JOHN LE
CARRÉ
GỌI NGƯỜI ĐÃ
CHẾT
CALL FOR THE DEAD
Lời
giới thiệu:
John
Le Carré là bút hiệu của David Cornwell,
người Anh. Sinh năm 1931. Học Đại học Berne, Oxford. Dạy học tại Eton.
Sau làm
Bộ Ngoại Giao, vì vậy ông không được phép dùng tên thật khi viết. Bút
hiệu Le
Carré, tiếng Pháp có nghĩa là hình vuông, do ông tình cờ nhìn thấy trên
kính một
cửa tiệm ở Luân đôn.
Tuần báo Time đã mô tả ông:
Người viết truyện gián điệp số một của thời đại ông ta hiện
đang sống. Và có lẽ của mọi thời.
Gọi Người Đã
Chết, tác phẩm đầu tay trong đó gói ghém tất cả ước vọng của tác giả,
muốn sử dụng
thể loại gián điệp, một hình thức phổ cập, đại chúng, dể giải quyết
những vấn đề
lớn lao, như văn chương, chính trị, thời đại... Ông còn muốn tìm lại
cội rễ của
nó, vốn bắt nguồn từ bi hùng kịch Hy Lap. — Màn Cuối (The Last Act)
trong Gọi Người
Đã Chết, độc giả, và có thể, chính tác giả cũng không tiên đoán được kẻ
thù sẽ
phản ứng như thế nào: Chúng sẽ làm một điều gì đó. Chắc chắn như vậy.
Chúng ta
còn có cơ hội...
Đối những độc
giả quá quen thuộc với Smiley, nhân vật chính của Le Carré qua những
tác phẩm
The Spy who came in from the Cold, The Smiley People... cơ hội đó là sự
sụp đổ
của chủ nghĩa Cộng sản, chấm dứt Chiến Tranh Lạnh.
Chương Một
Lược sử
George Smiley
Khi Phu nhân
Ann Sercomb kết hôn cùng George Smiley vào cuối cuộc chiến, bà mô tả
trước vẻ sững
sờ của những người bạn khu Mayfair là hắn cù lần không sao chịu nổi.
Hai năm
sau, khi bỏ hắn theo một anh chàng đua xe hơi người Cuba, bà úp úp mở
mở tuyên
bố, nếu lúc này không dứt hắn ra, thì không bao giờ có thể làm nổi
chuyện đó,
và Nam tước Sawley đã làm một chuyến đi đặc biệt tới câu lạc bộ của ông
ta, để
đưa ra nhận xét là con mèo đã ra khỏi cái bị. (1)
(1) the cat
was out of the bag: Bí mật đã tiết lộ. Let the cat out of the bag: To
disclose
a secret. Bản tiếng Pháp dịch là "le grand mot était lâché": Đại ngôn đã được thốt ra.
Nguồn
Nhận xét
này, thoáng một dạo, được coi là một câu dí dỏm, chỉ những người biết
Smiley mới
hiểu. Thấp, mập, bản tánh thầm lặng , hắn có vẻ như tốn quá nhiều tiền
cho mớ
quần áo quá ư tệ lậu, máng lên cái khung lùn như da một con cóc kịch
cợm. Đúng
ra, Sawley dã tuyên bố trong buổi lễ cưới là "Sercomb lấy nhầm một con
cóc
đực phải gió". Và Smiley chẳng biết gì về mô tả này, lịch bịch bước
xuống
hành lang nhà thờ, đi tìm nụ hôn biến anh ta thành vị Hoàng tử.
Hắn giàu hay
nghèo, một gã nhà quê hay một tay giáo sĩ ?. Bà ta moi hắn ở đâu ra vậy
?. Sự bất
xứng đôi càng nổi bật vì vẻ đẹp lồ lộ của Phu nhân Ann, bí mật hôn nhân
còn
tăng thêm vì chú rể và cô dâu không môn dăng hộ dối. Nhưng những lời
ngồi lê
dôi mách vốn chỉ nhìn những người trong cuộc đen trắng rõ ràng, gán cho
họ những
tội lỗi, những động cơ dễ loan truyền theo lối đàm thoại tốc ký. Thế là
Smiley,
không trường ốc, không cha mẹ, không nghề ngỗng, không tài sản hoặc khố
rách áo
ôm, du hành không nhãn hiệu trong toa lính hầu trên chuyến tốc hành xã
hội, chẳng
mấy chốc trở thành món đồ bị thất lạc, và khi vụ ly dị xảy ra rồi qua
di, trở
thành vô thừa nhận trên cái giá bụi của bản tin ngày hôm qua.
Khi Phu nhân
theo ngôi sao của mình đi Cuba, bà có chút suy nghĩ về Smiley. Miễn
cưỡng thán
phục, bà thừa nhận với chính mình, nếu có người đàn ông độc nhất trong
đời bà,
Smiley chính là người đó. Hồi tưởng lại, bà hài lòng vì đã phô rõ điều
này qua
thánh lễ hôn nhân.
Hậu quả việc
ra đi của Phu nhân Ann đối với người chồng cũ không làm xã hội quan
tâm. Thực
tình, xã hội chẳng màng tới những gì xảy ra sau cơn xúc dộng. Tuy nhiên
cũng lý
thú nếu biết được Sawley và đồng bọn đã nghĩ gì về phản ứng của Smiley,
về bộ mặt
đẫy đà với cặp kính, hằn lên vì quá tập trung mỗi lần hắn say sưa đọc
những nhà
thơ Đức chẳng phải hàng đầu, đôi tay mũm mĩm, ướt nhẹp nắm chặt lại
dưới đôi
tay áo lòng thòng. Nhưng thừa dịp, Sawley nhún nhẹ vai buông một câu.
Đi là chạy
ở trên dường một ít". Ông ta như không hay rằng, cho dù Phu nhân chỉ
chạy
đi, một chút con người Smiley thực sự đã chết..
Phần sống
sót trong Smiley cũng chật chìa so với bề ngoài, như tình yêu, hoặc thú
thưởng
ngọan những nhà thơ không được đời biết tới . Đó là nghiệp vụ của hắn,
nghề làm
viên chức tình báo. Hắn thích nghề đó, một nghề đã ân sủng ban cho hắn
những đồng
nghiệp tính khí và gốc gác mù mờ y như hắn. Nó cũng cung cấp điều mà
hắn có lần
yêu nhất trong dời: Dạo chơi như một học giả trong cõi bí ẩn của hành
vi con
người được uốn nắn qua áp dụng thực tế những diễn dịch của chính mình.
Một lúc nào
đó trong thập niên l920 khi Smiley rời ngôi trường không tăm tiếng của
mình, mắt
nhắm mắt mở lần theo những hành lang âm u của học viện Oxford không
tiếng tăm,
hắn ước mơ làm một Nghiên cưú sinh và dâng trọn cuộc đời cho những nhà
văn mờ
nhạt của nước Đức thế kỷ l7. Nhưng người phụ đạo biết Smiley rõ hơn, đã
khéo
léo kéo hắn ra khỏi những thành đạt đúng ra sẽ là của hắn. Thế là một
sáng đẹp
trời, tháng 7 năm l928 một anh chàng Smiley khá hồng hào ngơ ngác ngồi
trước
ban phỏng vấn của Hội đồng hải ngoại về Nghiên cứu học thuật, một tổ
chức thật
vô lý hắn chưa hề nghe nói tới. Jebedee, người phụ đạo, mơ hồ một cách
lạ lùng
trong lời giới thiệu : "Smiley hãy cho họ thử, có thể họ sẽ nhận, và
trả
anh khá hậu đủ bảo đảm cho anh một chốn giao du thanh lịch". Nhưng
Smiley
thấy chán và nói luôn. Hắn băn khoăn, Jebedee vốn rất chính xác, sao lơ
mơ như
vậy. Trong thoáng bực bội, hắn đồng ý hoãn trả lời Học viên chư linh
tới khi đã
được gặp "những con người bí ẩn" của Jebedee.
Hắn không được
giới thiệu với Ủy ban, nhưng đã biết phân nửa những thành viên. Có
Fielding,
chuyên về thời trung cổ ở Pháp thuộc Đại học Cambridge, Sparke, Trường
Ngôn ngữ
Dông phương, và Steed-Asprey, đã có mặt tại bàn danh dự bữa dạ tiệc của
Jebedee
mà Smiley là khách được mời. Hắn phải thú nhận là mình xúc động, Để
Fielding phải
chịu rời những căn phòng của ông ta, khoan nói tới Cambridge, riêng
việc đó đã
là một phép lạ. Sau này, Smiley vẫn nghĩ cuộc phỏng vấn giống như một
điệu múa
quạt, từng cá nhân bộc lộ những phần khác nhau của một toàn thể bí mật.
Sau
cùng Steed-Asprey, hình như vị Chủ tịch, vén màn cuối, và sự thực sừng
sững trước
Smiley với tất cả sự trần trụi chói lòa của nó. Hắn được đề nghị một
chức việc
trong cái mà, vì Steed-Asprey không chọn được một cái tên tốt đẹp hơn,
đã đỏ mặt
diễn tả, là Cơ quan mật vụ.
Smiley xin
có thời gian để suy nghĩ. Họ cho hắn một tuần, chẳng ai đề cập đến
chuyện lương
bổng.
Đêm đó hắn
trọ ở Luân đôn, tại một nơi khá sang và đóng bộ tới kịch viện. Hắn cảm
thấy
lâng lâng lạ thường, và điều này làm hắn lo lo. Hắn biết rõ mình sẽ
nhận, rằng
mình có thể làm vậy ngay tại cuộc phỏng vấn. Chỉ là cẩn thận theo bản
năng và
có lẽ, một ham muốn khả dĩ tha thứ được - chơi trò đỏng đảnh với
Fielding - đã
ngăn cản hắn nhận lời ngay.
Sau nhận tới huấn luyện: những căn nhà vô danh
ở vùng quê, những huấn luyện viên vô danh, những chuyến đi, vô kể số,
và một
triển vọng diệu kỳ ngày càng lộ rõ về một việc làm hoàn toàn đơn độc.
Nơi công tác
đầu tiên khá dễ chịu: Hai năm giảng viên Anh ngữ tại một Đại học Đức ở
tỉnh lẻ.
Thuyết giảng về thi sĩ Keats và những kỳ nghỉ trong những quán trọ dành
cho dân
săn bắn tại vùng Bavaria cùng những toán sinh viên Đức đạo mạo và lang
chạ một
cách trang trọng. Cuối mỗi kỳ nghỉ dài, hắn đem vài sinh viên trong đám
họ về
Anh, và sau khi đã nhắm sẵn những kẻ xài được, hắn chuyển đề nghị bằng
những
phương tiện lén lút, tới một địa chỉ ở Bonn; trong suốt hai năm trời,
hắn hoàn
toàn mù tịt về những đề nghị của mình được chấp nhận hay bị bác bỏ.
Thực tình hắn
chẳng có cách nào biết được những thông điệp của mình có tới nơi nhận
hay
không, và khi ở Anh, hắn không hề liên lạc với Bộ.
Tình tự hắn khi thi hành công
tác thật lộn xộn,
không sao hòa nhập. Công việc gây tò mò nơi hắn, khi đánh giá từ một vị
trí biệt
lập, điều hắn học, một cái gì như là "tiềm năng điệp viên" ở mỗi con
người; khi nghĩ ra những trắc nghiệm chi li về tính tình và hành vi có
thể
thông báo cho hắn về phẩm chất một ứng viên. Cái phần này ở trong hắn
thật vô
tình và tàn nhẫn - Smiley trong vai trò này là một tên lính đánh thuê
quốc tế
chuyên nghiệp, vô đạo đức và không hề có một động cơ nào ngoài chuyện
thỏa mãn
cá nhân. Ngược lại, hắn buồn
rầu chứng kiến khoái lạc tự
nhiên cứ chết dần trong hắn. Bản chất luôn khép kín, hắn thấy mình lúc
này co
rúm lại trước những cám dỗ của tình bạn và lòng chung thủy của con
người; hắn cảnh
giác hết mức, chính hắn, trước những phản ứng bộc phát. Bằng sức mạnh
lý trí, hắn
ép mình quan sát nhân gian với sự khách quan lâm sàng, và, bởi vì hắn
không bất
tử, và chắc không khỏi lỗi lầm, hắn thù ghét và ghê sợ sự giả trá của
đời mình.
Nhưng Smiley là con người tình
cảm, và nỗi xa
xứ ngày càng làm mạnh thêm tình yêu sâu thẳm của hắn với nước Anh. Hắn
ngấu
nghiến những hồi ký về Oxford, vẻ đẹp, sự phóng khoáng trí tuệ, tính
chậm chạp
chín mùi trong những phán đoán của nó. Hắn mơ về những ngày nghỉ lộng
gió mùa
thu ở bến Hartland, những chuyến tản bộ dài trên những vách đá ở
Cornall, mặt
trơn láng, nóng bỏng trước gió biển. Đây là một cuộc sống thầm kín khác
của hắn,
và hắn càng ngày càng thù ghét sự xâm nhập tục tằn của nước Đức mới,
những bước
dậm chân và la hét của đám sinh viên đồng phục, những khuôn mặt sẹo,
kiêu căng
và những câu trả lời hạ cấp của họ. Hắn cũng căm tức cái lối Phân khoa
xía vô
môn dạy của hắn - nền văn học Đức yêu dấu của hắn. Và rồi một đêm, cái
đêm khủng
khiếp của mùa đông l937 khi Smiley đứng ở cửa sổ phòng mình ngắm một
đám lửa trại
lớn nơi sân trường Đại học: Vây quanh ngọn lửa, hàng trăm sinh viên mặt
hồ hởi
bóng nhẫy dưới ánh lửa bập bùng. Và họ ném hàng trăm cuốn sách của họ
vào ngọn
lửa ngoại đạo. Hắn biết tác giả của những cuốn sách: Thomas Mann,
Heine,
Lessing, và hàng loạt những người khác, và Smiley bàn tay ẩm ướt khum
khum
quanh đầu điếu thuốc, ngắm nhìn và thù hận, hả hê trong nỗi chiến thắng
vì đã
nhận diện ra kẻ thù của mình.
l939, hắn có mặt ở Thuỵ Điển,
nhân viên được
bảo chứng của một hãng chế tạo vũ khí nhẹ nổi tiếng của Thụy Sĩ; mối
làm ăn được
ghi lùi lại ngày cho thuận tiện. Cũng để cho thuận tiện, tướng mạo của
hắn đã
phần nào biến cải, bởi vì Smiley khám phá ra hắn có tài nhập vai hơn
hẳn cái
trò thô thiển về thay đổi mái tóc hoặc thêm hàng ria mép nho nhỏ. Trong
bốn năm
hắn đóng vai đi đi lại lại giữa Thụy Sĩ, Thụy Điển và Đức, hắn không
ngờ mình bị
hoảng sợ lâu đến như thế. Hắn mắc cơn kích giật nơi mắt trái, mười lăm
năm sau
vẫn còn, sự căng thẳng vạch những đường hằn trên đôi má phính, trên
trán. Hắn học
được, làm sao để có thể không bao giờ ngủ, không bao giờ xả hơi, làm
sao cảm thấy
nhịp đập hoài hoài của trái tim của chính mình bất kể ngày và đêm, làm
sao với
tới những cực điểm của nỗi cô đơn và sự thương thân, làm sao nhận ra
niềm dục vọng
bất thần không đắn đo về một người đàn bà, một ly rượu, một vận động,
và thuốc,
bất kể thứ thuốc gì bứng đi sự căng thẳng của đời mình.
Trên cái nền đó hắn làm doanh
thương đích thực
và làm gián điệp. Theo thời gian, mạng lưới mở rộng, và những nước khác
chỉnh đốn
sự thiếu hụt về tầm nhìn xa và việc chuẩn bị.
Năm l943, hắn được gọi về.
Trong sáu tuần hắn
mong quay lại, nhưng chảng bao giờ họ cho hắn đi, "Anh hết thời rồi",
Steed-Asprey bảo hắn. "Huấn luyện người mới. Nghỉ ngơi thôi. Lấy vợ
chẳng
hạn. Hưởng nhàn".
Smiley ngỏ lời với cô bí thư
của Steed-Asprey,
Phu nhân Ann Sercomb.
Chiến tranh chấm dứt. Họ trả
lương thôi việc,
hắn đưa cô vợ đẹp về Oxford để đắm mình vào trong những áng văn tối tăm
của nước
Đức thế kỷ l7. Nhưng hai năm sau, Phu nhân Ann ở Cuba và một tiết lộ
của một
thư ký mật mã trẻ tuổi người Nga ở Ottawa phát sinh yêu cầu mới đối với
những
người có kinh nghiệm như Smiley.
Công việc mới mẻ, mối đe dọa mơ
hồ, thoạt đầu
hắn thích. Nhưng đám trẻ nhảy vô, đầu óc tươi tắn hơn, có lẽ vậy.
Smiley không
phải thứ tài nguyên để thăng tiến, điều này thấm dần ,và Smiley bước
vào khoảng
trung niên của cuộc đời mà chưa từng hay mình dã có thời trẻ tuổi, và
hắn - qua
cung cách lịch sự nhất khả dĩ có được - bị xếp xó.
Mọi chuyện đổi thay.
Steed-Asprey đi rồi. Ông
chạy trốn thế giới mới qua Ấn Độ truy tìm một nền văn minh khác.
Jebedee chết.
Ông đáp xe lửa tại thành phố Lille, năm l94l, cùng một hiệu thính viên
trẻ người
Bỉ, và người ta không còn được tin tức gì về họ. Fielding ăn nằm với
một luận
án mới về Romain Rolland - chỉ Maston là còn; Maston, kẻ chuyên nghề
hoạn lộ,
được tuyển mộ trong thời chiến, Cố vấn tình báo của Hội đồng Bộ Trưởng.
"Người", Jebedee nói, "chơi quần vợt quyền lực ở sân
Wimbledon". Liên minh Bắc Đại Tây Dương, những biện pháp tuyệt vọng
được
người Mỹ để mắt tới, đã làm toàn bộ bản chất Điệp vụ của Smiley trở nên
lỗi thời.
Những ngày tháng với Steed-Asprey đã xa khuất mù, cái thuở bạn không
chừng đã
nhận lệnh qua ly rượu mạnh trong những căn phòng của ông ta ở Magdalen;
chất
tài tử ngẫu hứng của một dúm người đầy tài năng, lương bổng chẳng màng
đã nhường
chỗ cho tính hữu hiệu, chất thư lại và tật bè phái của một nha sở cỡ
nhà nước -
Thực tình đều trong vòng thao túng của Maston, với những bộ đồ đắt
tiền, tước
phong quí tộc, mớ tóc xám uy nghi, mớ cà vạt màu ngân nhũ, Maston,
người nhớ cả
sinh nhật cô thư ký của ông ta, một người mà phong thái được truyền
tụng giữa mấy
bà mấy cô tại văn phòng tiếp tân; Maston xin lỗi về việc mở rộng giang
sơn của
mình, ân hận phải rời tới những căn pnòng rộng hơn nữa; Maston chủ tọa
những buổi
tiệc thanh lịch, tại nhà nghỉ ở Hentley, và ngấu nghiến những thành
công của
thuộc hạ.
Họ đã đem ông ta vào, trong
thời chiến, người
công chức chuyên môn từ một nha sở chính thống, một người lo giấy tờ và
hòa nhập
sự xuất sắc của nhân viên với guồng máy quan liêu nặng nề. Thật là một
an tâm
cho mấy ông lớn khi xử sự với một người họ rành rẽ, một người có thể
giản lược
mọi mầu thành mầu xám, kẻ biết những ông chủ của mình, và có thể thông
thuộc đường
đi nước bước giữa họ. Và ông ta làm điều đó thật khéo léo. Họ thích lối
hạ mình
của ông ta khi bảo vệ những hoang đàng của thuộc hạ, sự uốn éo khi
hoạch định
những cam kết mới. Ông ta cũng không chê lợi lộc của một tay áo
chùng.dao găm bất
đắc dĩ, áo chùng cho quan thầy còn dao găm cho đệ tử. Chức vụ ông ta
ngụy trang
thật kỳ cục. Không phải Giám đốc sở trên danh nghĩa, mà là Cố vấn Tình
báo cho
Hội đồng Bộ Trửơng, và Steed Asprey đã mô tả ông ta, một lần cho tất cả
mọi lần,
là quan Tổng quản Thái giám.
Đây là một thế giới mới đối với
Smiley: những
hành lang sáng choang, những người trẻ thông minh. Hắn thấy mình quê
mùa, cổ hủ,
thấy nuối tiếc căn nhà trệt ọp ẹp khu Knightsbridge, nơi mọi chuyện bắt
đầu. Bộ
dạng hắn như cũng phản chiếu sự thiếu thoải mái này dưới dạng suy nhược
thể chất,
khiến cho hắn hơn bất cứ lúc nào, ngày một thêm lọng cọng, giống y
chang một
con cóc. Hắn nhấp nháy con mắt nhiều hơn, và mang thêm biệt danh Chuột
nhũi.
Nhưng cô thư ký mới vào nghề khâm phục hắn, và luôn gọi hắn là "Gấu
cưng" của tôi.
Smiley lúc này đã quá tuổi đi
công tác nước
ngoài. Maston đã rõ ràng trong việc này: " Bạn ơI, dù sao không nhiều
thì
ít bạn cũng bị cuốn hút vào tất cả mọi chuyện sục sạo trong cuộc chiến
rồi .Tốt
hơn nên nằm nhà ông bạn già ạ, và giữ cho bếp lửa cháy đều".
Điều này phần nào giải thích
cảnh Smiley ngồi
ghế sau một chiếc taxi ở Luân đôn vào lúc hai giờ sáng bữa thứ tư, ngày
mồng 4
tháng giêng, trên đường tới Gánh Xiếc Cambrigde (1)
(1)
Sở mật vụ (CTND)
CHƯƠNG
II
Không
hề tạ khách
Trong
taxi hắn cảm thấy an toàn. An toàn và ấm
áp. Cái ấm là món hàng chui, tuồn từ chiếc giường, được tích trữ nhằm
chống đỡ
đêm tháng giêng ẩm ướt. An toàn vì không thực: Đây là hồn ma của mình
lang
thang trên đường phố Luânđôn , ghi nhận mấy tay đi tìm khoái lạc kém
may mắn,
lui cui dưới những chiếc dù của đám giữ cửa; mấy cô gái ăn sương: Món
quà bọc
dưới lớp áo mủ mờ mờ . Hồn ma của mình, hắn đoan chắc,đã vươn lên từ
đáy giếng
là giấc ngủ sâu, tắt điện thoại đang ré trên chiếc bàn ngủ... Phố
Oxford... Tại
sao chỉ Luânđôn là thủ đô duy nhất trên thế giới đánh mất đi cá tính về
đêm của
nó?. Khép chặt áo choàng cho sát người, Smiley có thể nghĩ, không nơi
nào,từ
Los Angeles ở Mỹ, tới Bern ở Thụy sĩ, lại có một thành phố sẵn sàng từ
bỏ cuộc
phấn đấu ban ngày để có một bản sắc riêng như thế.
Xe
quẹo vô Gánh Xiếc Cambrige, và Smiley ngồi
bật dậy. Hắn nhớ ra lý do Sĩ quan trực réo điện thoại, và hồi ức tàn
nhẫn kéo hắn
ra khỏi cơn mộng. Cuộc đàm thoại trở lại từng chữ, một kỳ công hồi
tưởng hắn đạt
được từ thưở nào.
"Đây là Sĩ quan trực, Smiley.
Cố vấn muốn
nói chuyện...."
"Smiley, Maston đây. Anh phỏng
vấn Samuel
Arthur Fennan bên Bộ Ngoại giao bữa thứ hai phải không?."
"Vâng, đúng là tôi.
"Vụ đó ra sao ?.
"Thư nặc danh tố là đảng viên
khi học
Oxford. Phỏng vấn theo thường lệ, được Giám đốc an ninh cho phép."
(Fennan không thể phàn nàn,
Smiley nghĩ, hắn
biết mình sẽ minh oan cho hắn. Không có gì bất thường. Không có gì hết).
"Anh có bênh vực hắn chút nào
không?
Có...căng không, Smiley hãy cho tôi biết".
(Trời, lão hoảng rồi. Fennan
phải đưa cả nội
các ra chơi tụi mình).
"Không. Chỉ là phỏng vấn rất là
thân thiện.
Bọn tôi khoái nhau, tôi nghĩ vậy,thực tình tôi hơi lố trong việc biện
hộ".
"Sao, Smiley, sao ?".
"À, tôi gần như bảo thẳng hắn
đừng
lo".
"Anh bảo sao ? ."
"Tôi bảo hắn đừng lo. Rõ ràng
là hắn hơi
hoảng, nên tôi bảo vậy".
"Anh bảo hắn như thế nào?"
"Tôi nói tôi không có quyền và
cả Tổng
nha cũng vậy, nhưng tôi thấy không có lý do gì để chúng ta làm phiền
hắn nữa".
"Chỉ có thế thôi sao ?.
Smiley ngưng một giâỵ. Hắn chưa
từng thấy
Maston như thế này bao giờ, chưa từng thấy lão lệ thuộc đến như vậỵ.
"Vâng . Chỉ có vậy. Tuyệt đối
chỉ có vậy".
(Lão sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho mình về chuyện này .Bao nhiêu vẻ bình
tĩnh được
tính toán, bao nhiêu áo màu kem, cà vạt màu ngân nhũ, những bữa ăn
thanh lịch với
hàng Bộ Trưởng, hóa ra chỉ có vậy! )
"Hắn nói anh gieo sự hoài nghi
về lòng
trung thành của hắn, rằng sự nghiệp của hắn ở bộ Ngoại giao thế là
tiêu, rằng hắn
là nạn nhân của bọn chỉ điểm ăn lương".
"Hắn nói sao ? Thằng chả khùng
nặng rồi.
Hắn biết rõ hắn đã được minh oan. Hắn còn muốn gì nữa ?.
"Chẳng muốn gì. Hắn chết rồi.
Tự sát lúc
10.30 tối naỵ. Để lại thư cho Bộ Trưởng Ngoại giao. Cảnh sát gọi thư ký
của ông
Bộ Trưởng và được phép mở thư . Rồi họ cho chúng ta biết. Sẽ có điều
tra.
Smiley, anh chắc chắn không?"
"Chắc chắn về cái gì?."
"...Thôi không sao. Ghé lại đây
càng sớm
càng tốt ".
Phải hàng giờ hắn mới kiếm được
taxi. Hắn gọi
ba đường dây, chẳng nơi nào trả lời . Sau cùng được đường dây Công
trường
Sloan, và Smiley đứng chờ ở cửa sổ, mình quấn áo choàng, cho tới khi
nhìn thấy
taxi trờ tới cửa nhà. Cảnh tượng gợi nhớ những trận oanh kích hồi còn ở
Đức.
Cũng một nỗi bồn chồn vẩn vơ trong đêm im vắng.
Tới Gánh Xiếc Cambrige, hắn
ngừng xe cách Sở
chừng trăm thuước, phần vì thói quen,phần vì muốn đầu óc tỉnh táo phòng
hờ cuộc
điều tra nóng bỏng của Maston.
Hắn
trình thẻ ra vào cho Cảnh sát trực và lầm
lũi tới thang máỵ. Viên Sĩ quan trực thở phào khi thấy hắn xuất hiện.
Cả hai
cùng đi dọc theo hành lang mầu kem.
"Maston đi gặp Chim sẻ ở
Scottland Yard.
Đang tranh dành xem khối Cảnh sát nào xử lý vụ nầy . Chim sẻ nói để
Cảnh sát đặc
biệt, Evelyn nói để khối Điều tra hình sự, còn Cảnh sát Quận Surrey
không hiểu
tại sao họ bị đì như vậy. Thật rối như đám ma. Nào mình đi uống cà phê
quán Cóc
trong khu. Không có nhậu, nhưng cũng tạm được".
Smiley thấy biết ơn vì Peter
Guillam trực đêm
nay . Một người lịch lãm, thông minh từng chuyên về Tình báo vệ tinh,
loại bạn
có tình luôn có sẵn một thời khóa biểu và một con dao bỏ túi.
"Bên Đặc biệt gọi lúc 12.05.
Vợ. Fennan
đi coi hát, đến khi một mình về nhà lúc 11. giờ thiếu 15 mới phát giác
ra hắn
.Sau cùng bà ta gọi Cảnh sát".
"Hắn ở đâu đó trong quận
Surrey".
"Vùng Walliston, khỏi thông lộ
Kingston
.Ngay bìa Đô thành. Khi Cảnh sát tới, họ thấy thư gửi bộ Ngoại giao
trên sàn
nhà, bên cạnh xác chết. Tay trưởng toán gọi Cảnh sát trưởng, ông này
gọi sĩ
quan trực bộ Nội vụ, ông này gọi thư ký thường trực bộ Ngoại giao, sau
cùng họ
được phép mở thư. Và cuộc vui bắt đầu".
"Nữa đi".
"Giám đốc nhân viên bộ Ngoại
giao gọi tụi
mình. Ông ta đòi số điện thoại riêng của Cố vấn. Rằng, đây là lần cuối
cùng An
ninh đụng tới người của ông ta,rằng Fennan là một viên chức trung
thành, tài
năng, vv...và vv..."
"Hắn thế thật. Hắn thế thật"
"Ông ta nói toàn bộ vụ này cho
thấy là An
ninh qúa lố. Rằng phương pháp mật vụ Đức Gestapo, ngay cả khi không có
mối đe dọa
thực sự nào để châm chước..."
"Tớ cho số của cố vấn ,và quay
số này bằng
một đường dây khác, trong lúc ông ta vẫn lảm nhảm. Bằng một cú thần sầu
tớ ngắt
bộ Ngoại giao ở một điện thoại, và gọi báo tin cho Maston qua một điện
thoại
khác. Lúc đó là12 giờ 20. Maston tới đây lúc 1 giờ, như bà bầu sắp ở
cữ. Sáng
mai lão phải trình Bộ Trưởng ".
Trong giây lát cả hai lặng im,
trong khi
Guillam cho cà phê nguyên vào ly và thêm nước sôi từ chiếc ấm điện .
Guillam hỏi :
"Hắn ta ra sao ?
"Ai? Fennan hả? Được lắm, cho
tới tối
nay, tôi có thể nói như vậy. Bây giờ hắn làm mình điên đầu . Xem ra thì
đúng là
Do thái . Gia đình theo Chính thống, nhưng hắn bỏ hết khi học Oxford và
quay
qua Mácxit . Lanh lợi, có văn hóa ... Một người biết điều,ăn nói nhỏ
nhẹ, biết
lắng nghe. Vẫn chịu học, anh thấy đấy, sự kiện đâu có ít. Bất cứ ai tố
hắn đều
đúng. Hắn đã ở trong Đảng".
"Bao nhêu tuổi".
"44 Ngó thực sự già hơn".
Smiley tiếp tục trong lúc đảo
mắt quanh phòng
.
"Gương mặt nhạy cảm, tóc đen
chải theo lối
sinh viên, nhìn nghiêng như thanh niên 20 tuổi, da khô mịn, hơi trắng.
Vết nhăn
cũng rất nhiều, chạy chằng chịt, căt da thành ô vuông. Ngón tay rất
thon ... Loại
người chắc nịch, trọn một khối. Tìm vui một thân. Đau khổ một mình. Tôi
đoán vậy".
Cả hai đứng dậy khi Maston bước
vô.
"Ah! Smiley, vô đi."
Lão mở cửa, dơ cánh tay trái ra
để hướng dẫn
Smiley vô trước . Phòng Maston không có tài sản nào thuộc nhà nước .
Lão có lần
mua nguyên bộ sưu tập tranh mầu nước thế kỷ 19, vài bức được treo trên
tường .
Ngoài ra toàn là đồ dởm, Smiley chắc chắn như vậy, Maston thì cũng rứa,
đồ dởm,
cho tiện việc. Bộ đồ mầu quá lạt so với sự trang nghiêm, sợi dây đeo
kính một mắt
vắt ngang áo sơ mi luôn luôn là màu kem. Cà vạt len màu xám nhạt. Một
người Đức
sẽ gọi là flott ( hoa hoè hoa sói) , Smiley nghĩ thầm; bảnh bao - đúng
giấc mơ
của một cô bán quán về một nhà quí tộc chính hiệu.
"Tôi đã gặp Chim sẻ. Rõ là một
vụ tự tử.
Xác đã được đem đi, ngoài một số thủ tục thông thường, Cảnh sát sẽ
không làm gì
khác .Sẽ có điều tra trong vòng một hoặc hai ngày. Đã cùng đồng ý với
nhau như
vậy - Smiley,tôi không thể nhấn mạnh, là sẽ không có một lời nào được
đưa ra
báo chí về mối quan tâm trước đó của chúng ta đối với Fennan".
"Tôi hiểu ." (Ông thật nguy
hiểm,
Maston ạ. Ông yếu đuối và hoảng sợ. Tôi biết, treo cổ ai cũng được,
trước khi tới
phiên ông. Cách ông nhìn tôi là đủ hiểu - Ông
đang nhắm chừng sợi dây treo cổ dành cho tôi).
"Đừng nghĩ tôi đang chỉ trích,
Smiley;
nói cho cùng nếu ông Giám đốc an ninh đã phê chuẩn cuộc phỏng vấn thì
anh không
có gì phải lo".
"Ngoại trừ Fennan".
"Đúng thế . Đáng tiếc là ông
Giám đốc An
ninh quên không ký biên bản đề nghị phỏng vấn . Chắc ông ta nói miệng,
phải
không?.
"Vâng. Tôi chắc chắn ông ta sẽ
xác nhận
chuyện đó."
Maston lại ngắm Smiley, tia mắt
nhọn hoắt,
tính toán; có cái gì vương vướng nơi cổ họng Smiley . Hắn biết mình
đang khăng
khăng không chịu thỏa hiệp, còn Maston muốn hắn thân cận, muốn hắn toa
rập với
lão.
"Anh biết Sở của Fennan đã liên
hệ với
tôi ?."
"Vâng ".
"Sẽ phải có điều tra . Rất có
thể khó gạt
đám báo chí ra ngoài. Chắc chắn việc đầu tiên tôi phải làm ngày mai là
gặp ông
Bộ Trưởng Nội vụ ( Hù dọa ta đây...Thử lần nữa...Mình luống tuổi rồi
....Phải
nghĩ đến hưu trí ...Thất nghiệp cũng nên ... Nhưng ta không chia sẻ sự
dối trá
của ngươi đâu, Maston ạ.) "Tôi phải nắm toàn bộ sự kiện, Simley. Tôi
phải
làm bổn phận của tôi. Nếu có bất cứ chuyện gì anh cảm thấy nên cho tôi
biết về
cuộc phỏng vấn, bất cứ chuyện gì anh chưa ghi lại trong hồ sơ chẳng
hạn, bây giờ
cho tôi biết để tôi thẩm định ý nghĩa của nó."
"Thật sự, chẳng còn điều gì để
thêm vô hồ
sơ, và những gì tôi vừa nói với ông hồi hôm . Có lẽ ông cũng nên biết,
( Tiếng
"Ông " có vẻ hơi gằn một chút), có lẽ ông cũng nên biết tôi tiến hành
cuộc phỏng vấn trong bầu không khí hết sức thoải mái. Lời cáo buộc
Fennan khá mỏng
manh - Sinh viên vào Đảng thập niên 1930, tiếng đồn mơ hồ hiện nay vẫn
là cảm
tình viên. Phân nửa Nội các những năm 30 đều vào Đảng".
Maston nhíu
mày.
"Khi tôi tới văn phòng anh ta
tại bộ Ngoại
giao, lúc đó hóa ra khá đông người ra vào, nên tôi đề nghị cả hai ra
công viên
đi dạo " .
"Tiếp tục đi".
"Vậy là chúng tôi đi dạo. Bữa
đó trời nắng,
lạnh, và khá dễ chịu. Chúng tôi ngắm bầy vịt ".
Maston tỏ dấu nóng nảy.
"Chúng tôi ở công viên chừng
nủa giờ.
Toàn là anh ta nói. Thông minh, lưu loát, lôi cuốn. Nhưng bồn chồn,
cũng đúng
thôi. Những người như vậy ưa nói về họ, và tôi nghĩ anh ta mừng vì có
dịp được
nói một lần cho xong. Anh ta kể toàn bộ câu chuyện - có vẻ khoái nêu
tên từng
nhân vật trong cuộc - và rồi chúng tôi tới một quán cà phê espresso mà
anh ta
quen ở gần Millbank " .
"Tới đâu ?" .
"Quán cà phê hơi espresso. — đó
họ bán loại
cà phê đặc biệt một hào một ly. Chúng tôi làm vài ly . ".
"Tôi hiểu . Vậy là trong hoàn
cảnh...
chén anh chén tôi đó anh đã bảo hắn Tổng nha sẽ không đề nghị biện pháp
nào
khác " .
"Vâng . Chúng ta thường làm
vậy, nhưng
theo thông lệ chúng ta sẽ không ghi vô hồ sơ ". Maston gật đầu. Mấy
chuyện
đó thì lão hiểu, Smiley nghĩ thầm. Trời đất ơi! Lão này thực tởm quá.
Nhìn ra bộ
mặt khó thương của lão như hắn đã trông đợi thực là khoái.
"Vậy tôi có thể coi việc hắn tự
tử- và
luôn cả lá thư - là hoàn toàn bất ngờ đối với anh? Anh không tìm được
lời giải
thích?
"Nếu tôi tìm ra được thì đáng
kể thật
".
"Anh không nghĩ ra ai tố cáo
hắn ?."
"Không ".
"Hắn có vợ , chắc anh biết ?."
"Vâng ".
"Tôi tự hỏi ... không chừng vợ
hắn ta có
thể cho chút manh mối . Tôi ngần ngại không muốn đưa ra đề nghị nhưng
một người
thuộc Tổng nha nên đến gặp bà ta và nếu câu chuyện diễn tiến tốt đẹp,
hỏi bà ta
về mọi chuyện đó."
"Ngay lúc này ?"
Maston đứng bên chiếc bàn giấy
đồ sộ, tẻ ngắt,
loay hoay với mớ đồ nghề của đám doanh thương - dao dọc giấy, hộp thuốc
lá, bật
lửa - toàn bộ mớ cao đơn hoàn tán dành cho việc chiêu đãi. Hắn phô cổ
tay áo
màu kem ra đến cả khúc, Smiley nghĩ thầm, ngắm nghía hai bàn tay trắng
trẻo của
lão .
Maston ngó lên, bộ mặt thiện
cảm .
"Smiley, tôi biết anh bị xúc
động, nhưng
hãy để thảm kịch qua một bên, anh phải cố hiểu rõ tình hình. Ông Bộ
Trưởng Ngoại
giao và Bộ Trưởng Nội vụ sẽ đòi hỏi toàn bộ nội vụ và nhiệm vụ đặc biệt
của tôi
là phải cung cấp điều đó. Nhất là về bất cứ thông tin nào cho thấy tâm
trạng của
Fennan ngay sau cuộc gặp gỡ với ...chúng ta. Biết đâu chừng hắn có nói
với vợ về
việc đó. Theo lẽ hắn không được làm vậy, nhưng chúng ta phải thực tế".
"Ông muốn tôi xuống dưới đó ?"
"Phải có một người. Có vấn đề
thẩm tra.
Ông Bộ Trưởng Nội vụ lẽ dĩ nhiên sẽ phải quyết định về việc đó, nhưng
hiện thời
chúng ta ngay cả dữ kiện cũng không có nữa. Thời gian thì ngắn mà anh
hiểu nội
vụ và đã điều tra sơ khởi. Không ai khác có đủ thời gian dù chỉ để hiểu
qua loa
về vụ này. Không ai ngoài anh ra , Smiley".
"Ông muốn khi nào tôi đi ? ".
"Dường như bà Fennan có gì đó
hơi khác
thường. Người nước ngoài. Lại là Do thái nữa, tôi nghe ngóng được, đã
từng đau
khổ nhiều trong cuộc chiến, điều này càng làm phiền toái. Một người đàn
bà cứng
cỏi và tương đối không xúc động trước cái chết của chồng. Chỉ bề ngoài
thôi, hẳn
vậy. Nhưng nhạy cảm và dễ nói chuyện. Tôi được biết qua Chim sẻ là bà
ta chịu hợp
tác, chắc sẽ tiếp anh ngay khi anh tới được. Cảnh sát quận Surrey có
thể báo bà
ta anh sẽ tới gặp ngay sáng mai. Tôi sẽ điện thoại khi anh còn ở đó,
nội trong
ngày".
Smiley quay người định đi .
"À , này Smiley ... " Hắn cảm
thấy
bàn tay Maston đặt trên cánh tay mình, và quay lại ngó lão. Maston
trong nụ cười
thường chỉ dành cho mấy bà trọng tuổi ở trong Sở.
"Smiley này, anh có thể tin cậy
ở nơi
tôi, anh biết đấy. Anh có thể tin cậy sự hỗ trợ của tôi".
Smiley nghĩ thầm, ông đúng là
làm việc chạy
theo kim đồng hồ. Quán mở cửa 24/24 , ông đúng là "Không hề tạ khách
".
Hắn bước ra phố.
(còn tiếp)