*





*

MỘT

Trứng Âu Cơ và đôi chân màu môn luộc.

 

Các bạn thân mến, không, chúng tôi không bao giờ chết, chúng tôi vẫn sống mãi trong xã hội tươi đẹp này, cái xã hội mà chúng tôi đã góp máu xương xây dựng chúng”.

 

Bàn tay xậm nâu, đầy những đường gân nổi, lấm tấm những nốt đồi mồi đen, đang run run vuốt thẳng những trang bản thảo viết tay rồi sau đó rút kính xuống lau, ông Bảy Háp có vẻ nôn nóng đợi chờ chúng tôi phát biểu ý kiến. Nôn thì đâu phải một mình ông nôn. Còn một tháng nữa Tết rồi. Năm nay, giờ này các đoàn khác đều chuẩn bị tuồng Tết đâu ra đó. Chỉ có cái gánh Thanh-Xuân này già kén kẹn hom để rồi bao nhiêu kịch bản khá đều bị nơi khác phỗng tay trên hết.

Tuồng “Huyền thoại một vầng trăng” tôi xin được của Lâm Thành sớm hơn ai hết nhưng trưởng đoàn Năm Cơ cứ sợ nhân vật phản diện trong ấy hơi giống sếp mình qua một chi tiết nhỏ nên cứ bàn ra. Chẳng ngờ, đoàn Hương Trầm đưa lên duyệt, sếp gật đầu cái rụp làm cả đám tiếc ngẩn ngơ.

Kịch bản “Người mất quê hương” cũng do tôi nài nỉ tác giả Bích-La cho người chuyển thể, phó đoàn Bảy Dự lại sợ anh Hai Ðê vốn đã rất không ưa những kịch bản đề cập tới chuyện vượt biên nên đề nghị đoàn không nên dại dột đụng vô. Ôi, mà cái anh Hai Ðê đó có cảm tình với ai đâu, ngoài những sáng tác của ảnh. Tất cả đều là những chuyện không lường trước được. Nhiều tuồng, ai cũng thấy không ra tuồng, nhưng vì anh Hai khen tận nóc nhà nên các nhà phê bình chung quanh cũng xúm lại, khen theo tuốt trời xanh. Lại có tuồng, anh Hai rút cái kính hiển vi ra dí vào một câu nói, coi như đứt vốn cả đoàn... Sợ cho nhiều vô, rốt rồi đoàn Ánh Dương liều mạng dựng, anh Hai có ghé coi, khen tuồng đáp ứng được sự mong đợi của quần chúng. Diễn viên bên đó lãnh lương cữ 4, cữ 5. Lúc đó, lãnh đạo đoàn Thanh Xuân mới ngồi than trời trách đất.

Bây giờ, thì đã quá trễ rồi. May sao, năm nay là năm kỷ niệm hai mươi năm Tết Mậu Thân, Sở Văn hóa có phát động phong trào viết kịch về biến cố lịch sử nầy. Nghe nói đâu được năm, bẩy vở gì đó. Nhưng ngoài đoàn kịch nói Hồng Ðăng lãnh một cây vàng của Sở để làm vở “Lại một mùa xuân”, đa số các kịch bản nầy đều không được các đoàn còn lại săn đón cho lắm. Mùa xuân, khán giả sợ nói đến cái chết, chiến tranh. Mà nhắc lại Mậu Thân thì làm sao xa lìa những điều đó được. Ða số các đoàn đều tìm cách lánh né. Ðoàn Thanh Xuân thì lúc này không còn kén chọn nữa rồi.

Ông Bẩy Háp là một tác giả viết tương đối cẩn thận. Những vở trước của ông (mà ngó bộ vở này cũng vậy) đạt yêu cầu cao về chính trị, nhưng không bán vé được. Ông được Năm Cơ mời đọc vì ông có chân trong Hội Ðồng Nghệ Thuật của Sở, vở sẽ không sợ bị duyệt tới, duyệt lui trong thời gian cấp bách. Bẩy Dự thì hy vọng một tay đạo diễn có nghề nào đó sẽ cứu được vở về mặt doanh thu.

Mọi người đều có vẻ e dè, không muốn phát biểu sau khi ông Bẩy đọc xong lời thoại cuối cùng của nhân vật nữ chính: “không, chúng tôi không bao giờ chết, chúng tôi vẫn sống mãi”. Trong những buổi này, cái Hội Ðồng Nghệ Thuật của đoàn tôi, thường thì không biết nói gì. Ðúng hơn là ít ai dám nói thẳng những ý nghĩ của mình, có chăng thì cũng chỉ là những ý kiến hết sức phụ, hết sức râu ria, Nói gì thì nói, người trực tiếp lãnh đủ là diễn viên chúng tôi. Ở nhiều đoàn, các diễn viên chính thường giữ vai trò quan trọng trong việc chọn vở. Ở đoàn nầy cũng vậy, mọi người đều có vẻ như đợi chờ phát biểu của tôi và Khánh Huy. Huy thò tay dưới bàn, bấm khẽ vào tay tôi, nháy mắt, ra hiệu xù đi. Dĩ nhiên là tôi không thích vở “Mùa xuân, em vẫn đợi” nầy rồi. Vấn đề đặt ra không có gì mới. Cái nhìn về các nhân vật Mỹ, sĩ quan Ngụy vẫn đơn sơ như hồi mới giải phóng ở các vở kịch phường khóm nghiệp dư. Hình ảnh anh giải phóng quân đẹp một cách bài bản, không thuyết phục. Nhân vật nữ trong ấy cũng không có gì đặc sắc so với những cô gái tôi đã gặp ngoài đời nhưng tôi phải phát biểu như thế nào đây cho ông Bẩy Háp đừng buồn, để thuyết phục Năm Cơ, Bẩy Dự đừng dại dột mà đầu tư vào mặc dù cái thời hạn một tháng khắc nghiệt đang lù lù trước mắt.

Và tôi sẽ phát biểu gì đây khi máu vẫn đang âm ỉ chảy giữa hai chân tôi. Tôi ngó ra ngoài cửa sổ. Những áng mây trôi uể oải luời biếng. Trên cành xanh cây muồng hực hở hoa vàng. Những con chim tôi không biết tên đang lượn trên nệm hoa. Màu nâu của chúng sáng hơn màu nâu của trái muồng một chút. Trắng, xanh, lục, nâu, vàng, đó là những màu của bức tranh ngoài cửa sổ. Tôi muốn nhìn nó để quên đi mầu đỏ ám ảnh của máu. Không phải máu của tôi mà máu của con tôi.

Năm Cơ đã phát biểu xong. Ông đề nghị nên bớt người chết đi. Cứ giữ kiểu khăn sô trắng xóa sân khấu kiểu đó thì Tết phải diễn tuồng cũ. Ít nào cũng phải mồng 10 mới dám khai trương vở này. Bẩy Dự đề nghị có lẽ phải ráng mời cho được đại đạo diễn Huỳnh Ba. Ông sẽ phá được sự nặng nề của những cái chết cuối vở. Ðoàn Giang, phó đoàn ngoại vụ thì đề nghị bỏ hẳn đoạn cuối đi làm ông Bẩy Háp phản đối quá trời. Ông kêu nhân vật của ông đẹp nhất trước lúc chết mà bỏ đi thì còn gì là tuồng. Khánh Huy thì nói rất gọn. Anh cho biết anh không thích nhân vật nam chính trong vở. Nếu dựng, anh đề nghị giao Minh Hiền đóng, anh sẽ ngồi ghế dự bị, đúp vai. Ông Bẩy Háp hỏi anh có yêu cầu sửa đoạn nào không. Huy chỉ nói, vai không hợp với cháu, vậy thôi!.

Tới phiên tôi phát biểu rồi đây. Theo một cách thức khá phổ biến, tôi mở đầu bằng vài lời ngợi khen rồi cố gắng trình bày những suy nghĩ của mình cho thật tế nhị. Sợi gân máu hai bên thái dương của ông Bẩy Háp giật mạnh. Nó lại làm tôi liên tưởng tới những giọt máu cứ tiếp tục rỉ ra bên dưới của tôi. Ðột nhiên tôi không muốn nói gì nữa hết. Tại sao giờ nầy tôi ngồi đây? Ờ, tại sao giờ nầy tôi lại ngồi đây, không đi nhanh tới Bệnh Viện Phụ Sản cho rồi?. Không trốn được sự thật đâu, Châu ơi! Trần Thị Bội Châu! Ðào cải lương Bội Bội Châu! Ôi, tôi có là gì đi nữa thì tính mạng của con tôi cũng đang nguy hiểm vô cùng.

Tôi chợt đứng phắt dậy, xem đồng hồ, xin lỗi phải đi vì có hẹn quan trọng. Năm Cơ la làng chói lói, không được, quan trọng gì cũng không bằng sinh mạng của bẩy chục con người ta trong cái Tết nầy, cô phải ở lại gút cho xong có dựng hay không để còn tính tới. Bắt chước Khánh Huy, tôi cũng nói gọn. Nếu có dựng, chú để Thảo Uyên đóng thay. Cháu sẽ đúp như Khánh Huy vậy. Rồi tôi hối hả đi ra khỏi phòng. Có tiếng than lớn của ông Bẩy Háp sau lưng. Ðào kép chánh không ai chịu đóng thì còn gì tuồng của tôi nữa. Ðoàn Giang phóng mấy bậc cầu thang dẫn xuống tầng dưới rượt theo tôi. Ở lại một chút đã bà ơi, không dựng vở nầy thì phải kiếm ngay một vở khác, không thôi Tết hát tuồng cũ, chết chùm cả đám. Tôi nói, để mai đi! Tôi còn ở lại đây giây nào thì người chết là tôi, còn các anh coi vậy chớ còn sống lâu lắm.

Trên cầu thang xoắn đi xuống, hai chân tôi run rẩy mềm oặt. Tôi la tôi! Tại sao lại nghĩ tới chữ chết trong lúc nầy. Tôi ngồi xuống ở bậc thang cuối cùng. Dần, vợ anh Hai Bảo Vệ đang dỗ con, vội bỏ đó lại đỡ tôi. Tôi nói kêu giùm tôi chiếc xích lô lại Bệnh Viện Phụ Sản. Chị ta lại đét thằng con một cái rồi mới đi. Thằng nhỏ khóc nấc lên. Tôi ngó nó. Nước mắt tôi muốn ứa ra. Nó lem luốc, nước mắt nước mũi chảy lòng thòng. Cái đầu hớt lam nham bôi thuốc xanh vì đầy ghẻ chốc. Cái lưỡi đỏ hỏn của nó đang cong giật giữa mấy hột răng đen vàng vì bị xiết ăn. Chiếc áo đầm cũ dường như của chị nó để lại đã ố vàng đen xỉn và rách te hai bên hông. Nhưng ơi trời, nó có thật! Còn con tôi. Hà Anh Ngạc! Tôi gọi tên nó âu yếm, thầm thì. Con hãy sống, nghe con!.

Dần định đỡ tôi ra xe nhưng tôi ra dấu tự đi được. Chị cho biết đã ngã giá hai trăm năm chục đồng, khoe vậy là rẽ được ít nhất năm chục đồng. Tôi mở bóp ra cho chị một trăm đồng, bảo cho thằng Ty ăn kẹo. Thằng nhỏ khôn lanh nghe nói tới tên mình là im bặt tiếng khóc. Trên mặt nó có một vẻ gì đó nghi ngờ và nó chỉ thật sự cười khi mẹ nó dí tờ giấy bạc vào mũi nó rồi giật đi lúc nó quơ chụp. Nó đã biết thế nào là mùi tiền. Tôi bỗng nhớ tới tựa đề của một truyện trinh thám ngày xưa “Tiền và Máu”. Phải chăng, bây giờ đó là hai ám ảnh lớn nhất của tôi. Còn nghệ thuật? Còn khán giả? Còn ánh đèn sân khấu? Còn Hà Thạch Hãn - chồng tôi?, còn nồi cơm toàn gánh?, còn những ai ai?

Anh xích lô nhìn ra tôi là đào Bội Bội Châu. Anh khoe anh đã khóc khi xem “Ðời cô Nguyệt”, “Vực thẳm non cao”, “Tình sử Nùng Lan”, “Anh hùng gánh củi”, “Chín đỏ sầu riêng”à Anh hỏi tôi sao khóc được trên sân khấu hay quá vậy? Tôi nói đùa, cứ bôi dầu cù là vô là khóc được ngay. Anh biết tôi giỡn nên cứ theo gặng hỏi mãi. Làm sao trên quãng đường trị giá hai trăm năm chục đồng xích lô tôi có thể nói hết cho anh hiểu cách ép tim để nước mắt chảy ra ngoài.

Khi tôi bước xuống xích lô, nhiều người bán hàng quanh cổng bệnh viện dường như đã có xem tôi diễn, cũng cười ngỏn ngoẻn như đã quen tự kiếp nào. Anh xích lô cương quyết không lấy tiền. Tôi liếc vội nhìn lên tấm nệm bọc vải màu xanh lợt của anh, sợ mình làm bẩn thì ê mặt nhưng may quá, không sao! Tôi bước hết sức chậm vào bên trong tựa trẻ em tập đi như là tôi sợ nếu bước nhanh quá con tôi sẽ vỡ oà ra mất. Vậy mà có đêm diễn, tôi đã đi những đường vũ đạo xoạc cẳng gần 180 độ khi bụng vẫn đau dần. Có tiếng xì xào bàn tán sau lưng tôi. “Chồng cổ đâu sao không đưa cổ tới? ”. - “Tao biết mặt thằng cha đó rồi”. - “Nghe nói làm báo “Hoa Niên”. - “Ðâu có, chuyển qua Ðài Phát Thanh rồi”. - “Ðẹp trai không mậy?”. - “Dĩ nhiên là phải đẹp!”.

Khán giả của em đang nói về anh đó Hãn. Dù sao tên anh cũng đã gắn với tên em rồi. Dĩ nhiên là phải đẹp! Còn con nữa. Hà Anh Ngạc! Dĩ nhiên là con cũng phải đẹp, nghe con! Tôi lên phòng sản bệnh kiếm bác sĩ quen. Cô ta la như thường lệ. Ði giờ nầy làm sao siêu âm được. Tôi đã nói với chị rồi. Sáng dậy sớm, khoan đi tiểu cho bụng căng to mới dễ siêu. Tôi nói nhỏ, nhưng lúc trước bụng tôi mới một tháng. Còn bây giờ đã lớn bộn rồi, có thể không cần nước. Bác sĩ Thái Hoa đẩy tôi. Ði uống nước đi bà nội, cho chắc ăn! Tôi cầm tờ giấy của Thái Hoa xuống đóng tiền rồi lấy thẻ. Khi tôi đưa 200 đồng, cô thâu ngân trả lại. Tưởng tiền bị rách té ra không phải. Tiền phí tổn đã tăng 500 đồng. Thời gian đã trôi qua. Nếu không có gì bất trắc, giờ nầy con đang tượng hình dần. Không biết cái gì hình thành trước. Trái tim hay bộ não, cái miệng hay bàn tay?.

Tôi lại bước những bước đi của trẻ nhỏ tiến dần xuống phòng siêu âm với miếng phiếu số 28 trên tay. Số bù trất. Sẽ không còn gì. Quang cảnh rất đông đúc trước cửa phòng. Những người chồng đưa vợ đi lăng xăng mở bi-đông nước đem theo cho vợ uống. Có những cô vợ nhăn nhó đòi đi đái vì không chờ nổi đến lượt mình. Cô gái ngồi nhận hồ sơ nơi cửa bị cự nự vì cứ để mấy người không có phiếu nhưng quen biết sao đó với những người đồng nghiệp khác, được vào trước. Tôi tới bên bình lọc nước, rót đầy mấy ca uống rồi kiếm chỗ ngồi đợi. Ðôi kính đen to vẫn không dấu được tôi. Một bà hình như người Tàu ngồi nép sát tấm thân khá đồ sộ để nhường một chỗ trên băng gỗ cho tôi.

Dọc hành lang chúng tôi ngồi, người tới lui tấp nập. Những chiếc xe đẩy mang nước, thuốc, dụng cụ y tế chạy tới chạy lui. Có cả những bệnh nhân được ngồi trên xe lăn đưa đến đây xếp hàng. Cô y tá ló mặt ra cho biết phải nghỉ một tiếng để bảo dưỡng máy. Chị vợ năn nỉ xin anh chồng cho đi đái nãy giờ, nay được dịp chạy xổ đi. Nhiều tiếng chưởi lầm bầm. Có tiếng nói:

-           “Ðám ăn gian chen trước chạy re vô cầu tiêu hết rồi, chưởi ai nghe!”.

-           Có bầu bì không nên dối gian kẻo sanh con có đường ăn không đường ỉa.

Cô gái ngồi nhận hồ sơ cảm giác người ta nói xiên xỏ mình nhưng cố tình bơ đi. Cô còn quá trẻ, mặt sáng, hơi gầy như tôi hồi còn con gái.

Hãn sẽ lại nổi nóng nếu trưa nay tôi không về đúng hẹn dể dùng cơm chung như đã hứa. Sau khi máy chạy lại, tôi rất muốn xin được ưu tiên nhưng lại thấy mắc cỡ vì ý nghĩ này. Những người phụ nữ đang ngồi đây, ai lại không có một người đang đợi ở nhà, không chồng thì con, hoặc một người thân nào đó. Có tiếng xôn xao ở phía thang máy. Người ta chỉ cho chúng tôi thấy chiếc xe hơi đang mở cánh cửa sau chờ chở người bệnh về. Nghe nói bà ta bị thai trứng. Mổ xong, bác sĩ chê nên người nhà thuê xe mang về.

Thai trứng! Tôi đã được thấy những mẫu thai trứng được ngâm formol cất trong những thẩu thủy tinh đậy nắp. Chúng nằm chung với những cái thai bất thường khác trong một căn phòng cuối dãy hành lang nầy. Khi tôi còn là con gái, đang học năm cuối của trường Nghệ Thuật Sân Khấu, đi vào đây diễn một vở kịch ngắn vui về kế hoạch hóa gia đình cho nhân viên bệnh viện nầy xem nhân ngày 8/3. Trong lúc chúng tôi đứng coi, một đứa bé gái khoảng mươi tuổi chen vào coi đã bị cha nó, một ông già làm thợ hồ cho dãy nhà mới gần đó, kêu con ra, bợp cho một bợp vào đầu. Nhiều người không cho con gái chưa sinh đẻ coi, sợ bị ảnh hưởng xấu cho đứa con tương lai. Y như những người mẹ sắp có con thường treo tranh ảnh những đứa bé xinh xắn với hy vọng con mình sẽ đẹp như vậy. Bỗng dưng, như hiện rõ trước mặt tôi từng cái lọ thủy tinh với những thai nhi dị dạng chất đầy phòng. Những mảng trứng như san hô hoặc những chùm nho li tià Thuở ấy, tôi đã tò mò quan sát kỹ. Quá kỹ! Sau nầy, qua những buổi hội họp, có dịp làm quen với bác sĩ Phi, phó giám đốc của bệnh viện nầy, một nhân vật khá nổi tiếng của thành phố, chị nói riêng với tôi:

- “Tôi thường dự những hội nghị thế giới, trình chiếu những thai nhi dị dạng ấy với lời phỏng đoán rằng đó là một trong những hậu quả của chất độc mầu da cam. Tôi cũng đã chứng kiến nhiều người phụ nữ nước ngoài ói mửa, bước ra khỏi phòng chiếu khi mới xem một vài hình ảnh đầu tiên. Hình như những người phụ nữ ấy cũng đang cấn thai. Ðôi khi tôi cũng tự hỏi, nên chăng, cứ đi làm công việc vạch vết thương mình ra cho thiên hạ xem như vậy!”.

Chiếc thang máy hạ xuống, mở ra. Chiếc băng ca bằng inox được đẩy tới. Ðập vào mắt tôi là hai bàn chân trắng tím như mầu khoai môn luộc của người sản phụ mang trong lòng chùm thai trứng. Chiếc mền nâu sọc đỏ trùm kín mặt, đầu. Ðột nhiên tôi muốn ói! Cùng lúc đó cửa phòng siêu âm mở, không biết đã đến số 28 của tôi hay vì tôi là đào cải lương Bội Bội Châu mà người ta đẩy tôi vào.

Phụ trách máy siêu âm té ra cũng là một người quen. Cô ta trùng tên với tôi. Cô nói:

- “Bác sĩ Thái Hoa biểu chị làm siêu âm mấy lần rồi bây giờ mới đi được đó hả?”.

Tôi kể mấy lần trước, tôi đã lấy số rồi, uống đầy một bụng nước rồi, nhưng sắp được gọi bổng phải về. Một phần vì công việc. Tôi không dám cà kê thêm vì sợ Hãn nổi nóng nếu cứ bị ngồi ăn một mình. Cô gái tên Bạch Châu cười:

- “Chị làm như cái máy siêu âm nầy là ông kẹ không bằng. Phải biết tình hình để liệu mà chữa trị chớ”.

Tôi nằm trên giường, kéo xệ quần xuống, hơi mắc cỡ với Bạch Châu vì chiếc quần lót bằng vải thô của mình. Vâng, tôi, nữ diễn viên nổi tiếng Bội Bội Châu không dám mua một chiếc quần lót rẽ tiền bằng vải trơn láng của Việt Nam mà phải chắt mót những mảng vải vụn lại để may thành quần nhỏ. Gia đình tôi cứ thắc mắc sao tôi làm ra tiền khá nhiều nhưng không hiểu tiền chạy đi đâu hết. Mẹ tôi thường đay nghiến, nó lại dồn tiền lo cho thằng Hãn thôi, chớ gia đình nầy đâu có hưởng được cái gì. Dẹp! Lại tiền và máu, máu và tiền!.

Cô y tá phụ với Bạch Châu dường như biết tôi mắc cỡ nên giả lơ quay mặt đi. Bạch Châu xoa một chất gì như mở trên da bụng tôi, vùng dưới lỗ rún, rồi bắt đầu di chuyển máy. Tôi ngó chiếc máy màu xanh sắt đang chuyển động dọc ngang trên bụng và nhìn lên khung ảnh xanh nhợt có những vùng trắng, chấm đen. Bạch Châu nói rất nhỏ nhưng phòng khá yên lặng nên nghe thật rõ:

- “Thai trứng rồi, Bội Châu ơi!”.

Thật tình mà nói, tôi tưởng cô ta đùa. Nhưng khi nhìn kỹ vẻ mặt Bạch Châu, thấy cô y tá phụ việc đang hí hoáy ghi, tôi hiểu rằng không ai đùa những trường hợp như vậy. Tôi không nghe máu chảy giữa hai chân mình nữa. Nhưng tôi cảm giác vùng bụng mình mở hoác ra. Thằng bé tuột ra đang bò chạy ở đâu đó, nước mắt chảy ràn trên mặt. Tôi gọi rất nhỏ: “Con ơi!”.