|
Kap được nhiều người coi là nhà báo vĩ đại
nhất của
thế kỷ 20, chết tháng Giêng vừa rồi [2007]. Cứ kể như câu văn chót ông
viết, là
câu đóng lại tập chót cuốn hồi ức này, Du lịch cùng với Herodotus.
Câu văn tả cô tiếp tân ở một khách sạn ở Bodrum, Thổ
nhĩ kỳ, tên mới của
thành phố cũ, Halicarnassus, nơi sử gia Hy Lạp thời cổ đại Herodotus
sinh ra.
Mặc dù lịch sự có thừa, đúng dân nhà nghề, nhưng nụ cười của cô thiếu
nữ Thổ
mắt đen lay láy vẫn phảng phất sự khinh khi, dè bỉu, lãnh đạm, đúng
theo truyền
thống, đối với một “người dưng”.
Có thể nói, qua cuộc gặp gỡ ngắn ngủi đó, chúng ta hình dung ra được
cuốn sách,
thuật câu chuyện một người Âu Châu đơn độc, và những cuộc gặp gỡ của
người đó
với những nền văn hóa Á châu và Phi châu, trong tất cả những vẻ đẹp của
nó,
nhưng còn cả ở trong cái sự không làm sao nhập vô được, và luôn luôn,
dưới sự
chứng giám của Herodotus.
Vào năm 1956, khi còn là một ký giả trẻ măng, Kap được bà chủ báo phái
đi Ấn
Độ, cùng lúc giúi vào tay ông, bản dịch lần đầu tiên ra tiếng Ba Lan
tác phẩm
của Herodotus. Trên máy bay đi New Delhi, ông lôi nó ra đọc, và thế là
nó cứ
lẵng nhẵng theo cùng với ông suốt cuộc đời còn lại.
Du lịch cùng với Herodotus kể câu chuyện, do đâu mà Kap coi H. như là
khuôn mẫu
và nguồn hứng khởi của ông, về cả hai, ở trong sự tiếp cận của ông đối
với sự
khác biệt giữa những dân tộc, và ở trong những phương pháp của ông, như
là một
nhà văn. Ông coi H. như là nhà “toàn cầu hoá” đầu tiên, người đã kết
hôn với
“chủ nghĩa đa văn hóa” và là người, trong cuốn Histories, một
tác phẩm
sống động, có tính quan sát đã đưa ra một thí dụ lớn lao, đầu tiên, về
thế nào
là “phóng sự” ở trong văn chương thế giới.
Kap vờ đi không nói, lẽ dĩ nhiên, rằng H. kể từ cổ đại, đã được nhiều
người coi
như là ‘cha của những điều dối trá’. Có thể, đây là một sự vờ khôn, bởi
vì, như
bây giờ chúng ta biết được, dưới thời kỳ CS, như là một phóng viên
ngoại của
hãng thông tấn Ba Lan PAP, Kap còn dấn thân vô nghề gián điệp. Tuy
nhiên, ba
thứ nhớp nhúa ‘nhìn lại, hồi tưởng, săn bắt phù thuỷ’, tí cứt dính vô
tên ông
kể từ năm 1989, chẳng thể nào làm mờ những trang viết của ông, ấy là
nói về
tính thật thà, không thiên vị, bộc trực, và sự duyên dáng, vẻ thanh tú,
mà với
chúng, ông khai phá hậu quả văn hóa chính trị Ba Lan, trên đường ông
thâm nhập
nhân chủng học. Một tuổi thơ nghèo khổ đến thê lương trong thời gian
chiến
tranh ở Warsaw khiến ông không làm sao dung hòa hay mô tả một cách
khách quan
cái vực thẳm lớn lao giữa người giầu và người nghèo mà ông chứng kiến ở
Ấn Độ,
và nền học vấn đặc biệt mà ông hấp thụ còn làm cho ông trở nên vô cảm,
ông thú
nhận điều này, trước sự quan trọng của những văn hóa tín ngưỡng khác,
cho dù đó
là Ấn Độ giáo, hay Hồi Giáo.
Trong khi tái cấu trúc lịch sử như thế, tất
nhiên sẽ
nổi lên sự so sánh: Toan tính chinh phục thảo nguyên Nga vùng
Massagetae của
Cyrus làm ông nhớ tới chiến dịch yểu tử của Napoleon ở Moscow; Tomyris,
nữ
hoàng kiêu ngạo của bộ lạc Pontic trở thành nguyên mẫu người hùng bài
thuộc
địa; Hoàng đế khùng Persia thì y chang Stalin của những năm cuối đời,
thập niên
1950, ăn ngủ với máu. Rất nhiều những nhận xét của Kap về Đế quốc Ba Tư
là từ
kinh nghiệm trực tiếp, cá nhân của riêng ông khi trải qua hai chế độ
Nazi và
Cộng sản ở Ba Lan.
Thời
kỳ thế giới hậu chiến, ông để ý tới sự thoái trào
của ảnh hưởng toàn cầu của Anh quốc (đặc biệt ở Ấn Độ và Hongkong), và
của Pháp
(tại Bắc Phi). Ông rất say mê lý thuyết của Herodotus, theo đó, sư phụ
của ông
cho rằng, nếu coi động cơ lịch sử là trả thù, thì một động cơ như thế
sẽ đẻ ra
những rối rắm không làm sao mà ổn định được, cho những quốc gia thời kỳ
hậu
thuộc địa, rõ ràng nhất, là trong lần ông viết về sự dã man ở Congo,
khi những
viên chức Bỉ bỏ chạy vào năm 1960.
Thật khó mà biết, Du lịch với Herodotus được hoàn tất cùng với
sự hài
lòng của tác giả của nó. Đôi khi đọc nó giống như đọc một chuỗi những
tiểu luận
dở dang về Herodotus, được cài đặt xen kẽ giữa những bài báo thuộc dạng
tái chế
biến. Có thể đây là một toan tính mô phỏng văn phong tản mạn, bạ đâu
xâu đó,
lăng ba vi bộ, của sư phụ, với hầm bà những sa đà, những giai thoại ôm
đồm,
luộm thuộm, tuy nhiên, có những triệu chứng cổ điển về chuyện bản thảo
không
được coi lại, đặc biệt là những lập đi lập lại một cách tuỳ tiện. Tuy
nhiên,
vẫn tuy nhiên, có những đoạn gây sững sờ, nghẹt thở, làm lộ rõ tài năng
sáng
ngời của tác giả Shah of Shahs (1982) trong kỹ thuật miêu tả:
hỏa thiêu
tập thể trên bờ sông Hằng; hoàng hôn trên Kabul nhìn từ máy bay, chạy
xe từ Bắc
Kinh tới Vạn Lý Trường Thành, ông vua kèn đồng vô tư xả mồ hôi ướt đẫm
bộ đồ
xịn, nơ cánh bướm tại vận động trường Sudan, khi ông hát những ca khúc
của Miền
Nam Sâu Thẳm, trước đám đông ngỡ ngàng. Lâu lâu lại bật ra những cụm
từ trào lộng từ tiếng Ba Lan dịch qua: thế giới Địa Trung Hải của
Herodotus là
một ‘Arcadia
sáng
ngời cứ mỗi vài năm lại tràn ngập máu’. Thái độ quá mê Thầy
của đệ tử khiến những
nhà cổ điển bực mình. Cái hỏng nhất của Kap, là niềm tin của ông, rằng
Thầy của
mình không thiên vị, vô tư, khi xây dựng ‘những người Hy lạp’, như là
những nhà
dân chủ yêu tự do, đứng lên chống lại Đế quốc Ba Tư tàn bạo. Thực sự,
chính là
những người Hy lạp đã phịa ra cái nhìn dân tộc sâu đậm này, về vịnh văn
hóa
chia cách Tây và Đông, nhất là vào lúc xẩy ra những Cuộc Chiến Ba Tư mà
Herodotus kể lại.
*
Cái vụ Louis
Amstrong này làm Gấu nhớ tới lần ông ghé Miền Nam, và biểu diễn
kèn đồng cùng với cả băng nhạc Jazz của ông tại Hội Việt Mỹ, và thính
giả Sài
Gòn, cứ mỗi lần ông rú kèn là vỗ tay rào rào, khiến ông nản quá, bèn
"thích thì chiều", rú kèn liên tiếp! Gấu ngồi ngay hàng ghế đầu, thế
là được chụp hình, được đưa lên báo Thế Giới Tự Do.
Thú
thiệt! Hình như đó là năm Gấu đang học Đệ Nhất Chu Văn An. Bữa đi coi
có cả
bạn C, ông anh nhà thơ.
*
Note:
Post lại
một bài cũ trên Tin Văn của John Ryle, tác giả bài viết về Kap.
Disneyland
cho những tên
độc tài
From The Times Literary
Supplement
September 19, 2007
Ryszard Kapuscinski: enemy of
provincialism
Kapuscinski's final book
claims Herodotus as a role model and inspiration for a life embracing
multiculturalism
Edith Hall
Ryszard Kapuscinski
TRAVELS WITH HERODOTUS
275pp. Allen Lane The Penguin Press. £20.
978 0 713 99848 1
Ryszard Kapuscinski, widely
regarded as the greatest journalist of the twentieth century, died in
January
this year. Virtually the last sentence he wrote was the one that
concludes this
volume of memoirs. It is a description of the receptionist at a hotel
in Bodrum, Turkey,
the modern name for the ancient town of Halicarnassus,
where the ancient Greek historian Herodotus was born. As she greeted
the ageing
Pole, the “black-eyed” young Turk’s smile was professionally polite,
but
“tempered by tradition's injunction always to maintain a serious and
indifferent mien toward a strange man”.
In this brief encounter there
is crystallized the effect of this book – a solitary European’s account
of
Asiatic and African cultures, in all their beauty but also in their
impenetrability, and always in the company of Herodotus. In 1956, as a
young
newspaper reporter, Kapuscinski was given a copy of Seweryn Hammer’s
translation of Herodotus – the first to appear in Polish – by his
shrewd
editor-in-chief as she despatched him to India. He began reading it
on the
flight to New Delhi
and continued for the rest of his life. Travels with Herodotus narrates
how
Kapuscinski came to identify Herodotus as his role model and
inspiration, both
in his approach to ethnic difference and in his methods as a writer. He
regards
Herodotus as the first true “globalist”, who espoused
“multiculturalism” and
who in his lively, observant Histories composed the first great example
of
“reportage” in world literature.
Kapuscinski fails to say, of
course, that Herodotus has since antiquity also been widely regarded as
the
“father of lies”. Perhaps this is a wise omission, since it is now
known that
under Communism, as foreign correspondent for the Polish news agency
PAP,
Kapuscinski also engaged in espionage. Yet none of the retrospective
dirt that
became attached to his name after 1989 can alter the candour and
delicacy with
which he explores the effect of Polish political culture on the way he
conducted ethnography. A desperately impoverished childhood in wartime
Warsaw
made him incapable of tolerating or describing objectively the vast
gulf
between rich and poor that he witnessed in India, and the secular ethos
of his
education rendered him insensitive, he admits, to the importance in
other
cultures of religion, whether Hindu polytheism or Islam.
Kapuscinski witnessed many
revolutions and survived several life-threatening situations, even
death
sentences. But he is fully aware of his own recklessness and
restlessness,
claiming that both he and Herodotus belonged to a tiny minority of
humans
destined from birth to become travel writers, fanatical cultural
missionaries
who devote their lives (at whatever personal cost) to the
discouragement of the
one thing he really hated – small-minded xenophobia. Kapuscinski made
huge
efforts to study the alien cultures to which he found himself posted
(he was
defeated by Chinese ideograms only after a considerable struggle). He
declares
himself an enemy of what T. S. Eliot called the “temporal
provincialism” that
makes people blind to the “other country” of the past. It is only in
permanent
dialogue with our ancestors, Kapuscinski was convinced, that the human
race can
become fully alive to its history as “an uninterrupted progression of
events”.
He therefore imagines that he is actually an eyewitness to the
epoch-making
events that make up Herodotus’ account of the rise of the Persian
Empire, such
as the emotional trauma during the siege of Babylon, or the chaotic Battle of
Salamis.
The reconstructions slide
into riveting comparisons: Cyrus’ attempt to subdue the Massagetae of
the
Russian steppes reminds him of Napoleon’s ill-fated campaign on Moscow; Tomyris,
the
proud queen of that Pontic tribe, becomes a prototypical anti-colonial
hero;
Cambyses, the deranged King of Persia, provides a model for Stalin’s
last years
of paranoid bloodletting in the 1950s. Many of Kapuscinski’s comments
on the
Persian Empire are informed by his direct personal experience of both
Nazism
and Soviet Communism in Poland.
In the post-war world he is aware of the receding global influence of Britain (especially in India and Hong Kong) and of France (in North
Africa).
His fascination with Herodotus’ theory that the motor of history is
revenge has
unsettling implications for postcolonial European states, above all in
his account
of the savagery in Congo
as the Belgian administrators fled in 1960.
It is not clear whether
Travels with Herodotus was finished to its author’s satisfaction.
Sometimes it
reads like a series of unfinished essays on Herodotus inserted between
recycled
newspaper articles. This could be a deliberate attempt to imitate
Herodotus’
discursive style, with its myriad digressions and embedded anecdotes,
but there
are classic symptoms of the unrevised manuscript, especially
undisciplined
repetitions. Yet there are also passages of the breathtaking
descriptive
brilliance to be expected from the author of Shah of Shahs (1982): mass
cremations on the banks of the Ganges; the view from his plane of a
sunset over
Kabul; the drive from Peking to the Great Wall of China; Louis
Armstrong
sweating profusely, in his suit and bow tie, as he sang Deep South
ballads
before a nonplussed crowd in a Sudanese stadium. Epigrammatic phrases
sparkle
through the sometimes stilted translation from Polish: Herodotus’
Mediterranean
world was “a bright Arcadia
that every few years overflows with blood”.
Aspects of Kapuscinski’s
admiration of Herodotus will inevitably annoy classicists. The one real
defect
is his conviction that Herodotus was non-partisan in his construction
of “the
Greeks” as freedom-loving democrats standing up to the tyrannical Persian Empire. In fact, it was the Greeks
themselves who
invented this profoundly ethnocentric view of the cultural gulf between
East
and West, precisely at the time of the Persian Wars that Herodotus
recounts.
Kapuscinski also blatantly appropriates Herodotus to the cause of his
own
self-marketing. Herodotus, we are told, must have been charming,
patient,
genial, convivial and intolerant of the distinction between slave and
free.
Notwithstanding such
irritations, this is a fascinating book. Besides one episode in Michael
Ondaatje’s The English Patient (1992), Herodotus is not one of the
charmed
circle of ancient Greek authors – Homer, Sappho, Sophocles – who
surface often
in the modern canon. There can be no better introduction to Herodotus’
Histories for the general reader than this vivid memoir, nor any better
case
made against provincialism of any kind.
*
Edith Hall is Professor of
Classical Theatre at Royal Holloway, University of London.
Her most
recent book is The Theatrical Cast of Athens: Interactions between
Ancient
Greek drama and society, published last year.
*
Comments.
I do not agree with the
sentence "those who are properly familiar with themes and places he
wrote
about know that his version is basically fictional", which is stated by
Reidulf so that it looks as a commonly-accepted fact, rather than just
your own
opinion, which it is. I know quite a few people (journalists,
travellers,
researchers) who indeed are "properly familiar" with things
Kapuscinski wrote about and yet they appriciate his writing as a very
trustworthy account of facts and much more - his writing, they say,
captures
the atmosphere, the essence of the events he describes.
Marcin Suskiewicz, Oxford,
We have recently learned from
TLS how to review books one has not read (or how to teach about such
books at
the university). The glorified Ryszard Kapuscinski has experienced more
than
most, but those who are properly familiar with themes and places he
wrote about
know that his version is basically fictional--even when there is enough
of a
veneer of truth to make it believable to many superficial readers. If
Herodotus
was the "father of lies", Ryszard Kapuscinski deserved the title
"mother of lies". That said, it is very enjoyable to read his books,
as fiction. And he deserves credit for cutting dictators down to size,
but it
would have been even better it he had stuck to the truth about them.
That is
already bad enough.
Reidulf Molvaer, Oslo,
Norway, Oslo, Norway
Have your say
*
Mes
voyages avec Hérodote
Ryszard Kapuscinski
Traduit
du polonais par Véronique Patte Éd. Plon, 288 p., 20,50 €.
En 2005, son nom aurait figuré parmi les prétendants au prix Nobel de
littérature: Ryszard Kapuscinski, maître du reportage littéraire,
auteur de
livres aussi inoubliables que Le Négus, sur l'Éthiopie
d'Hailé Sélassié,
ou Le Shah ou la démesure du pouvoir, sur la révolution
islamique de
1979 en Iran, a couvert dans la seconde moitié du siècle dernier la
majorité
des conflits du tiers-monde. À l'occasion de sa première mission à
l'étranger,
en 1956, Kapuscinski reçoit des mains de sa rédactrice en chef les Histoires
d'Hérodote, selon lui « le premier grand reportage
de la littérature mondiale
». Direcction l'Inde «énigmatique» et « mystérieuse », incompréhensible
pour
celui qui ne parle pas la langue. Très vite, celui qu'on perçoit comme
le «père
de l'histoire» devient pour le reporter polonais un exemple, un allié
fidèle
face aux difficultés de l'altérité, puis un compagnon de route, « une
âme sœur
».
Tout au long de ses périples, de l'Inde à Halicarnosse, en passant par
la
Chine, l'Égypte, le Congo ou l'Algérie, les Histoires accompagnent
Kapuscinski
qui se réfugie par la lecture dans l'univers de la Grèce antique, de la
Perse
et des provinces barbares. “Mes voyages, écrit-il, ont ainsi toujours
eu une
double dimension: ils se déroulaient simultanément dans le temps [ ...
] et
dans l'espace [ .. .]. Le passé existait dans le présent, mais ces deux
temps
restaient unis, formant un courant ininterrompu de l'histoire. » Une
logique à
laquelle obéit ce livre qui fait se succéder, en évitant soigneusement
le jeu
des correspondance un concert d'Armstrong à Khartoum
et le siège de Babylone; la chute de Crésus et le souvenir d'une
agression au
Caire; la bataille de Platées et le Festival mondial des arts nègres au
Sénégal, etc. Dans ce cadre, la plongée dans le texte d'Hérodote se
révèle
chaque fais comme une fuite, un aveu d'échec du reporter face à son
objet. La
restructuration temporelle de l'Histoire par Kapuscinski participe
quant à elle
de la reconnaissance de l'inévitable subjectivité du regard de chacun
sur le
monde. Cela, Hérodote l'avait bien vu. Kapuscinski lui rend hommage
dans ce qui
est, sans aucun doute, son livre le plus personnel, et où pointe le
regret du
voyageur de rester à jamais pour autrui un étranger.
Charles Ruelle
Le Magazine Littéraire, số đặc biệt
về Camus, Mai 2006.
Note: Tin Văn đã có bài về ông này, lấy từ TLS. Chê hết lời.
Bài này, khen hết lời.
Vậy là huề!
NQT
Phi châu truyền kỳ
Du
lịch cùng với Herodotus
|
|