6
Tết
đã qua. Mùa xuân kéo dài với những trận mưa phùn làm bẩn
hè phố. Tôi không đặt chân về nhà nữa. Ngọc và tôi ăn tết cùng gia đình
Bảo.
Chiều
mùng một, tôi lên đón hai chị em Thanh đi chơi. Thanh
bầy bàn thờ trên cái xích đông làm giá sách trước bàn học của Minh.
Thanh bảo tôi
lễ tổ tiên. Tôi chắp hai tay và lòng bâng khuâng. Mùng ba Ngọc trở
xuống Hải Phòng.
Chúng tôi uống rượu trước khi chia tay. Vợ Bảo đặt cái bánh chưng lên
bàn và bảo
với Ngọc:
“Anh
ăn bánh chưng đi, biết đâu chẳng là miếng cuối cùng trước
khi đi.”
“Vâng,
biết trước thế nào được.”
Ngoài
phố những đứa bé nghèo nàn đang đánh đáo. Chúng tôi không
đưa tiễn nhau. Mùng chín tôi trở sang Bắc Ninh. Cái tết đi qua có lẽ
quá vui
khiến để lại cho thị trấn này vẻ trơ trẽn. Mưa bay ngoài cửa sổ và sự
chuyển vận
của chiến tranh mỗi lúc một thêm hấp tấp.
Đại
vẫn chưa bỏ ra hậu phương. Trước khi về trường tôi có ghé
nhà thăm và chúc tết ông Chính. Tình cờ tôi được biết Đại dan díu với
Thịnh.
Trong suốt mấy tháng tôi không được một dòng chữ nào của bạn bè. Tôi
cùng về Hà
Nội với Hạnh vài lần. Những ngày ấy tôi dành riêng cho Hạnh. Gần nhau,
tôi nhận
thấy chiến tranh – hay chỉ cần sự đe dọa của chiến tranh, tổng quát là
sự khủng
bố tinh thần – đã thổi vào máu Hạnh sự say đắm nhiệt tình trong yêu
đương.
Sau
mỗi lần như thế, khi lấy lại bình thường, Hạnh ngượng ngùng.
Một lần nằm cạnh tôi, Hạnh nắm tay tôi để lên ngực nàng và hỏi:
“Anh
có khinh em không?”
Lúc
ấy tôi đau đớn tất cả thân thể. Trời chạng vạng với mưa
bụi căm căm. Tôi thở dài trả lời:
“Em
đừng hỏi và đừng bắt anh trả lời.”
Ở
Đáp Cầu người ta phong phanh biết sự đi lại giữa Hạnh và tôi.
Một
buổi sáng rét tháng ba tôi lặn lội xuống thăm Long. Tôi được
ăn một bát bún riêu bỏng môi vì cay và nóng của chị Mùi và được cho cho
biết
tin là Hạnh không trở về nữa. Chị Mùi nói:
“Cô
ấy ra ngoài đến nửa tháng nay không thấy về.”
Tôi
hỏi:
“Chị
có tin tức gì không chị?”
“Có
lẽ bị giữ lại. Người ta nghi cô ấy…”
Long đi Hà Nội
vắng. Vợ Long có
mang. Tôi không ở lại ăn cơm,
trên đường về tôi nghĩ nhiều đến Hạnh. Nghĩ đến sự đam mê của Hạnh, tôi
bồn chồn
cả người. Tôi tin rằng chẳng bao giờ còn gặp lại người con gái ấy nữa.
Lễ Phục
Sinh tôi về thăm Thanh gặp lúc nàng ốm nghỉ nằm nhà. Minh đi học vắng.
Thanh gượng
dậy tiếp tôi. Tôi khuyên nàng nằm nghỉ và tôi kê ghế ngồi cạnh giường.
Sau khi
hỏi thăm về sức khỏe của Thanh tôi ngồi im và không biết nói chuyện gì.
Tôi nhìn
Thanh và mi mắt hơi khép xuống nặng nặng. Nàng thở một cách đắn
đo. Tôi đứng dậy để đốt thuốc lá,
Thanh bảo:
“Anh cứ tự
nhiên, em không sợ khói thuốc lá đâu.”
Tôi ngồi xuống
và thở khói nhè nhẹ. Thanh bỗng nói với tôi:
“Anh rót cho
em xin cốc nước.”
Tôi sửng sốt
vì sự quá đáng của Thanh. Chưa bao giờ Thanh dám
làm như thế đối với tôi cả. Mặt tôi hơi sầm xuống. Thanh lại nói tiếp
như van lơn:
“Anh cho em
xin cốc nước…”
Thanh định nói
thêm điều gì lại thôi. Uống xong nước Thanh nói:
“Em có câu
chuyện muốn nói với anh.”
Thanh cố ý
ngừng lại. Tôi hót một hơi
thuốc lá dài và thở khói um khiến
Thanh phải sặc.
Nàng quay mặt
đi bảo:
“Anh thổi khói
vào mặt em.”
Tôi thở nhẹ và
khói tan dần. Mắt Thanh ướt ngấn nước và da mặt
nàng hồng lên mệt nhọc. Thanh kéo chăn chấm nước mắt nói rất nhỏ:
“Anh Tâm, anh
xem Minh đã có thể lấy chồng được chưa?”
Tôi ngạc nhiên
không hiểu.
“Có người hỏi
cưới Minh mà em phân vân quá.”
Tôi gõ tàn
thuốc đánh nhịp chân, hỏi:
“Minh năm nay
bao nhiêu tuổi nhỉ?”
“Mười tám.”
Chúng tôi cùng
im lặng, tôi thì nhìn khói thuốc. Tôi lại hỏi:
“Còn cô?”
:Hai mươi ba.
Già rồi còn gì.”
Tôi mỉm cười
nói:
“Ai bảo cô
già?”
Thanh không
trả lời và hình như mơ mộng điều gì. Một lát,
Thanh hỏi:
“Anh biết
người nào hỏi Minh không?”
“Ai?”
“Chu.”
Giọng Thanh cố
gắng bình thản và mắt Thanh mọng cộm lên. Tôi
nhắc: Chu. Tôi cố gắng nói tự nhiên:
“Cô định sao?
Đã hỏi ý kiến Minh chưa?”
“Em bằng lòng.”
Nghỉ hồi lâu,
tôi trả lời buông xõng:
“Cũng được.”
Đám cưới Minh
giản dị và mau chóng.
Chưa đầy một
tháng sau câu chuyện giữa tôi và Thanh, Minh
nghỉ học ở nhà. Trầu cau được chia cho vài chỗ quen biết thân.
Theo ý của Chu
hai bên nhà trai gái mở chung một tiệc tại khách
sạn Phú Gia.
Khách khứa
cũng không nhiều. Tôi phụ với Thanh thu xếp công
việc vì nàng vẫn chưa được khỏe hẳn. Bữa ăn vào buổi tối gồm chưa đến
ba mươi
người. Muơi người trong họ hàng thân quyến của Chu, mươi người bạn
cùng sở Chu; bên này có mặt cô Nghĩa, ông Chính, Bảo, Nga – cô thợ cả
của Thanh
– hai ba người bạn của Thanh, mấy cô phù dâu và bạn bè của Minh.
Lâu không gặp
tôi, cô Nghĩa nói đùa:
“Bao giờ anh
lập gia đình?”
Thanh cũng
đứng đấy cười trả lời thay:
“Dì không biết
anh ấy lập gia đình rồi hay sao?”
Cô Nghĩa tưởng
thật.
Chu đến. Lần thứ nhì tôi
gặp
lại Chu trong mấy năm về Hà Nội. Chu nói:
“Minh đang
ngồi khóc ở nhà.”
Tôi bảo:
“Cô gái nào
chẳng vậy.” - Rồi tôi kéo Chu
ra ngoài. “Tôi cần nói với anh một lát.”
Nhưng khi ra
ngoài, gió hơi lạnh, nhìn sang hồ nước im lặng
và thấp thoáng phản phiếu ánh đèn, tôi không biết tôi muốn nói gì với Chu.
Ông Chính tôi
bảo:
“Sao anh ít về
nhà?”
Tôi cho là ông
quá tàn nhẫn khi đặt câu hỏi. Mà có lẽ ông đã
qụy lụy chăng?
Tôi ấp úng.
Tôi bắt tay Đại hững hờ.
Thanh giới
thiệu tôi với Nga. Tôi nói:
“Chúng tôi đã
gặp nhau một lần.
Nga cúi đầu
nhận. Thanh quên buổi tôi lại đón Thanh ở cửa hàng
để lấy cái khăn quàng cho Đại. Đại quàng cái khăn ấy.
Nga hỏi câu mở
đầu khiến tôi ngạc nhiên vô cùng:
“Ông viết văn?”
Tôi bị lúng
túng và trả lời:
“Thưa cô,
không. Tôi chưa bao giờ - ngừng một giây nhỏ - À! Thời trước thì có. Cô
nghĩ tuổi trẻ người nào đã chẳng từng viết đôi ba dòng, làm
một vài câu thơ. Bây giờ thì tôi chưa hề nghĩ đến.”
Nga nhìn ý tứ:
“Thế mà tôi
vẫn đinh ninh ông viết văn.”
Tôi thấy được
không khí thân mật và bạo dạn nói:
“Nếu thế có lẽ
chính cô viết văn?”
Nga đáp thẳng
thắn:
“Vâng tôi bắt
đầu.”
Bảo bước vào
với tất cả vẻ cũ kỹ ngô nghê thường ngày của
anh: bộ quần áo ka-ki kiểu nhà binh. Tôi bảo Nga khi Bảo còn ở đầu
phòng:
“Cô có thể nói
chuyện văn chương với ông bạn tôi.”
Đại đi về phía
chúng tôi. Tôi khó chịu về sự gặp mặt của những
người không ưa nhau, Bảo và Đại.
Bữa ăn chưa
xong thì Đại kiếu từ ra về dù Thanh cố mời,
Thanh tiễn Đại ra ngoài.
Tiệc tan vào
khoảng mười giờ đêm. Tôi và Bảo đưa Thanh về nhà.
Thanh giữ Nga về ngủ chung. Chúng tôi
qua đường phố hiu quạnh. Mọi vật ấm lạnh se se, cây cối, vỉa hè, mặt
nhà. Thanh
và Nga đi sát nhau, tôi và Bảo cách xa. Thanh nói:
“Có lẽ anh Đại
không bằng lòng điều gì. Em đã xin lỗi anh ấy
mãi.”
Tôi muốn kêu
lên: Hắn là một thằng hèn. Tôi biết hắn về tình
tự với Thịnh. Bảo vẫn trầm ngâm.
Thanh nói,
tiếng nói vang trên chòm cây xôn xao:
“Hôm nay không
có chị Nga ngủ một mình đến khóc mất” – Không
có ai trả lời, chỉ những tiếng bước bâng quơ - “Con gái nào chẳng vậy,
phải không
anh Tâm?”
Nga lên tiếng:
“Chị đã hứa về
ở với tôi cơ mà?”
Tôi tiếp lời:
“Phải đấy, cô
ở với cô Nga. Hai người một mình ở với nhau
cho vui.”
“Không còn mẹ
tôi nữa.”
Tôi rùng mình
gần như đứng lại vì lạnh.
Có lẽ lạnh,
không phải vì câu nói bâng quơ ấy? Sắp sửa đến
ngày giỗ mẹ.
Thanh hát nhỏ,
rất nhỏ trong cổ họng, điệu quen thuộc, tôi đã
nghe. Trở về mái nhà, xưa.
Bảo bỗng nói
với Thanh:
“Từ ngày cô
hát trên đài chưa bao giờ tôi được nghe cô cả.”
Thế thì không
bao giờ anh được nghe nữa vì tôi đã giải nghệ.”
Nga: giải nghệ?
Thanh: chứ sao!
Tôi đợi đến
một ngã tư mới nói:
“Không, cô nên
hát.”
Thanh nhại:
“Không, cô nên
giải nghệ.”
Từ đấy không
ai nói ai một lời.
Thanh cứ hát
nhỏ như cho mọi người nghe lần cuối. Hàng phố bé
lại trong đêm khuya và lùi xa như tiếng hát.
Khi cánh cửa
đã đóng sau lưng Thanh và Nga, tôi còn nghe tiếng
hát ấy ở trên tay tôi. Trở về mái nhà.
Xưa.
Còn lại hai
người đàn ông đi chân về ngoại ô.