rất muốn cầu an lấy cuộc sống
bình thường,
không ước mơ danh vọng và sự toại nguyện.
Tôi cũng không là người gan dạ, hay trông lãng mạn,
hào hùng độc đáo như
các bạn.
-Hào hùng độc
đáo, phải là oai phong như Đại úy Đoàn trưởng chứ bạn.
-Đại úy Hoàn
là một Sĩ quan rất thế giá. Tôi hết sức quí trọng viên Đại úy.
-Cũng may
cho bạn. Chứ lớ ngớ như bạn, mấy ông niên trưởng phạt bạn đến ngất ngư,
chẳng
đùa đâu.
-Bạn này
cũng đã có áo giáp của niên trưởng Giáp.
-Ngôi trường
cũ mà tôi và Giáp học, nhiều kỷ niệm đáng nhớ lắm.
-Ở thành phố
nào bạn.
-Đà Nẵng.
Ngôi trường ấy cảnh trí đẹp, trông ra công viên và bến Cảng.
Thụy nuốt khói thuốc rất lâu. Anh
đang trầm ngâm, chợt nghe một bạn khác hỏi:
-Sao hồi là
lính, bạn không xin về báo Lý Tưởng.
-Tôi có làm ở
đó ít tháng trước khi học chuyên môn.
-Bạn học gì
trong ngành chuyên môn ?
-Tôi học
ngành điều không ?
-Ngành này về
phi hành mà ?
-Không, hành
quân dưới đất, liên lạc máy bay trên trời.
-Bạn viết
văn đã lâu chưa ?
-Tôi đi theo
nghề này được bốn năm rồi.
-Vẫn tiếp tục.
-Bạn nói
đúng. Tôi theo nghề này để kiếm sống, chứ không để có được tiếng nhà
văn.
-Bạn kiếm sống
bằng nghề này sao ?
-Tôi viết
truyện cho nhật báo và tuần báo. Khi đăng, họ trả tiền nhuận bút hẳn
hoi.
-Họ không trả
thì sao ?
-Tôi viết
thư nếu ở xa, còn ở Sài Gòn đến tòa soạn đòi.
-Rồi họ có
trả không ?
-Bắt buộc phải
trả. Tôi nói với cả Chủ bút và Chủ nhiệm
không đăng thì thôi, đăng là trả tiền.
-Nhưng họ
không trả, bạn làm gì được họ.
-Tôi là một
người giỏi chịu đựng, kiên trì và quyết liệt. Ở miền Nam, hành nghề báo
chí phải
theo chính sách và luật pháp.
Một bạn trong đám ngồi quanh vươn
người tới đưa tay ra cho Thụy bắt. Anh ta nói:
-Bạn, như vậy
là được. Tôi chịu.
-Đến lúc
này, bạn thấy rằng tôi thuộc về lẽ phải, đúng không.
Với giọng thân tình, Thụy kể cho các
bạn ngồi quanh nghe những ngày anh ở miền Trung vào Sài Gòn, tâm trạng
chán nản,
tuyệt vọng, bỗng nhiên có ý định viết văn, anh viết truyện ngắn đầu
tay, và được
đăng ở một tờ tuần báo.
-Ông Chủ bút
có khen bạn không ?
Ông chỉ nói:
-Tôi viết được.
Có triển vọng tương lai.
Có một giọng vui phát biểu:
-Khóa 69B
chúng ta có một văn sĩ.
-Một thi sĩ
nữa.
Thụy đáp lời:
-Tôi học
hành dang dở, thất bại. Nhưng, duyên may tôi được ông trời cho cái năng
khiếu
viết văn. Không trốn quân dịch được tôi đi lính. Đi lính, tôi cũng tiếp
tục nghề
văn, và đề tài là người lính không chỉ là với lính không quân, mà còn
nhiều người
lính trong binh chủng khác. Các bạn không biết đấy, là hiệu thính viên
điều
không, tôi đã từng mang máy đi theo nhiều cuộc hành quân với Sư đoàn
dù, Sư
đoàn thủy quân lục chiến và cả với các Trung đoàn bộ binh. Những gì
trong chiến
tranh tôi quan sát và cảm xúc, tôi đều viết ra được hết. Tôi có một
người thầy
dạy tôi cách viết văn, và cách nói về đề tài chiến tranh là nhà văn Mỹ
Ernest
Hemingway.
-Ông đọc được
truyện bằng tiếng Anh ?
-Làm gì, tôi
đọc truyện dịch. Sách dịch truyện ngoại quốc, nhiều lắm.
-Nếu là phi
công, bạn có viết về nghề bay không ?
-Thật là ước
mong được nói ra với các bạn điều này.
Thụy bỗng lặng im.
-Bạn nói đi
chứ.
Thụy rút trong bao thuốc ra một điếu
, ngay lúc đó, một que diêm bật cháy sáng lên để anh mồi. Một người lên
tiếng:
-Tại sao lúc
này trời không đổ mưa nhỉ.
-Và, cũng
thiếu cà phê.
-Chút nữa,
tôi mua một ly đãi ông văn sĩ này.
-Bạn nói đi
chứ.
-Tôi ước
mong được là người phi công. Không phải, mình sẽ tạo ra cái dáng đẹp
của người
hiệp sĩ không trung qua cách đội chiếc nón nón kao lô, mặc bộ đồ bay,
đeo bông
mai vàng nở, và thỏa chí tang bồng lướt gió tung mây, hay thật lả lướt
với những
điệu nhảy mê hồn với những nàng kiều nữ
xinh đẹp. Không, đó chỉ là hình thức. Ước muốn của tôi là hình thành
nghiệp bay
như tạo nên được tác phẩm giá trị dành cho những người phi công trong
thời chiến.
Thụy đang sắp đặt những lời, những ý
của nhiều chuyện nhỏ liên kết với nhau để trình bày thành một ý tưởng
tổng thể
và có sự trung thực, bỗng anh ngước mắt nhìn về dãy cuối phòng, nơi ấy
nhẹ khơi
lên âm thanh tiếng đàn tây ban cầm xao xuyến như cơn mưa.
-Tiếp lời đi
bạn.
-Tôi vừa
nghe điệu nhạc rất quen.
-Bạn cũng
thích âm nhạc.
-Bạn có biết
bản nhạc gì đó không ?
-Không biết
được.
-Bản nhạc của
Francis Lai trong phim Le passager de la pluie.
-Tay này có
trí nhớ nhỉ.
Những nốt nhạc sau cùng của tiếng
đàn nhỏ dần. Lúc đang nghe, Thụy nhớ khung cảnh một công viên trông ra
bờ sông,
chiếc xe buýt ngừng ở trạm và một người lữ hành đơn độc xuống khỏi xe đi bộ dưới cơn mưa đến một căn nhà.
Thụy bắt đầu vào chuyện:
-Ngày tôi học
xong khóa tân binh, nhận được sự vụ lệnh về Không đoàn 33, trình diện ở
liên
đoàn tác chiến, sau mấy ngày làm thủ tục, tôi và một bạn nữa được gởi
đến phục
vụ trong phi đoàn 217 trực thăng. Tôi làm việc tại đây với chức vụ thư
ký hành
quân, mỗi ngày lên ca, buổi sáng hỏi tin tức khí tượng, làm trang mới
trong cuốn
sổ bay hàng ngày, trực điện thoại hành quân khi sĩ quan trực vắng mặt,
và nhật
tu quân số phi đoàn khiển dụng, bất khiển dụng, đi phép, công tác hay
dưỡng sức.
Ngày cuối tháng, thêm một công việc là làm tính cộng về số giờ bay của
mỗi phi
công. Những việc linh tinh này không đòi hỏi chuyên môn hay khả năng,
và thời
gian xong mỗi việc chừng năm, mười phút. Thế nhưng, trong ba tháng ở
đơn vị
này, tôi hiểu được giá trị của những người phi công. Khi người phi công
cất
cánh đưa phi cơ ra vùng mặt trận để thực hiện một phi vụ tiếp thế hay
tản
thương, đó là những giờ khắc của sự hiểm nghèo, vì phi cơ có thể bị hỏng máy, bị súng lớn của địch bắn cháy, hay
bị đạn lạc trong vùng giao tranh, nên sau một phi vụ, thấy người phi
công trở về
là biết họ sống sót. Ngày cũng như đêm, người phi công trong mỗi phi
vụ, đều thấy
rõ mối hiểm nghèo, thấy rõ sự đối diện với cái chết qua nhiều tình
huống, nhưng
dù vậy, họ vẫn luôn ý thức được trách nhiệm của mình. Ở phi đoàn, mỗi
ngày lên
công việc tại văn phòng, khi nhìn ra
cánh cửa thấy các phi công trở về an toàn sau một phi vụ trong ngày hay
trong
đêm, tôi nhìn họ với sự ngưỡng mộ. Một lần đó, viên sĩ quan trực cho
tôi đi
theo một phi vụ tản thương ở ngoài tiền đồn Hậu Nghĩa. Khi phi cơ mới
xa khuất
đèn điện thành phố Sài Gòn, bóng đêm đã bao trùm cả một bầu trời, trong
bóng
đêm, chốc chốc tôi lại thấy lóe sáng lên từng ánh chớp của lằn đạn đang
bay.
Và, khi đến mục tiêu, tôi nhìn thấy rõ quang cảnh trận chiến, nghe
tiếng nổ ầm ầm
của trọng pháo, tiếng súng đạn đôi bên đang giao tranh. Từ độ cao, phi
cơ xuống
thấp, hạ cánh và bốc đi ngay được hai binh sĩ bị thương nặng đưa về tới
bệnh viện
Cộng hòa. Từ một chuyến bay đêm này, tôi ngửi thấy không khí chiến
tranh. Và,
trong cuộc chiến này, người phi công từ trên cao nhìn xuống, thấy rõ
hơn hết. Với
những ghi nhận trong một giới hạn, một góc cạnh tôi nói với bạn, tôi đã
hình
dung, ngưỡng mộ và rất cảm kích về cái hào hùng của những phi công làm
tôn vinh
giá trị cái đẹp của tuổi trẻ trong con người, nhưng ít, và cũng không
thấy nữa
một người nào trong số họ viết và lột tả những suy nghĩ lớn lao về
chiến tranh
để hình thành nên một tác phẩm.
-Vậy là
chúng tôi đợi đến ông.
-Tôi đang chờ
đợi và ước mong.
-Nhưng nếu bạn
không thành Pilot thì sao ?
-Thì, tôi sẽ
viết về tất cả các bạn.
Thụy tiếp lời, với giọng nói như khẳng
quyết.
-Tới ngày
chúng ta học xong, ra trường đi đơn vị, sẽ đúng vào thời điểm cuộc
chiến tranh ở
miền Nam leo thang, và những ngày tháng ấy sẽ vô cùng khốc liệt.
-Có vẻ bạn
là một nhà quân sử.
-Không đâu,
tôi hơn tuổi các bạn trong chiến tranh. Có ai, ngờ được rằng Hà Nội đã
dám tung
trọn quân miền Bắc vào đánh chiếm hết các tỉnh miền Nam. Vậy mà, năm
Mậu Thân
đã xảy ra.
Một người dáng cao, vẻ mặt khắc khổ,
từ giường bên kia lên tiếng:
-Bạn nhận định
tình hình rất đúng.
Vài bạn ngồi trên sàn quay lưng nhìn
anh ta. Tiếp lời:
-Tôi ở đơn vị
BĐQ, làm Tiểu đội trưởng. Ở đơn vị Tiểu đoàn 21 của chúng tôi, đụng
trận với bọn
chính qui liên miên.
Thụy và anh bạn cũng là Hạ sĩ quan
đi học nêu lên những vấn đề chiến sự, đến lúc này, anh em trẻ hiểu được
điều họ
nói. Từ hôm vào quân trường đến nay, Thụy có mặc cảm nên ít muốn gần
gũi, làm
quen với những bạn trẻ tuổi hơn trong khóa. Lẽ đó, một số tưởng nghĩ
anh là người
khác thường, tuy chẳng lập dị, nhưng hầu như không mấy giống ai. Có
cách đặt
tên, có sự đùa cợt, trêu chọc, mỉa mai, với Thụy anh chẳng lấy làm giận
dữ, hay
thách thức. Anh là người đã quen với sự chịu đựng, vốn sống mỗi ngày
trong đời
anh là kinh nghiệm từ cái nhìn của mình thấy kẻ khác, và nơi kẻ khác,
mỗi người
anh liên hệ với những nhân vật hư cấu trong những cuốn tiểu thuyết mình
đọc. Dù
rằng, anh chưa phải là một nhà văn, nhưng anh thấy nhà văn là một giá
trị phải
được công nhận.
Hôm nay, có lẽ Thụy làm các bạn trẻ
hiểu mình và tin mình. Với lại, đang là những ngày cuối khóa học, trong
anh em,
có điều gì không phải với nhau cũng bỏ qua. Rồi đây, sớm hay muộn anh
em cũng rời
quân trường ra đơn vị, lúc ấy, ai cũng bỗng dưng cảm thấy nhớ đến nhau,
và thật
có tình nghĩa với nhau.
Trong khói thuốc, ánh màu xanh ngả
sang tím. Những làn khói chờn vờn, mỏng dần, vừa tan giữa vũng nắng.
Mới lúc
trưa, bạn Giáp đến thăm, từ lúc ấy đến giờ, lần đầu tiên Thụy mới thấy
đông bạn
hữu ở quanh mình.
XI
Thụy cùng các bạn lên phi cơ rời Sài
Gòn buổi chiều ngày thứ sáu trước lễ Noel một tuần. Trong anh em, người
nào
cũng được hai tuần nghỉ phép, sau đó tự động đến trại khóa sinh trình
diện để bắt
đầu khóa học.
Chỉ có một số bạn gia đình ở miệt lục
tỉnh mới thực sự đi phép về thăm nhà, còn hầu hết những anh em ngoài
miền
Trung, không mấy ai muốn về thăm quê lúc này, mà ở chơi Sài Gòn mua sắm
và hưởng
không khí mùa lễ Giáng Sinh cùng Tết dương lịch. Sài Gòn, thành phố này
ai ở xa
đến cũng đều muốn được vui chơi, thỏa thích với cảnh sinh hoạt xô bồ,
náo nhiệt
ở đô thị. Những ngày chơi phố, anh nào cũng chưng diện đồ vàng, cầu vai
đeo
alpha, đội nón cát két, có anh đội nón kao lô không gắn lon. Và, trong
thời
gian khóa 69B về Sài Gòn, viên Đại úy Đoàn trưởng cũng về theo nhân
chuyến công
tác ở Bộ Tư Lệnh. Anh em đều hay biết vị Đoàn trưởng có về, lúc vào ngày thường, lúc thứ bảy chủ nhật ông
hay chạy xe quanh những phố chính Sài Gòn, quan sát cách đi đứng của
các SVSQ,
và thấy bạn nào có dắt bồ dạo phố, ông hài lòng chấm điểm cho bạn đó
bằng một nụ
cười. Nhớ lại, sau lễ gắn alpha, ngày đầu tiên xuất phố ra Nha Trang,
trọn một
ngày đó, trên các ngả đường nơi nào SVSQ cũng thấy ông xuất hiện. Sự
quan tâm của
ông thể hiện một tinh thần trách nhiệm của cấp chỉ huy, nơi con người
ông là sự
liên đới từ tình cảm cá nhân đến đồng đội, và chính ông đã tạo cho lớp
SVSQ
khóa 69B một phong cách độc đáo, những bạn này nay đã có được cái phong
thái lịch
thiệp và tự tin.
Ngày về lại Sài Gòn, Thụy khác nhiều.
Những người thân bên ngoại, các cậu, các dì ai cũng thấy anh lạ hẳn,
trông anh
chững chạc, tư cách qua quân phục, không
còn xuềnh xoàng như trước đây nữa. Thực ra, Thụy biết mình vẫn vậy,
chẳng qua
quần áo mới được cấp phát, cắt may vừa vặn, mặc vào trông dễ coi. Tuy
nhiên, những
ngày nghỉ phép, anh mặc đồ dân sự cho tiện. Và, trước nhất, là anh đem một số truyện ngắn, mỗi truyện chừng năm, sáu
trang không dài lắm đến các tuần báo và nhật báo gởi đăng để kiếm tí
tiền còm,
mua sắm ít sách vở học, cần nhất một cái máy cassette để thu các bài
giảng về
nhà nghe. Học Anh ngữ đi Mỹ, cần nhất nghe và đàm thoại. Khả năng nghe
là chính
yếu, nếu bạn nghe không rõ, câu trả lời sẽ không đúng, có đúng, cũng là
rùa.
Khi Thụy đến tòa soạn Tiểu thuyết thứ năm, ông Chủ bút Thanh Thủy đã
nghỉ việc,
về miền Tây trở lại nghề dạy học, nay tạm thời việc bài vở do ông Quản
nhiệm
coi sóc . Ông Vượng là Quản nhiệm vẫn còn nhớ ra Thụy, và khuyến khích
anh viết. Hai tờ báo còn lại là Văn Nghệ
Tiền Phong và
Độc Lập cùng nằm trên đường Võ Tánh.
Sau khi mang mấy truyện đến tòa báo
xong, Thụy đến trường Hành Chánh tìm Lăng.
Trường Hành Chánh nằm bên đường Trần
Quốc Toản gần Viện Hóa Đạo, và đây là lần đầu Thụy tới, anh hỏi thăm
các Sinh
viên đứng ở ngoài, được biết lớp Lăng đang có giờ học nên Thụy đi ra
ngoài cổng
ghé vào quán cóc kiếm nước uống, ngồi đợi bạn.
Không lâu lắm, hết giờ học, Thụy đi
vào cổng đến chỗ bãi gởi xe, vừa lúc gặp Lăng. Hai đứa cùng ngạc nhiên.
Rồi Thụy
lên xe Honda ngồi sau, Lăng chở đến một quán ăn bình dân ở Nguyễn Tri
Phương.
-Anh có tính
về Huế không ?
-Không. Với
lại thời gian phép cũng ít.
-Chừng nào
anh nhập khóa học ?
-Sau Tết tây
một ngày.
-Xong khóa
Anh văn là đi Mỹ.
-Đúng vậy.
-Rồi thời
gian học lái máy bay là bao lâu ?
-Cũng từ sáu
đến tám tháng.
-Tính ra, học
xong kết quả cũng mất gần hai năm.
-Có thể.
Quán cơm nằm phía đầu, cạnh ngã tư.
Trong lúc chờ , Thụy gọi một chai bia lớn và hai ly có đá. Người chạy
bàn đem
ly ra, và khui bia đổ vào ly.
-Nào, cụng
ly một cái.
-Hút thuốc
lá đi.
-Không hút
được.
Thụy uống một ngụm bia rồi đốt điếu
thuốc.
-Học bổng của
Lăng có khá không ?
-Cũng khá.
Thụy nói:
-Tôi vẫn còn
ăn lương cũ, ra trường, lúc đó đời mình mới khá hơn được.
Nhìn Thụy, Lăng nói:
-Nếu biết việc
thi cử không thành, hồi đó, xong Tú Tài anh đi ngay, giờ cũng ngon lành
rồi.
-Ờ, mình
cũng vụng tính. Như hồi đó, thay vì vào Không quân, mình đi Sĩ quan Bảo
An, giờ
được đồng hóa với Bộ Binh làm việc ở các Tiểu khu.
-Anh cũng
quá lận đận.
Bữa cơm phần dọn ra ba món mặn, một
món canh. Trời chiều đã muộn, hai bạn cùng đói nên ăn ngon miệng.
Thụy hỏi:
-Sang năm,
Lăng ra trường chưa ?
Lăng gật đầu, vừa giải thích:
-Ban Cao học,
học hai năm thôi.
Hết một chai, Thụy gọi một chai lớn
nữa, người chạy bàn đem ra rót thêm vào hai cái ly lớn.
-Ông cho
thêm ít đá.
-Có ngay.
Nhìn Lăng Thụy hỏi:
-Có ai chưa
?
-Cũng có.
Nhưng tôi chưa ý định gì cả.
-Có cho dì
biết không ?
-Trời, me
tôi, bà sốt ruột. Ở Huế, không biết là bao nhiêu đám đi làm mai. Không
chỉ cho
tôi, bà còn lo cho cả anh nữa.
-Tội, rất là
thương dì.
Bữa ăn xong, bên ngoài đèn đường
sáng. Dọc theo con phố, những xe bán hàng rong, và các sạp quán vỉa hè
bắt đầu
hoạt động.
Thụy nói:
-Tôi ở Không
quân, có được chữ thọ, và cái mác bên ngoài thôi. Chứ nhìn tương lai,
cũng chưa
thấy màu hồng.
-Rồi đến
sang năm, anh cũng ra trường.
-Tôi mới
nghe tin mười người khóa trước đi học bay bị loại, lên đường về nước
rồi.
-Trường hợp
bị loại, họ cho học ngành gì.
-Không rõ,
nhưng số đó phần nhiều bị đưa qua Thủ Đức.
Lăng im lặng, không hỏi gì thêm
trong ý tưởng bi quan của Thụy.
-Bác đang ở
đây, hay đi công tác ?
-Bác ra Huế
rồi.
-Anh về có gặp
không ?
-Không. Hình
như, bác tìm mua nhà trong này.
-Bác có thư
cho anh ?
-Bác bàn
chuyện với dì Hồng. Có căn nhà dưới Thị Nghè bác tính mua.
-Ở ngoài quê
không còn ai, nên chi phải có cơ sở tại đây để phòng chiến tranh.
-Tôi cũng
nghĩ như Lăng vậy.
Hút xong điếu thuốc, Thụy nhìn đồng
hồ tường.
-Anh đang ở
nhà ai ?
-Nhà dì
Hồng.
Thụy gọi người chạy bàn đến trả tiền.
Lúc đợi lấy tiền thối, Thụy nói:
-Tôi có mấy
truyện ngắn vừa gởi đi, chắc trong tuần này đăng tôi có được ít nhuận
bút.
-Anh không gởi
truyện cho Văn
-Sức mình
chưa đủ. Cứ theo dạng này, mình kiếm được ít tiền tiêu vặt.
Hai người rời quán ra xe. Về tới nhà
dì Hồng, Lăng còn ở chơi chuyện trò đến mười giờ khuya mới về. Lúc này,
Lăng
đang ở nhà cậu Nghiêm. Khi được giải ngũ
ra ngoài dân sự , cậu
đi làm Luật
sư, cuộc sống thật dễ chịu, thoải mái. Nhiều vụ án, cậu phải đi xuống
miền Tây
và các tỉnh xa.
Những ngày nghỉ phép vẫn thong dong.
Từ hôm về lại Sài Gòn, Thụy chỉ có đi chơi với Lăng, ghé tới nhà mấy
người bạn
cũ là lưu học sinh trong những năm học ở Đà Lạt.
Một hôm Thụy tìm đến nhà Khánh, lại
gặp Phượng. Cô vẫn nhận ra anh, lên tiếng hỏi:
-Lâu nay anh
đi đâu?
-Anh đi học
ngoài Nha Trang mới về ?
-Anh vào nhà
ngồi chơi đợi anh Khánh.
-Anh Khánh vẫn
làm việc ở hãng cũ ?
-Ủa, anh
Khánh đi lính rồi, anh không hay à.
-Không, lâu
chưa ?
-Bây giờ anh
làm việc ở Biệt Khu Thủ Đô.
-Khánh được Ở
Sài Gòn là hay lắm.
-Anh ra Nha
Trang học gì ?
-Anh đi bên
Không quân.
-Anh có lái
máy bay không ?
-Không, anh
làm việc dưới đất.
Nhìn Phượng, Thụy có thấy đổi thay
và trên vẻ mặt cho một ý nghĩ nay Phượng đã có gia đình.
Khánh về nhà, ngạc nhiên thấy Thụy đến.
Gặp nhau vui mừng, Thụy ở nhà bạn ăn cơm, sau đó, hai đứa lại ra quán
nước ở
ngoài đường.
Nhà Khánh vẫn ở đường Cô Giang. Khu
phố này vẫn như xưa, không mấy thay đổi. Thiện, em của Khánh, năm đó
học Đệ Tứ
và Khánh đã có ý bảo Thụy đến dạy kèm nhưng rồi anh đi lính.
Thụy nói:
-Tao định viết
thư cho mày, nhưng quên địa chỉ.
-Mầy tính
sao có lợi cho mầy thì làm.
-Biết vậy rồi.
Nhưng sợ mầy trông.
-Tao có ý đợi,
nhưng nghĩ chắc mầy xin được việc.
-Thực ra,
tao có làm việc ở tòa báo mấy tháng rồi đi lính.
Ngồi ở quán nước bên đường, trong
bóng ánh đèn điện, gương mặt hai bạn trông khác xưa nhiều.
-Mầy đi khóa
mấy ?
-9/68.
-Đến chừng
nào lên Thiếu úy ?
-Còn bốn
tháng nữa.
-Mày, sao ?
-Tao đi lính
Không Quân một thời gian, giờ được cho đi học Sĩ quan hoa tiêu.
-Vậy mầy được
đi Mỹ.
-Chưa biết.
Vì, tao đang còn chờ học một khóa Anh ngữ.
-Học ở trường
sinh ngữ quân đội.
-Đúng.
Thụy đốt điếu thuốc. Trong ý nghĩ
riêng mình, anh cảm thấy Khánh là người bạn tốt, chân thực. Vào thời
còn đi học,
xa nhà làm học sinh ở chung gác trọ với nhau, lúc ấy, tình bạn của tuổi
niên
thiếu khác bây giờ. Khi đến tuổi trưởng thành, người ta mới có được ý
nghĩ rằng
cuộc sống hằng ngày cần được xây dựng từ trong hai ý niệm: thời gian và
bằng hữu.
Và, khi có được mối liên hệ căn bản này bạn sẽ thấy, cá nhân là của xã
hội.
-Mầy có gặp
mấy đứa không ?
-Chúng nó ở
đây cả. Trừ tao ra, đứa nào cũng đã xong Đại Học.
-Mầy có đi học
lại không ?
Thụy kể vắn tắt về mình trong mấy
năm qua. Khánh nói:
-Tao cũng muốn
đi học cho xong, nhưng ít thì giờ quá.
-Ở giai đoạn
này chiến tranh đang leo thang, mình có muốn cũng vô ích.
-Rồi sao, vợ
còn gì chưa ?
-Chưa nên gì
cả, làm sao tính chuyện đó được. Còn mày ?
Khánh cười bảo:
-Tao cũng
như mầy thôi.
-Không đâu,
mầy quá dễ dàng.
-Mầy tin vậy
sao ?
-Hoàn toàn.
Nói đi, bà xã làm gì ?
-Bà làm việc
ở ngân hàng.
-Lúc nãy vào
nhà tao không thấy.
-Bà về bên
nhà ngoại.
-Mấy mống rồi.
-Một.
-Phượng thì
sao ?
-Mầy thương
nó không ?
-Nếu tao được
làm em mầy là nhất.
Thụy và Khánh đứng dậy rời quán. Trở
lại nhà Khánh, Thụy nói cho người bạn nghe về những ngày mới đây ở quân
trường
và ước vọng sẽ trở thành phi công của mình. Vừa nghe Thụy nói, Khánh
đặt bàn
tay trên vai bạn.
Dừng lại bên ngoài lối đi vào con hẻm,
Khánh nói:
-Thứ bảy, chủ
nhật ra ngoài ghé tao chơi.
XII
Trại khóa sinh Không quân còn có một
cái tên thân quen là Tent City, tọa lạc trên một diện tích đất khá
rộng, cổng
gác nằm trên con đường phụ, rẽ phải là hướng đi Tân Sơn Nhất, rẽ trái ,
ra đến
ngã ba con đường chính là thấy quận Gò Vấp. Từ ngã ba này, đi xuống
phía Phú
Nhuận là về Sài Gòn, đi ngược lên là đường tới Trung Tâm huấn luyện
Quang
Trung, đường này cũng sẽ gặp quốc lộ I đi Tây Ninh.
Đây là một khu vực gồm nhiều dãy nhà
kho tiếp liệu cũ của người Mỹ, sau khi đơn vị này rút đi, họ để lại
những nền
nhà trống, và BTL/KQ đã chọn địa điểm này làm nơi tập trung khóa sinh
học Anh
ngữ. Quân số khoảng gần một ngàn được chia ra một nửa học lớp buổi
sáng, một nửa
học lớp buổi chiều. Thành phần đông nhất của trại là SVSQ, hơn sáu trăm
người.
Hai dãy nhà lều đầu tiên trông ra
phía cổng gác là nơi dành cho khóa 69B mới đến. Khóa này quá đông quân
số nên
được phân làm hai Đại Đội 701, 702. Sự phân chia này không chọn lựa,
lấy thứ tự
từ kết quả đậu cao thấp về khóa thi quân sự ở Nha Trang.
Thụy thuộc Đại Đội 702, học lớp buổi
chiều. Lúc sáng nay tập họp nghe nội qui, xong tan hàng về lều dọn chỗ
ở, anh
em người nào cũng vui vẻ, phấn khởi.
Trong mỗi căn lều đã có sẵn giường sắt
cá nhân và đèn điện. Về mặt sinh hoạt, trại có sân chơi bóng chuyền,
câu lạc bộ
, thư viện đọc sách báo và các quán ăn ở khu gia binh. Một nhà thầu lo
chuyện
cơm nước cho khóa sinh ngày hai buổi, ai muốn ăn, đóng trước tiền cơm
tháng để
nhận phiếu ăn. Giờ ăn rộng rãi trong ngày cho hai bữa trưa và chiều.
Nếu không
ăn cơm nhà thầu, tự do xuống khu gia binh. Ở nhà thầu, không cho ghi
sổ, nhưng
dưới khu gia binh, anh em được ghi có giới hạn.
Khi đến lều nhận chỗ ở, Thụy chọn
ngay giường đầu bên cửa lều. Một cái giá để đồ nhẹ, anh em cất ba lô,
túi xách
, còn sac marin nặng để ngay phía góc giường.
Hai tuần qua nghỉ phép, Thụy mua được
một ít thứ đồ cần dùng và sách học tiếng Anh. Anh cảm thấy phấn chấn,
yêu đời,
yêu thành phố và ước mong mình giữ được tuổi trẻ một cách hồn nhiên.
Trong khoảng
khắc đó, anh tự yêu lấy mình, cho rằng chỉ còn có mình hiểu được mình
thôi.
Nhưng rồi, anh nhận ra một sự vắng bóng lạ thường. Người con gái anh
nhớ nhiều
nhất là Huê. Nhưng Huê đang ở đâu, anh không biết. Anh hỏi Thúy, tìm
đến nhà
cũ, nhưng vẫn không có được tin. Một buổi chiều thứ bảy ngồi ở quán cà
phê nhìn
ra ngoài trời mưa, Thụy thấy nhớ đến Huê hơn lúc nào hết. Và ở Sài Gòn
anh vẫn
thấy nhớ Sài Gòn, nhớ đến Huê nữa, nàng cho anh cũng nhiều kỷ niệm,
tình yêu vừa
là em gái, Huê ở đâu ?, anh khát thèm được nghe giọng nói của Huê và
những chuyện
vui Huê kể.
Trong cuộc sống nếu có sự trớ trêu
như vậy là thường tình. Nhưng rồi, có hay là không vẫn chỉ lấy làm một.
Một điều
may mắn, là mấy truyện ngắn Thụy đem gởi cho các báo, truyện nào cũng
được
đăng, tiền nhuận bút cả ba truyện anh nhận
được đúng hai ngàn. Với số tiền lương
còn lại, cộng thêm tiền nhuận bút may mắn đến lúc cần, Thụy yên tâm để
dành cho
mình trong thời gian của khóa học.
Tính ra số truyện Thụy viết từ bốn
năm qua gom góp lại mà in sách cũng được hai ba tập, nhưng anh không
thể in được,
vì truyện anh viết mới là cảm xúc chưa có gì lấy là độc đáo, đặc sắc.
Với lại,
do cuộc sống khó khăn, khi viết anh nghĩ tới, tìm tới nơi báo nào đăng
được để
có tiền nhuận bút. Tuy nhiên, rồi cũng đến ngày, nghiệp văn là đời của
Thụy.
Lúc ấy, cuộc sống hàng ngày không thể thiếu cái phần thời gian quí giá
dành cho
công việc viết văn.
Thiên Nga đang dạy học ở Quảng Trị,
nơi quê hương nghèo khó của Thụy. Và,
nàng thấy hạnh phúc với việc dạy học, cùng với tình cảm êm dịu nàng có
với
thành phố, với người dân, nhất là với học sinh.
Mỗi tuần, Thiên Nga chỉ dạy trong ba
ngày. Với đồng lương lãnh được, quá đủ cho nàng trong các sinh hoạt
thường nhật.
Trong mấy ngày rảnh rỗi, Thiên Nga vẽ tranh, đề tài của nàng rất phong
phú,
tranh phong cảnh, tranh lụa, tranh tĩnh vật. Những bức tranh nàng vẽ,
thể hiện
cả tâm tính và thiên hướng của nàng. Nàng học được các bậc thầy hội họa
trong
cách dùng chất liệu màu, cách bố cục một bức tranh, nhất là thể hiện
tinh thần
bức tranh qua nét vẽ. Với nàng, hội họa không phải là bắt chước mà là
sáng tạo.
Sự sáng tạo cho thấy đời sống thực của con người qua mỗi cách diễn tả.
Nga nhận
ra sự tự tin của mình khi đứng trước giá
vẽ, và thấy, những nét vẽ mỗi ngày một sắc.
Nếu không dùng vào thì giờ vẽ, nàng
nghe nhạc qua những băng cassette. Trong nhiều cuốn băng nàng có sẵn và
mua
thêm sau này, nàng chọn lọc được nhiều bài hát nàng thích, rồi thu lại
làm hai
cuốn riêng. Hai cuốn này, nàng để dành những lúc bên Nguyên, hai người
trong
không khí ấm áp của ly cà phê, trong vòng tay ôm ấp, và hạnh phúc trong
mỗi lời
tự tình của bài hát.
Nga đọc sách cũng khá nhiều. Với một
năm học ở lớp Dự bị, kiến thức của Nga đã có phần mở rộng về hai mặt
cảm xúc và
suy tưởng. Trên kệ sách của nàng, có mấy cuốn truyện tiếng Pháp của
Sagan,
Balzac, Flaubert loại livre de poche. Nàng có mua một ít sách khảo luận
văn học,
và khá nhiều truyện dịch của tạp chí Văn xuất bản. Trong cuốn truyện
Buồn Nôn của
nhà văn Jean Paul Sartre, nàng rất thích câu cuối cùng của tác phẩm:
Ngày mai,
mưa sẽ rơi trên thành phố Bouville. Nàng đọc xong câu văn , im lặng
ngồi rất
lâu, và tưởng như nó là nguyên vẹn một ly cà phê đậm thật ngon để trước
mặt
nàng. Không đâu cô, đây là câu nói giã từ của chàng Roquentin khi rời
bỏ thành
phố này để đi lên Paris.
Có một ít tuần báo, Nga thường hay
mua đọc, sở thích là báo Kịch Ảnh. Ở Quảng Trị có đến bốn hiệu sách,
hiệu nào
cũng có nhiều sách và báo. Khi ghé vào hiệu sách, đứng ở quầy báo, Nga
thường
coi qua để chọn mua vài tờ đọc giải trí. Nếu tình cờ, trong mấy tuần
báo này có
đăng truyện của Thụy, Nga mừng vui, mua ngay. Trên đường về, nàng hình
dung các
chàng trai, những người lính, các cô gái, và không khí các quán cà phê
trong
thành phố, không khí chiến tranh, đó là những chi tiết,
bối cảnh rất quen thuộc trong nhiều truyện ngắn
của Thụy. Nga và Thụy, hai người thật là tâm đắc, quí mến nhau với sự
chân
tình, trong sáng. Thiên Nga bỗng nhớ đến cát trắng ở làng quê nội của
Thụy,
nàng hay nghĩ, cát trắng thật là sạch sẽ.
Nàng cũng hay trao đổi tâm tình thư
với Thụy, cứ mỗi truyện Thụy viết, đọc xong, nàng viết thư cho anh nêu
ra mấy
nhận xét thẳng thắn, đề nghị một số chi tiết nên sửa đổi
hay làm sáng tỏ, và giọng nàng trong lá thư
luôn thân tình, vừa dí dỏm. Với những lúc được đọc truyện ngắn của
Thụy, rồi cứ
đến những buổi dạy học ở các lớp về ba môn Họa, Văn và Địa lý, đó là
những lúc
hạnh phúc của nàng. Về Thụy, ở xa mỗi lần Thụy nhận được thư của Thiên
Nga hay
Thúy Hà là anh có một niềm vui, nhưng rồi sau đó lại buồn. Thúy Hà ơi,
tình yêu
ở nơi đâu mà cứ gây nỗi nhớ bâng khuâng, buồn bã, đơn độc để hai người
cứ ở mãi
một bên trời lận đận. Thiên Nga rất hồn nhiên, đẹp sáng trong nắng thu.
Khi được
đọc thư Thiên Nga, anh rất mến yêu nàng, thân quí và san sẻ bao nhiêu
kỷ niệm của
gia đình trong đó, và khi viết thư cho nàng hai điều anh lo ngại nhất
là sợ
nàng buồn ở một nơi chốn xa nhà, thứ hai, là công việc dạy học mới vào
đời của
nàng. Thế nhưng, nàng luôn cảm thấy hài lòng vì nàng được học sinh ham
thích học
môn nàng dạy và các em rất quí mến nàng. Đến cả đồng nghiệp, dù nàng
không thân
riêng một ai, bên nam cũng như nữ, nhưng họ rất quí trọng, lịch thiệp,
không tỏ
ra một điều gì gây cho nàng sự dị nghị
hay khó xử. Và, luôn luôn bên nàng có Nguyên.
Trưa, đã tới giờ cơm. Những khóa
sinh học lớp sáng đã về trại, tất cả cùng tấp luôn vào nhà ăn trước khi
về lều
nghỉ. Từ mười giờ, nhà thầu đã ra cơm, và những khay cơm đã dọn sẵn
trên hai
dãy bàn. Khi vào ăn mỗi người đưa phiếu cho người quản lý xong đến bàn
nhận phần
ăn. Những lớp học mới ra về hôm nay là khóa sinh đã ở đây trước, riêng
khóa của
Thụy ngày mai, hai Đại đội mới nhập trường.
Vì giờ ăn đang đông nên Thụy lên thư
viện ngồi đọc báo cho qua thì giờ. Báo Lý tưởng vẫn phát hành đều đặn
hàng
tháng. Anh Dương vẫn làm công việc Tổng thư ký tòa soạn. Trong tòa báo,
nay có
thêm một vài người mới. Hình như những người này là hạ sĩ quan đồng
hóa. Từ
ngày rời tòa soạn đến nay, Thụy không có gởi bài, với lại, anh có ý
những bài
ký và truyện sáng tác anh dành cho báo ngoài để kiếm ít tiền nhuận bút.
Chẳng
qua, có được thêm khỏan này đỡ với đồng lương, chứ tài năng của anh,
chưa lấy
gì là có tên tuổi. Và, Thụy cũng chẳng mong nghĩ tới những truyện của
mình viết
ra được đăng trên báo Văn hay Bách Khoa.
Buổi chiều, anh em trong khóa đang từng
nhóm vui chuyện, chơi cờ bỗng nghe có lệnh tập họp. Rất nhanh, từ các
lều đi ra
ngoài, họ tập trung mau chóng thành hàng như ở quân trường.
Viên Trung úy hỏi:
-Anh nào là
Trưởng khóa ?
Trong hàng, một bạn bước ra.
-Kể từ nay,
có gì anh liên lạc với tôi.
-Rõ.
Sau đó, viên Trung úy giới thiệu tên
và nói trách nhiệm của mình ở trại. Ông là người được Ban Giám đốc giao
đảm
trách về sinh hoạt nội vụ của khóa sinh.
-Các anh có
biết tập họp làm gì khọng ?
-Không.
Một nụ cười trên miệng và giọng vui,
ông nói:
-Thấy các
anh ở nhà buồn, đưa anh xuống Sài Gòn chơi.
Một vài bạn vui giọng đáp lời.
-Hai tuần
phép đi chơi nhiều rồi, Trung úy.
-Vậy giờ các
anh muốn đi đâu ?
-Về lều nghỉ.
-Dễ thôi.
Cứ tưởng không có gì, ông Trung úy sắp
cho tan hàng. Nhưng rồi, một giọng nghiêm ông nói:
-Ngày mai
các anh bắt đầu nhập học. Bây giờ tôi đưa các anh qua thăm trường, sau
đó, các
anh sẽ nhận sách mới để học. Xin các anh giữ trật tự khi đi, khi về, và
nhất là
trong khi thăm viếng đừng trò chuyện ồn ào.
Viên Trung úy quay sang Trưởng khóa,
bảo:
-Anh cho
hàng quân di chuyển.
-Đàng trước,
bước.
Rất đều bước và tác phong như ở quân
trường.
-Cho bắt bài
hát.
Tự động, trong hàng một quản ca bắt
giọng. Tiếng hát cất lên, khúc Không Quân Hành Khúc rộn ràng trong nhịp
bước
hăng hái.
Tới phía cổng, đoàn quân dừng lại.
Viên Trung úy đến, ra hiệu cho người lính gác mở cổng cửa. Đoàn quân
tiến qua
khi cổng gác cất cao lên.
Vào khu vực của trường mọi người yên
lặng, nhất nhất theo sự hướng dẫn của viên Trung úy.
Rồi đoàn sinh viên đứng ở ngoài sân
trông ra phía cổng chính của trường Anh ngữ.
Không đợi lâu, một viên Đại úy đảm
trách phần học vụ xuất hiện, trước khi nghe lời ông phát biểu anh
Trưởng khóa
hô lệnh nghiêm nghỉ trình diện.
Viên Đại úy hỏi:
-Các anh ở
Nha Trang mới về phải không ?
-Phải.
Viên Đại úy giới thiệu tên và trách
vụ của mình. Sau đó, ông vào đề, khi ông nói, anh em im lặng lắng nghe
và ghi
nhớ những điều quan trọng.
Sau hai mươi phút nói chuyện, viên Đại
úy và cả viên Trung úy hướng dẫn sinh viên đi thăm
toàn cảnh bên ngoài và bên trong trường.
Trường tọa lạc trên khu đất rộng, có
nhiều bộ phận, mỗi bộ phận có một căn nhà riêng khá rộng. Lớp học là
một dãy
nhà đôi dài, mái ngói xi măng, thoáng mát có đến hơn hai mươi phòng .
Trong số
phòng học, có phòng thính thị, và phòng chiếu phim vừa giải trí là hai
căn
phòng vừa lớn, và tiện nghi.
Lần lượt đến mỗi nơi, người thuyết
minh là viên Đại úy. Ông là người Bắc, nói tiếng nghe ấm và rõ. Rồi sau
khi
tham quan các lớp, khóa sinh được gặp các nhân viên văn phòng và ban
giảng huấn.
Nhân viên văn phòng có ít người, còn bản giảng huấn đông hơn với một
phần ba Việt
Nam, hai phần ba là lính Mỹ. Những giảng viên người Mỹ, hầu hết là
những anh
binh nhì, hoặc hạ sĩ quan bị động viên nhưng người nào cũng đã tốt
nghiệp ở Đại
học chuyên về ngành giáo dục, và họ ở trong cơn quan viên trợ quân sự
và văn
hóa. Khi đi dạy, họ mặc đồ lính bốn túi,
mang súng M16. Giảng viên Việt Nam là các Sĩ quan từ
cấp Chuẩn úy đến
Trung úy. Những Sĩ quan này đều là thành phần sinh viên và tốt nghiệp
Đại học ở
ngoài. Về chuyên ngành Anh ngữ, họ được qua một lớp huấn luyên Anh ngữ
ở trường
Lackkland Hoa Kỳ.
Trong lúc bên ngoài có thăm viếng,
trong lớp học, các khóa sinh đang nghe giảng viên giảng bài.
Thời gian thăm viếng một tiếng. Trước
khi về, là một buổi phát sách học của nhà trường. Đây là loại sách dành
cho lớp
sơ cấp ghi số 1100 nằm trong bộ Americain English Course gồm 10 cuốn.
Bốn cuốn
sơ cấp, bốn cuốn trung cấp và hai cuốn cao cấp. Như lời viên Đại úy cho
hay, mỗi
cuốn thời gian học ba tuần, hết sơ cấp thi lên trung cấp, ở bậc trung
cấp chia
hai giai đoạn, và cuối giai đoạn 2 bậc trung cấp thi ra trường, khóa
sinh được
đủ điều kiên du học phải đạt được số điểm 80 ESL. Bài thi ra trường gồm
có 120
câu, 80 câu nghe và trả lời, còn lại 40 câu viết.
Sách được cấp phát rất là mới. Giấy
cứng và trắng tinh, chữ rõ ràng, mỗi bài
từ bốn đến năm trang in, trong đó phần chính là đàm thoại, những câu
hỏi, cách
phát âm và sau hết là phần văn phạm.
Kết thúc buổi thăm viếng trường, anh
em theo viên Trung úy dẫn ra về. Khi trở lại cổng Liên đoàn, đoàn quân
tự động
tan hàng, giải tán.
Ở phía sân bóng chuyền đang có người
chơi và một số đứng xem. Giờ này, cũng là giờ ăn cơm chiều ai muốn ăn
sớm thì
vào ăn, trễ muộn cũng được.
Thụy ngôi trên giường lật lại cuốn
sách coi qua một lúc. Trong các lều, anh em tụ lại chơi cờ, domino, tán
chuyện
gẫu. Không có ai nói gì chuyện học Anh ngữ, những gì nghe được lúc nãy,
giờ muốn
tạm quên.
Ở phía sân bóng chuyền, có tiếng vỗ
tay. Từ giường nhìn ra sân, Thụy thấy quả bóng lên cao và có một người
đang nhảy
đập , nhưng bóng chạm lưới bật trở lại.
Thụy cất sách đứng lên, ra ngoài dạo
bước lấy không khí mát buổi chiều. Khi trở về, anh ghé vào hội quán ăn
cơm. Giờ
này, vẫn đông người ăn, ngồi rải rác các bàn. Hội quán khá rộng, nền xi
măng,
mái trần cao thoáng mát. Khi có chương trình học tập hay trình diễn văn
nghệ
thì toàn khóa sinh tập trung ở đây.
Bây giờ, một ngày đã hết. Đêm xuống,
đèn đường sáng lên. Trong các lều đèn cũng bật sáng, nhưng ánh sáng chỉ
vừa đủ
để chơi cờ, đọc sách, không tỏa rộng.
Vào lúc này, có nhiều bạn viết thư
cho gia đình. Thụy có ly cà phê, anh uống chậm đốt thuốc lá, nhớ tới
những người
thân quen. Thế nhưng, kỷ niệm về mỗi người trở nên rời rạc. Trong mùi
vị cà phê
và khói thuốc, anh chợt mong trời đổ cơn mưa. Nhưng, đêm nay, trời
không có
trăng sao. Những sợi khói không mềm, không ẩm ướt, và lúc này đúng là
lúc Thụy
ngẫm suy về cuộc đời.
Trở về một buổi tối ấy, hai người đứng
bên nhau dưới mái hiên nhìn ra quang cảnh những khu phố dưới cơn mưa,
và nàng kể:
Một buổi chiều chủ nhật, chàng tìm đến
nhà nàng. Trong lúc đợi, chàng vẫn nghĩ đến lá thư của người bạn bỏ
trên túi
áo.
Tiếng hát qua máy thu thanh nhỏ dần,
rồi tắt. Một lúc sau, bóng nàng xuống cầu thang cùng với cặp mắt tìm
kiếm. Chàng
vừa trông thấy bóng nàng qua mái tóc thả bên vai,
chiếc áo cánh ngắn tay
lấm tấm hoa cải vàng.
Cầu thang nhỏ hẹp, nàng đi chậm.
Chàng hơi có cảm giác hồi hộp trong lúc chờ. Khi xuống đến nhà, nàng
nhìn chàng
vẻ bỡ ngỡ. Còn chàng, một tiếng sét bất ngờ như từ đôi mắt nhỏ bé kia
vừa ném tới
khiến chàng quyết định ngay tức khắc là vứt bỏ lá thư của người bạn gởi
nhờ,
không đưa nữa.
Dù có sự ngạc nhiên, nhưng nàng cũng
nhỏ nhẹ lên lên tiếng chào. Chàng vẫn là người khách lạ, gây cho nàng
sự chú ý
bằng dáng vẻ thanh nhã, đứng đắn, gương mặt hiền lành của một thư sinh.
Rồi
thêm ít bước nữa, nàng chợt linh cảm về
một sự việc mà dường như đã đoán biết.
Nàng kéo nhẹ chiếc ghế, vừa nói câu mời
khách. Họ chợt cùng mỉm cười, đưa mắt nhìn nhau.
-Cô đang học
thi ?
-Không, nghe
nhạc.
Nàng luôn tỏ ra là cô gái dạn
dĩ, nhạy cảm. Khi thấy chàng nhìn vào
đôi mắt mình, nàng hiểu ngay, rồi bằng dáng điệu nghiêng vai một chút ,
sau đó
nàng lặng im để nguyên vẹn cả khuôn mặt sáng đẹp cho chàng
nhìn ngắm. Và từ phút
giây này, chàng trai không bối rối nữa, cũng
chẳng phải suy ngẫm tìm kiếm những lời
hay ho để tán tỉnh, cặp mắt đa tình của chàng là cục nam châm hút ngay
sắc đẹp
cô gái rồi. Đến cô gái, thì cũng biết
mình đã biết bị rơi bởi tiếng sét.
Cậu bé em nàng bưng chiếc khay
nhôm ra để hai tách trà xuống bàn, nói một
giọng mời rất lễ phép.
Chàng xin phép uống nước. Nàng mỉm
cười trong hương thơm từ nhan sắc tỏa ra, phảng phất. Bây giờ gần nhau,
chàng
được nhìn thấy nàng sáng đẹp lên một khuôn mặt,
dịu dàng màu ánh mắt , những
nụ
cười đậu quanh vòng cổ trắng nõn, hai cánh tay đầy đặn và mái tóc mượt
mà vắt
bên vai áo.
Những câu hỏi đáp, bắt đầu quay vòng
giống như ba chiếc kim đồng hồ cùng di chuyển theo một chiều thật nhẹ
nhàng, từ
tốn, đến một lúc, bỗng nhiên tiếng nói nhỏ dần tưởng
chỉ còn nghe qua hơi thở.
Nhà vắng, mọi người đi
đâu chỉ còn hai chị em.
Chàng ngồi đợi , tay cầm tách trà lên uống từng hớp nhỏ. Chàng cảm thấy
vui cho
hạnh phúc của mình, vì được gặp cô gái của người bạn mà anh ta đã nhờ đưa thư.
-Em học lớp
mấy ?
Cậu bé đáp ngay.
-Dạ Đệ Lục.
-Em học ở
Phan Châu Trinh.
-Dạ không,
trường Sao Mai. Chị em cũng học ở đó.
Khi nghe tiếng bước chân xuống cầu
thang, chàng ngừng chuyện hướng mắt nhìn bóng dáng nàng. Chiếc áo dài
trắng,
mái tóc xõa vai, nụ cười trên cặp nhỏ bé, cặp môi còn tươi đỏ, chừng
đó, chàng
trai đã nhìn thấy cái sắc đẹp mê hồn của một thiếu nữ. Chàng đứng lên
nhìn nàng
tới gần, và lúc đó chàng bỗng khát thèm muốn được ôm hôn nàng. Rồi chỉ
trong một
phút lâu, đôi mắt hai người cùng lặng im ngừng đập nhịp thở.
Nàng quay đầu, nói với cậu bé:
-Em coi nhà
nghe.
-Dạ.
Ra bên ngoài cả hai cùng dừng bước.
Nàng hỏi:
-Đi đâu anh
?
-Tùy em.
Trời về chiều, sức nóng dịu dần. Hai
người đi bộ hướng lên khu công viên. Ở nơi đó,
phía trước là bến Cảng với nhiều quán nước nằm rải
theo con đường dọc bờ
sông, còn đằng sau một ngôi trường học
đã đóng cổng cửa vì lúc này đang là mùa hè.
-Năm nay em
không thi cử sao ?
-Năm tới mới
bắt đầu.
Nàng là một cô gái đẹp, nhẹ nhàng với
từng bước đi. Chàng trai mặc chiếc áo sơ mi
kẽ sọc, tóc chải rẽ, giọng nói hơi kéo dài nhưng dễ
nghe. Trước mắt hai
người, quang cảnh khu công viên mở rộng. Gió, lá rụng, màu cỏ xanh
tươi, sóng
nước vỗ lên bờ đá, tiếng còi tàu trỗi dậy một âm vang bồi hồi bỗng chìm
lặng
trong tiếng cười nói ồn vui của nhiều
người đang dạo chơi.
Nàng rất thẩm ý, cười một mình khi
nghĩ đến sự tinh quái, liều lĩnh của
chàng trai.
-Em có đi học
cours hè không ?
-Không, hè
muốn nghỉ chơi cho đã.
-Em nên học
chuẩn bị cho năm tới.
-Anh dạy cho
em đi.
-Sẵn sàng.
Nàng để yên bàn tay cho chàng nắm.
Hai người đi vào khu công viên. Ngày chủ nhật thật vui. Người ta đi dạo
loanh
quanh, những chiếc ghế đá bỏ trống nhiều. Ở các quán nước có đông thủy
thủ, họ
đang đùa giỡn, la hét.
Hai người đi sâu đến chỗ gần bờ
sông. Ngồi xuống chiếc ghế đá để nghỉ, chàng cầm tay nàng vuốt ve, cặp
mắt âu yếm
nhìn lên gương mặt người yêu.
-Em đẹp quá.
Tâm hồn anh...
-Như mây
bay...
-Như..., được
thấy em trong lòng anh.
Nàng vui cười, rồi bảo chàng.
-Anh gọi đứa
nhỏ đem nước uống đi.
-Để anh đi.
-Không, anh
ngồi đây, em còn hỏi anh.
Nói xong, nàng làm bộ vẻ mặt nghiêm.
Chàng trai tự dưng hơi bối rối.
-Anh gọi đứa
nhỏ lại đi.
Chàng đứng lên. Ở đằng quán, thằng
bé trông thấy chàng ngoắc tay vội chạy đến.
-Cô chú gọi.
-Em uống gì
?
-Nước cam
tươi.
-Một cà phê
đá, một cam tươi.
Thằng bé chạy đi ngay. Nàng nhìn qua
chàng, giọng lạnh lùng hỏi:
-Thư của em
đâu ?
-Làm gì có
thư.
-Đừng tưởng
em không biết. Thư đâu, lấy ra.
-Không có.
Mà có, anh cũng xé ngay.
Nàng cười, nhanh tay giựt lá thư
chàng cất trên túi. Nàng nhìn phong bì, nói:
-Đúng là thư
của Khoa gởi cho em mà anh không đưa.
Chàng cười sung sướng, mãn nguyện.
-Em đẹp quá.
Anh chết ngay lúc mới gặp em, còn đưa thư từ gì nữa.
-Trông mặt
anh hiền, mà cũng tinh quái, liều lĩnh ha.
-Có vậy, em
mới không chạy trốn được anh.
Nàng bỏ lại lá thư trong túi áo của
chàng.
-Em cứ mở ra
đọc đi.
-Không.
Hai người nhìn thằng bé mang thức uống
tới. Lúc nó tới gần, chàng đứng dậy lấy ly nước cam tươi đưa cho nàng.
-Đem cho chú
chiếc ghế nhỏ.
-Dạ.
Nước cam vàng rợi, đầy ly, dậy mùi
thơm. Nàng hỏi:
-Anh về nghỉ
hè lâu không ?
-Chắc là cuối
tháng anh trở ra Huế.
Nàng hỏi:
-Có em
khác
ngoài đó nữa.
-Không. Anh
phải ra thi khóa II. Khóa I, chắc là rớt.
-Anh học ở
Luật ?
-Không. Bên
Khoa Học.
-Anh sắp
xong chưa ?
-Anh mới học
năm thứ nhất.
Khi thằng bé mang chiếc ghế nhỏ tới,
chàng trả tiền nước và cho thêm mấy đồng.
Nàng vẫn cầm ly nước cam trên tay,
ngậm ống hút uống từng ngụm nhỏ. Chàng đặt ly cà phê lên ghế, tìm gói
thuốc ở
túi quần lấy một điếu.
Nàng ngồi im, mắt như vẫn cười nghĩ
tới điều gì đó. Anh lửa que diêm cháy sáng, rồi điếu thuốc được đốt,
những hơi
khói đầy trong cổ họng chàng thở nhẹ ra bay lơ lửng. Phía ngoài Cảng,
nhiều con
tàu neo đậu và có đông thủy thủ đứng trên boong. Nắng buông xuống, tràn đầy trên dòng sông.
-Ở Huế, anh
thuê trọ hay ở nhà quen.
-Anh ở chung
với Khoa.
Chàng đáp lời ngay. Nàng nhìn qua
gương mặt chàng dò xét.
-Anh Khoa là
bạn thân với anh ?
-Anh có nhiều
bạn, nhưng không thân với ai cả.
Chàng đang thưởng thức điếu thuốc
ngon miệng. Lúc này, nàng đâm ra nghĩ ngợi. Nhưng, thực sự nàng chẳng
phân vân,
thắc mắc gì nhiều. Tình yêu, luôn có những lý lẻ riêng của nó.
Hai người rời công viên, đón xe xuống
phố. Chiếc xích lô thong thả chạy trên con đường dọc bờ sông. Dòng sông
rộng,
nước sông mênh mang với những đợt sóng nổi chìm. Ngồi chung xe, sự tiếp
xúc trong
yên lặng đã làm nàng muốn giấu đi nỗi e thẹn của mình, còn chàng cảm
thấy mình
như bị đè nén.
Vào đầu ngã tư phố chính, xe ngừng,
hai người xuống. Chàng trả tiền xe xong, cùng nàng đi dạo phố.
Nắng tắt, thành phố xuống trong nỗi
buồn yên lặng như sắp sửa rời xa. Hai người đi trên con đường lớn dẫn
tới một rạp
chiếu bóng. Cuốn phim Mirage de la vie đã chiếu từ
đầu tuần, hôm nay có thể là ngày chót.
Hai người vào lối cửa lên balcon.
Nàng rất vui, những ngón tay êm ái đan vào trong tay chàng. Rạp hát
sáng đèn,
âm thanh tràn kín nổi chìm theo điệu nhạc trong tiếng đàn.
Chàng dắt nàng đến dãy ghế cuối, và
lấy hai ghế ngoài. Ở tầng trên, không có đông khán giả bằng ở phía
dưới. Lần đầu
tiên nàng đi với một chàng trai vào rạp hát. Lòng rất vui, vì nàng được
gặp một
người yêu thật vừa ý mình. Chàng trai khá dễ thương, khuôn mặt hiền
lành, và cặp
mắt ngây thơ vừa đa tình.
Giọng nói của chàng nhỏ nhẹ như con gái. Rạp
hát là nơi tìm thấy hạnh phúc chân thực. Chàng và nàng quá hiểu nhau
nên không
cảm thấy bồn chồn chờ đợi buổi chiếu phim bắt đầu.
Nơi mái tóc, gương mặt và toàn thân
nàng tỏa ra hương thơm ngây ngất. Bàn tay nàng vẫn nằm yên trong tay
chàng, một
lúc sau chàng kéo nàng lại gần mình. Bên nhau, là một ngày mai.
Bỗng nhiên, tiếng nhạc ngừng. Những
ngọn đèn sáng trong rạp hát vụt tắt. Tự dưng, cả chàng và nàng nôn nao,
nghe bồn
chồn bởi nhịp đập đang dồn nhanh. Phim thời sự được chiếu trước. Hình
ảnh đô thị
Sài Gòn hiện lên trong màu sáng của phim đen trắng. Tiếng người xướng
ngôn viên
nói nhanh. Quanh những hàng ghế, bỗng có tiếng ồn ào bàn tán về biến cố
Phật
Giáo.
Qua một cánh đồng, bóng dáng một người
đàn ông đang phi ngựa thật nhanh. Bên kia ngọn đồi là một thị trấn,
những ngôi
nhà tường vôi hồng nằm bên con đường. Người đàn ông dừng ngựa lại đưa
mắt nhìn
quanh. Đây chỉ là đọan phim quảng cáo, phim chính chưa bắt đầu.
Nàng nghiêng đầu tựa vai
chàng. Thật âu yếm, bàn tay chàng mềm mại
vuốt mái tóc nàng rồi cúi hôn nhẹ xuống vai . Hai người hạnh phúc qua
tiếng nói
rất nhỏ. Trên màn ảnh, bây giờ phim chính bắt đầu.
Không khí trong rạp hát lặng im.
Chàng cúi mắt xuống nhìn si dại gương mặt người yêu, rồi trải cánh tay
lên
thành ghế. Nàng ngả đầu , và để mặc cho mái tóc xõa tràn. Nàng im hơi
trong tiếng
thở nhẹ, rồi nhắm mắt. Khi chàng cúi mặt xuống, nàng hé môi. Chàng hôn
nhẹ, rồi
từ từ nuốt từng nụ hôn thật chậm. Chàng hôn thật lâu, dịu dàng, mê say,
nàng vẫn
khép mắt không muốn mở ra nhìn chàng, mỗi một giây ngừng thở, nàng lịm
ngất đi.
Khi chàng ngừng hôn, nàng mới mở mắt.
Không có ai ngồi những hàng ghế quanh đó để mắt chú ý đến chàng và
nàng. Trên
màn ảnh, cảnh phim di chuyển lúc chậm, lúc nhanh. Có một cô bé đứng bên cửa kính nhìn thấy người đàn ông đang ôm hôn
người mẹ mình. Và hình ảnh cuốn phim như là những tiếng động, những
tiếng đều
bước kéo theo sau một đời sống bình thường. Có lúc, người ta đứng lại
chờ mong
ai đó cất lên tiếng gọi.
Bên ngoài, buổi chiều đã tan vào
bóng tối, thành phố vừa lên đèn. Cuốn phim đột nhiên kết thúc với bài
thánh ca
vang vọng, sâu thẳm. Tiếng hát nghe nặng nề, xót xa, và mọi người cảm
nhận nỗi
buồn thảm. Bỗng dưng nàng lo sợ, nhưng sau đó, biết có chàng ở bên
mình. Rồi từng
hàng ghế khán giả đứng dậy, yên lặng đi từng bước chậm hướng ra cửa
chính.
Ai cũng cảm thấy nhẹ nhõm khi ra
ngoài. Trời đêm có gió mát. Lúc này thì giờ còn sớm nên cảnh sinh họat
trên các
ngả đường vẫn nhộn nhịp, đông người đi và xe cộ qua lại. Đà Nẵng là
thành phố lớn
thứ nhì của miền Nam sau Sài Gòn. Thành phố có con sông lớn, bến cảng
rộng,
buôn bán sầm uất, trước đây có nhiều vũ trường, quán rượu mở cửa đến
khuya. Ở
thành phố này, người ta chú ý vào cuộc sống hiện tại, khác với Huế mang
vẻ trầm
lặng muôn thuở, nhưng lúc này đây biến cố Phật Giáo đang sôi sục những
ngày đấu
tranh khốc liệt.
Chàng và nàng đi trên phố chính rồi
ghé tiệm ăn Hưng Viên. Chỉ mới quen nhau vừa trọn một buổi chiều, mà
giờ đây, bạn
đã nhìn thấy họ như đôi vợ chồng từ một nơi xa đến cùng chờ đợi chuyến
tàu ngày
mai. Bạn thấy họ rất tự nhiên, sự bối rối đôi lúc là một cử chỉ nhỏ
khiến họ phải
tìm một chữ, một tiếng cho chính xác hơn. Chàng và nàng vui chuyện, mỗi
câu nói
có thể tạo nên hình ảnh một trận đấu với nhiều cú đập bóng thật tuyệt
vời.
Tiệm ăn sang trọng, bàn ghế sạch sẽ,
đèn treo sáng sủa. Phía ngoài, gần cửa vào có đông thực khách ăn. Chàng
đưa
nàng đi vào các dãy bàn đặt ở phía trong, tối hơn, nhưng có được riêng
tư, ấm
cúng.
Hai người kéo ghế ngồi đối diện. Cái
nhìn nhau lúc này quá hạnh phúc, mãn nguyện. Em sẽ là vợ của anh, đôi
mắt nàng
vui lên muốn nói cho chàng hay điều này. Còn chàng, vẫn muốn tôn trọng
nàng,
coi nàng là một người tình diễm phúc.
Người đàn ông tới mang hai tấm bảng
menu đặt xuống bàn.
-Em chọn món
ăn đi.
Nàng mỉm cười nhìn thấy niềm vui
trên gương mặt chàng. Nàng mở menu, bình tỉnh chọn vài món ăn và đọc
cho người
chạy bàn ghi.
-Nước uống,
ông ta hỏi nàng.
-Cho tôi ly
trà đá.
-Cho tôi một
chai bia 33 lớn.
Người đàn ông bỏ đi, dáng bước vội.
Chàng hỏi:
-Năm tới, em
chọn học ban nào ?
-Ban A.
-Thời gian
hè còn lâu, em nên đi học thêm.
Nàng cười bảo:
-Anh dạy cho
em.
Chàng cười nói:
-Anh dạy, chắc
em không học được đâu .
-Sao mà
không.
-Có người
yêu kèm, không cô gái nào học được cả.
Nàng bật cười hơi lớn tiếng, vội lấy
khăn tay che miệng.
Bữa ăn được người hầu bàn lúc nãy
mang ra. Ông ta để cẩn thận từng món ăn xuống bàn. Cơm và thức ăn đều
nóng, bốc
khói.
Nàng lấy muỗng đũa, giấy
khăn lau đưa qua cho chàng . Nàng đang
làm bổn phận người vợ săn sóc chồng. Chàng có vẻ lơ đãng, mắt nhìn về
chiếc đồng
treo tường. Chiếc đồng có ba chiếc kim đều màu vàng.
-An đi anh,
nàng nhắc.
Chàng rót bia đầy ly. Nước bia sủi bọt
muốn trào ra ngòai. Nàng vắt múi chanh vào ly trà, uống một hớp đầy
trước khi
ăn.
Sự yên lặng thật từ tốn để cho hai
người vui trong bữa ăn. Chàng nói:
-Anh học ở
Sao Mai ba năm, vậy mà chẳng hề biết em.
-Em mới bắt
đầu học năm ngoái.
-Rồi những
năm trước em học ở đâu ?
-Em học ở Quảng
Trị. Em ở ngoài đó một mình với người bác ?
-Còn gia
đình ở đâu ?
-Gia đình em
vào trong này trước mấy năm.
-Sao em
không vào luôn ?
-Bác em
không có con cái nên giữ em lại ở với bác.
-Ông bà chắc
thương em lắm.
Nàng cười, nói đùa:
-Em rất nhiều
người thương, cả người thân và người ngoài
-Ở Quảng Trị,
chắc cũng đã có người quen em rồi.
-Đông lắm,
vui lắm. Em có đến cả tá thư nhận được.
-Rồi anh
Khoa quen em ở đâu ?
-Anh là người
đưa thư mà chẳng biết gì cả.
Bữa ăn vui ấm như câu chuyện mà
chàng nói xong, là nàng đáp lời ngay. Và hai người cùng đói nên ăn rất
ngon.
-Nhà anh ở
xa không ?
-Không xa lắm.
Cuối đường Độc Lập.
-Sao anh
không vào Sài Gòn học ?
-Ba anh muốn
anh học ở Huế.
Chàng kể chuyện về gia đình, cha mẹ
và những người anh em. Nàng yên lặng nghe, chú ý từng người khi chàng
nhắc đến.
Vừa nghe chàng nói, trong thâm tâm, nàng cảm động sung sướng rồi đây sẽ
được
làm vợ của chàng.
Chín giờ đêm họ rời tiệm ăn, bây giờ
về nhà. Mùa hè thật mát trong gió đêm. Hai người nắm tay nhau đi bộ
thong thả.
Phố chính bỏ lại đằng sau, con đường về trở nên yên vắng, tay nắm trong
tay hai
người lại vui với câu chuyện của mình.
-Anh muốn gọi
tên em là Gigi.
-Nghĩa là
sao ?
-Em đã coi
cuốn phim Gigi chưa ?
-Chưa.
-Leslie
Caron đóng cuốn phim này. Cô bé có tên là Gigi.
-Em không phải
là cô bé. Lớn rồi, đã yêu rồi, biết không.
Chàng vòng tay qua ôm người nàng.
Không có ai trên đường, nàng đứng im cho chàng hôn.
-Em đẹp quá.
-Anh yêu em
không ?
Chàng ôm giữ nàng thật kín gió trong
vòng tay mình. Chàng cúi xuống hôn môi nàng đã mềm ướt.
Rồi trở về, trên đường đi tiếng bước
chân đều nhịp. Chàng nói:
-Ngày mai em
ở nhà đợi anh nghe.
-Mùa hè này
là của anh, được chưa.
-Cám
ơn...,cám ơn em.
Nàng cảm nhận lời chàng nói như
hương vị những nụ hôn của chàng còn thấm ướt trên môi mình.
Về đến nhà, thấy chàng xuất hiện khiến
cả gia đình nàng ngạc nhiên. Nàng giới thiệu ngay chàng với ba mẹ và
các em.
Chàng có vẻ mặt thân thiện nên ai cũng mến chàng ngay.
Cả nhà đang ăn cơm. Nàng ngồi với
chàng cùng nói chuyện với gia đình một lúc rồi đi lên gác. Nàng trở
xuống ngay
sau đó với bộ quần áo nhẹ có những hạt cải xanh lấm tấm. Nàng luôn giữ
vẻ đẹp,
lúc có trang điểm cũng như lúc bình thường trong nhà.
Trong lúc chàng chuyện trò, nàng rót
thêm nước trà vào tách cho chàng. Vậy là tối hôm nay, sự hiện diện của
chàng đã
là một người trong gia đình này.
Chàng còn ở lại để cùng cả nhà uống
trà sau bữa ăn tối. Trên bàn khách bày một dĩa bánh ngọt lớn và kẹo.
Không khí
gia đình đầm ấm dưới ngọn đèn tỏa sáng. Nhà gia đình nàng ở vừa là một
cửa hiệu
buôn bán mỹ phẩm. Vào giờ này, bên ngoài cửa hiệu đèn néon vẫn để sáng
dù giờ
này không còn mấy khách mua ghé vào.
Bằng một giọng nói chậm, đầy sự hoài
nghi về thời cuộc, ông Kha ba của nàng nêu lên những sự căng thẳng của
chính phủ
Ngô đình Diệm trong biến cố Phật Giáo. Từ khi xảy ra, không buổi tối
nào ông
không mở các đài B.B.C , VOA, Phi Luật
Tân, Uc Đại Lợi để
nghe. Dù không để cho giọng nói mang nỗi
phẫn uất, nhưng ông là người thực sự bất mãn về chế độ đương quyền.
Những vụ tự
thiêu, những cuộc tranh đấu bất bạo động phía Phật Giáo theo ông, đó là
một đường
lối ôn hòa, nhưng rất quyết liệt. Ông
Kha luôn luôn là một con người thành tín. Bà Uyên, vợ ông là một Phật
tử thuần
thành. Bà rất dịu hiền, lúc nào cũng dè dặt, vừa lo sợ mối thảm họa,
nhưng rồi
bà đặt hết niềm tin nơi ánh sáng từ bi của đạo Phật.
Chàng vừa từ Huế vào nên tình hình
ngòai đó đang diễn ra như thế nào, chàng thấy và hiểu rõ. Bỗng tiếng
chuông đồng
hồ treo tường ngân vang lên những điệu nhạc. Chàng đứng dậy xin kiếu từ
đúng
lúc. Cả nhà cùng đáp lễ khi chàng nói lời chào. Bà Uyên bỗng hỏi:
-Thế cậu về
bằng gì ?
-Cháu đón xe
về được.
Nhìn chàng, bà nói:
-Có xe đạp
trong nhà, sợ cậu đi không tiện.
-Cháu đón xe
về được, chàng đáp.
Cả nhà đứng lại bên thềm cửa. Chỉ cô
cô gái theo chàng ra đường. Sau đó, mọi người vào nhà, ở bên ngoài chỉ
còn
chàng và cô gái.
-Ngày mai
anh tới được không ?
-Không.
-Em không
cho anh gặp, buồn lắm biết không ?
-Buồn thì ở
nhà một mình, tương tư.
-Ở bên em
cũng thấy nhớ tương tư rồi.
Câu nói của chàng làm cho nàng vui
sướng. Luôn luôn, đôi mắt nhìn nhau
chàng và nàng cùng cảm thấy hạnh phúc mình có thực.
-Em thường ở
nhà, không đi đâu cả.
-Chiều mai
anh đến nghe.
-Em đợi.
Giọng nói của nàng hơi buồn. Có bóng
chiếc xích lô phía bến cảng đang đi xuống. Hai người im lặng chờ. Bỗng sực nhớ đến người bạn, chàng lấy lá thư
đưa lại cho nàng.
-Em coi lại
thư của Khoa đi.
-Vâng, em sẽ
đọc.
Chiếc xích lô ngừng bên lề đường trước
cửa hiệu. Chàng nắm tay cô gái nói:
-Em ngủ
ngon.
Nàng cười gật đầu.
-Chiều
mai, anh nhớ đến.
XIII
Tới sớm mười lăm phút, anh em đứng
trước quầy căng tin mua nước uống. Thụy hơi buồn ngủ, anh uống cà phê
đá. Có ly
cà phê mát cổ họng, Thụy tỉnh táo đôi chút.
Dưới mái hiên trước cửa lớp, khóa
sinh đứng chuyện trò, người nào cũng vui. Hôm nay là buổi học đầu tiên
của khóa
69B trong lớp chiều. Danh sách khóa sinh vào các phòng học đã được yết
trên bảng,
và tất cả đều cùng bắt đầu với cuốn sơ cấp 1100. Trong thời gian ba
tháng khóa
này học giai đoạn hai quân sự, ở trường
Anh ngữ, đã có một số SVSQ được đi Mỹ. Nhưng người này, điểm thi Anh
Văn cao,
anh nào cũng trên 80ESL. Có một số bạn cho biết, trong số này, có người
giỏi thực
sự, nhưng cũng có người học bùa, đánh bùa.
Hồi chuông reo báo giờ vào lớp.
Trong phút chốc, ngoài sân chơi trở nên vắng lặng. Thụy học ở phòng 14.
Lớp Thụy
có 12 người, bàn được xếp theo hình chữ U, mỗi bàn bốn khóa sinh.
Sau ít phút đợi, giảng viên vào lớp.
Giảng viên tên là Phụng đeo lon Thiếu úy.
Trước khi mở đầu bài học, Thiếu úy
Phụng ngỏ vài lời tâm tình với khóa
sinh. Sau đó, ông hỏi tên mỗi người. Trong lớp học, người nào xưng tên
xong,
cũng nói qua một đôi chút về mình.
Rồi cuốn sách mở ra, lúc này giảng
viên bắt đầu nói bằng tiếng Anh. Cả lớp lắng nghe giọng đọc của giảng
viên toàn
bài học. Đọc xong, chậm rãi từng câu, ông đọc và học viên lập lại.
Bài học được lập lại hai lần, sau
đó, đến phần giảng về ý nghĩa câu và văn phạm. Có những chữ khó , giảng
viên vừa
giải nghĩa bằng tiếng Anh, vừa dịch ra tiếng Việt.
Với cả bài học, nghĩa chữ không khó,
nhưng nghe là vấn đề. Sau khi cho khóa sinh hiểu bài xong, giảng viên
bắt thực
tập đàm thoại theo trong sách dạy. Mỗi bạn nhận một cái tên. Bạn này
hỏi xong,
bạn kia trả lời. Hết một phiên cả lớp , giảng viên cho xoay tua, lập
lại lần nữa.
Ông nói tiếng Anh, đại ý:
-Học ngoại
ngữ, hiểu thẳng câu của tiếng nước đó, không nên dịch lại qua tiếng
Việt rồi mới
nói.
Giờ đầu trôi qua nhanh. Qua giờ thứ
nhì, giảng viên mở máy cho khóa sinh nghe theo giọng đọc của người Mỹ.
Cả lớp,
ai cũng chú tâm lắng tai nghe. Bài thì hiểu rõ nghĩa đấy, nhưng khi
nghe giọng
đọc, có câu Thụy ghi nhớ được, có câu đôi ba chữ.
Xong phần nghe, đến phần hướng dẫn
viên đọc chậm trong máy cho khóa sinh đọc
theo. Nếu không nghe kịp, câu đó bỏ qua luôn.
Nghe xong cuốn băng, giảng viên tắt
máy, và ông cầm phấn ghi lên bảng cách đọc và những phiên âm quốc tế.
Sau đó, các thành ngữ thông dụng người
Mỹ thường dùng. Không chỉ lấy thí dụ mẫu trong sách, giảng viên còn cho
những thí
dụ khác, câu rất ngắn dễ hiểu.
Anh em ham thích học. Và, cách của
giảng bài thực dụng của giảng viên rất dễ hiểu. Ngay lúc này, Thụy nhận
ra, những
sách dạy tiếng Anh trong phần văn phạm và thành ngữ, có những câu thí
dụ không
thực tế với ngoài đời.
Bài học hôm nay, nội dung là hai
công nhân gặp nhau ở trạm xe buýt, họ tự giới thiệu tên khi làm quen ,
rồi hỏi
nhau về công việc làm. Khi lên xe buýt, câu chuyện vẫn tiếp tục. Xe
buýt chạy
qua nhiều trạm, đến trạm ngừng hai người công nhân và một số khách nữa
cùng xuống,
lúc ấy, mọi người nói với nhau lời tạm biệt và hẹn gặp lại.
Khi đọc và hiểu nội dung bài, Thụy
hình dung ra gương mặt hai người công nhân, hình dung chuyến xe buýt ở
Mỹ, các
trạm ngừng, đường phố, trên đó xe đi qua các trạm xăng, siêu thị, nhà
hàng,
quán ăn, quán cà phê, chừng thứ đó là Thụy có được một cuộc viễn du đến
nước Mỹ.
Giờ ra chơi, có hồi chuông vang lên.
Ngay lúc đó, giảng viên cho nghỉ, và bao nhiêu sách vở để lại trên bàn.
Sân chơi trước rộng, đầy nắng. Sân
chơi sau, có bóng im, và giờ này người bán căng tin rất là bận bịu vì
đông người
mua. Bánh mì kẹp chả, nước uống, cà phê, thuốc lá.
Sau buổi học, anh em tìm nhau nói
chuyện học hành. Buổi học đầu tiên, ai cũng thấy mình bỡ ngỡ. Thụy chợt
dừng
trước một bảng thông báo đọc tin tức của trường. Anh chăm chú đọc một
trang báo
tiếng Anh được cắt dán treo trong lưới. Số vốn ngữ vựng không nhiều,
nhưng anh
gắng đọc để hiểu. Đọc xong bài báo ngắn hai cột, Thụy hiểu đại ý bài
này giới
thiệu những khóa sinh xuất sắc đã được điểm tốt trong thời gian học Anh
ngữ.
Tên trường Anh ngữ bên đó là trường Lackland. Hai khóa sinh người Việt
được nhắc
tên là Tiến và Đạt, điểm thi Anh ngữ đạt được 95 điểm.
Lòng Thụy vui theo. Với mình, anh chỉ
ước mong đến lúc xong khóa học Anh ngữ, thi ra trường, đủ tiêu chuẩn
sang Mỹ là
mừng rồi. Hôm nay, ngày đầu của buổi học. Và, bài học của hai giờ đầu
tương đối
dễ hiểu trong nội dung, đến cách nghe
cũng như đọc. Tiếng Anh không đọc như tiếng Pháp, nên phát âm rất là
khó khăn.
Trở lại lớp lúc nghe hồi chuông, bên
ngoài sân chơi lại vắng. Sách mở ra, bây giờ, học viên nhìn theo phần
câu hỏi
và câu trả lời trong sách chuẩn bị trước khi giờ học bắt đầu.
Giảng viên chỉ Thụy đọc câu hỏi đầu
tiên. Anh đọc ngay, người bạn kế đọc liền câu trả lời. Đây là một thể
loại câu
hỏi để cho học viên làm quen với phản ứng, không phải mỗi câu hỏi có sự
suy
nghĩ trước khi trả lời. Hết phiên mình, Thụy vẫn chăm chú nhìn xuống
sách, anh
nhận ra, cuốn sách soạn rất là dễ hiểu và rất hay.
Hết một vòng 12 người, đến lượt giảng
viên điều khiển. Ông không theo thứ tự, mà chọn một câu hỏi trong phần
bài tập,
rồi gọi một học viên trả lời. Lúc này, anh em ai cũng có phần lúng túng
vì
không được mở sách. Giảng viên cứ để mặc, người này trả lời chưa được
đúng, ông
hỏi sang người khác, và cứ sau ba người ông mới đáp câu trả lời, tiếp
đó ông hỏi
sang câu khác trong phần bài tập. Đến lượt Thụy, anh hiểu câu hỏi và
trả lời
theo cách diễn ý của mình. Khi Thụy đáp câu hỏi, những chữ phát âm sai
được ông
sửa lại cho đúng. Lớp học đang có được cái đà tiến, nhờ cách dạy của
giảng
viên. Khi qua những câu sau đã quen cách trả lời, nên ai cũng mạnh dạn nói và phát biểu.
Trong bài học có bốn thành ngữ đi với
hai động từ to be và to get. Giảng viên rời ghế đứng dậy cầm phấn đi
lên bảng,
mỗi thành ngữ viết xong, ông giảng tiếng Anh, rồi tiếng Việt sau đó, và
cứ mỗi
thành ngữ là có một thí dụ ngắn.
-Các anh hiểu
được không ?
-Hiểu.
-Rồi, các
anh lấy giấy, mỗi người làm thí dụ cho mỗi thành ngữ ghi trên.
Bài tập làm xong, giảng viên chấm điểm
ngay tại chỗ.
Giờ tiếp theo cũng là giờ cuối,
giảng viên dẫn cả lớp lên phòng lab. Khi tới
đây, học viên đứng sắp hàng, vì theo lệ thường, giờ nghe lab dành cho bốn lớp cùng trình độ.
Vào phòng lab, Thụy ngồi ở hàng cuối.
Trong phòng lab mỗi ghế ngồi được ngăn, và lúc này, các học viên đeo
ống nghe
vào hai tai để nghe hướng dẫn viên đọc bài trong máy. Người hướng dẫn
này, đọc
lần đầu rất là nhanh, qua lần thứ nhì đọc chậm, đến lần thứ ba, đọc
xong một
câu, máy ngừng trong một giây để học
viên đọc theo. Và, bài này là bài đã được học trong sách. Khi được học
trong một
tiện nghi đầy đủ, thoải mái, Thụy rất là thích, cảm thấy ham học và cứ
sợ hết
giờ. Trong phòng lab, riêng mình một chỗ, một ghế, có những giây Thụy
muốn mình
lơ đãng để nhớ tới Thúy Hà, nhớ tới Thiên Nga, ước mong gởi về nơi xa
ấy hạnh
phúc của mình.
Bên ngoài, chiều xuống cùng lúc mặt
trời đã lặn. Hồi chuông vang lên, học viên đứng dây rời phòng lab về
lớp lấy
sách vở còn để trên bàn.
Khi ra khỏi cửa lớp, anh em nói lời
chào tạm biệt với giảng viên bằng tiếng Anh.
Lớp học chiều có đến trên ba trăm
khóa sinh. Cánh cổng mở rộng, khóa sinh đi thành hàng về trại và tan
hàng trước
cổng liên đoàn. Ngay lúc đó, họ vào nhà ăn, để ăn bữa tối cho xong bữa.
Thụy chưa ăn. Anh về lêu cất bỏ sách
vở, xong lấy khăn, quần áo đi tắm. Ở khu nhà tắm chung cũng có một số bạn quen, gặp nhau chuyện trò về các bài học
và chương trình học. Dù mới học buổi đầu, nhưng khái quát về thời gian
học, thi
cử điểm chuẩn và nhiều thông tin về bạn bè bên đây và bên Mỹ. Một bạn
cho hay,
ngoài Nha Trang đã có khóa học 70A mới đến.
Về đêm, doanh trại sáng đèn , đông
vui như ngoài thị trấn. Vào giờ này, các
quán ăn ở khu gia binh tấp nập khách vào, và sáu dãy quán nối liền
nhau, quán
nào cũng đầy khách. Ở loa phát thanh, giờ này cũng là giờ phát thanh
tin tức và
chương trình ca nhạc của Không Quân.
Đời sống tập thể trở nên quí hiếm,
hôm nay còn đây, và không có ai mong đợi
đến những ngày sắp tới phải chia tay nhau.
Về lều, Thụy phơi quân áo và khăn ở
dây kẽm xong mặc quần áo vào nhà ăn. Trong nhà ăn, vẫn còn đông người
ăn. Thụy
mua thêm một chai nước xa xị có đá để uống cho dễ tiêu cơm.
Ngồi trước bữa ăn cơm canh còn nóng,
Thụy cảm thấy đói, anh ăn ngon. Anh vẫn thích một mình, không muốn kết
thân với
ai, và cũng bình thường không tỏ ra đơn độc. Từ buổi ấy ra đi, Thúy Hà
luôn là
một hình bóng cũ trong tâm tưởng và trí nhớ của Thụy. Những giờ phút
Thúy Hà
thường đến là buổi chiều trời mưa, quán cà phê, hay trong bữa ăn hàng
ngày tạm
đủ như lúc này. Với Thụy, nàng là một câu chuyện với sự an ủi trong
giọng nói
trầm lặng, hiền dịu. Đời riêng của nàng, nàng luôn muốn nói hết với
anh, và lúc
này, anh như tìm thấy trên một cuốn tập vở cũ để lại những dòng nhật ký
của
nàng.
Nàng viết:
Tôi đang nghĩ tới anh Thụy. Lá thư
nào tôi viết cho anh cũng đầy kín hai trang giấy pelure. Và, mỗi lần
nghĩ tới
chuyện viết thư cho anh, tôi hay mỉm cười chế nhạo mình. Trong sự rung
động của
tình cảm và tiếng nói, tôi cũng có ý nghĩ về chuyện ngọai tình. Điều
này vừa
đúng, mà cũng không đúng. Tuy nhiên, nó đã được sự bao dung, thừa nhận.
Anh Thụy
khi quen tôi, đã tỏ cho tôi thấy ngay tình yêu của anh đối với tôi khi
anh hòan
tòan chưa biết Duy. Khi tôi gặp anh Thụy tôi cũng có chút tình yêu dành
cho
anh. Rồi sau đó, anh đến với gia đình tôi, anh gặp Duy và biết rõ mối
liên hệ
giữa tôi và Duy. Từ đó, dù biết mình yêu, thực sự yêu, nhưng anh cũng
đến với
gia đình tôi cũng như riêng tôi bằng một tình bạn chân thực. Tôi biết
anh rất
yêu tôi, ao ước có tôi, mỗi lần đến nhà chơi gặp tôi, được chuyện trò
với tôi
anh vui thích lắm. Và, dù tôi không nói ra, chắc anh cũng hiểu tôi có
dành tình
yêu thực sự cất giấu trong lòng tôi cũng như gởi cho anh bằng những câu
chuyện,
bằng những lá thư thăm hỏi, đến cả một vài bức hình làm kỷ niệm để đừng
quên
nhau. Và, dần qua thời gian, nay anh Thụy đã là thành phần trong gia
đình tôi để
chúng tôi coi nhau như anh em.
Khi trời sáng, mưa tạnh nhưng bên
ngòai còn khóac cái vẻ u ám, ủ dột. Tôi rửa mặt xong trở lên gác, có ý
định bắt
đầu công việc một ngày nhưng chưa nghĩ ra. Tôi đứng bên cửa sổ, mở rộng
hai
cánh nhìn ra khỏang trống trông thấy bầu trời mang một vẻ thầm lặng,
xôn xao,
có vẻ như muốn hạ thấp để trải những lớp mây xám dày xuống những mái
nhà ở dãy
phố bên kia. Bên đó, trong lúc này con đường rè rè tiếng động của những
tiếng
còi xe, tiếng gọi văng vẳng, lúc thưa vắng, lúc đông đúc những người đi
trên đường.
Tôi chú ý đến hai người đàn ông đi trên bờ đường. Một người đang nói
chuyện với
cử chỉ luôn vung tay, còn người kia đầu đội chiếc nón phớt nỉ, trên
miệng ngậm
điếu thuốc, và lúc anh ta rít một hơi đầy, những sợi khói mỏng manh nhả
ra.
Trên gác đèn sáng. Tôi mở máy thu
thanh để nghe tin tức, nhưng ít phút lại tắt. Sau đó, tôi xuống nhà
cùng với
gia đình ăn sáng. Trên chiếc bàn khách trải khăn, bữa ăn sáng được dành
riêng
cho mỗi người một phần. Có bánh cuốn, bánh mì, bún. Tôi ăn bánh cuốn
chả. Bữa
ăn sáng nào, gia đình tôi cũng mua quà sáng ở một quán hàng cách nhà
tôi bốn
căn. Đây là hàng quán ăn bán suốt ngày cho khách, cho công nhân bến tàu
từ sáng
sớm đến chiều tối. Hàng quán này luôn đông khách ra vào, và món ngon
nhất ở đây
là bún chả giò chiên, bún thịt nướng. Hai ngày cuối tuần, bữa quà chiều
thường
lệ của gia đình tôi là hai món này, ăn rất ngon. Vì vậy, đến 9 giờ đêm
đóng cửa
hiệu, gia đình tôi mới bắt đầu bữa ăn tối. Đó là lúc hạnh phúc nhất của
gia
đình trong ngày.
Ba tôi là người luôn mở đầu câu chuyện
trong bữa ăn. Còn tôi, thường nối tiếp chuyện của ba tôi khi ông còn bỏ
dở, hoặc
đang gợi nhớ. Bữa ăn trong gia đình tôi luôn có sự hòa hợp, vui vẻ với
mọi chuyện
về cuộc sống chung hay riêng, có khi ở một nơi xa, có khi là chuyện vừa
mới xảy
ra trong thành phố này , hoặc là một vấn đề thời sự mà tình hình miền
Nam hiện
nay đang xáo trộn chưa ổn định hẳn vấn đề chính trị. Với bất cứ đề tài
nào, ba
tôi cũng am tường, có nhận xét tương đối xác đáng, và ông luôn giảng
giải cho cả
nhà về vấn đề ông được hiểu. Những khả năng, kiến thức về sinh họat
chính trị của
ba tôi thu thập được là đọc báo, nghe đài. Ngày trước, ba tôi học ở
trường
Thăng Long hết Thành Chung, và ở trong quân đội ngành Bảo An. Có thể
nói tôi là
người sung sướng hơn cả, vì tôi luôn tỏ lộ niềm vui qua những nụ cười.
Đôi khi,
trong bữa ăn, ba mợ tôi chợt nhớ lại những tháng ngày ngòai đất Bắc, và
trong nỗi
nhớ đó, giọng nói của hai người như chùng lại. Nhân sự gợi nhắc lại quá
khứ đó ở
nơi vùng quê cũ, tôi hay vui hỏi chuyện ba mợ tôi hồi đó đã quen nhau
như thế
nào, và ngày đám cưới vào thuở đó ra sao ? Trên tường, còn một bức ảnh
kỷ niệm
thật hạnh phúc của ba mợ tôi sau ngày đám cưới đi Hà Nội chơi. Bức ảnh
chụp ở Hồ
Gươm, quang cảnh trải rộng với những hàng cây , bóng dáng của Tháp Rùa,
và cũng
thấy cả những con đường chung quanh thành phố Hà Nội.
Bữa ăn sáng bao giờ cũng có một ly
cà phê sữa dành cho ba tôi. Ba tôi thích ăn bánh mì trứng ớp la. Ông
vừa ăn, vừa
uống cà phê. Và, tôi cũng uống một vài hớp cà phê ba tôi để lại cho sau
bữa
ăn..
Trời buổi sáng nay vẫn âm u. Chỉ sau
một vài dấu hiệu cây lá ngòai đường, cơn mưa đổ xuống. Mưa không ồn ào
gây sự
huyên náo, hoặc đe dọa, nhưng vẫn to hạt. Bữa ăn sáng vào ngày cuối
tuần luôn
kéo dài trong gia đình. Và, không lúc nào ba tôi lại không nhắc đến anh
Thụy .
Đôi khi vui chuyện trong nhà ba mợ, các em cùng trêu chọc tôi. Tôi chỉ
cười, muốn
giấu cái hạnh phúc và nỗi cảm động. Trong cử chỉ đó, cặp mắt tôi có
những giây
khắc yên lặng, muốn mở to. Giọng nói của ba tôi đã cho cả nhà hay ông
đang nghĩ
đến anh Thụy đứa con trai lớn của mình, và ông đã nói về anh bằng những
lời thật
cảm động. Mỗi lần, có thư anh gởi về thăm là ông đọc cho cả nhà nghe,
riêng thư
của tôi, thì tôi giữ lấy thôi. Đôi khi, tôi nghĩ ba tôi thương anh Thụy
còn hơn
cả Duy sắp là con rể của ông.
Hai người khách vào mua hàng bắt đầu
một ngày sinh họat buôn bán của cửa hiệu nhà tôi. Tôi thu dọn bữa ăn
trên bàn,
mang bát dĩa xuống nhà, rửa ở bể nước.
Trời vẫn còn mưa. Tôi trở lên gác
thay quần áo, và mặc ngòai chiếc áo mưa màu lam.
Khi tôi xuống nhà, bên vai đeo túi
xách nhỏ, mợ tôi hỏi:
-Con xuống
nhà Duy.
-Không. Con
tới nhà người bạn.
Trời mưa, nhưng ngòai đường ánh sáng
có vẻ sạch sẽ, tươi xanh những hàng cây. Tôi đi bộ. Lúc nãy, mợ tôi
hỏi, tôi đã
giấu không nói chuyện mình đi đến nhà Bưu điện bỏ thư cho anh Thụy. Dù
rằng,
trong nhà đều biết rõ anh Thụy thương yêu tôi, nhưng tôi không bao giờ
tỏ lộ
cho trong nhà chuyện riêng tư qua những lá thư, chỉ có Thúy Vân hai chị
em luôn
tâm sự với nhau thôi.
Trên đường đi, buổi sáng nay mưa tôi
nghĩ nhiều đến anh Thụy. Tôi đã yêu anh, viết thư cho anh, và đi bộ tới
một nơi
bỏ thư bằng cả một tấm lòng. Duy vị hôn phu của tôi cũng biết tôi có
cảm tình với
anh Thụy nhưng tôi cũng không bao giờ nói với Duy về sự riêng tư giữa
tôi và
anh Thụy. Có thể Duy vẫn thóang nghĩ đến hai chữ ngọai tình, nhưng dù
có vậy,
cũng không có gì quan trọng đối với tôi. Tôi là người phụ nữ luôn trung
thực với
cách sống của mình. Từ ngày đó đến nay, anh Thụy và tôi viết rất nhiều
thư cho
nhau. Những lá thư này tôi không đưa cho Duy đọc, và chàng cũng không
dám lục lọi.
Thực ra, Duy cũng nhìn thấy gia đình tôi đã coi anh Thụy như là người
con cả
trong nhà.
Tôi vẫn không giấu được rằng, tôi
luôn nhớ đến anh Thụy kể từ ngày anh đi Sài Gòn tìm kiếm việc làm. Sáng
nay,
tôi đi tìm anh. Tôi đến một nơi bỏ thư để tìm anh, và cảm thấy gần gũi
với anh
khi lá thư được gởi đi. Trời đang mưa, tôi đi trong hạnh phúc với một
tâm hồn
thương yêu, dào dạt.
*
Khi nghe tiếng chuông nhà thờ ở dưới
phố chính vọng lên tới trên này, cả nhà cùng thức dậy. Tối qua, dù thức
khuya
phụ các em dọn dẹp bàn ghế, rửa hết các loại chén bát, ly tách, nhưng
lúc lên
giường Thúy Hà ngủ ngay thật ngon giấc. Nàng ngồi dậy, mỉm cười nói với
Vân .
-Em dậy quá
sớm.
-Em không cảm
thấy buồn ngủ.
Thúy Hà để Vân lại một mình, nàng rời
thang gác xuống nhà ra bể nước rửa mặt. Hôm qua, Vũ thay mặt gia đình
xuống nhà
Duy báo tin cho gia đình anh hay là gia đình cậu bằng lòng cho tổ chức
lễ cưới.
Tự buổi trưa, cả hai bên cùng chuẩn bị.
Nhà Thúy Hà ở đầu phố
Độc Lập, gần bến Cảng. Từ ngày rời Quảng
Trị vào trong này định cư, vợ chồng ông Kha không làm việc ở hiệu thuốc
tây mà
chuyển sang nghề chế tạo các loại mỹ phẩm, nước hoa là chính. Căn nhà
thuê có bề
rộng khoảng 5 mét, bề dài đến gần 20 mét nên dễ có điều kiện để ngăn
chia từng
phần. Nửa phần trên dài khoảng mười mét được dùng làm chỗ buôn bán,
cũng vừa là
nơi sinh hoạt cả nhà, với bàn ăn, những chiếc kệ, đi văng, giường ngủ
sắp thật
gọn, ngăn nắp. Trên lối đi hẹp xuống nhà sau, cạnh bên lối cửa trống có
một căn
phòng nhỏ, tất cả các loại hoá chất để pha chế thành nước hoa và mỹ
phẩm được cất
vào đó, đồng thời cũng là chỗ làm việc hằng ngày của ông Kha. Ông là
một con
người cởi mở, hiếu khách, và rất siêng năng. Khi bắt đầu vào giờ làm,
ông khoác
chiếc áo blouse trắng, ngồi vào ghế, với cặp kính trắng đeo lên mắt,
ông say mê
công việc trong sự pha chế cũng như đo lường rất chính xác.
Hôm nay, căn phòng nhỏ
này được dùng làm phòng
của cô dâu. Trời vừa hửng sáng, cả đoàn xe sáu chiếc của nhà trai tới.
Trong
đoàn xe, chiếc Toyota màu trắng là chiếc xe có kết hoa để rước dâu.
Đoàn xe dừng
lại bên ngoài lề đường, cách xa nhà cô dâu khoảng năm chục mét. Mọi
người xuống
xe, vội bước lên vỉa hè để sắp thành hàng đôi, đủ từng cặp. Người chủ
lễ đứng
hàng ngoài đếm lại số người đi, căn dặn một đôi lời, xong một mình
hướng về nhà
cô dâu để gặp gia chủ, và đây là lễ đầu xin giờ, đồng thời báo cho nhà
cô dâu
biết bên nhà trai đã đến, sẵn sàng.
Khi ông chủ lễ quay bước ra, tới gần,
ông phác tay ra hiệu cho đoàn người khởi sự di chuyển. Sáu cặp ở tốp
đầu, người
nào cũng mang mâm quả trầu cau, rượu, bánh trái, đồ nữ trang để nạp lễ.
Duy mặc
bộ đồ veston màu xanh đậm, bông hoa ghim trên túi áo. Duy cảm thấy hạnh
phúc,
luôn nở nụ cười. Đi bên Duy là người em họ, làm phụ rể.
Căn nhà cô dâu sáng rực đèn khi
đoàn người bên nhà trai tới. Trong sự tôn kính buổi lễ, mọi người đều
lặng im.
Lễ vật cưới hỏi rất đầy đủ và bày thứ tự trên chiếc bàn dài. Một phút
sau, người
chủ lễ mới lên tiếng bằng một giọng nói đỉnh đạc, nghiêm trang. Trong
lúc ông
nói, thỉnh thoảng cơn gió buổi sớm thổi nhẹ vào lay động những dãi hoa
giấy
trang hoàng hai bên bức tường. Cả phía mặt ngoài căn gác cũng có treo
những
chùm hoa đủ màu sắc rất tươi.
Hôm nay, cả bốn anh em Vũ đều biết
là ngày quan trọng của gia đình. Những bộ quần áo mới cắt may, mặc rất
vừa,
nhưng trên vẻ mặt mỗi em đứng ở chỗ đó, riêng trong một góc nhìn mọi
người, em
nào cũng bỡ ngỡ, ngạc nhiên và cảm thấy mình còn thơ ngây.
Bên trong
căn phòng nhỏ, lúc thấy người mẹ
vào, Thúy Hà đứng dậy và cô phù dâu cũng đứng lên theo. Từng bước nhẹ,
ba người
đi bên nhau. Lúc ra ngoài, một mình Thúy Hà bước ra giữa,
rồi đưa mắt mỉm cười nhìn Duy đang cầm bó hoa
đi tới gần để trao tặng cho nàng. Khi Duy trao xong bó hoa, tiếng vỗ
tay vui
lên cùng tiếng cười chúc tụng. Rồi cô phù dâu tiến ra, nhận bó hoa từ
tay của
cô dâu, lễ cưới chính thức bắt đầu.
Duy cầm chiếc nhẫn cưới đeo vào
ngón tay Thúy Hà. Nàng cúi mắt nhìn ngón
tay anh đang đeo cho mình, trên đôi mắt nhỏ bé của nàng nụ cười sáng
lên. Hình
như, nàng đã nói với Duy một điều nguyện ước trong nụ cười đó. Đến
lượt, Duy
đưa tay cho người vợ trao nhẫn. Anh lặng im, lúc này chiếc nhẫn là vật
tin cậy
hơn hết mà nàng trao cho anh.
Bên ngoài, trời rạng sáng hẳn cùng
lúc những ngọn đèn đường trên các dãy phố đều tắt. Bữa tiệc trà đơn sơ,
vui vẻ,
nhưng không kéo dài lâu, vì đã đến giờ rước dâu. Trong phút giây này,
ba mẹ, và
mấy anh em Vũ đều xúc động chảy nước mắt khi nhìn cặp mắt Thúy Hà vừa
khóc, vừa
nói những lời chào từ giã.
Dưới mái hiên cửa, lúc rời bước ra
đường mọi người đều hướng về phiá đoàn xe đang đậu. Chiếc xe trắng có
kết hoa đậu
ở giữa. Và nổi bật hơn hết giữa mọi người là Thúy Hà trong bộ áo cưới
thêu kim
tuyến và chít vương miện trên đầu. Nàng vẫn đang khóc khi mới rời nhà,
trên mắt
nàng, những giọt nước mắt cứ nhạt nhoà.
Tiếng động của thành phố cũng bắt
đầu sinh hoạt ở vào giờ này. Đoàn xe di chuyển, thay vì đi ra hướng bờ
sông, họ
chạy thẳng theo con đường xuống phố chính. Sau đó, đoàn xe mất hút dần .
Ba mẹ Vũ và các em đều ở lại
nhà, không có ai theo đưa tiễn. Đi đưa, chỉ có những người thân trong
họ hàng
thôi. Khi khách ra về hết, bốn em Vũ phụ giúp nhau dọn dẹp bàn ghế, ly
tách đem
xuống nhà dưới. Trên bàn khách chỉ còn để lại ghế và ly tách, bình trà
để còn
đón khách viếng thăm ngày hôm nay. Quanh tường, giấy hoa trang trí vẫn
để.
Thúy Hà không nhớ nghĩ gì đến những
công việc mà các em nàng đang làm lúc này. Nàng cũng không nghĩ nữa, ba
mẹ nàng
có vui, hay băn khoăn gì nữa về chuyện nàng đi lấy chồng không. Nàng
đang nghĩ
tới một cuộc đời trước mắt, hôm nay, nàng trở thành người vợ của Duy
rồi.
Từ nhà cô dâu về đến nhà Duy mất
gần nửa giờ. Đoàn xe dừng lại trên con đường bên ngoài có trồng những
hàng cây
me. Ngay khi vừa bước xuống xe, cô dâu đã nghe tiếng ồn ào, tiếng khóc
từ trong
nhà vọng ra. Và cảnh tượng đó gây cho cô một sự ngỡ ngàng khi cô vừa
bước qua
khỏi cửa. Ông Lương còn nằm đó, đang hấp hối. Những tiếng khóc kể, nuối
tiếc, cứ
bán riết quanh chiếc giường ông nằm. Rồi người ta đánh thức ông khi đám
cưới đã
rước dâu về đến nhà. Nửa tỉnh, nửa mê, ông mở mắt. Duy đưá con trai út
của ông
và người vợ mới cưới đang đứng bên cạnh giường ông. Duy nói ấp úng:
-Thưa ba, vợ
chồng con đây.
Ông đưa mắt nhìn về phiá con
dâu. Nàng đang cúi đầu chào ông, và nàng chỉ lặng im. Nàng không thể
nói gì được,
bỗng nhiên, nàng khóc lớn tiếng, nức nở. Nhà rất đông người, nhưng hầu
như
không ai hiểu được nỗi lòng của nàng. Nàng đang khóc lớn tiếng, tiếng
khóc
không kể lể với một ai, kể cả nàng, tiếng khóc như một khúc rẽ của cuộc
đời mà
nàng đã nhận ra, và như thế này, nàng sẽ không còn thay đổi gì khác nữa
được.
Lễ nhập gia
dành cho cô dâu bắt đầu. Trên
chiếu, Duy và Thúy Hà đứng bên nhau vái lạy từ bàn thờ này qua bàn thờ
khác
theo nghi thức. Sau đó, Duy đưa vợ mình vào căn phòng riêng dành cho
hai người.
Nàng bước vào, cánh cửa đóng lại. Trong phút này, nàng nằm xuống nghỉ
ngơi
trong giây lát cho đỡ mệt. Duy vẫn ở bên nàng, nhưng hai người không
trò chuyện
gì với nhau nhiều. Nàng không còn khóc nữa, nhưng nàng cảm thấy mình xa
lạ. Duy
đang ở bên cạnh nàng, nhưng nàng vẫn có vẻ lãnh đạm như thể lúc này,
nàng chỉ
còn nghĩ đến một ai đó mới có thể giúp nàng có đủ sự tin cậy.
*
Những ngày cuối cùng của cụ Lương đã
làm cho hai gia đình bên tôi và Duy bối rối. Khi Duy cho tôi biết lời
khẩn khỏan
của ba anh, tôi hiểu nhưng im lặng. Tôi ra Huế thăm Nguyệt, ở chơi mấy
ngày với
người bạn trước khi Nguyệt rờiViệt Nam sang Pháp. Tôi ở Huế mấy ngày
trong sự
thư giản êm ái, và được gia đình Nguyệt đón tiếp như con trong nhà. Ở
chơi ít
hôm, tôi vào Đà Nẵng. Vừa lúc xuống ga, bỗng nhiên, tôi có nghe có
tiếng ai gọi
tên tôi. Một lúc sau, tôi mới nhận ra anh Thụ, ngày trước thời sinh
viên anh mở
lớp cours dạy học chúng tôi ở lớp nhỏ. Anh Thụ đi Đà Lạt, học trường Võ
Bị. Anh
mới về phép giờ trở lại quân trường. Trong lúc tàu ngừng đợi ở ga để
tránh tàu
ngược, anh Thụ mời tôi vào quán nước. Nhiều năm xa vắng, trong sự gặp
lại anh
nhìn tôi bỡ ngỡ. Tôi hiểu hết. Tôi hiểu rằng, tôi đã lớn. Tôi đọc được
trong cặp
mắt anh những điều muốn tỏ bày, mong gặp lại tôi và viết thư cho tôi
khi ở xa.
Khi nhìn thấy tay tôi đeo nhẫn, anh hỏi chuyện riêng về tôi, tôi gật
đầu.
Đã đến giờ tàu chuyển bánh. Tôi cám
ơn anh đã mời tôi uống nước. Và để lưu một chút tình cảm với người quen
biết,
tôi còn đứng lại ở sân ga vẫy tay chào anh khi con tàu chuyển bánh.
Rồi con tàu khuất dạng. Hình ảnh của
anh như một đôi lời nhắn của một người bạn cũ gởi cho tôi.
Ra khỏi ga, tôi đón xích lô về nhà.
Về đến nơi, thấy không khí trong nhà như có chuyện gì đó vừa xảy ra.
Tôi không
vội đi lên gác thay quần áo, mà ngồi lại ở bàn khách nghe ba mợ tôi nói
chuyện.
-Bà Lương và
cô Thi vừa mới về.
Tôi đã đóan hiểu, nhưng cứ hỏi:
-Có việc gì
không mợ ?
Ba mợ tôi nhắc lại chuyện vừa rồi,
bà Lương và cô Thi đến thăm. Và rồi, bằng giọng khó khăn song thân nói
đến chuyện
cưới xin để chạy tang. Bà Lương cũng cho biết là ông đang hấp hối. Tôi
điềm
nhiên không chút xúc động, bàng hòang, nhưng lúc ấy, trong miệng tôi
đầy cảm
giác vị mặn của nước bọt.
Buổi chiều hết sức yên tĩnh, cửa
hàng đang vắng khách. Trong cửa hiệu đèn luôn để sáng. Ba mợ tôi hỏi ý
kiến tôi
như thế nào làm tôi suy nghĩ. Tôi đã không trả lời Duy khi chàng hỏi ý
kiến
tôi. Nhưng lúc này, tôi phải trả lời. Rồi sau đó, ba mợ tôi đưa ra lời
giải
thích là tôi mới hai mươi mốt tuổi. Nếu ông cụ của Duy qua đời, chỉ đợi
hai năm
mãn tang, vừa đúng thời gian chuẩn bị cho hôn nhân. Những điều ba mợ
tôi nói ra
rất hợp lý và còn sự trọng vọng về gia đình mà bác Hai tôi ở Sài Gòn
cũng các
chú nhà ngòai này đều mong muốn dự đám cưới của tôi là con gái đầu của
ba tôi.
Tôi hiểu những điều gia đình giải thích.
Tối hôm ấy Duy lên nhà tôi. Sự xuất
hiện của Duy trong nhà đều hiểu. Nhưng ba mợ tôi không nói gì, để riêng
mình
tôi suy nghĩ và quyết định. Hai chúng tôi lên căn gác. Với vẻ mặt buồn
mà tôi
đóan không hẳn phải vì ba chàng đau nặng, mà về cuộc hôn nhân. Một
giọng khô
khan, chàng nói với tôi, ba của chàng gởi lời trối là được thấy chàng
nên gia
thất trước khi ông nhắm mắt. Từ lúc quen biết Duy, tôi biết chàng là
con út
trong nhà và rất được nuông chiều. Tôi cũng cảm thấy lo âu, lặng im
không nói
gì. Phía ngòai cửa sổ căn gác là một khỏang trống của bầu trời. Anh
trăng non mới
xuất hiện. Bỗng dưng, Duy khóc. Chàng khóc gần như vô cớ. Tôi thản
nhiên nhìn
chàng khóc.
Khi quay sang tôi, chàng hỏi:
-Sao em
không nói với anh ?
Tôi nhìn lại cặp mắt chàng với sự dò
đóan lương tâm. Trên vẻ mặt chàng thật buồn, ủ rủ. Khi chàng nắm lấy
bàn tay và
ôm tôi trong hai cánh tay chàng, một giọng chân tình tôi nói cho chàng
hay về ý
kiến của gia đình đã bàn chuyện với tôi lúc ban chiều. Sau khi nghe tôi
giải
bày, chàng nói, với riêng chàng và tôi đã thương yêu nhau, thời gian
đợi chờ
không có gì ảnh hưởng, nhưng, trong tình cảnh ông cụ sắp lâm chung, ước
nguyện
trong lời trối chàng rất mong được tôi chia sẻ.
Hơn lúc nào hết, trong vòng tây ấm
áp, ôm ấp, chàng ôm giữ tôi với những lần nụ hôn kín khắp gương mặt như
là nỗi
sợ, ngày mai, khi có một việc gì xảy ra, chàng và tôi không được gần
nhau nữa.
Tới gần nửa đêm, chàng đứng lên, khi
rời căn gác tôi theo chàng xuống. Ra ngòai đường, đêm vắng, những ngọn
đèn sáng
lây lất trong gió, tự dưng chàng run lên như ớn lạnh.
-Thôi được rồi,
em bằng lòng.
Chúng tôi cùng đi bộ một quãng đến
ngã tư, dừng lại chia tay. Duy đón xích lô về nhà, tôi một mình trong
bóng đem
trở về lại nhà mình.
Chỉ có hai ngày chuẩn bị cho hôn lễ.
Buổi sáng sớm hôm ấy, họ nhà trai đến. Lễ cưới tuy đơn giản nhưng rất
trang trọng.
Sau tiệc trà, bên nhà trai xin rước dâu. Tôi và Duy lên xe hoa, chiếc
Toyota
màu trắng có kết hoa. Trên tay tôi ôm giữ một bó hoa. Và, tôi có cảm
giác như
lúc nào tôi có sự liên đới cuộc đời mình với bó hoa đang cầm trên tay.
Con đường phố Độc Lập trải dài và
sinh họat một ngày bắt đầu. Bên tôi, Duy lặng yên. Nhưng trong dáng vẻ
của
chàng, tiếng chàng nói chuyện với tài xế, tôi thấy chàng hài lòng, vui
sướng.
Về đến nhà chồng, một cảnh tượng
khác thường diễn ra làm tôi hụt hẫng, chới với. Một bên là cảnh đón dâu
rộn
ràng, một bên là sự tang tóc đối với người thân sắp sửa lìa đời. Tôi cố
giữ sự
bình thản khi đi bên cạnh Duy vào nhà qua hai cánh cửa lớn mở rộng. Tất
cả, hầu
như im lặng trước ánh sáng và hương. Sau khi làm lễ gia tiên, tôi và
Duy qua một
căn phòng để riêng nơi ba của Duy đang nằm.
Khi chúng tôi đến, ông ngước mắt
nhìn. Tôi nhận ra ông thực khác thường, với vầng trán cao, mái tóc được
chải và
bộ đồ mới được thay sạch sẽ. Với cặp mắt hiền từ, ông nhìn vợ chồng tôi
rồi
bình thản ra đi.
Tôi chẳng muốn nhớ thêm làm gì cái
ngày buồn thảm đó trong hạnh phúc thời con gái của tôi khi đi lấy
chồng. Tôi
cũng không muốn gợi gì thêm đêm tân hôn của tôi và chàng trong căn
phòng được
trang hòang lộng lẫy. Chàng nói, chàng tự mình trang hòang lấy căn
phòng này để
bày tỏ hết tình yêu của chàng dành cho tôi. Căn phòng có chiếc tủ nhỏ,
cái bàn
viết đánh vec ni sáng bóng, trên tường treo một bức tranh của hai đứa
nhỏ rất dễ
thương. Tối hôm ấy, để làm dịu bớt nỗi buồn lo của tôi, chàng ôm ấp tôi
trong
vòng tay chàng vừa vuốt ve, vừa nói những lời dịu dàng, thân thương.
Và, sau một
nụ cười đằm thắm, tình tứ, chàng cúi xuống đặt nụ hôn trên cặp môi tôi.
Từ từ, tôi
khép kín đôi mắt.
Nửa đêm, giờ hợp cẩn mới bắt đầu.
Theo nghi lễ, tôi rót một ly rượu nhỏ mời chàng uống. Khi uống xong,
chàng để lại
một nửa phần cho tôi để uống cạn.
Ba của Duy mất lúc mười giờ sáng
ngay vào ngày cưới của tôi. Gia đình để quan tài và đón họ hàng, bạn bè
thăm viếng
ba ngày. Suốt ba ngày, tôi mặc áo tang và đứng vào vị trí những người
con dâu
trong gia đình. Nhưng riêng tôi, hầu như chỉ nhận ra mình là kẻ lạ. Khi
có được
giây phút nghỉ, tôi về phòng riêng của mình. Duy ở ngòai tiếp khách, sự
vắng vẻ
trong căn phòng làm tôi nghĩ ngợi nhiều về quãng đời đã qua của tôi.
Rồi tối đến,
bên Duy, chàng lại ôm ấp, cuồng si với cảnh ái ân, lúc ấy tự dưng, tôi
chán buồn
và nhận ra sự phóng đãng, bồng bột của mình trở nên vô ích.
Mãi hơn một tuần, đời sống bình thường
trở lại. Và, chính lúc này tôi cảm thấy chán ngán khi nhìn cảnh sinh
họat trong
gia đình của Duy. Nhà này, đã là chỗ chứa cờ bạc. Không chỉ là thú vui
nhỏ, mà
là nơi tụ tập, sát phạt, ồn ào với những tiếng cãi cọ. Ngòai những
phòng ở, ở
nhà ngòai, trên các tấm phản, mỗi nơi là một chỗ để khách và người
trong nhà
chơi bài. Chàng cũng là một con bạc ghiền nặng. Khi mà tôi đã thuộc về
chàng,
không có gì lo nghĩ nữa, thì tôi hầu như trở thành cái bóng lẻ loi, đơn
độc.
Tôi không thể ngồi bên chàng vui cùng chàng trên một chiếu bạc. Tôi chỉ
còn đối
diện với nơi ở của mình là căn phòng mà tôi coi như là sự tạm bợ. Vì
chưa tìm
ra công việc làm, Duy cũng không có gì cả, nên chúng tôi chưa thể tìm
một chỗ ở
riêng được. Tôi có cảm giác, cuộc đời làm vợ của tôi đã trở nên tối tăm.
Thời gian cứ vậy trôi qua. Sau Tết,
Duy bị gọi động viên. Khi nhận giấy gọi nhập ngũ, cùng lúc, chàng có
giấy bổ
nhiệm của Nha Học Chánh bổ về dạy một trường trung học ở quận Điện bàn.
Duy chỉ
còn một tuần lễ bên người vợ mới cưới. Suốt tuần đó, Duy và tôi không
rời nhau.
Ngòai bữa ăn trưa và tối, chúng tôi ở lì trong phòng, đóng kín cửa.
Chúng tôi
cùng say đắm làm tình không mệt mỏi. Ngủ say, thức giấc nhìn nhau rồi
lao vào sự
đam mê ân ái, tôi và chàng trở nên phờ phạc. Nhưng sự khóai lạc đã cho
chúng
tôi cái cảm giác tới tuyệt đỉnh. Và mỗi đêm là một nghệ thuật trình
diễn như một
cảnh hấp dẫn trong phim. Và, có lúc, hai chúng tôi liều lĩnh muốn ghi
lại bằng
hình ảnh những giờ phút cảm khóai đầy hạnh phúc. Có một điều tôi chưa
mong nghĩ
đến, nhưng với Duy rất rõ ràng là chàng muốn tôi mang thai và chàng
luôn chờ đợi
tin vui tôi sẽ nói cho chàng biết. Nhưng thực sự vẫn chưa có gì động
tĩnh cả.
Đã qua gần một năm kể từ ngày chúng tôi lấy nhau. Và suốt tuần lễ này,
với ngày
đêm làm tình không ngơi nghỉ, Duy hy vọng tôi sẽ đậu thai, nhưng rồi
chàng thất
vọng. Đêm cuối cùng, cả tôi và Duy không ngủ. Những cảm xúc mãnh liệt
dồn đầy
lên hai thân xác chúng tôi. Có lúc tôi và Duy cùng khóc. Rồi nhìn nhau,
mỉm cười.
Buổi sáng thứ hai, tôi đưa Duy lên
Trung Tâm Nhập Ngũ ở gần Quân Trấn. Rất đông thanh niên ở lứa tuổi nhập
ngũ như
Duy. Những người này đến từ Quảng Trị, Huế, Quảng Tín, Quảng Ngãi. Rất
đông người
đưa tiễn. Ai cũng bịn rịn, khóc lóc. Tôi cố giấu đi những tình cảm yếu
đuối của
mình. Hôm nay, có một ban văn nghệ của Tiểu đòan 10 CTCT tới giúp vui
để cổ vũ
tinh thần anh em. Buổi trình diễn dã chiến ngòai trời, với những bài
hát vui,
dí dỏm, ca tụng đời lính. Trên đời này, chỉ có đi lính là vui, và có
nhiều bạn
bè. Chỉ có đi lính mới thấy có sự rung động trong nỗi nhớ chân thực về
người
yêu của mình. Chỉ có người lính mới tạo nên một bầu trời lãng mạn trong
tâm hồn.
Sau buổi giúp vui, mỗi người nhận được quà tặng một cặp áo mai ô một
cuốn tiểu
thuyết viết về đời lính.
Khi chương trình văn nghệ chấm dứt
sau một giờ, là quang cảnh biệt ly . Những thanh niên đứng trong hàng
chờ đọc
tên để bước lên xe. Duy ôm chặt tôi hôn đầy trên gương mặt rồi với cái
túi xách
đeo vai anh ra ngòai hàng tập trung. Trong túi xách của Duy, ngòai quần
áo, tôi
để nhiều thức ăn và trái cây khô.
Giữa sân nắng, thanh niên lên xe trước
những lời đưa tiễn, hẹn hò. Đòan xe chuyển bánh, từ đây, tất cả hướng
về phi
trường để đi chuyến bay vào Sài Gòn.
Khi đòan xe khuất khỏi khu vực quân
trấn, những người đưa tiễn ra về. Lòng tôi cũng buồn như họ. Tôi về nhà
gia
đình tôi. Chỉ có những người trong gia đình tôi mới làm tôi khuây khỏa
nỗi buồn.
Qua đi hơn một tháng, tôi nhận được
thư anh Thụy. Kỳ nào cũng vậy, gởi thư về thăm gia đình tôi anh luôn
gởi hai
lá, một cho ba mợ và một cho tôi. Thư anh đến làm tôi vui, bừng sống
lại một
phút giây trong ngày tháng cũ.
Tôi chưa mở thư anh ra đọc ngay mà đợi
ba tôi đọc thư anh trước. Anh nói với ba mẹ tôi là anh đã nhận được thư
và ảnh
đám cưới, anh xin chia vui cùng với gia đình và cầu chúc vợ chồng tôi
trăm năm
hạnh phúc. Anh cũng cho ba mợ tôi hay là những bức ảnh của tôi anh cất
giữ
trong cuốn album riêng của anh và gia đình anh.
Tôi lên gác của Vân để đọc thư anh
Thụy. Vân và các em tôi đang học ở trường. Căn gác vắng, tôi có chút
bồi hồi
xúcđộng khi mở thư anh Thụy. Những lời thư anh viết rất giản dị, chân
thực. Anh
nói với tôi về những bức ảnh ba tôi gởi cho anh. Mỗi bức cho anh một
cảm nghĩ
riêng. Trong cảm nghĩ ấy, anh nhớ đến tôi rất nhiều. Anh hết sức cầu
mong tôi hạnh
phúc. Và bây giờ, anh được chúng tôi xem như người trong gia đình nên
anh rất
vui được có sự gắn bó. Hai chữ hạnh phúc anh nói trong thư thật là chân
tình mà
tôi hiểu rằng, anh rất yêu thương tôi mới viết vỏn vẹn hai chữ này. Thư
anh viết
đầy kín hai trang giấy. Trong thư chỉ là chuyện gia đình với nhau. Anh
có mua một
gói quà cưới và đã gởi cho tôi. Đọc đến những giòng này tôi thương anh
lạ lùng.
Tôi biết anh yêu tôi, vô cùng yêu tôi. Và, tôi cũng đáp lại tình yêu
của anh, mỗi
lần có thư của anh là tôi viết gởi ngay để anh đọc.
Thời gian đã trôi qua mấy năm, tôi
không nhớ nữa. Chắc bây giờ anh đã đổi khác. Khi còn ở đây, anh và tôi
học
chung một trường, một lớp nhưng khác ban. Tuy nhiên chúng tôi thường
gặp nhau ở
giờ học ngọai ngữ. Vào buổi đầu gặp tôi anh rất mến tôi. Sau đó, rõ
ràng, tôi
biết anh yêu tôi. Tình yêu anh đối với tôi không nói bằng lời mà bằng
đôi mắt.
Anh Thụy có một khuôn mặt khắc khổ như định mệnh đã gắn liền với tên
anh. Nhưng
trong vẻ khắc khổ, u tối đó, đôi mắt sâu thẳm của anh thật đầy lòng
nhân ái.
Hình như cái cơ duyên anh hợp với
gia đình tôi. Ba mợ và các em tôi đều mến anh. Nhất là cậu em kế tôi.
Khi nào
ghé đến nhà chơi, thấy có tôi, lòng anh vui mừng ra mặt. Về sau này,
anh Thụy
có lần nói với tôi từ khi gặp tôi ở lớp nhiều lần đi ngang qua nhà
trông thấy
bóng tôi, anh rất muốn vào thăm tôi. Đã có lúc về đêm, đi ngang qua nhà
tôi anh
dừng bước bên kia đường nhìn qua khung cửa sổ hướng về căn gác mà nghĩ
rất nhiều
đến tôi. Thực là cảm động trước sự chân tình của anh đối với tôi.
Sau một năm học, anh đi xa vào Sài
Gòn. Tối hôm đó anh ở lại nhà tôi ăn bữa cơm sun họp gia đình và để nói
lời từ
giã. Anh đi Sài Gòn tìm kiếm việc làm.
Ngay sau khi đến Sài Gòn, ổn định chỗ
ăn ở, anh viết thư về tin cho Ba mợ tôi và cho tôi. Vừa đi học về, có
thư anh
tôi rất vui. Tôi cầm lá thư anh với một hạnh phúc hơn bao giờ hết. Vân
nhìn tôi
mỉm cười, buột miệng nói ra những ý nghĩ thầm kín của anh ấy dành cho
tôi. Chắc
chắn, Vân nói đúng. Và ba mợ tôi cũng hiểu rằng, anh rất thương tôi.
Tết đầu tiên ở xa, ngòai thư chúc tết,
anh gởi từ Sài Gòn về cho gia đình một hộp bánh Bảo Hương, gọi là chút
quà anh
nhớ đến gia đình khi ở xa. Về phần tôi, nhận một tấm thiệp chúc tết rất
đẹp,
tôi nghĩ là anh đi tìm trong hàng ngàn tấm thiệp để chọn một tấm có rất
nhiều ý
nghĩa dành cho tôi. Với tình cảm của anh, tôi thực sự vô cùng thương
anh.
Đôi lúc, tôi có suy nghĩ, biết làm
như thế nào để làm lại lòng tốt của anh. Chắc hẳn, anh không trông mong
tôi và
gia đình tôi giúp đỡ anh điều kiện vật chất. Anh luôn giữ sự kính trọng
với gia
đình tôi, trong đó, riêng tôi, anh vừa coi như một người em gái, vừa có
một sự ấp
ủ chân thật ước ao trong cuộc đời này, anh muốn có được tôi bên anh.
XIV
Một tiếng trống ngắn đánh lên báo hết
giờ, nghe xong, đúng lúc Nga vừa kết thúc bài giảng môn Địa lý.
Từ phía dãy nhà tôn thấp bên kia sân
cờ, Nga ra khỏi lớp, xuống hết mấy bậc cấp rồi thong thả đi qua dãy nhà
xây đối
diện. Nắng lên cao và nóng, nàng đưa chiếc cặp lên che đầu, và cố gắng
bước
nhanh lên để vượt qua sân nắng.
Lớp nàng dạy môn Vẽ giờ này, nằm ở tầng
dưới phòng cuối hết. Phía ngoài, đứng ở mái hiên có thể trông qua bức
tường
nhìn thấy sân vận động thị xã. Nhưng tường xây không dài, có một hàng
rào lưới
B40 mắc nối theo qua đến phía dãy nhà tôn, dãy nhà này trước là của
trường nữ
tiểu học được nhường lại cho trường Nguyễn Hoàng theo chỉ thị của Ty
Tiểu học tỉnh.
Và, tuy làm hàng rào, nhưng có mở một lối cửa rộng, và cửa này chỉ được
mở khi
lớp nào có giờ học môn thể dục.
Vừa thấy cô giáo xuất hiện trước cửa,
cả lớp đứng dậy chào. Nga ra dấu bằng tay cho các em ngồi , rồi nàng
bước lên bục
đến bàn để chiếc cặp xuống. Chiếc cặp không lớn, mềm nhẹ, có hai ngăn chứa vừa đủ cho sách dạy học và các
cuốn tập vở bài soạn.
Bin, con thầy Hiệu trưởng tên đi học
là Lâm. Khi được học với cô Thiên Nga cả hai môn Vẽ và Việt Văn, nó rất
thích,
vui sướng như là có được quà. Vào mấy tuần lễ đầu, trong bữa ăn gia
đình nó
luôn nhắc đến cô giáo Thiên Nga với ba mẹ nó với bao nhiêu là niềm vui,
sự hớn
hở. Thầy Hiệu trưởng và cô Ý Tâm cũng mến Thiên Nga. Ở trong thành phố
nhỏ này,
những ngày nghỉ dạy hay cuối tuần, Nga có đi phố cũng chỉ ghé vào các
hiệu
sách, hay đến chợ, thư viện, nhà giây thép, rồi về nhà, nàng không đến
thăm
chơi một nhà ai. Khi có Nguyên ra, một đôi lần, anh đưa nàng tới thăm
người thầy
cũ, chuyện trò chốc lát xong thì ra về. Và, lúc có được một ngày nghỉ,
hai người
luôn dành hết thời gian cho nhau.
Lâm ngồi ở bàn đầu. Trong lúc Nga
nhìn xuống lớp, thằng bé ngẩn ngơ ngắm nhìn cô giáo với cặp mắt thơ
ngây và ngưỡng
mộ.Trong lớp, nó cũng là đứa học sinh khá về cả hai môn nàng dạy: Việt
Văn và Vẽ.
Dù rằng, Lâm là con thầy Hiệu trưởng, nhưng không vì thế nàng phân biệt
với các
em khác. Với nó, tuy còn nhỏ tuổi, nhưng rất hiểu biết,
rất lễ phép, dễ thương, vừa mến bạn và kính
trọng thầy cô. Vào giờ giảng văn, lớp này Nga dạy các em rất là rộn
ràng, linh
hoạt. Khi cô giáo Nga đặt những câu hỏi, rất nhiều em đưa tay xin trả
lời, và
câu nào cũng thấy Lâm đưa tay cao hơn hết. Thường khi được cô giáo gọi,
Lâm đứng
lên, chững chạc trả lời. Đến cuối tháng, Nga cho đề một bài luận, có
khi làm ở
lớp, có khi về nhà. Đề bài nàng ra với cốt ý giúp cho học sinh luyện
văn, viết
đúng câu tiếng Việt, và những ý trong nội dung bài thể hiện được sáng
sủa,
phong phú. Và, trong việc chấm bài, Nga đọc mỗi bài rất kỹ, cho điểm
rất cẩn thận.
Điểm qua tất cả, Nga nhận thấy có chừng mười em làm luận khá, trong số
mười em
này có Lâm. Bài luận Nga chấm, điểm cao nhất nàng cho là 15/20, nhưng ở
môn Vẽ,
em nào xuất sắc có năng khiếu nàng cho đến 18/20.
Hôm nay, bài học là vẽ sự vật cố định.
Nàng cầm lên một hộp giấy hình chữ nhật cho cả lớp quan sát, rồi nàng
bắt đầu
giảng giải các từ ngữ như trắc diện là mặt bên, chính diện là phía
trước mắt,
bình diện là một mặt phẳng. Khi quan sát một sự vật để vẽ, nàng giải
thích cho
các em là phần nào của sự vật mắt quan sát nhìn thấy, phần nào không.
Riêng về
mặt phẳng, mắt trần thấy nó là hình chữ nhật, nhưng trong
không gian hình học, không gian hội họa, nó
được nhìn như một hình bình hành.
Khi các em hiểu được về cách quan
sát, nàng cầm chiếc hộp xoay từng mặt, mỗi mặt như vậy được dánh dấu
bằng số
cho dễ nhớ, rồi, sau cùng, nàng lật đáy hộp lên, đây là phần cuối của
toàn thể
một chiếc hộp.
Trước khi thực hiện hình vẽ trên bảng,
Nga hỏi lại cả lớp, từ đầu phần bài giảng về cách quan sát.
Nàng hài lòng khi các em trả lời
đúng. Bây giờ, nàng đem chiếc hộp để lại
trên bàn, xong trở ra bục, nàng bắt đầu vẽ lên bảng. Nàng vẽ xong, cả
lớp trầm
trồ khen ngợi, vẻ mặt em nào cũng hớn hở, thích thú.
Vẽ xong chiếc hộp, nàng bắt đầu dẫn
giải. Trước nhất là vị trí
của người đứng
quan sát, sau đó, khoảng cách giữa người quan sát và chiếc hộp. Từ điểm
mắt người
quan sát, nàng dùng những tia chấm tới toàn thể sự vật đã vẽ, qua những
tia chấm
này, học sinh thấy được phần nào là nhìn xa, phần nào là nhìn gần.
Hình vẽ chiếc hộp cho bài giảng đã
xong. Bây giờ, dựa theo cách vẽ này, nàng cho đề bài vẽ chiếc bàn của
nàng đang
hiện diện trước mặt cả lớp.
Một chút sau, có em học sinh ở dưới
lớp đưa tay cao. Nàng cho em đó đứng lên, và em chỉ nói:
-Ở xa, em
không nhìn thấy rõ.
Nàng gật đầu, kéo chiếc bàn ra phía
bục để cho cả lớp dễ thấy.
Xong, nàng nói:
-Các em nhớ,
các em vẽ từ vị trí quan sát của mình.
-Dạ.
Tập vở croquis dùng để học vẽ có khổ
giấy rộng, vào giờ vẽ, em nào cũng sẵn có bút chì, và nhiều em có cả
hộp bút
chì màu đem theo.
Bây giờ, Nga dành sự yên lặng cho
các em vừa quan sát, vừa vẽ. Từ trên bục, nàng nhìn xuống lớp, trong
giây khắc
nàng cảm nhận được sự thân thiết, trìu mến của nàng.
Nàng chưa bắt đầu đi xem cách vẽ của
các em, một mình, nàng bước đến cửa nhìn ra ngoài sân nắng.
Trong sân trường, những hàng cây bên
hai bờ rủ xuống bóng im, và có những con chim đang chạy nhảy tìm mồi
dưới nắng.
Phía bên trái sân chơi là một nhà chơi có lợp mái tôn, ở nhà chơi có
một căn
nhà bác cai Phú phu trường ở.
Ngày mai, Nga sẽ về thăm nhà ở Đà Nẵng.
Nàng đi xe suốt, nhưng khi trở ra, nàng sẽ xuống Huế ghé nhà gia đình
bên
Nguyên một ngày, có thể chiều chủ nhật, hay sáng sớm hôm sau nàng đi
Quảng Trị.
Thường khi có Nguyên, nàng ở lại luôn ngày chủ nhật vui chơi với chàng,
đến
sáng sớm, Nguyên lái xe đưa nàng ra Quảng Trị sớm, ghé nhà trọ sửa soạn
và thay
quần áo xong là đến trường.
Những thoáng nghĩ đến hạnh phúc đem
cho Nga niềm vui. Nhưng không đứng lâu, nàng quay trở lại lớp, đi qua
từng bàn,
nhìn các em cúi đầu chăm chú vẽ. Khi thấy có em nào vẽ sai, nàng dừng
bước, chỉ
vào tờ giấy vẽ chỗ em đã vẽ sai để sửa lại.
Trong các lớp dạy Vẽ, Nga thấy lớp
B4 này, các em có nhiều năng khiếu và mau hiểu bài.
Hạnh phúc của Thiên Nga là các em nhỏ.
Nàng luôn thướt tha trong dáng đẹp chiếc áo dài, và những buổi sáng hay
chiều đến
lớp dạy, cuộc đời làm cô giáo của nàng như là một. Nàng rất vui trên
cặp mắt,
niềm vui ấy, nhà thơ Xuân Diệu nhắc nàng nhớ đến hai câu :
Những buổi sáng niềm vui hằng gõ cửa
Thắng giêng ngon như một cặp môi gần
Nàng trở lên bục giảng, vừa nói được
mấy lời, một hồi trống tan trường bỗng nghe vang dội. Nàng nghe nhịp
trống, với
một phút nôn nao lạ thường. Thế nhưng không gấp vội, tiếng trống dứt,
nàng nói
hết lời giảng mới kết thúc buổi học.
Ngoài sân, học sinh vừa ra lớp ồn
vui như đàn ong vỡ tổ. Nga rời khỏi lớp với chiếc cặp nhẹ xách bên tay,
tới cửa
văn phòng nàng đi vào. Một lúc, nàng tới bồn nước rửa tay, dùng khăn
lau khô.
Khi hết buổi dạy về văn phòng, các
giáo sự thường chưa về ngay còn đứng chuyện trò, đến khi nhìn ra sân
thấy học
sinh đã về hết họ mới chia tay.
Thiên Nga đi xuống sân cùng với ba
cô bạn, họ đi về phía nhà chơi nơi gởi xe đạp. Trên đoạn đường ngắn,
câu chuyện
về cuốn phim La vérité đang chiếu trong rạp lớn ở tỉnh được trao đổi.
Hôm nay, màu áo xanh lá cây trông
Thiên Nga lạ hẳn. Nhưng phải nhìn áo tím nàng mặc, bạn mới
thấy hoa phượng rở sáng một mùa bên sông. Ở
đây, chỉ có hoa phượng đỏ, nhưng nơi xứ người mùa hè là mùa của hoa
phượng tím.
Liên An đã đến phương xa, nàng viết thư gởi về Huế, cho Loan và Thiên
Nga.
Trong thư dành cho Nga, cô kể chuyện học, cuộc sống sinh viên, thời
tiết cùng
phong cảnh nơi thành phố cô ở. Gần cuối thư, cô hỏi thăm Nguyên và địa
chỉ của
Thụy.
Chỉ có một chiếc áo trắng trong bốn
cô giáo. Khi ra khỏi cổng trường, một đôi tách nhau trên hai lối đường
về nhà.
Bên cạnh Yến, Nga nói:
-Ngày mai mình
về thăm nhà.
-Ở Đà Nẵng,
nhà Nga ở đường nào ?
-Hùng Vương,
ngay trung tâm thành phố.
-Sao Nga
không xin dạy học trong đó ?
Nga hơi do dự, nhưng trong tình thân
đồng nghiệp nàng nói với người bạn về mối tình cảm của nàng đối với quê
hương
chồng.
-Hay quá, Yến
nói. Rồi tiếp lời - Nhưng một hai năm sau, Nga cũng nên về trong đó với
gia
đình.
-Yến nói
đúng ý mình.
Nắng trưa dịu hẳn. Trên đường về, những
đợt gió phất phơ, đôi khi nghe tiếng động lùng bùng rồi trông thấy
những nhánh
cây khô nhẹ nhàng rớt xuống.
-Nga ở nhà
trọ chung với ai ?
-Không có
ai, một mình thôi.
Một giọng vui, Yến nói:
-Anh Nguyên
trông hay lắm.
Nghe Yến nói về Nguyên, Nga hơi ngạc
nhiên. Nhưng rồi, nàng nhớ ra một hai lần Nguyên từ Huế đi công tác,
anh đến
thăm Nga ở trường. Vào lúc đó trông thấy Nguyên, các thầy dạy và đến
các cô
giáo, ai cũng có cái nhìn thiện cảm với chàng. Với bộ quần áo trận, ba
hoa mai
thêu trên cổ áo, trông chàng có dáng vẻ hào hùng, lý tưởng. Và, họ cũng
nhận ra
ngay, chàng và Nga thật đẹp đôi.
Yến hỏi:
-Anh Nguyên
còn viết báo không ?
-Có, nhưng
không nhiều như hồi trước.
Yến nói:
-Huế trong
năm 63-64 đầy biến động. Sinh viên học sinh Huế cùng đứng lên chống đối
chính
quyền của tướng Nguyễn Khánh. Tờ Sinh Viên Huế xuất hiện thời điểm đó.
Nga cười nói với bạn:
-Vậy mà mình
hỏi đến, thì chẳng còn có một tờ báo nào anh giữ.
Yến nói:
-Anh Lập
mình, bạn học ở trường Luật với anh Nguyên. Khi ra báo, anh Nguyên làm
Chủ bút,
anh Lập là Tổng Thư Ký.
-Anh Lập còn
giữ không ?
-Anh có đủ bộ.
Nga cười nói:
-Anh Nguyên
không lưu giữ tờ nào cả.
-Mình rất
thích những bài viết của anh Nguyên. Có một vài truyện ngắn, anh viết
hay.
-Yến học sau
anh Lập mấy lớp ?
-Ba lớp.
Nga nói:
-Mình có gặp
anh Lập một lần, và được anh Nguyên giới thiệu.
-Năm đó, anh
Nguyên có ghé nhà mình.
Hai chiếc xe đạp bên nhau như là hai
người bạn. Yến đã cho Nga về những tháng năm cũ, về kỷ niệm thời sinh
viên của
Nguyên, cả lý tưởng của chàng nữa. Nga thật hài lòng, nàng chợt nghĩ
đến mẹ, và
tự hỏi, nếu như mình chỉ có nghĩ đến sự
yên bình với một cuộc đời đã có sẵn, không sóng gió, đấu tranh, không
phải
đương đầu với mọi nghịch cảnh, thì cái đẹp của nàng có sẽ dần mòn như
bao nhiều
lớp phấn son tàn tạ. Khi sống, mình biết yêu mến cuộc sống, thì cuộc
sống mình
hiện hữu sẽ giữ mãi lớp phấn son cho nhan sắc, cho cái đẹp của mình.
Ngừng lại đầu ngã tư phố chính, hai
người chia tay. Yến hỏi:
-Chiều nay
Nga có giờ dạy không ?
-Có, hai giờ
đầu.
-Chiều nay
mình nghỉ.
-Làm gì chiều
nay ?
-Mình thích
nghe nhạc, đọc sách ?
-Đó cũng là
cái thú của mình.
-Nga vẽ
tranh được nhiều không ?
-Một vài bức.
-Mình chưa
được xem tranh Nga vẽ.
-Chiều đến
nhà mình chơi.
Trong nụ cười, mắt Yên nhìn ra nắng.
-Nga hay uống
cà phê không ?
-Có chứ.
-Rồi, chiều
mình ghé bạn xem tranh và uống cà phê.
Nga gật đầu, đôi bạn ra chiều vui
trong ánh mắt khi có sự đồng cảm. Rồi, xe Yến rẽ lối phải về nhà. Một
mình, Nga
vẫn đạp xe chậm, thong thả. Trên đường
phố, cảnh sinh hoạt gây huyên náo, ồn ào, nhưng mà trong lắng đọng tâm
hồn, Nga
nhớ nhiều đến Nguyên, đến bao nhiêu khuôn mặt thân thương trong gia
đình của
Nguyên. Nàng hiểu về gia đình chồng, về cuộc sống có ý nghĩa qua những
thử
thách và sự chọn lựa của mình.
Tới ngã ba nhà đèn, xe rẽ trái. Đây
là con đường yên tĩnh. Nàng trông thấy con sông, thấy cánh đồng cỏ,
thấy ngôi
làng bên kia sông khi đi ngang qua trường Nguyễn Hoàng cũ đối diện với
một ngôi
đình, ngôi đình này trước đây như là công viên trồng nhiều loại hoa.
Gió sông thổi lên bờ khá mạnh, hất
tung chiếc áo dài của Nga bay lên chấp chới. Và, chiếc xe đạp hơi bị
chao khi
Nga giữ lại thân áo, nhưng với ảnh tượng một tà áo trong cơn gió lộng
thổi,
trong ánh nắng, trên con đường miền quê, Nga thoáng nghĩ đến bức tranh
mình sẽ
vẽ nên được.
Nắng trưa mở rộng hai bờ. Dòng sông
ánh lên dưới nắng, làm bạc đi một chút màu xanh của dòng nước.
Về đến nhà, Nga để xe dưới mái hiên
rồi đi lên lối cầu thang. Kéo bức màn để thay quần áo, xong nàng xuống
bếp làm
bữa cơm trưa đơn giản.
Trong bữa ăn, Nga vừa đọc báo. Những
tờ nhật báo Nga chỉ mua lúc thấy có tin quan trọng về một vài biến cố
chính trị
và tình hình thế giới. Những báo này Nga hay giữ, và đọc thong thả vào
giờ ăn.
Hai giờ chiều, Nga đến trường. Lớp Đệ
Thất B6, nằm ở căn giữa dãy nhà lợp tôn. Sau hai giờ ở lớp này, nàng
rời trường.
Hôm nay cũng là ngày cuối, xong hai mươi giờ dạy của nàng trong tuần lễ. Ngày mai, không chỉ riêng nàng, chắc
cũng có một vài đồng nghiệp về nhà ở Huế. Giáo sư dạy ở trường, cả Đệ
nhất và
nhị cấp đều từ Huế ra cả. Cũng có một số vị quê quán ở đây, và họ còn
là cựu học
sinh cũ của trường trở về dạy lại.
Sau ba tiếng trống, sân trường trở
nên vắng lặng. Mùa chim én bay về trên bầu trời rộng, lễ Giáng Sinh và
Tết
dương lịch đã qua, lúc này đây sinh hoạt trong thành phố trỗi dậy niềm
mong ước
về một cuộc sống mới nẩy mầm.
Nga đi vào lớp học với dáng vẻ dịu
dàng, hiền từ, và trầm lặng. Nàng đặt chiếc cặp trên bàn, xong mở ra,
lấy một
cuốn sách giảng văn của tác giả Nguyễn Quảng Tuân.
Nàng nói:
-Hai giờ hôm
nay của các em, giờ đầu là chính tả, giờ sau là giảng văn.
Bên dưới, có tiếng lào xào rồi yên lặng.
Trên bàn học, tập vở được mở ra, và em nào cũng chuẩn bị cho giờ viết
chính tả.
Nga chọn bài "Cô hàng xén"
của nhà văn Thạch Lam.
Cuốn sách mở rộng trên tay nàng.
Nàng đứng giữa lớp, cất tiếng đọc chậm, giọng đọc của nàng luôn theo
đúng nhịp
điệu của câu văn, để cho các em hiểu từng ý tác giả viết.
Bài chính tả dài hơn hai mươi dòng vừa
đúng nửa trang sách. Đây cũng mới là một đoạn trích văn hay trong toàn
truyện
ngắn của tác giả. Truyện ngắn này được in chung trong tập Gió đầu mùa.
-Cô bắt đầu
nhé.
-Dạ.
Cả lớp cùng đáp lời, Thiên Nga bắt đầu
đọc. Nàng đọc xong, đọc lại lần nữa sau khi dừng ít giây. Những mái đầu
cúi xuống
chăm chỉ, nghe đọc, nghe viết, và bóng dáng Thiên Nga tay cầm cuốn sách
với từng
bước chân nhẹ nhàng giữa lối đi.
Tiếng nàng rõ, trong những chữ có dấu
hỏi ngã, nàng nhấn giọng đọc để mỗi em phân biệt. Trong lớp, có một số
em thuộc
gia đình người Bắc, những em này, xác định hỏi ngã rất chuẩn. Nhưng để
học sinh
viết đúng hỏi ngã, những bài trước nàng đã giảng đầy đủ qui luật này.
Bài chính tả kết thúc. Nàng đọc lại
lần nữa nguyên đoạn văn trích trong sách, sau đó, nàng bước lên bảng
viết ba
câu hỏi chọn trong sách. Trong ba câu này, một câu về đại ý, một câu
giải nghĩa
chữ khó, và câu chót là đặt câu với bốn từ ngữ được ghi ra.
Trong khi các em làm bài, Nga đi lại
trên lối giữa và lối hai bên qua từng bàn xem xét bài của các em làm.
Đây cũng
là trách nhiệm, vừa là kinh nghiệm giúp cho nghề giáo của nàng. Không
lúc nào,
nàng dùng thì giờ làm bài của học sinh để làm công việc riêng khác như
đọc
sách, đọc thư hay viết thư cho gia đình.
Ở lớp, từng giờ dạy là nàng làm tròn bổn
phận trong chức năng của mình. Và, nàng luôn giữ tính cách độc lập, với
ước
mong các em học sinh chăm học, tiến bộ, không để bị cám dỗ trước lời
khen của đồng
nghiệp hay những lời yêu kính và mến mộ của học sinh.
Trước năm phút hết giờ đầu, các em
làm bài xong. Nga gọi trưởng lớp đi thâu tập vở. Khi có lệnh này, các
em tại mỗi
bàn gom vở lại để ngay chỗ người ngồi
ngoài đầu bàn .
Tiếng trống báo hết giờ. Nàng đếm lại
từng tờ bài làm của lớp, xong chia làm hai rồi cất vào cặp. Chiếc cặp
da mềm nhẹ,
có hai ngăn chính và một ngăn phụ.
Thiên Nga cầm sách trở ra bục giảng
đứng giữa, nàng nói số trang cho học sinh biết để mở sách.
Bài chính tả vừa mới đọc xong, nàng
dùng luôn bài này làm giảng văn. Trước khi vào phần nội dung, nàng nói
qua tiểu
sử tác giả Thạch Lam.
Tay trái cầm cuốn sách được gấp
trang chính giữa mấy ngón tay, tay phải nàng cầm phần ghi lên bảng con
số năm
sinh và tên quê quán của nhà văn.
Quay xuống lớp, vừa biểu thị với bàn
tay, nàng nói:
-Trước khi
giảng cho các em đoạn văn trích giảng này, cô sẽ phác qua vài nét cho
các em biết
về nhóm Tự Lực Văn Đoàn, trong đó nhà văn Thạch Lam là một thành viên.
Nhóm Tự
lực này, nhà văn Nhất Linh là người sáng lập. Kể từ năm 1930 đến nay,
nhóm Tự lực
Văn đoàn thực là đã có một công lao đóng góp cho văn học Việt Nam rất
lớn. Khi
nhóm này khởi sự hoạt động với hai tờ báo Phong Hóa và Đời Nay, tôn chỉ
của
nhóm nêu ra mười điều lệ được đăng trên báo Phong Hóa:
1/Tự
sức mình làm ra những sách có giá trị văn chương,
chứ không phiên dịch
sách nước ngoài nếu sách này chỉ có tính cách văn chương thôi: mục đích
là để
làm giàu thêm văn sản trong nước.
2/Soạn hay dịch những cuốn sách có
tư tưởng xã hội. Chú ý làm cho người và cho xã hội ngày một hay hơn lên.
3/Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những
cuốn sách có tính cách bình dân và cổ động cho người khác yêu chủ nghĩa
bình
dân.
4/ Dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu,
ít chữ Nho, một lối văn thật có tính cách An Nam.
5/ Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời,
có trí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ.
6/ Ca tụng những nết hay vẻ đẹp của
nước mà có tính cách bình dân. Không có tính cách trưởng giả quí phái.
7/Trọng tư do cá nhân.
8/Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng
không hợp thời nữa.
9/Đem phương pháp khoa học thái tây ứng
dụng vào văn chương Việt Nam.
10/ Theo một trong 9 điều này cũng
được miễn là đừng trái ngược với những điều khác.
Trong mười điều Nga vừa ghi lên bảng,
có ba điều quan yếu là một, bốn, bảy nàng nhấn mạnh, dùng phấn xanh
gạch dưới
hàng chữ ghi các điều này. Rồi nàng nói:
-Trong đoạn
chính tả cô vừa đọc cho các em viết, các em đã thấy, đã hiểu được một
cách hành
văn Việt Nam giản dị, trong sáng của tác giả Thạch Lam, đó chính là tôn
chỉ của
nhóm Tự lực văn đoàn. Với những thế hệ trước, đến thế hệ của cô, rồi
bây giờ là
các em, tiếng Việt chúng ta học và viết ra được một cách rõ ràng, dễ
hiểu, sự
kiên này cho chúng ta thấy cái công lớn mở đường một giai đoạn văn học
mới, vừa
sáng tạo, vừa có bản sắc dân tộc của Tự lực văn đoàn. Một sự kiện rõ
nét nữa,
là những nhân vật xây dựng trong các tác phẩm tiểu thuyết đều thể hiện
được
toàn vẹn tính cách người Việt, không một dấu vết ảnh hưởng người Trung
Hoa hay
người Pháp.
Lớp học vẫn luôn yên lặng khi cô
giáo Nga giảng bài. Nàng biết, các em nhỏ mến nàng, rất ngoan ngoãn, đó
cũng là
một sự khích lệ cho nàng một sự tự tin, và sự xúc động luôn luôn nén
giữ chặt
trong lòng nàng. Không chỉ yêu mến cô giáo vì vẻ hiền hậu, giọng nói
thân
thương, mà ở tuổi này, các em cũng biết rằng cô giáo Nga rất đẹp, hoa
khôi áo
tím của trường.
Nga bắt đầu vào đoạn chính giảng văn
sau mười lăm phút lược qua về tiểu sử nhà văn Thạch Lam và nhóm Tự lực
văn
đoàn. Để nắm ý đoạn văn, nàng lược kể nội dung truyện ngắn: Tâm là một
cô gái
miền quê hiền hậu , vừa có nhan sắc. Cô làm công việc buôn hàng xén
trên một phố
huyện để nuôi mẹ và lo cho em ăn học. Rồi đến tuổi lấy chồng, cô nhận
lời lấy
Bài, làm giáo viên trường làng. Nhưng về gia đình Bài, cô Tâm không nhờ
vả được
gì, còn gặp phải chồng khó tính, hay gắt gỏng, thêm mẹ chồng cũng là
người rất
cay nghiệt. Cuộc đời của nàng trở nên tối tăm, buồn tủi số phận, một
thân với
gánh hàng xén, lo nuôi mẹ, nuôi em, nuôi cả gia đình chồng. Trong hình
ảnh đó,
nàng chỉ còn nhìn thấy những tháng ngày trong chiều tối, trong mưa,
trong gió lạnh,
và trên bước đường đời, nàng chỉ đến một ngõ cụt.
Nói tới đây, giọng Nga rất buồn, nhỏ
lại. Trên đôi mắt nàng một lớp nhung rêu phủ yên lặng, có em nữ sinh
ngồi bàn đầu
chăm chú nhìn nàng.
Qua đi vài giây xúc động, nàng tiếp
bài giảng:
-Và, tác giả
cũng đã cho ta thấy trong xã hội ta lúc bấy giờ, cô Tâm là tiêu biểu
cho hạng phụ nữ thôn quê suốt đời chỉ biết
hy sinh, sống
trong sự tối tăm cùng khổ, không hề biết có ngày vui.
Nga dừng một lúc, lớp học lặng yên
chờ nàng. Bên ngoài, những hàng cây buông rủ bóng im xuống và tràn vào
cửa sổ.
Và, tiếng động của gió, nghe rất nhỏ.
Nga trở lên bảng, nàng cầm phấn, vừa
xem sách, nàng vừa ghi ra những từ ngữ tác giả sử dụng cho đoạn văn,
rồi quay
lưng hướng về lớp. Lúc này, nàng nói đến sự khéo léo của tác giả khi mô
tả cảnh
vật, sự vật, và sự biến chuyển trong mối cảm xúc của nhân vật.
Hồi trống dài báo hiệu giờ ra chơi.
Còn một ý chót trong bài, Nga cố gắng giảng nốt cho xong trước khi cho
các em rời
lớp .
XV
Nga chăm chú nhìn cái bóng cây ngô đồng
làm điểm chuẩn. Lúc trông thấy nó rõ hơn, nàng quay đầu nói với người
lơ xe.
-Anh cho tôi
xuống đây.
Một em học sinh ngồi ghế bên hỏi:
-Không phải
cô đi Đà Nẵng.
-Ngày mai cô
mới đi.
Người lơ xe gọi lớn, anh tài xế nghe
được liền cho xe giảm tốc độ lăn bánh một quãng chừng mươi thước, rồi
ngừng hẳn.
Nga và một khách hàng buôn nữa cùng
xuống. Nga trả tiền, lơ xe nhận không nói gì, nhưng với người buôn anh
ta còn kỳ
kèo, đủ tiền nhét vào túi anh mới chịu lên trần dỡ hàng xuống cho khách.
Với cái túi xách cầm tay nhẹ, vì chỉ
có quần áo thôi, ở Quảng Trị không có hàng quà gì lạ nên Nga không mấy
khi mua
mỗi lần về thăm nhà. Những lần về, có chăng là những tấm ảnh chụp ngoạn
cảnh
lúc một mình, lúc có Nguyên. Có bốn tấm ảnh nàng chụp chung với các em
trong mấy
lớp dạy. Và, những ảnh này, nàng dành cho cuốn album của em Mỵ Châu.
Khi Nga tới gần một ngả ba, chiếc xe
đò đã vượt qua khỏi nàng. Em học sinh ngoảnh đầu nhìn qua phía cửa hông
hàng ghế
bên kia tìm kiếm bóng nàng. Em chỉ thấy màu tím của chiếc áo, và câu
chuyện giữa
em và một cô giáo không còn nhắc em nhớ gì thêm nữa.
Hai bên quốc lộ, những đồng ruộng trải
dài. Ngày hôm trước có trận mưa nên các thửa ruộng nước còn đọng. Nơi
đây,
quang cảnh buổi sáng hẳn còn vắng, gió lộng trên cánh đồng, những
chuyến xe
khách đi qua, và gần đây có một quán hàng ăn và một ngôi trường tiểu
học lợp
ngói.
Nga đi bộ một mình, con đường băng
qua cánh đồng ruộng nhìn về hướng đông rất xa là dãy núi, xuất hiện
trên ngọn đồi
là căn cứ đóng quân đơn vị Trung đoàn của Nguyên.
Có tiếng xe phía sau, vừa nép vào bờ
lề, Nga vừa quay đầu nhìn. Chiếc xe Jeep bỗng thắng gấp khi vượt qua
khỏi nàng
một đoạn ngắn. Nga đọc bảng số xe, nhớ ngờ ngợ.
Nga bỗng thốt lên:
-Ủa, chú
Trí. Anh Nguyên đâu ?
-Đại úy đang
họp ban.
-Chú mới đi
đâu về ?
-Lên Sư đoàn
nhận văn phòng phẩm.
Nga lên xe ngồi ở ghế trên. Xe vừa
lăn bánh, anh tài xế nói:
-Sao không
nghe Đại úy bảo gì cả.
-Chú Trí nói
sao ?
-Có chị ghé
thăm phải đi đón chứ.
-Tôi tính đi
luôn Đà Nẵng, nhưng tiện xe dừng khách ở đây tôi xuống thăm anh Nguyên.
-Ngày mai chị
đi Đà Nẵng ?
-Ờ, ngày
mai.
Anh tài xế cười thú vị, nói:
-Hay lắm
nghe. Ngày mai Đại úy đi họp trong Quân đoàn.
Lòng Nga vui lên. Nàng hình dung
bóng dáng Nguyên với nhiều kỷ niệm trong ánh mắt nàng. Nàng nhớ khuôm
mặt, nhớ
chiếc nón vải, đôi giày sô, và gương mặt sáng, vừa thanh
tú của chàng. Trước đây, Nga hay yêu cầu
Nguyên mặc quần áo xi vin khi đi chơi phố, nhưng nay, nàng không cầu
mong nữa,
với Nguyên bộ quần áo lính trông hay hay, hào hùng, quyến rũ. Nguyên
không chỉ
đem niềm vui riêng một mình Nga thôi, trong các lần tiếp đón đoàn văn
nghệ, hay
đi thăm các trường học, anh là đối tượng một để cho các cô gái vui tìm
đến gặp,
vừa chuyện trò, vừa nghe những lời tán tỉnh rất thích thú. Đó là đặc
điểm của
Nguyên, với một tâm hồn cởi mở, không những Nga hiểu chàng mà còn hãnh
diện
mình có được chàng.
Lên khỏi dốc, xe vượt qua cổng gác rồi
rẽ trái, chạy thêm một quãng chừng nửa cây số, xe dừng trước sân ban 5,
nơi
Nguyên làm việc.
Vừa mới họp xong, anh em về chỗ làm
việc. Nguyên đang ký tên vào những tờ trình đã đánh máy, chợt nhìn ra
cửa trông
thấy Nga đến. Nga vào một mình, trong khi tài xế Trí khuân thùng giấy
lớn vừa
nhận ở phòng tiếp liệu Sư đoàn.
-Gì đó, Trí.
-Văn phòng
phẩm.
-Một thứ
thôi.
-Một thôi.
Trí vác trên vai thùng giấy lớn xuống
chỗ nhà kho, anh vừa nói chuyện với mấy bạn lúc đi ngang qua dãy bàn
anh em làm
việc.
Nguyên vẫn làm việc, vừa hỏi:
-Em có gấp
vào nhà không ?
-Không.
-Ngày mai
anh đi họp ở Quân đoàn.
-Em nghe chú
Trí mới nói.
Vốn đã quen thuộc với nơi làm việc của
Nguyên, nên khi trở lại đây sau những ngày vắng bóng, Nga vẫn tự nhiên
và cảm
thấy không khí quen thuộc như hồi nào.
-Anh cứ làm
việc đi, em đọc báo.
Nguyên kéo ngăn hộc, đưa cho Nga tờ
tạp chí Tiền Phong.
-Có bài của
anh viết không ?
Nguyên gật đầu. Bỗng nhiên, mắt
chàng dừng lâu xuống đoạn cuối của bản tường trình, rồi đọc thật kỹ.
Nguyên gật
đầu, hiểu.
Nga tìm được bài viết của Nguyên.
Nàng mỉm cười, vì bài viết chàng để tên chung của hai người. Không cần
người
thân hay bất cứ ai kể lại, Nga thật sự hiểu được khả năng sâu rộng của
Nguyên về
sử học, về chiến tranh, và tình hình thế giới. Những bài anh viết về
tâm lý chiến
rất có tác động, và hiệu quả trong cuộc chiến tranh miền Nam đang xảy
ra từng
ngày.
Nga lật đến trang thứ mười, bài mới
kết thúc một phần.
-Anh viết
dài ghê.
-Bài này anh
phải viết đầy đủ.
-Số tới, báo
đi tiếp.
-Đúng rồi.
-Anh viết
cho báo Quân đội có nhuận bút không ?
-Có chứ.
-Em cứ tưởng
anh viết đóng góp.
-Ở Phòng Báo
Chí của Cục, có ngân khoản để trả tiền bài cho tác giả.
-Ngày mai
anh đi sáng hay trưa ?
-Anh sẽ đi sớm
với em.
-Anh họp mấy
ngày ?
-Hai ngày.
Nguyên ký xong giấy tờ, anh gọi Hạ
sĩ Hóa, phụ trách văn thư đến nhận chuyển lên cho văn phòng Trung đoàn
trưởng.
Hạ sĩ Hóa ngồi ở bàn nhì, nghe gọi đứng
lên ngay. Khi tới bàn Nguyên, gặp Nga anh lên tiếng chào, ngạc nhiên
nói:
-Lâu quá,
không thấy chị Nga ghé.
-Tôi bận dạy
học.
-Chị dạy ở
Đà Nẵng ?
-Không. Ở Quảng
Trị.
Hóa ôm các tạp bìa vàng trên tay,
nghe lời Nguyên dặn xong trở gót. Kim đồng hồ trên tường chỉ gần mười
một giờ.
-Em uống gì
không ?
Trong phòng, có một bình lớn nước lọc,
một cái tủ lạnh để nước giải khát. Vào mỗi tháng có hàng quân tiếp vụ
bán, quân
nhân được mua theo tiêu chuẩn, còn các phòng ban, nhận được một số nhu
yếu phẩm
đặc biết dùng để tiếp khách hoặc giải lao.
Nguyên đến mở cửa tủ lạnh lấy ra hai
chai nước chanh. Nước lạnh sẵn nên Nguyên không lấy đá, chỉ mang lại
bàn hai
chai và hai ly.
Nhìn nhau, hai người vui. Nga rất
thích ngắm cặp mắt của Nguyên lúc anh nhìn nàng. Và, đôi mắt của Nga
luôn vui
khi ở bên Nguyên, những lúc nhớ đến Mỵ Châu đôi mắt
nàng mới tỏ sự buồn nhớ. Nàng cũng hay khóc
thương cô em gái, khi quá cô đơn.
Nguyên hỏi:
-Em dạy học
ra sao ?
-Em dạy khá
lắm.
-Học sinh
ngoan ngoãn không ?
-Rất là
ngoan.
-Có đứa nào
quậy phá bị cô Nga đánh thước kẽ không ?
-Anh làm như
em cũng dữ lắm.
-Học sinh quậy
phá, đánh thước kẽ nó mới sợ.
-Không đâu.
Em rất thương học sinh, không phân biệt đứa nào cả. Chúng nó cũng rất
mến em.
-Ở Quảng Trị,
em thấy sao ?
-Căn nhà
thuê anh chọn cho em quá lý tưởng.
-Anh cứ ái
ngại, sợ em dạy học xa nhà một mình.
-Không, anh
đừng lo lắng. Em rất tự tin.
-Có cô em
gái bạn anh, cũng dạy ở Nguyễn Hoàng.
-Yến, phải
không ?
-Đúng rồi,
em của Lập.
-Hôm qua Yến
đến em. Yến đến xem tranh em vẽ, và ngồi uống cà phê với em.
-Hai cô có
nói chuyện gì nữa không ?
-Cô Yến rất
ngưỡng mộ anh. Hồi đó, anh cũng xách động học sinh xuống đường biểu
tình, bãi
khóa dữ ha.
-Anh có ra một
tờ tuần báo nữa.
-Vậy mà, báo
của anh, anh không giữ, để người khác giữ.
-Ai ?
-Ở nhà, anh
của Yến còn giữ đủ bộ.
Nguyên nói:
-Năm anh đi
Sài Gòn, rồi bỏ hết. Ở nhà, mẹ cũng dọn chỗ ở nhiều nơi.
-Tuần tới, Yến
sẽ mang báo ra cho em xem.
-Hay lắm.
Nga rót thêm nước chanh vào ly. Trí
xuất hiện, hỏi Nguyên:
-Đại úy mua
gạo không ?
-Có chứ. Em
mua cho bà già bao một tạ.
Nguyên mở nắp túi áo trên đưa tiền
cho Trí . Có một hồi kẻng báo giờ nghỉ trưa.
Từ các phòng, quân nhân ra ngoài,
đây đó, họ tìm đến câu lạc bộ và quán ăn nhà thầu.
Nguyên và Nga đi bên nhau. Vào câu lạc
bộ, anh em trông thấy Nga ồn ào lên tiếng, và nàng vẫy tay chào.
Nguyên đưa Nga vào bàn chung với mấy
vị Sĩ quan của Trung đoàn. Một người hỏi:
-Chị Nga
đang dạy học phải không ?
-Đúng rồi.
Sao mà hay vậy ?
-Chàng đây kể
ra, còn ai nữa.
-Chị dạy trường
nào ?
-Tôi dạy ở
Quảng Trị, trường Nguyễn Hoàng.
Bữa ăn chung dọn ra, hai đầu bàn hai
tô cơm lớn và đầy. Trên bàn, có canh và ba món mặn. Thức uống là nước
trà nóng
và giải khát.
Những Sĩ quan trẻ của Trung đoàn hầu
hết là dân trừ bị, từ lò KBC 4100 ra cả. Tuổi lính chưa ai
quá 5 năm, ngồi đây chỉ có Nguyên và Thượng
là đeo ba bông mai. Thượng ở đơn vị Tiểu đoàn mới về làm phụ tá ban 3
năm
ngoái. Ít tháng nữa, Thiếu tá Quyền đi học lớp Tham Mưu, Thượng sẽ lên
trưởng
ban.
Bữa ăn vui, và Nga được nhiều anh em
hỏi chuyện về cuộc sống, về công việc dạy học. Nàng nói, ở Quảng Trị,
thành phố
cũng yên bình, chưa hẳn mất an ninh kể đến cả các quận lỵ và ngoại ô.
Bây giờ, ở
Quảng Trị, không chỉ trường Nguyễn Hoàng có đủ lớp Đệ Nhị Cấp, các
trường tư thục
cũng mở nữa, học sinh toàn tỉnh giờ rất
là đông.
Nga vẫn là hình ảnh thân thuộc của
Trung đoàn. Với vị Trung đoàn trưởng và ban tham mưu, đến các Sĩ quan
mỗi
phòng, rồi anh em Hạ sĩ quan, binh sĩ, họ quí mến nàng vì trong thời
gian những
năm học ở Mỹ Thuật, nàng hay đi cùng với Nguyên lên đơn vị, hai người
hay la cà
vào các quán nước, vào câu lạc bộ, đến cả quán ăn khu gia bình cùng các
chiến hữu chuyện trò thật tự nhiên, thân
tình như đã
cùng sống, cùng hiểu nhau trong một đơn vị.
Trung đoàn cố đô được thành lập ngay
sau biến cố Tết Mậu Thân. Đây là một trung đoàn được sử dụng để bảo vệ
Huế, vì
thời ian vừa qua thành phố chịu cảnh tang tóc nhất ở miền Nam.
Từ mặt trận Khe Sanh, Nguyên trở về
cùng với một số phóng viên báo chí trong và ngoài nước, và anh đã viết
một bài
phóng sự đầy đủ diễn tiến các trận đánh của đơn vị
quân Hoa Kỳ, Sư đoàn dù và các Trung đoàn bộ
binh của Sư đoàn I, cùng nhiều đơn vị yểm trợ khác. Bài anh viết cho
nhật báo
Tiền Tuyến lần lượt chạy bốn kỳ. Và, đó cũng là bài phóng sự cuối cùng
đánh dấu
ba năm anh phục vụ tại Cục Tâm Lý Chiến ở Đài truyền Hình và Phòng Báo
Chí. Thời
gian anh làm việc hai nơi này, với khả năng và kiến thức của một người
viết
báo, anh được các vị chỉ huy tin tưởng. Không cần phô trương, nhưng anh
có quyền
hãnh diện khi những bài phóng sự anh viết luôn được đi trên trang nhất,
từ bốn
đến tám cột.
Trưa hôm ấy, Trạch đến tìm Nguyên
đang uống cà phê trong cậu lạc bộ của đơn vị. Ngồi bên Nguyên là Lục,
một nhà
thơ quân đội. Lục rất thân với Nguyên, giới thiệu Nguyên với nhiều bạn
văn trẻ
khác cũng ở trong quân đội, họ là những người lính sống hào hùng, khí
phách.
Lục nhìn vẻ mặt ủ dột của Trạch,
đoán ra, bạn ta có chuyện gì rắc rối.
-Này Nguyên,
toa đi thay cho moa được không ?
-Chuyện gì vậy
?
Trạch trình bày buổi
gặp sáng nay với Cục trường về
việc ông thuyên chuyển anh ra đơn vị Trung đoàn tân lập ở Huế để giữ
chức vụ
Trưởng ban 5, vì ngoài đó, đơn vị trưởng đang cần.
Nguyên nói:
-Ông chỉ định
toa, toa đi, sao lại đến tìm moa.
Một giọng thân tình, Trạch nói:
-Trong
phòng, chỉ một mình toa có gia đình ở Huế. Vì thế, nhân có chuyện này,
moa gặp
toa, hy vọng được toa giúp.
Lục lên tiếng:
-Phòng mình,
phóng viên đi ngoài rất ít. Nguyên mà đi, nhân sự phòng
sẽ thiếu.
Với giọng kẻ cả, Lục tiếp lời:
-Lâu nay,
ông làm việc ở văn phòng, có đi, cũng sinh hoạt quanh Sài Gòn.
Trạch nhìn Lục, nói:
-Nhưng chuyện
này đâu phải của ông.
-Nhưng tôi
thấy được tầm mức quan trọng.
Không tranh cãi với Lục, Trạch hỏi:
-Sao,
Nguyên. Mong được toa giúp. Mình ra miền Trung xa gia đình, đơn phương.
Nguyên không trả lời.
Buổi chiều sau giờ làm việc, Lục chở
Nguyên về nhà ở trong một con hẻm gần ngã tư Hàng Xanh. Căn nhà có cây
trứng
cá, có mái hiên lợp tôn, chỗ này để một bàn nhỏ làm chỗ uống cà phê và
gặp bạn
bè văn nghệ.
Vĩnh
đến, gặp cả Nguyên và Lục. Một cách sảng khoái, anh
lên tiếng chửi thề.
Lục hỏi:
-Mày mới uống
ở đâu ?
-Nhà thằng
Nam.
Quay sang Nguyên, Vĩnh hỏi
-Mày ở Khe
Sanh về lúc nào ?
-Mới về được
bốn ngày.
Vĩnh để bàn tay lên vai
Nguyên đập đập mấy
cái.
-Mày được,
tao chịu.
Tối hôm đó, ba ông Sĩ quan trẻ đấu
láo đến khuya. Hai ngày sau,
Cục trưởng
gọi Nguyên vào trình diện:
-Sao anh lại
xin đi ?
-Thiếu úy Trạch
không có gia đình ngoài đó, tôi nhận thay cho anh ấy.
-Anh đã nghĩ
kỹ chưa ?
-Thưa Đại
tá, tôi làm việc ở đâu cũng được.
Nguyên được vị Đại tá mời nước ở
phòng khách. Ông nói:
-Anh là một
Sĩ quan trẻ có khả năng. Anh hơn rất nhiều người ở đây, có được một
phóng viên
năng động, giỏi dang như anh, tôi rất là cần. Nhưng nếu Trung úy Trạch
không
đi, ở đây, Cục cũng phải cử một người cho trung đoàn tân lập. Anh tình
nguyện,
tôi rất lấy làm tiếc. Và, cũng thật khó vì không biết cử ai. Với lại
lực lượng
phóng viên còn thiếu.
Nguyên nói:
-Đại tá yên
tâm. Về ngoài đó, có thì giờ tôi sẽ gởi bài cho báo Tiền Tuyến.
-Anh phải hứa
nhé.
-Vâng, Đại
tá yên tâm.
-Bài anh viết,
sẽ được Tiền Tuyến trả nhuận bút cao.
-Tôi coi
công việc nào mình làm cũng là phục vụ trong quân đội.
-Anh hơn được
rất nhiều người.
Một giây thoáng nghĩ, vị Đại tá tiếp
lời:
-Nếu lúc nào
anh muốn trở về lại đây, cho tôi biết.
-Cám ơn sự
quan tâm của Đại tá
-Tôi ký SVL
cho anh thêm với hai tuần nghỉ phép.
Khi Nguyên gặp Lục thông báo cho bạn
mình biết, Lục rất bất bình. Với Nguyên, Lục rất thân. Ngày Nguyên lên
đường, Lục
đưa ra trạm hàng không Tân Sơn Nhất. Nguyên nói:
-Thằng Thụy
em tao ở đây một mình.
-Khỏi lo. Nó
cũng là em của tao.
Về Huế, ngày Nguyên trình diện Trung
đoàn trưởng, anh có một buổi nói chuyện về cố đô Huế và về sự tổ chức
của ban 5
với sự trình bày rất rõ ràng, chi tiết,
biểu hiện tính hiệu quả thực tế và xác đáng.
Trong những ngày đầu làm việc ở đơn
vị mới, với chức vụ quyền Trưởng ban 5, anh tổ chức lại nhân sự, trong
buổi họp
ban anh nêu những công tác thực hiện quan trọng như
dân sự vụ, xã hội, chính huấn. Và, chỉ trong
một tháng đầu, dân chúng Huế đã được biết rất nhiều về sinh hoạt của
Trung đoàn
cố đô qua chương trình phát thanh 45 phút hàng tuần ở Đài phát thanh
Huế. Bất cứ
việc nào trong ban đều có sự hiện diện của Nguyên, người giữ chức vụ
Trương
ban. Và, không chỉ những hoạt động của Trung đoàn được biết ở địa
phương, hay
là cố đô Huế thôi, mà còn được phổ biến trên một số nhật báo dân sự ,
đặc biệt
là tờ Tiền Tuyến. Những bài viết Nguyên gởi đi, không chỉ nói riêng
sinh hoạt của
Trung đoàn, mà còn đến các Tiểu đoàn, các Đại đội, trong đó anh nêu rõ
danh
sách những chiến sĩ xuất sắc được khen thưởng.
Về ngoài này, Nguyên được gần nhà,
và chỉ sau hai tháng làm việc vị Trung đoàn trưởng hết sức hài lòng về
anh. Một
buổi thuyết trình có tướng Westy tham dự, anh đã trình bày đầy đủ những
hoạt động
của Trung đoàn ở tiền tuyến cũng như hậu phương. Những trận đánh của
các tiểu
đoàn được anh mô tả qua những sự kiện, về quân số, vũ khí, diễn tiến
cuộc giao
tranh. Ở hậu cứ, các phòng ban của Trung đoàn, anh cũng nêu rõ từng
hoạt động hữu
hiệu, đặc biệt là hoạt động an ninh tình báo và chiến tranh chính trị.
Tướng Westy rất hài lòng , lúc kết
thúc buổi thuyết trình ông cùng vị Trung đoàn trưởng bắt tay anh và bày
tỏ những
lời khen ngợi.
Ngày xa đó, Nguyên từ giã Sài Gòn
không như một nhân vật tiểu thuyết, anh là một người lính, một phóng
viên chiến
trường, ra đi với chiếc ba lô đeo vai, túi sac marin, buổi sáng sớm
người bạn
làm chung phòng lái xe jeep đưa anh ra trạm tiếp liên nằm kế bên phi
đoàn vận tải.
Nguyên đi chuyến C130, đến Huế, anh nghỉ hết mười ngày phép xong trình
diện đơn
vị mới. Nguyên làm việc ở đây, với trung đoàn, với Huế đô, không chỉ
chừng đó,
anh còn có dịp gặp lại đông bạn bè cũ. Và, một năm sau, anh gặp Nga.
Bữa cơm đã xong, nhưng các chiến hữu
vẫn còn ngồi lại uống nước chuyện trò. Khi hồi kẻng đánh lên, hết giờ
nghỉ họ mới
trở lại phòng làm việc.
Nguyên và Nga chậm bước bên nhau,
lúc này Nga bỗng hỏi chuyện Thụy. Nguyên chỉ nói:
-Lâu nay nó
không viết thư về nhà .
-Thụy học
Anh ngữ chừng bao lâu ?
-Khoảng ba bốn
tháng.
-Ít nữa,
cũng qua năm sau Thụy mới ra trường.
-Có thể.
Về tới chỗ làm việc, Nguyên thấy xe
Jeep đậu trước sân, nhưng không thấy Trí.
-Em muốn về
nhà nghỉ không ?
-Ai đưa em về.
-Anh nói Trí
đưa em về.
-Thôi, phòng
ban có nhiêu khi cần việc. Em ở đây chơi đợi anh.
-Hay thôi, để
anh đưa.
-Anh phải
làm việc.
-Không có
gì. Anh cũng còn ghé qua Đài truyền hình nữa.
-Có phải muốn
chìu em mà anh bỏ công việc.
-Em nói như
là tình trong ca dao.
-Có thể em bị
ảnh hưởng các bài giảng về môn văn.
-Em tính học
thêm nữa không ?
-Thôi, anh
đã ngừng em cũng ngừng theo.
Vào phòng, Nguyên gặp Trung úy Dinh
phụ tá, anh nhờ Dinh coi việc giúp, đưa Nga về nhà xong trở lại ngay.
-Đại úy tiện
ghé qua Đài truyền hình.
-Tôi nhớ.
Hai người trở ra xe. Nguyên nói:
-Têt năm
nay, còn cắm trại nữa.
-Kinh nghiệm
Mậu Thân đắt giá quá mà.
Nguyên hướng xe ra cổng. Người lính
gác trông thấy cấp bậc của anh đưa tay chào kính. Anh chào lại, rồi giữ
chân thắng
khi xe đổ dốc. Nơi đơn vị Trung đoàn đóng quân cách xa Huế mười cây số.
Vào quốc
lộ, xe chạy nhanh. Đến Huế, Nguyên ghé Đài truyền hình, xe dừng ngoài
sân anh
và Nga cùng đi lên phòng kỹ thuật ở tầng lầu hai.
Phục, chuyên viên của Đài đang làm
việc, thấy Nguyên và Nga đi vào, anh đứng lên. Nguyên tới gần bắt tay
Phục và
giới thiệu Nga.
-Xong rồi Đại
úy. Tối mai phát lúc 8 giờ.
-Cho tôi xem
qua được không ?
-Dạ được.
Nguyên và Nga đi theo Phục vào phòng
máy. Sau một lúc điều chỉnh các nút, Phục cho cuốn phim chạy một đoạn
thử trên
màn ảnh. Nguyên và Nga xem, chú ý quan sát từng điểm trên màn hình.
Đoạn phim sinh hoạt của Trung đoàn
được chiếu thử trong hai phút. Nguyên hài lòng, anh nói lời cám ơn Phục.
Hai người trở ra xe. Một giọng vui,
Nguyên hỏi Nga:
-Lúc nãy em
ăn cơm lính ngon không ?
-Bộ em mới
ăn lần đầu với anh sao ?
-Nhưng đã
lâu rồi, nay em mới trở lại.
-Em rất quí
mến anh em trong Trung đoàn.
Xe chạy vào phố chính. Những hàng
cây trải dài, công viên im vắng, và dòng sông êm đềm dưới nắng.
-Không khí
Huế thật là dễ chịu.
-Ở Quảng Trị
ra sao ?
-Phố chính,
sinh hoạt ngày nào cũng ồn, xô bồ như Sài Gòn.
-Ban đêm
bình yên không ?
-Ban đêm
không mấy yên bình.
-Em có nghe
tiếng súng nổ không ?
-Có. Ở
trên núi vọng xuống.
Nguyên nói:
-Em dạy hết
một năm, sang năm xin vào Đà Nẵng.
Một vào giây sau, Nga nói:
-Vào Đà Nẵng,
không chắc em dạy được ở thành phố.
-Em đừng lo.
Khi em chuyển trường, ba sẽ giúp em.
-Anh làm như
em đẻ bọc điều. Bất cứ việc gì cũng có người khác lo.
Tới nhà, Nga và Nguyên cùng xuống.
Hai người vào nhà, Phương reo lên ùa tới nắm tay Nga.
-Hôm nay
Phương nghỉ.
-Em có lớp
buổi sáng.
-Má đâu ?
-Chơi bên
nhà dì Quyên.
Ba người ngồi ở phòng khách. Bàn học
của Phương đặt bên cửa sổ. Trên bàn những tập cours và sách học. Phương
đang học
năm thứ nhất ở Luật.
Nga hỏi:
-Anh uống đá
chanh không ?
-Uống,
Nguyên gật đầu.
Một lát sau, Nguyên nói:
-Nói với má,
mai anh Trí đem gạo về.
-Dạ.
Nga đi ra vườn hai mấy quả chanh
tươi trong lúc Nguyên nói chuyện với Phương.
-A, nhà mới
nhận được thư của anh Thụy.
-Đâu ?
Phương đi lấy thư đưa cho Nguyên.
Nguyên cầm lá thư của Thụy, mở ra đọc.
Một lúc sau Nga lên, thấy Nguyên đọc thư, nàng hỏi, vừa để ý thấy
Nguyên đang
vui qua một nụ cười.
XVI
Trường Anh ngữ và Ban chỉ huy trại
cho toàn thể khóa sinh nghỉ ăn Tết bốn ngày. Anh em, ai nấy đều rất
vui. Và năm
nay, lấy từ kinh nghiệm Mậu Thân sẽ là năm bắt đầu với các quân nhân là
chỉ có
ăn Tết ở tại đơn vị, nhưng mức độ cắm trại tùy theo tình hình, dù vậy
sự di
chuyển hay phép tắc cũng có dễ dãi, nới lỏng để lính tráng được xả hơi,
vui đón
những ngày xuân.
Tối hôm qua, trại tổ
chức liên hoan có chương
trình ca nhạc do biệt đội văn nghệ Không quân trình diễn.
Sáng nay, giấy phép được phát sớm. Từ
các dãy lều, anh em ùa ra hai phía cổng chính và phụ, nơi đây, đã có
sẵn những
chiếc xe lam , cả xe thồ bằng Honda chờ đón khách. Trong dịp Tết này,
chỉ các bạn
nào có gia đình ở Sài Gòn hay dưới lục tỉnh mới thực sự đi phép, còn
những bạn
quê miền Trung chỉ ra phố chơi rồi trở về trại. Trong mấy ngày Tết, nhà
thầu vẫn
phục vụ cơm nước cho khóa sinh như ngày
thường, mỗi bữa ăn có được tăng thêm phần phụ trội của trại cung cấp. Ở khu gia binh, các quán ăn, quán cà phê vẫn mở
cửa từ sáng đến chiều tối.
Từ bể nước, Thụy xách cái xô nhựa với
áo quần vừa giặt xong, anh đi ra phía sân phơi có giăng nhiều hàng dây
kẽm. Nắng
lên cao, vừa ấm và lạnh. Lúc này, quang cảnh trại trở về yên vắng, văng
vẳng
nghe có tiếng nhạc từ khu gia binh vọng lên tới trên này. Thụy phơi
quần áo ở
hàng dây ngoài cùng. Anh không biết mình định làm gì hôm nay, nhưng
chắc chắn,
anh không muốn rời trại đi ra ngoài, và trong bốn ngày phép Tết, anh
chỉ lấy
ngày mồng hai đi thăm bà con, nội trong ngày này thôi.
Xong việc, Thụy trở vào lều, dọn dẹp
các thứ linh tinh để trên giá cho ngăn nắp. Trong lúc làm mấy việc lặt
vặt này,
Thụy tự đi tìm niềm vui qua những lá thư, hình ảnh các thiếu nữ, trong
đó biết
bao nhiêu tiếng nói, và từng khuôn mặt hiền dịu, dễ thương, rất tươi
sáng, đó
là Liên An, Dạ Hân, rồi Thiên Nga.
Thụy thay quần áo, kiểm soát ví tiền
rồi ra ngoài. Trên đường, lúc gặp nhau anh em cùng cất tiếng chào nhau
và chúc
mừng năm mới.
Sáng nay, anh em còn ở lại khá đông,
lều nào cũng có người đang tụ tập chuyện trò, tiếng nói cười nghe rất
vui vẻ,
phấn khởi. Nhưng bên trong lều, cũng có nhiều canh bạc sát phạt nhau,
không
nương tay. Tiền lương tháng cộng với tiền thưởng Tết mới phát cách đây
hai
ngày, ngay hôm đầu tiên, các con con bạc đã tụ tập, có đám chơi đến lúc
trời rạng
sáng.
Thụy xuống khu gia binh. Dọc hàng
quán, chỗ nào cũng đông khách và mở nhạc xuân. Thụy tới quán quen ngồi
ở cuối hết,
anh gọi tô hủ tiếu mì ăn sáng và một ly cà phê sữa. Trong lúc đợi người
chạy
bàn đem ra, Thụy dành những phút giây nhớ nghĩ đến gia đình ở Huế. Anh
chợt lặng
im, vì nỗi nhớ đã cho anh thấy một cảnh đời muộn màng, nếu như gặp may,
ở tuổi
này, anh cũng đã giúp đỡ cho gia đình bớt phần nào sự khó khăn.
Đứa nhỏ đem bữa ăn sáng ra dọn lên
chiếc bàn, cả cà phê cũng có sẵn luôn. Thụy lau đũa muỗng, xong bắt đầu
ăn. Anh
chợt nghĩ tới thời gian học ở đây sẽ kéo dài trong bao lâu, mỗi cuốn
sách học
trong ba tuần, xong mỗi cuốn là thi lên lớp, và cứ mỗi cấp là một giai
đoạn.
Khi lên học đến cuốn sách xanh 2400 là thi ra trường, kỳ thi này chia
làm hai đợt,
đợt một, bài thi sàng lọc tương đối dễ, đợt hai, bài thi sẽ khó hơn với
tốc độ
đọc nhanh và những câu hỏi về văn phạm cũng khó. Ở kỳ thi tốt nghiệp,
điểm đậu
là 80ECL. Từ hôm nhập trường đến nay, Thụy đã học lên cuốn thứ ba, qua
Tết một
hai tuần là thi chuyển cấp.
Thụy ăn xong tô hủ tiếu, cầm cái
thìa nhỏ khuấy cà phê xong đốt điếu thuốc. Thụy luôn cảm thấy ngon
miệng khi
mùi vị ngọt của sữa trong cà phê trộn vào khói thuốc. Những bản nhạc
xuân nghe
vui, nhưng trong quán vẫn ồn ào tiếng người nói chuyện. Thụy ngồi quán
không
lâu, hút xong điếu thuốc anh đứng dậy tới quầy trả tiền, và lấy thêm
gói thuốc
lá Mỹ, Pall Mall. Đây là loại thuốc nặng, đắt tiền, nhưng hút rất ngon.
Ngày
thường, Thụy hút Bastos xanh, đến cuối tháng có tiền lương anh mới làm
một gói
thuốc Mỹ Pall Mall, hoặc Lucky. Từ năm vào lính cho đến giờ, Thụy luôn
dè xẻn đồng
tiền lương, ở quân trường anh không hề vắng một buổi cơm phạn xá, kể cả
hai
ngày cuối tuần đi phép xuất trại, không chỉ có vậy, anh còn hạn chế mức
xài tiền
bằng cách ghi sổ nợ. Anh rất sợ món nợ này, vì lúc tiêu xài mình dễ coi
thường
không để tâm đến các món hàng nhỏ, nhưng tới cuối tháng, số tiền nợ
tăng lên là
đủ chóng mặt.
Từ
Bộ tư lệnh , Kiêm vừa mới biệt phái qua trại khóa
sinh để làm một tờ báo
hàng tháng trong chương sinh hoạt của trại. Kiêm đi với Trung úy Trân,
cũng ở
trong ngành chiến tranh chính trị. Ở nơi đây, tuy là trại khóa sinh,
nhưng quân
số của Ban chỉ huy có hai mươi người, nếp sống và kỷ luật áp dụng gần
giống
quân trường, nhưng tương đối nhẹ, dễ dãi.
Trước đây, Thụy và Kiêm có làm việc
chung một thời gian ngắn ở báo Lý tưởng. Sau đó, Thụy đi học chuyên
môn, mãn
khóa anh ra đơn vị mới là Trung tâm không trợ III,
còn Kiêm vẫn làm việc cho Lý Tưởng. Đây là
Nguyệt san của binh chủng Không quân, số 1 ra mắt đầu năm 1964, vào
thời gian
Thụy vừa mãn khóa tân binh, tờ báo cũng vừa đúng kỷ niệm một năm, số đặc biệt dày 200 trang khổ lớn, nhiều bài
vở rất hay.
Kiêm còn có một người anh là Đạt, là
giáo sư vừa làm nhà văn. Có một số sách giảng văn người
anh của Kiêm biên soạn cho các lớp
Trung học. Thực ra, Kiêm lớn hơn Thụy đến bốn tuổi, nhưng rồi thân
nhau, nên
hay gọi là mày tao cho đúng tình bạn thân trong đời lính.
Vừa chợt nghĩ tới bạn cũ, đi ngang
thư viện, Thụy ghé vào. Kiêm đang cắm cúi viết, chợt ngừng, nở nụ cười
khi gặp
Thụy.
-Hôm nay trực
?
-Ờ. Mầy
không đi phép à ?
-Không.
-Không có
nhà người quen ?
-Có, nhưng
ra mồng hai mới đi thăm.
Thụy kéo ghế ngồi cạnh Kiêm.
-Viết cái gì
đó ?
-Ờ, viết tạp
ghi.
-Cho báo Tiền
tuyến.
-Không, cho
báo của trại.
Kiêm đã viết xong được hai trang.
Người bạn ngừng việc chuyện trò với Thụy.
-Tết này, mầy
có truyện đăng báo Xuân không ?
-Không có
bài nào hết.
-Đọc Lý tưởng
Xuân chưa ?
-Chưa.
-Ở lều không
có sao ?
-Có, nhưng
anh em đang đọc.
-Lát nữa,
tao cho một tờ.
Trong thư viện, chỉ có Kiêm và Thụy.
Hai bạn đốt thuốc, bàn luận qua về thời cuộc, theo nhận định của Kiêm,
người Mỹ
sẽ chuẩn bị rút lui để lại toàn cơ sở cho VNCH,
nhưng trong vòng hai năm tới, Hà Nội sẽ xua quân
đánh lớn.
-Nhưng quân
đâu nữa, vụ Mậu Thân nướng hết rồi.
-Mậu Thân, mới
là quân du kích. Còn chính qui, hao hụt không bao nhiêu cả.
-Phía Mặt trận,
quân nhiều vậy sao ?
-Nhiều lắm,
nhiều thành phần.
-Mầy nghĩ
đám nội thành còn hoạt động không ?
-Còn. Vạn Hạnh
là ổ đó.
-Mậu Thân có
thoát được không ?
-Tụi nó kéo
nhau ra bưng.
-Ở Huế, đám
sinh viên đi cũng nhiều.
Bất chợt Thụy hỏi Kiêm:
-Bên Không
quân, lên cấp Sư đoàn, quân số là bao nhiêu ?
-Mỗi Sư
đoàn, chừng khoảng hơn kém ba ngàn người.
-Chỉ bằng
Trung đoàn Bộ Binh.
-Chừng đó,
không nhiều.
-Với cấp số
chừng đó, sao thành lập Sư đoàn nổi. Mầy biết không, cấp số Sư đoàn là
mười
ngàn.
-Đang ở
giai đoạn này là thời kỳ bành trướng, việc
nâng cấp Sư đoàn cũng là để tạo uy thế với Cộng quân.
-Và, nó sẽ
tưởng một Sư đoàn Không quân của mình, đủ các loại phi cơ chiến đấu và
cả hàng
chục phi đoàn tác chiến.
-Vậy thôi.
Kim cười nhìn sang Thụy.
Một vài ý cân nhắc, xong Thụy nói:
-Miền
Nam của mình, nói là một triệu quân,
nhưng thực sự không đủ. Số lính ma, lính kiểng, mỗi đơn vị Sư đoàn, ít
lắm cũng
không dưới 500. Nói đến thực lực và quân số ngoài chiến trường, các đơn
vị trực
tiếp là cấp Tiểu đoàn, đến Trung đoàn là thuộc về hậu cứ, còn ở cấp
tiểu khu,
Sư đoàn, Quân đoàn hoàn toàn thuộc về hậu phương, như vậy, đương đầu
với CQ,
quân lính ngoài chiến trường của VNCH còn quá ít, so với miền Bắc, đưa
vào Nam
cả hàng binh đoàn, mà đi vào, chỉ có cầm súng chiến đấu, không có tình
thế được
phân bố theo hậu phương và tiền tuyến như mình. Bên miền Bắc, hậu
phương là bên
kia vĩ tuyến 17, còn tiền tuyến là toàn lãnh thổ trong miền Nam. Ngay
cả, VNCH
có hai lực lượng trừ bị là Nhảy dù và TQLC, đối diện với trận chiến vẫn
là cấp
Tiểu đoàn, còn lại, thuộc về Bộ chỉ huy đặt gần sát mặt trận. Ở Không
quân,
tham chiến chỉ có các phi đoàn là trách nhiệm trực tiếp, còn như tụi
mình, thuộc
về lính thành phố hết.
-Ai cũng thấy
rõ, nhưng phía miền Nam, quân đội được đồn trú để giữ đất, phòng vệ,
còn miền Bắc,
rõ ràng với ý đồ xâm lược, cướp miền Nam. Hà nội, đám lãnh tụ ngoài đó
là chủ
chiến, đánh đến bao giờ, đất nước nghèo đói, kiệt quệ mới thôi.
Kiêm bỗng rời ghế, đi qua kệ sách lấy
một cuốn tài liệu dày về Không ảnh chụp rõ về các vùng làng mạc, thị
trấn,
thành phố ngoài miền Bắc đưa cho Thụy xem.
Trong những
trang ảnh này, có cả Hà Nội là thủ đô miền Bắc. Nơi đây, không giấu
tình cảnh
quá nghèo nàn của người dân miền Bắc. Và, Thụy còn có cảm tưởng như đây
là
thành phố chết.
-Đời sống ở
miền Nam rõ là khá hơn, nhưng mình đây không có người lãnh đạo giỏi.
Tình trạng
tham nhũng, hối mại quyền thế, đảng phái tranh giành, tôn giáo kỳ thị,
chừng đó
cũng đủ làm cho miền Nam xáo trộn, rối loạn, ngày càng có dấu hiệu suy
sụp. Nếu
rồi đây, Mỹ rút lui, Tổng thống Thiệu làm gì, chắc ông sợ đảo chánh, sợ
ám sát,
lúc đó, ngày nào cũng có các nhà tướng số được ông mời vào dinh độc
lập. Mầy
tin không ?
-Đừng có đùa
nghe mầy, tao ngồi đây, chứ thằng khác nghe nó báo an ninh nhốt mầy.
-Tao cũng là
thứ lính trơn mà, đâu có gì mà sợ hãi.
-Đùa, mầy. Mầy
đi học lớp sĩ quan mà.
-Thì, cho le
vậy thôi, ngữ tao ra gì đâu.
Kiêm bỗng hỏi:
-Bộ hôm nay
có chuyện gì mà bất mãn quá vậy.
-Có chuyện
gì đâu, vui chuyện với mầy thôi.
-Mầy khuynh
tả đó.
-Không đúng
đâu mầy. Tao vẫn luôn trung thực với mình, và nói ra những điều gì,
mình được
thấy, được biết. Những điều tao nói, trên các nhật báo viết đầy ra, rồi
mầy thấy
cả chính quyền cũng chỉ lờ đi thôi. Và, chuyện báo nói ra cũng là quá
rõ. Bây
giờ, ông Thiệu tham quyền lực có thua gì ông Diệm đâu, chỉ khác với ông
Diệm là
ông Thiệu không quá tay làm nhiều chuyện ác đó thôi.
-Thời kỳ có
biến cố Phật Giáo, mầy ở đâu ?
-Tao học ở
Đà Nẵng ?
-Năm đó Huế
ra sao ?
-Năm đó, nếu
cuộc đảo chánh không thành, thì cả thành phố Huế là nghĩa trang.
-Lúc đó, tao
ở Nha Trang.
-Còn trong
quân trường.
-Đúng vậy bạn.
Kim đồng hồ trên tường chỉ hơn mười
một giờ.
Kiêm duỗi rộng hai tay trên ghế, vừa
ngả người cho đỡ mỏi.
-Sao chừng
nào mầy đi Mỹ.
-Cũng không
lâu, mà cũng không sớm lắm.
-Học đến cuốn
nào rồi.
-1400.
-Mầy chưa
qua cấp 1.
-Qua Tết là
thi lên lớp.
-Vậy cũng
còn ba bốn tháng nữa.
-Thời gian học
là sáu tháng.
-Vậy dư sức,
mầy thi đậu ra trường.
-Không dễ mầy
ơi, lên lớp trên học khó, ra trường cũng phải được 80 ECL mới đậu.
-Cũng dễ
thôi.
-Dễ với
mầy.
Kiêm hỏi:
-Mầy học
ngang tới đâu rồi ?
-Tú Tài I.
-Có thi phần
hai không ?
-Có, trượt
hoài mới đi học ngành này đây.
-Ra trường
được, mầy lên lon nhanh.
-Có số hết.
Giày dép còn có số nữa mà..
Ngồi chuyện vãn khá lâu, Thụy và
Kiêm cùng đứng dậy.
-Hôm nay trực
cả ngày.
-Không, chiều
đứa khác.
Thụy bắt tay Kiêm, trở gót. Vừa mới
dời mấy bước, Thụy chợt hỏi:
-Nhà mầy ở
đâu.
-Ngã sáu Sài
Gòn ?
-Bây giờ về
nhà ?
-Ờ.
-Cho tao quá
giang ra phố được không ?
-Nhưng mầy về
nhà ai ?
-Không cần,
tao ra phố chơi chiều vào trại.
-Đứng đó đợi
tao.
Kiêm đóng cửa thư viện rồi cùng Thụy
ra chỗ để xe. Trên đường xuống Sài Gòn, hai đứa chuyện trò sôi nổi, về
thời thế,
về quân đội, cả về chuyện học hành.
-Mầy nhập
ngũ lâu chưa ?
-Nói với mầy
lúc nãy, không nhớ à.
-Nhớ rồi năm
63, trước tao hai năm. Rồi có học hành lại không ?
-Mầy biết
tao đang học gì không ?
-Không. Tiếp
lời, một giọng vui, Thụy nói: Bạn bè, có gì nói hết, đừng giấu.
-Tao đang học
năm thứ ba ở Luật.
-Le vậy ta.
-Đi Mỹ tu
nghiệp về báo chí hai lần, được chưa ?
-Quá le.
-Mầy có học
tiếng Anh trường bên Mỹ không ?
-Tao có bằng
Anh ngữ ở Lackland.
-Giỏi quá.
Mai mốt qua thi giùm tao đi.
-Mầy thi
cũng đậu, khó khăn gì.
-Tao vẫn sợ
không đậu nổi.
-Học ở lớp
ra sao ?
-Trung bình.
Khi xuống đến Sài Gòn, Thụy nói Kiêm
cho anh ghé vào quán cà phê Pagode. Anh chợt nghĩ, mình ghé vào đây
tiện hơn,
vì các nhà người thân, ai cũng lo bận bịu với ngày 30 Tết.
Kiêm cho xe ngừng để Thụy xuống. Hai
bạn bắt tay thân tình, và Kiêm cho Thụy hay đến mồng hai mới trở vào,
ngày hôm
đó trực, rồi lại nghỉ mồng ba, qua đến mồng bốn thực sự ngày làm việc.
-Cám ơn nhiều.
-Mầy còn
khách sáo.
Thụy cười nói:
-Tao học
trong sách, bài nào cũng có mấy chữ hello, thank you.
Kiêm gật đầu. Thụy còn dừng bước
trên bờ đường nhìn bóng xe của Kiêm càng lúc xa dần. Thụy có ý nghĩ,
nếu mình
có được cái học dễ dàng và vận may như Kiêm thì cuộc đời dù sao củng có
ý
nghĩa. Nhưng rồi, cả bản tính và khả năng của anh luôn chậm chạp, vụng
về.
Bà Huyền Chi trông thấy Thụy đi vào,
bà chú ý ngay. Thụy lặng bước, đến chỗ bàn trong góc anh kéo ghế ngồi.
Những
lúc đến quán này, anh thường ngồi ở phía góc, nơi chỗ đó, anh được
trông thấy
người thiếu phụ và được nói với bà bằng những lời tỏ tình, những lời
ngưỡng mộ
qua đôi mắt. Và, luôn luôn anh hiểu rằng, bà cũng chú đến anh, dành cho
anh một
khuôn đẹp buồn để anh cởi mở hết tấm lòng, có chân thực hay thờ ơ, bà
cũng
không nói gì hay trách móc cả.
-Cho tôi cà
phê, bánh croissant.
Thụy đốt điếu thuốc trong lúc chờ cà
phê mang ra. Đã quá trưa, trên dãy phố này sự chùng lặng buông xuống
hơn thường
ngày. Vắng bóng xe cộ, chỉ có người đi bộ trên bờ đường và rạp hát kế
bên kia vẫn
mở cửa.
Trong dịp Tết này, Thụy không có
truyện ngắn đăng báo xuân nên anh không có chi làm quà tinh thần gởi về
cho
Thiên Nga và Thúy Hà. Báo xuân in nhiều, hẳn nhiên sẽ phát hành ra đến
các tỉnh
miền trung, Quảng Trị, nơi địa đầu vẫn có.
Mấy ngày qua, không khí Tết gây nỗi
nhớ nhà. Thụy hay lang thang ngồi quán ở khu gia binh , rồi ghé vào câu
lạc bộ
chơi bóng bàn, chán chê, anh vào thư viện đọc báo. Tối đến, ngồi tụ với
bạn bè
tán chuyện gẫu. Trong tâm tư mỗi anh em, có người nhớ về quê nhà mình,
nhớ cha
mẹ, người thân, bạn bè, có người nhớ Nha Trang, nhớ quân trường, và
ngoài đó
cũng đang có một số bạn chờ học khóa hoa tiêu quốc nội, những bạn này,
được tuyển
chọn trước nhờ vào số điểm cao trong kỳ thi mãn khóa quân sự.
Trong đêm khuya khoắt, Thụy vẫn thức,
nghe hương khói bềnh bồng, tản mác , anh cảm thấy mình chỉ còn sự yêu
thương, ấp
ủ cho mình là hơn hết.
Thụy không ngủ được vì uống cà phê đậm
lúc chiều, chứ không do lai nào cả. Nằm một lúc, anh trở dậy vén mùng
vắt lên tấm
vải, ngồi ở giường đưa mắt nhìn ra ngoài. Hương đêm xuân quá dịu hiền, đằm thắm. Trên bầu trời, những vì sao đêm di
chuyển như đang đi cùng một lộ trình.
Bây giờ mình nhớ đến ai ? Từ ngày
Liên An đi, anh chưa nhận được thư nàng. Thụy không lấy làm buồn, vì
Liên An đã
có Lộc. Thụy nghĩ lâu về Thúy Hà, nhưng bao nhiêu nhớ nhung, thương
yêu, rốt
cùng anh cũng gói lại đem cất. Thúy Hà đã có gia đình, nàng sống với
Duy và
nàng đang ở Hội An. Hội An, thành phố nhỏ này với bất cứ con đường nào
bạn đi
qua, mỗi nơi ấy, bạn luôn tưởng mình dừng chân để nhớ nghĩ tới một
người bạn.
Xa Hội An bốn cây số là Cửa Đại. Thụy nhớ lắm, biển xanh là kỷ niệm
đẹp, hạnh
phúc của anh thời niên thiếu.
Khi đã gói lại những kỷ niệm về Thúy
Hà và đem cất, Thụy bỗng nhớ nụ cười Thiên Nga. Thiên Nga rất là vui,
nàng ưa tạo
dáng, và những cách tạo dáng thật hồn nhiên làm cho nàng luôn sống vui
với tuổi
trẻ và vẽ ra được những bức tranh đẹp.
Tự nãy giờ, bà Huyền Chi đứng nguyên
chỗ bên trong cửa kính cạnh cái tủ lớn bày trái cây và bánh. Khi thấy
Thụy
nhìn, bà cũng đáp lại cái nhìn của anh trong vẻ thờ ơ
một thoáng dịu hiền. Hôm nay, bà mặc chiếc áo
đầm màu đỏ mận. Bà có dáng hơi cao, nhưng khuôn mặt thật là đẹp. Trên
khuôn mặt
ấy, đôi mắt bà luôn trải rộng xuống trên hai bàn tay mở ra với nỗi buồn
trang
trọng. Bà rất hiểu những điều người lính kia muốn nói với mình, và cá
nhân của
người lính, anh cũng khao khát được yêu bà, để có, nghe được giọng nói
của bà,
một giọng miền Nam rất nhẹ, dễ thương.
Thụy đang ngồi một mình, ly cà phê,
khói thuốc. Bỗng anh ngạc nhiên thấy Lăng đi với một cô gái. Hai người
đẩy cửa
bước vào, Thụy đứng dậy , cô gái bỗng cất tiếng:
-Anh Thụy.
-Loan.
Loan mặc áo dài xanh lấm tấm hạt cải.
Hai anh em Lăng tới bàn Thụy, kéo ghế ngồi.
Người hầu bàn đến, Lăng hỏi ý Loan,
cả hai cùng uống cà phê.
-Loan vào
lúc nào ?
-Gần một tuần
rồi.
-Vào luôn
hay vào chơi.
-Anh nghĩ
sao ?
-Chịu.
Loan cười nói:
-Mồng sáu Tết
em ra Huế.
Người hầu bàn tới lấy từ chiếc khay
hai ly cà phê để xuống bàn. Lăng hỏi:
-Anh nghỉ Tết
được mấy ngày ?
-Bốn ngày.
-Hôm qua anh
ở đâu ?
-Ở trong trại.
-Anh không
ghé cậu.
Thụy im lặng. Loan hỏi:
-Chừng nào
anh đi Mỹ ?
-Còn lâu.
-Anh đang học
Anh văn.
-Ờ. Ngoài
nhà sao ?
-Cũng thường.
Dì lúc này khỏe lắm.
-Liên An có
viết thư cho Loan không ?
-Anh này nhắc
hay thật.
-Sao ? Liên
An hỏi địa chỉ của anh. Không những hỏi, mà còn viết cái thư ngắn nhờ
em đưa.
-Bây giờ
Liên An ở đâu ?
-Em không nhớ
địa chỉ. Chỉ biết đang học trường Đại học Longbeach.
-Học ngành
gì ?
-Văn chương
Anh.
Lăng uống cà phê, mắt lơ đãng nhìn
ra ngoài, tai vẫn nghe tiếng Thụy và Loan nói chuyện. Những bàn vuông
giữa, nơi
các nhà văn ngồi, họ cười nói bàn chuyện văn học sôi nổi. Thụy vẫn chưa
có nổi
một truyện ngắn có thể gởi đến báo Văn. Từ mấy năm qua, Thụy vẫn quen
với lối
viết kiếm tiền cà phê ở các nhật báo và những tuần báo lá cải.
Lăng hỏi:
-Năm nay anh
có truyện đăng báo Xuân không ?
-Không. Cũng
không có thì giờ viết.
Một chặp sau, Thụy tiếp lời.
-Ông Thanh
Thủy đi, tôi mất nhờ.
-Sao vậy ?
-Có ông, đưa
bài dễ đăng. Bây giờ báo Tiểu thuyết Thứ Năm giao cho người khác rồi.
-Anh có gởi
bài nữa không ?
-Không.
Thụy bỗng ngừng nói, mắt nhìn bà Huyền
Chi từ bên trong đi ra, bà tới một bàn có sáu người mới đến. Khi bà tới
gần,
tài tử Lê Quỳnh đứng lên đón tiếp, bà đưa cánh tay ra cho tài tử này
bắt, ông
ta cúi người đặt môi hôn xuống bàn tay bà.
-Lê Quỳnh ngồi
bên kia, Lăng.
Ba người cùng nhìn về phía bàn khách
có một phụ nữ, bà Huyền Chi.
Loan hỏi:
-Lê Quỳnh là
chồng của Thái Thanh, phải không anh.
-Đúng. Nhưng
hình như đã thôi nhau rồi.
-Ông còn
đóng phim không ?
-Còn chứ. Mới
đóng với Kiều Chinh và Duy Trác một phim Chờ sáng.
Từ nhà thờ, tiếng chuông vọng ngân.
Bên đường phố, người ta đi chơi đông. Tiếng chuyện trò, tiếng giày dép
khua lên
vang xa gần.
Thụy gọi người hầu bàn đến tính tiền,
nhưng Lăng dành trả.
-Bây giờ đi
đâu ?
-Đi ăn trưa.
Ba người cùng đứng lên rời bàn. Từ
phố Catinat đi xuống, rẽ vào phố Lê Lợi tìm đến quán ăn bên trong rạp
hát
Dakao.
Loan rất vui, cô nói với Thụy sang
năm cô vào đây học. Thụy không nói gì, anh nhớ Liên An, nhớ buổi chiều
ấy cùng
nàng về trên chuyến xe buýt, rồi gặp nàng ở nhà Loan. Tất cả mọi sự
diễn ra
trong tình cờ, nhưng rồi, với Thụy anh cảm thấy mình lẻ loi.
Sau bữa ăn, ba anh em vào rạp hát
coi một cuốn phim hài: Le petit colonel.
Ra khỏi rạp, Lăng đưa Loan
đến chỗ
gởi xe, chở về nhà. Thụy hẹn Lăng và Loan đến nhà dì Hồng.
Khi hai anh em Lăng đi khỏi, Thụy
lang thang trên phố, lúc này anh mong gặp người quen. Thụy bỗng nhớ
ngày đó có
anh Nguyên, hai anh em ăn một cái Tết vui cùng bạn bè, qua mồng hai Tết
lên
thăm nhà chị Số , xong trở về Sài Gòn. Sài Gòn, thành phố này hay mưa,
nhưng
mưa và cây lá trong mưa, là sự thức giấc của ngày mai. Ngày còn làm
việc ở Cục
tâm lý chiến, anh Nguyên hay đi công tác ra vùng chiến trận miền Trung,
nên dịp
ấy, anh hay ghé thăm nhà. Bây giờ đây, nơi thành phố này chỉ có mình
Thụy.
Nhưng Thụy cảm thấy sung sướng vì anh Nguyên có được Thiên Nga, nàng đã
là người
vợ yêu quí của anh.
Thụy lên xe buýt đi đường Chợ Lớn, tới
ngã sáu chợ Thái Bình anh xuống, thong thả đi bộ. Vừa rẽ vào con hẻm,
anh gặp
Lăng và Loan tới bằng xe Honda. Loan xuống xe, đi bộ với Thụy một đoạn.
-Loan
thấy Sài Gòn vui không ?
-Quá vui.
-Loan
học năm thứ mấy rồi ?
-Năm thứ
hai.
-Sang năm
Loan vào Sài Gòn ?
-Em rất muốn.
-Ý anh Lăng,
sao ?
-Anh nói, đợi
anh ra trường có việc làm đã.
Hai người tới nhà dì Hồng. Không cần
bấm chuông, vì cửa mở. Hôm nay nhà đông khách hai bên nội ngoại, có cả
vợ chồng
cô Lan con nuôi chú dì.
Thúy tới gần Thụy, nói nhỏ:
-Hai chị em
chơi bài trên lầu.
-Ai ?
-Hỏi nữa.
-Em bí mật
quá.
-Huê, chứ
còn ai nữa.
-Thật à.
Thúy ngước mắt lên nhìn Thụy. Cô đọc
được ngay cái ngớ ngẩn, lưng chừng trên gương mặt của anh. Ngày hôm
nay, Thụy
có cảm giác như lòng mình thật vướng mắc, bề bộn.
Thúy đưa Thụy xuống nhà, anh lên tiếng
chào chú dì Hồng và họ hàng hai bên.
Có hai người
em cùng cha khác mẹ với dì Hồng, Thụy quen gặp. Anh lên tiếng chào,
ngồi xuống
ghế bên cậu Cảnh. Hai cậu cháu chuyện trò về tình hình sinh hoạt chính
trị ở
Sài Gòn. Ở gian bếp, người nhà cũng đang nấu cỗ, mùi thơm ngào ngạt.
Rồi khi cỗ bắt đầu dọn cúng, ở nhà
dưới mọi người lên nhà trên. Ở một góc bên cửa đặt chiếc máy truyền
hình.
Chương trình sinh hoạt Tết quanh các quận đô thành, âm thanh nghe nhỏ,
vì trong
nhà có tiếng chuyện trò râm ran.
Ngồi một lúc, Thụy bỏ đi. Anh nhẹ bước
lên lầu, ngồi xuống bên cạnh Huê.
-Ủa.
-Em được hay
thua ?
-Em đang ăn.
-Hên quá hả.
Nhà cái chia bài xong, Huê nói:
-Anh coi cho
em đi.
-Huê đi đâu
?
-Không, ngồi
đây.
Thụy cầm lên hai cây bài, nguyên đôi
chín. Anh để xuống mặt chiếu, nhìn qua Huê. Huê ngồi yên để cho anh
ngắm nàng.
-Lâu nay em
đi đâu ?
-Em ở Sài
gòn, chứ đi đâu.
-Anh tìm đến
nhà cũ, không ai biết.
-Nhà đó bán
rồi. Em và chị Huyền đi thuê nhà riêng.
Nhà cái xét bài. Hai tụ hòa, một tụ
thua, ba tụ ăn.
-Rồi hết
cái.
Bài Huê hòa nhà cái. Tiền đặt vẫn để
nguyên. Huê ngồi bên coi Thụy bắt bài. Mới 14 nút, Thụy bắt thêm được
con 6,
Huê cười.
-Hôm nay có
bạn trai em tới không ?
Không trả lời, Huê lấy bàn tay đập
nhẹ lên vai Thụy.
-Anh lúc này
sao ?
-Lưng chừng.
Có tiếng gọi vọng. Hết hội bài, mọi
người xuống. Tiếng trò chuyện ồn ào, thân mật.
Bữa cỗ dọn bốn bàn, hai nhà trên,
hai nhà dưới. Thụy giới thiệu Loan với Huê.
-Giống anh
Lăng quá.
Thụy nói qua với Loan về Huê.
Rồi mọi người ngồi vào bàn. Bữa cỗ dọn
rất nhiều món, và có bia.
Dì Hồng bảo Thụy:
-Tối ở lại
đây chơi bài nghe con.
-Dạ.
Thụy quay sang Lăng:
-Ở lại không
?
-Không, về.
Ngày mai anh lên nhà cậu ?
-Chưa biết.
Có thể chiều tôi thăm Tết cậu và mấy dì rồi vào trại luôn.
Khi vào bàn ăn, Thụy dành chỗ cho
Loan và Huê ngồi gần nhau. Hai cô chuyện trò thân mật. Huê có vẻ thích
nghe giọng
Huế của Loan, còn Loan, chắc cũng nhận ra nét đẹp của Huê, nhưng một
điều không hay biết, Huê nói giọng Nam
nhưng gốc Bắc.
XVII
Sau đợt thi lại cuối cùng lần thứ
ba, chỉ có bốn khóa sinh đạt đủ điểm chuẩn 60 ECL. Thụy tiếc hùi hụi,
vì anh chỉ
thiếu có một điểm. Nhớ lại lúc ở trong phòng lab có một số câu do ngờ
ngợ,
không dám quả quyết, anh đã đánh trúng, lại xóa đi đánh vào câu khác,
thành ra
sai. Không chỉ phần nghe, cả đến phần viết nữa. Đúng là số con rệp. Với
cái tuổi
đời đã 26, biết khôn ngoan, hiểu rõ khả năng của mình và những cơ hội
biết chọn
đúng lúc, thì đời quân ngũ của Thụy cũng khá sáng, đâu đến nỗi tệ như lúc này. Nếu có nên trách cứ, Thụy hãy biết,
anh là kẻ tự làm cho mình đi lạc đường. Nhận định này không sai đâu,
thời học
sinh, anh chỉ học vài ba môn anh thích, luôn chỉ chú tâm học các môn
này thôi,
tảng lờ những môn khác. Vào lính, thời gian ở Sài Gòn, cơ hội học lớp
đêm dễ
dàng với học phí nhẹ, không cao lắm, anh lại không nghĩ đến mà chỉ dành
thời
gian tự học lấy, thành ra mất căn bản. Bỏ đi ba năm, không chịu xin đi
học sĩ
quan sớm, đó cũng là sự chậm lụt do anh thiếu suy nghĩ. Rồi, gần đây
nhất, cơ hội
đi Mỹ được dành cho anh với sáu tháng học Anh ngữ, anh chỉ hăng hái lúc
đầu, rồi
tụt dần, do một phần mơ mộng, nhớ nhung những bóng dáng người đàn bà
chỉ có
trong tưởng tượng, một phần nữa, thay vì cố gắng học tiếng Anh cho khá,
chưa
thông được môn này, anh lại còn kiểu cách đèo theo thêm môn tiếng Pháp
nữa, để làm gì, khi anh đã dứt khoát không
có ý định
thi tiếp Tú tài phần hai nữa. Học tiếng Pháp, anh chỉ có biết thêm về
ngữ vựng,
nó giúp anh hiểu để bổ sung cho tiếng Anh, thế nhưng, hai ngoại ngữ
này, nghe
và đọc rất là khác nhau, thật rất dễ vướng
mắc, lầm lẫn. Và, rõ ràng, kết quả những kỳ thi vừa qua, từng giai đoạn
chuyển
cấp, cũng như ra trường, Thụy rất yếu về phần nghe là phần chính yếu
gồm 80 câu
hỏi. Phần văn phạm anh cũng yếu nữa, dù vậy, anh còn làm được trên mức
trung
bình.
Số khóa sinh còn lại, năm mươi người
đang chờ. Rất có thể đôi ba ngày nữa thôi, hoặc qua đầu tuần tới, tất
cả số này
sẽ được trường Anh ngữ trả về Bộ Tư Lệnh để giải quyết.
Thụy chẳng buồn tìm kiếm ai trò chuyện,
hoặc hỏi dò tin tức. Hôm đó, kết quả thi vừa yết xong, số anh em không
may mắn
đến tìm viên Đại úy phụ trách học vụ để hỏi, ông cảm thấy phân vân, rồi
cho hay
rằng, vì lý do tài khóa đã chấm dứt nên trường không thể giữ lại lâu
thêm nữa.
Thời gian ấn định là sáu tháng khóa sinh phải đậu ra trường, nếu không,
thì trả
về đơn vị gốc.
Rất thông cảm với số phận của anh em
khóa sinh, ông nói:
-Tôi hy vọng,
các anh sẽ được chuyển ngành.
-Không phải
là chúng tôi sẽ qua trường Thủ Đức.
-Tôi hy vọng
là không. Vì Không quân tuyển các anh vào binh chủng này mà.
-Nhưng ở
binh chủng này không định rõ qui chế. Chúng tôi học xong quân sự giai
đoạn II,
lý ra phải được làm lễ tốt nghiệp để đeo lon rồi học tiếp ngành bay,
nhưng bây
giờ, rớt Anh ngữ, chúng tôi lại bị đưa qua Bộ Binh học giai đoạn 2 một
lần nữa,
vậy học quân sự ở Nha Trang với mục đích gì. Chúng tôi đi lính, đâu ai muốn kéo dài thời gian ở quân trường.
-Tôi không ở
binh chủng Không quân nên không trả lời được.
-Chúng tôi
hiểu.
Một khóa sinh phân trần:
-Những bạn
chúng tôi, cùng một lượt vào Quang Trung, rồi Thủ Đức ai cũng đã ra
trường và
có cấp bậc. Còn chúng tôi qua Không quân, giờ thiệt thòi, nếu trở lại
Bộ Binh.
Trên vẻ mặt và ánh mắt của viên Đại
úy luôn giữ một vẻ điềm đạm, vừa cảm thông. Khi nghe từng lời tâm sự
các khóa
sinh đang đứng quanh ông, ông cũng thấu hiểu rằng, tổ chức trong quân
đội miền
Nam có rất nhiều sự bất hợp lý và bất công. Thử đem ra bàn xét, hãy
khoan nói
ngoài đơn vị mà đặt ngay trong qui chế của quân trường. Một thanh niên
chỉ có bằng
Trung học đi Bảo An, ra trường đeo lon Thiếu úy, trong khi đó, bạn anh
ta có bằng
Tú Tài đi Thủ Đức 9 tháng, ra trường chỉ đeo lon Chuẩn úy. Giữa trường
Đà Lạt
và Thủ Đức cũng khác nữa. Vào học Đà Lạt hai năm ra trường Thiếu úy,
một năm
sau lên Trung úy, còn ở Thủ Đức, khi ra trường là Chuẩn úy, đến khi
được lên
Trung úy thường niên thời gian là đúng ba năm sáu tháng. Tới lúc đó,
thì các Sĩ
quan xuất thân Đà Lạt đeo lon Đại úy hết cả rồi. Nhưng nếu xét nữa, Đà
Lạt còn
thua Biên tập viên Cảnh Sát, những ai học ngành này, ra trường mang cấp
bậc Đại
úy, le hơn cả mấy ông học ngành quân y ra trường chỉ mang lon Trung úy.
Bỗng có bạn hỏi:
-Đại úy học ở
Thủ Đức hay Đà Lạt ?
-Tôi học Thủ
Đức, khóa 14.
Có bạn khác với một giọng vui, nói:
-Tôi vào
Quang Trung khóa 9/68, giờ vẫn còn đeo con cá.
Sau một hồi suy nghĩ, viên Đại úy
đáp lời:
-Theo ý tôi,
trường hợp các anh đã học xong phần quân sự phải ra trường có cấp bậc
hẳn hoi,
về phần Anh ngữ, phần đi học bay là thuộc chuyên môn, anh nào đủ khả
năng thì học,
thiếu khả năng bị loại thì đưa ra bộ binh, phần nào đó các anh không có
lời ta
thán, đằng này, các anh cứ trong tình trạng lơ lửng, chẳng biết đến lúc
nào mới
được ra trường. Mà, cho dù số khóa sinh, sinh viên qua Mỹ học bay, đâu
có dễ
dàng như học quân sự bộ binh, rồi rớt bên đó, về VN, lại qua Bộ Binh,
vậy thời
gian các bạn đó đeo alpha thực là quá lâu.
Viên Đại úy nói xong, có bạn phân trần:
-Tại sao Bộ
Quốc Phòng không qui định rõ qui chế cho từng quân trường, Đại úy. Tôi
có chút
suy nghĩ, trường Bộ Binh đâu có phải là bãi rác, ai cũng đem ném vào đó
được cả.
Ở Không quân, ngành phi hành đâu chỉ có phi công lái máy bay, còn những
ngành
khác nữa như quan sát viên, điều hành viên, cơ khí viên, sao không cho
chúng
tôi qua các ngành đó học mà chuyển qua bộ binh.
Viên Đại úy cười một cách độ lượng,
nói:
-Anh làm như
tôi là Tướng Bùi Đình Đạm.
Rồi một giọng thân tình, ông nói:
-Có một số
ông Tướng của mình chịu khó học lắm các anh. Tướng Cao Văn Viên và Bùi
Định Đạm
thi Tú Tài, rồi Cử nhân đậu từng năm một.
-Ai mà đám
đánh rớt mấy ông đó, Đại úy.
-Tôi chỉ biết
là mấy ông ấy vẫn còn chí ham học.
-Nhưng mấy
ông ấy đậu, chắc gì là theo khả năng.
Một bạn cắt ngang, hỏi:
-Bao lâu nữa,
chúng tôi rời trường ?
-Kể từ ngày
mai, các anh không đến lớp nữa.
-Ngày mai
chúng tôi không đi học nữa, sao ?
-Phải, các
anh cứ ở bên trại chờ quyết định của Bộ Tư Lệnh.
Viên Đại úy xin rút lui, trở về chỗ
làm việc, ông nói lời cáo từ rất nhã nhặn, lịch sự.
Giờ tan học, khóa sinh ra về. Vẫn
không khí bình thường như mọi ngày, nhưng hôm nay, riêng các bạn vừa
thi rớt, sắp
sửa từ giã cuộc sống ở trại từ sáu tháng nay, có chút gì đó, ân hận và
ngậm
ngùi. Nỗi buồn của họ, vẫn đang cố níu theo những cánh tay và những
bước chân rất
nặng nề.
Sau bữa ăn, Thụy đến thư viện tìm
Kiêm nhưng không gặp. Có Trung úy Trân đang ngồi soạn thảo bài thuyết
trình,
bên cạnh ông là những sách tài liệu tham khảo.
Thụy có biết
ông qua Kiêm. Trông thấy Thụy, ông ngừng viết, nói:
-Kiêm đi
công tác chưa về.
Thụy ngập ngừng, muốn rút lui, nhưng
viên Trung úy bảo:
-Ngồi xuống
đi.
Thụy kéo ghế ngồi, một giọng thân
tình viên Trung úy hỏi:
-Anh Thụy học
hành xong chưa ?
-Tôi thi rớt
rồi, Trung úy.
-Vậy hả.
Chà, sao để rớt, cơ hội đi Mỹ cho anh mà.
-Hôm nay thi
xong kỳ chót, chỉ có bốn người đậu ?
-Anh Thụy được
bao nhiêu điểm ?
-59, thiếu một,
Trung úy.
-60 điểm trường
cho đậu. Đây là mức trung bình cho 120 câu thi.
-Dạ đúng vậy.
-Anh Thụy
thi lần thứ mấy ?
-Lần thứ ba.
Lần thi nào vào final cũng bị rớt, điểm cứ suýt soát, một hai.
-Rồi, bây giờ
sao ?
-Anh em đang
chờ về Bô tư lệnh.
Sau điều Thụy nói, viên Trung úy im
lặng nghĩ ngợi. Vì không muốn làm mất thì giờ, Thụy đứng lên kiếu từ.
Viên
Trung úy bắt tay anh, chúc anh có sức may mắn.
Khi trở về lều, nhìn cảnh trống vắng
căn lều với những chiếc giường đã bỏ trống, Thụy cảm thấy hụt hẫng.
Sự luyến tiếc và hối hận đặt Thụy
trong tình cảnh đơn độc, cố gắng đi tìm lấy sự an ủi. Và, hơn ai hết,
giờ đây
Thụy đang nghe tiếng nói của Thúy Hà.
Trong cuộc sống mỗi người, cơ duyên
là một ý nghĩa hiện sinh. Thúy Hà hẳn chỉ biết mình là một thiếu phụ.
Nàng có rất
nhiều hình bóng cũ và những kỷ niệm thân thương để luyến nhớ, nhưng
nay, trong
chiếc cặp da thời đi học nàng vẫn còn giữ, bao nhiêu thứ đó được đem
cất. Thư từ,
những lá thư đầu tiên đưa đến năm nàng mới mười hai tuổi. Rồi mỗi cái
tuổi của
nàng, không hẳn làm mới như đồng tiền lì xì, mà nó là tiếng động mùa
thu của
chiếc lá rơi nhẹ nhàng, nhưng được nghe thấy.
Vì Duy và những người bên gia đình
chàng có điều tiếng không hay về nàng, cuối cùng, ông bà Kha khuyên
nàng thôi
làm công việc ở phi trường, tìm một việc khác, nếu không, ở nhà giúp đỡ
công việc
sản xuất nước hoa cho gia đình có thêm lợi tức.
Sau hơn một năm ở với gia đình bên
chồng, ngày Duy rời quân trường Thủ Đức về, anh và nàng kéo ra ở riêng.
Và, đó
là ý của nàng. Nhà Duy rộng, nhiều phòng, có vườn cây ăn trái, nhưng
Thúy Hà vì
không chịu nổi những chuyện tranh chấp, cãi vã, và nhà ở còn là nơi tụ
tập cờ bạc
hàng ngày. Ngay trong năm đầu tiên mới lấy nhau, Thúy Hà đã khuyên Duy
nên lánh
xa những con bạc, vì nó không hay, và càng trở nên tệ hại. Duy rất yêu
Thúy Hà,
yêu vợ, nhưng anh mới là con sâu cờ bạc hơn cả những người khác bên nhà
anh. Bởi
một lẽ đó, Thúy Hà bỏ mặc, nàng đi làm việc cho một cửa hàng quân tiếp
vụ Mỹ
bên trong phi trường. Ngày đầu tiên, nàng gặp người cửa hàng trưởng,
tên
Anthony Clair. Nàng nói tiếng Anh rất lưu loát, làm anh ta hài lòng.
Và, trong
lúc hỏi chuyện nàng, anh ta cũng chú ý đến sắc đẹp của nàng qua đôi mắt
và
gương mặt. Kết thúc buổi phỏng vấn, anh ta bắt tay nàng, và trong ánh
mắt nhìn,
anh nói nhỏ tiếng:
-Cô đẹp quá.
Nàng rất hiểu lời khen của Clair.
Ngày hôm sau, Clair dẫn nàng đi thăm cơ sở làm việc, có văn phòng, nhà
kho, cửa
hàng buôn bán, và cùng lúc giới thiệu nàng với các nhân viên trong cửa
hàng. Chỉ
có một phụ nữ Việt Nam làm văn phòng, hai công nhân ở nhà kho, còn phần
đông là
người Mỹ bên dân sự cũng như quân sự.
Trong khi dẫn Thúy Hà đi thăm cơ sở,
Clair thích ngắm nàng, và cũng nói ra những lời tán tỉnh. Anh ta khen
nàng mặc
áo dài đẹp, đôi mắt, mái tóc nàng đẹp,
và nàng có giọng nói hay. Thúy Hà chỉ mỉm cười, và khi được Clair hỏi,
nàng thẳng thắn trả lời là nàng đã có
chồng
và một cháu nhỏ. Tiếp lời, nàng nói thêm chồng nàng là một sĩ quan, cấp
Trung
úy.
Hai người trở lại văn phòng, Clair
đưa cho Thúy Hà một cuốn sách nhỏ chỉ dẫn, trong đó, có ba mươi điều lệ
được in
bằng chữ lớn và đậm.
Để cho Thúy Hà vui lòng, Clair hỏi:
-Cô cần mua
hàng gì không ?
-Cám ơn,
Thúy Hà đáp.
Rồi nàng hỏi lại:
-Ông sắp cho
tôi làm công việc gì ?
Clair đáp ngay:
-Không gấp vội.
Ngày thứ hai đầu tháng cô đến.
-Cám ơn ông.
Nàng bắt tay Clair. Từ phi trường,
có xe thường xuyên ra vào, và Clair nói với tài xế riêng của mình lái
xe đưa
nàng ra phố.
Trên đường, nàng và anh tài xế cũng
vui chuyện. Thực sự, anh là một quân nhân điều từ một đơn vị tiền tuyến
phía
Nam ra ngoài này. Mới tới Việt Nam hơn một năm, nhưng đất nước này làm
anh ta
vui, phong cảnh xứ này đẹp nhất là biển. Nàng hỏi về Clair, anh ta chỉ
biết,
ông sếp của mình là người ở tiểu bang Tennessie, học về ngành Luật.
Người tài xế dừng xe bên ngoài đường,
trước cửa hiệu nhà nàng. Nàng bắt tay,
nói lời cám ơn.
Chiếc xe nhỏ của Clair sơn màu trắng.
Từ đầu phố trên này, nhìn trong tầm xa bạn vẫn trông
thấy rõ những sinh hoạt của phố chính dưới
kia.
Henry mới 24 tuổi, quê nhà ở California,
đã học xong hai năm ở trường Cộng đồng Golden West. Khi nàng đưa tay
cho anh bắt,
anh xin phép được hôn bàn tay nàng. Nàng mỉm cười, bằng lòng.
Bữa ăn trưa, gia đình đông đủ. Thúy
Hà nói cho ba mẹ và các em trong nhà biết
công việc mình sắp làm. Ông Kha ra dáng suy nghĩ. Thúy Hà không hiểu
được ba cô
đang nghĩ gì. Nàng nói:
-Mình có thể
bán thêm thuốc lá và một số mặt hàng ngoại.
-Con đã hỏi
ý của Duy chưa ?
-Không cần,
ba ạ.
Duy biệt phái ra đảo, khoảng ba
tháng sau trở về nhà. Khi về, anh thấy có sự thay đổi, vừa hài lòng vì
Thúy Hà
làm ra nhiều tiền. Nhưng, lòng anh vẫn có mối lo vì số tiền lương anh
lãnh được
đã nướng hết vào những canh bạc. Duy đánh có ăn, lúc đỏ ăn lớn, nhưng
rồi qua
ngày khác anh lại thua.
Hôm đó, nàng đáp lời anh:
-Không, em
không về bên nhà anh.
-Tại sao ?
-Không sao hết.
Anh về một mình đi.
-Tại sao cô
không về dưới nhà.
-Không, tôi
nói với anh là không.
-Cô thật là
quái lạ.
-Tôi chán
anh lắm rồi.
-Nhưng tôi
đã làm gì ?
Thúy Hà hét lớn:
-Anh đi làm,
tiền lương đâu ? Bao nhiêu tháng nay rồi…?
Duy sửng sốt. Anh nhìn Hà, tóc nàng
rối bời, giận dữ.
Một lúc sau, niềm đau dịu xuống, anh
ngồi vào ghế, nhìn sang người vợ, giọng khô đặc anh nói:
-Anh xin lỗi
em.
-Không, anh
chẳng có lỗi gì với tôi cả.
-Ở xa, không
có gì làm, anh đánh bạc cho đỡ buồn, rủi bị thua.
Thúy Hà không đáp lời. Nàng chẳng
nhìn, cũng chẳng bận tâm hay nhủ lòng thương hại trong sự hối lỗi của
Duy. Anh
ngồi đó, mặt ủ rũ. Thúy Hà lấy quần áo đã phơi khô đem ra ủi. Xong
việc, nàng
vào phòng trong thay quần áo.
Khi nàng trở ra, Duy hỏi:
-Em đi đâu ?
-Về nhà tôi.
Duy nén giận, nhưng anh cứ để cho
Thúy Hà đi. Trong lúc Thúy Hà ngồi xích lô về nhà mình, Duy bỗng thấy có sự nghi ngờ vụt sáng qua đầu
anh. Không kiềm chế được, anh mở các ngăn hộc, những giấy tờ để trong
đó, anh
lôi ra hết để xem xét. Có một lá thư của Clair gởi cho nàng, Duy cầm
đọc, nhưng
anh không hiểu hết ý.
Duy bỏ lá thư ra một bên, tìm kiếm
tiếp. Sau đó, anh vào phòng của Thúy Hà lục tìm từ trong tủ trang điểm,
tủ quần
áo và những chỗ khác trong phòng.
Bên trong chiếc áo vét, Duy tìm ra
tiền của Thúy Hà cất giấu. Đó là tiền dollars đếm được hơn bốn trăm
đồng. Duy bỏ
tiền lại trong túi đi ra ngoài. Anh cầm lá thư của Clair gởi cho nàng
và đặt cuốn
tự điển cỡ trung một bên.
Duy đọc xong lá thư, hiểu lờ mờ, dù
đã cố gắng tra nghĩa từng chữ. Duy cất lá thư trong túi.
Hôm nay chủ nhật, hàng bán được. Khi
thấy nàng về, đứa nhỏ reo mừng. Trong lúc nàng ôm con nựng nịu, bà mẹ
hỏi:
-Duy về chưa
con ?
-Về rồi.
Đánh bạc thua nữa.
Ông Kha lên tiếng:
-Tại sao lại
có chuyện đó nhỉ.
-Con không
khuyên bảo Duy ?
-Vô ích, mợ ạ.
Bà mợ nói:
-Đang lúc
này cũng may, con có được việc làm.
Đứa nhỏ ngồi trên chân mẹ. Nàng vuốt
mái tóc nó, cảm thấy sự an ủi của nó dành cho nàng thật mềm mại.
Một người khách xuất hiện ở trước cửa
lên tiếng chào, vừa hỏi:
-Hàng đóng
xong chưa ông bà ?
-Rồi, ông ạ.
Người khách bước vào, anh ta cầm tờ
biên lai xem kỹ. Sau đó, anh ta rút một cọc tiền trong túi đếm lại để
trả.
Ông Kha phụ giúp đưa hàng ra xe gắn
máy cho khách. Hàng được buộc cẩn thận bằng nhiều sợi dây cao su hai
lớp.
-Đi nhé ông.
-Vâng, chào
ông.
Ông Kha quay vào nhà, ngồi xuống ghế
cầm tách trà đã rót sẵn đưa lên miệng uống. Nhà vắng, bà mẹ cho hay các
em đi học
thêm. Thúy Hà hỏi:
-Ba có tính
cho Vũ đi Không Quân không ?
-Cậu xong Tú
Tài II, ba cho đi ngành kỹ thuật.
-Ba không để
cho em đi phi công ?
-Tùy cậu.
Nhưng vào Không Quân thôi, nếu không học lên Đại Học.
-Không biết
anh Thụy đi Mỹ chưa ?
-Chắc cậu
còn học Anh văn đã.
Buổi chiều xuống yên bình. Vừa thấy
các cậu và các dì về đứa nhỏ reo lên. Vũ tới bồng cháu, nhấc bổng, nó
cưới
thích chí.
Nhà dọn lên bữa ăn sớm hơn thường lệ.
Bữa ăn có bia, nhưng chỉ có ông Kha và Vũ uống.
-Anh Duy về
chưa chị Hà ?, Vũ hỏi.
-Về rồi,
cháy túi.
-Trời đất,
Vũ cười.
Vân nói:
-Anh Duy sao
không có chút trách nhiệm gì với vợ con.
-Chiếc xe
Honda anh đi cầm lấy lại chưa ?
-Ông bán
luôn rồi. Nhưng có phải cầm và chuộc lại, ông về xin tiền bên nhà.
Hôm nay, Thúy Hà ăn được nhiều. Khoảng
mười giờ đêm, đứa nhỏ buồn ngủ nàng mới bồng con thuê xích lô về nhà.
Không biết Duy đi đâu, nhưng anh
cũng vừa mới trở về. Thúy Hà đặt đứa nhỏ xuống giường ngủ, xong cầm tờ
báo đọc.
Nàng ở trong phòng riêng không ra ngoài.
Khi Duy đứng dậy đi tới bàn lấy một
lá thư để trong cuốn sách, anh lên tiếng.
-Thúy Hà, em
ra đây.
Im lặng, Thúy Hà vẫn xem tờ báo. Một
lúc, Duy vào, anh cầm lá thư trên tay nói với Hà.
-Ra ngoài
này anh nói chuyện.
-Không,
không có gì nói với anh cả.
Duy nhìn Thúy Hà nói:
-Tôi xin tiền
nhà bù vào tiền lương, đừng lo lắng.
-Tôi không cần
tiền của anh.
-Nhưng lá
thư này là của ai.
Thúy Hà đứng lên đi ra ngoài.
-Anh nói gì
về lá thư ?
-Ông Clair
là ai, viết thư cho cô đây ?
Thùy Hà hỏi:
-Anh đọc có
hiểu không ?
Duy ấp úng. Anh nói:
-Nhưng đây
là lá thư tình cảm ông Clair gởi cho cô.
Nàng đáp:
-Anh cầm lá
thư này nhờ bạn anh dịch cho.
Duy nghiêm vẻ mặt, nói:
-Không cần.
Cô như thế nào tôi đã hiểu.
-Anh cứ cho
tôi làm đĩ đi, không sao cả.
Duy nghe giật mình, đứng sững. Anh
quay mặt, tránh cái nhìn của nàng. Anh nói một lời nhẹ nhàng.
-Cô đã nói
ra những điều cô sẽ làm được.
Thúy Hà đáp:
-Anh nghĩ
đúng.
Thúy Hà trở vào phòng lên giường, tắt
đèn ngủ. Một mình, Duy xuống bếp đun nước sôi pha cà phê. Anh cho cà
phê vào
phin, nước chỉ nấu vừa một ly nhỏ nên mau sôi. Duy rưới qua chút nước
rồi đổ đầy
phin. Không đợi lâu, cất chiếc phin đi, Duy lấy hộp sữa đổ một lớp mỏng
xuống
cà phê, khuấy đều.
Duy đem cà phê lên, ngang qua phòng
hai mẹ con ngủ anh dừng bước, rồi đi vào. Trên tay Duy, ly cà phê sữa
đang
nóng. Anh cúi gần xuống, nói nhỏ bên tai Thúy Hà.
-Có cà phê
ngon, em dậy uống với anh.
Thúy Hà nằm im. Duy nắm lấy cánh tay
Thúy Hà, lay nhẹ. Nàng mở mắt.
-Có cà phê
ngon, dậy uống với anh.
Thúy Hà đáp:
-Mai tôi phải
đi làm.
Duy trở ra ngoài. Anh đến móc áo,
tìm gói thuốc để trong túi jacket. Với gói thuốc, ly cà phê, Duy ngồi ở
phòng
khách một mình. Ánh đèn đêm cho anh một cảm giác mệt mỏi, gương mặt đã
già đi.
Duy nhìn khói thuốc. Cà phê thật
ngon. Anh không sợ mất ngủ, vì ngày mai anh nghỉ, có thể một hai hôm
dưỡng sức
anh mới vào tiểu khu trình diện. Lúc này, sự suy nghĩ của Duy là tìm ra
một
phương kế để làm giải tỏa sự bức xúc, mặc cảm trong gia đình.
Đồng hồ treo tường chỉ một giờ sáng.
Thúy Hà thức giấc, nàng đi xuống nhà sau, khi trở lên vẫn thấy Duy đang
ngồi viết
thư.
Nàng trở về giường, ngủ lại.
Thời gian qua đi. Công việc làm ở
phi trường giúp Thúy Hà kiếm được nhiều tiền. Clair đeo đuổi nàng, dành
cho
nàng những đặc ân. Anh ta mời nàng đi ăn, hai ba lần khẩn khoản nàng
mới nhận lời.
Và, một tối hôm đó, trong đêm vui dạ tiệc, nàng có uống rượu và nhảy
với Clair,
thêm một vài khách là lính Mỹ một số bản nhạc. Rồi, với phút giây tình
cảm cởi
mở, nàng đứng im để cho Clair ôm nàng. Nàng cũng hé môi đón nhận nụ
hôn, và
Clair càng lúc thêm ngây ngất khi hôn say đắm trên cặp môi của nàng.
Những nụ
hôn cuối cùng, anh nuốt sâu làm cho Thúy Hà có cảm giác chênh vênh,
tưởng như
mình đã ngã quị.
Rất bất ngờ, Thụy nhận được lá thư của
Duy. Thư gởi về nhà dì Hồng. Lúc này, Thụy đang học lên bậc trung cấp
2, sách
2300 và 2400, học xong bốn tuần lễ anh sẽ thi một cái final test để lấy
điểm ra
trường. Không biết linh cảm về chuyện gì mà Thụy cảm thấy nôn nao, lo
lắng. Anh
sắp phải trải qua một kỳ thi quan trọng, từ lúc nhập khóa học đến giờ,
Thụy học
tương đối là được, không xuất sắc lắm nhưng không đến nỗi quá tồi, và ở
đây, những
khóa sinh học trước đã lâu, thời gian định mức sáu tháng không đậu kỳ
thi ra
trường đã bị loại, những bạn này đành chấp nhận vào trường Thủ Đức để
sau đó ra
bộ binh.
Thụy nhớ Liên An, anh đã viết thư gởi
đi, đang trông đợi có thư của nàng. Có còn ai nữa không, Thụy không thể
nhớ nữa,
nhưng giờ đây, Liên An vẫn là áo trắng, bên anh là bóng dáng cái tháp
nước và
tiếng còi vọng xa của con tàu.
Trở lại trại, cơm nước xong Thụy về
lều nằm đọc thư của Duy. Lúc ở nhà dì Hồng, anh đã mở thư, nhưng chỉ
đọc lướt
qua. Thụy đọc kỹ từng giòng, tự dưng anh
cảm thấy lo ngại. Tình yêu anh và Thúy Hà không bao giờ mất, vẫn được
giữ trong
con tim, trong nỗi nhớ. Khi gần gũi, đó là những tháng ngày đợi mong.
Khi xa
cách hình ảnh hai người như bóng dáng đôi bờ trong buổi chiều, đó là vẻ
đẹp buồn
của ánh nắng, và sự thương yêu của một dòng sông êm đềm. Thế nhưng, đó
là cuộc
sống của những lý tưởng, của giấc mơ, không thuộc về thực tại.
Những ngày gặp lại Huê và có nàng,
đôi tình nhân đã có được một thành phố mình luôn gắn bó và mến yêu,
luôn hiểu rằng
chỉ có những sự vật, những cảnh vật nói thay cho mình những cảm ý chân
tình, và
đúng ý nghĩa nhất. Hạnh phúc mà Huê tìm thấy nơi Thụy là cuộc đời bình
thản của
một người lính, cho và nhận một cách vô thường. Về phía Thụy, anh có
Huê như là
một nơi chốn quen thuộc hàng ngày, đi đâu xa hay gần, trở về lại luôn
nhận ra
cái mối tình thân của con đường, của ngôi nhà mình ở.
Thụy bỏ lá thư của Duy vào phong bì,
ngẫm nghĩ:
-Mình viết
gì đây cho Duy, cho Thúy Hà để hai vợ chồng hiểu được nhau.
Không đọc lại lá thư khá dài với bao
nhiêu tình tiết như đó là thuộc về tiểu thuyết, hiếm thấy ngoài cuộc
đời. Một
đoạn tâm tình với Thụy, Duy viết:
…Tôi với anh Thụy được biết nhau qua
gia đình Thúy Hà. Riêng với nàng, tôi rất hiểu nỗi buồn của anh trong
một tình
cảm, đúng hơn trong một con tim anh cất giấu gương mặt Thúy Hà. Nhưng
hơn ai hết,
anh vẫn luôn có với tôi một tình bạn thật trong sáng, một sự tôn trọng
dành cho
Thúy Hà và cả tôi nữa, đúng thật anh là một con người của lòng tin.
Thúy Hà rất
là quí anh, tình cảm nàng dành cho anh có thể nói vượt cả tình bạn,
tình yêu,
tình chồng vợ, tôi hiểu anh và Thúy Hà hai người trong tâm hồn mãi mãi
là của
nhau. Thế nhưng, tôi đã có nhiều lầm lỗi với người vợ của mình, với cô
em gái của
anh, nên tôi nghĩ, không một ai khác ngoài anh ra nói được với nàng
bằng một tiếng
nói trung thực nhất….
Hết hai ngày cuối tuần, khóa sinh lại
đi học. Vào giai đoạn cuối này, Thụy rất cố gắng, anh cầu mong đạt được
điểm
chuẩn để ra trường, chí ít, cũng có được một lần sang nước Mỹ. Lúc này,
không
khí trong trại rất là náo nức, bồn chồn, mỗi buổi tối vào giờ phát
thanh anh em
đều lắng nghe tin tức về chương trình du học, về các tài khóa học, sau
đó là
tên những bạn được Bộ Tư Lệnh gọi về để làm thủ tục xuất cảnh. Những
bạn này có
tên, vì đã đạt được điểm tiêu chuẩn về kỳ thi Anh ngữ ra trường.
Thụy đã viết xong lá thư gởi cho
Thúy Hà.
Hôm ấy, vào giờ nghỉ trưa, Thúy Hà
vào văn phòng làm việc của người cửa hàng trưởng Anthony Clair.
Anh ta rất vui khi tiếp đón nàng. Tự
mình lấy nước mời nàng uống và hỏi chuyện về công việc nàng làm. Thúy
Hà trình
bày việc quan trọng của mình, Clair lấy làm ngạc nhiên, anh ngả người
dựa lưng
ghế để lấy chút bình tâm. Rồi anh hỏi:
-Cô Hà, có
chuyện gì vậy ?
-Không có gì
cả. Chồng tôi thuyên chuyển nơi khác.
-Ông nhà đi
đâu ?
-Nha Trang
(nàng phải nói dối)
-Tôi nghĩ cô
cứ làm việc, rồi tôi sẽ tăng lương.
Một chập suy nghĩ, nàng nói:
-Chồng tôi
không muốn tôi làm việc ở phi trường.
Trên vẻ mặt Clair lộ vẻ đăm chiêu.
Anh nhìn Thúy Hà, không hẳn phải quyến luyến những ngày vui bên nàng,
mà anh cần
có sự hiện diện của nàng để anh làm chạy công việc.
Trước khi giã từ nhau, Clair tặng
cho Thúy Hà một món quà, và đặc biệt cho nàng mua được những thứ hàng
nàng cần
trong quân tiếp vụ. Nhân buổi chia tay, Clair mời nàng
đi ăn tối. Sau đó, hai người khiêu vũ ở hội
quán, tới mười hai giờ đêm Clair đưa nàng về nhà.
Một buổi chiều chủ nhật, sinh nhật
bà Uyên. Sau bữa tiệc vui trong gia đình, cả nhà ngồi nghe ông Kha nói
chuyện với
Duy :
-Ba thấy con
thiếu trách nhiệm với gia đình. Không hiểu sao, con không dứt nổi sự
cám dỗ của
cờ bạc. Hãy nhớ rằng, trong cờ bạc đỏ đen, nhân cách con người xuống
rất thấp.
Và, con là người thấy rõ. Những việc con làm do sự đỏ đen trong cờ bạc,
tự nó,
đã làm con mất hết giá trị của một Sĩ quan. Ai cũng có lúc vui, và chơi
đúng
người đúng cách. Ở đây, con đánh bài bạc với cả lính. Khi thua, con
không thể
tránh được, như con đã thấy, con mắc nợ lính, lính đến nhà đây đòi nợ.
Nếu như
con được bạc của họ, con nghĩ thế nào
khi vợ con họ không có được đồng lương của chồng, của cha mang về để
nuôi sống
hàng ngày. Không có tiền lương, họ phải chịu thiếu thốn. Như vậy, chơi
bài bạc,
con thua lính được nhờ, con đánh ăn, lương tâm con đâu được yên bình.
-Vâng con
xin lỗi ba và vợ con.
Duy đáp lời ngay sau khi ông Kha ngừng
lời. Chừng đó, ông thấu hiểu không nói gì thêm.
Sự căng thẳng trong gia đình chỉ lo
âu một chút, sau đó, vui trở lại. Duy ngồi bên Thúy Hà, nắm giữ lấy tay
nàng.
Một lúc sau Duy nói:
-Em nhớ viết
thư cho anh Thụy.
-Anh Thụy…
Nàng chợt ngừng lời, hình ảnh của
nàng như chỉ cho bạn thấy một mái tóc rất đẹp, đen nhánh xõa xuống bờ
vai.
Phần
Thứ Tư
I
Bây giờ Thúy Hà đã dọn vào ở Hội An.
Gia đình nàng tìm được nơi thành phố này một cuộc sống bình thường, êm
ấm. Đứa
con trai có tên là Vinh , cháu gần được ba tuổi và trông rất giống mẹ.
Nơi chỗ ở
chỉ cách xa trung tâm chừng một cây số, căn nhà sân trước rộng, sau
lưng là một
khoảnh vườn có trồng cây ăn trái, và mấy thứ rau cải để dùng khi cần
đến cho bữa
ăn hàng này. Từ Quảng Tín, Duy được thuyên chuyển ra Hội An, làm việc ở
phòng
tài chánh, chức vụ phát ngân viên. Còn Thúy Hà, nàng làm việc bên ngành
du lịch.
Hội An tuy nhỏ, nhưng đây là một thành phố cổ xưa giữ được nhiều di
tích lịch sử
về các thời chúa Nguyễn. Còn nữa, có biển Cửa Đại, cát trắng rất sạch
và đẹp.
Thụy cùng năm chục anh em khác nữa
bên Không quân đã lên trường Thủ Đức nhập vào khóa trừ bị 6/70 để học
lớp trung
đội trưởng. Vài ngày sau, anh viết thư cho Thúy Hà, vừa lúc nhận được
thư anh gởi,
nàng đáp lời ngay cùng kèm theo mấy tấm ảnh gia đình. Bao giờ cũng vậy,
đọc thư
nàng viết, lòng Thụy luôn buồn nhớ. Những giòng, cũng như từng nét chữ
thân
thương của nàng là những lời thương yêu của một người vợ. Từ buổi ấy ra
đi, Thụy
không chỉ ôm giữ trong con tim mình hình ảnh của người yêu, mà còn cả
những tấm
ảnh nàng đã trao cho anh nữa. Đến nay, ảnh và thư của Thúy Hà Thụy vẫn
cất giữ.
Buổi sáng ấy, lúc chiếc xe GMC vượt khỏi cổng gác chạy lên đường dốc,
nhìn xuống
phía bên trái thấy khung cảnh khu nhà tiếp tân trống vắng, tự dưng lòng
Thụy nhớ
nôn nao đến Thúy Hà, nhớ ngày hôm đó anh dẫn nàng đi, đến đây, nàng
thăm chồng,
còn anh thăm một người bạn.
Thụy ở Đại đội 37 thuộc Tiểu đoàn
3. Khu doanh trại của Đại đội rất khang
trang có trồng cây và đào giao thông hào, trên mặt hào, trải đều từng
hàng bao
cát, không chỉ để tránh đạn pháo kích, còn tiện làm chỗ ngồi nghỉ chân
trong những
giờ sinh hoạt tự do ngoài trời. Một dãy nhà ngói dài, chia bốn phòng ở
cho bốn
trung đội. Chỗ ngủ là giường sắt và được phát chiếu nylon để trải nằm.
Vào những ngày đầu mới đến, Thụy vẫn
mang nặng mặc cảm, anh hay nghĩ đến số phậm hẩm hiu về bao nhiêu tháng
ngày qua
trong đời quân ngũ của mình. Thụy cứ mãi hổ thẹn, vừa tiếc rẻ trong sự
phân
vân, đáng lý ra anh nên xin đi học lớp sĩ quan sớm hơn, không cần thiết
là được
ở binh chủng Không quân thì đến lúc này, anh cũng đã có được hai bông
hoa mai gắn
trên ve áo trận rồi.
Sự tình cờ Thụy quen biết Trương.
Hôm ấy, hai bạn đứng cùng hàng và giá súng chung một chỗ trước khi vào
phòng học
lý thuyết môn chiến thuật. Hai giờ sau, cả đại đội cùng rời phòng với
ba lô,
súng đạn di hành ra bãi tập. Trên đường, đi hàng trước, hay hàng sau,
phía nào
cũng nghe ồn ào tiếng trò chuyện, cười
nói rất vui vẻ. Tự dưng, nhìn qua Trương, Thụy cảm thấy thân mến với
người bạn.
Ngày nào có hai môn địa hình và chiến
thuật, sau buổi học lý thuyết ở phòng là đi ra bãi thực tập. Buổi học
sáng qua
rất nhanh, tới giờ nghỉ có nhà bếp mang
cơm trưa ra phân phát cho mỗi trung đội, xong đến từng người. Vào giờ
này, cũng
có sẵn một đội quân bán hàng rong tiếp ứng.
Dưới những lùm cây, chỗ nào cũng có
nhóm tụ tập. Hơn một tiếng trong giờ nghỉ, cũng có người nằm ngủ trưa,
lấy ba
lô gối đầu.
Sau bữa ăn, Trương lấy gói thuốc mời
Thụy một điếu. Thuốc nặng, hiệu Bastos, nhưng cũng là gout của Thụy.
Đang đánh
que diêm mồi lửa, Thụy nghe Trương hỏi:
-Bạn là giáo
chức hay bên hành chánh ?
-Không, cả
hai, Thụy đáp.
Thụy rít đầy khói thuốc, nói thêm:
-Tôi bị out
bên Không quên nên phải sang bộ binh.
-Bên đó, bạn
đi ngành kỹ thuật hay phi hành.
-Đi ngành
phi hành, nhưng rớt.
-Bạn có qua
Mỹ rồi ?
-Không đi được.
Tôi thi Anh văn rớt.
Trương đưa mắt nhìn qua Thụy, không
có ý dò xét, nhưng hiểu được phần nào về tình cảnh người bạn mới quen.
Khói thuốc
khô, mệt mỏi trong nắng.
-Bạn dạy học
ở đâu ?
-Tôi dạy ở
Qui Nhơn.
-Ra trường
lâu chưa ?
Trương cười nói:
-Vừa mới dạy
học hai tháng bị kêu động viên.
-Nhưng bạn
được biệt phái.
-Hy vọng như
vậy.
-Chắc chắn rồi.
Các anh không trở lại trường, kiếm thầy đâu dạy học sinh.
-Bạn chắc
có gia đình rồi ?
-Bạn đoán
tôi bao nhiêu tuổi.
-Trên ba
mươi.
-Sai, tôi mới
26 tuổi.
-Trông bạn
hơi già.
-Tôi thuộc
thành phần lính xin đi học.
-Tính đến
bây giờ, bạn có bao nhiêu năm quân ngũ ?
-Năm năm.
Rồi Thụy nói thêm:
-Tôi nhờ có
bằng Tú Tài I mới được học khóa thường xuyên như các bạn.
-Vậy à. Tôi
lại nghĩ, cả thường xuyên và đặc biệt cùng học chung.
-Không phải
đâu.
Từ đó, Trương và Thụy trở thành bạn
thân. Trương tốt nghiệp Đại học Sư phạm ban Anh văn. Trương đọc rất nhiều sách về biên khảo và tiểu
thuyết.
Nói chuyện văn học, Thụy nhận ra, Trường
có cái nhìn rất mới và lạ. Chính nhờ vào người bạn, Thụy tìm được cho
mình một
cách viết để vượt qua được những sáng tác cũ mà Thụy đã làm như với
tính cách
mưu sinh.
Bỗng nhiên Trương hỏi:
-Thụy có
quen bạn văn nào ở Huế không ?
-Không quen,
nhưng có biết tên.
-Có đọc chứ
?
-Có, trên tạp
chí Văn ?
-Thụy có
truyện đăng trên Văn không ?
-Không có.
Tôi viết còn kém lắm.
-Về nhưng
cây bút của Huế thì sao ?
-Anh em
ngoài đó, ai cũng viết khá, nhưng đừng quá làm dáng thì hay hơn.
-Có lẽ, Thụy
nói đúng.
-Anh em ở miền
Trung phần đông viết giống nhau, như nhóm Tuy Hòa, chịu ảnh hưởng nhiều
truyện
ngắn của Y Uyên.
Trong quân trường Thủ Đức có khu
sinh hoạt và khu gia binh rất nhộn nhịp ban ngày cũng như ban đêm. Mỗi
khóa học
có trên cả ngàn khóa sinh nên các quán ăn, quán giải khát, cà phê nhạc
mọc lên
trong hai khu này không lúc nào vắng khách.
Thụy và Trương thường đến quán của
cô Giang nằm gần tuyến gác D chạy ngang qua cổng số 9. Cô Giang học ở
Trưng
Vương, khá xinh. Và, ở nơi quán này, Thụy và Trương, qua hình ảnh cô
gái thường
hay tâm sự với nhau về những chuyện riêng của mình. Trương có một cô
bạn gái học
cùng lớp, đang dạy học ở Ninh Hòa. Khi
nghe Trương nhắc đến quận lỵ này, Thụy bỗng nhớ đến
Huân, người bạn thân
thời niên thiếu. Từ sau ngày Thụy vào miền Nam và lên học ở Đà Lạt, hai
người
không gặp nhau. Thế nhưng, kỷ niệm về Quảng Trị, cả hai đều còn nhớ,
riêng
Huân, vẫn còn giữ lại nơi chốn đó hình ảnh gia đình chị Huyên. Khi nghe
những lời
Trường kể chuyện,Thụy thấy đôi mắt
Trương đang ở bên bóng dáng người tình, và hình ảnh
nàng ngồi yên đó, với
một vẻ buồn sầu muộn, xa vắng. Về chuyện của mình, sau khi nói ra,
trong số đó
một người Trương biết rất rõ là Liên An, vì em gái của Trương là bạn
học cùng lớp
với An. Từ ngày Liên An ra đi, thắm thoắt thời gian cũng dễ đã một năm.
Một
năm thuộc quá
khứ, hình ảnh của Liên An trong lòng Thụy
là kỷ niệm về một nhà ga, cái tháp nước, bóng dáng chiếc áo trắng, và
những cây
cầu bên con sông, mỗi một thứ đó là của
Huế, và bây giờ đây với Trương, Thụy có thêm một người bạn khá thân
hiểu được
mình.
Thời gian học quân sự của giai đoạn
2 là sáu tháng, nhưng rồi bị chậm trễ mất hai tháng, một tháng trong kỳ
chiến dịch,
một tháng tập dượt diễn hành cho ngày Quốc Khánh 1/11.
Không có bạn nào rớt ở kỳ thi mãn
khóa học. Trương ở trong số 600 người thuộc thành phần giáo chức biệt
phái. Thụy
đậu thấp, đi đơn vị Sư đoàn 2 đang trú đóng ở Quảng Ngãi. Khác với lúc
học quân
sự ở Nha Trang, học ở Thủ Đức, Thụy thấy kiến thức về quân sự của mình
qua hai
mặt lý thuyết và thực hành trở nên vững vàng, tự tin hơn, trước khi anh
ra
ngoài chiến trận đảm nhận cương vị một người trung đội trưởng. Và,
không khí
nơi quân trường bộ binh cũng cho Thụy những kỷ niệm lãng mạn về chiến
tranh qua
những buổi học về chiến thuật. Năm 1970 cũng là năm chiến cuộc miền Nam
lan rộng
khắp cả bốn vùng chiến thuật, và luôn trong tình thế khẩn trương. Tổng
Thống
Nguyễn Văn Thiệu trong một buổi họp với các Tướng Tư lệnh VNCH và Đồng
minh đưa
ra một nhận định là để ngăn chận Cộng quân sự xâm lấn của Hà Nội vào
miền Nam,
cần phải có một cuộc hành quân vượt biên tấn công vào hai mật khu nuôi
quân
quan trọng của Hà Nội là Kampuchia và Lào, và sẽ đánh phủ đầu ngay tại
hai trận
chiến lớn chứ không để cho CQ xâm lăng vào lãnh thổ mới đối diện kẻ
thù. Ngày
27/4 cuộc hành quân Toàn Thắng 42 khai diễn. Tư lệnh cuộc hành quân này
là Trung
Tướng Đỗ Cao Trí. Lực lượng tham chiến có Sư đoàn 18 BB, Trung đoàn
46/SĐ25,
Liên đoàn 3 BĐQ, 4 Thiết đoàn Kỵ Binh và Tiểu đoàn 7 dù. Cuộc hành quân
lớn này
chia làm sáu giai đoạn. Năm giai đoạn đầu, quân lực VNCH phối hợp với
Hoa Kỳ,
giai đoạn cuối, một mình Quân đoàn III phụ trách. Mục tiêu của giai
đoạn 1 và 2
là càn quét khu Mõ Vẹt từ biên giới tới Sway Rieng, giai đoạn 3 từ Sway
Rieng
lên đến vùng Đầu Chó phía Tây Bắc Tây Ninh, giai đoạn 4 khai thông Quốc lộ I từ Sway Rieng đến Konpong Trabeck,
giai đoạn 5 tấn công vào đồn điền Chup và giai đoạn 6, tấn công chiếm
đồn điền
Mimot.
Khi cuộc hành quân này diễn ra, báo
chí hàng ngày ở Sài Gòn luôn cho chạy tin tức và phóng sự ngoài chiến
trường
lên trang nhất. Hình ảnh người lính bộ binh lội bộ, mưa nắng, dãi dầu
mồ hôi,
và không khí chiến tranh trong quân trường đã làm Thụy mau chóng quên
hết những
tháng ngày nhàm chán ở thành phố, đời người lính Không quân dư thừa,
nhàn rỗi
nơi đô thị, đến cả Huêcũng như bao nhiêu
hình ảnh thiếu nữ khác, sau cùng, Thụy nhận thức rõ là mình sắp đối
diện thực sự
với chiến tranh.
Sau khi rời quân trường, giữ lời hứa
với Trương, Thụy cùng người bạn lên đường ra tới Nha Trang thăm Bảo.
Gặp cô bạn
gái của Trương ở một ngôi trường quận lỵ, có dịp chuyện trò với nhau ở
một quán
cà phê, ở lại thành phố biển Nha Trang một đêm sau đó, hai bạn lên xe
ra Huế về
thăm gia đình. Nhà Trương ở phố Gia Hội, còn nhà Thụy vẫn căn nhà cũ
bên dưới
ga, trên con đường đi lên nhà máy vôi Long Thọ.
Thụy đã không dừng lại ở Đà Nẵng để
vào Hội An thăm Thúy Hà. Về Huế , sau vài ngày Thụy đi ra Quảng Trị
thăm chị
Thiên Nga đang dạy học ở trường Nguyễn Hoàng. Không cần nói ra, Thụy
cũng biết
chị Thiên Nga là hoa khôi của thành phố này. Thụy đi vào sáng thứ tư,
vừa đúng
vào ngày bắt đầu nghỉ trong tuần của người chị.
Bỗng nhiên Thiên Nga buông tờ báo, rời
giường vội mang đôi đép rồi đi nhanh ra lối cửa ngoài hiên gác.
Người lính đứng bên ngoài đưa mắt
nhìn quanh, nơi này, anh nghe rõ tiếng nước của dòng sông và trên con
đường đến
đây một quãng gặp dòng sông, anh nhớ lại
hết những ngày thơ ấu trong phần đời của mình. Lúc nghe tiếng hỏi, anh
chợt ngẩng
đầu:
-Ủa, về hồi
nào vậy ? nàng reo mừng thốt lên.
Người lính cảm thấy vui trong lúc đứng
đợi. Một lúc sau, nàng xuất hiện.
-Về phép được
bao nhiêu ngày ?
-Hai tuần,
chị. Đã hơn một tuần ở Huế.
Anh bước theo nàng đi ra sân sau và
lên lối cầu thang ngoài. Khi vào căn gác, anh nhận ra sự ấm cúng, thân
tình, dù
rằng nơi đây chỉ có một mình.
Nàng để anh ngồi ở bàn khách, xong
nàng đi lấy nước. Lúc trở lại, nàng đặt khay xuống bàn, và trong lúc
rót nước,
nàng nói:
-Trông Thụy
đen và hơi gầy đi, nhưng có vẻ chắc chắn.
-Mới mãn
khóa học xong .
-Và ra đơn vị
ở đâu ?
-Quảng Ngãi.
Nàng mời nước. Anh cầm tách nước,
đưa cặp mắt đằm thắm nhìn nàng. Nàng mỉm cười, trong nụ cười ấy nàng
cũng thấy
mình hạnh phúc.
-Công việc
chị dạy học ra sao ?
-Cũng bình
thường.
-Không khí
sinh hoạt có dễ chịu không ?
-Cũng dễ chịu.
-Thành phố
này đã quen chị chưa ?
-Hẳn rồi.
-Mỗi cuối
tháng, chị về thăm nhà ?
-Không đều đặn
lắm. Khi có anh Nguyên ra, mình không đi.
-Anh có hay
đưa chị ra ngoại ô không ?
-Hơn một năm
dạy ngoài này, mình đi hết các nơi rồi.
-Chị có tính
gắn bó luôn không ?
Nàng cười nhìn Thụy:
-Mình giữ lời
hứa với Thụy và anh Nguyên ra dạy ngoài này. Ở nơi đây, rất là tình
người.
Nhưng ít năm nữa, mình xin vào Huế hoặc Đà Nẵng. Cũng tùy theo anh
Nguyên.
-Ở nơi đây,
dù chị dạy một ngày, một tháng, một năm cũng là tấm lòng của chị.
Hai người không ra phố. Sau bữa ăn
trưa, nàng làm cà phê, hai người ngồi ở bàn khách trò chuyện về cuộc
sống ở
đây, về công việc dạy học và những sáng tác của nàng.
-Thế nào Thụy
cũng gắng in một tập truyện ngắn.
-Nên lắm.
-Từ nay, Thụy
sẽ viết khác đi .
-Khác thế
nào ?
-Về sự suy
nghĩ. Những ngày tới đây, Thụy thực sự đối diện với cuộc chiến.
-Có ghé thăm
Thúy Hà không ?
-Không, vì
Thúy Hà không còn ở Đà Nẵng nữa ?
-Cô ở đâu ?
-Ở Hội An.
Nhân tiện Thụy kể về Trương cho nàng
nghe. Lúc nghe, nàng hình dung đến Bảo, và vẽ ra trước mắt nàng một cô
gái Huế
dịu dàng.
-Rồi, ngoài
Thúy Hà ra có Liên An, cả cô Huê nữa. Với Thụy, giờ ra sao ?
-Tất cả, gần
giống như bên cạnh hình ảnh của chị.
Ở nhà Thiên Nga, cơm nước, chuyện
trò, trao đổi những ý tưởng sáng tác, anh và nàng đều thực sự cảm thấy
có được
một ý nghĩa đẹp về đời sống. Tới buổi chiều đã muộn, Thụy ra bến xe đi
Huế. Còn
lại bốn này phép cuối cùng, Thụy không đi đâu, anh ở với mẹ và các em
hết thời
gian này cho này lên đường đi đơn vị.
II
Hết hai tuần nghỉ phép, Thụy lên đường.
Anh ra đi mang theo cả ba lô và túi sac marin, trong đó, áo quần nhà
binh là
chính, còn lại là một số sách truyện cùng vài thứ đồ dùng cá nhân. Một
thứ quí
giá nhất, đó là cuốn album chỉ cất giữ
những tấm ảnh của Thúy Hà. Dù rằng, nàng không phải là người vợ, nhưng
đối với
anh, nàng luôn chiều ý đem tới cho anh hết
tất cả những hình ảnh của nàng.
Thụy đi chuyến xe sớm nhất. Trời mưa
lúc xe rời thành phố, dù đêm qua thức khuya nhưng giờ Thụy không cảm
thấy buồn
ngủ , lúc này, anh buông thả tâm hồn với
thời gian để nghĩ tới những ngày sắp tới đây của đời lính. Đã có bao
nhiêu kỳ
nghỉ phép, bao nhiêu lần trở về thăm gia đình rồi ra đi, nhưng không
lúc nào Thụy
lại phân vân lo nghĩ nhiều như lần này. Tới Hải Vân, vừa kịp giờ đổ đèo
nên xe
đã không ngừng đợi. Mưa đã tạnh, màu trời trở nên sáng, quang đãng.
Ngồi bên cửa
xe, Thụy để những phút lãng mạn nhìn những tảng mây trôi từng trên mặt
biển, rồi
trông thấy sương mù tan dần dần.
Xe ngừng trước những hàng quán nằm
bên cạnh một ngả ba quốc lộ cho khách xuống nghỉ chân và dùng điểm tâm.
Thụy
vào quán ăn một tô bún và uống ly cà phê đen nóng. Mỗi lúc, quán trở
nên đông
vì có nhiều xe khác đến. Nhìn chung quanh, Thụy tìm có ai quen nhưng
không thấy.
Và, trên lộ trình phía Nam xe nào cũng có một vài quân nhân đi công
tác, hoặc
đi phép trở lại đơn vị.
Những điếu thuốc hút, những sợi khói
mỏng trườn lên, bất cứ lúc nào nhìn vào đó mà nghĩ ngợi lòng Thụy luôn
cảm thấy
vương vấn, nặng nợ với tình yêu. Nhưng rốt cùng, anh chẳng có ai, kể đến cả Thúy Hà là một người anh yêu quí
hơn hết tất cả một ai trong đời mình.
Nửa giờ sau đó, tài xế ra xe vừa gọi
khách lên đường. Xe chạy suốt. Quốc lộ I trải dài, hai bên hầu hết là
đồng ruộng,
và trời có lúc mưa trên từng chặng, từng vùng.
Khi cảm thấy
mỏi mắt, buồn ngủ, Thụy bật diêm đốt điếu thuốc. Lúc xe chạy qua Chu
Lai, nhìn
thấy những dãy đồi cát, Thụy chợt nghĩ tới làng quê của mình. Nhưng ở
đây,
trông sao vắng lặng , buồn buồn.
Tới đầu buổi chiều, xe đến Quảng
Ngãi, vào bến chính và đỗ hết khách. Xe dừng luôn ở đây, không tiếp tục
chạy
vào phía Nam.
Thụy bỗng thấy mình bỡ ngỡ, phân
vân, không biết tìm chỗ nào có phòng trọ. Để có thì giờ, Thụy ghé vào
quán ăn,
vừa lấy chỗ nghỉ chân cơm nước, rồi nhân đó mà định liệu cho công việc
của
mình.
Đứa gái nhỏ đến bàn Thụy ngồi, cầm
khăn lau dọn xong, hỏi:
-Chú ăn cơm
hay mì ?
-Có cơm phần
không cháu.
-Dạ có.
-Cho chú phần
cơm, và bình trà.
Trời không mưa, nhưng cảnh vật hiện
lờ mờ , chênh vênh, rồi bỗng thấy nó trôi giạt. Ở đây cũng lạnh như
ngoài Huế.
Trong quán có đông khách ăn, một số cũng là quân nhân như Thụy. Thụy
mặc ngoài
chiếc áo jacket, áo này không phải được cấp phát, mà anh gặp may mua
được ở chợ
trời, nó vừa khổ người của anh. Với số tiền chưa đến hai ngàn, từ hôm
nay đến
cuối tháng còn hai tuần nữa, nhưng mà tới lúc đó, Thụy cũng chưa biết
tình trạng
đơn vị và lương bổng của mình ra sao. Ở bên trái túi áo trên , Thụy cất
riêng cả
tờ sự vụ lệnh và giấy nghỉ phép từ quân trường Thủ Đức. Thụy cũng biết
rằng, ra
trình diện Sư đoàn 2 chưa phải là đơn vị phục vụ mà anh còn nhận các
giấy khác
nữa, từ Sư đoàn đưa ra Trung đoàn, rồi Tiểu đoàn.
Đứa gái nhỏ mang cơm nước đến dọn xuống
chiếc bàn thấp. Cơm phần có ba món. Thụy
cầm khăn giấy lau chén đũa, xong
xới cơm. Anh ăn thong thả, cảm thấy ngon miệng vì đang đói. Trong lúc
này, Thụy
chợt nghĩ tới những người bạn văn nghệ mà anh nghe tên tuổi, nhưng chưa
hề gặp
mặt. Thụy chưa có truyện đăng trên tạp chí Văn, nhưng tờ báo này, thỉnh
thoảng
anh có mua những số đặc biệt, và những số ngoài bìa đề là tuyển tập thơ
văn để
đọc. Qua tờ báo này, Thụy lần quen tên
những cây bút trẻ miền Trung. Nơi tỉnh nào cũng có thi văn đoàn và xuất
bản một
tờ đặc san. Và, dù chưa hề gặp, nhưng Thụy cũng hay biết rằng những
người trẻvăn
nghệ luôn thích có được nhiều người bạn. Chỉ một lần gặp, trao đổi vài
câu chuyện
về thơ văn, là tình bạn hữu trở nên thân thiết, đậm đà. Trong tạp chí
Văn luôn
có để dành hai trang sinh hoạt văn nghệ để giới thiệu sự ra mắt những
tác giả
và tác phẩm của các thi văn đoàn. Thụy rất yêu thích mục này, đang ngồi
đây,
anh vẫn có thể hình dung ra mỗi khuôn mặt các tác giả trẻ, đồng thời,
biết rõ từng
nơi họ đang sống, làm việc. Có hai thành phần rõ rệt, một thuộc về giới
giáo chức,
một thuộc về giới quân nhân. Nơi thị xã này đây, Thụy biết có bốn bạn
văn, hai
người làm thơ, hai người viết truyện. Nếu mà tình cờ gặp, chỉ cần bày
tỏ chân
thật cái duyên nợ văn chương, lập tức, Thụy sẽ được các bạn này mời về
nhà nghỉ
ngơi, và khỏi cần lo nghĩ đến việc đi tìm phòng trọ.
Bên kia triền núi, sương mù đang xuống
nhiều. Sau bữa ăn, Thụy rót trà vào cái
ly nhỏ, nhấp từng hớp, vừa hút điếu thuốc. Nơi chốn lạ này gây cho Thụy
một
chút xao xuyến, vừa lạ lùng trong sự mơ tưởng. Có hai chuyến xe khách
vừa rời bến
đi ra hướng quốc lộ, một chốc lát sau,
có chuyến khác mới đến, và ngừng lại đỗ hết khách. Chung
quanh bến, tiếng bước chân, tiếng
chuyện trò, tiếng còi xe, và cả tiếng gọi nhau của đám trẻ bán quà
rong, nhưng
cảnh tượng không ồn ào, xô bồ, vẫn thấy sự trầm lặng, rời rạc.
Thôi thì, mọi chuyện cũng đã thành
quá khứ. Anh không thể nhìn tới nào là xa cách, ở đâu là có sự yên
bình, gần
gũi. Khác đi rất nhiều với những năm khi Thụy còn là người lính Không
quân, tà
tà buông trôi cuộc sống hàng ngày ở thành phố.
Khi trông thấy đứa gái nhỏ đi ngang,
Thụy gọi tính tiền. Anh mua thêm một gói thuốc, rồi đứng lên, vai đeo
ba lô,
tay bên trái cầm túi sac marin.
-Chuẩn úy đi
đâu ?
Thụy dừng bước, hỏi người xích lô:
-Ở đây có
phòng trọ không anh ?
-Có.
-Giá đắt
không anh ?
-Không, giá
bình dân.
-Anh thấy chỗ
nào gần, đưa tôi tới đó.
-Rồi, mời
Chuẩn úy lên.
Thụy cảm thấy nhẹ nhõm, chân gác lên
túi sac marin để ngang bên dưới.
-Ở đây, giá
sinh sinh hoạt có dễ không anh.
-Chuẩn úy mới
ở đâu tới ?
-Tôi mới ra
trường, đơn vị là Sư đoàn 2.
-Vậy sao Chuẩn
úy không vào ở trong cư xá.
-Tôi mới đến,
chưa trình diện.
-Còn đang giờ
làm việc, Chuẩn úy có muốn vào Sư đoàn không ?
-Thôi, tôi ở
tạm ngoài một đêm.
-Tôi nghĩ,
Chuẩn úy nên vào trong Sư đoàn.
Thụy im lặng. Sự thể thật bất ngờ
khi anh xích lô ngừng xe lại trước cổng Sư đoàn, và chỉ cho Thụy đến
trạm hướng
dẫn nằm ở phía cổng phụ bên trái.
-Anh cho trả
tiền xe.
-Ba chục.
-Xin cám ơn
anh giúp đỡ.
Người xích lô cầm tiền và nói thêm
cho Thụy biết một đôi điều.
-Cám ơn anh.
Thụy dời bước. Đến trạm hướng dẫn,
Thụy lấy giấy tờ đưa ra cho viên Thượng sĩ xem, ông ta hỏi:
-Chuẩn úy có
nhà quen ở ngoài không ?
-Không có,
Thượng sĩ.
Lúc Thụy cất lại giấy tờ, viên Thượng
sĩ đứng lên chỉ lối đường cho Thụy đến khu cư xá vãng lai.
-Dãy nhà nằm
bên dưới Câu lạc bộ. Nhưng, Chuẩn úy phải vào chỗ Câu lạc bộ trước, gặp
Trung
úy Thành, ông ta sẽ giúp cho.
Thụy rời bước, hướng theo con đường
dẫn đến Câu lạc bộ. Đang lúc này còn giờ làm việc, các phòng đều mở đèn
sáng. Bỗng
nhiên, Thụy cảm thấy mình vui hẳn lên khi nghe tiếng nhạc và giọng hát
Khánh
Ly. Nhạc Trịnh Công Sơn sáng tác, nhưng khi đã nghe Khánh Ly hát, bạn
biết mình
chỉ còn có một Khánh Ly thôi. Nàng hát, ai nghe nghe cũng rung cảm hết,
nhưng mỗi
người nghe thì chỉ biết Khánh Ly đang hát cho riêng mình.
Thụy bước lên bậc thềm cấp, vào phía
cửa trước. Bài hát sắp dứt, tiếng hát nhỏ dần. Đèn sáng lên tạo hơi ấm,
chỉ có
mấy bàn có khách, riêng ở góc bàn gần quầy có bốn chàng phi công đang
ngồi chơi
binh bài xập xám. Trên bàn, người nào cũng có ly cà phê và một bao
thuốc lá.
Thụy bước tới phía quầy nơi có một
người đàn bà đang ngồi trông hàng. Người đàn bà im lặng, lắng tai nghe.
Thụy
nói:
-Tôi ở xa mới
đến, xin được gặp Trung úy Thành.
-Anh đi ra cửa
sau, rẽ trái, phòng đầu tiên.
Thực may cho Thụy, vừa lúc đó, viên
Trung úy xuất hiện. Thụy đứng nghiêm
chào kính, xong mở nắp túi áo lấy giấy tờ.
Trung úy Thành hỏi:
-Anh về đây
một mình ?
-Không, có
nhiều anh em nữa.
-Họ tập
trung ở đâu ?
-Tôi không
rõ. Ngày ra trường, chúng tôi được hai tuần phép thăm nhà. Từ Huế, tôi
vào đây.
-Giờ, anh cần
gì ?
-Tôi không
có nhà ngoài. Nhờ Trung úy cho một chỗ nghỉ vãng lai.
-Anh không
có nhà quen sao ?
-Dạ không .
Viên Trung úy có vẻ nghĩ ngợi.
-Thôi được,
anh theo tôi.
Thụy đi theo viên Trung úy ra lối cửa
sau. Hai người vào văn phòng làm thủ tục tạm trú, sau đó, ông ta dẫn
Thụy đi đến
một khu cư xá nằm biệt lập, xa câu lạc bộ khoảng chừng vài trăm mét.
-Cư xá vãng
lai kín chỗ rồi. Anh qua đây ở tạm chung với Thiếu úy Thuyên.
-Đây là cư
xá cơ hữu ?
-Phải. Ngày
mai có một số người đi, tôi sẽ đưa anh qua vãng lai.
-Sao cũng được,
Trung úy. Tôi nghĩ , anh em chúng tôi có ở Sư đoàn cũng chỉ trong vài
ba ngày rồi
đi ra Trung đoàn.
-Tôi không
rõ lắm, nhiệm vụ của tôi là giúp những người ở xa mới đến.
Lúc nãy, ở văn phòng, Trung úy Thành
đã có liên lạc điện thoại gặp Thiếu úy Thuyên được sự ưng thuận, viên
Trung úy
mới dẫn Thụy đi.
Khi hai người đến, Thiếu úy Thuyên
đã sẵn chờ khách trước cửa phòng.Thụy được giới thiệu, viên Thiếu úy
niềm nở bắt
tay.
Trung úy Thành vội đi. Thiếu úy
Thuyên đưa Thụy vào bên trong, chỉ cho chỗ anh bỏ túi xách và ba lô,
rồi buồng
tắm, buồng vệ sinh. Thụy đưa mắt nhìn quanh, rồi đồ đạc anh để xuống
nền nhà
bên góc chỗ giường nằm.
Với nụ cười cầu thân, Thụy nói:
-Cám ơn Thiếu
úy đã giúp.
-Anh ở đơn vị
nào thuyên chuyển đến ?
Thụy lấy ra gói thuốc, mời Thiếu úy
Thuyên.
-Mới ra trường,
Thiếu úy.
-Mới, à.
-Vâng.
-Sao mà
trình diện sớm quá vậy ?
-Nghỉ phép
cũng đủ rồi, Thiếu úy.
Thiếu úy Thụy nhìn đồng hồ, xong
nói:
-Anh Thụy
nghỉ đi. Cần gì tắm giặt cứ tự nhiên.
-Cám ơn Thiếu
úy.
-Ở Câu lạc bộ
có cơm nước. Anh muốn ăn ở đó, hoặc ra phố, tùy anh.
-Vâng.
Rồi Thụy hỏi:
-Mấy giờ,
Thiếu úy về ?
-Sáu giờ.
Đáp lời xong, viên Thiếu úy lấy
trong túi ra xâu chìa khóa. Thụy hỏi:
-Tôi lên
câu lạc bộ giờ này được không ?
-Được chứ.
Khi thấy Thuyên tìm một cái chìa
khóa, Thụy ngăn lại:
-Tôi cũng đi
ngay, Thiếu úy cứ khóa phòng lại đi.
-Vậy thì
mình đi.
Cửa
phòng được đóng lại. Hai người ra đường, đi bên nhau một đoạn rồi chia
tay.
Thụy hướng về phía Câu lạc bộ, và
lúc đến gần, anh nghe rõ tiếng nhạc và lời hát.
Vừa bước vào bên trong, Thụy hết sức
bất ngờ, vô cùng ngạc nhiên.
Đặng đứng phắt dậy, dáng người cao lớn
trong bộ đồ bay của phi công. Người đàn bà vẫn ngồi ở quầy chú úy nhìn
Thụy, thấy
anh bối rối, bà ta mỉm cười.
Thụy cũng mất một vài giây mới nhớ
được rõ hơn về người bạn. Đặng và Thụy cùng học khóa 69B ở Nha Trang.
Đặng đã trở thành phi công, còn Thụy về Bộ
Binh.
Bây giờ, bàn của mấy chàng phi công
có thêm Thụy nữa. Đúng lúc có sự hiện diện của Thụy, họ ngưng, xếp lại
bộ bài
không chơi nữa.
Đặng
gọi cho Thụy một ly cà phê. Bên ngoài cửa, trời đang
mưa nhỏ hạt. Chỉ
trong ít phút, người đàn bà đem cà phê ra. Cà phê đã pha sẵn, chỉ cần
cho thêm
một lớp sữa mỏng.
Đặng
mỉm cười nhìn Thụy. Và, đợi Thụy uống nóng hớp cà
phê, xong rít vài hơi
thuốc, hắn mới hỏi:
-Vì sao mầy
bị ra bộ binh ?
Thụy cười, hỏi:
-Đoán thử
coi?
-Bị kỷ luật.
-Không đúng.
Tao rớt Anh ngữ .
-Trời, thi
Anh ngữ sao để rớt ông ?
-Trật bùa.
Nhưng rồi, một cách thẳng thắn, Thụy
kể lại rành rẻ trường hợp của mình cùng năm mươi bạn khác nữa. Bây giờ đây, ngồi quanh Thụy là Đặng, bạn cùng
khóa 69B, rồi Trạc, Huỳnh , Phú, đều là phi công bay loại phi cơ quan
sát. Thực
sự, cả bốn anh chàng này thuộc phi đoàn 110 ở Đà Nẵng, nhưng do nhu
cầu, phi
đoàn trưởng đã cử một biệt đội vào Quảng Ngãi tăng phái cho Sư đoàn 2.
-Thời gian ở
đây lâu không ?
-Tụi tao vừa
mới đến.
Thụy trở nên tự nhiên với mấy người
bạn. Anh cảm thấy vị ngọt của sữa, và mùi thơm cà phê là ngon hơn cả.
Tối hôm ấy, cả đám rủ nhau ra phố
chơi, đi ăn tối, rồi và tiệm bi da, đến khuya mới trở về.
Thuyên vẫn chưa ngủ, anh nằm đọc
báo. Khi Thụy trở về, Thuyên rời giường ra mở cửa, lúc đó, Thụy hết sức
bối rối,
nhưng Thuyên hiểu bạn, anh tỏ ra cởi mở.
Bây giờ, Thụy mới chú ý đến chiếc kệ
dã chiến của Thuyên. Chiếc kệ cao hơn một mét, ba ngăn, trên mặt kệ để
các thứ
linh tinh, rồi ngăn thứ nhất là một số sách truyện và cả sách học về
Luật, ngăn
thứ hai : các tạp chí văn nghệ có Văn, Văn Học, Bách Khoa. Số báo Văn
nhiều hơn
hết, và ngăn dưới cùng là những tờ nhật báo và báo Chiến sĩ Cộng Hòa.
Cũng có
vài ba tờ báo Lý tưởng, bìa ngoài giấy láng, màu xanh da trời.
-Anh có viết
lách gì không ?
-Không,
Thuyên đáp.
-Anh chắc đọc
nhiều.
-Ở nhà tôi
có khá nhiều sách truyện.
-Quê anh ở
đâu ?
-Tôi ở Tân
Uyên.
-Một quận của
tỉnh Biên Hòa.
-Anh nói
đúng.
-Tôi có thời
gian ở Biên Hòa .
-Anh dạy học
hay làm công chức ?
Thụy nói qua với Thuyên một chút về
mình. Sau những lời của Thụy, Thuyên gật đầu hiểu. Hai người đứng cạnh
nhau bên
chiếc kệ. Thuyên cảm thấy vui khi những sách báo anh chưng bày được sự
quan tâm
của người bạn, và lúc này, Thuyên thấy Thụy đang muốn tìm một đề tài
nào đó
trong những tạp chí sắp ở hàng kệ thứ nhì.
-Anh đọc thứ
gì, cứ lấy đọc.
Thụy quay sang hỏi:
-Thực sự anh
chỉ đọc thôi, chứ không viết lách gì cả.
-Không.
-Mình hiểu
nhau, anh đừng quá khiêm tốn.
-Không đâu.
-Anh có trà
không ?
-Có.
-Làm một ấm,
anh em mình chuyện trò.
-Dễ dàng.
Thuyên đi lấy nước và nấu bằng
résistance. Chừng ít phút, nước sôi,
Thuyên tắt công tắc xong đổ nước sôi vào
ấm nhôm đã có sẵn trà.
-Anh ở Sư
đoàn lâu chưa ?
-Hơn một
năm.
-Từ ngày ra
trường ?
Thuyên gật đầu. Khi trà uống được,
Thuyên rót vào hai cái ly nhỏ, thứ ly cũng dùng để uống cà phê buổi
sáng.
Một hớp trà đậm ngon, Thụy hỏi:
-Anh Thuyên
đã có vợ con chưa ?
-Chưa.
-Tôi cũng
chưa.
-Không có gì
quan trọng cả.
Hai người bỗng im lặng nhìn nhau cười.
Thụy hỏi:
-Anh quen
nhiều anh em văn nghệ ở đây không ?
-Có biết
thôi, không quen ai cả.
-Những bạn
đó có thơ và truyện đang trên Văn.
-Ờ, đại khái
biết họ qua sự xuất hiện tên trên báo.
-Tôi cũng
như anh. Nhưng nói chung, anh em văn nghệ ở miền trung rất là chí tình.
-Họ dễ
thương lắm. Anh có viết lách gì không ?
-Tôi có viết,
tính cách văn nghệ thôi.
-Viết được
cũng là niềm vui.
Thụy châm điếu thuốc, rồi giọng chậm
rãi nói:
-Rồi đây,
tôi sẽ viết khác xưa rất nhiều. Tôi sẽ viết về chiến tranh, vì đã đến
lúc mình
có sự hiện diện. Tôi vẫn nghĩ rằng, sự quan trọng của người viết tiểu
thuyết,
là nhìn được tận mắt các sự vật, các bối cảnh và hiểu về nó một cách
trung thực.
Thuyên nói:
-Tôi đọc anh
em trẻ viết khá nhiều, nhưng tựu trung, vẫn chưa có được mấy người nổi
bật.
Thụy nghĩ ngợi hơi mông lung. Bỗng anh
quay sang hỏi Thuyên:
-Anh buồn ngủ
chưa ?
-Chưa.
Thụy nói:
-Ít ra, tôi
cũng ở đây với anh đến cả một tuần mới ra Trung đoàn.
Thuyên cười:
-Sao anh
không nghĩ, là anh sẽ làm việc ở đơn vị này, vào những ngày sắp tới.
-Không, chắc
là không, anh Thuyên.
-Tôi rất
mong anh ở đây. Để tôi cố gắng.
Bên ngoài cửa, đột nhiên có đèn xe
lóa sáng, một chiếc xe Jeep đang chạy chậm, tới gần hơn, rồi ngừng lại
ở trước
một căn phòng kế bên . Không lâu, máy xe ngừng nổ, và đèn tắt.
III
Hai ngày sau, Trung úy Thành đưa Thụy
qua ở khu cư xá vãng lai. Phòng ở tập thể có tám chiếc giường sắt trải
nệm,
tương đối rộng, thoải mái. Thêm bốn bạn nữa mới đến, nhưng tổng số hai
mươi người
chưa hiện diện đủ. Buổi sáng đến phòng Tổng quản trị, vẫn không có tin
tức gì mới,
chốc lát sau, viên Đại úy phụ tá cho anh em về. Từ cổng chính ra phố
cũng gần,
Thụy lang thang dọc theo phố chính, nơi anh thường hay ghé là quán cà
phê và cửa
hiệu sách. Phố chính dọc quốc lộ I, trải dài hơn một cây số là nhà ở
sát liền
nhau, vừa là các cửa hiệu buôn bán, cảnh sinh hoạt trong thị xã không
có vẻ xô
bồ, huyên náo, nhưng thật đều đặn, dễ chịu với cuộc sống thường nhật
cho mọi
người. Buổi chiều, sau giờ tan sở, quán xá trông có vẻ đông vui, tấp
nập. Ở gần
Ty Bưu Điện có nhiều quán ăn ngon, giờ này khách ngồi đôngchật ở bên
trong và cả
bên ngoài. Ngày đầu tiên, Đặng đãi bạn
ăn nem nướng và bún chả ở đây, ngon tuyệt. Bữa ăn ngon đó, hai bạn uống
hết nửa
két bia khổ lớn.
Trời mưa, nhưng các phi vụ hành quân
vẫn thực hiện. Khi trở về, có lúc, phi cơ của Đặng đáp xuống phi trường
Chu
Lai, hoặc trở lại Quảng Ngãi. Vẫn cùng đang độc thân, nhưng Thụy thấy
mình
không thể so sánh với Đặng. Đặng ra trường
với cấp bậc Thiếu úy, ngoài lương căn bản, Đặng có thêm tiền phụ cấp
bằng phi
công, tiền ăn trưa, và có cả thời gian hai tuần nghỉ dưỡng sức ở Đà
Lạt. Còn Thụy,
đồng lương Chuẩn úy cần kiệm lắm cũng chỉ đến tuần lễ thứ ba là sạch
túi, trông
chờ đến tháng lương tới. Nhưng đấy là chuyện riêng mỗi người, rất nhỏ
nhặt. Giữa
hai người tình bạn cùng khóa trong mấy tháng ở quân trường vẫn giống
như cái bắt
tay rất thật tình với sự nồng ấm, tin cậy, để mà giã từ, để mong còn
gặp lại.
Đặng hỏi:
-Anh em
trong khóa ra Bộ Binh đông không ?
-Năm mươi
người.
-Ở Nha Trang
có bốn đứa bị loại ?
-Vì sao ?
-Kém khả
năng bay.
Ngồi trong quán nước, sáng chủ nhật
trời mưa rả rich, nhạc Trịnh Công Sơn mỏi mệt, vừa khô đắng với giọng
hát đến cạn lời của Khánh Ly làm cho Thụy
cảm thấy
lòng mình như chùng xuống, mệt nhoài. Đặng rất điềm nhiên, thật say,
thật lắng
đọng với bao nhiêu nỗi u uẩn, với bao nhiêu câu chuyện tình lãng đãng
trong ý
nhạc lẫn lời ca qua của Trịnh Công Sơn. Bây giờ, Thụy nhớ rõ, ngày mãn
quân sự,
an hem 69B có được hai tuần khóa nghỉ phép, dịp đó, Sài Gòn rộn ràng
đón mùa lễ
Giáng Sinh, rồi qua mới, sáng ngày thứ hai đầu tuần, 218 anh em khóa
69B hiện
diện đông đủ ở trại khóa sinh nằm ở quận Gò Vấp.
Bất ngờ, Đại úy Lê Như
Hoàn xuất hiện, tay cầm
một danh sách về kết quả thi đậu giai đoạn 2 quân sự. Sau khi điểm danh
xong, Đại
úy thông báo cho cả khóa biết, là Bộ Tư Lệnh sẽ chọn ba mươi người đậu
theo thứ
hạng ra Nha Trang học khóa bay Cessna.
Rồi, đích thân viên Đại úy tên trên
danh sách đánh máy. Lần lượt, những bạn có tên bước ra, Đặng là người
thứ sáu.
Chỉ một khoảng cách trong và ngoài
có mấy mét, mà tâm trạng anh em cùng khóa lúc đó như là hai bờ sông bị
ngăn
cách.
Danh sách đọc xong, một phút trong sự
ngỡ ngàng, yên lặng.
Bỗng nhiên có bạn hỏi:
-Nếu không
xin ra Nha Trang, ở đây, học Anh ngữ để đi Mỹ được không Đại úy ?
Hướng về anh bạn mới đặt câu hỏi,
viên Đại úy đáp:
-Anh có quyền
chọn.
Lúc hai bên hàng quân đứng trong và
ngoài có tiếng xì xào, viên Đại úy lên tiếng:
-Các anh hãy
nhớ, ở binh chủng Không quân về ngành phi hành, tất cả các phi công đều
có được
những dịp xuất ngoại qua Mỹ. Vậy, các anh ra Nha Trang đừng có nghĩ,
mình học
Việt Nam thì sẽ chịu thiệt thòi.
Có hai người xin ở lại, lập tức hai
bạn đậu hạng kế tiếp theo được điền tên vào.
Chỉ một thoáng nhớ, màu khói thuốc
loãng tan. Một giọng nói , Thụy nghe khô, vừa ẩm ướt:
-Lúc đó, tao
mong được học trong nước, nhưng đậu thấp quá ?
-Mầy đậu hạng
bao nhiêu ?
-Bao nhiêu
gì ?, đậu vớt. Không có Đại úy Hoàn, 5 thằng phải ở lại Nha Trang học
tiếp với
khóa sau.
Đặng cười. Trên nụ cười của Đặng, sự
lạc quan thể hiện rõ và đúng với ước mơ của mình.
Mưa bay ngoài đường phố. Mưa thật
bình yên, nhưng nếu ra mưa lúc này chịu lấy cảnh ướt át, không có gì
ngăn được
những tiếng khóc thầm trong lòng Thụy khi anh nhớ nghĩ đến Thúy Hà.
Nàng nói:
-Hôm đó, thấy
anh ướt át, lạnh lẽo, em thương anh quá chừng.
Vào những tháng mùa đông như lúc
này, miền Trung chịu những trận mưa bão là ý của trời. Ngày chủ nhật,
rất buồn.
Vì, ngày đó một trận bão rớt kéo về thành phố làm cho nhiều cây cối
trên đường
phố bị ngã đổ. Trong ngày mưa này không biết làm gì, bất chợt, Giáp đến
nhà
chơi, rồi hai đứa đột nhiên nổi hứng kéo nhau đi ra ngoài nhìn quang
cảnh phố
trong cơn bão. Khi ngang qua trước cửa hiệu nhà Thúy Hà, Thụy trông
thấy bên đường
có đông người xúm nhau lại, hai bạn qua bên đó mới thấy người ta đang
xẻ cây lấy
củi. Trời mưa lạnh, người đàn ông đứng run lập cập, môi lập bập điếu
thuốc bị ướt.
-Mỏi tay rồi.
Gã thiếu niên buông cầm rìu đưa cho
đứa bạn của nó. Gã này lấy rìu bổ xuống cây, xong mỗi nhát, tách những
miếng củi
ra ngoài, phần người đàn ông làm công việc gom lại thành từng bó.
Giáp và Thụy yên lặng đứng nhìn. Bỗng
nhiên, người đàn ông tới gần nói với Giáp:
-Anh bổ giùm
cho mấy em một lát.
Giáp nhìn qua Thụy, bất chợt lòng tự
nhiên thấy vui. Rồi, sẵn sàng, Giáp ra tay. Giáp bổ những nhát rìu
xuống thân
cây, từng nhát chắc và mạnh. Một lúc sau đến lượt Thụy. Người đàn ông
nhìn Thụy
bổ củi với sự cảm thông, hài lòng.
-Xin mời ai
anh hút điếu thuốc.
Thụy và Giáp hút thuốc trong lúc hai
cậu thiếu niên cầm lại rìu, thay nhau bổ. Mưa chợt tạnh, trời lặng bớt
gió. Vừa
có ý định xuống phố chơi, bất ngờ, Thụy trông sang bên kia thấy cửa
hiệu mở cửa,
và cả nhà Thúy Hà cùng ra ngoài để nhìn
cảnh tượng bão. Thụy đứng trong đám đông bên này trông thấy nàng, anh
có chút
ngượng ngùng. Rồi bên kia, cả nhà cũng trông thấy anh. Vũ cất tiếng gọi
tên
anh, anh liền để Giáp ở lại băng qua bên kia đường. Thụy vượt qua đường
trong sự
thấm lạnh của quần áo, và vẻ ướt át trên gương mặt. Càng tới gần, nhìn
những
người thân trong gia đình anh cố gượng cười, vừa cảm thấy có chút lửa
ấm. Cả
gia đình cũng yên lặng nhìn lại anh, rồi lúc anh bước tới gần, ông Kha
lên tiếng
hỏi:
-Họ có trả
tiền cho cậu không ?
-Dạ. Cháu và
người bạn bổ giúp thôi.
-Nói họ trả
tiền công hẳn hoi.
Thụy bối rối, anh thấy Thúy Hà nhìn
anh rất lâu.
Ngày nào đó, xa xôi, hay vẫn luôn cảm
thấy gần.
-Em thương
anh quá chừng ?
Thụy vẫn nhớ mãi lời Thúy Hà nói.
-Mầy ra trường
lâu chưa ?
-Vừa đúng ba
tháng.
-Tụi nó đi Mỹ,
đã về hết chưa ?
-Mới quá một
nửa.
Đặng bỗng mở dây kéo, cho tay vào
túi trên chiếc áo bay lấy ra một phong thư.
-Nhớ thằng Lạc
không ?
Thụy để mất ít giây, mới gật đầu.
-Nhớ.
-Thư của hắn
đây.
-Mới hay là
cũ.
-Nhận lâu
chưa ?
Đặng cười, rồi bảo Thụy:
-Mầy đọc thư
của nó đi.
Thụy cầm lấy thư, mở ra đọc. Thư người
bạn khá dài, qua đến hai phần ba trang sau. Nửa đêm, Lạc cùng với mười
khóa
sinh nữa lên máy bay của hãng hàng không Pan Nam rời phi trường Tân Sơn
Nhất.
Trong chuyến đi, họ gặp đông lính Mỹ hồi hương và nghỉ phép. Tới Nhật,
phi cơ hạ
cánh xuống phi trường Tokio để tiếp nhiên liệu. Sau hai giờ nghỉ,
chuyến bay tiếp
tục cuộc hành trình, trực chỉ đến căn cứ Không quân Travis ở Fairfield,
tiểu
bang California. Toán khóa sinh được đón tiếp, tạm trú hai đêm ở motel
ngoài phố
Fairfield, rồi được xe ca đưa đến phi trường quốc tế San Fransisco đáp
chuyến
bay đi Dallas, rồi Texas, và đến căn cứ Lackland ở Sanatonio để học và
xác định
lại khả năng Anh Ngữ. Sau bốn tuần, những khóa sinh cùng đi chuyến bay
với Lạc
được đưa qua trường bay. Trong số này, Lạc và hai người nữa, học về
trực thăng.
Trường bay Fort Wolters dạy lái trực
thăng nằm ở thành phố Fort Worth, khóa sinh bắt đầu học lý thuyết và
học bay loại
phi cơ TH55 có hai chỗ ngồi. Mỗi lớp có khoảng 20 đến 30 khóa sinh, và
mỗi ông
thầy Mỹ dạy hai người, thầy ngồi ghế trái, học trò ngồi bên ghế phải.
Thời gian
học 16 tuần lễ. Học lái trực thăng gồm có: cất cánh, hạ cánh, đang bay
cao tắt
máy để đáp khẩn cấp, rồi làm hovering để cho máy bay đứng yên một chỗ
cách mặt
đất khoảng một mét, đây là trường hợp áp
dụng ngoài chiến trường để đổ quân hay tiếp tế vật dụng loại nhẹ. Sauk
khi tốt
nghiệp giai đoạn học TH55, khóa sinh sẽ được đưa đến trường bay Fort
Hunter Army
Airfield, Savannah ở tiểu bang Georgia để học lý thuyết và học bay loại
UH1. Thời
gian học loại máy bay này 18 tuần lễ, cũng một thầy hai trò, nhưng huấn
luuyện
loại này, hai khóa sinh cùng lên phi cơ với ông thầy một lúc, một học
lái, một
ngồi sau quan sát. Đến tuần lễ thứ 19 là thi ra trường. Những khóa sinh
trong
giai đoạn chót này đều rất lo lắng, căng thẳng, nhưng cũng dễ dàng vượt
qua, vì
lâu nay, đã làm quen với chiếc phi cơ. Bài thi thực hành, người thầy
khảo sát
khả năng của khóa sinh rất nghiêm nhặt với từng phần, từng động tác, và
khóa
sinh không để bị mắc lỗi, phải đạt tới sự hoàn bị. Kết thúc kỳ thi tốt
nghiệp,
trường cho khóa sinh làm lễ ra trường. Trong ngày này, khóa sinh sẽ
được gắn
cánh bay cấp phát hai văn bằng tốt nghiệp.Vậy là, học ở Mỹ, trở thành
một phi
công trực thăng, khóa sinh nhận được bốn văn bằng cho cả hai loại phi
cơ huấn
luyện TH55 và UH1.
Đặng vẫn ngồi yên, cảm khái những bản
nhạc của Trịnh Công Sơn qua giọng hát Khanh Ly. Một đôi câu, Đặng hát
theo như
thể đang một mình theo dòng nhạc truyền cảm, không
để ý Thụy Đang đọc lá thư của Lạc. Thụy đọc cẩn
thận qua từng giòng, hình dung ra những bối cảnh, những người bạn, đôi
lúc tưởng
mình đang cho chiếc máy bay cất cánh, rồi máy bay lên cao và anh được
thấy
không gian rộng mở khắp cả bầu trời.
Thụy gấp lá thư , hỏi bạn:
-Lạc về nước
chưa ?
-Chưa.
Thụy không hỏi thêm. Một giọng xa vắng,
Thụy nói:
-Mới ngày
nào đó, hai năm trôi qua rồi.
Không khí trong quán trở về yên lặng.
Ngoài đường phố, trời vẫn đang mưa.
-Còn nhớ kỷ
niệm ở quân trường không ?
-Vẫn nhớ chứ.
-Khi bọn tao
trở ra lại ngoài đó, Đại úy Hoàn đi học tham mưu cao cấp .
-Ai thay thế
làm Đoàn trưởng ?
-Đại úy
Bình.
-Có dễ chịu
không ?
-Khác rất
nhiều với thời Đại úy Hoàn.
Thụy lại cho Đặng hay, thời mình còn
là lính, thời gian mới học xong khóa chuyên môn về trình diện ở TACC,
anh có gặp
Đại úy Hoàn, lúc đó hẳn còn đeo lon Thiếu úy. Buổi gặp ấy vào lúc trưa,
Thiếu
úy Hoàn rời phòng làm việc đi ra với hai người bạn, chỉ mình ông mặc đồ
bay,
đeo qua người một dây da có đầy băng đạn và cây súng lục để trong bao.
Vừa nhìn
thấy, Thụy như dừng bước để được nhìn và ngưỡng mộ cái phong cách hiệp
sĩ của
người phi công. Thế rồi, khi Thụy trở thành khóa sinh đi học ngành hoa
tiêu,
viên Thiếu úy trẻ ngày ấy đã trở thành một vị Đoàn trưởng và mang cấp
bậc Đại
úy. Thời gian ba tháng ở Nha Trang, khuôn mặt ông là một hình ảnh tiêu
biểu mà
Thụy ước mong mình thể hiện được.
-Người anh lớn
của tao học cùng lớp với Đại úy Hoàn .
-Rồi cũng là
phi công ?
-Không, hai
người học ở trường Pellerin, cùng một lớp.
Thụy chợt nhớ đến ngôi trường này ở
Huế, nằm bên cạnh một dòng sông. Còn thành phố biển Nha Trang, kỷ niệm
trong mấy
tháng quân trường là một cuốn album còn
giữ nguyên vẹn những tấm ảnh.
Sau bữa ăn trưa Thụy rời phạn xá,
không về phòng mình mà đến thẳng văn phòng Liên đoàn để ngồi trực. Trời
dịu nắng,
trên đường đi, anh thoáng nhớ lại những ngày trước đây khi anh anh còn
là người
lình, và sau đó là khóa sinh học chuyên môn. Kể ra, với Nha Trang thành
phố này
cũng đã trở nên quen thuộc, còn quân trường, có vài cảnh tượng đổi thay
để cho
Thụy có cảm tưởng như chính đã thực đổi thay vậy. Thụy không cố ý làm
dáng,
nhưng với quân phục, dáng đi, nó đã khoác lên hình ảnh con người anh
một phong
cách mới lạ, trẻ trung. Rồi, để xóa mặc cảm là người lính cũ, anh đã
thực hành
theo cái nế sống sinh động của tuổi trẻ qua những người bạn trong cùng
khóa là
thành phần sinh viên trí thức.
Về tới văn phòng, Thụy đi qua lối cửa
bên, và lúc thấy anh về, người bạn đang trực đứng dậy.
-Tôi đi ăn
nghe.
-Rồi, đi đi.
-Hôm nay ăn
gì.
-Có thịt hộp
và canh chua.
Người bạn đi ra ngoài, Thụy kéo ghế
ngồi xong cầm tờ báo Lý tưởng cũ mở ra đọc. Một lúc sau, bỗng nhiên có
tiếng hỏi:
-Anh cũng có
học trường Pellerin ?
Thụy bỏ tờ báo, vừa quay lại thấy Đại
úy Đoàn trưởng đứng sau lưng. Vừa nhổm người đứng lên để chào kính, vị
Đại úy
ra hiệu cho anh ngồi tự nhiên.
-Dạ, em có học
ở đó.
-Lúc anh học
ở đó, frère Bonard còn làm Hiệu trưởng không ?
-Thưa không,
Đại úy.
-Anh học bên
Moderne, hay Classique. ?
Ly cà phê nóng còn lên khói. Giữa
hai ngón tay, điếu thuốc còn cháy đỏ đóm lửa. Viên Đại úy đứng bên Thụy
với
gương mặt cương nghị, hòa nhã. Và, ông đang chú tâm nghe Thụy nói:
-Năm em học,
trường đã đổi tên, chuyển hẳn qua chương trình Việt và phân ra ba ban
A, B, C
như các trường ngoài. Tuy vậy, môn tiếng Pháp, frère quản lý Harman
dạy, chỉ
nói toàn giờ bằng tiếng Pháp.
-Anh học bao
nhiêu năm ?
-Có một năm
thôi, Đại úy.
Viên Đại úy nhìn Thụy, ánh mắt rất
thiện cảm. Khi ông kéo chiếc ghế ngồi, câu
chuyện được
nói đến, kỷ niệm đầu tiên để nhớ là Huế và những bạn cùng thời. Thụy
cảm thấy
vui trong lòng với mỗi câu chuyện, trong đó, thời gian của Huế là những
tháng
ngày yên bình. Huế đó, từng nhánh sông nhỏ, mỗi nhánh sông chảy qua rất
nhiều
cây cầu. Và cứ mỗi cây cầu, lại có riêng
một tên gọi.
-Mẹ tôi mất
sớm. Tôi rời Huế và rời ngôi trường Pellerin sau bảy năm học ở đó. Tôi
vào Nha
Trang, sau đó là Sài Gòn, rồi gia nhập binh chủng Không quân. Tôi thuộc
khóa
61A. Tôi cũng có sáu tháng ở trung tâm huấn luyện này rồi lên đường đi
Mỹ. Qua
đó, tôi học ở trường bay của Hải quân về loại phi cơ chiến đấu. Khi tôi
trở về
nước, vừa đúng lúc xảy ra biến cố đảo chánh 1/11/63. Sau biến cố này,
như anh
cũng thấy rõ, không biết bao nhiêu là xáo trộn cả quân sự và chính trị.
Bởi sự
kiện này, miền Nam bất an, và cuộc chiến tranh ngày càng leo thang. Khi
người Mỹ
đã nhảy vào, xen vào nội bộ của chính phủ miền Nam, thì Hà Nội lấy cớ
này để
gây hấn.
Chỉ ít giây yên lặng, Thụy bỗng nhận
ra gương mặt của viên Đại úy phảng phất một vẻ buồn.
-Tôi không
trở lại Huế từ ngày ra đi. Nhưng tôi vẫn gởi lại thành phố đó thời tuổi
trẻ của
tôi. Tết Mậu Thân, anh ở đâu ?
-Dạ, em ở
Biên Hòa. Thưa Đại úy, em là lính cựu Không quân, trước đây em làm việc
ở Trung
Tâm Không Trợ III.
-Vậy à.
Nhưng tôi nhận ra, anh hiếu học, đọc sách khá nhiều.
-Vâng, em có
đọc sách, thường là loại sách truyện.
-Tôi trở lại
Huế, nói cho anh hay, năm Mậu Thân thực kinh hoàng. Người Cọng Sàn tàn
ác quá.
Biết bao nhiêu thường dân vô tội bị chúng giết và chôn sống .
Thụy nghe tiếng ông chậc lưỡi, sau
đó tiếp lời.
-Hai người bạn
học cũ với tôi đã chết trong biến cố thảm sát này.
-Hai người bạn
cũng ở trong quân đội.
-Không, họ
là nhà giáo.
Thụy cảm thấy phân vân, bỗng hỏi:
-Tại sao người
Mỹ họ không muốn đánh thắng Cọng Sản ?
-Không muốn
thắng, anh nói đúng. Người Mỹ vẫn nghĩ rằng, nếu thực sự đánh, hai nước
đàn anh
của Hà Nội là Trung Quốc và Nga sẽ nhảy vào. Luôn luôn, làn sóng của
chủ nghia
Cộng Sản vẫn đe dọa người. Không ở Châu thôi, cà Châu Á nữa.
-Năm Mậu
Thân, hai bên Mỹ và Hà Nội đã mở cuộc hòa đàm, nhưng đến lúc này hầu
như ngưng
trệ.
-Anh biết
không, tôi vẫn lo ngại cho miền Nam trong hiểm họa của cuộc chiến này.
Với một giọng thân tình, vừa ngưỡng
mộ, Thụy nói:
-Trong chuyến
bay Bắc phạt đầu tiên, phi công Việt Nam thực hào hùng, oanh liệt.
-Anh có nhớ
ngày lịch sử đó không ?
-Ngày 8
tháng 2 năm 1965. Ngày này sẽ ghi trong quân sử và trận đánh được ghi
vào lịch
sử.
-Anh có cái
nhìn trung thực.
-Tôi có được
đọc các bài tường thuật củaphóng viên
báo chí, trong đó, tên của tướng Nguyễn Cao Kỳ, của
Đại úy và những phi
công dự trận đánh này được nhắc đến. Và, sau trận đánh mở màn này,
trong năm
1965, binh chủng Không quân còn biểu dương bao nhiêu trận chiến hào
hùnng trên
không trung nữa. Rất tiếc, người Mỹ đã muốn chúng ta dừng lại.
-Trong cuộc
chiến hiện tại, người Mỹ luôn chị những ảnh hưởng của chính trị đe dọa.
Họ rất
mạnh về quân sự, nhưng họ không muốn cuộc chiến tranh bùng nổ, lan
rộng, trở
thành thế chiến thứ ba.
-Trước đây,
người Mỹ rất khôn ngoan. Họ đã nhảy vào vòng chiến hai trận giặc lớn
của Châu
Âu và thế giới, và rồi, họ đã được lợi và trở nên giàu có, ai có thể
tranh được
vị trí siêu cường của Mỹ.
-Và, bây giờ,
họ vẫn muốn có chiến tranh, chứ không hòa bình, nhưng trong khoảng cách
vừa phải.
-Em cũng có
ý nghĩ đó.
Thụy vừa nhớ, và đã đọc lại cho mình
những mẩu chuyện, những bài viết cũ trên trang báo, trong hoài niệm của
anh đã
hiện lên một khuôn mặt biểu tượng của người phi công. Viên Đại úy rất
thân quí
với anh, ông là tiếng nói chung của một quân nhân miền Nam rất giàu
tình cảm,
và hơn hết, sự cao cả của ông là thấy mình luôn luôn mang trách
nhiệm.Trước
tiên, ông trách nhiệm về chính mình. Trong chuyến bay đầu tiên ra miền
Bắc, phi
cơ ông không thả bom xuống những vùng dân cư ở, mà, đánh vào các mục
tiêu quân
sự, những nơi ấy là các kho vũ khí, tiếp
liệu, những cây cầu chiến lược mà phía Hà Nội sử dụng để chuyển quân
vào miền
Nam. Rồi đến ngày đảm nhân chức vụ Đoàn trưởng coi toàn thể các tân
khóa sinh
và sinh viên của các khóa, ông đã cầm lấy trong tay những vui buồn của
họ, và
chính ông ấp ủ một ngày mai về những tương lai của họ.Vol de nuit, cuốn
tiểu
thuyết đoạt giải Fémina năm 1931, có lời viết tựa của nhà văn André
Gide, là
tác phẩm hay nhất trong sự nghiệp Saint Exupéry. Trong
cuốn này, tác giả kể ra câu chuyện một
người phi công, n hiều đoạn văn hayEt
maintenant, au Coeur de la nuit, comme un veilleur il découvre que la
nuit
montre l'homme; ces appels, ce lumières, cette inquié tude. Cette
simple étoile
dans l'ombre: l'isolement d'une maison. L'une s'éteint: c'est une
maison qui se
ferme sur son amour - và bây giờ, trong đêm sâu, như một người canh
tuần, anh
ta nhận thức được đêm tối xác định sự hiện hữu của con người qua những
tiếng gọi,
ánh đèn hay sự lo âu của họ. Chỉ một vì sao trong bóng tối: một ngôi
nhà nằm
đơn độc. Một vì sao vụt tắt: tình thương tỏa ra từ một ngôi nhà vừa
được khép lại.
Fabien là một phi công, anh ta được giao phó nhiệm vụ chuyên chở thư từ
và hàng
hóa trong những chuyến bay đêm đầy nguy hiểm. Thời kỳ xa xưa ấy, mới là
buổi
ban đầu của ngành hàng không, các loại phi cơ và những dụng cụ hàng
không còn
thô sơ nên khi chiếc phi cơ cất cánh lên vùng trời, người phi công có
thể nhìn
thấy cái đẹp huyền nhiệm của không gian, nhưng đồng thời cảm nhận đó
cũng là những
cạm bẫy chết người. Núi, sông biển, những cánh đồng, những đàn cừu,
những dãi
cát vàng của sa mạc, những ngôi nhà được ví như ánh sáng của ngọn đèn,
đó là sự
hiện hữu của đất liền mà con người có được sự gắn bó. Còn mây, nó tạo
nên được
dáng vẻ một thành phố, sự trắng xóa của bầu trời, đó là một thế giới
của trí tưởng
tượng. Thế giới ấy, cũng là thế giới của người phi công. Fabien, nhân
vật được
tác giả tạo nên người phi công trong cuốn truyện kể này. Bay từ độ cao,
nhìn những
cánh đồng mây giống như biển cả huy hoàng, nhưng ở dưới lớp mây xa hơn
là hư
vô. Một mình gữa muôn vàn tinh tú, Fabien cảm thấy như chỉ còn liên lạc
được với
thế giới của loài người qua làn sóng của máy truyền tin hay ánh đèn leo
lét của
một ngôi nhà nào đó thật xa trong đêm khuya. Trong bóng tối bao la mờ
mịt, mỗi
ánh đèn là một dấu hiệu của lương tri. Chốn này, người ta đang đọc
sách, người
ta đang suy tưởng, người ta đang thổ lộ tâm tư. Nơi kia có lẽ người ta
đang dò
dẫm không gian, người ta đang mỏi mòn trước những con số, tính toán mãi
về tinh
vân Andromède. Ở một chốn nọ, người ta đang yêu đương, và đó đây, lác
đác trên
cánh đồng, những ánh lửa đang đòi hỏi được nuôi dưỡng, giữ gìn. Cho đến
cả những
ánh đèn kín đáo nhất, của nhà thơ, của nhà giáo, của người thợ mộc.
Nhưng rồi,
khi ánh đèn đó được tắt đi, sư liên lạc mong manh với loài người cũng
không
còn, và tình người mà nhà văn viết từ trong cuốn Terre des homes, tình
người mà
nhân vật Fabien cảm nhận qua ánh đèn của một ngôi nhàcũng biến mất. Đó
cũng là
chuyến bay đêm cuối cùng của Fabien, vì máy bay lâm nạn, anh không bao giờ trở về nữa.
IV
Dưới cơn mưa buổi sáng, hai mươi anh
Chuẩn úy mới ra trường đang đứng ở mái hiên ngoài của Phòng Tổng quản
trị sư
đoàn chờ đợi xe đến bốc đi. Tất cả ra Trung đoàn, mỗi Trung đoàn nhận
năm tân
sĩ quan. Trong số này, tuổi Thụy đã gần 27, còn các bạn khác cùng xấp
xỉ chừng
20 đến 22.
Thụy là người trình diện sớm nhất. Từ
hôm đến, cho tới lúc này sắp lên đường, anh đã sống qua mười ngày ở
đây, tương
đối rất dễ chịu. Ngày nào, trời cũng mưa, không vào buổi sáng thì cũng
đến lúc
chiều. Những ngày chờ đợi, Thụy chỉ thấy mình qua cảnh tượng của một
anh lính
đi lang thang trên phố, vào quán cà phê, ghé tiệm ăn, đến tối, để dỗ
giấc ngủ cầm
một tờ báo đọc cho đến lúc cảm thấy mỏi mắt, mới tắt đèn.
Nơi thị trấn xa lạ này, mới đặt chân
tới lần đầu, hẳn nhiên có biết bao nhiêu mối cảm nhận làm lay động ý
tưởng và dễ
gây cho tâm hồn mình một sự xôn xao, thầm lặng, thế nhưng, Thụy đã
không thể hiện
được gì cả. Anh chẳng ước ao viết ra một truyện ngắn, không mong tìm
gặp các bạn
văn, và cũng không cảm thấy đơn độc để rồi nghĩ đến những mối tâm sự mà
viết
thư gởi cho nàng Thiên Nga và Thúy Hà. Trong lòng Thụy, từ nay, ít
nhiều gì
cũng mong muốn Thúy Hà hãy quên mình đi, tất cả, với anh và cả nàng
nữa. Về
Thiên Nga, nàng đã là chị dâu của anh rồi đó, nhưng anh vẫn có chút
rung động về
nàng, mỗi khi nhớ nghĩ đến. Hình ảnh Thiên Nga đẹp mãi, vẻ đẹp ấy là
đóa hoa trắng
của nụ cười, là muôn thủa của dòng sông.
-Thụy có đủ
áo ấm chưa ?
-Có chiếc áo
jacket đang mặc đây .
-Một cái
không đủ đâu ? Để mình đan cho Thụy áo len.
-Anh Nguyên
có chưa ?
-Có rồi.
Trưa hôm ấy ngồi uống cà phê với
nàng, Thụy có cảm giác như câu chuyện muốn viết, đã viết nên được nguồn
cảm xúc
và sáng tạo trong đó chính là tiếng nói của nàng.
-Sao chị bỏ
không học đàn dương cầm.
-Những năm ở
trường Mỹ Thuật, rồi lo học thi Tú Tài chiếm
quá nhiều thời gian nên mình tạm ngưng.
Một giọng vui, Thụy nói:
-Hình ảnh của
chị đã là một bản đàn dương cầm rồi.
Nàng bảo:
-Bạn khen
mình nhiều quá.
Nói xong, đôi mắt nàng nhìn qua anh.
-Chị có ý định
xin vào Đà Nẵng dạy không ?
-Mình đợi
anh Nguyên, nhưng chắc cũng trở về lại nhà.
-Về lại nhà,
chị gần với Mỵ Châu hơn.
-Mỵ Châu
cũng rất cần đến mình.
Cũng như anh Nguyên, chị Thiên Na,
Thụy rất muốn xem Mỵ Châu là em gái của mình.
Bỗng nhiên cơn mưa thêm nặng hạt.
Chiếc xe GMC xuất hiện, chạy rất chậm , rồi ngừng.
Người lính xuống xe, đến trình diện
viên Thiếu Tá.
-Anh vào
trung đoàn 3 trước, xong trở ra.
-Bao nhiêu
người Thiếu Tá ?
-Hai mươi.
-Mỗi người đều
có sự vụ lệnh riêng.
-Không, sự vụ
lệnh từng toán đến Trung đoàn.
Xe đang ngừng và đợi đến lúc ngớt
mưa.
-Rồi, xin
các anh lên xe.
Viên Thiếu Tá nói xong, ông bắt tay
một vài anh em đứng gần.
Thụy nhường các bạn lên trước. Anh
lên sau cùng và ngồi ở băng ghế bên trái.
Viên Thiếu Tá đưa cao tay chào tạm
biệt. Bên cạnh có một vài Sĩ quan, họ đứng hút thuốc, trên mỗi gương
mặt tỏ lộ
sự yên tâm như vừa trút xong gánh nặng.
Trời mưa trở
lại. Từ con đường chính này, xe hướng ra cổng. Khi vào quốc lộ I, xe rẽ
trái.
Người bạn ngồi gần Thụy hỏi:
-Anh đi
Trung đoàn nào ?
-Trung đoàn
5.
-Trung đoàn
này ở Tuần Dưỡng.
-Xa không ?
-Ra phía
ngoài Quảng Tín.
-Gần quân
Thăng Bình không ?
-Không,
trong này nữa.
Những bạn khác trong xe cũng trao đổi
chuyện với nhau. Một người nói:
-Vào phía
trong là đi trung đoàn 3 và 4.
-Ở đâu ?
-Sa Huỳnh, Mộ
Đức.
Ngồi phía ngoài, mưa tạt lất phất
nhưng Thụy vẫn cảm thấy mình vẫn cần đến ánh sáng, nhìn thấy quang
cảnh, và được
quan sát. Hình ảnh thị xã Quảng Ngãi đã trở nên quen thuộc, như vẫn là
nó nằm
trong lòng Thụy mười ngày qua. Cách đây hai ngày, Thuyên được kỳ nghỉ
phép thường
niên hai tuần. Với dáng người nhỏ, vừa tầm thước, qua mái tóc đen nhánh
lộ sáng
đường rẽ ngôi, trông thấy ngay một con người hiền lành, và trong cặp
mắt, với nụ
cười thầm lặng như để bạn hiểu ngầm. Thuyên có sự cởi mở, nên dễ làm
quen và cảm
thấy thân thiện. Hơn hết, với một giọng nói chừng mực, rõ ràng từng
tiếng, người
này còn cho bạn thấy anh ta có một sự hiểu biết rất là căn bản, chin
chắn.
Khi nhận được giấy nghỉ phép, Thuyên
tìm đến Thụy. Ngày mưa hôm qua và hôm nay trong buổi chiều vẫn yên
lặng, rớt đều
hạt. Thụy tháo sac marin, lấy quần áo ra sắp lại, vừa xong thì bất ngờ
Thuyên
xuất hiện.
-Hôm nay anh
được nghỉ.
-Tôi có giấy
nghỉ phép thường niên.
-Hay quá, tiếng
Thụy reo lên. Chừng nào anh đi ?
-Bạn có rảnh
không ?
-Cứ ở đợi thế
này, làm sao không rảnh.
-Ra phố uống
cà phê được chứ ?
-Không một
ai được quyền từ chối.
Trời đang mưa, nhưng không ào ạt.
Hai bạn mặc ngoài áo mưa, bên trong áo jacket, vừa chuyện trò vừa thong
thả đi
bộ ra lối cổng chính, rồi thẳng đến ngả ba phố chính xong rẽ trái, đến
một quán
cà phê nằm ngay giữa phố chính.
Hai người vào quán, cảm thấy ấm nhờ
ánh đèn. Trong quán, một vài chiếc bàn sâu bên trong có khách ngồi. Lệ
Thu đang
hát, tiếng hát của nàng vang xa những lời gọi của một người tình. Và,
tiếng hát
như còn đeo đuổi theo một hình bóng đang ra đi, mải miết
Với ánh đèn, hơi ấm giữ được lâu. Đứa
gái nhỏ chạy bàn tới gần, Thuyên bảo:
-Cho hai cà
phê sữa.
Thụy bật cháy que diêm mồi điếu thuốc.
-Anh đi phép
bao nhiêu ngày ?
-Hai tuần lễ.
-Ngày đi đường
tính riêng.
Thuyên gật đầu hài lòng.
-Ngày mai
lên đường chưa ?
-Ngày mai
tôi ra Đà Nẵng.
-Lúc này đi
máy bay quân sự dễ dàng.
Đứa gái nhỏ bưng khay cà phê ra. Cà
phê dậy mùi thơm, đang lên khói. Trong lúc hai người cầm cái thìa nhỏ
khuấy lớp
sữa dưới ly, một khúc hát vang lên, vẫn là giọng hát Lệ Thu.
Về đâu nét tàn úa phai mờ duyên xưa
Lòng Thụy nghe, bỗng chùng xuống,
chiếc muỗng cũng dừng không khua động.
-Anh đi đơn
vị nào, biết chưa ?
-Chưa. Tôi
nghe nói Sư đoàn sắp sửa dời đô.
-Hai tháng nữa.
-Đi đâu, anh
biết không ?
-Ra Chu Lai
?
-Ngoài đó có
căn cứ của Mỹ.
-Đã bàn giao
rồi. Đang sửa chữa.
Khói thuốc lượn lờ, phiêu lãng. Những
hớp cà phê ngon miệng, vui thích. Một giọng hóm hỉnh, Thuyên hỏi Thụy.
-Hình như
anh có bà con với Tướng Toàn.
Thụy cười.
-Nếu được bà
con, tôi đâu có ra Trung đoàn, mà làm việc ở Sư đoàn với anh.
-Anh được ra
Trung đoàn 5, gần Huế, dễ về thăm nhà.
-Trung đoàn
5 đóng ở đâu ?
-Căn cứ Tuần
Dưỡng ?
-Cái tên
nghe lạ.
-Phía ngoài
Tam Kỳ, cách thị xã chừng 7 cây số.
-Vậy thì, ra
Đà Nẵng gần.
-Đúng vậy.
Quán ngừng mở nhạc, Thụy hỏi:
-Anh Thuyên
còn học tiếp nữa không ?
-Tôi cũng học
lơ mơ, chưa có chuẩn bị kỹ để đi thi.
-Anh đã xong
năm thứ mấy rồi ?
-Năm thứ
hai.
-Còn hai năm
nữa.
-Với mình,
không có chắc gì cả.
Thụy bỗng hỏi:
-Anh có ra
vùng hành quân không ?
-Ở phòng
nhì, tôi đi hoài.
-Những tờ
báo bên kia, chiến lợi phẩm của Phòng nhì ?
Thuyên gật đầu.
-Nhiều không
?
-Khá nhiều.
Cả thư từ của cán binh CS nữa.
-Tôi có đọc
một cuốn bút ký cán binh của Cục Chính Huấn. Những lá thư đó nguyên văn
hay được
sửa lại.
-Có sửa lại,
chừng mười phần trăm.
-Chữ viết
không thay đổi.
Thuyên cười:
-Ông qua làm
bên tâm lý chiến thì rõ hết.
-Trong trường
cũng đã có dạy.
Hai bạn cùng cười. Rồi một giọng yên
lặng, Thụy nói:
-Tôi có đọc
một số truyện trong mấy tạp chí anh đem về.
-Anh đọc, thấy
sao ?
-Chủ nghĩa
anh hùng ghê gớm quá.
Thuyên biết Thụy còn nói tiếp, nên
anh bạn đang chờ.
-Tôi không
hiểu sao họ viết ngây thơ đến vậy được. Dễ như họ viết, miền Nam đã mất
lâu rồi,
khiến gì cho mấy anh ngoài bưng biền phải lội sông, lội suối, núp dưới
những hầm
hố tránh đạn, tránh bom. Những đám này, khác gì với quân phiến loạn
trong thời
Đệ nhất Cộng Hòa. Còn ngoài Bắc, thanh niên đi B vào Nam, cuồng tín
trong đầu
óc chuyện giải phóng, đánh nhau chỉ vì thù hận, vì quân Mỹ dội bom.
Trong đám
này cũng vậy, thơ văn họ sáng tác để tuyên truyền chiến đấu, để làm
người hùng,
chứ không phải là ý thức về một cuộc chiến.
Thuyên nói:
-Ở miền Nam,
trí thức và sinh viên cũng đã bị chủ nghĩa Cộng Sản mê hoặc.
Có lẽ, Thụy đã bộc lộ mặc cảm cùng với
nỗi phẫn uất của chính mình. Anh nói như là giảng giải khiến Thuyên
cười nhìn anh.
Nhưng sau dó, người bạn cũng gật đầu thông cảm.
-Người trí
thức thiên tả, thân cộng, họ đang sống ở miền Nam ít ra cũng có chút tự
do, cởi
mở, vậy nên họ chỉ luôn nhìn thấy cái mặt trái của chế độ, nhưng đã
không nhìn
thấy mặt trái về chiến tranh.
-Anh còn nhớ
vụ đưa mấy người trí thức qua sông Bến Hải không ?
-Tôi còn nhớ
rõ tên và đọc kỹ các bài báo.
-Anh thấy
người nào cũng sợ hãi, đúng không ?
-Không sợ
sao được, họ cũng quá rõ người Cộng Sàn mà. Và, không ai trong những
người đó
mà không biết đến vụ Nhân Văn Giai Phẩm.
-Thực sự mà
nói, đó là những người của thế hệ trước chúng mình. Hào quang của cuộc
kháng
chiến chống Pháp còn là dư âm vang trong lòng họ. Vì thế, họ còn say
với Việt
Minh , và nhớ nhiều đến miền Bắc, đến mặt trận Điện Biên Phủ.
-Anh nói
đúng. Thế hệ chúng mình hiểu được những mặt trái của chiến tranh nên
vẫn muốn bảo
vệ miền Nam.
-Tôi có người
bạn thân đã chết. Anh ấy là một người viết truyện ngắn tài hoa.
-Ai, anh nói
tên đi.
-Y Uyên.
-Bạn học
cùng lớp anh ?
-Không. Y
Uyên cùng khóa 27 và ở chung với tôi một Đại Đội. Tôi và Y uyên khá
thân nhau.
Ngày ra trường, hai chúng tôi có ghé đến thăm một cô hàng cà phê ở bên
khu sinh
hoạt. Cô ấy cũng khá xinh, và trở thành một nhân vật trong truyện ngắn
của bạn
tôi.
Thụy đỡ lời:
-Tạp chí Văn
có làm một số đặc biệt về Y Uyên nhân ngày giỗ đầu của anh. Tôi có mua
số báo
đó, và đọc hết tất cả những bài viết của bạn bè cùng các bạn văn.
-Tôi và anh
bạn thi ra trường đậu thấp nên người đi Sư đoàn, người ra Tiểu khu. Tôi
làm Trung
đội trưởng , lội rừng cũng hơn một năm, may chạy thuốc để có được chỗ
này yên
thân. Còn Y Uyên, ra Phan Thiết, làm trung đội trưởng đóng đồn ở Nora.
Số Y
Uyên thật run rủi, vừa đúng lúc được SVL về Sài Gòn, một viên đạn tên
du kích bắn
sẻ, anh ngã gục, không kịp trối một lời.
-Hôm đó, Y
Uyên muốn trở lại tiền đồn để được nhớ chiến tranh, nhớ kỷ niệm cũ, và
nhân thể
để nói lời tạm biệt với các chiến hữu. Y Uyên đã có cái thật, sống thật với chiến tranh như là những nhân vật trong
truyện của nhà văn Đức, Erich Maria Remarque. Y Uyên đã xuất bản được
ba tác phẩm:
Bão khô, Tượng đá sườn non, Chiếc xương lá mục. Khi ra được cuốn nào,
anh cũng
gởi tặng cho tôi với lờ đề tặng rất chí tình.
-Trong số tưởng
niệm, anh có viết gì không ?
-Không,
nhưng cái chết của người bạn làm tôi bàng hoàng.
Thụy nhìn vào cặp mắt của Thuyên, đọc
được một sự tưởng nhớ rất chân tình của người bạn.
Y Uyên là một nhà giáo hiền lành.
Trong tâm hồn phong phú của anh có một sự hóm hỉnh rất dễ thương. Những
năm anh
dạy học ở Tuy Hòa, anh được nhiều bạn văn quí mến, và luôn anh sống gần
gũi với
các bạn. Dù, với tên tuổi anh nổi tiếng và tài năng vượt trội, nhưng
anh luôn ở
giữa bạn bè với thái độ cởi mở, thẳng thắn. Người bạn gái của anh là cô
Ngọc,
cũng là giáo viên tốt nghiệp trường sư phạm Qui Nhơn. Thụy quen biết
với Y Uyên
qua tậm trạng của một người đọc. Và, mỗi lần đọc một truyện nắn nhà văn
trẻ này
viết, Thụy luôn cố hình dung ra người đó. Nhưng tuyệt nhiên, chỉ vậy
thôi, anh
không có chút háo hức tìm gặp để được làm quen và kết bạn. Thụy cũng
hiểu rằng,
Y Uyên đã làm hỏng nhiều bạn văn không phải do anh tạo nên, mà do bởi
cái bóng
của anh những người khác cố chụp lấy, níu lấy, và khi bắt được cái bóng
đó thì
tưởng nghĩ rằng đó là chính mình. Và, Thụy còn hiểu thêm một người nữa,
đó là
nhà văn Trần Phong Giao. Tạp chí Văn bán ra được một số lượng lớn ở
miền Trung,
và trong tạp chí này, sự đóng góp của các nhà văn trẻ ở miền ngoài này
rất là
nhiều. Vì muốn khích lệ các nhà văn trẻ hăng hái viết, anh Giao đã có
một sự
bao dung khi chọn bài để đăng, và cố nhiên, những truyện ngắn được đăng
này
cũng tạo được ảnh hưởng tốt đối với độc
giả. Nhưng cái tốt ấy, thành ra hại, khiến các bạn văn trẻ ngoài này
viết gần
như giống nhau, và họ thường mãn nguyện làm nhà văn khi thấy truyện của
mình
đăng ở báo Văn. Từ đó, anh nào cũng ham viết, ham làm nhà văn, không
muốn ngừng
để chịu khó tích lũy trong việc đọc, nghiềm ngẫm sáng tác để viết hay
hơn, độc
đáo hơn. Và rồi, người ta vẫn thấy tên tuổi họ xuất hiện đều đặn như đã
bằng
lòng làm nhà văn trung bình.
Sau cái chết của Y Uyên, nhưng truyện
của anh được tái bản, và được nói tới rất nhiều. Riêng Thụy, đọc và rất
thích
nhà văn này. Truyện của Y Uyên viết, không khí chiến tranh của miền Nam
được mô
tả ở những vùng xôi đậu, nơi đây, những người dân thường lúc nào cũng
thấy sự bất
an ngày cũng như đêm, họ luôn bị bóng ma một cuộc chiến ám ảnh, và nỗi
sợ hãi về
cuộc chiến này đã khiến họ là những con người bị tật nguyền, những con
người bất
bình thường, ở trong cùng một nơi chốn, nhưng họ đã sống dửng dưng,
lạnh lùng,
gần như là vô cảm. Khi đọc truyện của Y Uyên, bạn như chưa biết gì về
một thị
trận, một quận lỵ làng mạc có thực trên bản đồ, mà là đó là một thế
giới riêng
như cái vùng riêng biệt của người du mục. Hình dung nơi ấy, bạn chỉ
thấy một
chiếc xe đò dừng lại bên đường giữa nắng trưa, một con sông đục nước,
chiếc cầu
gãy, cánh đồng khô, chiếc phi cơ đang bay qua đầu ngọn núi, và một đoàn
người
đang đi bộ qua đèo. Trong sinh hoạt, cũng có những buổi chiều ồn ào,
nhộn
vui ở các buổi họp chợ, ở tiếng đùa giỡn
la hét của bọn trẻ con, bọn học trò, và ở nơi quán rượu thường pha trộn
những
tiếng giọng khàn đục của những kẻ chán đời . Tiếng súng nổ cũng có,
nhưng nghe
tiếng súng đó, bạn không thể biết nó xuất phát từ bên phía nào. Và rồi,
cái chết
bỗng dưng xảy ra, trông thấy thật rùng rợn.
Hai người bạn ngồi rất lâu trong
quán cà phê. Ngoài phố, buổi chiều ấy, mỗi lúc trời càng mưa nặng hạt.
Sáng nay, Thụy cùng những người bạn
lên đường trời vẫn mưa.
V
Thụy đã đến đây hơn hai ngày, buổi
sáng ấy trong cảnh trời mưa tầm tã, nặng nề, chiếc xe GMC đã chở hai
mươi tân
sĩ quan lần lượt thả họ xuống các Trung đoàn 3, 4, 5, và 6. Vào lúc năm
tân sĩ
quan trình diện, vị Đại tá Trung đoàn trưởng có dành mười lăm phút để
hỏi qua
sơ yếu lý lịch từng người, sau đó ông ký trên tờ SVL phân phối ; về
Tiểu đoàn 3
hai người, còn lại mỗi Tiểu đoàn một người. Thụy thuộc Tiểu đoàn 1.
Từ ngã ba quốc lộ, một con đường đất
dốc đá và sỏi chạy qua khu gia binh qua một khu nhà tiền chế bỏ hoang,
đến cổng
chính Trung đoàn, khoảng cách đến gần hai cây số.
Căn cứ nằm giữa một quả đồi rộng lớn,
nhìn về hướng núi, trông thấy một vài tiền đồn thấp thoáng trong lớp
mưa và
sương mù của mùa đông. Về hướng đó, bên dưới núi là một ngôi làng nhỏ, tới sát vòng đai là những hàng rào kẽm gai
nhiều lớp được chăng phòng thủ cho căn cứ, nằm giữa những vòng rào này
là bãi
mìn, lựu đạn.
Bộ chỉ huy Trung đoàn nằm riêng biệt
giữa khoảng đồi rộng với một dãy nhà tôn dài, phía trước, phía sau, và
hai bên
được tấn bằng những hàng bao cát để chống pháo kích. Cửa chính có bề
rộng khoảng
hai mét, ngay bên lối vào là phòng thuyết trình, tiếp đến một hành lang
đi qua
những phòng làm việc của Bộ chỉ huy, rộng
nhất đặc biệt là Phòng hành quân với những tấm bản đồ lớn và đủ các các
loại
máy vộ tuyến, điện thoại đường dây nóng. Ở phía đầu hồi, hai căn phòng
đối diện
nhau, một của vị Trung đoàn trưởng một của vị Trung đoàn phó.
Sân bay, vừa là sân cờ của Trung
đoàn. Hôm qua, từ Trung đoàn trưởng đến các Sĩ quan đã đứng thành hàng
ở sân
bay để đón tiếp tướng Lãm Tư lệnh Quân đoàn I ở Đà Nẵng vào, và tướng
Toàn Tư lệnh
Sư đoàn 2 từ Quảng Ngãi ra. Hai vị Tướng này cùng xuất thân trường Võ
Bị Đà Lạt.
Cà hai, cùng ở binh chủng Thiết Giáp, đã có thời gian nhiều năm đi tu
nghiệp ở
trường Saumur bên Pháp. Ngày trước, tướng Lãm là thầy giáo, dạy cùng
trường với
ba của Thụy ở quận Cam Lộ. Trường lấy
tên quận, có năm lớp, thầy Lãm dạy lớp Nhất. Sau hai năm dạy học, thầy Lãm tình nguyện đăng lính vào trường Võ
Bị Đà Lạt. Ra trường, thầy mang cấp bậc Thiếu úy. Rồi, đời quân ngũ của
thầy gặp
vận may, cấp nào cũng có huy chương, có thăng thưởng, và lúc này là một
vị tướng
ba sao. Tuy là một người đã làm nên danh vọng, nhưng ông vẫn giữ tình
thân như
ngày xưa với ba Thụy là bạn đồng nghiệp, cũng như , vẫn còn đó kỷ niệm
những tấm
ảnh, những lá thư của ông trong thời trẻ, thời dạy học, thời đi lính
được gia
đình Thụy cất giữ.
Khu cư xá vãng lai có nhiều phòng, nằm
cách cổng chính khoảng gần năm trăm mét. Nơi này, không chỉ dành riêng
cho các
quân nhân ở xa mới đến nhận đơn vị, còn là chỗ dành cho các gia đình
thân nhân
từ các nơi xa đến thăm chồng. Thụy và các bạn cùng khóa về đây, đã tạm
trú qua
hai ngày đêm. Bên cạnh phòng vãng lai là phòng làm việc của ban 3.
Từ Trung đoàn, năm vị tân sĩ quan
còn đến ban 1 để nhận sự vụ lệnh đi về các Tiểu đoàn. Trưởng ban 1 mang
cấp bậc
Trung úy, người miền Nam. Khi năm vị tân sĩ quan đến, ông ta đón tiếp
niềm nở
và mời trà thuốc, chuyện trò cởi mở. Số quân nhân làm việc ở đây khá
đông, đến
20 người. Trong ban 1, có tiểu ban tuyển mộ do một Thiếu úy đảm trách.
Trong
lúc chờ nhận SVL, Thụy để ý đến công việc của tiểu ban tuyển mộ đang
làm. Anh
Trung sĩ tên Mạnh có mái tóc hớt cao, vẻ mặt còn thư sinh chắc cũng vừa
mới ở
trường Đồng Đế Nha Trang ra đơn vị đang đang kẽ chữ lên một tờ giấy
trắng lớn.
Những hàng chữ thẳng đều và cân xứng. Trên tờ giấy lớn này, anh ta ghi
những điều
lệ nhập ngũ và quyền lợi của quân nhân về lương bổng, phụ cấp, và các
ngành học
chuyên môn. Mỗi tờ viết xong, anh ta dán lên tấm gỗ mỏng, rồi bao ngoài
bằng tấm
nylon dày, trong suốt. Thụy cảm thấy vui, lắng nghe mấy người lính trò
chuyện,
qua đó, Thụy được biết những tấm bảng này sẽ được đặt ở trạm gác dọc
tuyến đường
do Trung đoàn phụ trách.
Không đợi lâu, Thụy cùng các bạn nhận
SVL từ viên Trung úy Trưởng ban 1. Nhận xong, mấy anh em kéo nhau qua
quán gần
bên ngồi uống cà phê, rồi đến giờ cơm, ăn trưa ở đó luôn.
Buổi chiều, Thụy trình diện ở Tiểu
đoàn 1. Căn cứ Tiểu đoàn nằm trên ngọn đồi cao
nhất nhìn thấy bao quát hết quang cảnh bên trong và
ngoài căn cứ. Thụy cảm
thấy bơ vơ, tưởng như mình không còn có dịp về thành phố nữa. Đường
quốc lộ vắng
bóng người và xe, những mái nhà trông thật ảm đạm, và cả đồng ruộng cũng chìm ngập trong cảnh buốt giá của mùa đông.
Ba người ngồi bên trong căn hầm nhìn
ra cửa khi thấy Thụy xuất hiện. Viên Thượng sĩ hỏi:
-Chuẩn úy hỏi
tìm ai ?
-Không, tôi
trình diện Tiểu đoàn.
Thụy mở nắp túi áo lấy tờ SVL, anh
đưa cho ông Thiếu úy.
Viên Thượng sĩ tìm một chiếc ghế trống
ở gian bên đem qua mới Thụy ngồi. Thụy vẫn còn đứng, tay dựa thành ghế.
Trên
bàn có trà và một gói thuốc, nhưng chỉ có mình ông Trung sĩ đang hút.
Sau lưng ba người, có chiếc bàn dài,
một anh lính truyền tin đang ngồi nghe máy.
-Mời Chuẩn
úy ngồi.
-Cám ơn.
Nãy giờ, ông Thiếu úy im lặng. Khi
nhận SVL của Thụy, ông không nói gì mà mở ra một cuốn sổ lớn, rồi cầm
bút vừa
nhìn qua tờ giấy vừa ghi.
-Chuẩn úy ở
đơn vị nào đổi đến ?
-Không, tôi
vừa mới rời quân trường sau khi mãn khóa học.
-Chỉ có một
mình Chuẩn úy về Tiểu đoàn.
Thụy cầm ly nước trà nóng uống một hớp
đầy. Anh nói:
-Chúng tôi về
Trung đoàn năm người, và được phần phối đi bốn Tiểu đoàn.
Xong việc, ông Thiếu úy nhìn Thụy hỏi:
-Chuẩn úy có
cần chúng tôi giúp gì không ?
Chỉ sau ít giây, Thụy nói:
-Quân trang
của tôi còn thiếu…
-Không sao ?
Chuẩn úy sẽ được cấp phát bổ sung.
-Cám ơn Thiếu
úy.
Rồi tất cả cùng im lặng. Người lính
truyền tin đưa ống liên hợp cho viên Thượng sĩ. Từ căn cứ hành quân, vị
Tiểu
đoàn trưởng đang cho lệnh để hậu cứ thi hành. Sau mỗi lệnh của vị chỉ
huy, ông
Thượng sĩ đáp nhận rõ qua khẩu lệnh truyền tin.
Nhận chỉ thị xong, ông cho vị Tiểu
đoàn trưởng hay biết là có một Chuẩn úy mới đến trình diện.
-Già hay trẻ.
-Còn trẻ, mới
ra trường.
-Cho lên
trình diện tôi.
-Nhận rõ.
Ông Thượng sĩ rời máy, nói với Thụy:
-Thứ hai có
chuyến tiếp tế, Chuẩn úy sẽ đi theo lên gặp Thiếu Tá.
Thụy uống hết ly trà, rồi đứng dậy
cùng đi với viên Trung sĩ đến nhà kho. Tại đây, Thụy làm thủ tục lãnh
quân
trang , quân dụng. Anh nhận được hai bộ
quần áo trận mới, hai chiếc nón vải, một cái nón sắt, một chiếc ghế bố,
một cây
súng M16 và cấp số đạn hành quân.
Ở Tiểu đoàn cũng có phòng vãng lai,
đặt bốn chiếc giường sắt giống như ở quân trường. Sau khi nhận xong
quân trang
và quân dụng, Thụy đến phòng vãng lai bỏ ba lô, đồ đạc, xong theo viên
Trung sĩ
đến ban quân lương. Kể từ hôm nay, anh thuộc về quân số Tiểu đoàn và sẽ
được hưởng
phụ cấp 4500 tiền hành quân.
Ở Tiểu đoàn, thủ tục rất đơn giản.
Chỉ qua ít giờ, mọi việc xong xuôi, và ngày lên căn cứ hành quân đã
được ấn định
nên Thụy không còn lo nghĩ hay chờ trông gì cả.
Trời đã tạnh mưa. Những cái bóng
sáng vừa lay động đã xóa tan rất mau cái vẻ ảm đạm của buổi chiều.
Không có ai
trông dợi, nhưng rồi tiếng còi hụ vang lên, ngay lập tức, người nào
cũng vội
vã. Hầu hết và hạ sĩ quan làm việc ở Tiểu đoàn đều là người địa phương,
họ có
nhà ở trong khu gia binh và ngoài thị xã.
Thụy vẫn còn được ít ngày nữa mới
lên căn cứ hành quân. Đây cũng là sự ưu ái của vị Tiểu đoàn trưởng đối
với những
người ở xa mới đến.
Buổi sáng thứ sáu, Thụy quá giang xe
cơ hữu của Tiểu đoàn ra thị xã Tam Kỳ. Xe dừng ở giữa phố chính, bên
kia đường
là một tiệm buôn bán trà và hàng tạp hóa. Vừa xuống xe, Thụy hỏi đường
đến Ty
Bưu điện, và đi bộ nhanh bước.
Bên ngoài sân, cảnh vắng lặng, có thể
mới đầu buổi sáng còn vắng khách. Vào bên trong, Thụy đến chỗ bàn đá có
chia
nhiều ngăn cho khách viết thư hay gói hàng trước khi gởi.
Thụy viết thư gởi về Huế cho mẹ và
các em. Lá thư viết trên giấy có kẽ giòng.
Kính thăm mẹ,
Hiện giờ con đang ở hậu cứ Tiểu
đoàn. Ngày thứ hai, con sẽ lên vùng hành quân theo chuyến bay tiếp tế.
Mới đến đơn
vị, nhưng con cũng đã nhận được lương của tháng này. Với số tiền lãnh
được, con
trích ra 5000 gởi cho Mẹ tiêu dùng, và cho mấy em một ít mua sách vở
học.
Anh Nguyên có hay về nhà không ? Kỳ
phép vừa rồi, con có ra Quảng trị chơi và gặp chị Thiên Nga. Chị có nói
với
con, dạy thêm một năm nữa, chị sẽ xin vào Đà Nẵng để được gần nhà.
Thư của ba, con sẽ gởi sau. Mẹ yên
tâm, cố giữ gìn sức khỏe và các em gắng chăm học. Nhờ trời Phật phù hộ
cho con
luôn bình yên. Nơi đơn vị con đang ở, cách thị xã Tam Kỳ chừng 7 cây
số. Như vậy,
không xa Đà Nẵng và Huế. Từ đây về Huế, chỉ chừng năm giờ xe đò là tới,
thành
ra, con vẫn có nhiều dịp về thăm gia đình. Vài giòng thư ngắn, con tin
cho mẹ
và các em hay. Nhận được thư và tiền, mẹ nhớ tin cho con biết.
Con rất nhớ
mẹ. Chúc các em vui, chăm học.
Con của mẹ,
Thụy.
Những điều trong thư Thụy vừa mới viết,
thực sự nó yên bình. Hai người khách rời quầy, vừa đúng lúc Thụy đến.
Nhưng anh
lại dừng chờ, vì cô nhân viên đang còn bận xếp lại thư từ và mấy gói
bưu kiện vừa
mới nhận.
Khi cô ta quay lại, Thụy lên tiếng
chào và nói:
-Tôi cần mua
một tấm mandat.
-Bao nhiêu
tiền, Chuẩn úy.
-Năm ngàn đồng.
Cô nhân viên đưa một tờ giấy kê khai
tiền gởi cho Thụy điền. . Làm xong, Thụy gởi tiền cho cô nhân viên đếm.
Sau khi
đếm đủ, cô viết một tấm ngân phiếu , xong đưa cho Thụy.
Thụy nhận tấm mandat liền cho vào
phong bì rồi dán kín, và đưa lại cho cô nhân viên đóng dấu tem bảo đảm.
-Thư bảo đảm
này đi chừng mấy ngày cô ?
-Đây ra Huế
chừng hai ngày, có thể ba ngày.
Cô nhân viên giao giấy biên nhận cho
Thụy. Anh cẩn thận cất mẩu giấy này vào trong ngăn ví.
-Cám ơn cô.
-Không có
gì, Chuẩn úy.
Nãy giờ, cô nhân viên Bưu điện đã có
sự chúy ý đến người lính. Cô cảm nhận một chút gì đó, nhưng không dám
hỏi. Hình
như cô nhớ ra được cái tên rất quen biết của người gởi.
-Chào cô tôi
đi.
-Vâng, chào
Chuẩn úy.
Bỗng nhiên cô gái đứng lên, chợt gọi
tên Thụy. Thụy ngạc nhiên, anh quay bước
trở lại.
-Có gì trở
ngại không cô ?
-Không, tôi
chỉ muốn hỏi Chuẩn úy trước đây có học ở Đà Lạt không ?
-Có. Cô cũng
học ở đó.
-Tôi học ở
trường Việt Anh, cùng lớp với Chuẩn úy.
Cô nhân viên mỉm cười nhìn Thụy.
-Thực vậy
sao ?
-Sao mà
không ?
-Nhưng sao
cô lại nhớ tên tôi .
-Anh là cháu
thầy Phiên, phải không ?
-Đúng rồi.
Cô gái như đang muốn tạo một dáng vẻ
ngày xưa để nhắc một kỷ niệm nào đó với người bạn cũ.
-Ờ nhỉ,
lớp mình học đông quá, cả nam và nữ. Bên nữ,
hầu như tôi không mấy nhớ được nhiều tên.
-Anh còn nhớ
tên những ai.
-Một vài cô,
như cô Thu, cô Liễu.
-Còn tôi, cô
không nhớ.
-Tôi hình
dung ra được rồi, nhưng quên mất tên.
-Tôi là
Trang.
-A, nhớ rồi,
phải , phải, Trang ngồi gần cô Ngân.
-Không phải.
-Vậy thì,
sao đây ?
-Anh Thụy nhớ
đúng. Cô gái đáp, vừa gật đầu.
Một giọng thân tình, Thụy hỏi:
-Sao ở trong
đó, Trang ra làm việc ngoài này ?
-Mình đi
theo chồng.
-Ông xã là
công chức hay quân nhân.
-Công chức ở
Ty Xã Hội.
Hai người trao đổi chuyện trong lúc
vắng khách. Tiếng của Trang gợi Thụy nhớ nhiều đến thời niên thiếu.
Không chỉ
riêng Đà Lạt thôi, mà có những ngày tháng bình lặng ở Quảng Trị nữa.
Nơi ấy, là
nhà ga, bóng dáng tháp nước, quán hàng cơm của mẹ. Trong ánh mắt Trang,
mỗi lúc
biểu lộ sự dịu dàng và Thụy vừa thấy một màu ánh sáng buồn và đẹp trên
khuôn mặt.
Sự im lặng thật nhẹ nhàng trong ánh
mắt có nụ cười lúc hai người bạn nhìn nhau. Bỗng nghe có tiếng nói,
tiếng vọng
bước chân, Thụy ngoái đầu thấy ở cửa chính có vài người khách xuất
hiện. Nhưng,
lúc vào, họ còn dừn ở chỗ bàn đá, một
người gói đồ, hai người kia viết thư. Thụy vẫn đứng bên quầy chuyện trò
với cô
bạn cũ.
-Trang ra
ngoài này lâu chưa ?
-Ba năm.
-Nhà cũng ở
ngay trong thị xã.
Trang gật đầu, nàng hỏi:
-Thụy làm việc
ở Tiểu khu.
-Không, ở
ngoài Trung đoàn. Hai ngày nữa đi lên căn cứ hành quân.
-Xa không ?
-Chưa biết.
Tôi mới tới đơn vị mấy ngày nay.
Trang lấy một chiếc phong bì, ghi địa
chỉ nhà mình ở đưa cho Thụy.
-Đây là địa
chỉ nhà Trang. Có dịp rảnh , Thụy ghé chơi.
-Có dịp về,
là ghé.
-Nhớ ghé
nghe.
-Chắc rồi.
Cám ơn Trang, cho gởi lời thăm ông xã.
Khi Thụy dời bước, hai người khách
hướng về ghi sê của Trang. Trang đang nhìn theo cái bóng của Thụy. Dù
biết đằng
sau, bên khung cửa lưới bóng dáng Trang đang đứng nhìn theo mình, nhưng
Thụy vẫn
không ngoái đầu. Hình như, chỉ còn một bóng dáng đơn độc, nó giữ lại
một thành
phố trên miền cao nguyên.
Nắng dậy sáng, mở rộng cả khu phố.
Thụy không biết mình đi đâu. Đây là lần đầu tiên anh đến thị xã này,
cảm thấy mới
lạ và mong đợi. Luôn luôn, trong cuộc sống Thụy mong mỏi tìm người bạn.
Trong cảm giác của một người xa lạ bỗng
dưng xuất hiện ở nơi này, Thụy không thể tìm cho mình một mái nhà, một
người bạn,
hay một hình ảnh thân thương nào cả. Anh
thấy mình như một chiếc thùng rỗng đang lăn lóc, vật vờ. Khi trông thấy
một cửa
hiệu sách đầu ngã ba, Thụy ghé vào. Cửa hiệu khá lớn, nhiều sách, và
trông mặt
ra hai con đường, một đường thuộc về thị xã, một đường nằm trên quốc
lộ. Người
chủ tiệm ngồi ở quầy nhìn Thụy có vẻ chú ý. Thụy cũng biết, nhưng anh
làm lơ,
và cũng không muốn hỏi chuyện về sách vở để làm quen. Bây giờ, Thụy nhớ
ra, dọc
con đường chính của thị xã này, có đến ba nhà sách anh trông thấy trưng
bảng hiệu,
nhưng có lẽ đây là nhà sách lớn nhất. Thụy muốn đốt điếu thuốc, nhưng
có phần
ngại. Chung quanh anh, chỗ này, chỗ kia bên các hàng ghế, hay trong mỗi
góc, một
vài người đang yên lặng tìm kiếm sách. Bỗng nhiên , có tiếng cười lớn
làm ai
cũng ngạc nhiên. Người chủ hiệu trong dáng bước tự tin, vừa rời khỏi
quầy để tiếp
một người bạn quen.
-Hôm nay ông
được nghỉ ?
-Không, tôi
vừa mới ở trường về.
Người khách cầm gói thuốc mời, chủ
hiệu rút một điếu. Thụy bước đến chỗ đặt hai cái bàn lớn, và trên mặt
bàn này
những loại sách mới vừa xuất bản được trưng bày để giới thiệu khách
hàng. Thụy
cảm thấy ngợp, trầm trồ, chiêm ngưỡng những tác phẩm đồ sộ của hai nhà
văn lớn
nước Nga: Tolstoi và Dostoievsky. Sách
dịch
in rất đẹp, bìa dày, giấy loại tốt, và
giá khá đắt. Thụy biết mình không thể mua nổi, với lại tác phẩm cũng
khó đọc,
nhất là với Dos là đại văn hào của thế giới, anh đành nhìn tác phẩm như nhìn pho tượng. Bên cạnh những
tác phẩm đồ sộ này, có một số khá nhiều
tiểu thuyết mới của các nhà văn tên tuổi ở Sài Gòn. Hai nhà văn đang ăn
khách
là Mai Thảo và Duyên Anh.
Thụy chỉ nhìn bằng mắt, lướt qua mỗi
cái tựa tác phẩm in ngoài bìa. Anh không mó tay, lật qua vài trang để
xem, và
cũng không có ý định chọn một cuốn nào để mua.
Thỉnh thoảng
câu chuyện giữa vị thầy giáo và ông chủ hiệu sách lọt vào tai Thụy. Bất
ngờ
nhìn qua, Thụy thấy cái cung cách ông chủ hiệu có vẻ niềm nở, thoải mái
với người
khách kia, vừa như có chút hãnh tiến về mình, cũng là hạng trí thức.
Người
khách là thầy giáo, ít nói, tỏ ra điềm
đạm,
mực thước hơn.
Một lúc sau, Thụy đến trước những
dãy kệ dựa lưng tường. Nơi nào cũng đầy kín sách, và mỗi dãy, các loại sách được phân loại và sắp theo từng ngăn.
Thụy
nhận ra ngay ở hiệu này, tuy có đủ loại sách về sáng tác và biên khảo,
nhưng vẫn
không nhiều hơn các lại sách giáo khoa.
Sự tình cờ Thụy được gặp một số truyện
dịch mà anh yêu thích. Ở đây, có Khung cửa hiệp của André Gide, Giao
cảm của
Albert Camus, Kiếp người của Somerset Maugham.
Thụy dễ dàng đưa tay lấy cùng một lúc ba cuốn và coi
giá tiền, anh tính
nhẩm, và cảm thấy hài lòng. Giữ lấy ba cuốn sách trong tay, Thụy đi qua
những
hàng kệ khác, và một tác phẩm anh mua được thêm là cuốn Chùa đàn của
nhà văn
Nguyễn Tuân.
Thụy không tìm thêm, anh đến quầy trả
tiền. Người khách là vị thầy giáo đã ra về lúc nào, anh không hay.
Người chủ hiệu
nói với Thụy:
-Sách được bớt
10%
-Cám ơn ông
chủ.
-Ở đây, tùy
theo loại sách chúng tôi bớt giá.
Thụy thật tình hỏi:
-Nhà sách của
ông lớn nhất ở đây.
Ông chủ mỉm cười, đáp:
-Có lẽ.
Rồi ông hỏi Thụy:
-Chuẩn úy ở
xa mới đến.
-Dạ, tôi mới
đến.
-Tôi là người
sinh trưởng ở đây, ông nói.
-Tôi biết,
nghe trong giọng nói của ông.
Kể ra, hôm nay là một ngày bình yên.
Thụy gặp Trang, bạn học cũ ở Đà Lạt. Vào cửa hiệu sách, gặp người chủ
dễ dãi,
thiện cảm, và anh cũng tìm được mấy cuốn truyện mình thích đọc, mà cũng
rất cần
có nó để đọc, trau dồi cho nghề văn.
Trước khi rời quầy, Thụy được ông chủ
hiệu tặng cuốn lịch bỏ túi. Trưa mùa đông, trong ánh nắng bừng sáng hơi
ấm,
nhưng thời tiết vẫn thấm lạnh. Trên đường đi, tình cờ thấy có sạp báo ,
Thụy dừng
mua mua ít tờ. Rồi, Thụy tìm một quán ăn.
Vừa trông thấy Thụy ở cửa, người đàn
bà chủ quán lên tiếng chào và mời Thụy ngồi ghế. Thụy đến chiếc bàn ở
góc,
nhưng trông ra phố thấy rõ mọi quang cảnh sinh hoạt. Người chạy bàn
đến, Thụy gọi
cơm phần ba món. Khi ông ta đi khỏi, Thụy bỗng cảm thấy chỉ còn lại
mình với một
nỗi niềm an ủi, dễ chịu. Rồi, trong lúc chờ cơm, anh lấy mấy tờ báo vừa
mua mở
ra đọc.
Bữa cơm mang đến, Thụy bắt đầu ăn.
Anh cảm thấy đói, lạnh, và ăn ngon miệng. Thụy cũng hiểu rằng, anh chỉ
còn ít
ngày nữa thôi. Bữa ăn vừa đủ, anh ăn hết, không gọi thêm. Sau bữa ăn,
Thụy cố
nhờ chỗ này để ngồi lâu đọc báo. Tiệm ăn có khách nhưng không đông. Bên
ngoài,
con phố chính vẫn đông người đi bộ, xe đạp, xe gắn máy, nhiều hơn hết
là xe nhà
binh.
Người chạy bàn mang ra cho Thụy một
ly lớn nước trà chanh nóng. Thụy uống từng hớp ngon miệng, cảm thấy nhẹ
nhõm.
Trên bàn, tờ báo mở rộng. Những tin trang nhất anh đọc, một nửa là tin
chiến sự,
còn lại là tin sinh hoạt quốc nội và những tin từ Dinh độc lập với các
phái
đoàn ngoại giao. Tình hình chiến sự ở vùng hỏa tuyến được yên tĩnh
trong mùa
đông này, nhưng ở phía Nam thuộc miền Đông và miền Tây giáp biên giời
Cam Bốt,
diễn biến đang sôi động với nhiều trận đánh lớn. Hà Nội không chỉ
chuyển quân
vào Nam với quân và cơ giới hạng nhẹ, mà đã có những xe tăng, đại pháo,
chuẩn bị
cho những trận đánh lớn trên chiến trường. Tờ báo Thụy đang đọc là tờ
Chính Luận,
một tờ báo rất nhiều bài vở tin tức, và được coi là rất uy tín với quần
chúng độc
giả mọi giới. Và, ở tờ báo này, những trang quảng cáo rất ăn khách,
hiệu quả.
Thụy đọc khá kỹ những bài cần đọc. Rồi
lật vào trang trong, anh tìm đọc những mẩu tin sinh hoạt thường ngày từ
Sài Gòn
đến các tỉnh thành. Huế sắp có cuộc triễn lãm cho mùa xuân năm Nhâm Tý
1972.
Bỗng nhiên, Thụy cảm thấy ngỡ ngàng,
như thể tờ bào trên tay anh đang cầm nhẹ nhàng như một chiếc lá vừa rời
cành.
Với sự bình tâm, Thụy đọc lại tin
vui của Huê. Bây giờ, lòng Thụy trống trơn, anh vẫn hình dung ra được
gương mặt
của Lan Huê, nhưng lạ thay, anh không còn nhớ được gì nữa về Huê, về
những kỷ
niệm vui, và rất dễ thương của anh và nàng.
Ngồi trong quán như đã lâu, Thụy gấp
tờ báo đứng dậy đến quầy trả tiền. Khi anh bước ra đường, trong cái
lạnh, anh
chợt có cảm tường như Huê đang ở bên anh chứ không phải nàng đã đi lấy
chồng .
VI
Với Lan Huê, nàng không có một điều
gì phải làm Thụy buồn nhớ, phiền muộn. Nàng vẫn thường nói với anh,
chuyện trò
vui với anh trong chốc lát, trong sự nghỉ ngơi, cả trong sự chờ mong,
nhưng em
vẫn luôn là em gái của anh. Anh nói em là hình ảnh của Phượng, cũng có
thể, nếu
anh yêu quí hình ảnh đẹp đó, anh hãy cứ giữ lấy, như một bức ảnh em đã
có tặng
cho anh. Vậy đó, Lan Huê vẫn còn là những hình ảnh vui, trẻ trung, dễ
thương
trong trong mỗi ngày. Nàng luôn thấy mình xuất hiện để cho Thụy tình cờ
trông
thấy. Anh gặp nàng trên đường phố, trong quán cà phê, ở hiệu sách, và
một đôi
khi trong rạp hát, nàng như một người dành cho anh những lời tâm sự và
những
câu nói tỏ tình rất dễ nghe. Rồi vừa mới đây, nàng đi lấy chồng. Tin về
nàng,
anh được đọc trên tờ báo.
Thụy đến nhà Trang vào buổi trưa chủ
nhật. Anh được cả gia đình cô bạn học cũ đón tiếp rất niềm nở, và trong
buổi hội
ngộ này, anh ngạc nhiên gặp một người quen, nàng không nhớ ra anh,
nhưng chỉ mất
trong ít giây hồi tưởng là anh nhớ.
Ngày trở lại Huế lần đó, Thụy bỗng
có ý thức rõ rệt về cuộc đời mình khi thấy đang làm cặp mắt anh có ngấn
lệ, xốn
xang. Ở với gia đình khá lâu, còn lại mấy ngày cuối, Thụy muốn để dành
thời
gian vào Đà Nẵng thăm gia đình Thúy Hà. Anh rất nhớ nàng, bao giờ cũng
cũng ước
ao có nàng, hay được gặp lại, được thấy lại nàng, và hơn lúc nào hết
anh luôn
chờ đợi nghe tiếng nàng nói từ trong cặp mắt nhỏ bé, từ một gương mặt
rất đẹp
và buồn.
Vì có ý định ở lại Đà Nẵng một ngày
nên Thụy đi chuyến xe đò buổi chiều. Và, cũng chẳng ai hay, đó là
chuyến xe cuối
cùng trong ngày.
Chuyến xe đông chật hành khách. Thụy
ngồi bên cạnh một cô gái có gương mặt thầm lặng. Trong xe, hành khách
phần đông
là những người đi buôn, một số công nhân và có vài người lính mặc quân
phục. Thỉnh
thỏang, cô gái bắt gặp cái nhìn của anh, và cô cũng nhìn lại với sự dò
xét. Tuy
nhiên, hai người chẳng chuyện trò gì cả.
Xe chạy mới hơn một phần đường thì gặp
mưa. Trời mưa lớn nên chỉ trong chốc lát cảnh vật hai bên đường bị mưa
và sương
mù phía núi tràn xuống nhòa kín hết. Những cánh cửa xe hai bên và đằng
sau đều
đóng kín. Trong xe, bóng tối bao phủ chỉ còn thấy lô nhô đầu người,
thỉnh thỏang
lóe lên vệt sáng như sấm chớp. Xe không có đèn điện. Có người đốt diêm
hút thuốc.
Cô gái ngồi nép mình. Xe chạy giảm tốc
độ gây cảm giác buồn ngủ. Bên ngòai trời lạnh, mưa, bên trong hơi người
ngột ngạt.
Khi nghe hơi thở nhẹ bên mình, Thụy có cảm giác như là một hương vị lạ
dịu
dàng. Vừa quay đầu sang, anh thấy đôi mắt cô gái nhắm lại, và rồi đầu
cô ngả nhẹ
xuống vai anh. Anh nhìn cô gái như nghĩ đến một con chim nhỏ, như gợi
nhớ ngày
nào của tuổi thơ cô hiện ra trong trí tưởng anh hình ảnh người em gái .
Xe mới qua khỏi con đèo đầu tiên thì
bất ngờ bị hỏng máy. Trước khi ngừng, chiếc xe kéo lê lết với tiếng máy
kêu lịch
xịch đến khi tắt ngấm ngòi điện nổ mới ngừng. Trời còn mưa. Bên trên
tài xế
khóac áo mưa ra khỏi xe. Cùng xuống với anh ta có hai người tài phụ.
Khi người
tài xế mở nắp ca bô trước, khói và hơi nước trong máy phun ào lên. Trời
vẫn
đang mưa, anh ta dùng đèn pin soi rọi các bộ phận trong máy xe xem bị
hư chỗ
nào.
Hành khách vẫn ngồi lại trong xe vì
trời mưa. Con đường lại vắng, vì giờ này không còn chuyến xe nào từ Huế
đi vào
phía Nam. Có thể, người ta trông đợi những chuyến xe hàng từ Đông Hà,
từ Quảng
trị, hay may ra là những chuyến xe nhà binh.
Mưa tạnh ráo. Vừa tạnh mưa, những
đám mây mù trôi nhanh để lại ánh sáng của buổi chiều trên quốc lộ. Ở
phía sau mọi
người xuống xe. Rồi nối theo nhau, hành khách trên các băng ghế trước
cùng xuống.
Hầu như ai cũng thấy dễ khi được
hít thở khí trời ở ngòai. Vừa xuống xe, nhiều
người mau chạy đi làm vệ sinh cá nhân ở chỗ khuất. Sau đó, họ về lại
xe, đứng từng
nhóm trò chuyện. Thụy mong tìm người nào quen trò chuyện nhưng không
gặp. Ba
người lính và một vài hành khách nữa đi lên chỗ đầu xe xem người tài xế
sửa chữa.
Một vài lời góp ý, chẩn đóan về căn bệnh của xe.
Khói thuốc hút tan lõang ra, mong
manh. Cô gái đứng riêng một mình mắt nhìn ra phía cánh đồng trống. Hình
ảnh đồng
quê ướt át sau cơn mưa chắc cũng gợi cho tâm hồn cô một mối rung động
buồn bã
và thân thiết. Hút xong điếu thuốc, Thụy nhẹ bước đi về chỗ cô đang
đứng.
Cô ta nhìn thấy rõ dáng đi và vẻ mặt
anh. Có hơi bối rối, nhưng cô ta vẫn đứng yên chỗ. Lấy giọng tự nhiên, Thụy hỏi:
-Cô dạy học ở
Đà Nẵng ?
-Dạ không .
-Cô về thăm
nhà ?
Cô gái mỉm cười lắc đầu sau câu Thụy
hỏi. Giọng chậm rãi, Thụy nói:
-Gia đình
tôi ở Huế, nhưng vào quân đội đơn vị tôi ở gần Sài Gòn.
-Ông về nghỉ
phép.
-Cô nói
đúng.
Anh sáng cuối ngày đã vụt tắt. Giữa
đường, chiếc xe hàng bị pan máy chưa sửa chữa xong. Đêm xuống. Bóng đêm
lan nhanh,
lan rộng tới các vùng làng quê về phía xa. Núi chỉ còn thấy lờ mờ, và
sương mù
đã xuống nhiều.
Kim đồng hồ đeo tay của Thụy chỉ 7giờ
rưỡi. Anh và cô gái lặng im, không biết nói gì thêm. Bỗng mọi người
nghe tiếng
bật nổ của máy xe. Nhưng vừa sắp sửa nổ mạnh thì lại tắt. Người ta lại
lo lắng,
vừa hy vọng. Sau ít phút, với sức quay tay rất nhanh, tiếng máy bật nổ
lớn. Mọi
người cùng vỗ tay. Vẫn chưa có ai vội lên xe, vì người tài xế vẫn còn
đợi nghe
tiếng máy nổ. Không lâu, tiếng máy nổ nghe đều, người tài xế mới yên
tâm , anh
ta vừa đóng nắp ca bô lại vừa lên tiếng mời hành khách. Mọi người vui
vẻ lên xe
không có lời phàn nàn.
Đêm như có vẻ mịt mù, xa khuất. Xe
lăn bánh ra đường. Đèn trước xe tỏa rộng ánh sáng để thấy đường. Xe
chạy suốt
không nghỉ. Xe chạy qua những đường đèo, đồng ruộng, những nhà ở thưa
thớt, ánh
đèn hiện ra rồi biến mất, nhưng rồi, không có gì để bận tâm, lo lắng.
Bên kia đèo Hải vân, một trận mưa đã
tràn lấn xuống mặt biển. Vừa lúc xe xuống đèo, phía xa chừng mười cây
số nơi đó
là thành phố Đà Nẵng đã lên đèn. Mưa còn nhẹ hạt khi xe lên đèo, mưa
lớn thật dữ
dội khi xe đổ xuống đèo. Ở nơi xa khỏang mười cây số, đèn thành phố
đang lay động,
và cơn mưa có lúc tưởng rút ngắn khỏang ánh sáng có lúc bị đẩy lùi trôi
giạt,
và trong mưa người ta nghe tiếng gió đập phần phật vào thành xe, cả
trên trần
xe. Nhưng xe vẫn cứ chạy, và mọi người cùng cảm thấy an tòan khi xe đã
về gần tới
thành phố.
Trong bóng tối Thụy ngồi cạnh cô
gái. Cả hai cùng lặng im. Vùng ánh sáng trên gương mặt cô gái là nhan
sắc. Thụy
có cảm giác như tìm được qua vùng ánh sáng nhỏ bé dịu hiền này những
ngày
thương yêu cũ của chính mình. Thụy nghe ra âm thanh nhỏ nhẻ tiếng nói
của cô,
anh đứng yên một chỗ để nhìn thấy dáng điệu, hình bóng cô đang dời
bước, và anh
cũng tin rằng, một ngày nào đó anh sẽ gặp lại cô một nơi chốn nào đó
khác với
bóng tối vây quanh giữa cuộc đời.
Mưa không tạnh, nhưng lòng Thụy cảm
thấy ấm. Xe đang chạy vào thành phố. Những tiếng động của ánh sáng,
tiếng nói,
xe cộ còn di chuyển dưới trời mưa mặc nhiên nói với mọi người về những
sự tin cậy.
Và, trong mỗi ánh đèn tìm thấy, ai cũng đều nghĩ đến căn nhà mình ở và
sẽ về đến
nơi.
Đã mười giờ đêm. Xe vào bến đậu
trong cơn mưa dai dẳng. Quanh xe, có tiếng gọi nhau ơi ới của khách
hàng buôn
trên vọng xuống và dưới gọi lên. Những người chạy xích lô chờ sẵn. Rồi
cũng
may, xe vào bến, trời ngớt mưa cho khách xuống để về nhà.
Thụy và cô gái xuống sau cùng vì ngồi
hàng ghế trong. Những khách xuống trước lên xích lô chở hàng, hoặc về
nhà. Có
nhiều người đi cùng chung một chuyến.
Hai người vừa ra khỏi xe, người tài
xế hỏi:
-Hai anh chị
về đâu ?
-À, không phải
đâu.
-Về đâu, lên
xe đi. Hết xe rồi.
Thụy liền giải thích với anh xích
lô.
-Tôi và cô
đây chỉ là hành khách thôi.
-Anh về đâu
?
-Tôi về ở chỗ
bến Cảng.
-Còn cô đây.
-Phố Quang
Trung, cô gái đáp.
-Bây giờ ai
đi ?
Thụy hỏi cô gái:
-Cô về một
mình được không ?
Cô gái im lặng không đáp lời. Rồi
anh xích lô lên tiếng:
-Hai người
lên chung xe tôi. Tôi đưa cô đây về trước, rồi lên nhà anh, được không ?
Trời lại mưa tiếp. Cô gái gật đầu.
Thụy và cô gái vội vàng lên xe. Anh xích lô đóng tấm bạt trước vừa cho
hai người
biết, ở đây mưa lớn từ lúc chiều. Đóng xong tấm bạt, anh đi ra sau và
nhảy lên
yên xe, đạp chạy.
-Mưa lớn từ
lúc chiều đến giờ.
-Em lo quá.
Giọng cô gái nói rất nhỏ.
Chiếc xe di chuyển chậm. Chỗ ngồi
không rộng, nên vai anh và cô gái dựa sát nhau và cảm thấy chật chội.
Cả phía
dưới chân nữa. Thụy chỉ có ý nghĩ muốn đưa cô gái về đến nhà bình yên.
Và, lúc
này, anh chẳng muốn bày vẽ chuyện để hỏi han, tán tỉnh cô. Nơi thành
phố này,
tên một người bạn gái thân thương đang nhắc nhở anh. Và, lòng anh sung
sướng
khi đến nhà nàng, trong tiếng gọi anh cất lên, cả nhà nghe thấy ùa ra
mở cửa và
anh đọc sự mừng vui xúc động của từng người. Con đường bị mưa, và con
phố trở
nên tối tăm nên chiếc xe thương bị vấp ổ gà làm nghiêng ngả. Mỗi lần,
cô gái bị
ngã, Thụy cầm nắm giữ bàn tay cô. Nhưng đường xấu chỉ có một đọan ngắn,
rồi xe
lại chạy bình thường. Có tiếng hát cải lương của anh xích lô ca lên
nghe mùi mẫn
làm cả anh và cô gái cùng cười.
-Cô vào ở
chơi lâu không ?
-Em đi một
tuần.
-Tôi cũng đi
ít ngày rồi trở ra lại Huế.
Thụy trông thấy cặp mắt cô gái đen
lánh, và thấy lại lần nữa một vùng ánh sáng trên gương mặt cô tỏa ra.
Tiếp lời, Thụy nói:
-Tôi vào
quân đội đã lâu. Tôi ở đơn vị xa. Hai ba năm tôi mới có chuyến đi phép
về thăm
nhà.
Câu chuyện của hai người trở nên
thân tình, và lúc này, bánh xe lăn trên đường nhựa nghe êm ả, lạ lùng.
Vâng, cô
gái đây là cô giáo mới ra trường dạy học được ít năm. Những lời riêng
tư của
mình, cô đã cho người lính cái hạnh phúc được ở bên cô với bao nhiêu
người bạn
của cô, anh chị em cô và người thân trong gia đình. Về phần người lính
, nương
mình trong cái bóng dáng phiêu bạt của đời quân ngũ, anh ta nói về một
cuộc đời,
về sự lớn lên của tuổi trẻ, và về một cuộc chiến tranh không biết đến
bao giờ sẽ
chấm dứt. Nơi đây là một thành phố vừa lạ, vừa thân quen. Và, trên cùng
một
chuyến xe, một con đường, anh có nên viết ra trên một mẩu giấy cho cô
gái này
hay biết tên người bạn gái yêu thương của anh không ?
Bỗng nhiên có tiếng anh xích lô hỏi:
-Nhà cô số mấy
?
-Mười bốn,
anh.
Đang vui chuyện về mình, Thụy ngưng
hẳn. Bất chợt một giọng hơi buồn, anh nói:
-Về tới nhà
cô rồi.
-Dạ.
-Biết đâu, gặp
lại cô ở Huế.
Cô gái nói:
-Ông còn trở
về đơn vị của ông nữa mà.
-Đúng vậy.
Đâu có thể chờ được.
Chiếc xe ngừng. Giọng thân tình, cô
gái nói:
-Em xuống
đây, chào ông nghe.
-Vâng.
-Em xuống
đây nghe, cô gái nhắc lại.
Cô gái còn chờ anh xích lô xuống mở
tấm bạt. Trong một giây nhìn nhau, Thụy nắm giữ bàn tay cô gái. Cô vẫn
để yên
bàn tay cô trong tay anh. Hơi ấm mang đầy hương vị thơm từ bàn tay cô
gái làm
anh xúc động. Và nỗi xúc động đã cho anh có được một nụ cười.
Sau một đoạn phim vừa gợi nhớ, Thụy
mỉm cười nhìn Thu. Thu, tên của cô gái ngày hôm đó, nhưng lúc chia tay,
cô đã
không cho anh biết tên mình.
Cô gái vừa mới nói với Thụy:
-Cám ơn anh
đã nhớ quá đầy đủ tình tiết.
Thu được gặp lại người lính trong lần
này, và sau câu chuyện nghe kể, nàng cảm thấy mến anh, vừa có chút phân
vân. Rồi
không do dự, nàng cho anh hay, nàng sắp thuyên chuyển về dạy học ngoài
Huế.
-Thu có gia
đình quen ngoài không ?
-Có.
Thực ra, Thụy không muốn hỏi, biết
thêm gì nhiều về Thu. Anh chợt nghĩ, rồi Thu cũng sẽ như Huê, cô gái sẽ
lập gia
đình, có chồng con, như người bạn học cũ của anh là Trang mà ngày hôm
ấy đã anh
ghé thăm rồi cùng chung vui chén rượu, bữa cơm thân mật gia đình.
Thụy chỉ còn Thúy Hà, nàng luôn ở
trong anh một tiếng nói, một lòng tin.
Sương mù đã tan mau trong nắng sớm.
Bên kia con suối là cánh rừng. Trong tiếng chim hót, Thụy có cảm giác
như mình
không nghe, không nhìn thấy cảnh tượng chiến tranh. Nhưng mà, một buổi
sáng trời
mưa nặng hạt, Thụy đã theo chuyến bay tiếp tế lên đây là căn cứ đóng
quân của
Tiểu đoàn. Trong chuyến đi này, qua sự tệ hại của thời tiết, anh càng
nghĩ rằng,
chiến tranh sẽ còn tệ hại hơn như thế này nữa. Anh chưa biết mình rồi
sẽ như thế
nào, lúc đó, anh cố gắng nhớ lại, và như muốn trở lại thời gian còn ở
quân trường.
Để làm chi, Thụy không thể giải thích điều mình đang nghĩ với ai khác,
vì rằng
anh đang cầu mong một sự an ủi để làm giảm bớt đi nỗi lo sợ.
Chiếc trực thăng đã hạ cánh. Bãi đáp
được lót bằng những tấm ghi, có bề mặt ước chừng bằng nửa sân đá bóng.
Hai người
phi công chính và phụ vẫn ngồi ở ghế lái, và cánh quạt vẫn quay đều
trong lúc
hàng tiếp tế gồm hai cái thùng giấy và bốn bao tải lần lượt được chuyền
xuống.
Thụy rời phi cơ khi hàng tiếp tế được tải xong, và từ chỗ bãi đáp, anh
theo
toán lính tải hàng đi lên phía đồi dốc nơi đóng quân của ban chỉ huy
Tiểu đoàn.
Tiếng động chiếc phi cơ trôi xa dần,
bay qua khỏi con suối và cánh rừng. Trời chợt tạnh mưa. Vừa đi vào bên
trong
căn hầm, Thụy nghe một sĩ quan ban 3 đang liên lạc hành quân với một
đơn vị
đang hoạt động ở ngoài.
Thụy cầm sẵn sự vụ lệnh trên tay, đứng
chờ. Anh không vào văn phòng mà đã gặp ngay vị Thiếu Tá ngay ở đây, ông
đang
theo dõi viên Trung úy đang liên lạc với các toán bên ngoài.
Rồi lúc vị Thiếu Tá quay lại, Thụy đứng
nghiêm chào kính. Ông nhìn Thụy, vừa nhận tờ SVL, cúi mắt đọc.
Một lúc sau, ông hỏi:
-Anh là người
ở đâu ?
-Tôi, người
Quảng Trị.
-Có biết Đại
úy Thụ không ?
-Dạ không.
-Đại úy Thụ
cũng là người ngoài quê anh.
-Vâng.
Vị Tiểu đoàn trưởng người miền Nam.
Dáng người cao lớn, rắn chắc, nhưng giọng nói rất nhỏ nhẹ, ôn hòa.
-Anh mới ra
trường, chưa có kinh nghiệm để nắm một trung đội tác chiến.
-Vâng.
-Anh sẽ về Đại
Đội II của Trung úy Chánh, nhưng tôi giữ anh lại đây một tuần để thực
tập công
việc của ban 3.
-Vâng.
Trong dáng vẻ của mình, Thụy biểu lộ
tính cách con người chơn chất. Anh không hỏi han, yêu cầu, chỉ thuận
nghe những
lời vị Thiếu tá đã nói với anh. Tới giờ ăn trưa, anh được dùng cơm
chung với vị
Thiếu Tá và các sĩ quan trong ban chỉ huy của Tiểu đoàn.
Khi Đại úy Tiểu đoàn phó trở lại đơn
vị sau ký nghỉ phép hai tuần lễ, không khí trong ban chỉ huy Tiểu đoàn
vui nhộn
hẳn lên. Và, lúc nghe vị Thiếu tá nói đến Thụy là người Quảng Trị,
không phân
biệt cấp bậc, chức vụ, ông tìm đến Thụy ngay.
Một câu hỏi:
-Anh là người
Quảng Trị, phải không ?
Thụy đứng lên, chào kính. Rồi, Thụy
nói:
-Tôi có ở Quảng
Trị, nhưng đi xa cũng đã lâu ?
-Ngoài đó,
anh không còn ai.
-Dạ không,
chỉ còn làng quê bên ngoại và nội.
Đại úy Thụ hỏi:
-Ở Quảng Trị,
hồi đó nhà anh ở đâu ?
-Tôi ở ga.
Gia đình tôi từ Đông Hà vào tỉnh năm
đình chiến, đến năm 60 vào miền Nam.
-Sao lại đi
?
-Ba tôi làm
giáo viên. Do bị kỷ luật, ba tôi phải đổi
đi xa vào dạy học ở tỉnh Phước Thành.
-Sao anh đi
lính trễ quá vậy ?
Thụy lược kể qua thời gian đi học và
đi lính của mình. Vị Đại úy lắng nghe, mắt nhìn anh, chú ý tìm trong
gương mặt
anh nỗi buồn của một kẻ thất bại.
-Thôi được,
bạn hãy quên, và bắt đầu vào giai đoạn mới. Biết đâu …
Thụy hỏi:
-Ngày trước,
Đại úy có học trường Nguyễn Hoàng ?
-Tôi học trường
đó, chứ đâu khác.
-Tôi có biết
anh Khanh, phi công bay vận tải.
-Huỳnh ngọc
Khanh, phải không ?
-Đúng, anh
Khanh đó. Chắc anh Khanh cũng lên Đại úy rồi.
-Tôi biết
Khanh, nhưng học khác ban.
Với tinh thân, lúc này Thụy cảm thấy
cần nói rõ hơn về trường hợp xin đi học trễmuộn ở trường Thủ Đức .
-Vậy, anh đã
xong Tú Tài đôi chưa ?
Thụy cười trừ, đáp:
-Chưa.
Bỗng để ý vào ngón tay đeo nhẫn. Thụy
hỏi:
-Đại úy xuất
thân trường Đà Lạt.
-Đúng. Trong
khóa tôi, có bốn người Quảng Trị.
Hai người Quảng Trị đã tình cờ gặp
nhau, và họ có một giờ trò chuyện trong buổi chiều nắng ấm, vừa lạnh
vào thời
gian mùa đông sắp sửa hết. Nhớ đến Quảng Trị, Thụy còn có một ảnh hình
hiện dịu
của chiếc áo dài tím là chị Thiên Nga. Và rồi, thời niên thiếu của anh
ở Đà Lạt,
luôn luôn gợi nhắc anh nhớ đến một câu chuyện của Thùy. Trên đồi, những
quả đạn
súng cối 60 ly bắt đầu được bắn quay rối
vào các mục tiêu nghi ngờ có địch quân.
Thụy chợt hỏi:
-Đại úy có
gia đình chưa ?
-Chưa.
-Anh thì sao
?
-Dạ, cũng
chưa.
VI
Ban chỉ huy nhẹ của Trung đoàn đặt ở
căn cứ West, đây là căn cứ chính, lớn hơn ai căn cứ nằm ở phía Đông và
phía Tây
là Siberia và Delta. Bên cạnh ban chỉ huy luôn có một Tiểu đoàn đóng
quân,
trong thời gian này là Tiểu đoàn 1 của Thiếu tá Bình.
Trung đoàn có bốn tiểu đoàn, luân phiên nhau
đóng quân tại ba căn cứ kể trên, và Tiểu đoàn còn lại về hậu cứ Trung
đoàn dưỡng
quân vừa lo phòng thủ. Thời gian dưỡng quân chừng ba bốn ngày, có khi
tuần lễ.
Rồi hết kỳ hạn, Tiểu đoàn này lên vùng hành quân để cho Tiểu đoàn kia
về nghỉ.
Tại ban chỉ huy nhẹ của Trung đoàn
chỉ có một Sĩ quan và hai người lính truyền tin. Căn hầm lớn nằm đối
diện với
bãi đáp trực thăng, được ngăn làm hai có lối cửa thông, hầm nhỏ là chỗ
sinh hoạt,
hầm lớn là phòng thuyết trình có bày bàn ghế và một tấm bản đồ lớn ghi
chú đầy
đủ bằng bút mỡ màu, xanh là của các đơn vị bạn, đỏ là của địch, và vàng
là những
vùng khả nghi.
Nơi căn cứ này, trực thăng đến nhiều
hơn các căn cứ khác. Khi có cuộc hành quân lớn, từ vị Tư lệnh Quân đoàn
đến Sư
đoàn thường đáp trực thăng xuống căn cứ này, còn vị Trung đoàn hầu như
lngày
nào cũng lên vùng hành quân thị sát. Qua máy truyền tin, ông liên lạc
với các
Tiểu đoàn trưởng để thăm hỏi tình hình và các hoạt động của đơn vị.
Trước khi
trở về hậu cứ, ông thường xuống căn cứ này để nghe thuyết trình. Đi lên
vùng
hành quân của ban chỉ huy nhẹ, thường gọi quen cái tên là đi relève. Đã
qua ba
tuần lễ, toán của Trung úy Tường đang ở đây. Mỗi ngày ông lên Tiểu đoàn
ăn cơm,
còn lính của ông tự túc, họ nấu ăn với gạo tươi, có khi ăn cơm sấy và
mì gói
thay bữa. Buổi đầu gặp Thụy, hai người trò chuyện cũng tâm đắc. Vào
buổi chiều,
hai người chơi cờ tướng. Thụy hỏi chuyện về công việc, được ông cho
biết, mỗi
tháng các toán relève lên thay phiên, và
thời gian ở căn cứ này, không lúc nào dưới một tháng.
Những ngày ở trong ban chỉ huy Tiểu
đoàn tương đối dễ chịu. Thụy đã nghe quen về lệnh lạc, chuyển đạt các
thông tin
hành quân và cách mã hóa các từ ngữ trong hệ thống truyền tin. Từ nơi
căn cứ,
trong cái lạnh của mùa đông, có những hôm nắng, có những giờ khắc trận
mưa kéo
dài, và bao quanh căn cứ là suối rừng, bóng núi, sương mù, Thụy cảm
nhận rằng,
dù chưa phải ngửi mùi súng đạn nhưng ở nới đây, cũng đã thấm được một
chút gì
hương vĩ của chiến trang, rất khác biệt với thành phố. Ngày lên căn cứ
hành
quân, ngoài những thứ cần quân dụng và cá nhân cần mang, Thụy còn đem
theo hai
cây thuốc lá quân tiếp vụ loại nặng, ít gói thuốc thơm và một ký cà
phê. Thuốc lá,
Thụy hút nhiều, mỗi ngày nguyên một gói. Thực ra, với cái rét miền núi
trong
mùa đông, một gói, không đủ, nhưng Thụy cố gắng cầm chừng. Thực ra, mỗi
chuyến
tiếp tế, anh có thể nhớ hậu cứ mua, và trả tiền qua hệ thống của Tiểu
đoàn.
Thụy cũng sắp rời công việc ban 3 Tiểu
đoàn để ra ngoài Đại Đội II. Những ngày qua, các hoạt động hành quân bên ngoài vẫn vô sự. Ở vùng này, rất ít có
đơn vị chính quy của miền Bắc, hoạt động thường xuyên là du kích địa
phương. Có
nhiều cuộc chạm súng lẻ tẻ, và trong khi hành quân lục soát, đơn vị ở
ngoài bắt
được một vài tên du kích, cùng số người khả nghi của địa phương. Thế
nhưng,
trong sự yên bình, cũng là một thời gian chuẩn bị của địch quân về
những trận
đánh lớn. Nơi vùng này, xưa kia được coi là chiến khu.
Liên An vẫn còn được nhớ và nhắc lại
một đôi lần. Thế nhưng, cô gái đã không
muốn gợi ra nỗi buồn trong lòng Thụy, có lúc, tiếng nói của cô làm Thụy
vui
lên, tưởng như cô đang ở bên anh. Ngày còn trong quân trường Thủ Đức,
một tối
khuya ngồi trên vọng gác, anh đã hình dung Liên An và trò chuyện cùng
cô. Anh
nghe tiếng nói của cô như tiếng chim. Và qua tiếng nói, cô đã cho anh
thấy một
nụ cười trong cặp mắt. Bên nhau trong trí tưởng, anh đã muốn cô ở bên
anh cho đến
giờ thay phiên ác, nhưng độy nhiên, cô đứng dậy đòi ra đi.
-Em đi đến
đâu nữa ?
-Em đến một
phương trời khác.
-Sao, em muốn
xa anh.
-Không đâu,
em vẫn là cánh chim nhỏ bé của anh.
-Vậy thì,
anh giữ lại em, không cho em bay, dù là bầu trời này quá rộng.
-Không, đếm
mùa thiên di.
-Em không
bay được.
-Em bay đây.
Cô gái tan biến và anh chợt nghe có
tiếng súng nổ. Đó là một giấc mơ trong lúc Thụy chờn vờn, thèm có được
một giấc
ngủ. Trương đang dạy học ở Qui Nhơn. Hai người bạn tuy vẫn nhớ nghĩ đến
nhau,
nhưng không có thư từ. Thụy đã gặp Bảo của Trương, nhưng rồi, cũng như
Huê, Bảo
xa Trương và lấy người chồng là một quân nhân.
Hôm ấy, sau bữa ăn trưa ở nhà Trang
đến hai giờ chiều Thụy đứng lên xin kiếu từ. Thu cũng về theo, nhân đó,
Thụy mời
Thu ghé vào một quán nước để được chuyện trò riêng tư. Hiểu ý Thụy, Thu
mỉm cười.
Vào trong quán, Thụy và Thu cùng gọi
cà phê. Cà phê nóng, không pha sữa.
-Về Huế, Thu
dạy học trường nào ?
-Thu dạy ở
Hàm Nghi.
-Anh Nguyên
tôi, ngày xưa học ở đó .
-Anh, thì học
ở đâu.
-Nhiều nơi,
và cũng nhiều trường.
-Thu biết
anh có viết văn, đúng không ?
-Ờ, cũng là
một niềm vui nhỏ.
Cà phê phin nguyên chất, đặc quánh,
thơm ngon.
-Những người
viết văn như anh đâu thiếu được hai thứ cà phê, thuốc lá.
Thụy giải thích rõ hơn:
-Tôi uống cà
phê, ghiền hút thuốc loại nặng, nhưng không phải hai thứ đó giúp tôi
làm nhà
văn .
-Có, hay
không, thời gian trả lời.
-Đúng, cô là
cô giáo đang giảng bài.
Thu mỉm cười nhìn Thụy. Một lúc sau,
nàng hỏi:
-Nói thực với
em, anh có bạn gái chưa ?
Thụy đáp:
-Bạn gái thì
có nhiều, nhưng không được ai làm người yêu cả.
-Anh chỉ biết
giữ kẽ, chứ tâm hồn nhà văn, đâu có vắng được những bóng hồng.
-Bóng hồng
trong tưởng tượng.
Tự nhiên, Thu cảm thấy phân vân. Vào
quán, nàng nghĩ rằng, nhân thể gặp nhau, anh có một đôi lời tình cảm
với nàng.
Nhưng anh tỏ ra mình một người lính, một cuộc đời bị ám ảnh bởi không
khí chiến
tranh.
Mới ngày đó, một tháng đã trôi qua.
Thiếu tá gọi anh và nói:
-Ngày mai,
có trung úy Chánh đưa anh ra Đại Đội.