Tưởng nhớ nhà văn Thanh Tâm
Tuyền
Saturday,
December 13,
2008
Nguyễn
Chí Kham
Tối hôm
đó, trời mưa to hạt.
Ngoài thềm hiên, nước mưa chảy tràn ướt sân, và ngồi ở trong lán tù
nhìn ra cửa
sổ có chấn song sắt, mới thấm thía đời tù, thấu hiểu cái giá lạnh, nặng
nề của
gió mưa vùng trung du Bắc Việt khi Mùa Ðông trở về.
Ðã hơn
9 giờ, các tổ đội
trong lán vừa mới họp xong, anh em được nghỉ ngơi sinh hoạt tự do. Buổi
tối nào
cũng vậy, giờ sinh hoạt luôn vui nhộn ồn ào, mà tiếng kêu rít thuốc lào
nghe là
bồn chồn, háo hức, thích thú vô cùng. Từng nhóm tụ tập quanh chiếu nằm
với vài
ngọn đèn con, những bóng sáng hiu hắt như là nơi chốn ở một bến đò, chỗ
này là
nhóm bạn thân quen, chỗ đông kia là rạp hát có chương trình kể truyện
phim,
truyện chưởng, truyện Tàu, hay nghe bình thơ văn. Nhờ vậy, anh em mới
nguôi nhớ
chuyện gia đình, vợ con, luôn cảm thấy có nhau, trước kia là chiến hữu,
giờ là
bạn tù, sống vui trong sự quây quần của tiếng cười, tiếng nói. Trong
tiếng nói,
dù mỗi người sinh trưởng mỗi miền nhưng nó có được một dấu ấn riêng
biệt của
miền Nam
trước biến cố 30 tháng 4 năm 75. Những năm tháng qua đi, ngày tháng
trong tù
vẫn hiện hữu, vẫn ánh lên một niềm cảm thông, hy vọng bập bùng như hơi
ấm của
bếp lửa.
Vừa mới
nhận được thư gia
đình lúc trưa, nên tối đó, tôi không đi đâu. Chỗ tôi nằm ngay cửa sổ,
và mỗi
lần mưa đêm, tôi thường ngồi dậy hay nằm ngẩng đầu nhìn ra mưa, cùng
lúc lắng
nghe âm thanh tiếng mưa. Tiếng mưa là cả một khúc nhạc dạo trong hồn,
trong đêm
càng khuya khoắt, càng biết mình đi xa đã lạc lối trở về.
Bên
cạnh chỗ tôi, là chiếu
của anh Phong. Anh Phong đang trò chuyện với người bạn nằm bên cạnh về
đời sống
vùng quê miền Bắc trước thời di cư, sau đó, lại nhắc đến mấy người bạn
ở trên
trại tù Lào Kai. Tôi đang nhớ nghĩ tới gia đình, những người thân ở Sài
Gòn, ở
Huế, ở Quảng Trị, nhưng cũng lắng nghe chuyện của anh đang nói.
Bỗng
nhiên tôi vụt ngồi dậy,
hỏi:
- Ủa,
anh Phong cũng quen ông
Thanh Tâm Tuyền.
- Ngoài
đời, tôi không quen,
nhưng tôi ở chung với ông một đội trên trại Lào Kay.
- Lúc
chuyển trại về dưới
này, anh biết ông ấy đi đâu không?
- Ông
cũng về K2 đây, chứ đâu.
- Ủa,
sao cả tháng nay tôi
không hay biết.
- Ông ở
bên đội hương nhu.
Khi anh
Phong cho biết anh
Thanh Tâm Tuyền về trại này, tôi thực sự vui mừng. Trước đây, tôi được
quen anh
qua anh Nguyễn Quốc Trụ và gặp anh cũng khá nhiều lần vào mỗi buổi sáng
ở quán
cà phê La Pagode. Và, nhất là, tôi rất mê văn anh viết trong hai cuốn
tiểu
thuyết Bếp Lửa và Ung Thư.
Khi
kẻng báo đèn tắt, anh em
tù giải tán về chỗ nằm. Mặc dù đói ăn thường trực, nhưng tôi được cái
dễ ngủ.
Và luôn trong giấc ngủ, tôi được sống hạnh phúc với những kỷ niệm về
tình yêu
của thời tuổi trẻ mà tôi tìm lại được. Những gương mặt của bao nhiêu
thiếu nữ
ngoài đời ấy, trong mơ, luôn đến trò chuyện với tôi như từng dòng chữ
in tôi
đọc trên mỗi trang sách.
Buổi
sáng sớm, vẫn thường
được báo thức bằng hồi kẻng. Khi nhận phần ăn sáng xong tôi vội băng
qua khu
nhà đối diện tìm lán anh Tâm. Chỗ anh nằm gian phía trong, và khi tôi
tìm được
chỗ, thấy anh đang ăn chén ngô, đầu đội chiếc mũ cối màu lam ngồi quay
mặt vào
tường.
- Anh
Tâm.
Ðang
ăn, nghe tiếng ai gọi,
anh vội quay đầu thấy tôi đứng ngay chỗ khoang giường anh.
- Ủa,
cậu.
Tôi
ngồi xuống chiếu, và chén
ngô chỉ còn hai muỗng anh ăn vội cho xong rồi uống nước. Tôi mở nắp túi
áo lấy
gói thuốc lào nhỏ bọc trong lá chuối ra mời anh. Anh lấy điếu, chùi sơ
qua nõ
xong đưa cho tôi. Nhưng, tôi nói:
- Anh
hút trước đi, em sau.
Còn đến
mười lăm phút nữa mới
tập họp đi lao động. Trong lúc anh cầm cây đóm châm lửa, tôi nhìn gương
mặt
anh. Hút xong điếu thuốc, anh hỏi tôi:
- Cậu ở
trại nào về đây ?
- Em ở
trại Hồng K trên Yên
Bái về. Còn anh, ở Lào Kai phải không?
Anh gật
đầu. Giữa khói thuốc
còn lởn vởn, hai anh em nhìn lại mặt nhau, với bao nhiêu đổi thay, tự
dưng có
một giây thật yên lặng không biết nói gì. Rồi anh hỏi tôi:
- Thằng
Khả ở đâu?
- Anh ở
trại Kỳ Sơn, Ðà Nẵng.
Anh Tâm
biết đến anh tôi, vì
anh tôi đã có thời gian làm việc ở tòa báo Tiền Tuyến. Còn được ít
phút, tôi
hỏi thăm anh mấy người quen biết trong giới văn nghệ.
Tới hồi
kẻng báo giờ tập họp
đánh lên, tất cả các đội đều ra sân tập họp đi lao động. Trời lạnh,
nhưng khô
ráo. Sau khi thi đua báo cáo quân số toàn trại xong, lần lượt các đội
xuất
trại. Từ cổng chính tới ngã ba con lộ, những đội trồng lúa, trồng sắn,
trồng
khoai, hái trà và đi rừng, rẽ trái hướng về những ngọn đồi tiếp cận với
bìa
rừng, còn những đội trồng hương nhu, bạc hà, rau xanh, làm mật mía thì
rẽ phải
đi theo con đường suối tới hiện trường. Trại Tân Lập có 5 phân trại, K2 nằm cuối hết bên cạnh con đường lộ bắt đầu từ
bến đò
Ngọc. Trại nằm giữa hai con suối lớn, có nhiều ngôi làng bao quanh và
có một
diện tích canh tác lớn bằng cả một nông trường do công lao động hàng
ngày của
trên một ngàn người tù. Ðây cũng là một phân trại có cảnh trí đẹp với
những đồi
trà, đồi sắn trải dài, những ruộng mía thẳng tắp, những vườn rau, vườn
cải tươi
tốt, và quanh những con đường nối liền các thôn bản đều có trồng cây
che bóng
mát... Ngày nào cũng vậy, tám tiếng lao động có hai buổi nghỉ giải lao
mười
phút giữa giờ.
Buổi
sáng qua mau. Trưa về
trại, sau khi cơm nước xong, tôi chạy qua tìm anh Tâm và bọc cho anh
một gói
nhỏ thuốc lào trong lá chuối. Thuốc lào phải gói vào lá chuối mới giữ
được độ
mềm.
Thấy
tôi qua thăm, anh cười
vui. Khi tôi biếu gói thuốc lào, anh nói:
- Thuốc
cậu hút ngon.
- Em
nhận được quà tuần
trước, may quá, có được một bánh 888.
Anh
cũng vừa ăn cơm xong, nên
bày bàn đèn ra ngay. Chỗ anh nằm gần cửa sổ, nhưng về phía trong góc
tối. Sau
mấy chuyện về những người quen biết, tôi hỏi anh:
- Anh
có viết được gì không?
Người
nằm bên cạnh anh đi đâu
vắng. Anh không trả lời câu tôi hỏi, nhưng cũng không tỏ ra bất bình.
Một lúc
sau, anh mở ba lô lấy ra một tập giấy, xem xét lại xong, anh nói:
- Tôi
để cho cậu đọc, đừng có
nói với ai.
- Dạ.
Tôi hết
sức là vui. Trong
cuộn giấy anh lấy ra, có đến khoảng hai mươi bài thơ anh cất giữ. Tôi
cầm lấy,
mắt cúi xuống chăm chú đọc từng bài. Ðọc xong, vẫn còn cầm giữ trên
tay, tôi
nói:
- Bài
thơ Nhớ thi sĩ em rất
thích. Tặng già Ung là ai, anh?
- Thi
sĩ người Ý.
Tôi đọc
lại bài thơ dài này
một lần nữa. Sau đó ít lâu, bài thơ được phổ biến cho một số anh em
quen, và
được nhạc sĩ Hồ Ðăng Tín phổ nhạc.
Tôi
chuyển từ trại Hồng K. về
dưới này trước anh Tâm bốn tháng. Khi tôi về dưới này, đến cả lúc anh
chuyển
trại từ Lao Kai đến đây, sự quản chế trong tù ngoài quản giáo ra, ban
thi đua
vẫn còn thuộc bên đám hình sự. Ðến khi, tù hình sự về hết, thì bắt đầu
chuyển
qua toàn bộ ban thi đua cho tù chính trị, anh Nguyễn Xuân Tùng được đề
cử làm
trưởng ban thi đua, hai anh Trần Chánh Trí và Dương Ðình Trung phụ tá,
phụ
trách về trật tự nội vụ và sinh hoạt của trại. Lúc này, không khí phân
trại K2 bắt đầu dễ thở, sinh động,
trong đó cũng có một phần
là hầu hết anh em được thăm nuôi hay nhận quà nhiều lần hơn.
Ngày
Chủ Nhật được nghỉ, anh
em tù thường hay ra hội trường chơi cho thoáng mát. Với anh Tâm, rất
nhiều
người biết và rất thích văn anh, nhưng anh không giao tiếp với ai
nhiều, lúc có
thì giờ rảnh anh học tiếng Ðức qua sách do một giáo sư người Pháp viết.
Và, đặc
biệt, anh nghiên cứu thơ chữ Hán của Cao Bá Quát, sách do Hà Nội xuất
bản.
Một
buổi chiều Chủ Nhật đó,
tôi và anh Tâm ngồi ở bậc thềm nơi hội trường nói chuyện với nhau. Tôi
hỏi anh:
- Cuốn
Ung Thư anh viết đã
xong chưa?
- Xong
rồi.
- Sao
anh không in sách?
Anh
không trả lời, chỉ mỉm
cười. Trong các tác phẩm của Thanh Tâm Tuyền viết, tôi rất mong đợi
cuốn này
xuất bản để mua, vì khi còn đăng từng kỳ trên báo Văn và Bách Khoa, kể
cả trước
đó ở hai tạp chí Hiện Ðại và Sáng Tạo, tôi đều có đọc. Không nghe anh
trả lời,
và thấy anh do dự nên tôi không hỏi thêm. Một lúc, tôi nói với anh:
- Anh
viết câu mở trong cuốn
Ung Thư thật là tuyệt vời.
Và anh
nghe tôi đọc: Giữa
vùng nước đục ngầu, thành phố nghiêng chìm dưới đôi cánh phi cơ.
Anh Tâm
rất hiểu tôi là người
ham mê đọc tiểu thuyết. Anh cũng biết, tôi thích cuốn sách anh đã viết,
nên
chiều đó, với nguồn cảm hứng trong văn chương, anh rất vui lắng nghe
tôi nói về
cuốn tiểu thuyết của anh. Lúc này, tôi nhắc đến Thạch, Ðồng, An, Liên,
và Nga
là những nhân vật trong cuốn Ung Thư. Và, trong Ung Thư có một chi tiết
thật
cảm động, tôi rất thích đó là bối cảnh Hà Nội trong cơn hấp hối, thành
phố sắp
tan rã, suốt đêm Thạch đi tìm Liên khắp Hà Nội, nhưng không có nàng,
sau đó anh
trở về lại con hẻm cũ nơi có nhà nàng ở, đứng đầu hẻm với nỗi nhớ người
yêu
Thạch bụm tay lên miệng cất tiếng hú gọi tên Liên... Liên... Liên,
tiếng hú
vang dội đã làm bầy chó rống lên, sủa ran cả một khu phố. Tôi gợi lại
chi tiết
nhớ được đó, anh Tâm mỉm cười nhìn qua tôi, tôi đọc được ở trong cặp
mắt anh
một niềm vui rất thơ trẻ.
Có thể
nói Ung Thư là tác
phẩm Thanh Tâm Tuyền đã dồn hết tài năng và sức lực của mình để viết.
Có thể
nói Ung Thư là cuốn Bếp Lửa được phóng lớn.
Sau đó,
tôi nhắc cuốn Bếp Lửa
như là ước mơ đầu tiên của tác giả Ung Thư. Trong cuốn này, có nhiều
câu văn
anh viết thành những đoạn thơ.
“Tôi
tìm Thanh ở chỗ làm việc
của nàng.
Buổi
sáng Mùa Ðông ngây ngất,
trưa còn xa
Mưa rơi
sâu vào giấc mơ
Chuyến
xe hàng đưa tôi sang
Bắc Ninh với tất cả buổi chiều theo nó
Thanh
cứ hát nhỏ cho mọi
người nghe lần cuối
Hàng
phố bé dần lại trong đêm
khuya, lùi xa như tiếng hát
Trở về
mái nhà
Xưa.”
Buổi
chiều hôm ấy thật là
hạnh phúc cho tôi và anh. Và, sau những câu thơ tôi vừa đọc, anh ngồi
im lặng
nghe tôi chia sẻ những chi tiết mà tôi còn ghi nhận được trong Bếp Lửa.
Tôi nói
về ông Chính cha ghẻ của Tâm, về một đêm thao thức nghe tiếng mưa, về
một tiếng
động khẽ khàng lúc ông trở mình rời giường nằm đứng dậy rót nước uống.
Tiếng
nước gây nên một âm thanh lọc lõi nỗi hoài nghi. Nhờ vậy, lúc ấy cái
khó khăn
của lời nói mới vượt qua được, nó vượt qua cũng nhờ vào sự liên tưởng
một người
mẹ, mà từ lâu hình ảnh đó hai người không dám nhắc đến.
Cô
Thanh trong Bếp Lửa là em
họ của Tâm. Anh yêu cô ấy, và anh nghĩ hai người có thể lấy nhau, liên
hệ ràng
buộc thân thích không đáng kể. Trong truyện, hai người chỉ có được hai
lần gặp
riêng tư bên nhau. Một lần đầu, cô Thanh đi bên cạnh Tâm đến một tiệm
trà đầu
phố. Một lần khác, từ Bắc Ninh về Hà Nội Tâm hay tin cô Thanh đau, anh
đến
thăm. Trên vẻ mặt lo âu, vừa khổ đau, cô Thanh mơ ước có một mái ấm gia
đình,
cho riêng cô và em cô. Thế nhưng, cô rất khó nói, cả Tâm cũng vậy. Lúc
gượng
ngồi dậy, cô Thanh nhờ Tâm rót cho cô một chén nước. Anh Tâm có hiểu
lời tỏ
tình đó không, điều tôi cảm thấy một lời như thế nó muốn được nói và
được hiểu
về tình yêu chứ không có gì là quá đáng.
Hai
người tiếp nối câu
chuyện. Anh Tâm chợt cảm thấy mình thương hại người em họ của mình.
Bỗng tiếng
cô nói với anh:
- Anh
thở khói vào mặt em.
Tôi nói
với anh Tâm ở ngoài
đời, vào lúc này đây với sự lặng im, bình thản. Tôi cũng tự nghĩ, có
nên anh,
có một mối tình như thế thực với anh ngoài đời không? Buổi chiều mau
tới, một
hồi kẻng báo giờ cơm, anh và tôi đứng dậy trở về lán.
Anh Tâm
ở phân trại K 2 được
chừng hơn một năm thì chuyển đến K 5 là trại trung ương. Khi anh đến
nơi này
thì ông Phan Lạc Phúc đã đi Thanh Hóa rồi. Tuy nhiên, ở đây anh cũng
còn gặp
mấy người quen, trong đó có nhà văn Văn Quang. Những ngày đầu tiên vắng
anh, tự
nhiên tôi cảm thấy mình đơn độc. Và, đôi lúc cuốn truyện Bếp Lửa cùng
bao nhiêu
nhân vật trong đó trở lại với tôi, nó khiến tôi nghĩ ngợi nhiều. Ðời
sống trại
tù ngày tháng cứ mỏi mòn, tuyệt vọng. Thỉnh thoảng, từ miền Nam có
một số
thân nhân ra thăm nuôi, và hàng quí chúng tôi nhận được quà gia đình
gởi cho để
cầm hơi. Có những chuyện buồn, thật buồn, không thể nói được mà chỉ
hình dung
qua trí tưởng. Tôi được nghe một câu chuyện kể về chị T., từ miền Nam
ra thăm
chồng, nhưng khi đến nơi, anh lại chuyển đi trại khác, rất xa. Không
biết, với
bao nhiêu khó nhọc, chị có còn tiếp tục đi tìm thăm anh, tìm một khuôn
mặt thân
yêu, tìm một nỗi nhớ về gia đình, tìm một sự chờ đợi ấm áp, hay rồi,
không đủ
sức nữa, cái bóng hình của chị mất hút trên con đường. Nghĩ như vậy tôi
có cảm
tưởng, ở đất nước này, xứ sở này làm sao tìm ra được một nơi chốn đích
thực của
quê nhà.
Trong
một kỳ quà lần đó, có
một bác sĩ ngoại quốc gởi cho anh Tâm một gói quà khoảng 3kg, và ở
ngoài thay
vì viết tên thật của anh, ông ta ghi bút hiệu Thanh Tam Tuyen (không bỏ
dấu
tiếng Việt). Cũng may, anh Nguyễn Xuân Tùng cùng một số anh em trong
trại biết
nên đã giữ lại và chuyển sang K 5 cho anh.
Tôi ở
lại trại K 2 hơn bốn
năm cho đến ngày được tha về trong số 20 anh em tù của tất cả 5 K. Khi
về, vì
còn phải ghé K 5 trung ương làm thủ tục nên tôi có được dịp thăm mấy
người bạn
quen, mấy vị xếp cũ và anh Tâm. Tại lán anh, tôi được gặp nhà văn Văn
Quang.
Hai anh mừng cho tôi được về, rồi có hỏi thăm anh Khả tôi. Hai ngày ở
lại K 5
làm giấy tờ, thủ tục ra trại đến ngày về, buổi sáng ngày Thứ Sáu chúng
tôi lên
đường. Trước khi đi tôi ghé qua chào anh, lần này, anh mới dặn dò nhờ
tôi đến
nhà anh ở Sài Gòn để hỏi thăm chị về tin anh Ruy, người về đợt trước.
Tôi nghe
hiểu, hứa với anh sẽ làm theo lời dặn.
Buổi
trưa chúng tôi lên tới
ga Ấm Thượng và ngồi đó đợi đến bốn giờ chiều mới có tàu về Hà Nội. Khi
xe lửa
đến, anh em tù chúng tôi ngồi toa riêng, và khi tàu chạy, ngồi bên cửa
toa tôi
cứ nhìn ra ngoài để xem cho thỏa mắt quang cảnh miền Bắc, vừa cố ghi
nhận từng
hình ảnh một của đời sống người dân miền ngoài này với bao nhiêu năm
sống dưới
chế độ xã hội chủ nghĩa. Tàu chạy qua từng ngôi làng, từng huyện lỵ lớn
nhỏ,
từng thị xã và về tới Hà Nội vào lúc gần hai giờ sáng. Khi xe lửa chạy
qua sông
Hồng, nghe tiếng sóng nước đập dội vỗ vào chân cầu, lòng tôi cảm thấy
nôn nao
khó tả. Hà Nội, chỉ có trong tôi bao nhiêu hình ảnh của văn chương,
nhiều nhất là
ở tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn, giờ, tôi sắp về tới Hà Nội, Hà Nội chỉ
còn trong
khoảng cách, trong một đoạn đường ngắn nữa thôi, tôi cứ hy vọng, mong
chờ. Tàu
chạy chậm, vừa cất từng nhịp còi khi qua cầu Long Biên, đứng bên cửa
toa, vừa
nhìn xuống sông Hồng, bàn tay tôi thò ra ngoài nhẹ lướt chạm qua những
thanh
sắt trên vai cầu, mỗi lúc, lòng tôi tự nhiên vui vì có cảm giác như
mình được
tiếp xúc với lịch sử.
Hà Nội,
tàu về tới và đã
ngừng lại ở ga Hàng Cỏ.
Tôi có
được một ngày Hà Nội
sống bằng hiện thực và tưởng tượng. Tôi được nhìn phố xá Hà Nội qua sự
hiện
diện đích thực của mắt tôi. Tôi có tìm thăm nhà văn Nhất Linh, trụ sở
báo Phong
Hóa của nhóm Tự Lực Văn Ðoàn ở căn nhà số 80 đường Quan Thánh. Tôi có
đi trên
đường Cổ Ngư đến đê Yên Phụ để nhớ đến hai hình ảnh của Loan trong Ðôi
Bạn và
Ðoạn Tuyệt của nhà văn Nhất Linh. Và trước khi từ biệt Hà Nội để trở
lại ga
Hàng Cỏ đợi chuyến tàu về Nam, tôi đã ghé lại Hồ Gươm vốc nước rửa mặt
giống
như nhân vật “tôi” trong truyện ngắn Cuối Ðường của Thanh Tâm Tuyền.
Tối hôm
ấy, một trận mưa
khủng khiếp ở ga Hàng Cỏ. Ðứng bên cửa toa, tôi nhìn đường phố tìm hình
ảnh Hà
Nội qua những mái nhà, những ánh đèn trong đêm mưa. Tôi chợt có ý nghĩ,
Hà Nội
không ước mong có một ngày tôi trở lại.
Tàu
chuyển bánh. Mưa vẫn xối
xả, mù mịt. Những người đưa tiễn đứng ở sân ga vẫy tay chào tạm biệt.
Tôi chỉ
còn giữ lại hình ảnh Hà Nội trong một tiếng nói (người yêu cũ của mình,
và bóng
dáng ga Hàng Cỏ).
Sau hai
ngày đêm, tàu về tới
ga Bình Triệu miền Nam. Nỗi mừng vui xiết kể đối với anh em tù vừa mới
được
tha. Nửa đêm, tôi đi bộ về nhà. Những năm tháng xa gia đình, trở về
trong đêm
với bao sự bỡ ngỡ lạ lùng, về đến con đường nhà ở tôi đã đi lạc một
quãng, sau
đó trở lui lại mới tìm được ra nhà.
Sài
Gòn, thành phố được đổi
tên ngay trong ngày đầu 30 tháng 4 khi Hà Nội chiến thắng miền Nam.
Khoảng đầu
thập niên 60, tôi từ ngoài miền Trung vào SàiGòn tìm kiếm việc làm. Và,
thành
phố này đã nuôi dưỡng tôi, cho tôi một nghị lực phi thường để vượt qua
được
những nỗi khó trong bất hạnh. Tôi cũng không quên được những ngày đầu
của Sài
Gòn khi những kẻ thắng trận tiến vào để giành lấy quyền làm chủ đất
nước. Ðó là
những hình ảnh rách nát, tan hoang của một thành phố sau cơn bão chiến
tranh. Ðó
là những hình ảnh có thể xây dựng thành một cuốn phim lịch sử, trong
đó, phía
kẻ thắng muốn hủy diệt chứ không tìm cách cứu vãn để xây dựng.
Dù thế
nào, tôi cũng phải tìm
cách mưu sinh. Và, chỉ ở thành phố này mới là điểm tựa chắc chắn cho
những kẻ
từ các vùng kinh tế thất lạc, những người tù cải tạo mới trở về. Vào
thời gian
này, hình ảnh những người tù cải tạo là cái bóng áo vá rách vai, là
những chiếc
xe lô mỏi mệt, buồn chán không khác mấy con ngựa già, là những quầy bán
vé số,
những quầy bán thuốc lá, những chỗ bán xăng trên vỉa hè, hoặc đó là
những người
đi dạy kèm trong đêm. Mỗi nghề này tôi đều có trải qua, nó đã giúp tôi
có được
hai bữa cơm mỗi ngày, có được tiền mua cho gia đình ít cân gạo, và mỗi
buổi
sáng có được ly cà phê bít tất, vài điếu thuốc củi. Tuy vậy, đời sống
cũng rất
vui.
Vào hai
buổi tối Thứ Năm, Thứ
Sáu, thường mười một giờ đêm tôi mới về đến nhà. Hai buổi tối đó tôi
dạy kèm
cho hai đứa con gái con một bà báng hàng vải ở chợ An Ðông. Hai em tên
là Uyên
và Phương học trường Bùi Thị Xuân. Hai chị em học cùng lớp nên tiện cho
tôi
trong việc giảng bài. Và, tôi cũng chỉ dạy kèm một môn Toán. Bà mẹ hai
cô trả
cho tôi ba trăm một tháng, tính mỗi em là trăm rưởi đồng.
Sau
thời gian về nhà chừng
tuần lễ, bắt đầu kiếm sống, ngày nào tôi đạp xe đi chạy hàng, việc
chính là
giao báo đến các sạp, phụ là lục tìm các mối hàng sách cũ để mua đi,
bán lại.
Tối hôm
đó, tôi giải bài toán
Hình Học về tứ giác nội tiếp. Phòng khách trong gia đình, vừa làm chỗ
cho hai
em học. Nhà ở trông ra con đường nhỏ, ban ngày rất ồn ào nhưng đến đêm
có phần
nào yên lặng.
Hai em
Uyên và Phương ngồi
cạnh nhau ở chiếc bàn gỗ thấp hình chữ nhật. Tôi luôn đứng bên tấm bảng
suốt
giờ dạy. Khi giải một bài toán, tôi vẽ hình bên trái, bên phải là ghi
từng lời
giải trong lúc giảng. Hai em này rất chăm học, luôn chú tâm nghe. Khi
hết viên
phấn còn một mẫu nhỏ, tôi bỏ xuống lề khung, lấy viên phấn mới khác ở
hộp bẻ
một nửa để viết tiếp. Vì trước đây học chuyên về ban Toán nên tôi rất
tự tin
khi giảng bài. Bài toán ra bốn câu, và cứ thứ tự từng câu tôi giải.
Luôn luôn
tôi nhắc đến một định lý liên hệ với bài toán khi chứng minh. Cứ vậy,
tôi và
hai cô học trò cùng cảm thấy nhẹ nhàng với buổi học.
Bỗng
nhiên, tôi giật mình co
một chân lên. Ngay lúc đó tôi bị cảm giác hoảng sợ, tưởng như chân đã
đạp lên
một quả mìn. Chỉ sau vài giây ảo giác, nhìn xuống nền nhà xi măng tôi
mới hay
là mình giẫm lên mẫu phấn rớt dưới chân. Thực sự tôi hoàn hồn. Cơn ác
mộng đến
và đã đi, nhưng dư âm của nó ở trong tôi là một cuộc chiến tranh mà
mình tưởng
rằng đã qua, đã quên nhưng chưa thoát khỏi.
Nhà văn
Mỹ William Faulkner
có viết một câu nổi tiếng: Con người là tổng số điều kiện thời tiết và
những
nỗi bất hạnh.
Những
khoảnh khắc mưu sinh
trong cuộc sống khó khăn, tôi luôn nghĩ đến một ngày hôm sau cho gia
đình tôi.
Những ngày đi trên các ngả đường phố Sài Gòn, mắt tôi luôn tìm một bóng
dáng ai
quen, và trí tưởng lặng yên nghỉ đến những người bạn đã ra đi xa, đã
chết trong
cuộc chiến, hay còn lại trong các nhà tù. Và, trong niềm nhớ bâng
khuâng, tôi
bỗng thấy thèm đọc một câu văn hay trong truyện ngắn Ðại Lộ.
Còn gì
sung sướng bằng khi đi
bên cạnh một người bạn thân mà biết người yêu đang nhớ đến mình.
Qua đầu
năm 82, tôi hay tin
anh Thanh Tâm Tuyền được tha về. Vào thời kỳ này, tôi chạy buôn bán
hàng sách
cũ và bán báo. Một buổi sáng, tôi đến thăm nhà anh ở khu Bà Chiểu và
gặp anh ở
nhà. Tôi hỏi thăm sức khỏe anh, rồi vui chuyện tôi kể lại cho anh những
gì ở Hà
Nội một ngày về tôi được nhìn thấy.
Sau
những năm tù trở về, anh
Tâm hầu như không tiếp xúc ai nhiều. Những người anh gặp, phải là thân
thiết
với anh lắm. Thỉnh thoảng, tôi có gặp anh ngoài phố một vài lần hoặc
trong mấy
hiệu sách. Và khi hay biết tôi sống bằng nghề buôn bán sách cũ, anh nhờ
tìm
kiếm cho anh mấy cuốn thơ Pháp mà giờ tôi không còn nhớ tên tác giả.
Anh Thanh
Tâm Tuyền song toàn cả hai lãnh vực sáng tác thơ và văn xuôi, nhưng tôi
để ý
thấy anh tha thiết với thơ nhiều hơn. Riêng tôi, tôi thích đọc văn anh
hơn là
thơ. Tôi tìm thấy, văn anh có những câu thật chông chênh nhưng không bị
ngã, vì
nó nhờ có ý tưởng bám theo làm điểm tựa.
Sau
những ngày tháng trôi
giạt trong cuộc mưu sinh ở Sài Gòn rồi Huế, đầu tháng 11/93 tôi được
cùng gia đình
sang Hoa Kỳ theo diện HO. Ðến đây, gần một năm sau tôi mới liên lạc
được với
anh, nhờ anh Nguyễn Quốc Trụ ở Canada cho số điện thoại.
Khi
nghe tiếng của tôi nói,
anh cười hỏi:
- Ai
cho số điện thoại của
tôi cho cậu vậy ?
Tôi
liền đáp ngay cho anh biết
là anh Trụ. Qua cuộc nói chuyện, tôi hỏi thăm anh về công việc làm và
anh cũng
có hỏi thăm gia đình tôi và anh Khả.
Ra hải
ngoại, họa hoằn lắm
tôi mới được đọc một đôi bài anh Thanh Tâm Tuyền viết trên tạp chí Thơ.
Dù viết
ít, nhưng văn thơ anh vẫn sắc bén như thời xưa.
Ðã lâu,
tôi không biết được
tin tức gì về anh Tâm. Bất ngờ, buổi sáng Thứ Hai gặp anh Nguyễn Ðình
Toàn được
tin anh đau vào nhà thương. Tôi cũng nghĩ anh vào dưỡng bệnh rồi trở
ra. Ðâu
ngờ, mới hay tin đó, anh đã mất. Anh mất vì bệnh Ung Thư phổi. Anh đã
viết cuốn
Ung Thư, nhưng không xuất bản nó, và rồi mang nó theo trong cái chết
của căn
bệnh này. Tôi vẫn luôn nghĩ rằng, những nhân vật của Thanh Tâm trong
Ung Thư và
Bếp Lửa đều cất giấu một thứ nostalgie. Ðó là một thứ tình cảm nhớ quê
hương để
mang nặng thành một căn bệnh ung thư trong văn chương. Nostalgie là một
chất
ung thư, nó luôn hiện hữu trong tâm cảm mỗi nhà văn.
Những
người đã chết đều có
thực. Câu thơ đó, sau cùng anh cũng báo tin cho mọi người hay anh đã
chết.
Những giọt nước mắt dành cho anh, cho mỗi tác phẩm anh viết , nó làm ẩm
mùi vị
điếu thuốc, làm mờ đục màn sương, nhưng rồi cũng sẽ khô ráo. Và, riêng
tôi dù
muốn đợi chờ chăng nữa, tôi vẫn nghĩ rằng cuốn Ung Thư sẽ không bao giờ
được
xuất bản, vì những nhân vật trong cuốn sách này đã đi theo tác giả về
một nơi
yên nghỉ cuối cùng.