Bếp Lửa
5
Về
Bắc Ninh tôi bị cảm khản tiếng mất một tuần phải nghỉ làm
việc. Nhưng buổi sáng mùa đông buồn rầu thêm. Tôi nằm lỳ trên giường
không buồn
trở dậy. Những tiếng ồn ào từ trong lớp giờ làm việc, ngoài sân giờ ra
chơi,
bay lên qua một khoảng xa cách lắm, tôi đợi từng bước chân người ngoài
hành
lang.
Mỗi
buổi trưa ông già gác mang lại phòng cho tôi một bát
cháo nóng - buổi trưa kèm theo một tờ báo hàng ngày. Tôi lười, thoái
thác không
xuống phòng ăn. Tôi đọc báo, nhìn cuộc đời bình thản qua như những cuộn
mây xám
thường ngoài cửa sổ buổi chiều. Và tôi ngủ những giấc ngủ đầy hơi thở
nóng và
mồ hôi cùng trống ngực.
Linh
mục Tân đến thăm tôi hàng ngày khoảng 4 giờ chiều và ở
lại phòng tôi chừng mười lăm phút. Nhiên săn sóc tôi vào buổi tối khi
những tiê!ng
chuông khóa lễ chiều đã im. Nhiên thuờng ngồi nói chuyện. Anh kể về gia
đình, về
thời thơ ấu, và ơn trên đã kêu gọi anh để được dâng mình cho Chúa, bằng
giọng bình
thản như đọc một đoạn sách thánh kinh. Bà nội anh muốn có một người con
dâng
cho Chúa nhưng cha anh là con một. Tiếp theo Nhiên là đứa cháu độc
nhất. Đứa cháu
độc nhất ấy nghe ở linh hồn mình từ nhỏ âm vang lời kêu gọi của Thiên
Chúa và
Nhiên mong rằng sẽ làm thỏa mãn khát vọng của những người sinh thành.
Trong những
lúc ấy tôi ngó lên ngọn điện yếu mỏng chập chờn như muốn tắt.
Đại
không sang, những thư từ của tôi được cho vào phong bì lớn
dán kín gởi sang trường. Tôi nhận được thư của Francoise trách tôi lười
viết, nàng
hỏi tôi có nhận được thư của nàng không. Nàng cho biết hiện đang công
tác vận động
những gia đình có con em chiến đấu ở Đông Dương để làm kiến nghị yêu
cầu chấm dứt
chiến tranh ở đây. Đồng thời cùng với một nhóm bạn hữu thanh niên, nàng
đã được
gặp Sartre, chất vấn về vấn đề cộng sản và cách mạng. Nàng bảo nàng hơi
đen và
gầy hơn nhưng cũng cao hơn. Nàng vừa kỷ niệm sinh nhật thứ muời chín
của nàng.
“Pauvre
Francoise!”
Hòa
tả những trận mưa ở đồn điền dài ba trang giấy mỏng. Và
Ngọc:
“Mày
ơi!
Mày
còn thì giờ để ý đến tao ư? Tao tưởng mày nghĩ đến thân
phận mày cũng đã đủ lắm rồi. Thằng Bảo cho tao lãng mạn và chắc rằng
chúng mày cũng
đồng ý với nhau. Nhưng hỡi ôi! Lãng mạn phải là chúng mày mới đúng. Đau
khổ cho
nhiều vào, đọc sách cho nhiều vào, xót thương mình chưa đủ rồi xót
thương người…
để mơ mộng: cách mạng. Ôi chao cách mạng! Cách mạng để làm gì? Những
con ngựa bị
hành hạ đau quá thì lồng lên hất thằng dô kề ngã mà chạy. Chạy đi đâu?
Thằng dô
kề nó sẽ túm được, nó đánh đập tàn nhẫn hơn và lại sỏ cương trèo lên.
“Thế
nào tao cũng bỏ đất này đi, tao can đảm thú thực như thế,
chết ở chỗ khác yên thân hơn. Còn hơn chúng mày lòng tin đã mất mà
không dám thú
thực, mà vẫn còn cố gắng giả tin.
“Bằng
chứng là mày có tự do đâu, thằng Bảo vợ con và cái be
nước mắm, mày bỏ trường này rồi cũng đến trường khác. A-men, mày đang
tìm về với
Chúa đấy.
Cầu
Chúa che chở cho cái thằng sâu kiến lúc nào cũng tưởng mình
lớn ngang Đức Chúa. Làm dấu Thánh Giá và quì xuống.”
Ngọc
Tôi
quên lá thư của Ngọc mở ở bàn đêm đầu giường. Buổi chiều
tôi ngủ chập chờn, khi mở mắt Nhiên ngồi cạnh và đã bật đèn. Nhiên hỏi:
“Anh
không ăn cháo? Để tôi bổ cam cho anh xơi.”
Tôi
ngồi dạy nói:
“Cám
ơn anh, tôi có thể làm lấy được.”
Tôi
bổ cam ở bàn, nhìn ra cửa sổ, gió khoan khoái một chút.
Nhiên
hỏi:
“Anh
cho là có Thượng Đế hay không?”
Tôi
suy nghĩ rồi trả lời:
“Câu
hỏi ấy chưa bao giờ làm tôi thắc mắc cả.”
Tôi
không nghĩ đến nó.
Nhiên
lại hỏi:
“Anh
có nhận rằng ở đời có một cái gọi là Thiện, một cái gọi
là Ác, có công bằng, có tự do, bác ái…"
Tôi
trông thẳng vào mặt Nhiên đáp:
“Có
chứ tại sao không?”
“Vậy
mà anh lại không tin Thượng Đế thì lạ thật.”
“Tôi
tưởng những ý niệm ấy họp nhau thành một ý niệm hoàn hảo
hơn tất cả là Thượng Đế. Thường thường người ta nghĩ một vài ý niệm khó
thỏa hiệp
vớ nhau như bình đẳng và tự do, nhưng đạt đến sự hòa hiệp chính là tìm
về Thượng
Đế rồi còn gì.”
Tôi
bước vài bước đắn đo:
“Tôi
nhắc lại với anh tôi không suy nghĩ về vấn đề ấy. Theo
tôi có những lúc người ta cần giải quyết giữa người với người và Thượng
Đế không
nên có mặt ở lúc ấy. Có mặt khi không cần thiết, Thượng Đế sẽ bị nhơ
nhuốc lây
và có thể bị mất ngôi. Mà ngôi Thượng Đế có lẽ cần thiết lúc khác.”
“Thượng
Đế sẽ giải quyết được những vấn đề của loài người nếu
loài người biết tìm về Người.”
“Không,
tôi không tin như thế, Thượng Đế không sống cái sống
xác thịt của nhân loại. Khi Thượng Đế nhập thể thành người như Chúa
Jésus hay Phật
Tổ thì chính ở những người ấy Thượng Đế đã bị lôi kéo vào tấn thảm kịch
riêng tư
của loài người, và chỉ có thể thoát ra với sự thất bại…”
Những
buổi tối tiếp theo, Nhiên thưa sang thăm tôi - Tôi nằm nghe tiếng động
ngoài hành lang và lòng mình.
Tôi trả lời
Ngọc:
“Ngọc,
Con sâu ở giữa
tim giữa hồn, giữa não, mày nhớ không? Đi đâu cũng chỉ là mày – đau khổ
và nhục nhã. Mà nào riêng có đất nước này hổ nhục thôi đâu, mọi nơi mắt
mày cũng chỉ nhìn thấy như đây. Không trốn được đâu trừ khi mày trốn
được lòng này.
Nhưng thôi tao
vẫn cầu chúc cho mày đi cho thỏa dồn nén, để ngó thấy ở bất cứ một góc
địa cầu nào những điều ghê tởm không muốn ngó, rồi mày sẽ trở lại, tao
tin như vậy, nhất định sẽ trở lại. Tất nhiên chán chường hơn nữa, nhưng
từ chỗ chán chường cuối cùng ấy tao còn mày hay mất mày
vĩnh viễn.
Ngọc ơi! Mày
có nhẩy xuống biển ngủ ở dưới ấy không? Con sâu
ở giữa tim, giữa hồn, giữa não.
Trước khi đi
hãy thư cho bạn mày.
Tâm.”
Lễ Chúa Giáng
Sinh đến gần với những ngày rét cóng hơn. Nhà
trường vắng ngắt, những giáo sư ngoài như tôi đã về Hà Nội cả. Mặt sân
cứng ướt
hiu quạnh không cây cối, tôi bước trên sạn vụn theo một cửa ngách sang
nhà thờ.
Màu đá xám cao và lạnh lẽo thêm.
Những chiếc
đen mầu hình ngôi sao, những dây hoa giấy sặc sỡ
buồn cười.
Vòm nhà thờ
sâu, ánh sáng mờ ảo.
Tôi đi bên
những hàng ghế mộc, đến máng cỏ Chúa Hài Đồng. Tôi
đứng cách xa ngắm những hình tượng được xếp đặt khéo léo. Vài người đàn
bà nhà
quê hình như ở chợ rẽ vào, quỳ gối kính cẩn.
Rồi tôi xuống
Đáp Cầu cho đến hết buổi sáng.
Tôi vẫn chưa
biết nên về Hà Nội hay nên giam mình một tuần lễ
trong chuỗi ngày rét mướt ở tỉnh lỵ. Con đường dốc, những sườn núi trơ
đất và đá
đỏ, gió và hơi nước quyến lấy nhau ở không trung làm khói đặc nặng nề,
không một
tiếng động ngoài tiếng nổ của động cơ. Chiếc xe hàng đã đổ hết khách ở
Bắc Ninh
chỉ còn lại vài người. Thị xã tiêu điều những mặt nhà méo lệch. Quán
chợ lụp xụp
nhớp nháp; chợ còn lại dẫy tường trắng loang lỗ vết tích cũ.
Bữa ăn với vợ
chồng Long trong một gian buồng hẹp ấm, mâm bằng
gỗ.
Tôi trở về Bắc
Ninh gần ba giờ chiều.
Tôi ngồi trong
quán nước ở bến xe trong sự náo nhiệt ấm áp của
những người xuôi ngược và những người làm xe. Ở đây có những bát nước
chè tươi
nóng, điếu thuốc lào. Trời mưa bay. Bỗng tôi trông thấy Hạnh, nàng mặc
tấm áo dài
thâm đi ở ngoài. Nàng chào tôi và ghé vào quán.
Tôi hỏi:
“Cô đi Hà Nội?”
“Vâng.” Hạnh
đáp.
Tôi mời nàng
uống nước và chúng tôi uống những bát nước chè
tươi xanh nóng rộp lưỡi. Hạnh hỏi tôi:
“Anh cũng về
Hà Nội?”
Tôi chưa biết
trả lời thế nào Hạnh đã tiếp”
“Nếu tiện anh
đi xe của em cùng về.”
Nàng nói tự
nhiên còn tôi lúng túng. Hạnh lại nói:
“Chỉ sợ anh
chê đi xe chở hàng thôi.”
Hạnh đưa tôi
ra xe, chiếc xe cam nhông chuyên chở hàng hóa.
Sau xe trống, ngoài một thùng đựng ét xăng của nhà binh bỏ không và mấy
tấm bao
vải.
Tôi và Hạnh
ngồi phía trên cùng người tài xế và người phụ xe
ở đằng sau. Xe ra khỏi thị xã cùng với hạt mưa dầy hơn. Người tài xế
đứng tuổi
hai bàn tay khô khan gân guốc chụp trên đầu chiếc mũ cát két dạ. Anh
phụ xe trẻ
tuổi nói qua lỗ hổng lên với bác tài một câu gì. Hạnh ngồi sát vào tôi
và tôi
nhận hơi ấm của nàng.
Nhìn thấy ở
ngực Hạnh đeo hình thánh giá, tôi hỏi:
“Em theo đạo?”
Hạnh gật đầu
trả lời:
“Khi còn ở hậu
phương, bây giờ thì thôi rồi.”
Một lát sau,
xe chạy đều tốc lực, màu trắng phủ những cánh đồng
hai bên đường. Tôi hỏi Hạnh:
“Em còn nhớ về
anh xưa hay không?”
Hạnh ngước mắt
nhìn tôi rồi trả lời:
“Em nhớ những
ngày nghỉ học anh thường đi theo em. Hồi ấy nhà
em ở hai nơi, Thị Cầu và Đáp Cầu, nhà anh ở khoảng giữa con đường ấy.
Đi về em
phải qua nhà anh. Em mặc áo trắng và cặp tóc và em đã được nghe anh nói
là em đẹp
nhất Thị Cầu.”
Tôi nắm bàn
tay nhỏ bé của Hạnh và để vào lòng bàn tay tôi từ
lúc nào, rất cảm động.
Hạnh nói tiếp:
“Một lần anh
Long và một người bạn nữa đã thách anh đến vuốt
tóc em và anh đã làm thật. Ở con đường ra đồng trước cửa nhà một người
Pháp có
nuôi một đàn ngỗng dữ và em đã về mách nhà anh cái tội trêu trọc em và
tôi đứng
đó ăn cắp trứng ngỗng.”
Tôi nắm chặt
hơn tay Hạnh, có cảm giác hổ thẹn về những hành
động ngây thơ táo bạo và tôi đáp:
“Nhưng em cũng
biết là bà ngoại anh chẳng bao giờ trị tội
anh cả.”
Hạnh gật đầu
và cái búi tóc nghiêng xuống vai về phiá tôi. Hạnh
hỏi lại tôi:
“Học hết lớp
nhất anh đi Sài Gòn? Anh làm gì?”
Tôi nói điềm
nhiên và thành thật, ngoài ý muốn:
“Anh đã bán
báo, làm thợ, và học nghể chữa ô tô.”
Đến Hà Nội,
mưa lớn hơn. Chúng tôi cùng đi ăn cơm với nhau.
Và đêm ấy tôi
ngủ với Hạnh ở khách sạn