Bếp Lửa
Thanh Tâm Tuyền
3
Tôi
về thăm nơi đã sống những năm mồ côi đầu tiên thuở nhỏ.
Mẹ tôi buôn bán xa và tôi ở với bà ngoại. Những đồng trinh để mua những
bát bánh
đúc nóng, kê, sôi lúa, bánh khúc, quà sáng, đều do bà tôi chu cấp. Ở
đây có nghĩa
địa, ao, chuôm, bến sông, đường lên núi, giếng nước, cánh đồng, kè đá…
để bắt dế
câu cá, đi đồng, leo trèo, vùng vẫy.
Tôi
bảo Long:
“Tôi
nhìn những con đường hẹp hơn ngày trước.”
Long
chỉ tay, giải thích:
“Nhà
cửa đổ xuống không ai cất dọn. Cỏ hoang mọc lan tràn với
lại mắt mình lớn lên chứ.”
Chúng
tôi theo một con đường mòn - trước kia là đường lớn –
ra phía bờ sông. Đi đến một nơi đường nhiều đá và rộng ra nhưng không
có nhà cửa,
tôi hỏi bạn:
“Đây
là phố Chi Ly chợ gạo?”
“Phải.
Anh nhớ lâu nhỉ.”
“Dân
Chi Ly ai mà không nhớ, du côn khét tiếng.”
Chúng
tôi cất tiếng cười. Long hỏi:
“Còn
nhớ những trận đánh nhau?”
Tôi
gật đầu.
Bờ
sông là khu đất nhà binh. Người ta biến nó thành sân bay
cho phi cơ quân sự. Bến sông không người tắm. Tôi hỏi:
“Không
còn đường lên núi sao?”
Long
kéo tay.
“Đi
đường này.”
Chúng
tôi bước trên những đống gạch vụn bên cạnh những mảng
tường đổ dở, thấp cao. Qua một chỗ có những người kéo nước, tôi hỏi:
“Xóm
Giếng?”
“Đúng.”
Tôi
nhìn xuống lòng giếng thật rộng nước vẫn trong trông được
những gạch sỏi. Qua một căn nhà, cổng gỗ thấp cánh đóng, Long nói:
“Đây
là nhà Phú, thầy Phú ngồi trong kia kìa. Nhớ thầy Phú
không?”
Tôi
thấy một ông già che mắt bằng miếng vải đen đang hút thuốc
lào.
Chúng
tôi ra khỏi con đường đổ nát, đứng trên dốc. Long bảo:
“Không
lên được chùa Núi.”
Một
đồn binh đóng trên đỉnh núi. Gió thổi từ cao xuống. Dưới
chân dốc là nhà bà Mùi, bên cạnh là đống gạch vụn lớn. Cỏ rậm hao bờ
dốc. Long
chỉ tay:
“Trường
học mình quá trên kia.”
Theo
tay trỏ, tôi thấy một lớp nhà vàng nhạt.
Long
lại nói:
“Tôi
đi lấy máy ảnh chụp mấy cái làm kỷ niệm.”
Chúng
tôi xuống nhà bà Mùi. Bà mở cửa hàng bún riêu. Chị Mùi
con gái lớn góa chồng. Chị đang tính tiền trên cuốn sổ tay nhỏ. Thấy
tôi, chị nói:
“Cậu
Long đã đưa cậu Tâm đi hết chưa?”
Tôi
nói:
“Chị bán hết nồi bún rồi chứ?”
Long dẫn tôi đi vài phía sau, để sang nhà Long. Bà Mùi đang
lúi húi trong bếp quay lại bảo:
“Hai anh hem đi chơi chốc quay về đây ăn cơm nhé.”
Long đáp:
“Vâng.”
Long lấy mấy ảnh và hai chúng tôi đi ra một căn nhà đổ. Tôi đứng
trên đống gạch vụn, sau lưng là bức tường còn những hàng khẩu hiệu
tuyên truyền
từ năm mới nổi cách mạng. Chụp xong hai kiểu, Long bảo tôi:
“Anh còn nhớ đây là nhà ai không?”
Tôi đáp:
“Không.”
“Nhà Hạnh đây. Hạnh hàng vàng mà ngày xưa chúng mình trêu để
nó về mách nhà cho ấy.”
Tôi kêu lên:
“A - Hạnh. Hạnh về đây chưa?”
Long cười xòa nói:
“Hạnh bây giờ buồn lắm. Gia đình sa sút và góa chồng. Hạnh đi
chợ đường Hà Nội. Anh gặp sẽ không nhận ra. Bây giờ Hạnh không còn đẹp
như xưa.
Hôm nào đám cưới tôi, anh sẽ gặp Hạnh.”
Trên đường về tôi nhắc lại kỷ niệm lúc chúng tôi còn đi học.
Về đến nhà, cơm đã dọn. Bà Mùi nấu món tôi ưa thích thuở bé: canh riêu.
Chị Mùi
hái ở vườn những quả ớt tươi lớn, ăn chảy nước mắt.
Tôi không trở về Bắc Ninh và ngủ lại. Đĩa đèn dầu thắp lên,
chúng tồi ngồi quanh trên phản nhắc lại chuyện cũ giữa những gia đình
chúng tôi.
Tôi ngủ với Long ở gian buồng ngày trước của gia đình tôi – gian buồng
độc nhất
may mắn còn nguyên vẹn – Chúng tôi đắp chung chăn và tôi ngủ giấc say
đến sáng.
Những cái bàn dài nối liền dọc theo
sân là chỗ tụ họp của đàn
ông. Đàn bà con gái ở trong bếp và trong buồng cưới: đó là một buồng
nhỏ cạnh bếp.
Các cụ ngồi trên phản giữa nhà. Những người đàn ông nói chuyện, uống
nước cam
chai và hút thuốc lào. Trong bếp người ta thái hàng rổ thịt lợn luộc.
Thấy tôi đến, chị Mùi vẫy tôi vào buồng cưới có Long ở trong
ấy. Chị bảo:
“Cậu Tâm đi phù rể đấy nhé.”
Tôi từ chối:
“Không được quen biết lắm, đi không tiện.”
Long xen vào:
“Anh cứ đi không sao. Hạnh là phù dâu đấy.”
Chị Mùi tiếp:
“Cậu đi về đây tôi giới thiệu lại cho.”
Một người đàn ông ngó vào buồng và gọi chị Mùi ra ngoài.
Long nói:
“Đấy là anh Hòa. Định hỏi chị Mùi, cũng ở Hà Nội qua.”
Và Long chỉ những người ngồi ngoài sân hỏi:
“Anh còn nhớ được ai không?”
Tôi lắc đầu. Long bảo:
“Bạn học cũ cả.”
Bà Mùi gọi Long để dặn điều gì. Tôi ngồi lại một mình trong
buồng. Giường trải nệm có đôi gối thêu lớn, mầu hồng, màn trắng nhưng
không mới.
Ở một góc là cái bàn mộc có ấm nước, khay tách và đĩa trầu.
Tôi đi xuống sân và chưa biết ngồi vào chỗ nào thì Hòa lại gần
hỏi chuyện. Chúng tôi theo ngã sau ra đồng. Thỉnh thoảng một giọt nước
lớn bay đập
vào mặt. Không hiểu sao, Hòa lại khoe với tôi là hắn làm việc cho phòng
nhì Pháp
và có thế lực. Tôi cũng hỏi cho qua những công việc hắn làm.
Tuy thế khi đón dâu tôi cũng đi bên cạnh Hòa. Trước tôi,
Long đi giữa hai người cùng mặc bộ đồ xám gần giống nhau. Bộ của chú rể
mầu nâu.
Đám cưới đi chân trên con đường chính của thị xã Đáp Cầu, một bên đường
cỏ
hoang và núi đóng đồn binh, một bên là nhà cửa đổ nát ít dấu hiệu của
sự sống,
ngoài những đứa trẻ nghèo nàn chạy theo trông. Người ta rẽ vào một đống
gạch vụn
cao, vòng ra sau lưng một bức tường chưa đổ hết, và bước vào gian nhà
tối. Chúng
tôi phải dừng lại ở ngưỡng cửa vì trong nhà đông người. Ánh sáng của
nến chập
chờn. Có tiếng hỏi:
“Chú rể đâu?”
Ở trên rẽ ra một lối để cho Long và hai người phù rể vào. Tôi
và Hòa còn lại ở ngoài. Tôi ra khỏi bức tường để đỡ cảm giác bịt bùng.
Không khí
no hơi nước và nặng nề. Trước mắt tôi là núi. Muơi lăm phút sau, đám
cưới trở về.
Vẫn cụ già mặc áo thụng xanh cầm hương đi đầu. Rồi đến chúng tôi, chú
rể và những
người phù rể. Hai họ đi liền sau và cuối cùng là cô dâu và những người
phù dâu.
Ở nhà gái ra, mặt Long đỏ như vừa uống rượu.
Ở nhà cỗ bàn dọn sẵn sàng. Bà Mùi và người con gái lớn đại
diện cho bố mẹ Long chưa hồi cư mời khách ngồi vào mâm. Thứ bậc tuổi
tác được định
rõ rệt. Cô dâu và các bạn vào buồng cưới đã được che ở cửa một tấm vải
hoa.
Long bận mời các cụ cầm đũa ở trên nhà. Chị Mùi lại gần chỗ tôi và Hòa đứng hỏi tôi:
“Cậu trông thấy mặt cô Hạnh chưa?”
Tôi trả lời:
“Chưa.”
Lúc ấy những người đàn ông yêu cầu cô dâu chú rể ra mừng rượu.
Một người nói to:
“Yêu cầu mời cả các cô phù dâu ra ngồi chung bàn.”
Long nói:
“Phải từ từ mới được.”
“Mình chú rể nói không nghe. Phải có đôi, có tuyên bố lý do đây
mới ăn.”
Tất cả những người đàn ông ngồi quanh bàn kêu lên: đồng ý. Và
họ cười ầm ỹ.
Chú rể đi vào buồng rồi quay ra trả lời:
“Xin phép cô dâu bị mệt.”
“Không được. Chưa uống rượu chưa mệt.”
Một người khác lên tiếng:
“Thôi nếu cô dâu mệt thì các cô phù dâu thay cũng được.”
Chú rể lại trở vào buồng rồi đi lên nhà trên. Chị Mùi nói:
“Tôi phải vào mời các cô ấy.”
Chị Mùi cầm tay một người con gái đi ra gặp tôi. Chị hỏi:
“Cậu nhớ ai không?”
“Cô Hạnh.”
Hạnh có vẻ ngạc nhiên. Chị Mùi nói:
“Cậu Tâm trước học cùng trường với cô. Sau cậu ấy vào Sài Gòn.”
Hạnh búi tóc và mặc áo tím. Trông Hạnh buồn và xanh. Tôi nói:
“Lâu quá cô không nhớ được nhỉ?”
Hạnh hơi mỉm cười nói khẽ:
“Cũng có nhớ.”
Chị Mùi vào bếp. Tôi định mới Hạnh ra sau nói chuyện thì
Long xuống. Long bảo:
“Đây là cô Hạnh, đây là anh Tâm. Cô nhớ không? Anh Tâm nghịch
có tiếng dạo ấy.”
Tôi cười trả lời:
“Dễ còn anh thì hiền lành lắm.”
Long cười và bỏ đi. Một cô phù dâu đến gọi Hạnh:
“Chị ra ăn cỗ còn về chứ.”
Hạnh chào tôi và tôi cũng về bàn.
Buổi chiều tôi đi bộ từ Đáp Cầu về trường vì không còn xe. Tôi
qua chợ Thị Cầu, sân đá bóng. Từ sân đá bóng về đầu tỉnh, đường lồi
lõm, cây cối
trơ trụi. Ở đầu tỉnh một công an viên giữ tôi lại để xét giấy tờ và đưa
tôi về
tận trường. Khoảng đó hơn bẩy giờ tối. Nhà trường vừa xong bữa cơm
chiều. Đại
sang và để lại giấy nói Thanh cần gặp mặt tôi ở Hà Nội.