13
Những
ngày kế tiếp, trời động bão, mưa lây nhây rỉ rả đêm
ngày. Gió thốc tạt. Trời xỉn cũ, từ sáng đến chiều một mầu, đôi lúc xập
xuống
như sắp cạn tuyệt ánh sáng. Không khí chùm hụp, bưng bít, mốc meo,
trong ngoài
không chừa chỗ nào. Người nào cũng trùm áo mưa, chụp nón, lúi cúi lúp
xúp. Chỗ
nào lúc lép nhép, trơn trượt, bẩn thỉu.
Thoạt
tiên chỉ tưởng cơn trở trời trái gió một hai buổi là
tan. Chưa đến tháng gió mùa thổi, không hiểu sao bão đã tới. Nhưng ngày
này như
đã vào tháng bẩy, tháng tám, như mùa hè đã qua và mùa thu của miền cao
đang về.
Những
ngày mưa thối cỏ thối cây dứt, gió sẽ bắt đầu cất
tiếng ca trên đồi, dưới lũng, bài hát ảo não của mùa mặt trời lảng trốn
bên kia
núi, dưới đèo.
Kiệt
giống như con gà rù. Con gà đứng co cẳng trong góc
chuồng, cánh xệ, cổ rụt, mắt nhắm, khật khừ. Con gà trong thế yoga,
nhập định,
chở giờ bị thộp, mang cắt tiết.
Thời
tiết thay đổi bất thường phủ lấp Kiệt hoàn toàn. Trời
như chiếc hộp kín bị lắc nhồi. Đầu óc Kiệt cũng là một chiếc hộp kín
nữa, nhưng
trong chiếc hộp kín này có thắp một bóng điện nhỏ. Chàng lừ nhừ di
động, không
gây chú ý. Chàng là chiếc bóng của chàng.
Thói
quen thường nhật của Kiệt bị xáo trộn. Chàng vẫn thức
giấc trước hoặc cùng giờ chạy buổi sáng của sinh viên, nhưng chàng làm
biếng
không rời trại. Chàng trở thành người khách đầu tiên trong ngày của Hội
Quán
một cách thường xuyên… Chàng uống ly trà nóng vừa pha chế trước khi
uống cà phê
ăn điểm tâm. Chàng ngồi bên cửa sổ trong xuống sân quần vợt, con đường
đất lầy
trơn như mỡ giăng qua hai bờ cao như chiếc võng. Một lũng cỏ hoang thả
kẽm gai
và mìn bên đường, triền lũng phía ngoài là nương cỏ xanh thả đàn bò của
người
chủ đất Tây lấy vợ Việt Nam, cạnh nương cỏ là khu trại quân Mỹ đã rút.
Chàng
ngồi ngâm nga cả tiếng đồng hồ trước giờ làm việc và sau giờ làm việc,
một vài
người quen ghé ngồi chung chốc lát mươi phút. Có buổi chiều chàng từ
chối cả
lời rủ rê của Duy ra phố uống cà phê, hoặc có ra rồi chàng cũng chạy
thẳng vào
trại không ghé nhà. Gần tuần lễ Kiệt không về ngôi nhà, chàng ăn ngủ
luôn trong
trại. Tối tối, chàng vẫn đến phòng Nghiêm nghe nhạc sau bữa cơm ở Hội
Quán ngà
ngà một hai chai la de. Chàng lơ là, hời hợt, bừng bừng vì hơi rượu hơn
là vì
nhạc.
Nếu
những ngày rớt bão cứ kéo dài, những thói quen mới chắc
sẽ thành hình ở Kiệt.
Kiệt
không đặt chân về nhà một phần cũng vì lẽ ngôi nhà thời
gian này giao cho người khác sử dụng. Tánh - chủ nhân - viết thư giới
thiệu
Hiệp, yêu cầu Kiệt nếu thấy tiện cho phép Hiệp mượn nhà quay một vài
nội cảnh
cho một cuốn phim đang thực hiện. Hiệp là anh chàng quen mặt, Kiệt gặp
trong
ngày chủ nhật đi với Oanh. Một buổi tối từ phố về, Kiệt thấy ánh đèn
trong nhà
sáng rực một vùng cây cối hắt xuống đường, trong cơn mưa lất lay. Chàng
tần
ngần tính lên xem đoàn quay phim làm việc nhưng lại thôi.
Những
buổi tối ướt mem. Trăng bị xô giạt không hiện. Trời
mây đen lổm ngổm. Gió về khuya thỉnh thoảng như sóng gào.
Tòa
nhà Nghiêm ở trở nên lạnh lẽo, heo hút hơn. Nó như chiếc
tầu đắm một nửa, lánh ở một mạn ghềnh đá cách vùng biển nơi những con
tầu khác
đậu đèn rực trời. Nghiêm vẫn đều đặn, mực thước một cách khủng khiếp.
Đến việc
nghe nhạc của Nghiêm hình như cũng theo một chương trình, không lộn xộn
tùy
hứng. Suốt mấy buổi tối liền, Nghiêm loanh quanh với những tác phẩm của
Stravinsky. Những L’Oiseau de Feu, Le Sacre du Printemps, Pétrouchka…
hoặc quá
phiền rối, hoặc quá trầm trọng, hoặc quá niềm nở bật dội lùng bùng cùng
hơi la
de trong đầu Kiệt. Kiệt thèm những khúc đơn giản, tha thiết, chỉ gồm ba
bốn
nhạc cụ tấu lên là đủ, như của Schubert. Chàng chỉ muốn nghe những bảng
lảng,
những quatuor, hoặc trio. Chàng ở ngoài những âm thanh của Stravinsky
và cứ cố
gợi nhớ một cách tuyệt vọng những quatuor cuối cùng của Beethoven.
Những
ván cờ liên tiếp hết với Nghiêm lại với Duy làm trí óc
Kiệt mê dại, lẩn thẩn sau khi tan cuộc. Nhiều buổi Duy chán ngấy nhưng
vẫn bị
ép đấu. Duy kêu: khổ quá, khổ quá, ông Kiệt ơi, nhưng rồi chịu trận.
Trong ánh
mắt, nụ cười, Duy tỏ ra hiểu Kiệt đang mang nặng tâm sự, anh chàng tò
mò đợi
chờ được chia sẻ.
Tối
thứ hai Duy đã bắt gặp Kiệt nằm còng queo trong phòng,
thờ thẫn, mệt mỏi như bị cảm nặng. Buổi sáng từ phi trường về khoảng
mười một
giờ hơn, Kiệt rơi trúng vào giữa trận mưa tầm tã mở màn những ngày bão.
Chàng
ướt như chuột. May gặp xe Phương chạy qua chở về nhà.
Trận
mưa bất thường kéo
dài đến chiều nên dậy học xong Kiệt nằm luôn ở phòng, thiếp đi cho đến
khi Duy
ở phố vào đập cửa mới thức. Đi với Duy xuống Hội Quán kiếm thức ăn lúc
gần mười
giờ, nghe trận mưa đã dứt hạt từ lâu tưởng trời lại trong trẻo và con
trăng đầy
thêm hơn, Kiệt gặp lạnh run lập cập. Một lúc trên quảng trường chàng
tối tăm
mặt mũi vì gió quật.
Trong
khi Kiệt ngồi ăn uể oải tô mì gói, Duy ngắm chàng bằng
đôi mắt như muốn soi tỏ mọi nỗi niềm u uẩn. Duy đã gặp Phương và biết
vụ Kiệt
mắc mưa.
-Cô
giáo tôi nói anh đội mưa đi lừng lững, khốc liệt lắm.
Nàng không hiểu anh đi đâu, có chuyện gì. Thấy anh lầm lì quá, cô giáo
tôi ngán
quá không dám hỏi. Nàng biểu nếu nàng không đậu xe mời anh lên xe đưa
về nhà,
anh dám lội đi quanh hồ hoặc đi luôn xuống hồ không chừng.
Cả
buổi chiều thứ hai ấy, Duy chạy lo vé máy bay cho Ly về
Sàigòn. Điện tín gọi Ly về gấp. Duy phải vận dụng đến giấy trưng vận
của tòa
tỉnh mới có vé. Nghe tin Ly rời khỏi thành phố, Kiệt nhẹ thêm nấc nữa.
-Chiều
thứ ba, hai người đến tìm tôi tận phòng. May là mình
đánh bạc ở phòng khác, nếu không chỉ có nước độn thổ. Bà Hiền mời anh
với tôi
ăn tối ở nhà. Bà ấy đến nhà anh không gặp anh nên đến tôi. Rồi giao phó
cho tôi
nhiệm vụ truy lùng anh. Tử vi của tôi không hiểu bị sao gì chiếu chuyên
trị làm
tay sai. Đi khắp thành phố kiếm anh chẳng thấy tăm hơi mặt mũi, hỏi ai
cũng
chẳng thấy anh. Tôi vứt cái message cho anh, ở quán cà phê, ở nhà, nhắn
đủ mặt.
Gần tám giờ tôi mới đến nhà họ. Bữa ăn thiếu anh thất bại hoàn toàn. Có
chai
rượu chẳng ai uống cả…
Phương
không đả động chuyện này lúc chở chàng trong xe. Kiệt
chẳng rõ mặt mày chàng bấy giờ thế nào khiến Phương nín khe.
-Anh
đi đâu mất tích?
-Đưa
một người bạn ra phi trường.
-Ai
vậy?
Kiệt
nghe câu hỏi của bạn, chàng muốn trả lời nhưng lờ lững
chậm chạp rồi thấy muộn bỏ qua.
Duy
bề ngoài xem nông nổi, lô bô ba la, nhưng khi cần cũng
cho thấy sự tế nhị, kín đáo. Chiều thứ ba rủ Kiệt đi uống cà phê, chàng
thoái
thác. Hôm sau Duy đề nghị:
-Bữa
nay trời lạnh mình đi uống rượu. Tôi đang bị nhức mình
mẩy, uống vài ly rượu thuốc xem có khá không.
Trên
đường ra chợ, Duy trầm ngâm. Anh chàng tìm cách xáp
gần. Họ uống rượu trong một tiệm thuốc bắc, lụp xụp mờ tối. Hắn dùng
rượu để
cậy miệng chàng, Kiệt nghĩ, và chàng nhất định ngậm chặt. Sau hai ba ly
rượu
nhỏ, mặt Duy đỏ tía. Chính anh chàng thổ lộ tâm sự. Cô “cháu gái” thứ
hai trong
bốn chị em, cô bé mà Duy quý, đã bỏ nhà đi mất. Dường như cô theo một
chàng đại
uý nào đó. Nghe tin đồn từ ít bữa nay nhưng mãi hôm qua rủ Kiệt đi phố
không
đi, Duy một mình buồn mới tạt đến nhà thăm và biết chắc đúng, Gia đình
cô bé
giấu quanh về sự vắng mặt của cô. Duy cười cười:
-Mình
cứ nghĩ em còn bé nên chưa ngỏ ý. Ai ngờ… thế là bị
phỗng tay trên. Thất vọng thiệt.
Sau
chầu rượu, Duy mời Kiệt đi ăn phở. Ra khỏi quán phở, Duy
say nhè vì uống thêm hai chai la de. Duy hỏi Kiệt: cần tiền không, hắn
được bạc
rủng rỉnh, Kiệt có thể cầm tiêu bớt. Kiệt gạt. Leo lên xe Dodge, Duy
ngồi hết
nổi. Hắn nằm còng queo trên băng ở khoang sau. Kiệt lái xe chạy ào
trong cơn
mưa tạt. Vào đến trại, vừa xuống xe, Duy nôn thốc nôn tháo, Kiệt phải
vực Duy,
cởi giầy, giăng mùng cho hắn. Chỉ khi về đến phòng, thay xong quần áo,
đặt lưng
xuống giường, Kiệt mới thấy mình cũng đã đời, lịm thiếp ngay lập tức.
Kiệt
từ chối cầm tiền của Duy, vì tính ghét vay muợn một
phần, nhưng lý do chính là chàng không muốn thú nhận điều ức đoán của
Duy là
đúng. Chàng không thích thú nhận. Bấy giờ, trong túi Kiệt chỉ còn vài
chục bạ,c
tuy nhiên chàng có thể ăn uống, ghi sổ Hội Quán. Thêm nữa, Kiệt âm thầm
đang
khép kín, thử thách với nỗi riêng ôm ấp, không muốn lẩn tránh. Chàng
lặng thinh
để nghe, xem. Chàng rình rập sự thật theo lối các nhà tu khổ hạnh hành
xác.
Tại
quân trường, đang trong tuần lễ cuối đệ nhất bán niên
dành vào việc khảo hạch, Kiệt chỉ bị cắt làm giám thị vài ba buổi.
Những giờ
trống trải, Kiệt rút ẩn trên lầu ba của thư viện. Nơi đây cao ráo, tĩnh
mịch,
có những chiếc bàn đặt trên những cửa sổ hình chữ nhật bề ngang hẹp bề
dài cao
đụng trần. Kiệt ngồi ở chỗ lấp sau những giá sách, trông xuống hai tầng
sân sâu
hút bên dưới, trông ngọn đồi Bắc chận tầm mắt và chếch bên là rừng
thông mầu
lục với một đoạn của con đường vòng quanh trường. Trước giờ vào lớp,
trong giờ
nghỉ, đám sinh viên lũ lượt kéo vào Câu Lạc Bộ ở dưới tầng hầm, mở nhạc
văng
vẳng, rã rượi như trời. Mưa gió khiến không ai lên sân lộ thiên, và cả
những
người đi khám bệnh buổi sáng thường ngồi chật quanh rìa chiếc bệ xây
trồng bông
ở sân dưới cũng vắng. Gió ướt thổi không trên mặt sân mầu gạch, những
bờ thành
và ghế băng xi măng xám, lục lạo bên đồi thông, vi vút quan những sợi
dây điện
mảnh. Giờ khắc thong thả loanh quanh theo gió đưa đẩy hoặc như bị ngập
chìm
trong màn mưa trắng xóa. Nhiều buổi, Kiệt không thốt lấy một lời, kể cả
lời tự
nhủ hay tự hỏi. Chàng mở một cuốn sách để trước mặt, đọc vài trang, vài
câu,
xong trí óc bay lảng.
Chàng
bỏ quên mình thật lâu, thật nhiều trong bất động. Mỗi
lần thức chàng lại như vừa nhô thoát một tầng vây hãm nào đó. Một hạnh
phúc thoáng
chốc hay một u hoài lãng đãng. Chàng như đi lại trong một vòm vang dội
tiếng
bước.
Đến
thứ năm, trời sáng hơn. Bão đang tan. Mưa còn nhưng bớt
gió quẩn. Chiều bắt đầu hưng hửng. Kiệt gặp phiên trực và tuần tiễu
đêm. Buổi
trưa chàng nằm trong phòng trực một mình để chiều tối có thể vào muộn,
vì vướng
dậy hai giờ sinh ngữ. Chàng tính bỏ quách, nằm bẹp nhưng lại thấy bóng
nắng
chập chờn sau mấy ngày ủ dột nên muốn ra phố thay đổi không khí. Chàng
cũng
định gọi điện thoại cho Thùy nhưng trong túi không còn đồng cắc. Chiều
hôm ấy
cả Nghiêm lẫn Duy đều biến mặt. Kiệt không ghé vào khách sãn P. như
thường lệ,
cũng không ghé quán phở và quán cà phê. Chàng lên đồi. Cỏ ướt nhớt. Đồi
vắng
không. Chàng dựng xe, ngồi trên yên, ngó mông tứ phía đợi giờ đến lớp.
Đêm
sương đổ trắng mù. Vòng tuần tiễu qua các đồn canh trạm
gác ra tận các toán kích ngoài rào lâu hơn tiếng đồng hồ.
Một
toán kích nằm trên một triền đồi xe không lên tới, phải
bỏ xe mò mẫm đi chậm, qua một khoảng đất đang ủi bạt, sình lầy lún đến
mắt cá
chân. Thực tế chẳng ai mất công lặn lội lên chỗ này kiểm soát giữa đêm
tối mịt
lạnh giá. Người ta thường đứng dưới đường kêu lính gác xuống hỏi quân
số, vũ
khí, đạn dược mang theo. Riêng Kiệt, phiên tuần tiễu nào chàng cũng mầy
mò lên
một mình, hai người lính hộ tống ở lại xe với khẩu đại liên. Chẳng phải
chàng
làm hơn những người khác, chàng cũng chỉ gặp lính gác hỏi một hai điều
cần biết
như mọi người, thảng hoặc hỏi thêm một hai câu vớ vẩn như lạnh không,
có thuốc
lá hút không… Chàng lấy việc lặn lội lên đồi hoặc tuốt xuống dưới lũng
làm thú
riêng; tưởng tượng đang đi dạo trong đêm. Vào tuần trăng, cảnh vật rừng
núi
hiện trong mầu hư ảo. Nhiều đêm sương bủa lấp không thấy mặt hồ và
trong mầu
khói trắng toả đôi lúc lênh đênh những đốm đèn chẳng rõ xa gần. Đêm
trời nổi
gió vần vụ, những con trăng muộn như chạy lồng. Dưới trời đêm, Kiệt
thoải mái
quên những phút bực rọc khi sửa soạn khởi hành: phải đi lùng kiếm tài
xế, lính
hộ tống, mỗi đứa ngủ một nơi mất hàng giờ.
Đêm
ấy Kiệt sửa soạn đi tuần tiễu từ mười một giờ rưỡi và
lúc về gần hai giờ. Chàng mất ngủ luôn đến sáng.
Bão
tan hẳn. Trời sáng trong như không hề đã có những ngày
ảm đạm trước. Nhưng trên đường xuống Hội Quán buổi sáng, cảm giác khoan
khoái
của Kiệt không toàn vẹn. Đầu óc chàng choáng váng lợn cợn, có mòi u
uất. Ngày
đẹp nhưng Kiệt mường tượng đến vẻ rời rã buồn phiền đang trôi tới.
Chàng vẫn
ngồi ngây bên cửa sổ ngó ra cảnh vật đang hồi sinh tươi thắm dưới ban
mai,
thỉnh thoảng lại thoáng thấy như có tấm màn đen phất bay qua mắt. Hơi
khói thuốc
lá hít vào khiến Kiệt ho rát cổ.
Kiệt
nghĩ chàng cần ngủ bù, tìm một chỗ khác ngoài phòng làm
việc để năm dài. Một tháng nay, chàng sống thiếu điều độ. Chàng không
thể về
nhà, ngôi nhà đang bị xâm chiếm. Chàng không thể ra phòng Duy ngoài cư
xá độc
thân, phòng chung hai người và cảnh hỗn tạp của chung cư không hợp với
Kiệt.
Chàng không thể đến nhà Nghiêm hoặc nhà đứa em họ của Thùy nơi chàng đã
trú ngụ
một thời gian; sự xuất hiện của chàng gây phiền phức cho các gia đình.
Kiệt
không biết ngã vào đâu cho ổn.
Chàng
nghĩ đến một gian phòng trong khách sạn. Nếu có tiền
chắc chắn Kiệt mướn phòng khách sạn P. ở đó như mọi du khách trong vài
ngày. Rồi
Oanh hoặc Ly bất chợt lên.
Kiệt
tưởng tượng, cố xua đuổi tưởng tượng. Trí tưởng tượng
làm chàng bệnh thêm. Oanh và Ly dần dần trong tưởng tượng sẽ trở thành
bất kỳ
người đàn bà nào. Và chàng sợ, chàng ngại lúc trở chứng mê muội…
Thật
thà Kiệt chống lại ham muốn tự hủy man rợ.
Không
ai đến với chàng cả.
Kiệt
như con chó khập khễnh tìm góc khuất nằm liếm vết thương
rướm máu.
Vào
lúc ấy Kiệt nhận được thư Ly do Phương chuyển. Trên danh
thiếp ghi tên Lê Thị Hiền, nàng viết:
“Cảm
ơn tối thứ bẩy. Tiếc chủ nhật không gặp. Phải về Sàigòn
gấp vì một bức điện tín. Thôi để một chủ nhật khác.”
Kiệt
đọc đi đọc lại mấy câu ngắn ngủi, thấp thoáng vẻ bồn
chồn căng thẳng. Chàng hoang mang.
Cùng
lúc chàng nhớ Oanh và Ly, tâm thần bất định chuyển như
cánh quạt gió. Chàng nhớ Ly để quên Oanh, rồi chàng nhớ Oanh để quên
Ly. Và
chàng nhớ Thùy và các con để quên hai người.
Sau
rốt, chàng mong quên tất cả.