7
Những
ngày làm việc đều đều tiếp nhau. Nhiên không còn ở tại
trường nữa, anh phải đổi về Nam
Định. Hôm chia tay tôi tiễn Nhiên ra bến xe. Rồi tôi thui thủi trong
gian phòng
cách biệt những giờ trống. Phòng bên – Nhiên ở trước – không có người,
khóa cửa.
Buổi tối vẫn bóng đen nặng nề, với cái sân sỏi, cột cờ khẳng khiu, nóc
nhà thờ lạnh
lẽo với những đợt bích kích pháo rung chuyển xa xa gần gần và ngọn điện
đỏ như đầu
que diêm chưa tắt.
Không
ai còn nhớ tới tôi vì không ai gửi cho tôi chữ nào,
Francoise, Bình, Hòa, hay những học trò tôi không còn nhớ. Ngày nghỉ
tôi xuống Đáp
Cầu thăm tin tức Hạnh. Ngọn núi thấy cứng mình vì nghe nắng sắp về dữ
dội. Những
con đường cỏ hoang không dọn. Gạch ngói còn nằm im. Quán hàng của chị
Mùi đông
khách thêm vì sự chuyển dịch binh sĩ không ngừng qua vùng này. Bát bún
riêu nóng
là món quà thường lệ của tôi.
Long
đã xin được một chân hương xư. Lớp học trú dưới ngôi đình
cũ chỉ còn mái. Bàn ghế quyên tặng làm bằng đủ mọi thứ: có thể là cánh
tủ, cánh
phản, hoặc câu đối. Những đứa trẻ nhỏ cũng nô đùa tự nhiên nhưng không
đủ át cái
không khí vây quanh. Trời cao, cỏ rộng và bãi tha ma, những ngôi nhà
lẩn lút.
Buổi sáng chết lặng đi với những tiếng động tưởng như không có chút
liên lạc với
nhau. Tiếng búa gõ trên gỗ, tiếng máy nổ, tiếng phi cơ, tiếng trẻ con
cười đùa
và tiếng bước của thời tiết, trên lá cỏ và nóc nhà.
Ở Hà Nội,
Thanh về với Nga, Thanh không hát nữa. Từ ngày ấy
tôi chưa về Hà Nội lần nào mà cũng không muốn về. Một ngày nhận được
thư của Ngọc:
“Tâm,
Mày muốn tỏ ra
mày tự do. Bằng cách nào? Từ cái chức giáo sư
quèn ấy đi. Nếu không kiếm được công việc làm nào khác thì xuống đây
tao nuôi.
Tao cho mày tự do. Mày sẽ sống như cuộc đời của tao đây. Rồi mày sẽ
hiểu tại
sao tao lại nghĩ vậy. Tao đã ăn một cái Tết khá đầy đủ với chúng mày.
Cám ơn. Cái
Tết cuối cùng đấy vì tao sắp đi rồi. Chuyến này thành sự thực. Mày hãy
xuống
mau sống nốt với tao những ngày ở xứ này. Mai kia tao còn nhớ mãi mãi.
Dù con sâu con
mọt có nằm giữa tim giữa óc hay giữa d… ông cũng
đếch cần. Ông cần mày, cần ngay để ông đi. Truyền lệnh.
Ngọc”
Tôi nằm rất
lâu trong bóng tối. Hình như tôi sốt. Cho đến
khi cha Tân vào phòng. Ông nói:
“Thầy không
bật đèn lên?”
Tôi ngồi lên
xin lỗi và làm theo ông. Ông ngồi xuống với vẻ
mặt nghiêm trọng. Tôi cất lá thư của Ngọc, khoác thêm áo đến ngồi đối
diện với ông.
Vẫn những tiếng nổ thường lệ làm nền cho buổi tối. Ông Tân hỏi:
“Hình như thầy
không được khỏe?”
Tôi vẽ một nụ
cười.
“Bị sốt xoàng
thôi, cám ơn cha.”
Một lát cha
Tân vẫn chưa nói thêm. Tôi bỗng nói:
“Tôi muốn xin
phép cha nghỉ độ nửa tháng.”
“Thầy có thể
nghỉ dài hạn cũng được.”
À đó là lý do
ông đến thăm tôi buổi tối hôm nay trong giờ cầu
nguyện của ông. Tôi ngạc nhiên một chút rồi dửng dưng ngay.
“Vâng thế cũng
được.”
Tôi ngồi lại
trong buồng nghe tiếng sột soạt của bộ quần áo
tu sĩ xa dần ngoài hành lang. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm. Tôi không hỏi vì
cớ gì ông
muốn tôi nghỉ việc cũng như ông đã quên không nói cho tôi biết. Lối làm
việc cẩu
thả của tôi chăng? Những tư tưởng tôi nói trong giờ học đáng lẽ không
nên nói
chăng? Tôi cũng chẳng buồn quan tâm. Tôi nhẹ nhõm vô cùng và ngủ một
giấc thật
say.
Tôi thức dậy
sớm khi trời chưa sáng, thu xếp hành lý. Ông già
gác đã thức dậy thấy ánh đèn, lên phòng tôi, ngạc nhiên:
“Thầy sửa soạn
đi đâu sớm?”
Tôi hơi buồn
vì giọng nói và sự có mặt của ông già. Ông vẫn
khoác tấm áo dạ tôi trông thấy ngày mới đến trường này. Tôi đáp:
“Tôi nghỉ việc
rồi.”
Ông già không
hỏi gì thêm, lẳng lặng giúp tôi một tay. Tôi nói:
“Từ hôm nay
ông không lấy báo cho tôi nữa nhé.”
Tôi đi trong
sự vắng lặng hoàn toàn của buổi mai chưa có ai
trở dậy. Vẫn ông già giúp tôi cái va ly đi sau như ngày mới đến. Trời
trắng đục,
gác chuông cao và lạnh. Tôi dẫm trên những viên sỏi.
Ông già gác
đặt va ly xuống mở khóa cổng. Tôi bảo ông:
“Ông nói với
cha Tân và cả trường tôi xin lỗi gửi lời từ biệt
vì đi sớm quá. Đi thế này cho mát.”
Và tôi bắt
tay, bàn tay răn reo khô khan.
“Chào ông.”
Tiếng
cửa sắt đóng sau lưng tôi và phố còn ngủ với những căn
nhà yếu ớt của nó. Bến xe đã ầm tiếng nói cười. Tôi vào quán ăn điểm
tâm và nhớ
cuộc gặp gỡ với Hạnh. Mưa thoang thoáng.
Người
phụ xe nói:
“Đi
giờ này là cảm tử nhất.”
Xe
ra đầu tỉnh trời đã sáng hẳn, tiếng ồn ào ở phía sau rồi.
Một vài học sinh đi ngang xe cúi đầu chào tôi.
Xuống
bến xe ở Hà Nội nắng mới bắt đầu lên. Tôi nghĩ đến ông
Chính và tôi nghĩ phải về nhà.
Nhà
khóa trái cửa. Tôi hỏi thăm người ở chung. Ông Chính bệnh
nặng đêm qua, sáng nay phải đưa sớm xuống nhà thương Bạch Mai. Tôi gửi
hành lý
và thuê xe xuống Bạch Mai.
Ông
Chính đã chết.
Tôi
đến không kịp nhìn ông lúc hấp hối. Người ta đã mang ông
xuống nhà xác. Ông bị bệnh màng óc. Từ trên gác cao lạnh lùng nhạt
nắng, tôi đi
xuống theo những con đường ngang đến nhà xác. Những tiếng động ở đâu,
còn tôi
tiến dần vào sự im lặng. Tôi nghe thấy một tràng cười rũ rượi. Khu điên
gần đây. Những
cây cao ngó xuống.
Thịnh ngồi gục ủ rũ trên đầu ông Chính và Đại đứng cạnh.
Thấy tôi vào Thịnh khóc lên nức nở. Tôi dở tấm khăn phủ mặt ông Chính
và nước
mắt tuôn trào. Mặt ông đó còn tất cả sự đau đớn hành hạ trên nếp răn.
Tôi cúi
đầu rất lâu để mặc cho nước mắt chẩy. Tôi ghi hình ảnh người cha ghẻ
lần cuối.
Người thân cuối.
Sao Thịnh lại thôi không khóc nữa và tiếng chim sẻ ríu rít
ngoài kia? Rồi tiếng ai ấm ức. Đó là thiếu phụ trẻ ngồi khóc bên một
cái xác
cuối phòng. Chắc là chồng nàng.
Tôi bảo với Thịnh:
“Chúng ta đi ra ngoài.”
Con đường rợp. Đại hung hắng ho. Thịnh sụt sịt. Tôi chỉ còn
một ý nghĩ: Ông Chính chết, chết đột ngột quá.
“Sao anh ít về nhà?”
Câu trối trăng của ông đó chăng? Về nhà ư? Về đâu bây giờ?
Còn ít ngày nữa là đến giỗ mẹ. Tôi thắp hương chỗ nào? Mộ mẹ tôi nằm
tận vùng
quê ngoại mà chiến tranh đã vây lấp.
Uống xong bát nước nóng - Thịnh bảo cho khỏi cảm – tôi từ
biệt hai người.
Tôi đến Thanh.
Thanh và Nga bỏ công việc ra tiếp. Tôi muốn tiếng máy may cứ
nhịp đều. Tôi bảo Thanh:
“Ông Chính mất rồi, sáng nay.”
Thanh nhắc lại:
“Ông Chính mất rồi.”
Tôi thấy Nga kín đáo đưa khăn tay chấm cuối mắt. À, giữa Nga
và ông Chính có liên lạc gì. Cứ nói ngay với tôi nữa.
“Sao anh ít về nhà?”
Nga bảo:
“Chúng mình có thể về được đấy Thanh ạ.”
Ngoài đường vẫn còn đôi người nhàn rỗi đi dạo nốt mùa xuân
muộn sót.
Tôi theo hai người cho đến khi gặp một bà cụ già ngồi ở đầu
phản: mẹ của Nga. Tôi cúi chào.
Đám
ma của ông Chính đưa về nghĩa trang Quảng Thiện. Có mặt
Bảo, Thanh, Nga, những học trò của ông Chính, vắng mặt Đại. Một vài
người bạn
của ông Chính tôi chưa gặp bao giờ thì thầm ngơ ngác. Nghĩa trang đẹp
trên khu
đồi nhiều cây cao. Tôi ném viên đất thứ nhất lên nắp quan tài. Thịnh
lăn lộn
trên cỏ như một con chó điên, tóc tai rũ rượi, tay chân cào cấu. Người
ta đã
mang đặt những vòng hoa lên nấm đất. Thịnh vẫn úp mặt xuống cỏ. Không
có Đại.
Tôi chẳng quan tâm. Thanh và Nga đỡ Thịnh dậy. Và Thịnh cũng im bặt.
Chúng tôi
đi về.
Buổi tối tôi về nhà.
Căn nhà vắng vẻ không hương khói. Thịnh ngồi co ro trong một
góc phản. Tôi hỏi:
“Chị không lập bàn thờ thầy?”
Tôi không được tự nhiên khi nói tiếng thầy. Không còn gì liên
lạc nữa. Quá khứ rồi.
“Tôi không ở đây" - Thịnh bình thản trả lời. “Tôi với anh không
có bổn phận gì với nhau. Tôi đợi anh để trả nhà.”
“Nhà tôi.” Tôi muốn cười lớn. Nhưng tôi cho Thịnh nghĩ phải.
Tôi lại hỏi:
“Anh Đại đâu không thấy về?”
“Anh ấy đi rồi. Anh ấy được liên lạc từ tuần trước nhưng nán
lại vì thầy chết. Anh đi hôm qua.”
“Còn chị?”
“Tôi đã nhận được chân vú em và đi xa.”
Tôi quay mặt ra đường. Tôi đã nhận thấy bụng Thịnh mang
thai. Đến lượt Thịnh hỏi tôi:
“Còn anh?”
“Tôi thất nghiệp, tôi không còn gì để ở đây nữa. Chị có thể
bán hết đồ đạc trong nhà giữ làm vốn, tôi không cần bằng chị.”
Chúng tôi im lặng. Ở giữa chúng tôi không còn gì ngoài người
đã chết. Tôi nhớ đến buổi tối trước khi sang Bắc Ninh tôi đã nói chuyện
với ông
Chính. Ở giữa chúng tôi cũng có một ngưòi chết. Cuốn Crime et Châtiment
lật ngửa
ở đầu giường. Tôi muốn kêu lớn: nó là thằng hèn, có nó ở đây tôi sẽ đập
vào mặt
nó.
Tôi bỏ Thịnh với gian nhà và xuống Bảo.
Vợ Bảo dọn giường cho chúng tôi. Đứa con Bảo khóc và mẹ nó
ru. Nửa đêm, chúng tôi thức giấc, tôi nói:
“Mai tôi xuống Hải Phòng với Ngọc.”
Bảo không trả lời.
Bảo đưa tôi ra xe xuống Phòng. Chúng tôi đi xe điện xuống Bờ
Hồ và đi chân lên bến xe. Tay tôi xách chiếc va ly nhỏ ngày sang Bắc
Ninh đựng
chừng ấy thứ quần áo và vật dụng. Bảo hỏi:
“Anh xuống chơi hay ở hẳn dưới ấy với Ngọc?”
Tôi đáp:
“Chưa biết.”
Ngồi trên xe đợi chạy, tôi có ý định bỏ dở cuộc đi. Tôi không
biết xuống Ngọc xong tôi sẽ làm gì hoặc đi đâu.
Xe đến Hải Phòng đã quá trưa, tôi
ghé quán ăn cơm trước khi tìm địa chỉ Ngọc.
Đến nơi tôi bước lên căn gác trong ngõ Cô Ba Chùa ọp ẹp trống
trơn trơ một cái bàn mộc và một manh chiếu.
Ngọc đã đi theo một chiếc tầu biển được hai hôm. Người đàn bà
thổi cơm cho Ngọc trao tôi mảnh giấy Ngọc viết lại và nói:
“Ông ấy đi gấp quá. Ông dặn nếu ông xuống có thể ở đây vài hôm
rồi hãy về.”
Thư của Ngọc:
“Tâm ơi,
Thế là tao đi rồi. Không hiểu sao tao cứ đinh ninh mày sẽ xuống
gặp tao. Nghĩ rằng mặt mày sẽ ngơ ngác như chú chim chích trong rừng
sao tao
khoái làm vậy.
Còi tầu đã rúc, khói tầu đã nhả, sóng biển đã vỗ và hồn đây
căng buồm.
Còn bao giờ tao trở lại mảnh đất này không?
Không biết, mặc.
Tao đi không mang theo hành lý chỉ có hình ảnh mẹ, các em và
chúng mày.
Thế là quá nặng cho một người. Mày sẽ từ biệt hộ tao với vợ
chồng Bảo.
Ờ tao đi không phải chia ly mà chính chúng mày chia ly hộ
tao mới sướng chứ. Tao đã dặn bà chủ nhà trong trường hợp mày xuống, bà
sẽ trao
bức thư này, cho mày tá túc vài hôm tùy ý mày. Cứ yên chí ở chơi coi
như tao vắng
nhà ít bữa.”
Tôi không biết nên bắt đầu như thế nào buổi chiều này. Ra khỏi nơi Ngọc
ở, tôi đứng trước một khúc phố rộng nhưng xơ
xác chạy tới phía nhà ga hiu quạnh. Bên kia đường vài gian nhà đang xây
dở.
Tôi đi mãi trong phố đông người và rẽ vào một rạp chiếu bóng.
Tôi dẫn một đứa bé lem luốc ở cửa rạp cùng vào. Tôi trở ra khi buổi
chiều lặng
lẽ xuống. Những người đi làm về. Tôi gặp những toán lao động trai gái.
Tôi có cảm
tưởng Ngọc lẫn đâu trong ấy và trêu cợt tôi.
Dần dần tôi đến khu nhà Tây vắng vẻ. Tôi mong gặp một người
quen.
Ngồi trên kè đá tôi nhìn mặt nước rộng, nước cuộn chảy. Những
chiếc thuyền và những thân tàu.
Một người ngoại quốc biểu diễn trượt nước trên dòng sông.
Sau lưng tôi, người ta đi hóng gió. Một vài đôi tình nhân, một vài cặp
vợ chồng,
một chiếc xe nôi của con Tây.
Chiều xuống thấp mãi gần mặt nước. Tiếng còi tàu um um.
Tôi đứng lên, đèn đã thắp. Cây cao tối như trong vườn nhà thương.
Tôi về trải chiếu trên căn gác ọp ẹp Ngọc đã ở. Hắn đi thật
rồi, như ông Chính đã chết, Đại đã đi. Không muỗi nhưng hơi lạnh về
giữa đêm. Tôi
mê gặp Hạnh và tỉnh giấc. Tôi không nhớ mình đang nằm ở đâu, mình đến
đây làm gì.
Chưa bao giờ tôi cảm thấy tuyệt vọng ghê gớm đến như thế. Tôi có thể tự
tử được.
Nhưng tôi tự nhủ: Cũng thế thôi, phải, cũng thế thôi.