Ryszard
Kapuscinski, widely
regarded as the greatest journalist of the twentieth century, died in
January
this year. Virtually the last sentence he wrote was the one that
concludes this
volume of memoirs. It is a description of the receptionist at a hotel
in Bodrum, Turkey,
the modern name for the ancient town of Halicarnassus,
where the ancient Greek historian Herodotus was born. As she greeted
the ageing
Pole, the “black-eyed” young Turk’s smile was professionally polite,
but
“tempered by tradition's injunction always to maintain a serious and
indifferent mien toward a strange man”.
Kap
được nhiều người coi là nhà
báo vĩ đại nhất của thế kỷ 20, chết tháng Giêng vừa rồi [2007]. Cứ kể
như câu
văn chót ông viết, là câu đóng lại tập chót cuốn hồi ức này của ông.
Câu văn tả
cô tiếp tân của một khách sạn ở Bodrum, Thổ nhĩ kỳ, tên mới của thành
phố cũ, Halicarnassus,
nơi sử gia
Hy Lạp thời cổ đại Herodotus sinh ra. Mặc dù lịch sự có thừa, đúng dân
nhà
nghề, nhưng nụ cười của cô thiếu nữ Thổ mắt đen lay láy vẫn phảng phất
sự khinh
khi, rè bỉu, lãnh đạm, đúng theo truyền thống, đối với một “người dưng”.
*
Đúng
là một câu văn của một
tay
điểm sách nhà nghề, trên tờ báo văn học số
1 của thế giới. Lịch sự có thừa, nhưng gói gém tất
cả những gì bài viết sau đó sẽ mở ra.
1. Herodotus là thầy của Kap.
2. Vẻ lãnh đạm truyền thống này, cũng là vẻ lãnh đạm truyền thống, của
những xứ sở mà Kap viết về họ. John Ryle, trong bài điểm cuốn Bóng Mặt Trời xác nhận điều này:
"Tác phẩm của ông không được nhiều độc giả Phi châu đón nhận, và họ, cả
học giả, lẫn ký giả, thì đều hồ nghi sự chính xác của nó".
3. Sự tiếp nhận của Tây phương,
cũng dè dặt. Đây là nói về tác phẩm
The Emperor của ông, vẫn theo John Ryle. Bởi
vì "hai lần dè dặt" đối với nguồn, [awareness of its doubly
exotic origin]: Một cuốn sách viết về một xứ sở xa vời, và được viết
bởi một tác
giả cũng vời xa không kém, một "rara avis" [a rare or unique
person
or thing, nhân vật độc nhất], một bậc thầy, bề ngoài, của một thứ
ký giả mới của Tom Wolfe, từ bên trong
thế giới CS bò ra.
Ai
điếu Kap. trên TLS
Phi Châu Truyền Kỳ:
Kapuscinski và chủ nghĩa thực dân thuộc địa văn chương
John Ryle đọc Bóng mặt trời, The
Shadow of the Sun, của Ryszard Kapuscinski
TLS 27 July 2001
Note:
Nhân trong nước cho ra
lò một tác phẩm của ông.
*
Ông không viết về những thế
giới tưởng tượng, cũng không viết về thế giới nội tâm của riêng ai, mà
là một
thế giới thực, những sự kiện đã xảy ra, những gì chính mắt ông đã nhìn
thấy, và
bằng thiên tài của mình, ông phân tích, xâu chuỗi, đánh giá chúng, nâng
chúng
lên một tầm cao mới; do đó những gì ông viết, ngoài giá trị văn học,
mang một
sức nặng hiếm có của các tư liệu, dữ kiện."
BBC
Tôi
sợ,
ngược lại! Me-xừ này vừa
làm phóng viên, vừa làm gián điệp!
Tin Văn mới đi một đường về tay này, trục trặc kỹ thuật, bị mất, nay
đành phải
dịch một số đoạn, trên TLS, để minh chứng cho điều trên.
Herodotus được coi là 'cha già của dối trá', còn Kap
(1),
thì TLS gọi là
'bà mẹ dối
trá'. Vậy mà dám phán là ông không viết gì về thế giới tưởng tượng!
Bài của John Ryle, trên TLS được đánh giá là bài viết hay nhất về Kap.
Tin Văn
sẽ chuyển ngữ trong những kỳ tới.
John
Ryle: Tales
of mythical Africa
Where
fact meets tropical
baroque: Kapuscinski and literary colonisalism
TLS 27
July 2001
*
Kap, Kap, nghe như
Cạp, Cạp, khiến
Gấu nhớ ra câu
chuyện tiếu lâm tại sân gà vịt vào một buổi sáng sớm, anh cu chó hỏi
chị gà mái:
-Này,
có tin gì mới không?
-Tớ chưa gặp con vịt!
*
We have
recently learned from
TLS how to review books one has not read (or how to teach about such
books at
the university). The glorified Ryszard Kapuscinski has experienced more
than
most, but those who are properly familiar with themes and places he
wrote about
know that his version is basically fictional--even when there is enough
of a
veneer of truth to make it believable to many superficial readers. If
Herodotus
was the "father of lies",
Ryszard Kapuscinski deserved the title "mother of lies".
That said, it is very enjoyable to read his books,
as fiction. And he deserves credit for cutting dictators down to size,
but it
would have been even better it he had stuck to the truth about them.
That is
already bad enough..
Chúng ta vừa mới biết, qua
TLS, về chuyện làm sao đìểm những cuốn sách mà người điểm chưa đọc, hay
là làm
sao dậy về những cuốn sách như thế ở Đại học. Kap còn hiển hách hơn thế
nhiều,
nhưng với dân nhà nghề, họ coi sách của ông là giả tưởng, tuy nhiên,
vẫn đánh lừa
được nữ dịch giả như Thái Linh, thí dụ! Nếu sư phụ của Kap được coi là
'cha dối
trá', thì Kap cũng xứng đáng gọi là 'mẹ dối trá'. Nhưng đọc chúng như
là
giả tưởng,
thì cũng dzui! Ông ta được coi là người nhét những ông khổng lồ bạo
chúa vào trong chai, nhưng giá mà ông cố bám vào sự thực về họ. Như vậy
cũng đủ khốn nạn rồi!
*
Đây là những tính chất đã trở
thành cổ điển của văn phong của Kap; một bên là bức tranh sống động,
nơi hầu như
chẳng có gì xẩy ra (cảnh tượng bên trong một chiếc xe taxi-bus, tiện
ích của những
chiếc túi ni lông đối với mấy bà nhà quê, một bên là những cuộc phiêu
lưu khiến
tóc dựng đứng, nơi Kap có thể mất mạng sống, chết đói, chết khát, chết
bệnh thời
khí vùng nhiệt đới, rắn cắn, đạn lạc…. hai bên nhập lại đẩy lên một
mức, trở thành
những suy tưởng mang tính triết học về một thế giới ở bên ngoài Âu châu.
Nhưng chính những dòng suy tưởng
triết học của ông làm người đọc nghi ngờ tính chân xác của Kap, khi
chọn lựa thể
văn “phóng sự”. Sức mạnh văn phong của ông dựa trên sự chính xác, dựa
trên một
giọng nói của kinh nghiệm, của quyền uy, của một con người, như chúng
ta được ông kể lại, trong Shad of
Shads, đã sống sót hai mươi bẩy cú
đảo chánh và cách mạng, người đã chạy trên những đoạn đường nóng bỏng,
những con phố buồn hiu [mượn chữ của Bernard Fall viết về Việt Nam], bị
cầm giữ bủa vây ở trong những thành phố, nhà phóng viên ngoại độc nhất
còn ở lại trong khi tất cả bạn bè nhà báo của ông đã cuốn gói, như ông
viết trong The Soccer War:
Tôi đi trên con đường nơi người ta nói,
không một tên mọi trắng nào đi mà thấy trở về, "I was driving along a
road from where they say no white man can come back alive"...
John Ryle
Chắc chắn, mấy anh Yankee Bi Bì Xèo chưa từng đọc Kap, chắc chắn Nguyễn
Thái Linh cũng chưa từng đọc TLS, chưa từng biết đến nghề tay trái của
Kap?
Thảm thế!
*
Kapuscinski, phóng viên
kiêm
gián điệp, và do đó cần phải bị đánh giá thấp đi? Graham
Greene hay
John Le Carré thì không như vậy, bởi
vì gián điệp của cộng
sản thì tồi
tệ hơn gián điệp của không cộng sản? Le Carré khi viết The Spy Who
Came
from the Cold đang làm nhân viên
ngoại giao kiêm gián điệp ở Tây
Đức,
chính mắt chứng kiến bức tường Berlin được dựng lên, và nhờ đó viết
được quyển
sách kia, giờ vẫn được coi là kiệt tác (ở miền Nam trước đây bản dịch
của Bồ
Giang hình như tên là Người về
từ miền đất lạnh), được Graham
Greene
ca ngợi và sau đó hai người thân thiết với nhau. Quyển sách nổi tiếng
đến mức
phóng viên báo Life cứ nhằng nhẵng bám theo để chụp ảnh,
khiến Le
Carré phải bỏ ngành ngoại giao. Quan hệ giữa Greene và Le Carré (cái
bút danh
này ngày nay có thể dịch tin tin thành Nói Cho Vuông hehe) có tính chất
hai
chiều: chính là nhờ học theo Our
Man in Havana của Greene mà
Le Carré
viết được The Tailor of Panama, nhưng đến khi xảy ra vụ Kim
Philby thì
hai bên chửi nhau dữ dội: Philby là thượng cấp của Greene, bị phát hiện
là gián
điệp hai mang, Greene lên tiếng bảo vệ, Le Carré thì thấy là nhất định
không
thể chịu nổi. Cãi nhau một hồi thì Greene viết thư bảo cứ cãi nhau
nhưng vẫn bồ
bịch bạn bè nhé. Nhưng rồi các ông gián điệp ấy cũng chẳng chơi được
với nhau
nữa.
Blog Nhị Linh
*
Ở đây, có sự hiểu lầm: Chính
là do coi Kap như là một sử gia, và những tác phẩm của ông, là sử, là
sự thực,
như dịch giả NTL ca ngợi, khiến Tây Phương, và ở đây, Tin Văn, phải bàn
cãi. Nếu coi là giả tưởng,
thì đâu có chuyện. Những ông như Le Carré,
Greene có bao giờ dám coi họ là những sử gia đâu?
Còn cái chuyện ông Kap này làm gián điệp thì liên quan tới Ba Lan, và
cuộc thanh trừng sau đó, mà người ta gọi là chiến dịch "săn bắt phù
thuỷ", theo thuật ngữ báo chí quốc tế.
Những người dính trấu, trong những cú săn bắt này, mới nhất, là
Kundera, của Tiệp Khắc.
Những ông như Greene, như Le Carré có ông nào
chối, họ làm điệp viên đâu?
Còn Kap, chết rồi mới bị khui ra.
V/v liên hệ giữa Greene và Le
Carré, Coetzee coi Greene là thầy của Le Carré, không phải bạn. (1)
Cuốn The Spy được tới hai
người dịch, một Bồ Giang, còn một tay nữa ở hải ngoại, Gấu quên tên, và
còn
được Z.28 phóng tác, lấy Hà Nội làm khung cảnh, và một điệp viên Miền
Nam ra
Bắc, như nhân vật của Le Carré vượt Bức Tường.
Thế giới giả tưởng của
Greene, là thế giới giả tưởng, trước một bước, so với Le Carré, theo
Gấu. Ở
Greene, chủ nghĩa CS vẫn còn đầy hào quang của nó, với những nhân vật
như Mundt
trong Call for the Dead, tha
chết cho thằng bạn đế quốc, thí dụ.
Cuốn The Spy không giản dị
như bạn NL viết, theo nghĩa, nó được viết ra do tác giả "chính mắt
chứng
kiến bức tường Berlin được dựng lên, và nhờ đó viết được quyển sách
kia, giờ
vẫn được coi là kiệt tác"...
(1) Coetzee coi Greene là từ Joseph Conrad mà ra:... his immediate
descent is from the Joseph Conrad of The
Secret Agent. Còn hậu duệ của Greene, kẻ bảnh nhất, là Le
Carré: Of his progeny, John Le Carré
has been the most distinguished.
Coetzee: Graham Greene, in trong
Inner Workings, tập tiểu luận
*
Kim Philby là thầy của Greene,
trong nghề gián điệp, ông phải bênh thầy, theo nghĩa đó. Le Carré, tuy
rất mê
CS, nhưng lại không chịu nổi cái vụ phản quốc, tuy ông rất tởm nước
Anh, qua kẻ
đại diện của nó, là ông bố của ông, một tên lừa đảo. Ở cuối cuốn Gương Soi Gián
Điệp, chuyện mấy điệp viên nhẩy toán “ra Bắc”, bị Nữ Hoàng thí
bỏ, một nhân vật,
trong khi chờ chết, đã phán: Ở bên bờ con sông Ta Mì, giống như cái
rạch, khi
nước nhỏ, có thể vén váy nhảy qua, có một giống dân cứ nghĩ chúng là bố
thiên hạ.
Câu đó là của Le Carré, viết về nước Anh của ông. Lần qua Moscow, khi
được đề
nghị đi thăm Philby, ông chửi, bữa trước các ông đãi tôi như là người
đại diện
cho nữ hoàng Anh, bữa nay, mấy ông đề nghị tôi bắt tay với kẻ thù của
Bả ư?
Greene có đi thăm Thầy. Và câu đầu tiên Thầy phán, cấm nói chuyện chính
trị. Greene bèn nhỏ nhẹ, "Vâng, thưa Thầy, em chỉ muốn hỏi Thầy, Thầy
nói tiếng Nga thạo chưa?"
*
V/v Săn bắt phù thuỷ. Trên tờ
NYRB, số 28 June, 2007, trong bài Polish-Witch-Hunt,
Adam Michnik viết về một sắc luật của Ba Lan, qua đó, nếu một nhân viên
nhà nước
từ chối không ký vào cái mẫu đơn, qua đó, người này quả quyết, chưa
từng là cớm
chìm trong thời kỳ CS, thì bị đuổi. Những người ủng hộ luật này cho là
nước Ba
Lan, vẫn còn là một đất nước bị cai trị bởi cớm. the Communist security
apparatus, và cần có một cuộc cách mạng đạo đức, qua đó, kẻ có tội phải
bị trừng
trị, kẻ đức hạnh được tưởng thưởng, và sự bất công, injustice, phải
được cứu chuộc, redeemed.
Tác
giả bài viết cho rằng, hiện
nay có hai nước Ba Lan đối đầu nhau. Một Ba Lan của nghi ngờ, sợ hãi,
và trả
thù chống lại một Ba Lan của hy vọng, can đảm và đối thoại. Trong nước
Ba Lan
thứ nhì,
của sự cởi mở, và dung hoà, openness and tolerance, có Đức Giáo Hoàng
II, nhà
thơ Czeslaw Milosz…và Ba Lan này phải vượt lên, prevail.
*
Bài
viết của John
Ryle, cũng như một số bài khác cũng trên TLS, nghi ngờ tính xác thực
của những
“sử liệu” của Kap. Thành thử khó mà so sánh Kap với những nhà báo Tây
phương,
vừa làm báo vừa làm gián điệp. Và họ đâu phải giấu diếm nghề tay trái
của họ,
như Kap?
Tính xác thực của cuốn The Emperor bị nghi ngờ đến nỗi những
nhà phê bình phải đặt câu hỏi, liệu chăng, đây là một cuốn sách sử liệu
về cuộc
đời của một ông vua, hay là một ẩn dụ, về chế độ toàn trị: In answer to
such
criticisms it is sometimes argued that The Emperor is not meant
to be
about Ethiopia at all, that it is an allegory of Communist power in
Poland, or
of autocratic systems anywhere.
Và có vẻ như Kap cũng chịu lời giải thích như vậy.
Apologists for The Emperor situate it, more subtly, in a Polish
literary genre
where dissent masquerades as descriptive prose (Kapuscinski has
laterly
endorsed this view); yet the book gives no indication that it is meant
to be
regarded as an allegory, or as a traveller's tale in the same genre as Rasselas
or Prester John. It is presented ambiguously as
reportage.
Biết đâu, chính đây là ẩn ý của Nguyễn Thái Linh, người dịch, như trong
đoạn
"Đối chiếu lịch sử", khi trả lời BBC:
Những mô tả trong Sử Ký của Herodotus về bạo chúa Xerxes cũng
khiến
Kapuściński liên tưởng tới những gì đang diễn ra trong thời của
ông:
"Họ ngồi đó khiếp hãi và toát mồ hôi hột. [...] Không khí chắc phải
giống
như trong phiên họp Bộ Chính Trị do Stalin chủ tọa - cũng là sự đặt
cược như
thế, không chỉ bằng sự nghiệp mà là cả mạng sống."
Và dân Mít chỉ cần thay đồng chí Xì, bằng bất cứ đồng chí Mít nào khác?
*
Nhắc
tới Le Carré có ngay Le Carré. John Ryle khuyên chúng ta, thà rằng đọc
Le Carré còn hơn đọc Kap.
If
you want an accurate summary of the war in Sudan
you would
do better to read John Le
Carre's The Constant Gardener,
which doesn't pretend to be anything
other than
a novel.
Khốn nạn nhất, là tay Kap này còn thực dân cả thực dân, như John Ryle
viết:
As Kapuscinski himself wrote
of South American baroque, "If there is a jungle it has to be enormous
if
there are mountains they have to be gigantic if there is a plain it has
to be
endless .... Fact is mixed with fantasy here, truth with myth, realism
with
rhetoric." The direction of Kapuscinski's exaggerations and distortions
becomes apparent. This is a continent without bookshops. Its
inhabitants are
prisoners of their environment. They live on milk. They are outside
time. (Who
knows? They may even have heads beneath their shoulders.) Europeans can
never
really understand them. Here we may be getting close to the truth, for
the one
thing that the inhabitants of this hugely various continent do have in
common
is the experience of European colonialism or occupation. And despite
Kapuscinski's
vigorously anti-colonial stance, his own writing about the continent is
a
variety of literary colonialism, a kind of gonzo orientalism, a highly
selective imposition of form, conducted in the name of humane concern,
that
misrepresents Africans even as it purports to speak for them.
Such
criticisms do not rob
Kapuscinski's writing of its bright allure, but they warn us not to
take it as
a guide to reality. In the last chapter of The Shadow of the Sun, there
is a
final epic generalization that embodies his ambiguous attitude to
factual
reportage and his attraction to the realm of poetry and fiction. "The
kind
of history known in Europe as
scholarly and
objective", Kapuscinski writes, "can never arise here because the
African past has no documents or records, and each generation,
listening to the
version being transmitted to it, changed it and continues to change it
....
" "As a result", he continues, "history, free of the weight
of archives, of the constraints of dates and data, achieves here its
purest,
crystalline form - that of myth."
*
"The kind of history
known in Europe
as scholarly and objective", Kapuscinski writes, "can never arise
here because the African past has no documents or records, and each
generation,
listening to the version being transmitted to it, changed it and
continues to
change it .... " "As a result", he continues, "history,
free of the weight of archives, of the constraints of dates and data,
achieves
here its purest, crystalline form - that of myth."
“Thứ lịch sử được biết tới ở Ấu
Châu, mang tính trường lớp và khách quan”, Kạp viết, “chẳng bao giờ có
thể mọc
lên ở đây, bởi vì quá khứ của Phi Châu chẳng có hồ sơ, tài liệu, ghi
nhận, và từng
thế hệ, nghe ấn bản được truyền lại cho nó, bèn thay đổi, và cứ
thế tiếp tục thay đổi.. ”. “Và
như một hậu quả”, ông tiếp tục, ‘lịch sử, thoát ra khỏi gánh nặng của
thư khố, cưỡng ép của ngày tháng, của sự kiện, bèn tiến tới cõi thăng
hoa tuyệt
vời của
nó: Cõi Thiên Thai.
Cõi Huyền Thoại”
Viết
như thế về Phi Châu, thì còn khốn nạn nào bằng!
*
Du
Ký: Đọc Bóng Mặt Trời của Kap.
John Ryle
*
Ryszard
Kapuscinski, widely
regarded as the greatest journalist of the twentieth century, died in
January
this year. Virtually the last sentence he wrote was the one that
concludes this
volume of memoirs. It is a description of the receptionist at a hotel
in Bodrum, Turkey,
the modern name for the ancient town of Halicarnassus,
where the ancient Greek historian Herodotus was born. As she greeted
the ageing
Pole, the “black-eyed” young Turk’s smile was professionally polite,
but
“tempered by tradition's injunction always to maintain a serious and
indifferent mien toward a strange man”.
Kap
được nhiều người coi là nhà
báo vĩ đại nhất của thế kỷ 20, chết tháng Giêng vừa rồi [2007]. Cứ kể
như câu
văn chót ông viết, là câu đóng lại tập chót cuốn hồi ức này của ông.
Câu văn tả
cô tiếp tân của một khách sạn ở Bodrum, Thổ nhĩ kỳ, tên mới của thành
phố cũ, Halicarnassus,
nơi sử gia
Hy Lạp thời cổ đại Herodotus sinh ra. Mặc dù lịch sự có thừa, đúng dân
nhà
nghề, nhưng nụ cười của cô thiếu nữ Thổ mắt đen lay láy vẫn phảng phất
sự khinh
khi, rè bỉu, lãnh đạm, đúng theo truyền thống, đối với một “người dưng”.
*
In
this brief encounter
there
is crystallized the effect of this book – a solitary European’s account
of
Asiatic and African cultures, in all their beauty but also in their
impenetrability, and always in the company of Herodotus. In 1956, as a
young
newspaper reporter, Kapuscinski was given a copy of Seweryn Hammer’s
translation of Herodotus – the first to appear in Polish – by his
shrewd
editor-in-chief as she despatched him to India. He began reading it
on the
flight to New Delhi
and continued for the rest of his life. Travels with Herodotus narrates
how
Kapuscinski came to identify Herodotus as his role model and
inspiration, both
in his approach to ethnic difference and in his methods as a writer. He
regards
Herodotus as the first true “globalist”, who espoused
“multiculturalism” and
who in his lively, observant Histories composed the first great example
of
“reportage” in world literature.
Kapuscinski
fails to say, of
course, that Herodotus has since antiquity also been widely regarded as
the
“father of lies”. Perhaps this is a wise omission, since it is now
known that
under Communism, as foreign correspondent for the Polish news agency
PAP,
Kapuscinski also engaged in espionage. Yet none of the retrospective
dirt that
became attached to his name after 1989 can alter the candour and
delicacy with
which he explores the effect of Polish political culture on the way he
conducted ethnography. A desperately impoverished childhood in wartime
Warsaw
made him incapable of tolerating or describing objectively the vast
gulf
between rich and poor that he witnessed in India, and the secular ethos
of his
education rendered him insensitive, he admits, to the importance in
other
cultures of religion, whether Hindu polytheism or Islam.
Kapuscinski
witnessed many
revolutions and survived several life-threatening situations, even
death
sentences. But he is fully aware of his own recklessness and
restlessness,
claiming that both he and Herodotus belonged to a tiny minority of
humans
destined from birth to become travel writers, fanatical cultural
missionaries
who devote their lives (at whatever personal cost) to the
discouragement of the
one thing he really hated – small-minded xenophobia. Kapuscinski made
huge
efforts to study the alien cultures to which he found himself posted
(he was
defeated by Chinese ideograms only after a considerable struggle). He
declares
himself an enemy of what T. S. Eliot called the “temporal
provincialism” that
makes people blind to the “other country” of the past. It is only in
permanent
dialogue with our ancestors, Kapuscinski was convinced, that the human
race can
become fully alive to its history as “an uninterrupted progression of
events”.
He therefore imagines that he is actually an eyewitness to the
epoch-making
events that make up Herodotus’ account of the rise of the Persian
Empire, such
as the emotional trauma during the siege of Babylon, or the chaotic Battle of
Salamis.
Cái vụ Louis
Amstrong này làm Gấu nhớ tới lần ông ghé Miền Nam, và biểu diễn
kèn đồng cùng với cả băng nhạc Jazz của ông tại Hội Việt Mỹ, và thính
giả Sài
Gòn, cứ mỗi lần ông rú kèn là vỗ tay rào rào, khiến ông nản quá, bèn
"thích thì chiều", rú kèn liên tiếp! Gấu ngồi ngay hàng ghế đầu, thế
là được chụp hình, được đưa lên báo Thế Giới Tự Do.
Thú
thiệt! Hình như đó là năm Gấu đang học Đệ Nhất Chu Văn An. Bữa đi coi
có cả
bạn C, ông anh nhà thơ.
Chiều
một mình xuống
phố, âm thầm vớ được nó, trong một tiệm sách cũ. Tay Kap này, đã từng
chứng kiến 27 cú đảo chánh, và cách mạng, 4 lần nhận lệnh xé xác, lệnh
hành quyết [death sentence], trong vòng bốn thập niên. Đã từng đàn đúm
với Che, Allende, Lumumba. Sinh năm 1932. hơn Gấu 5 tuổi.