Vợ Hổ
Cái sự mất lương
tri, hay đúng hơn cái sự bị liệt một nửa bộ óc của đám tinh anh trong
nước, nó
hiển hiện thực là rõ nét, qua “nghịch lý” này:
Một khi bạn
vẫn coi cuộc chiến thắng Mỹ Ngụy là đỉnh cao, vẫn coi cái đám người
chết uổng 3
triệu ở cả hai phía, là hy sinh cần thiết, thì bạn phải coi tình trạng
sa đọa của
đất nước VN như hiện nay, là thành quả của nó.
*
Rồi tôi lại
đi mượn quyển sách về. Đọc mấy ngày nay vẫn chưa đến đâu. Tác giả (Téa
Obreht)
có nói về sự thiếu thốn hàng hóa (của xứ nào ấy nhỉ ? hình như một quốc
gia Cộng
Sản gần Nga như Yugoslavia) làm tôi nhớ đến đoạn văn của ông Bùi Ngọc
Tấn trong
Chuyện Kể Năm 2000. Thật là khổ cho một tác giả trẻ sống trong một xã
hội thừa
mứa khó lòng mà kể cho hay những điều tác giả không thật sự trải
nghiệm. Đọc
ông Bùi Ngọc Tấn, ông kể chuyện dân Việt đi
mua cá mè ở cửa hàng tổng hợp rồi so sánh với
đoạn văn của quyển The
Tiger’s Wife thì bạn sẽ thấy quyển Vợ của Cọp không hấp dẫn chút nào.
Nếu một quyển
như The Tiger’s Wife được giải thưởng thì tôi tin văn học VN có chỗ
đứng trên
thị trường văn học nước ngoài.
HH
Obreht, lên
bẩy, khi rời Belgrade vào năm 1992,
cùng mẹ và ông bà để chạy trốn những cuộc chiến ở Yugoslavia, và sống ở
cả hai
nơi, Cyprus và Cairo trước khi tới Mẽo, viết về những sự kiện ở nơi quê
hương của
cô, mà cô không trực tiếp kinh nghiệm, và về sự phân phối một số nhân
vật giả
tưởng. Cuốn tiểu thuyết của cô xẩy ra tại một xứ sở không có tên, thuộc
vùng
Balkans, trong những thành phố, làng mạc với những cái tên không thể
kiếm thấy
trên bất cứ một tấm bản đồ, và với một tình trạng địa lý thật hỗn độn,
đến nỗi,
ngay cả 1 người dân bản địa, thì cũng khó mà hình dung ra được, những
sự kiện
chủ yếu ở trong cuốn tiểu thuyết, đã thực sự xẩy ra ở những nơi chốn
thực sự
nào. Tôi tưởng tượng ra, đây là một cách chuyển hướng khác đi, thứ kinh
nghiệm
của người dân Czechs, khi họ đọc những ám dụ mờ đục của Kafka cho xứ sở
của họ,
trong những tiểu thuyết và câu chuyện kể của ông.
Tuy nhiên, rõ ràng là Obreht
đang viết về Yugoslavia, trước và sau
những cuộc chiến vào thập niên 1990, chúng làm xứ sở này tách ra thành
7 quốc
gia độc lập. Một khi mà cuốn tiểu thuyết được dịch ra, tại xứ sở quê
hương ngày
nào của cô, thì độc giả sẽ phải có hai cái đầu, khi nghĩ về cái quyết
định của
cô, khi giữ riêng cho mình, những cái tên của những nhóm sắc dân khác
nhau,
những ông lãnh tụ nhà nước, và những tên tội phạm hình sự nổi tiếng, mà
những
hành động của họ mang tính quyết định trong cuộc tranh chấp tại vùng
đất này.
Chất liệu viết thì cần một cái
nền, và cần sự dẫn giải: những khó
khăn như vậy khóa ngòi viết, mạch kể, và ngăn chặn tác giả viết cuốn
tiểu
thuyết mà cô muốn. Bằng cách làm u tối, mờ nhạt đi, tính địa lý của
miền đất
và, bằng cách sử dụng những sự kiện lịch sử “lệch pha” [chữ này thuổng
của Thầy
Cuốc] đi, Vợ Hổ quả có toan
tính làm mờ nhạt đường ranh giữa cõi thực và cõi
tưởng tượng. “Ngất ngư con tầu đi”, giữa thực tại và huyền thoại, nó
[cuốn
sách] sử dụng hai kỹ thuật kể tách biệt hẳn nhau, một, của cuốn tiểu
thuyết, và
một của chuyện kể dân gian; một cắm vào thời đại lịch sử, một “cho ra
khơi”,
cắm thuyền sông lạ, tách biệt ra khỏi 1 thời đặc biệt
The
Weird Beauty of the Well-Told Tale
Charles Simic
Cách
đọc của HH, với của Simic thật khác xa nhau.
BNT khi viết, là sử dụng kỹ thuật
hiện thực xã hội chủ nghĩa, ông mô tả cái xã hội mà ông ta sống, khác
hẳn em
nhí, phải phịa ra cả 1 xã hội mà cô ta không hề sống, vả chăng, cô đâu
có tính
làm 1 nhà văn hiện thực xã hội chủ nghĩa?
Nhưng quan
trọng hơn hết, là lương tri của người viết. Khi ông BNT tả thực cái
xã hội Miền Bắc, thì không phải để kết án nó, mặc dù nó bỏ tù ông,
nhưng mà là
để cám ơn nhà nước: Nhờ MB khổ như thế, nhờ chính sách "pha lê hóa" đưa
những
người Ðảng nghi có tì vết như ông đi tù, mà lấy được Miền Nam.
Còn em nhí
khi viết, là để tẩy sạch cái ý tưởng buông xuôi về Miền Balkans, và "the City", tức Belgrade của
cô.
Luminous
Fables in a Land of Loss
Những câu
chuyện thần tiên chói lọi của một Miền Ðất Mất
By
MICHIKO KAKUTANI
Published:
March 10, 2011
Cô Obreht,
sinh ra tại xứ xưa kia có tên là Yugoslavia, và lạ thường thay, viết,
thật bảnh,
thật hoạt, và còn trình ra một khả năng khác người, di chuyển thoải
mái, liền lạc
giữa cõi chai sạn của đời thực và thế giới của những câu chuyện cổ tích
hoang
đường của 1 thời hoang sơ khởi thuỷ của loài người. Truyện của cô không
đậm chất
hiện thực huyền ảo, theo truyền thống Gabriel García Márquez hay Günter
Grass,
nhưng mà là một cuộc khai triển rất đỗi mềm dẻo sự thành lập ám dụ và
huyền thoại,
và những đường hướng, qua đó những chuyện kể (dù
dị đoan, niềm tin văn hóa, hay giai thoại siêu
nhiên) làm lộ ra – và
phản chiếu lại - căn cước cá nhân, hay cộng đồng: những giấc mơ, nỗi
sợ, thiện
cảm và thù hận.
Ở khung của
câu chuyện, một vị bác sĩ trẻ tên là Natalia Stefanovic làm một chuyến
đi với một
người bạn, tới một thành phố nhỏ quá biên giới để đem thuốc tới 1 trại
mồ côi.
Vị bác sĩ thì bị luẩn quẩn với những hồi ức về người ông thân thương
của cô, một
y sĩ nổi tiếng, vừa mới chết, trong một chuyến đi bí ẩn tới một làng
khác chỉ
cách nơi cô tới chừng một giờ chạy xe. Quyết định trở thành bác sĩ của
cô, một
phần là do tình yêu dành cho người ông, một phần là vì mặc cảm của cô
về cuộc
chiến - bằng ao ước cứu trợ, hàn gắn những tổn hại, thấy mình có lỗi
khi qua cuộc
chiến gần như chẳng có tí sẹo, trong thành phố có tên là “the City”, và
quyết
tâm cùng chia sẻ với bạn bè, ‘đánh bại những phóng chiếu của những tờ
nhật báo,
khi chúng cho rằng, thế hệ hậu chiến của ‘the City” thì coi như là vứt
đi, vô
phương cứu chữa”.
V/v Chuyện kể
năm 2000. Ngay khi nó vừa mới
nổi cộm ở hải ngoại, là Gấu đã đi 1 đường cảnh báo rồi. NTV là 1 trong
số những
người xb nó ở hải ngoại. Sau đó, anh có nhờ Gấu ghé thăm BNT, lần Gấu
trở về lại
đất Bắc. Nhờ vậy có chuyến đi Hải Phòng, tham quan Ðồ Sơn, và nhớ hoài
câu của
BNT, tả cảnh buổi sáng, bướm nhộn nhịp kêu réo nhau, như mấy em nữ sinh
tới trường.
Nhớ những
trang trác tuyệt tả cảnh đám tù đi làm trong CKN2000.
For let us
keep one fact clearly in mind: the German language was not innocent of
the
horrors of Nazism.
(Hãy minh bạch một điều: ngôn ngữ Đức không thơ ngây vô tội trước những
điều
ghê gớm, tởm lợm của chủ nghĩa Nazi.)
George Steiner, Phép Lạ Hổng (The Hollow Miracle)
Như thế, cái
ngôn ngữ làm nên những trang trác tuyệt, thì cũng không thể
ngây
thơ vô tội được.
Cái Ðẹp
nó, và Con Thú, cũng nó.
"Chuyện Kể Năm 2000":
Cái Đẹp và Con Thú
Đây là một
tác phẩm văn chương trác tuyệt, như nhận xét của một tác giả. Lạ nhất,
khó hiểu
nhất, chính là từ "trác tuyệt". Với Đêm Giữa Ban Ngày, người đọc hải
ngoại tá hoả vì những phát giác ghê tởm, về một ông Hồ và bà vợ của
ông, về một
Trần Quốc Hoàn… nên quên đi vẻ đẹp của một bông hồng khư khư cầm trong
tay… Người
đọc khóc cho những thân phận tù đầy, ra khỏi tù chỉ mong được trở lại,
nên quên
đi những dòng thơ cách mạng trác tuyệt ở trong CKN 2000. Nghịch lý là ở
chỗ đó:
đâu là cái đẹp, đâu là con vật? Người đọc có thể chịu đựng được những
chi tiết
độc, ác, những sự kiện tàn nhẫn trong văn Nguyễn Huy Thiệp; người đọc
có thể
thông cảm với giọng đanh đá, thái độ "dù có rũ bụi tôi cũng không dám
làm
quen", và khẳng định, "thế hệ tôi quả không uống giọt sữa nào, bút
không chấm giọt mực nào của tiền chiến" của Phạm Thị Hoài. Người đọc
trân
trọng một giọng nói tuy mệt mỏi nhưng không chịu bị bẻ gẫy của một vầng
trăng
goá, như trong một truyện ngắn của Lê Minh Hà; nhưng giọng văn đầy ắp
yêu
thương, quá khỏe mạnh, đầy niềm tin vào con người, ở CKN 2000, làm
người đọc khựng
lại: liệu vẫn có thơ, sau (trại tù) Tân Trào? Liệu vẫn có thơ sau những
vần
thơ, mà "cũng như hắn, Phương thích mấy câu thơ của Maia:
Tôi
sẽ giơ cao tờ chứng minh thư Đảng
Là toàn tập thơ bônsêvích tôi
làm"?
(CKN 2000, trang 106)
Mayakovsky
, nhà thơ, nhà tiên phong, người cổ
võ lớn lao nhất cho chế độ mới tại Nga, đã tự sát bằng súng vào năm
1930. Lẽ dĩ
nhiên, những ông thần Đỏ đã làm ông thất vọng, nhưng "có thể", ông nhận
ra, cái phần trách nhiệm của ông, từ những vần thơ "hắn và Phương
thích" ở trên. Như Kundera chỉ ra, cách mạng Nga cần cả hai: nhà thơ
Maia
và trùm mật vụ Dzherzhinsky (xin xem bài "Mùa Thu, những di dân", đã
đăng trên VHNT). Theo ông, đây là thời đại mà nhà thơ ngự trị cùng với
đao phủ.
Kundera nhớ lại những năm tháng sống dưới ánh sáng cách mạng tại xứ sở
quê
hương (Tiệp khắc, 1948), ông đã nhận ra sự mù lòa trữ tình và vai trò
cao cả của
nó (the eminent role played by lyrical blindness). Những "giơ cao thẻ
Đảng-bài
thơ," "mặt trời chân lý chiếu qua tim"… là không thể thiếu trong
thế giới toàn trị. "Tự thân, thế giới đó không là ngục tù, gulag. Nó là
nhà tù khi trên tường nhà giam dán đầy thơ, và mọi người nhẩy múa trước
những
bài thơ đó" (Kundera, Những Di Chúc Bị Phản Bội). Cây đa Tân Trào
(biểu
tượng cách mạng Mùa Thu) biến thành trại tù là vậy. Những cô trung sĩ
béo, quân
phục chật căng sẽ đọc gì cho bớt béo, cho bớt buồn những khi nhớ nhà,
những khi
rảnh rang không phải chăm sóc tù; nhà quản giáo ham học
Thanh Vân sẽ đọc gì, nếu thiếu những
vần thơ Maia, những dòng văn đẹp như mơ của "hắn":
"Những giờ phút trí tuệ
thăng hoa. Những đêm khuya, như
một con ngựa kéo cày, đánh vật với ngôn ngữ. Và những chuyến ra khơi mê
hoặc.
Sóng cứ to lên mãi. Nước cứ xanh lên mãi. Biển đó. Lòa nắng…. Hắn lắp
bắp như
người nghẹn thở:
Prospero
Không có công thức cho sự sớm
ra hoa, ra trái. Sự xuất hiện một
tài năng như Téa Obreht, 25 tuổi, với cuốn đầu tay Vợ Hổ, lại khiến
người đời
thèm, cố tìm cho ra một phương thuốc bí truyền thất truyền.
Một bí mật cắt nghiã sự thành công của cô bé đặc biệt này, có thể là ở
tiểu sử.
Trong khi nó không giải thích tài năng, tính “lang bạt kỳ hồ” về mặt
địa lý ở
vào cái tuổi mới lớn ưa tò mò đó hẳn nhiên là nguồn cảm hứng của cô.
Cô Obreht sinh tại Belgrade của Yugoslavia ngày nào. Trải qua tuổi thơ
ở đó,
cũng như ở Egypt, Cyprus, và sau cùng là America, bây giờ. Vợ Hổ tóm
lấy 50 năm
đầy âm khí của lịch sử xứ Balkan từ 1940s đến 1990s [bỗng nhớ đến Bóng Ðè của Ðỗ Hoàng Diệu, và 4 ngàn năm
‘đầy âm khí’ của lịch sử Bắc Kít, hà, hà!], và tưới vãi lên nó [“lên
đó” thì
cũng được] những kinh nghiệm cá nhân đã được nhào nặn, biến hóa, giả
tưởng
hóa.. của một tác giả trẻ tò mò, ưa tra hỏi. Kết quả, là câu chuyện của
một vị
bác sĩ trẻ, tên là Natalia, của gia đình cô, quê hương của cô, được kể
một cách
rất ư là uyên nguyên, tếu tếu, và đáng sợ, và là 1 đóng góp rất đáng
mừng rỡ
vào cái sự viết lách về miền này.
Natalia, sống
trong hiện tại bi giờ, làm việc về một vùng đất không tên của 1 vùng mà
bản đồ
của nó tiếp tục thay đổi. Cô tóm lấy quá khứ: ông của cô, còn là 1 y
sĩ, chết
trong những hoàn cảnh bí mật. Những câu chuyện mà người ông kể cho cô
cháu nghe
về gia thế của họ sau cùng đã đưa ra những câu trả lời về cái chết của
ông. Bằng
cách trộn trạo, xen kẽ những kinh nghiệm của Natalia, với hai chuyện kể
mê hoặc
từ người ông - về 1 người đàn ông không thể chết và một con hổ trốn
khỏi sở thú
và đi lang thang, đói nẫu chờ bữa tới- cô Obreht trải dài mấy thập kỷ
lịch sử vùng
Balkan với tất cả sự tưởng tượng và đam mê của Gabriel García Márquez
và Louis
de Bernières. (1)
Như Mr de
Bernières, Ms Obreht mang tới tính bè bạn, sự đùa dỡn rất cần trong
những hoàn cảnh, tình
thế bất ổn, ở một nơi mà con người không bao giờ tin cậy lẫn nhau.
Những nhân vật
ở trong cuốn sách không phải là những con người đầm ấm: họ yêu và muốn
giúp người
khác, nhưng tình yêu của họ thì được chuyên chở thông qua đồng hành, dí
dỏm, la
lớn thô lỗ, đặc biệt là trong trường hợp
người ông của Natalia. Khi người trông coi sở thú bị con hổ cắn bị
thương nặng,
ông ta cấp cứu, nhưng chỉ sau khi phán: “Trời đất, mi là 1 thằng điên,
đúng không?” Sau đó, khi lang thang trong
thành phố vào lúc
nửa đêm tìm một con voi xổng chuồng, người ông của Natalia cố làm vui
cô cháu
trong cảnh huống đó, nói, “Nói nhỏ thôi, con cháu khùng của ông… con
không cảm
thấy đáng yêu hay sao, khoảnh khắc này? Chẳng có ai còn thức ngoại trừ
ông cháu
ta.”
Một môi trường
chẳng hề thiếu sự thô bạo, trơ trẽn, dung tục để chứa chấp những nhân
vật như
thế, và thời chiến, war time, chính là cái lỗi của tình trạng 1 vùng
đất như vậy,
ở trong cuốn tiểu thuyết. Nhưng, như 1 cách vinh danh Garcia Marquez,
một trong
những thần tượng của cô bé, “Vợ Hổ” trộn những hình ảnh thần kỳ với
thực tại trần
trụi.
Trên đây, có
tới 4 cách đọc Vợ Hổ!
(1)
Louis de
Bernières. Tác giả Captain Corelli's
Mandolin, 1994, tiểu thuyết.
Trên số Ðiểm
Sách Văn Học Á Châu, Asia Literary
Review Mùa Thu 2010, đặc biệt về Khờ
Me Ðỏ, có hai bài thơ thật tuyệt của ông, viết giùm cho GNV, gửi BHD!
Poetry
Louis de
Bernieres
Two poems
written after arriving in Hong Kong on the author's first visit; March
2010
The
Man Who
Travelled the World
He travelled
the world, restless as rain.
There was no
continent unexplored,
Scarcely a
city unworthy of days, a night, a week.
In all these
places he searched for her face
In the
streets, in the parks, in the lanes,
Always
pausing to look, listening out
For the
voice he'd never heard yet, yet
Always knew
he would know.
So many
lovers, so many encounters,
So many
years, so many lands.
Now he sits
by the window, a cat in his lap,
An ancient
man far off from the place of his birth.
And inside
that loosening frame of bones
Beats the
same heart as the heart that
Beat in the
young boy who knew she was there,
And set off
to travel the world.
He thinks of
the children he never had,
The ordinary things foregone,
The
perverseness of such an exhausting,
Such an impossible search;
A whole life
squandered on dreams.
It begins to
rain; he puts on his glasses
Looks
through the window, watches the girls
Step by, avoiding the puddles, protecting
Their hair
with their magazines.
He fondles
the ears of the cat,
This ancient
man far off from the place of his birth,
Still looking, still in fief to the
same unsatisfied heart
As the heart that beat in the young boy
Who knew she
was there, and
Set off to travel the world.
Put Out the
Light
Close the
shutters,
Put out the light,
Place one
candle on the shelf
See, we are young again;
Our
malformations, all life's
Etchings in our flesh are gone,
Are evened out,
engoldened,
Softened by shadow.
Your hair
smells sweet, your
Head in the
crook of my arm, your
Hand on my chest.
We will lie
like this til the candle dies,
And then, in the dark, lie face to face.
They'll
glitter like moonlight on water,
Our old, experienced eyes.
ASIA
LITERARY REVIEW
Sư Tử Hà
Đông
Vợ Hổ
Đọc ông Bùi
Ngọc Tấn, ông kể chuyện dân Việt đi mua
cá mè ở cửa hàng tổng hợp rồi so sánh với đoạn văn của quyển The
Tiger’s Wife
thì bạn sẽ thấy quyển Vợ của Cọp không hấp dẫn chút nào.
Nếu một quyển
như The Tiger’s Wife được giải thưởng thì tôi tin văn học VN có chỗ
đứng trên
thị trường văn học nước ngoài.
Blog HH
Tôi nghĩ ngược
lại, văn học VN không bao giờ sản xuất ra được 1 tuyệt tác như Vợ Hổ.
Thiếu
lương tri, thiếu lương tâm, thiếu lòng trắc ẩn… có
nhà văn nhà thơ VN nào thực sự đau nỗi đau nỗi
nhục của 1 người như
tác giả Vợ Hổ?
Ðất nước quê hương của em nhí này có đủ nỗi nhau nỗi
nhục như của
VN, chỉ thiếu cái vinh quang thắng hai tên xâm lược vĩ đại là Pháp và
Mỹ, nên mới
ra cái nuớc VN như bây giờ.
Ðâu có biết đau biết nhục là gì đâu, mà
viết nổi 1
cuốn như Vợ Hổ?
NQT
Gấu là người
để ý đến cuốn này sớm sủa nhất, trong những độc giả Mít, do đọc bài
điểm của
Charles Simic, trên tờ NYRB, trước khi cuốn sách được giải Orange, dành
cho các
nhà văn nữ viết bằng tiếng Anh.
Cái câu vinh danh của Simic, mới thật
lạ, chính
vì thế mà Gấu tò mò đọc bài điểm của ông, và sau đó, đọc thêm mấy bài
điểm
khác, đều hết lời ca ngợi. Có lẽ đây là cuốn gần như toàn giới phê bình
đều hài lòng,
có thể còn đang mong mỏi một tác phẩm vậy, cho 1 vùng đất như vậy.
*
Cuốn
tiểu thuyết thần sầu đầu tay của em nhí, Téa Obreht, Vợ Hổ, là
một tác
phẩm được viết với một tham vọng, và một táo bạo thật là lớn lao, vẽ ra
một bức
tranh không thể nào tẩy bỏ đi được, về cuộc sống tại một xứ sở thuộc
vùng
Balkan không được đặt tên, một xứ sở vẫn mắc míu vào cái di sản của
cuộc nội
chiến. Cùng lúc, nó mở ra cái gọi là thật tinh tế, thật yếu tính, của
nghệ
thuật kể chuyện, và vai trò của nó, trong cuộc sống của con người, đặc
biệt là
khi họ bị cuộc chiến và những xáo trộn xã hội biến thành quỉ, cả một
lũ, và
cần, một cách nào đó, móc nối những sự kiện chẳng làm sao móc nối để mà
hiểu
chuyện gì đang xẩy ra quanh họ.
Cô
Obreht, sinh ra tại xứ xưa kia có tên là Yugoslavia, và lạ thường thay,
viết,
thật bảnh, thật hoạt, và còn trình ra một khả năng khác người, di
chuyển thoải
mái, liền lạc giữa cõi chai sạn của đời thực và thế giới của những câu
chuyện
cổ tích hoang đường của 1 thời hoang sơ khởi thuỷ của loài người.
Truyện của cô
không đậm chất hiện thực huyền ảo, theo truyền thống Gabriel García
Márquez hay
Günter Grass, nhưng mà là một cuộc khai triển rất đỗi mềm dẻo sự thành
lập ám dụ
và huyền thoại, và những đường hướng, qua đó những chuyện kể (dù
dị đoan,
niềm tin văn hóa, hay giai thoại siêu nhiên) làm lộ ra – và phản chiếu
lại -
căn cước cá nhân, hay cộng đồng: những giấc mơ, nỗi sợ, thiện cảm và
thù hận.
Ở
khung của câu chuyện, một vị bác sĩ trẻ tên là Natalia Stefanovic làm
một
chuyến đi với một người bạn, tới một thành phố nhỏ quá biên giới để đem
thuốc
tới 1 trại mồ côi. Vị bác sĩ thì bị luẩn quẩn với những hồi ức về người
ông
thân thương của cô, một y sĩ nổi tiếng, vừa mới chết, trong một chuyến
đi bí ẩn
tới một làng khác chỉ cách nơi cô tới chừng một giờ chạy xe. Quyết định
trở
thành bác sĩ của cô, một phần là do tình yêu dành cho người ông, một
phần là vì
mặc cảm của cô về cuộc chiến - bằng ao ước cứu trợ, hàn gắn những tổn
hại, thấy
mình có lỗi khi qua cuộc chiến gần như chẳng có tí sẹo, trong thành phố
có tên
là “the City”, và quyết tâm cùng chia sẻ với bạn bè, ‘đánh bại những
phóng
chiếu của những tờ nhật báo, khi chúng cho rằng, thế hệ hậu chiến của
‘the
City” thì coi như là vứt đi, vô phương cứu chữa”.
Ðiều làm Vợ
Hổ cực đặc biệt là nó chẳng mắc mớ gì đến hồi ký di dân đặc dị, hay
tiểu thuyết
tự thuật hoá trang mỏng dính. Obreht, lên bẩy, khi rời Belgrade vào năm
1992,
cùng mẹ và ông bà để chạy trốn những cuộc chiến ở Yugoslavia, và sống ở
cả hai
nơi, Cyprus và Cairo trước khi tới Mẽo, viết về những sự kiện ở nơi quê
hương của
cô, mà cô không trực tiếp kinh nghiệm, và về sự phân phối một số nhân
vật giả
tưởng. Cuốn tiểu thuyết của cô xẩy ra tại một xứ sở không có tên, thuộc
vùng
Balkans, trong những thành phố, làng mạc với những cái tên không thể
kiếm thấy
trên bất cứ một tấm bản đồ, và với một tình trạng địa lý thật hỗn độn,
đến nỗi,
ngay cả 1 người dân bản địa, thì cũng khó mà hình dung ra được, những
sự kiện
chủ yếu ở trong cuốn tiểu thuyết, đã thực sự xẩy ra ở những
nơi chốn thực sự nào. Tôi tưởng tượng
ra, đây là một cách chuyển hướng khác đi, thứ kinh nghiệm của người dân
Czechs,
khi họ đọc những ám dụ mờ đục của Kafka cho xứ sở của họ, trong những
tiểu thuyết
và câu chuyện kể của ông.
*
Tuy nhiên,
rõ ràng là Obreht đang viết về Yugoslavia, trước và sau những cuộc
chiến vào thập
niên 1990, chúng làm xứ sở này tách ra thành 7 quốc gia độc lập. Một
khi mà cuốn
tiểu thuyết được dịch ra, tại xứ sở quê hương ngày nào của cô, thì độc
giả sẽ
phải có hai cái đầu, khi nghĩ về cái quyết định của cô, khi giữ riêng
cho mình,
những cái tên của những nhóm sắc dân khác nhau, những ông lãnh tụ nhà
nước, và
những tên tội phạm hình sự nổi tiếng, mà những hành động của họ mang
tính quyết
định trong cuộc tranh chấp tại vùng đất này.
Chất liệu viết
thì cần một cái nền, và cần sự dẫn giải: những khó khăn như vậy khóa
ngòi viết,
mạch kể, và ngăn chặn tác giả viết cuốn tiểu thuyết cô muốn. Bằng cách
làm u tối,
mờ nhạt đi, tính địa lý của miền đất và, bằng cách sử dụng những sự
kiện lịch sử
“lệch pha” [chữ này thuổng của Thầy Cuốc] đi, Vợ Hổ quả có toan tính
làm mờ nhạt
đường ranh giữa cõi thực và cõi tưởng tượng. “Ngất ngư con tầu đi”,
giữa thực tại
và huyền thoại, nó [cuốn sách] sử dụng hai kỹ thuật kể tách biệt hẳn
nhau, một,
của cuốn tiểu thuyết, và một của chuyện kể dân gian; một cắm vào thời
đại lịch
sử, một “cho ra khơi”, cắm thuyền sông lạ, tách biệt ra khỏi 1 thời đặc
biệt.
Charles
Simic
Cuốn tiểu
thuyết đầu tay của em nhí quả đang gây chấn động giang hồ, cả ở giới
phê bình,
viết văn, và độc giả.
Ðể được giải,
cũng thật trần ai, vì phải tranh giành giữa những tác phẩm không thể
nào dở, mà
có khi còn lấn lướt nó. Thế mới thú. Vinh quang gian nan mới thú. Ðộc
diễn thì
chán chết.
Sở dĩ TV
loay hoay tán em này, là vì tác phẩm của em có điều gì nhắn nhủ dân
Mít, nhất
là đám Bắc Kít, cũng đã biến thành cả một lũ Quỉ, sau 30 Tháng Tư!
Hà, hà!
Sáng Rực
Không
có công thức cho sự sớm ra hoa, ra trái.
Sự xuất hiện một tài năng như Téa Obreht, 25 tuổi, với cuốn đầu tay Vợ
Hổ, lại
khiến người đời thèm, cố tìm cho ra một phương thuốc bí truyền thất
truyền.
Một bí mật cắt
nghiã sự thành công của cô bé đặc biệt này, có thể là ở tiểu sử. Trong
khi nó
không giải thích tài năng, tính “lang bạt kỳ hồ” về mặt địa lý ở vào
cái tuổi mới
lớn ưa tò mò đó hẳn nhiên là nguồn cảm hứng của cô.
Cô Obreht
sinh tại Belgrade của Yugoslavia ngày nào. Trải qua tuổi thơ ở đó, cũng
như ở
Egypt, Cyprus, và sau cùng là America, bây giờ. Vợ Hổ tóm lấy 50 năm
đầy âm
khí của lịch sử xứ Balkan từ 1940s đến 1990s [bỗng nhớ đến Bóng Ðè của
Ðỗ Hoàng
Diệu, và 4 ngàn năm ‘đầy âm khí’ của lịch sử Bắc Kít, hà, hà!], và tưới
vãi lên
nó [“lên đó” thì cũng được] những kinh nghiệm cá nhân đã được nhào nặn,
biến
hóa, giả tưởng hóa.. của một tác giả trẻ tò mò, ưa tra hỏi. Kết quả, là
câu
chuyện của một vị bác sĩ trẻ, tên là Natalia, của gia đình cô, quê
hương của
cô, được kể một cách rất ư là uyên nguyên, tếu tếu, và đáng sợ, và là 1
đóng
góp rất đáng mừng rỡ vào cái sự viết lách về miền này.
Kể ra tài “hửi”
của Gấu cũng thật bảnh. Gấu khám phá ra em khi em chưa được giải
thưởng, nhân đọc
bài của nhà thơ Charles Simic, điểm cuốn sách mới ra lò của em trên tờ
NYRB, và
bị cái câu phán của ông làm tò mò.
Cái đẹp kỳ kỳ
của một câu chuyện kể thật ngon lành!
Tuyệt thật.
Phán như thế với 1 tác phẩm đầu tay của 1 nữ tác giả, làm Gấu nhớ đến
trường hợp
VP, khi phán về em “Nhà có cửa không khoá trái”!
*
Hơn nữa, làm
sao so BNT với em nhí này được. Nhà văn VC, người tù VC, đi tù về cám
ơn VC rối
rít, nhờ đi tù mà có đại tác phẩm, nhờ chính sách “pha lê hóa” Miền
Bắc, qua đó,
bắt hết mọi thành phần chống VC, như ông ta, hay như tác giả Hoa Ðịa
Ngục, hay
như Hoàng Hưng, hay như… mà chiến thắng cuộc chiến; một nhà văn mất hết
lương
tri, không phân biệt được thiện và ác như thế mà so với em nhí này, thì
quá nhảm.
Mà đâu phải
chỉ 1 ông ta?
NQT
Vợ Hổ
Cái sự mất lương
tri, hay đúng hơn cái sự bị liệt một nửa bộ óc của đám tinh anh trong
nước, nó
hiển hiện thực là rõ nét, qua “nghịch lý” này:
Một khi bạn
vẫn coi cuộc chiến thắng Mỹ Ngụy là đỉnh cao, vẫn coi cái đám người
chết uổng 3
triệu ở cả hai phía, là hy sinh cần thiết, thì bạn phải coi tình trạng
sa đọa của
đất nước VN như hiện nay, là thành quả của nó.
*
Lời giới thiệu
trang bìa [front and back flap]
WEAVING A
BRILLIANT LATTICEWORK of family legend, loss, and love, Tea Obreht, the
youngest of The New Yorker’s
twenty best American fiction writers under forty,
has spun a timeless novel that will establish her as one of the most
vibrant,
original authors of her generation.
In a Balkan
country mending from years of conflict, Natalia, a young doctor,
arrives on a
mission of mercy at an orphanage by the sea. By the time she and her
lifelong
friend Zóra begin to inoculate the children there, she feels age-old
superstitions and secrets gathering everywhere around her. Secrets her
outwardly cheerful hosts have chosen not to tell her. Secrets involving
the
strange fammily digging for something in the surrounding vineyards.
Secrets
hidden in the landscape itself.
But Natalia
is also confronting a private, hurtful mystery of her own: the
inexplicable
circumstances surrounding her beloved grandfather's recent death. After
telling
her grandmother he was on his way to meet Natalia, he instead set off
for a
ramshackle settlement none of their family had ever heard of and died
there
alone. A famed physician, her grandfather must have known that he was
too ill
to travel. Why he left home becomes a riddle Natalia is compelled to
unravel.
Grief struck
and searching for clues to her grandfather’s final state of mind, she
turns to
the stories he told her when she was a child. On their weekly trips to
the zoo
he would read to her from a worn copy of Rudyard Kipling's The
Jungle Book, which he carried with him everywhere; later, he
told her stories of his own encounters over many years with "the
deathless
man," a vagabond who claimed to be immortal and appeared never to age.
But
the most extraordinary story of all is the one her grandfather never
told her,
the one Natalia must discover for herself. One winter during the Second
World
War, his childhood village was snowbound, cut off even from the
encroaching
German invaders but haunted by another, fierce presence: a tiger who
comes ever
closer under cover of darkness. "These stories," Natalia comes to
understand, "run like secret rivers through all the other stories" of
her grandfather's life. And it is ultimately within these rich,
luminous
narratives that she will find the answer she is looking for.
TEA OBREHT was born in Belgrade in the former Yugoslavia in 1985 and
has lived in the
United States since the age of twelve. Her writing has been published
in The
New Yorker, The Atlantic, Harper's, and The Guardian, and has been
anthologized
in The Best American Short Stories and The Best American No required
Reading.
She has been named by The New Yorker as one of the twenty best American
fiction
writers under forty and included in the National Book Foundation's list
of 5
Under 35. Tea Obreht lives in New York.
www.TeaObreht.com
Cái tay
chuyên điểm sách cho tờ Người Kinh Tế, mãi mới đây, Gấu mới biết nick:
Prospero. Bài điểm Vợ Hổ của Prospero cũng thật tuyệt
Burning
bright
Sáng Rực
Prospero
THERE is no
formula for precocity. The emergence of a talent like Téa Obreht, the
25-year-old author of “The Tiger’s Wife”, a new novel, makes it
tempting to
look for one. One secret to this particular woman’s success might be
her
biography. While it does not explain her skills, the varied geography
of her
upbringing clearly served as inspiration.
Ms Obreht
was born in Belgrade in the former Yugoslavia. She spent her childhood
there,
as well as in Egypt, Cyprus and eventually America, where she lives
now. “The
Tiger’s Wife” considers 50 years of miasmal Balkan history from the
1940s to
the 1990s, and it brims with the remixed and fictionalized personal
experiences
of this inquisitive young author. The resulting story, of a young
doctor named
Natalia, her family and their homeland, is highly original, funny and
frightening, and a welcome addition to writing on the region.
Natalia,
living in the present day, works in an unnamed part of the region where
the
maps continue to change. She is grappling with the past: her
grandfather, also
a doctor, has died in mysterious circumstances. The stories he’s told
her about
their home eventually offer answers about his death. By interlacing
Natalia’s
experiences with two riveting tales from her grandfather—about a man
who cannot
die, and a tiger who escapes the zoo and wanders around
indiscriminately hungry
for his next meal—Ms Obreht deftly spans decades of Balkan history with
all the
imagination and passion of Gabriel García Márquez and Louis de
Bernières.
Like Mr de
Bernières, Ms Obreht brings much-needed camaraderie and mirth to
unstable
situations, where people never quite trust each other. The characters
of this
book are not warm people: they love and want to help others, but their
love is
communicated through simple companionship, wisecracks and gruff
exclamations,
particularly in the case of Natalia’s grandfather. When a zookeeper is
bitten
badly by a tiger, he offers to help, but not before telling him, “My
God,
you’re a fool, aren’t you?” Later, walking around the town in the
middle of the
night in search of an escaped elephant, Natalia's grandfather tries to
get her to enjoy the moment by saying,
“Lower
your voice, you fool…can’t you feel it? Isn’t it lovely? No one in the
world
awake but us.”
There are
plenty of harsh and sinister environments to house these characters,
wartime
being the default state of the region in the novel. But in a tribute to
Mr
Márquez, one of Ms Obreht’s idols, “The Tiger’s Wife” blends magical
elements
with the stark realities: Natalia’s grandfather carries an ornate
illustrated
edition of “The Jungle Book” in his pocket, which serves a variety of
purposes
over the course of his life. A talking parrot likes to recite dramatic
lines of
poetry (“O! Hear you thunder? Is that the earth a-shaking?”). A boy in
town
catches bumblebees in jars and harnesses them “with film from cassette
tapes,
so that it was not uncommon to see him walking down the main road with
dozens
of them rising around him like tiny, insane balloons while the film
flashed
wildly in the sun.”
These
mythical features reveal Ms Obreht's greatest strengths. Her writing is
remarkable, but she doesn't show off, nor does she ask too much of our
imaginations. Like the characters in the story, we are easily drawn to
the
unbelievable elements of this tale because they sweep us away from the
real
world: dead bodies, buildings turned to rubble, tuberculosis and
medical
clinics with tarps for walls. While the heroine and her readers may be
left
with as many questions as answers in the end, the journey is dazzling
enough
not to require a destination. The book is an elegant reminder that some
of the
finest stories are never quite finished.
About
Prospero
Named for
the hero of Shakespeare's "The Tempest", an expert in the power of
books and the arts, this blog features literary insight and cultural
commentary
from our correspondents, and includes our coverage of the art market.
Prospero là
tên 1 nhân vật của Bão, của
Shakespeare.
Luminous
Fables in a Land of Loss
By
MICHIKO KAKUTANI
Published:
March 10, 2011
Những câu
chuyện thần tiên chói lọi của một Miền Ðất Mất
Cuốn tiểu
thuyết thần sầu đầu tay của em nhí, Téa Obreht, Vợ Hổ,
là một tác phẩm được viết với một tham vọng, và một táo bạo
thật là lớn lao, vẽ ra một bức tranh không thể nào tẩy bỏ đi được, về
cuộc sống
tại một xứ sở thuộc vùng Balkan không được đặt tên, một xứ sở vẫn mắc
míu vào
cái di sản của cuộc nội chiến. Cùng lúc, nó mở ra cái gọi là thật tinh
tế, thật
yếu tính, của nghệ thuật kể chuyện, và vai trò của nó, trong cuộc sống
của con
người, đặc biệt là khi họ bị cuộc chiến và những xáo trộn xã hội biến
thành quỉ,
cả một lũ, và cần, một cách nào đó, móc nối những sự kiện chẳng làm sao
móc nối
để mà hiểu chuyện gì đang xẩy ra quanh họ.
Cô Obreht,
sinh ra tại xứ xưa kia có tên là Yugoslavia, và lạ thường thay, viết,
thật bảnh,
thật hoạt, và còn trình ra một khả năng khác người, di chuyển thoải
mái, liền lạc
giữa cõi chai sạn của đời thực và thế giới của những câu chuyện cổ tích
hoang
đường của 1 thời hoang sơ khởi thuỷ của loài người. Truyện của cô không
đậm chất
hiện thực huyền ảo, theo truyền thống Gabriel García Márquez hay Günter
Grass,
nhưng mà là một cuộc khai triển rất đỗi mềm dẻo sự thành lập ám dụ và
huyền thoại,
và những đường hướng, qua đó những chuyện kể (dù
dị đoan, niềm tin văn hóa, hay giai thoại siêu
nhiên) làm lộ ra – và
phản chiếu lại - căn cước cá nhân, hay cộng đồng: những giấc mơ, nỗi
sợ, thiện
cảm và thù hận.
Ở khung của
câu chuyện, một vị bác sĩ trẻ tên là Natalia Stefanovic làm một chuyến
đi với một
người bạn, tới một thành phố nhỏ quá biên giới để đem thuốc tới 1 trại
mồ côi.
Bị bác sĩ thì bị luẩn quẩn với những hồi ức về người ông thân thương
của cô, một
y sĩ nổi tiếng, vừa mới chết, trong một chuyến đi bí ẩn tới một làng
khác chỉ
cách nơi cô tới chừng một giờ chạy xe. Quyết định trở thành bác sĩ của
cô, một
phần là do tình yêu dành cho người ông, một phần là vì mặc cảm của cô
về cuộc
chiến - bằng ao ước cứu trợ, hàn gắn những tổn hại, thấy mình có lỗi
khi qua cuộc
chiến gần như chẳng có tí sẹo, trong thành phố có tên là “the City”, và
quyết
tâm cùng chia sẻ với bạn bè, ‘đánh bại những phóng chiếu của những tờ
nhật báo,
khi chúng cho rằng, thế hệ hậu chiến của ‘the City” thì coi như là vứt
đi, vô
phương cứu chữa”.
*
Ui chao,
không hiểu băng đảng Cờ Lăng có tí mặc cảm nào không, khi chúng “sống
sót cuộc
chiến”, lành lặn, cả tâm hồn lẫn thể xác, đến sợi lông chim cũng không
bị sứt,
và "sống sót lưu vong" nơi nước người, với cả một cơ ngơi đồ sộ, và
hàng
ngày nhớ quê nhà, bằng 1 bài bình loạn chính trẹo, chửi VC, và nếu cần,
thì mượn
đỡ 1 câu thơ của ông số 1, cũng là 1 cách tưởng niệm, hẳn thế.
Ở cái lõi cụ
thể, cuốn tiểu thuyết thuật câu chuyện một vị nữ bác sĩ trẻ, Natalia
Stefanović, và một vị nữ bác sĩ khác, Zóra, từ thành phố thủ đô của một
xứ sở
không tên, thực hiện một chuyến đi tự nguyện tới một trại mồ côi, ở
biên giới, một thành phố nhỏ ở bờ biển, ở đó, họ sẽ tiêm chủng cho
những đứa trẻ không
cha mẹ, hậu quả của cuộc chiến vừa qua. Qua 1 cuộc chuyện nói chuyện
điện thoại với bà của
mình, vị nữ bác sĩ trẻ được biết, người ông thân thương đã chết 1 cách
bí ẩn tại
một y viện không xa nơi bà tới.
Làm sao mà ông
chấm dứt cuộc đời tại một nơi chốn chẳng ai biết đó, mặc dù cô cháu thì
đã từ lâu
nghi ngờ ông bị ung thư, và ông không tính nói cho vợ và gia đình biết.
Một vị bác sĩ thế giá, từng phục vụ trong quân đội nhiều năm, và làm
việc trong
1 bệnh viện nổi tiếng ở một nơi mà Obreht gọi là Thành Phố [hẳn là
Belgrade], ông
bị ép buộc phải về hưu non, cùng lúc với sự nổi dậy của phong trào quốc
gia sắc
tộc vào thập niên 1990, kể từ khi mà ông
luôn tự coi mình là Yugoslav. “Cả đời ông”, ông nói với cô cháu, “ông
là 1 phần
của trọn tất cả - không chỉ là một phần của nó, mà còn là, làm nên nó. Ông ta
sinh ra tại đây, được học hành, dạy dỗ tại đây. Tên của ông nói tới một
nơi, giọng,
một nơi khác”. Nói 1 cách khác, như hàng triệu người khác, ông tìm ra
một xứ sở,
và ông đồng nhất với nó, để cùng bị tuyệt diệt.
Cái câu được
gạch dưới, xem ra như là nói về… GNV!
Ðiều làm Vợ Hổ cực đặc
biệt là nó chẳng mắc mớ gì đến hồi
ký di dân đặc dị, hay tiểu thuyết tự thuật hoá trang mỏng dính. Obreht,
lên
bẩy, khi rời Belgrade vào năm 1992, cùng mẹ và ông bà để chạy trốn
những cuộc
chiến ở Yugoslavia, và sống ở cả hai nơi, Cyprus và Cairo trước khi tới
Mẽo,
viết về những sự kiện ở nơi quê hương của cô, mà cô không trực tiếp
kinh
nghiệm, và về sự phân phối một số nhân vật giả tưởng. Cuốn tiểu thuyết
của cô
xẩy ra tại một xứ sở không có tên, thuộc vùng Balkans, trong những
thành phố,
làng mạc với những cái tên không thể kiếm thấy trên bất cứ một tấm bản
đồ, và với
một tình trạng địa lý thật hỗn độn, đến nỗi, ngay cả 1 người dân bản
địa, thì
cũng khó mà hình dung ra được, những sự kiện chủ yếu ở trong cuốn tiểu
thuyết,
đã thực sự xẩy ra ở những nơi chốn thực sự nào. Tôi tưởng tượng
ra, đây
là một cách chuyển hướng khác đi, thứ kinh nghiệm của người dân Czechs,
khi họ
đọc những ám dụ mờ đục của Kafka cho xứ sở của họ, trong những tiểu
thuyết và
câu chuyện kể của ông.
Tuy nhiên, rõ ràng là Obreht
đang viết về Yugoslavia, trước và sau
những cuộc chiến vào thập niên 1990, chúng làm xứ sở này tách ra thành
7 quốc
gia độc lập. Một khi mà cuốn tiểu thuyết được dịch ra, tại xứ sở quê
hương ngày
nào của cô, thì độc giả sẽ phải có hai cái đầu, khi nghĩ về cái quyết
định của
cô, khi giữ riêng cho mình, những cái tên của những nhóm sắc dân khác
nhau,
những ông lãnh tụ nhà nước, và những tên tội phạm hình sự nổi tiếng, mà
những
hành động của họ mang tính quyết định trong cuộc tranh chấp tại vùng
đất này.
Chất liệu viết thì
cần một cái nền, và cần
sự dẫn giải: những khó khăn như vậy khóa ngòi viết, mạch kể, và ngăn
chặn tác
giả viết cuốn tiểu thuyết cô muốn. Bằng cách làm u tối, mờ nhạt đi,
tính địa lý
của miền đất và, bằng cách sử dụng những sự kiện lịch sử “lệch pha”
[chữ này
thuổng của Thầy Cuốc] đi, Vợ Hổ quả có
toan tính làm mờ nhạt đường ranh giữa cõi thực và cõi tưởng tượng.
“Ngất
ngư con
tầu đi”, giữa thực tại và huyền thoại, nó [cuốn sách] sử dụng hai kỹ
thuật kể tách
biệt hẳn nhau, một, của cuốn tiểu thuyết, và một của chuyện kể dân
gian; một cắm
vào thời đại lịch sử, một “cho ra khơi”, cắm thuyền sông lạ,
tách biệt
ra khỏi 1 thời đặc biệt.
Charles
Simic
Cuốn tiểu
thuyết đầu tay của em nhí quả đang gây chấn động giang hồ, cả ở giới
phê bình, viết
văn, và độc giả.
Ðể được giải, cũng thật trần ai, vì phải
tranh giành giữa những tác phẩm không thể nào dở, mà có khi còn lấn
lướt
nó. Thế mới thú. Vinh quang gian nan mới thú. Ðộc diễn thì chán chết.
Sở dĩ TV
loay hoay tán em này, là vì tác phẩm của em có điều gì nhắn nhủ dân
Mít, nhất là đám
Bắc Kít, cũng đã biến thành cả một lũ Quỉ, sau 30 Tháng Tư!
Hà, hà!
Sáng Rực
Không có công
thức cho sự sớm ra hoa, ra trái. Sự xuất hiện một tài năng như Téa
Obreht,
25 tuổi, với cuốn đầu tay Vợ Hổ,
lại khiến người đời thèm, cố tìm cho ra một phương
thuốc bí truyền thất truyền.
Một bí mật cắt nghiã sự thành công của cô bé đặc
biệt này, có thể là ở tiểu sử.
Trong khi nó không giải thích tài năng, tính “lang bạt kỳ hồ” về
mặt địa lý
ở vào cái tuổi mới lớn ưa tò mò đó hẳn nhiên là nguồn cảm hứng của cô.
Cô Obreht sinh
tại Belgrade của Yugoslavia ngày nào. Trải qua tuổi thơ ở đó, cũng như
ở Egypt,
Cyprus, và sau cùng là America, bây giờ. Vợ
Hổ tóm lấy 500 năm đầy âm khí của lịch sử xứ Balkan từ 1940s đến
1990s [bỗng nhớ đến Bóng Ðè của Ðỗ Hoàng Diệu, và 4
ngàn năm ‘đầy âm khí’ của lịch sử Bắc
Kít, hà, hà!], và tưới vãi lên nó [“lên đó” thì cũng được] những
kinh nghiệm
cá nhân đã được nhào nặn, biến hóa, giả tưởng hóa.. của một tác giả trẻ
tò mò, ưa
tra hỏi. Kết quả, là câu chuyện của một vị bác sĩ trẻ, tên là Natalia,
của gia đình
cô, quê hương của cô, được kể một cách rất ư là uyên nguyên, tếu tếu,
và đáng sợ,
và là 1 đóng góp rất đáng mừng rỡ vào cái sự viết lách về miền này.
Kể ra tài “hửi”
của Gấu cũng thật bảnh. Gấu khám phá ra em khi em chưa được giải
thưởng, nhân đọc
bài của nhà thơ Charles Simic, điểm cuốn sách mới ra lò của em trên tờ
NYRB, và
bị cái câu phán của ông làm tò mò.
The
Weird Beauty of the Well-Told Tale
Cái đẹp kỳ kỳ của một câu chuyện kể thật
ngon lành!
Tuyệt thật. Phán như thế
với 1 tác phẩm đầu tay của 1 nữ tác giả, làm
Gấu nhớ đến trường hợp VP, khi phán về em “Nhà có cửa không khoá trái”!
(1)
High-School
Confidential
by Téa
Obreht
June 13, 2011
Đoản văn mới
nhất trên The New Yorker
(1)
1. Nguyễn Sáng
Thưa chị, đọc trong trang nhà
dutle.com, tôi rất
vui mừng khi biết chị đã nhận lời trả lời những câu hỏi của mọi người
qua mục
“Trò chuyện trên mạng.”
Câu hỏi của tôi từ bao lâu nay
giờ mới có cơ hội
để gửi tới chị. Câu hỏi đó là theo tôi nhớ thì truyện ngắn đầu tiên ký
tên Trần
thị Ngh có nhan đề là “Nhà có cửa khóa trái”. Trong khi bạn tôi nhất
định bảo
không phải mà truyện ngắn đầu tiên của chị phổ biến trên báo là truyện
“Một
ngày để tùy nghi”. Vậy thưa chị, tôi đúng hay bạn tôi đúng?
Tôi xin được cám ơn chị trước.
Nhà Văn Trần Thị NgH. trả lời:
Đúng ra truyện ngắn đầu tiên là
"Chủ Nhật", đăng ở Vấn
Đề do Vũ Khắc Khoan và Mai Thảo chủ biên. "Nhà Có Cửa Khóa Trái" là
truyện thứ nhì, đăng ở Văn do Nguyễn Đình Vượng và Trần Phong Giao phụ
trách.
"Một Ngày Để Tùy Nghi" không phải của Trần Thị NgH. Hai bạn huề một
đều.
DTL.com
Note: Đây là nỗi bất hạnh vì
được nổi danh của TTNgH, như GNV đã
có lần lèm bèm.
Bởi vì VP không hề biết đến
truyện ngắn đầu tay Chủ Nhật, và do quá mê
cái chất bạo, ngổ ngáo…. của "Nhà có cửa khóa trái", khen um lên, thế
là làm hư 1 mầm non văn chương!
Milan Kundera đã từng chửi cả 1
trường phái Kafkalogie, là cũng
theo nghĩa này.
Trường phái Kafkalogie do bạn của K, là Max Brod xây dựng lên, và với
ông bạn
Max Brod này, thì Kafka là 1 vì thánh, mà thánh thì cần gì đến chim,
thế là ông
ta xẻo phăng luôn chim của Kafka.
Còn VP, thì ngược lại, ông
phong thánh cho một bướm, khiến bướm,
khi muốn viết văn, là phải thật hung!
Ngay từ khi TTNgh xuất hiện, và
nổi lên như cồn, vì cái truyện
"nhà có cửa [không] khóa trái", là GNV đã kêu thầm, hỏng rồi, chỉ
mong có người nào ra tay nghĩa hiệp, phán ngược lại VP, nhưng than ôi,
không có
ai dám làm chuyện này!
Đọc cái đoạn VP tả văn chương
Miền Nam nữ lấn nam, trước nghe
giọng văn ồm ồm, sau éo éo, mới đại nhảm.
Nhưng phải là Brodsky, cắt
nghĩa cái hiện tượng về sự ra đời của
những nữ lưu lừng danh, thiên tài thi ca, với Nga là Anna Akhmatova,
hay nữ sư
phụ của ông, là Marina Tsvetaeva, thí dụ, thì mới sướng mê tơi.
Volkov. For a hundred years or
so, from Karolina Pavlova to Mirra
Lokhvitskaya, women made up only a marginal part of Russian poetry.
Then
suddenly, all at once, we find two such talents as Tsvetaeva and
Akhmatova
standing alongside the giants of world poetry.
Brodsky. This may not have
anything to do with time. Then, again,
maybe it has. The point is that women are more sensitive to ethical
transgressions, to psychological and intellectual immorality. And
universal
amorality is precisely what the twentieth century has offered us in
abundance.
There's something else I want to say, too. Man's biological role is as
time-server, right? A simple, mundane example. A husband comes home
from work
and brings his boss with him. They have supper, and then the boss
leaves. The
wife says to her husband, "How could you bring that scoundrel into my
home?" Although the home in fact is maintained with the money this very
same scoundrel gives her husband. "Into my home!" The woman is taking
an ethical stance, because she can allow herself that. Men have another
purpose
so they shut their eyes to a great deal. In fact, though, the result of
existence ought to be an ethical stance, an ethical assessment, and
women are
in much better shape as far as that goes.
Solomon Volkov: Conversations
with Joseph Brodsky
Cái sự kiện nữ lấn nam, không
phải vì nam đi lính chết mẹ nó hết,
như VP phán, mà là vì nữ ngửi sớm hơn nam cái mùi băng hoại, không chỉ
trong
cuộc chiến mà còn mãi sau sau đó.
Giá mà hồi đó, có người chỉ ra,
có người báo động, thì ít ra, 1
nhà văn nữ đã được cứu thoát!
Source
Jun 10th 2011, 10:12 by E.B. | LONDON
CONGRATULATIONS to Téa Obreht for
earning the 2011
Orange prize
for fiction for her debut
novel, "The Tiger's Wife". At 25, the Serbian-American author is the
youngest-ever winner of prize, but her book is full of ageless wisdom,
elegantly conveyed. We're fans, as we indicated in our
review of
the novel and
in this
podcast. An
auspicious
start to what will hopefully be a long career.
Orange prize
2011 goes to Téa Obreht
Bettany
Hughes, the chairwoman of the judges, said in a statement: “Obreht’s
powers of
observation and her understanding of the world are remarkable. By
skilfully
spinning a series of magical tales she
has managed to bring the tragedy of chronic Balkan conflict
thumping into
our front rooms with a bittersweet vivacity.”
Chánh chủ khảo
giải [Hai Trái] Cam phán: Quyền uy quan sát và sự hiểu biết thế
giới của “em
nhí" này thì thật đáng nể. Bằng tài năng của chỉ phái nữ, cô đan dệt mớ
chuyện
thần kỳ, và hô "biến" 1 phát, thế là thảm kịch cuộc
chiến từng ngày ở
vùng Balkan xuất hiện ngay trong căn phòng khách của bạn,
thật sống động, và cũng thật ngọt ngào, chua sót.
Ðiều làm Vợ
Hổ cực đặc biệt là nó chẳng mắc mớ gì đến hồi ký di dân đặc dị,
hay tiểu thuyết
tự thuật hoá trang mỏng dính. Obreht, lên bẩy, khi rời Belgrade vào năm
1992, cùng
mẹ và ông bà để chạy trốn những cuộc chiến ở Yugoslavia, và sống ở cả
hai nơi, Cyprus
và Cairo trước khi tới Mẽo, viết về những sự kiện ở nơi quê hương của
cô, mà cô
không trực tiếp kinh nghiệm, và về sự phân phối một số nhân vật giả
tưởng. Cuốn
tiểu thuyết của cô xẩy ra tại một xứ sở không có tên, thuộc vùng
Balkans, trong
những thành phố, làng mạc với những cái tên không thể kiếm thấy trên
bất cứ một
tấm bản đồ, và với một tình trạng địa lý thật hỗn độn, đến nỗi, ngay cả
1 người
dân bản địa, thì cũng khó mà hình dung ra được, những sự kiện chủ yếu ở
trong
cuốn tiểu thuyết, đã thực sự xẩy ra ở những
nơi chốn thực sự nào. Tôi tưởng tượng ra, đây là một cách chuyển hướng
khác đi,
thứ kinh nghiệm của người dân Czechs, khi họ đọc những ám dụ mờ đục của
Kafka
cho xứ sở của họ, trong những tiểu thuyết và câu chuyện kể của ông.
Tuy nhiên, rõ
ràng là Obreht đang viết về Yugoslavia, trước và sau những cuộc chiến
vào thập
niên 1990, chúng làm xứ sở này tách ra thành 7 quốc gia độc lập. Một
khi mà cuốn
tiểu thuyết được dịch ra, tại xứ sở quê hương ngày nào của cô, thì độc
giả sẽ
phải có hai cái đầu, khi nghĩ về cái quyết định của cô, khi giữ riêng
cho mình,
những cái tên của những nhóm sắc dân khác nhau, những ông lãnh tụ nhà
nước, và
những tên tội phạm hình sự nổi tiếng, mà những hành động của họ mang
tính quyết
định trong cuộc tranh chấp tại vùng đất này.
Simic
Luminous
Fables in a Land of Loss
By MICHIKO
KAKUTANI
Published:
March 10, 2011
Téa
Obreht’s stunning
debut novel, “The Tiger’s Wife,” is a hugely ambitious, audaciously
written
work that provides an indelible picture of life in an unnamed Balkan
country
still reeling from the fallout of civil war. At the same time it
explores the
very essence of storytelling and the role it plays in people’s lives,
especially when they are “confounded by the extremes” of war and social
upheaval and need to somehow “stitch together unconnected events in
order to
understand” what is happening around them.
Những câu
chuyện thần tiên chói lọi của một Miền Ðất Mất
Cuốn tiểu
thuyết thần sầu đầu tay của em nhí, Téa Obreht, Vợ Hổ,
là một tác phẩm được viết với một tham vọng, và một táo bạo
thật là lớn lao, vẽ ra một bức tranh không thể nào tẩy bỏ đi được, về
cuộc sống
tại một xứ sở thuộc vùng Balkan không được đặt tên, một xứ sở vẫn mắc
míu vào cái
di sản của cuộc nội chiến. Cùng lúc, nó mở ra cái gọi là thật tinh tế,
thật yếu
tính, của nghệ thuật kể chuyện, và vai trò của nó, trong cuộc sống của
con người,
đặc biệt là khi họ bị cuộc chiến và những xáo trộn xã hội biến thành
quỉ, cả một
lũ, và cần, một cách nào đó, móc nối những sự kiện chẳng làm sao móc
nối để mà
hiểu chuyện gì đang xẩy ra quanh họ.
A Country
Without Libraries
Orange prize
2011 goes to Téa Obreht
Surprise
victory for The Tiger's Wife makes Obreht the award's youngest ever
winner
Orange Prize
về tay tác giả trẻ nhất trong lịch sử 16 năm của giải này với cuốn đầu
tay Sư Tử
Hà Ðông, Tiger's Wife [Vợ
Hổ].
TV là
trang Mít đầu tiên giới
thiệu, không vì tác giả trẻ, tác phẩm hay, mà là vì bài điểm sách của
Charles
Simic, với câu phán thật quái dị, nhất là cho 1 tác phẩm đầu tay. (1)
GNV tính
nhân bài điểm sách của ông, để nêu ra 1 đề tài: Làm thế nào biết 1 tác
phẩm đầu
tay, bảnh, tác giả sẽ đi xa, và liệu, chính khi bạn phán “đúng” về tác
giả, khi
họ mới ló ra, ở cái tuổi đời và tuổi viết còn "đẹp 1 cách vụng dại", là
1 cách, bạn
giết họ?
Theo truyền
thuyết của Tẫu, một thiên tài trẻ măng, cỡ NTHL, đi thi Trạng Nguyên -
gửi bài
cho Chợ Cá, thí dụ [SCN rất khó trong chọn bài, chỉ đọc hai ba dòng
đầu, thấy không ngửi được là quăng thùng rác] - bèn bị đánh rớt: Chỉ có
cách
đó mới làm cho thiên tài trở thành thiên tài, và tránh cho thiên tài
chết non:
Bị ông Trời ghen tài!
Nó trẻ quá
mà phán nó là thiên tài, là giết nó!
Hình như Lều Chõng của Ngô
Tất Tố có viết về đề tài này: Bài viết thì dư sức
Trạng Nguyên, nhưng tuổi còn nhỏ quá, cho nó đậu là giết nó.
Thầy Cuốc
cũng lâm trường hợp này: Bị [hay “được”] MT khen, “Cuốc” đó hả, trẻ quá
nhỉ! [Gấu
nhớ là chính Thầy Cuốc viết ra, đừng nghĩ Gấu phịa!]
Trường hợp
VP phán về Trần Thị NgH: Khen khủng quá, thế là em bị 'thui', bị
'chột',
hết viết
được nữa!
Hay trường hợp
của Gấu, với tác phẩm đầu tay, truyện ngắn Những
Con Dã Tràng. TTT phán, mi sẽ đi xa hơn DNM!
Chính câu phán của ông
làm Gấu
ngưng viết, lo học, chỉ đến khi xơi hai trái mìn của… DH, hay của bạn
của ông,
không chết, lúc đó mới dám mang bản thảo Những Ngày Ở
Sài Gòn ra sửa, và gửi đăng Nghệ Thuật và trở
thành Gấu Nhà Văn!
(1)
Sư Tử Hà Đông
Charles Simic đọc Vợ
Hổ, Tiger's Wife:
The Weird Beauty of the Well-Told Tale
Cái đẹp thật
là kỳ cục của một câu chuyện được kể thật là ngon lành
Bữa trước Blogger HH có vẻ
ngạc nhiên, vì cái sự ghét đọc những bài điểm sách của GNV. Sự thực,
Gấu chỉ ghét cái kiểu đọc sách của Mít ta, ở cả hai phía, người điểm
sách, và độc giả, thường chỉ cần đọc bài điểm, là kể như biết về cuốn
sách, tha hồ vung vít, nếu có ai hỏi tới, hoặc cũng chẳng cần có ai hỏi
tới, thì cũng giơ đôi giầy mới lên khoe, tớ mới tậu nè. Ngưồi điểm sách
Mít thường là không học qua cái nghề này, viết tuỳ hứng, hoặc tuỳ tác
giả có phải phe ta hay không. Cả 1 dòng văn học Miền Trung, trong thời
kỳ chiến tranh, ở một số tác giả làng nhàng, được in ấn lại, "chỉ dành
cho những độc giả mê đọc sách, những đấng mắt xanh", và được những nhà
phê bình phe ta đưa
lên tận mây xanh!
Mớ sách quí đó, phải được
đọc đúng, hiểu đúng, về chúng, về những tác giả viết ra chúng, không
thể viết “khơi khơi” như thế được.
Hình như HH có 1 bài viết về Lê Văn Thiện, được lắm, theo cái nghĩa,
lần đầu đọc nó, và ở cách xa cuộc chiến...
Để check lại, rồi viết tiếp. NQT
Chúng ta chưa có thói quen
đọc những bài điểm sách đúng đắn, nghiêm túc, về một tác giả.
G rất mê đọc sách, để kiếm
sách đọc!
Nhờ những bài điểm sách
trên Partisan Review, thời
mới ra được hải ngoại mà G khám phá ra cái mỏ Đông Âu, và biết ơn tờ
báo, đúng cái kiểu biết ơn mà Âu châu đang bày tỏ, trước một tác giả
như Kundera, thí dụ, qua bài viết trên blog của tay PA [không phải Phan
An, hay Phan Anh, nhe!]
Ce
que l’Europe centrale doit à Kundera
[Ðiều
Trung
Âu hàm ơn Kundera]
(1) Bài trên tờ Books,
về K, đọc thú hơn. NQT
Bài viết của tay này chôm
hình từ bài viết của Gấu, chôm từ một số báo Granta, có bài
viết Cuộc Trở Về Vĩ Đại, của K.
Chàng về Hà Nội [Prague], khóc ròng khi thấy dấu vết của tụi thực dân
trên thân thể 1 em Bắc Kít, qua biểu tượng của nó là... Hà Lội!
Thằng khốn kiếp để lại hai cú thật là nặng nề trên thân thể em!
Súng
lớn mà!
Dzui thôi mà!
The
Weird Beauty of the Well-Told Tale
Vợ Hổ, của một cô gái Serbian,
25 tuổi, tới
Mẽo năm 1997 khi mới 12, đã được khen ngợi - thật đúng theo tôi – như
là một cuốn
tiểu thuyết đầu tay thật bảnh. Téa Obreht là một nhà văn có tài một
cách khác
thường, rất ư là diệu nghệ trong phối hợp nhiều kiểu kể chuyện khác
nhau - từ miêu tả có tính quan sát, khách quan những sự kiện cho tới
những câu
chuyện trộn cái thần tiên, kỳ ảo với cái thực – theo 1 đường hướng
khiến tôi [Simic]
nhớ đến những cuốn tiểu thuyết của Mikhail
Bulgakov, Gabriel García Márquez, và của Milorad Pavić, người Serbian,
tác giả Dictionary of the Khazars.
Simic
Bettany
Hughes, một giám khảo, phán, cuốn tiểu thuyết vượt quá cả ‘tiêu chí’
[chữ này của
VC, Gấu mượn đỡ] của giải, vốn đòi hỏi, phải uyên nguyên, dễ bò vô bò
ra, và
tuyệt vời. “Một cuốn sách can đảm”, bà phán. “Chúng ta tìm một cuốn
sách giống
như 1 thứ luyện kim, làm trò huyền thuật, 1 thứ lò cừ, nó thay đổi
chúng ta, như
là độc giả, và thay đổi cách chúng ta nhìn thế giới, và Sư
Tử Hà Ðông làm được điều này. Ðúng là 1 cuốn sách đặc biệt”.
Charles Simic đọc Vợ Hổ, Tiger's Wife:
The Weird Beauty of
the Well-Told Tale
Cái đẹp thật
là kỳ cục của một câu chuyện được kể thật là ngon lành
Bữa trước
Blogger HH có vẻ ngạc nhiên, vì cái sự ghét đọc những bài điểm sách của
GNV. Sự
thực, Gấu chỉ ghét cái kiểu đọc sách của Mít ta, ở cả hai phía, người
điểm sách,
và độc giả, thường chỉ cần đọc bài điểm, là kể như biết về cuốn sách,
tha hồ
vung vít, nếu có ai hỏi tới, hoặc cũng chẳng cần có ai hỏi tới, thì
cũng giơ đôi
giầy mới lên khoe, tớ mới tậu nè. Ngưồi điểm sách Mít thường là không
học qua cái
nghề này, viết tuỳ hứng, hoặc tuỳ tác giả có phải phe ta hay không. Cả
1 dòng văn
học Miền Trung, trong thời kỳ chiến tranh, ở một số tác giả làng nhàng,
được in
ấn lại, chỉ dành cho những độc giả mê đoc sách, và được những nhà phê
bình phe ta đưa lên tận mây xanh!
Mớ sách quí
đó, phải được đọc đúng, hiểu đúng, về chúng, về những tác giả
viết ra
chúng, không thể viết “khơi khơi” như thế được.
Hình như HH có 1 bài
viết về Lê
Văn Thiện, được lắm, theo cái nghĩa, lần đầu đọc nó, và ở cách xa cuộc
chiến...
Để check lại, rồi viết tiếp. NQT
Chúng ta chưa
có thói quen đọc những bài điểm sách đúng đắn, nghiêm túc, về một tác
giả.
G rất mê đọc
sách, để kiếm sách đọc!
Nhờ những bài điểm sách
trên Partisan
Review, thời mới
ra được hải ngoại mà G khám phá ra cái mỏ Đông Âu, và biết ơn tờ báo,
đúng cái
kiểu biết ơn mà Âu châu đang bày tỏ, trước một tác giả như Kundera, thí
dụ, qua
bài viết trên blog của tay PA [không phải Phan An, hay Phan Anh, nhe!]
Ce
que l’Europe centrale
doit à Kundera
(1) Bài trên
tờ Books, về K, đọc thú
hơn. NQT
Bài viết của
tay này chôm hình từ bài viết của Gấu, chôm từ một số báo Granta, có
bài
viết Cuộc Trở Về Vĩ Đại, của K.
Chàng về Hà
Nội [Prague], khóc ròng khi thấy dấu vết của tụi thực dân trên thân thể
1 em
Bắc
Kít, qua biểu tượng của nó là... Hà Lội!
Thằng khốn
kiếp để lại hai cú thật là nặng nề trên thân thể em!
Súng
lớn mà!
Dzui thôi
mà!
1968: Bạn tưởng tượng, con phố Lê Lợi, Mậu Thân, và
Cao Bồi, PXA,
bạn GNV, đứng trên terrace, phía bên dưới là tổng hành dinh của Tướng
Givral,
coi đồng hồ, ra lệnh Tổng Tấn Công!
The
Weird Beauty of the Well-Told Tale
May 26, 2011
Charles Simic
The Tiger’s Wife
by Téa Obreht
Random House, 338 pp., $25.00
The
Tiger’s Wife, by a
twenty-five-year-old Serbian who came
to the US in 1997 at the age of twelve, has been praised—rightly in my
view—as
a remarkable first novel. Téa Obreht is an extraordinarily talented
writer,
skilled at combining different types of narrative—from objective
depiction of
events to stories mixing the fabulous and the real—in a way that brings
to mind
the novels of Mikhail Bulgakov, Gabriel García Márquez, and Milorad
Pavić, the
Serbian author of Dictionary of the Khazars.
What
makes The Tiger’s Wife so special is that it has nothing to do
with the
typical immigrant memoir or the thinly disguised autobiographical
novel.
Obreht, who was seven when she left Belgrade in 1992 with her mother
and her
grandparents to escape the wars in Yugoslavia, and who lived both in
Cyprus and
in Cairo before coming to the US, writes about events in her homeland
that she
did not experience firsthand and about a cast of fictional characters.
Her
novel takes place in an unnamed country in the Balkans, in towns and
villages
with names that cannot be found on any map and with geography so
confusing that
even a native of the region will have a hard time trying to guess where
some of
the key events are taking place. I imagine it’s the kind of
disorientation the
Czechs experience reading Kafka’s opaque allusions to their country in
his
novels and stories.
Yet
it is clear that Obreht is writing about Yugoslavia before and after
the wars
in the 1990s, which split the country into seven independent states.
Once the
book is translated in her former homeland, I expect that readers there
will be
of two minds about her decision to withhold the names of ethnic groups,
national leaders, and well-known war criminals whose actions were
decisive in
the conflict. It most likely struck her that this was material that
requires a
lot of background and explanation, which would clog the narrative and
prevent
her from writing the kind of novel she wanted. By obscuring the
geography of
the region and alluding to historical events only obliquely, The
Tiger’s
Wife intentionally blurs the demarcation between the real and the
imaginary. Poised between reality and myth, it uses two separate
narrative
techniques, that of the novel and that of the folktale, one immersed in
historical time, the other sealed off from any particular time.
At
its most concrete, the novel tells the story of a young woman doctor,
Natalia
Stefanović, who sets out with another woman doctor, Zóra, from the
capital city
of the nameless country on a volunteer mission to an orphanage over the
border
in a small seaside town on the coast, where they will inoculate
children
orphaned by paramilitaries in the recent war. She’s informed by her
grandmother,
over the phone, that her beloved grandfather has died mysteriously in a
clinic
said to be not far from her destination.
How
he ended up in such an unlikely place neither of them knows, though the
granddaughter has suspected for some time that he was dying of cancer
and that
he had chosen not to tell his wife and family about it. A highly
regarded
doctor who served in the national army for many years and worked in a
famous
university hospital in what Obreht calls the City (unmistakably
Belgrade), he
was forced to retire early, with the rise of ethnic nationalism in the
1990s,
since he continued to regard himself as a Yugoslav. “All his life,” she
says of
her grandfather, “he had been part of the whole—not just part of it,
but made
up of it. He had been born here, educated there. His name spoke of one
place,
his accent of another.” In other words, like millions of others, he
found the
country he identified with about to become extinct.
*
On
the long drive to the coast with her friend Zóra, through what is now
the
country of their former enemies, Natalia is beset by memories of her
grandfather, particularly of their ritual visits to the zoo when she
was
little, and the stories he told her about growing up as an orphan in a
small,
snowbound village tucked away in the mountains. In one of her earliest
memories, the two of them are going to the zoo to see the tigers. The
Belgrade
zoo is in the old Turkish fortress on a hill overlooking the point
where the
River Sava flows into the Danube.
The
grandfather tells his granddaughter that he once knew a girl who loved
tigers
so much that she almost became one herself, and little Natalia believes
he’s
talking about her or telling her a fairy tale. Then something horrible
happens:
as they and a small group of people cluster around its cage, a tiger
grabs and
rips off the arm of a zookeeper who has been sweeping the area between
the cage
and the outer railing. This sudden, violent event, described in vivid,
realistic detail, foreshadows one of the main storylines of the book,
the tale
of another tiger and a woman who secretly befriended him.
That
other tiger escaped from the same zoo during the Nazi bombing of
Belgrade in
April 1941. Terrified by the planes flying overhead, the bombs falling,
the
sound of bears bellowing in other parts of the zoo, the tiger
frantically paces
his cage, finally gathers his strength, and slips out through a gap in
the wall
he has been eyeing for a long time. He is not the only escaped animal
that day.
“Years later,” the narrator says,
they
would write about wolves running down the street, a polar bear standing
in the
river. They would write about how flights of parrots were seen for
weeks above
the city, how a prominent engineer and his family lived an entire month
off a
zebra carcass.
People
in the city must have seen him following the bombardment, Natalia
speculates,
but perhaps he was anything but a tiger to them, most likely just a
momentary
hallucination. He feeds on bodies of the dead from the bombing and
scavenges
what he can, eventually reaching the hills above the village, where the
grandfather, then a young boy, had been taken in by the local midwife,
after
his own mother died in childbirth and his father from illness not long
after.
Driven by hunger, the tiger terrorizes the population while living and
hunting
in the nearby woods and making nightly visits to a smokehouse belonging
to the
local butcher, where he is befriended by the butcher’s deaf-mute wife.
As
Natalia’s grandfather discovers, the young woman, who will eventually
be known
as “tiger’s wife,” and whose husband beats her regularly and brutally
when he
is drunk, feeds the tiger on the sly when the butcher drops off to
sleep. One
night the boy sneaks out of the house to spy on them and, hiding under
a
tarpaulin, encounters the tiger:
Something
in the darkness moved, and the butcher’s hooks, hanging in rows along
the
rafters, clinked against one another, and my grandfather knew that it
was the
tiger. The tiger was walking. He could not make out the individual
footfalls, the
great velvet paws landing, one in front of the other; just the overall
sound of
it, a soft, traveling thump. He tried to quiet his own breathing, but
found
that he couldn’t. He was panting under the tarp and the tarp kept
drawing in
around him, rustling insanely, pointing him out. He could feel the
tiger just
beside him, through the wooden planks, the big, red heart clenching and
unclenching under the ribs, the weight of it groaning through the
floor.
There’s
plenty more to the story about the village and the tiger, much of it
wonderful
with its mix of the real and the fantastic. The grandfather, who had
been given
a small, battered copy of Kipling’s The Jungle Book that helps
him to
identify the huge beast, is the one through whose eyes we see the
unfolding of
this tragic story. A child pretty much left to fend for himself, he is
at that
age when everything important about life has already been deeply felt
but not
yet understood. Like the mute woman and the tiger, he, too, is in a
place where
he does not belong.
Unlike
Kipling’s animal stories, this tale about the tiger is not for
children. It
takes place among people for whom wars and their accompanying
savageries have
been a constant reality over the centuries, and has a grim, pitiless
quality
without happy outcomes or stirring moral lessons. Someone once said
that unlike
a man in a store who explains to a child how a toy works, the folktale
needs no
such explanation. It only asks that we surrender to the story being
told and
take a journey into what are some of the darkest regions conceived by
the human
imagination.
Obreht’s
additional characters and subplots to the story of her grandfather and
the
tiger, which she elaborates over several chapters, are like a colorful
tapestry
hanging in some imaginary palace. Not all of it works, in my view. The
lengthy
digression on the youth of the husband of the deaf-mute woman, plus the
life
stories of the bear hunter who comes to the village to hunt the tiger
and the
local pharmacist with a secret life, although necessary to the plot,
are too
long and feel contrived at times.
For
example, there is the story about the butcher Luka, who in his youth
supposedly
wanted to be a musician, and went to learn how to play the ancient
one-string gusle
in the streets of Sarobor—Mostar. There he fell in love with a Muslim
girl, who
didn’t want anything to do with men and whom he didn’t try to convince
otherwise, since he had himself long realized that he didn’t want
anything to
do with women. Nevertheless, their friendship grew “on song and
philosophical
debate, on stories and pointless arguments about poetry and history,”
we are
told, until they began to plan their marriage and the young woman
agreed to
confine herself to the house as is the custom.
Luka
dresses up each evening and drops by her house where he eats and drinks
with
her father, who deduces that an offer of marriage will soon be made and
resigns
himself that he will have a butcher as a son-in-law rather than a
lesbian for a
daughter. The two are about to marry, but then the girl begins to
realize what
she is in for and begins to change her mind, confining herself to bed,
developing a fever, and eventually becoming seriously ill. Following
visits by
several doctors who can do nothing, a miracle worker appears from
another part
of the country and cures her, while she falls in love with him. The
father,
whose other daughter is a deaf-mute, in desperation dresses her in her
sister’s
wedding clothes and offers her in place of the originally intended
bride. The
poor butcher doesn’t discover the deceit until he lifts the veil in the
ceremonial gesture of seeing his wife for the first time and looks at a
complete stranger.
The
problem is that the story has a very confusing historical time frame.
For
instance, a famous early-nineteenth-century Serbian collector of epic
ballads,
folk songs, and fairy tales, Vuk Karadjić, is among the balladeers Luka
meets
on the Mostar bridge. I don’t know what to make of this. It’s as if one
were to
read a story in which Mark Twain interviews Allen Ginsberg for the San
Francisco Examiner.
Far
more successfully imagined and told, in my opinion, is Natalia’s
grandfather’s
story about a man who cannot be killed, which, as the narrator says,
ran
through all the other stories about him: his days in the military, his
great
love for his wife, and the years he worked as a surgeon. He first
encountered
the man in the summer of 1954 when his army battalion got a call from a
village
where there was much sickness reported. Some people had died already,
and
others were afraid because they had a terrible cough and blood on their
pillows
in the morning. Of course, the doctors already knew it was tuberculosis
as they
made their journey to the village to examine the people.
There
they were told about a man called Gavo who had drowned in a pond, and
how at
his funeral, with the procession following the pallbearers up the
churchyard
slope to the grave site, he greatly surprised the assembled by sitting
up in
the coffin in his pressed suit, hat in hand, and asking for a drink of
water.
The doctors are told that he’s still where the villagers left him,
since one
startled member of the funeral procession fired two bullets from an
army pistol
into the back of his head after the pallbearers had dropped the coffin.
The
doctors figure they are just covering up a murder and ask to see the
body, but
the villagers are reluctant to let them do so. They ask the local man
who seems
to be in charge whether Gavo was sick, but he replies that he was
perfectly
healthy at the time he drowned. In the end, the two doctors persuade
the locals
to let them see Gavo, who is lying in a sealed coffin inside a church.
Just as
they are about to use a crowbar to lift the lid, they hear a voice
asking for
water, which paralyzes them, coming as it does from inside the coffin.
The man,
who is still alive after being shut in the coffin for several days,
looks to be
about thirty at the most, and has a fine head of dark hair and a
pleased
expression on his face.
As
you’d expect, Natalia’s grandfather isn’t buying any of this, and there
begins
a long and genuinely fascinating tale of a doctor and a man who cannot
die and
of their sporadic meetings over the next forty years. This figure of
the
deathless man, which has its origins in Balkan folklore about vampires,
is
transformed by Obreht into a believable presence in a country that has
known so
much death and violence in its history. Years pass and the grandfather
and
Gavran Gailé, as the man is called, meet again in 1971 in a
village—Medjugorje
in Croatia—where two small children playing by a waterfall had glimpsed
the
Virgin in the water. The deathless man is there to tend to the ill
people
coming from hospitals and sanatoriums to swim in the water and be
healed. In a
scene worthy of Fellini, Olbreht describes the dying men and women side
by side
with people rejoicing and feasting in honor of the Virgin.
Their
last meeting occurs in Sarobor—Mostar—in a hotel dining room with a
view of the
famous old bridge just as the civil war in Bosnia and the shelling of
the town
are about to start. Served by an ancient, dignified Muslim waiter with
impeccable manners, they share an enormous meal. Although they entered
the
place separately, they recognized each other and decided to sit
together, being
the only customers in the place. The grandfather is there for one last
look at
the town where both his wife and his daughter were born, and the
deathless man
is there because of the coming bloodshed.
The
entire scene, with their leisurely conversation over an exquisitely
prepared
meal, is not only beautifully written and imagined but immensely
moving. It
reminds me of a scene in Ingmar Bergman’s film The Seventh Seal,
in
which the medieval knight returning from the Crusades plays a game of
chess
with Death, in a country ravaged by the plague. The deathless man
consoles the
grandfather that all this too will pass, and the doctor gloomily
disagrees:
“This war never ends,” he tells him. “It was there when I was a child
and it
will be here for my children’s children.”
All
these stories are being recalled by his granddaughter, as she tries to
discover
more about the circumstances of his death in the small coastal town not
far
from where she and her friend are vaccinating orphans and worrying
about the
consumptive, undernourished children of the men digging in the nearby
vineyard.
The men hope to find the corpse of a relative who died in the war and
who, they
believe, won’t rest in peace until he’s properly buried. Natalia and
Zóra’s
hosts are a fisherman and his wife, whose son, a Franciscan monk named
Fra
Antun, is their contact at the orphanage.
Obreht
describes well the ways in which people in a place recently devastated
by
ethnic conflict steer clear of political and religious subjects in
their
conversations. It’s obvious that they have all been traumatized by
recent
events and that their suspicion of outsiders remains. There’s a
poignant scene
with a sad little boy being inoculated in the orphanage, who unlike his
friends
is not afraid. Without Obreht having to tell us, we understand that the
sight
of a needle is no cause for alarm to a child who has probably seen
unimaginable
horrors.
When
Natalia at last finds the clinic where her grandfather died, she
understands
the reason why it’s not on any map. It’s a shantytown, a cluster of
plywood-and-metal shacks inhabited by destitute war veterans and
invalids from
the Bosnian war, a miserable, unfriendly place where she manages to
collect his
clothes and his few belongings. Her grandfather made a journey there,
she
begins to suspect, not only to offer medical help to the invalids, but
to meet
the deathless man and have one more chat with him.
In
some of the most powerful writing in the book, Obreht describes how
Natalia
catches up with the deathless man after a night of waiting for him in a
graveyard and trailing him afterward through the woods. Here she evokes
both
Gothic novels and the ghost stories people tell children, like the one
Natalia’s grandmother told her once about a man who had gone into the
hills
with his sheep and found himself eating a meal in a house full of dead
people,
to which he had found his way by following a little girl with a white
bonnet
who turned out not to be a little girl at all.
One
comes to realize that The Tiger’s Wife, with its many different
stories,
is a novel of immense complexity. First, it is an extended elegy for
the
narrator’s beloved grandfather, a man with a life story entangled in
the fate
of the country once known as Yugoslavia, who was able to maintain his
compassion and decency in time of ethnic hatred and violence; it is
also a lament
for all those anonymous men, women, and children made homeless in these
cruel
and senseless wars. Like the Arabian Nights, it is a book about
storytelling and its power to enchant as it wards off death and
postpones the
inevitable.
“When
confronted by the extremes of life—whether good or bad,” Obreht writes,
“people
would turn first to superstition to find meaning, to stitch together
unconnected events in order to understand what was happening.” Not only
to understand,
I would say, but to experience the sheer beauty of the well-told tale,
as she
reminds us, again and again, in her truly marvelous and memorable first
novel.