Một Chủ Nhật Khác


10

Kiệt mở rộng cửa, đón nắng, khu cư xá trong ngày cũng giữ vẻ biệt tịch. Chỉ nghe tiếng xe chạy ngang dưới đường ga hoặc những tiếng động dưới lòng chảo, họa hoằn mới có tiếng xe hay tiếng người qua trên dải đường trong cư xá. Ở nhà, khi nào Kiệt cũng để ngỏ cửa, không ngại bị dòm ngó. Ánh trời, bóng nắng, gió, bóng cây lá - những trận mưa nữa – tuôn vào tới bàn lớn bề bộn sách vở, giấy má, vật dụng lặt vặt kê giáp hai cạnh vào tường. Chàng nằm dài trên giường, ngủ quên thoải mái như phơi mình ngoài trời. Một buổi sáng chủ nhật, chàng ngủ quên như thế, chừng tỉnh dậy thấy mất hai cây vợt và chiếc máy thâu thanh. Thủ phạm chắc là một kẻ trộm thời cơ, ngẫu nhiên lạc bước qua cửa, không trở lại lần thứ hai.

Gian phòng nguyên như buổi tối thứ sáu trước khi Kiệt rời nhà vào trại. Cây đàn bỏ trên bàn. Tập sách nhạc mở ở bài Sonatine của Beethoven Kiệt đang tập. Tập sách có chữ của Thùy đề tặng sinh nhật chàng. Em mãi mãi ở bên anh, hãy bình tâm. Dấu vết ngày thứ bẩy là mặt nệm, chiếc gối xô lệch và bộ quần áo thay vắt cuối chân giường. Kiệt xoá các dấu vết trên mặt nệm, ném bộ binh phục vào trong phòng tắm. Như người xa lâu trở về nhà, Kiệt ngồi xoay ngang trên ghế ngó làm quen lại với nơi chốn.

Đang lúc ấy Oanh nhô lên, giữa bờ cỏ cao, nàng vẫn theo lối cũ từ dưới đường thấp leo lên những bực đá.

Oanh thắt tóc thành hai dải bím, mặc váy và áo chẽn bó mầu hồng đào. Cách trang phục làm nàng nhỏ bé thêm. Nàng như bị vây giữa đám lá cỏ, tàn cây cao và những hoa nắng ngả ngớn. Nàng ngỡ ngàng như lạc lối. Có vẻ như nàng không chủ tâm tới, nàng dạo chơi, vui chân bị cảnh vật dẫn dụ.

Kiệt không hơn. Tuy chàng đã qua khỏi trạng thái mất bình tĩnh, nhưng bây giờ chàng bất động u ám. Sự xuất hiện của Oanh khuấy nhộn chàng quá lắm và chàng chống lại bằng vẻ điềm nhiên tọa thị.

Oanh vào tới trước sân. Mặt đất đầy những cành lá và các quả thông khô. Nàng nhìn các phía, rồi chạy mau lọt vào trong cửa. Nàng đứng tựa lưng, ngả đầu vào tường, hai cánh tay xuôi thẳng, bàn tay áp trên mặt tường như chống đỡ cho khỏi khụy. Nàng khép mắt thở dồn, rồi từ từ hé mắt mỉm cười.

Lúc ấy giống như thể một dàn nhạc đại hòa tấu ùa lên tở mở trong một ouverture. Ánh sáng tắt hết trong thính phòng và rực rỡ tụ hội trên sân khấu. Lúc ấy giống như Kiệt là một diễn viên phải ra sân khấu, trong một thoáng trút lốt hàng ngày, bước tới trong điệu bộ bị điều động bởi âm thanh, ánh sáng, và khán trường.

Lúc ấy mọi thứ đều hư ảo, mờ nhạt. Chỉ có im lặng bao trùm hiển hiện.

-Xin lỗi, em đến chậm.

Kiệt ôm đầu Oanh vào ngực. Hai người đứng thẳng cứng nhắc. Mặt Oanh cúi nấp, Kiệt tựa cằm trên tóc nàng, môi ngậm nhấm mấy sợi tóc phất phơ. Sau những dồn nén, thiếu nữ bắt đầu xúc động. Sự xúc động nhẹ nhàng dấy. Như một diễn viên vụng về, Kiệt không biết xoay xở ra sao, chàng vuốt ve mái tóc.

-Em đi chân nên đến chậm.

Nói xong, Oanh khẽ đẩy Kiệt lùi xa. Trán nàng lấm tấm mồ hôi. Nàng bước vào giữa phòng quay dòm phía sau. Cửa vẫn mở rộng. Nàng mỉm cười hỏi ý Kiệt, nàng không nhận thấy chỗ nào nàng có thể tới trong căn phòng.

Kiệt đến bên và chàng lại ôm đầu Oanh vào ngực. Hai người đứng im tại chỗ. Kiệt ngó mông ra ngoài, tới tận những đám cây xa trên con đường còn cao hơn ngọn đồi cư xá. Con đường chạy ngang những dinh thự. Chàng trông thấy những dinh thự bám chênh vênh dưới chân con đường ấy. Dường như Kiệt không biết làm gì hơn là lập lại những cử động chàng đã làm. Oanh cũng vậy. Nàng vẫn cúi nấp đầu nhưng đã bớt hồi hộp. Nàng ở trong vòng tay Kiệt nhẹ như thỏi bông.

Kiệt bắt đầu thấy mình kỳ cục, dị hợm.

-Nói một câu gì đi. Kiệt nói.

-Kỳ cục.

Như được xô sau lưng trên dốc trượt, chàng bật cười vò đầu Oanh. Chàng nghiêng người, nâng mặt nàng ngửa lên nhìn vào. Không hiểu sao, chàng bỏ ý hôn nàng, chàng giữ im nụ cười soi trong đôi mắt thất lạc.

-Kỳ cục thiệt. Kiệt lập lại. – Còn kỳ cục nữa. Anh đang trở về, đang trẻ lại. Giống như thể ngồi sau chiếc phi thuyền tốc độ hơn tốc độ ánh sáng…

Oanh ngơ ngác. Kiệt giải thích thuyết tương đối của Einstein. Chàng nói trôi.

-Em thấy không, anh chỉ muốn đứng, muốn đứng mãi một chỗ như thế…

Oanh không thể hiểu ý và điều này thì chàng không giải thích. Làm sao giải thích những rung động? Muốn đứng mãi một chỗ như một thân cây, một tảng đá, một ngọn núi không chuyển. Và nghĩa là không muố nằm, không muốn tan chẩy, không muốn biến.

Kiệt trẻ lại thật. Không tà ý, bay bổng, chênh chao và khờ khạo.

Chàng bảo Oanh ngồi xuống chiếc ghế trống. Nhà có hai chiếc ghế, một cái vắt quần áo và xếp chồng giấy má. Chàng ngồi ghé mép giường, đánh đàn. Chàng cố gẩy một đoạn trong Liên Khúc Số 3 của Bach. Nhạc tràn trề sinh lực, cao sang, phúc hậu. Bị vấp, chàng hát nối. Hết Bach, đến Brahms, Saint Saens. Chàng mê man như hồi mới lớn buổi tối ngồi trên bao lơn thổi kèn, tưởng tượng cô gái nhỏ bên hàng xóm đang rình nghe.

-Anh hát được vọng cổ. Lúc này anh có thể hát vọng cổ.

Không biết từ lúc nào, mắt Oanh ướt lệ. Mặt nàng ửng hồng như tức thở. Kiệt đang vui, chàng không nén cơn vui và chàng tưởng Oanh cũng say trong niềm hoan lạc bất thường, quá độ.

Hai người chẳng nói chuyện gì ra chuyện gì. Giống như buổi chiều hôm trước, họ biểu lộ những cử chỉ thân ái, nói những câu vô nghĩa đâu đâu. Những câu nói chỉ nhằm mục đích duy nhất giúp họ gần gũi thêm, kéo dài thời gian ở bên nhau.

-Em phải về không?

Oanh lắc đầu.

-Mình ra ngoài cho thoáng.

Buổi trưa đang tới. Nắng gió ào ào từng cơn như buổi trưa gần biển. Những buổi trưa như bữa nay khó ngủ. Gió mở trống Kiệt từng lúc, chàng cứ thấy mình bị thổi tung bay trên cảnh vật giống như nhân vật trong tranh Chagall.

-Sợ không?

-Sợ gì?

-Đi với anh?

Đầu tóc Oanh áp tựa lưng sau. Chiếc xe lao dốc cao, nổ ầm ĩ, chậm hẳn. Kiệt nghe vẳng một đề nhạc trong gió ngược. Một đề nhạc đơn sơ chính chàng bắt được. Chàng âm ư, sửa đi sửa lại tưởng mình như một nhạc sĩ tràn trề cảm hứng.

Họ ghé một nhà hàng xập xệ.

Dẫy quán làm bằng vật liệu chắp vá (gỗ thừng sữa, nhôm thiếc mỏng vỏ hộp lade Mỹ...), dựng mau chóng trong một đêm, trên vỉa hè nhỏ che dẫy nhà đã có trước cũng chẳng sang trọng hơn. Con phố hẹp, dốc, lồi lõm, trông như hàm răng khấp khểnh. Đến đây, thành phố hết nét cá biệt, nó giống bất cứ thành phố nào của một xứ đang chịu chiến tranh tàn phá. Cảnh sống chui rúc, bẩn chật, tạm bợ, lê lết. Khu vực của lính biệt kích, lính đào ngũ, du đãng, anh hùng nhất khoảnh, lúc nào súng cũng có thể nổ, lựu đạn có thể ném vì những chuyện không đâu: một cơn say, một cuộc cãi lẫy, một màn tranh giành, thanh toán…

Quán bán những món bình dân, Kiệt ghé vào vì thuận đường và biết chắc không bị ai quấy nhiễu. Gian quán nín thinh. Bên kia ván vách, có tiếng chân bước lệt xệt, banh bi-a chạm đụng, phấn vạch trên bảng ghi. Không khí nghiêm trang buồn cười.

-Em giống như một ả xẩm.

Cả hai đều không đói. Tuy nhiên họ vẫn ăn thong thả, mỗi người một bát bún riêu lót dạ. Kiệt uống một chai bia.

Trong khi ăn, Kiệt bỗng nhớ đến những ngọn gió bấc cắt da, những hạt mưa nhọn như kim châm, dúm ớt bột tê môi, chảy nước mắt, bát chè tươi bỏng rát lưỡi. Từ bát bún riêu, chàng nói về mùa màng thời tiết, về bầu trời sông nước, về đồng ruộng trái quả, về phố phường thắng cảnh và vô tình chàng tiết lộ những mảnh vụn của một thời ấu thơ và niên thiếu chẳng hề chàng nói với ai.

Oanh mở mắt to chăm chú. Kiệt lại thấy những giọt nước mắt rơi. Chàng không còn tưởng là những giọt hoan lạc nữa, chàng nghĩ, đó là những giọt sầu. Những giọt sầu chung. Chàng cảm động. Tuy nhiên chàng nói:

-Em dễ bị dụ quá há.

-Em bị anh dụ từ lâu rồi. Oanh cười nhếch.

-Sợ không? Hỏi vậy, nhưng chính Kiệt thoáng hãi.

Oanh lắc đầu. Dáng nàng ảo não. Hoặc giả có thể là mầu mờ tối của của gian quán nhơ nhớp ánh trên mặt nàng.

-Đến phiên em nói gì đi.

-Anh muốn em nói gì?

-Nói bất cứ chuyện gì em thích nói.

Kiệt gọi thêm bia.

Oanh im lặng lơ đãng. Chàng tưởng nàng đắn đo suy nghĩ. Chừng quay nhìn, nàng nở nụ cười, trong ánh mắt chiếu tỏ ý thoái thác.

-Cười trừ hả?

Tính Kiệt ghét bị truy nã, và cũng ghét truy nã kẻ khác. Vả lại sự im lặng của Oanh tràn đầy, không bắt Kiệt phải tưởng tượng đến gì khác. Nàng không còn là một cô bé dưới mắt Kiệt. Sự im lặng của nhạc. Sự im lặng như hạt nhân ở chàng ngay những lúc chàng ồn ào. Oanh ngồi thẳng trước món ăn bỏ dở, nhìn chàng và cười, như thế không đủ sao? Chàng đâu cần biết nàng từ đâu tới, nàng sẽ về đâu, trước kia nàng thế nào, sau này nàng sẽ ra sao. Ích gì? Nàng ngồi đó, nhả những sợi im lặng mềm mại bao bọc chàng, che chở chàng trong cơn lảo đảo không đủ sao? Khi mở bừng mắt, nàng biến mất như bóng chim, vừa làm xong chiếc tổ mong manh trên cành bão, vút bay theo cơn giông những ngày tới. Chắc thế.

Trong thoáng, dồn ắp sự im lìm của Oanh biết bao nhiêu ngày qua trong giảng đường ở cuối tầm nhìn của chàng. Gương mặt thuôn thuôn ngước trông lờ lững trong nét cười không hé môi, luôn luôn phảng phất quấn quanh tia mắt giúp chàng nhẹ nhõm trôi đi trong tiếng nói của mình.

Bây giờ, sự im lìm tách rời khung cảnh kề cận trước mắt, như một đốm sáng lập lòe giữa đêm mịt mùng gọi kẻ lữ hành nhắm hướng. Nơi đốm sáng chập chờn kia là gì?

Sau bữa ăn, xong từ lâu nhưng còn kéo dài nữa nếu Kiệt cứ ngồi yên, Kiệt như đã vượt một chặng đường dài. Quay nhìn, chàng không còn thấy chốn đã khởi đi. Chàng chỉ thấy mình đang trên con đường, trước mặt sau lưng là lối trải dằng dặc.

 

Gần qua buổi trưa trên đồng hồ khi hai người rời quán. Hai giờ hơn. Nhưng buổi trưa thực sự, buổi trưa của ngày chủ nhật ở thành phố nhỏ, chưa dứt. Người ta còn ở trong nhà, chỉ ra phố sau bốn giờ.

Gió và nắng mướt vàng của ngày hè đang độ ửng.

Kiệt rong xe trên con đường đẹp nhất thành phố, cao nhất thành phố. Hai bên dinh thự, biệt thự và sau lưng các dinh thự, biệt thự là lũng sâu. Một bên phố xá, một bên những làng ấp phụ cận. Kiệt thốt thành tiếng một ý tưởng thoáng hiện, rồi nghe Oanh hỏi tới từ phía sau:

-Anh nói gì?

-There will be time, there will be time… Em biết không?

-Không.

-The Love Song of  J. Alfred Prufock. Bản tình ca của chàng…

Kiệt rẽ vào con đường dẫn đến các vườn mận nằm trên doi đất cao lọt trong một thung lũng. Cuối đường, một ngôi chùa cất trên một đỉnh đồi.

Đứng trên chùa trông xuống lũng xanh rờn. Mận trồng như rừng bám dài triền vách lũng. Thông rậm tối và cao hơn hơn bên phía thành phố. Chùa như dựng cất trên mỏm gió. Gió ào ạt từ dưới lũng sâu bao quanh thổi lên không lúc nào ngớt. Tiếng gió rộn ràng say sưa đến chóng mặt.

Mặc dầu nắng sáng, Oanh có vẻ bị thấm lạnh khi vừa lên cổng tam quan. Nàng thu nhỏ mình trong vòng tay khoác của Kiệt. Còn Kiệt hoàn toàn nhẹ thênh. Chàng ở giữa trận gió rùng rùng, mê hoặc thính giác và thị giác. Mắt chàng hoen ướt lòa nhòa. Tai chàng lung bùng tưởng chừng đang nghe một dàn nhạc trổ đoạn Allegro.

Ngồi trên bệ gạch trước chánh điện đóng kín, Kiệt định thần. Chàng lắng nghe gió dưới xa, xuyên qua những lớp gió gần vây bọc. Chàng nghe tiếng gió hòa ca bất tận mấy lời chàng thốt tình cờ trên đường, there will be time, there will be time… Rồi chàng nghe lại đề nhạc đơn sơ bắt gặp buổi trưa, đề nhạc triển khai bát ngát vọng dưới các đám rừng. Một lát, đề nhạc rậm rịt, lạc dần, nhập lẫn với những âm điệu trong ký ức, biến thành đoạn khai mở bi tráng của Wagner. Dường như Tristan và Isolde. Lúc ấy chàng biết rằng chẳng bao giờ là nhạc sĩ như mơ ước, chàng chẳng biết cách nào để ghi những tiếng, những nhịp đang bạo hành tâm trí. Chàng bất lực, thoáng buồn. Chàng chỉ là đứa trẻ thổi harmonica trong những chiều hiu quạnh, là người đàn ông mặc binh phục ôm Tây Ban Cầm dạo vài bài phổ thông trước khi vào trại.

Oanh sáp lại bên Kiệt. Nàng cầm bàn tay Kiệt đang buông thõng. Lần đầu tiên nàng tỏ cử chỉ âu yếm, chủ động, Nàng bóp nhẹ bàn tay, gọi chàng tỉnh cơn lơ đãng.

-Buồn không? Kiệt nói chẳng suy nghĩ.

Oanh mỉm cười, lắc đầu.

-Đố biết anh đang nghĩ gì?

Oanh lại lắc đầu.

-Anh muốn có một cây kèn thổi cho em nghe lúc này.

Oanh ngó lảng ra gốc thông trong sân chùa. Mấy đứa trẻ từ dưới ngôi trường tiểu học còn đóng cửa nghỉ hè đang chạy đuổi nhau trên lối dốc.

-Chốc nữa về phố anh sẽ mua cây kèn.

-Để làm gì?

-Để thổi cho em nghe. Một bài thật lãng mạn. Kiệt bắt đầu cười.

-Khỏi. Em nghe thấy rồi.

-Thật không?

Oanh áp má xuống bàn tay nàng đang nắm giữ.

Hai người đứng dậy khi mấy đứa trẻ lên đến trước tam quan. Kiệt cởi áo khoác của mình phủ lên vai Oanh. Họ bước sang mé gần bờ vực nơi trồng những gốc mận. Ở mép sân có một cây lựu thấp, những bụi hồng, cẩm chướng và một gốc hoàng lan.

Suốt gần ba năm, mãi buổi chiều ấy, Kiệt mới cảm nhận được vẻ đẹp chìm đắm ngây ngất của thành phố. Chàng nghĩ mình có thể sống quây quần với gió núi, khí rừng một thời thong dong mà mộng ước không sao phá quấy, làm cho chộn rộn.

Kiệt chui dưới những tàn cây lòa xòa, bứt trộm vài trái mận. Họ cùng nhấm nháp xuýt xoa. Kiệt kể cho Oanh nghe về vườn mận ở bên dưới, không rõ cánh vườn nào, có người thiếu nữ quen Duy. Theo Duy, cô bé đẹp và hiền hậu nhưng tàn tật. Cô bị xe nhà binh tông và bị cưa một bàn chân trái. Nhắc chuyện này, Kiệt sực nhận thấy điểm đặc biệt ở bạn mà từ trước đến nay chàng không chú ý: những người Duy quen thân đều không tật này cũng chứng nọ. Cô “cháu gái” thứ hai trong bốn chị em mắc bệnh phổi, gầy gò yếu ớt. “Góa phụ vui tươi” có đứa con trai mắc bệnh tê liệt. “Người đẹp xứ Thái” ngây ngô trẻ nít.

-Anh ta không bao giờ mời được cô bạn đi dạo phố. Một hai tuần lóc cóc xuống đây thăm, đi dạo với cô ngoài vườn, lượm mận ăn. Trước kia anh cười anh ta lãng mạn lẩm cẩm. Nhưng anh ta thì hài lòng. Mỗi lần xuống đây về anh ấy hớn hở yêu đời lạ. Bây giờ anh hiểu. Vào không khí này chẳng còn cần đi đâu nữa, phải không?

Khoảng gần bốn giờ nắng đã rút khỏi thung lũng. Phía thành phố cây xẫm đen. Trời như đã ngả chiều. Gió vẫn thổi miên man nhưng mang theo khí ẩm lạnh. Khu vực này đêm xuống, đàn ông bỏ nhà ra phố ngủ nhờ.

Rời chùa Oanh vẫn khoác chiếc áo ngoài của Kiệt. Gương mặt nàng thờ thẫn.

-Có chuyện gì thế? Kiệt hỏi.

-Anh có biết tại sao em đến tìm anh không? Oanh chậm rãi.

Kiệt khó chịu vì câu hỏi. Chàng nín thinh.

-Em đến để từ biệt anh. Oanh ngừng, đợi phản ứng của Kiệt - Trước khi không còn được gặp anh, em muốn…

Kiệt lặng người. Chàng thủng thỉnh bước từng bực đất trên lối từ cổng chùa xuống. Quãng đường đến chỗ dựng xe còn lại quá ngắn không đủ để Kiệt tìm một câu hỏi. Bề ngoài Kiệt thản nhiên như không.

-Mình đi đâu nữa? Kiệt hỏi khi đã đứng bên xe.

-Tuỳ anh. Oanh cúi mặt như kẻ phạm lỗi.

Từ đấy về khách sạn P.  hai người không thốt một lời. Kiệt chăm chú lái xe. Đầu óc chàng tạnh ngắt, mờ tối như thể bị một tàn cây lớn che rợp. Gió thổi vù vù bên tai, phả trên mặt tê rát. Oanh ngồi thẳng không chạm chàng.

Dựng xe trước bực thềm, Kiệt nói:

-Còn sớm, mình lên đây một chút rồi về.

Oanh tỏ vẻ ngần ngừ. Kiệt nói tiếp:

-Đừng sợ.

Kiệt không tiến vào lối chính qua phòng tiếp tân mà rẽ sang bên gõ cửa kính phòng trà kêu người bồi rượu. Chàng ngồi vào cái ghế quen thuộc của mình. Trên mấy ngọn đồi và mặt hồ nắng còn phơi. Trời bừng sáng hơn trong thung lũng.

-Nào bây giờ em nói đi anh nghe.

Oanh bối rối khốn khổ. Nàng quá nhỏ bé trong ghế.

-Em hút thuốc nhé? Nàng khẽ hỏi.

Điếu thuốc run trong tay nàng. Kiệt nhoài người đánh diêm cho Oanh, nhìn những sợi lông măng trên cánh tay, những đường nẻ trên vành môi của nàng. Chàng cười trấn an nàng, trấn an mình. Đợi thức uống mang ra đâu đấy, Oanh bắt đầu nói.

Oanh tìm gặp Kiệt là để từ biệt, đúng hơn, vĩnh biệt. Niên học tới nàng không trở lên. Trước khi xa Kiệt, nàng muốn gặp chàng một lần, chỉ định gặp chàng một lần, cho tỏ rõ….

--Hôm nay là lần thứ hai rồi. Kiệt đùa. – Không bao giờ có hai mà không có ba.

-Không bao giờ có lần thứ ba nữa. Oanh quả quyết.

-Em còn phải lên thi chứ

-Em không thi.

Oanh nói, nếu nàng còn trở lên, như những năm trước, nàng không khi nào đến Kiệt. Mai sáng nàng rời đây, đi chuyến bay sớm nhất. Oanh đưa Kiệt xem tấm vé hàng không đã mua. Nàng về Sàigòn lo thủ tục xuất ngoại. Khoảng cuối tháng tám đầu tháng chín, Oanh đi.

-Từ giờ đến đó còn lâu. Em có thể trở lên biết đâu chừng.

-Anh muốn em trở lên lắm sao? Oanh hỏi nhìn thẳng mắt Kiệt.

Ở bàn xa đám khách lạ ồn ào. Một khách ngoại quốc râu tóc xồm xoàm ngồi đàn dương cầm phía trong hàng cột, sau lưng Kiệt. Những du khách hiếm hoi của thành phố, Kiệt nói. Chàng hỏi tên Oanh tên những bài hát quen tai đang được trình diễn.

-Anh mời em đi ăn tối nay. Rồi anh đưa em về nhà em cho biết nhà. Mai anh sẽ đưa em ra phi trường. Đó là chương trình từ biệt.

-Anh muốn đưa em đi đâu em cũng đi hết. Oanh nói vẻ cố hăng hái.

-Thật không? Kiệt nheo mắt hỏi đùa đầy ngụ ý.

-Thật. Oanh quyết liệt như thách thức.

Kiệt cười xòa.

Mặc dầu hơi rượu đã bốc nhưng Kiệt hiểu không thể có gì xẩy ra giữa hai người. Chàng thấy mình lố bịch quá sức, Lố bịch không tưởng. Chàng đang tự trói mình vào một ám ảnh vu vơ do trí tưởng tượng của gã thiếu niên mười sáu tuổi dựng lên. Cô bé hàng xóm thường nghe Kiệt thổi kèn mỗi chiều tối năm nào, ốm thương hàn chết một cách quá đột ngột với Kiệt: suốt tuần lễ Kiệt không thấy bóng cô nàng và một buổi trưa đi học về chàng nghe tiếng khóc bên hàng xóm. Kiệt không thổi kèn từ năm ấy.

Ngày hè thật dài. Kiệt đã gọi cốc rượu thứ hai, uống cạn nửa, chiều vẫn còn huy hoắc. Oanh mệt mỏi tựa ghế, hơi thở nhịp nhàng trên ngực. Có lúc nàng khép mắt như chợp ngủ. Ly nước ngọt của nàng đá tan chẩy pha loãng.

Họ lắng đợi buổi chiều qua.

Một người trong đám khách lạ đi ngang tiến đến vỗ vai bắt tay Kiệt. Chàng ngước mắt vẫn dính trên ghế, nhớ mại mại một mặt quen ở đâu chẳng rõ. Anh chàng tay bắt mặt mừng chào hỏi mời mọc. Kiệt không muốn mở miệng chút nào.

-Một người quen, quên mất tên. Kiệt nói với Oanh, dù nàng không hỏi, khi đã thoát nạn.

-Em làm phiền anh không?

-Không.

Rồi Kiệt không thể cứ ngồi quên như chỉ có mình. Hơi rượu chất chứa đòi bay thoát. Chàng kiếm chuyện. Chàng nói tỉ mỉ về các thủ tục, giấy tờ Oanh sẽ phải làm trong những ngày tới. Oanh đáp mọi việc nàng không phải lo. Chàng mô tả lộ trình Oanh đi qua, các trạm ghé, các miền đất lạ, các loại phi cơ, các phi trường, nơi nàng đến, ngôn ngữ nàng dùng, ngành học nàng chọn… Chàng nói, không cần chú ý xem Oanh có theo dõi không. Những lời tào lao làm Kiệt vơi nhẹ, bay đi quên chốn đang ngồi và giúp Kiệt tưởng chàng đang quấn quýt Oanh ở chốn âm thầm sâu xa nhất trong nàng. Lời nói như những luồng gió thổi.

Một lúc, không ngờ - chẳng nhớ đã nói gì trước đó - Kiệt nghe mình nói:

-Em đến để em đi. Em đi như thể lúc em đến. Thật buồn, cũng thật vui – Mình đang nói xàm, Kiệt nghĩ - … Anh nhớ một câu chuyện của ông Khái Hưng đọc ngày nhỏ. Một người đàn ông ngày ngày phóng ngựa trong đồn điền của hắn, đón đợi người đàn bà trở lại. Người đàn bà một buổi trước tình cờ dừng chân ở đồn điền và chắc đã quên chẳng còn nhớ nơi chốn đã ghé. Nhưng người đàn ông vẫn cứ mong ngóng, vẫn hy vọng dù biết là hão huyền. Ngày trước đọc chuyện, anh thấy vô lý. Thường người đàn bà chờ đợi chứ sao lại là người đàn ông. Không phải phóng ngựa mà ngồi ì một chỗ chờ đợi.

“Anh sẽ ngồi chỗ này trong mỗi buổi chiều từ giờ cho đến lúc em đi, nghĩa là hết mùa hè, đợi. Biết đâu ngày nào đó em trở lại”.

Kiệt không nghe mình cười. Rõ ràng như vừa có trận gió lạnh từ đáy sâu thổi ào. Chàng rùng mình, uống cạn cốc rượu.

-Trước khi đi em sẽ lên thăm anh. Oanh mím môi quyết định - Thế nào em cũng lên. Không bao giờ có hai mà không có ba.

-Đừng hứa hẹn. Sự chờ đợi của anh mất lãng mạn đi.

Lần này Kiệt cười nhẹ. Rồi chàng thấm thía như thấy chớm ngọn gió heo may trên đường phố. Chàng đứng dậy:

… There will be time, there will time…

…. “And indeed there will be time

      To wonder, “Do I dare ?"  and “Do I dare ?”

….. Do I dare ?

       Disturb the universe ?

       In a minute there is time

       For decisions and revisions which a minute will  

       reverse.”

Kiệt không ngờ chàng đọc đoạn thơ của Eliot trơn tru tỉnh táo đến thế. Oanh chưa kịp thốt câu nói mấp máy trên môi, Kiệt đã xin lỗi vào phía trong.

Phòng rửa mặt ở cuối hành lang tận góc trong. Kiệt phải đi hết phòng trà theo đường chéo. Chàng vẫn nhìn thấy sàn gạch ô vuông hai mầu, chiếc đàn dương cầm gỗ đen đậy nắp, những bộ ghế da đỏ quanh bàn thấp mầu đá đen bầy núp dưới các chân cột, mấy tấm sơn mài và sơn dầu rải rác trên cột tường. Chàng nhìn thấy quầy rượu, kệ rượu cũnb bằng gỗ bóng, chiếc máy điện thoại bỏ trên mặt quầy chàng vẫn dùng liên lạc với Thùy. Chàng nhìn thấy người bồi rượu đứng sau tủm tỉm cười với chàng và chàng tủm tỉm cười đáp lễ.

Kiệt không hiểu mình nữa, cũng chẳng muốn hiểu.

Lúc đi vào đi ra phòng rửa mặt, chàng bỗng nghĩ rằng một buổi sẽ tới rồi chàng cũng ngồi với Ly tại nơi này. Chàng chẳng rõ buổi ấy như thế nào nhưng chàng chắc chắn nó xẩy tới, đã hiển nhiên trong trí. Chàng lẩm bẩm there will time, there will be time…  and indeed there will time, to wonder “Do I dare ?” and “Do I dare?”…