Thềm
nắng
sau lưng
“người
ra
đi đầu không ngoảnh lại…”
Truyện
ngắn
Nguyễn
Ngọc
Tư
Ngày
đầu
tiên tới trường, Bằng lếch thếch quay về nhà với mớ sách vở ướt mèm, bộ
đồ bê bết
sình đất, bà ngoại kêu trời, nói, “tại thằng cha mầy không nên thân…”.
Bằng nói
không phải, do đường trơn, bữa qua mưa lớn quá.
Bằng
mười
tuổi, đi đào bắt chuột với mấy đứa nhỏ trong xóm, bị tụi nó vô tình xắn
lưỡi dá
vào cổ tay, máu chảy tràn, bà ngoại kêu trời, nói, “thằng cha mầy thiệt
là bất
nhân…”. Bằng nói, tại thằng Kẹo tưởng đâu tay con là con chuột…
Bằng
mười
sáu tuổi, đi đốn so đũa làm củi chụm, búa trật vào bàn chân làm đứt
phăng một
ngón, ngoại đấm ngực kêu trời, “ông trời ngó xuống coi, thằng cha bây
có phải
là người không ?”. Bằng nói, tại con mài cây búa bén quá.
Giờ
thì Bằng
đã hai mươi hai tuổi, trên người thẹo vết không đếm hết. Ngoại Bằng nói
cha cậu
phải chịu trách nhiệm về tất cả nỗi đau này. Nhưng không có vết nào là
do chính
tay cha Bằng gây ra, nên cậu vẫn chưa thể oán hận ông như bà ngoại và
má mong
muốn. Đôi lúc cậu thấy buồn, vì mình đã làm họ thất vọng, đôi lần.
Hôm
Bằng ra
đời, má đã thất vọng rã người, khi phải đẻ rớt cậu trên xuồng, giữa
đường tới
trạm xá. Xanh xao và mất máu, má cũng kịp thở dài, “nhà đã có một người
đẻ trôi
nổi rồi, chưa đủ sao?”. Người “đẻ trôi nổi” là ba cậu, lúc đó đang đi
theo máy
cày bên Đồng Ông Lớn. Ba Bằng về thì con trai gần đầy tháng, ba rón rén
nhìn đứa
trẻ được gói ngo ngoe trong chiếu, phì cười, “trời, ngộ quá hen, dài
ngoằng vầy
mà sao nằm khoanh trong bụng con người ta được vậy?”. Bằng chỉ nghe kể
lại,
ngay cả vụ ba bồng cậu đi chơi bên xóm, về tới nhà trên tay chỉ còn mấy
tấm
khăn áo bọc ngoài, cậu thì rơi tuột xuống đống rơm bên đường… Mới bốn
tháng tuổi,
Bằng chưa có ký ức, nên cũng không nhớ là đã đau và đã khóc ra sao, nên
cũng
không thể giận ông vì cái lỗi lơ đễnh đó.
Người
lớn
thì giận. Có lần đi mượn gạo về, má Bằng vấp chân vô cái rễ cây, ngay
lập tức
má rút chiếc dép ra đập cái cây điên dại, mếu máo “anh khốn nạn, khốn
nạn lắm…”.
Bữa sau ba cậu mới cặp xuồng vô bến, mặt mũi, áo tóc nhàu nhò. Ông chở
mười mấy
giạ lúa ra tới nhà máy chà, gặp thằng bạn đi qua, bạn rủ đi chợ nhậu
chơi, ông
gật đầu. Ở chợ ông gặp vài người bạn nữa, họ rủ ở lại mai về, ông lại
gật đầu.
Lúc về chiếc xuồng trống không, ba cậu bán lúa đi chơi hết tiền. Má
Bằng nằm
day mặt vô vách, mắt mở trừng trừng mà nước mắt cứ tuôn ra. Ông nhón
chân trên
nền nhà ướt bọp bẹp, kéo tay thằng con, thôi, hai ba con mình ra vườn
chơi.
Vườn
nhỏ,
nhưng rất dài, liếp nối liếp tiếp giáp với cánh đồng mênh mông đằng xa.
Ba Bằng
thường trốn ra đây mỗi khi làm vợ giận. Gác sẵn mấy cây cần câu ngoài
vườn, ông
ngồi câu cá trong khi chờ má Bằng nguôi ngoai. Ông sợ nước mắt. Bằng
tha thủi
chơi gần đó. Có lúc ông gọi giật giọng, “Bằng, tàu đò Rạng Đông lên tới
đầu doi
kìa…”. Chuyện tàu qua làm ông dợm đứng lên, xao xuyến, dù ông chẳng
định đi đâu
hết. Có lúc chờ cá cắn câu, thì con chim tu hú kêu, ông cũng cất tiếng
kêu. Tu
hú tưởng tiếng đồng loại bèn đáp lời, vậy là hai bên cứ rượt đuổi, quấn
quýt,
buộc vào nhau không rời, không dứt. Cho tới mệt ngất ngư, cho tới chạng
vạng,
con tu hú chắc cũng thở dốc ở đâu đó trong lùm tre, ba Bằng mới chịu
xách mấy
con cá vô nhà, với vẻ mặt hớn hở và ngây ngất, quên mất mình đã gây ra
chuyện
tày đình gì.
Sau
này,
khi ba Bằng đi rồi, cậu vẫn nhớ những buổi chiều tiếng tu hú vờn nhau,
đuổi bắt,
mơn trớn, dìu dặt trong vườn. Có bữa bơi xuồng qua nhà ngoại chở nước
mưa, trên
đường về nghe bìm bịp kêu thâm u trong bờ dừa nước, cậu cũng bắc chước
kêu bịp
bịp. Cả khúc sông nhói ran. Bà mẹ đợi lâu quá lội bộ đi kiếm, thấy
thằng con
đang thả xuồng trôi dập dềnh bên những chùm gọng, đang nói tiếng chim
giữa chơi
vơi nước lớn. Bữa đó Bằng bị trận đòn tơi tả, má vừa đánh vừa khóc,
“thằng cha
đã không nên thân rồi, giờ tới thằng con, chừng nào mầy bỏ má mà đi,
hả?”.
Không,
Bằng
kêu trong lòng, con không bỏ má. Ba Bằng nói, nhà có một người giang hồ
là đủ
khổ rồi. Hôm đó ông vừa nói vừa vò đầu cậu. Hai ba con ngồi ở bên hè,
má cậu đã
lạnh lùng bơi xuồng qua nhà ngoại, chắc là qua đó nằm khóc. Bữa đó ba
cậu mới về,
sau chuyến vắng nhà ngót nửa năm. Ba ngó nghiêng vô bồ lúa, hỏi :
-
Nhà mình
lúc này sao?
-
Cũng vậy.
Lúa đủ ăn.
-
Má con
sao?
-
Cũng vậy.
Có mấy người tới, má lấy chổi quét dạt ra đường. Má nói thấy đàn ông
mắc chán.
-
Trời, giờ
nói vậy, mai mốt kiếm không ra à.
-
Thì đó…
con cũng nói vậy.
Bằng
nói với
ba như với ông khách mới tới nhà, như người quen lâu lâu mới gặp. Cậu
ta lẻo đẻo
đi đằng sau bước chân bỡ ngỡ của khách, lâu lâu lại nhắc “ba, coi chừng
đụng đầu.
Cái chái này con mới lợp lại…”. Cuối ngày thì ba cậu đón tàu đi. Bằng
hỏi, lúc
này nhà ba ở đâu. Ông cười nhỏ, vò đầu cậu:
-
Nhà ba ở
chỗ có người ba thương.
Bằng
lại hỏi
:
-
Cái người
tên Hường ca hay ba kể hôm trước hả?
Ba
cậu cười,
nửa ngượng ngiụ nửa sung sướng, cánh mũi phập phồng, thôi rồi, ba đang
thương
cô Năm Phượng trồng khóm bên Xóm Rẫy. Cô này lớn hơn ba năm tuổi, mà
trẻ măng.
Bằng ờ ờ, ngó chiếc tàu đò vừa ló cái mũi qua doi trâm bầu, nói vội :
-
Chừng nào
rảnh ba dẫn con đi theo chơi ít bữa.
Ba
vò đầu cậu
lần nữa, và nói cái câu chìm sâu trong vũng ngậm ngùi, rằng nhà mình
chỉ nên có
một người giang hồ thôi. Bằng nén thở dài, thấy trùng trình nhìn tàu đi.
Hai
mươi
hai tuổi Bằng vẫn hay bợ cột nhà, mỗi khi tàu đò qua. Như thể cậu đang
níu,
đang vịn chính mình ở lại. Những chiếc tàu nối đầu ghềnh cuối bãi, đi
tới những
chân trời xa xôi, tươi mới. Cậu muốn vẫy tay, để cùng chiếc tàu xé đôi
cái viền
sông xanh rợp những lùm cây hoang dại, chui ra khỏi cái chốn quê này.
Nhưng
chút nữa Bằng phải qua nhà má đốn cây, chẻ lá để vài ngày tới lợp rạp.
Hiên,
con gái của dượng sắp lấy chồng.
Hiên
bằng
nhỏ hơn Bằng một tuổi, đó là đứa con gái hay mủi lòng. Có lần ngoại
chiên bánh
xèo, sai Bằng đem qua nhà má, gặp Hiên, Bằng nói, ngoại tao cho ba mày
bánh.
Con Hiên tự nhiên khóc mướt, nó mếu máo nói sao mà anh Hai nói chuyện
nghe xa lạ
quá chừng. Nó cũng cho rằng việc học hành dang dở, hay những thương
tích trên
người Bằng là do Bằng không có người cha tử tế. Bằng chỉ cười, gãi gãi
cái đầu
gối.
Có
đôi lúc
Bằng thấy đời mình hơi buồn. Bằng cố gắng giận ba về cái việc ông giang
hồ ham
chơi. Nó cố gắng giận má việc bà đi bước nữa với dượng Tư Thuần. Nhưng
giận dữ
và day dứt lại làm Bằng thấy buồn hơn. Quên bỏ thì thấy nhẹ nhỏm,
hớn hở.
Cảm thấy nhiều chuyện hồi nhỏ trong lòng mình vẫn nhớ, nên không gọi là
mất. Và
nhiều thứ mình chưa kịp có, càng không thể gọi là mất.
Hiên,
Bằng
không tính là mình đã có. Đứa em này từ trên trời rơi xuống, chưa sống
chung
nhà một ngày, vài ba bữa gặp nhau một lần, nói vài ba câu. Hiên hay
khóc quá, Bằng
cũng sợ, vì không biết trước được con nhỏ sẽ sụt sùi lúc nào. Hỏi má
tao đâu
Hiên cũng khóc. Hỏi bên nhà mầy ăn cơm chiều chưa, Hiên cũng khóc. Hôm
nghe tin
đám gã sẽ tổ chức vào rằm tháng chín này, Bằng ngồi tra cái cán dao,
nói, “mừng
quá, bữa đó tao được ăn ngon…”. Con Hiên khóc tức khóc tưởi như Bằng
vừa mới
đánh nó. Bằng sợ nước mắt như ngày xưa ba nó sợ nước mắt má nó, nên bỏ
ra vườn,
chọc ghẹo con tu hú, chim vừa kêu vừa bay, Bằng vừa kêu vừa đi, theo
hết chín mảnh
vườn, băng qua chín hào ranh, mệt đứt hơi. Lúc quay vô nhà con Hiên vẫn
còn
thút thít. Từ bữa đó, nó không nhìn Bằng nữa.
Bằng
cũng
không lấy đó làm chuyện buồn lòng, cậu bận tối mắt mũi. Lúc thì kéo cá
dưới ao,
lúc thì chạy xuồng đi mua nước đá, lúc chở má đi chợ… Đôi khi bỗng
nghĩ, khi
nào mình cưới, chắc ba sẽ về. Ông sẽ xớ rớ ngồi bên mép ghế, tay mân mê
mép
bàn, sượng sùng nhìn quanh. Bằng sẽ ra cầm khách, mời ba ăn bánh, hay
ba ăn
thêm chén cơm nữa, đừng có ngại. Bằng hình dung, má cậu sẽ giả vờ lạnh
lẽo lướt
qua người đàn ông năm xưa là chồng mình, bà không thể lấy chổi chà quét
đuổi vì
đó là ngày cưới. Bằng cưới, thí dụ vậy. Có điều, lúc đó Bằng sẽ không
biết ông ở
đâu mà nhắn tin. Năm ngoái chạy chiếc ghe chở than đước qua khúc sông
Láng Cháo
này, ông thập thò ghé thăm Bằng. Bà ngoại mắt đã mờ, cũng không biết ai
ghé
nhà, nhưng nghe cất tiếng hỏi “má khỏe không ?” là cằn nhằn ở đâu lổn
nhổn bò
ra. Ba Bằng cười hề hề, kéo tay thằng con ra sông ngồi nói chuyện chơi.
Bằng
không còn hỏi lúc này ba ở chỗ nào, tự thấy chiếc ghe mui vuông đậu
đằng kia là
nhà ông, nơi thấp thoáng một tà áo đỏ lúi húi vào ra.
Hôm
đó, ba
rờ nắn dái Bằng, hỏi :
-
Ê, muốn vợ
chưa mậy?
-
Muốn hồi
mười lăm mười sáu tuổi rồi, ông ơi! – Cậu nghe cái đó nhộn nhạo chạo
chực trong
bàn tay mềm mại của ông.
-
Trễ vậy?
Hồi đó tao mười hai tuổi là thấy gái biết ham - Ông cười vang.
Rồi rất cố
gắng, vừa sửa cái bâu áo lại, ông vừa nói với giọng nghiêm túc - -
Chừng nào cưới
vợ ba lo cho một cây vàng.
Bằng
cười,
tự biết lời hứa này không nên chờ đợi. Người cha cũng tẽn tò, bẻ nhánh
cây xoi
xoi trên mặt đất. Bằng biết ông nghèo bộng ruột. Nghèo mà không áy náy
hay lo lắng
chuyện mình nghèo. Hồi đi theo máy cày, nửa tháng ăn sương ngủ gió trên
đồng,
lúc về nhà chỉ có nhúm tiền con con, má Bằng thở dài, “trên đời dưới
thế chỉ có
mình anh, gặp bạn bè là quên phứt vợ con…”. Ba Bằng gãi đầu, cười hệch,
ừa, sao
kỳ quá, anh tính ghé tiệm tạp hóa mua cho con lon sữa với mấy ký đường,
gặp thằng
bạn cũ, nó rủ ngồi lai rai chơi. Bữa sau tính về, bạn kéo đi đám cưới
cháu vợ
nó, đờn ca vui quá…” Và trong đám người vui chơi ca hát đó có người đàn
bà tên
Hường, chuyện đó thì ba cậu không kể.
Khi
nhớ về
người cha trôi giạt, Bằng luôn trong vai một người đứng bên lề, nghiêng
ngó. Dù
khi ông rượt theo con tu hú, cậu cũng ở đó, nhưng lại thấy mình rời ra.
Chỉ
mình người cha với cuộc chơi tùy hứng và bất tận của ông. Bằng nhận ra
điều đó
khi thả chiếc xuồng chở đầy nước mưa trôi theo tiếng kêu buồn trĩu của
con bìm
bịp, trong Bằng không còn thời gian, bờ bến, thế giới không còn người,
đến
chính Bằng cũng không còn. Sau đó má Bằng xuất hiện, cái nón lá chấp
chới trong
tay, đứng réo Bằng ơi Bằng, mới xua tan được khoảng sương mù mịt.
Sau
lần đó
má càng ân hận hơn vì đã đẻ Bằng trên xuồng. Bằng thấy áy náy, nên cố
gắng làm
cho má tin trận đòn dữ dội kia đã làm cậu thay đổi. Biết má luôn dõi
theo mình
với tất cả hy vọng và thất vọng, giữa bữa cơm Bằng không bao giờ ngừng
đũa dù
khi ấy tàu đò qua, Bằng không ngó xa về phía chân trời, không lang
thang ngoài
vườn vắng, không nhìn theo những cánh chim, không tụ tập với bạn bè… Má
Bằng
cũng thấy yên lòng đôi chút, nhưng bà không hề biết, cái khúc sông tối
om, con
bìm bịp làm cậu nhớ dai dẳng, dù nhiều năm qua rồi. Dù lúc này cậu hai
mươi hai
tuổi, đang chở một xuồng cây về bắc cái cầu ra sông, phòng hờ mai rước
dâu vào
giờ nước ròng, xuồng đàng trai có thể dễ dàng cập bến.
Sau
này Bằng
cứ tiếc, phải biết có cô trong đoàn người đó, cậu đã đóng thêm tay vịn
cho cây
cầu. Cậu sẽ tìm ván lót sàn chứ không phải ghép vội những thân cây còn
ướt nhựa,
làm cho cái gót giày nhỏ xíu của cô kẹt lại, gãy lìa. Đám rước dâu hơi
nhốn
nháo. Cô loay hoay đứng chôn chân một chỗ, chẳng biết nên bỏ giày đi
chân không
hay cứ bước thấp bước cao, cho tới khi Bằng không nói không rằng bẻ
luôn cái
gót giày bên kia. Lúc cúi xuống, vạt áo dài vàng chanh cứ mơn trớn hững
hờ đắp
lên mặt cậu.
Từ
đó thì mắt
Bằng không thấy gì ngoài cái màu vàng chanh chấp chới. Không có đám
cưới nào,
sáng nay. Không có bà mẹ ngượng ngập mặc áo dài lén lau nước mắt. Không
có Tuyết
Hiên mặt mũi như đào hát, cổ đeo dây chuyền vàng đang đứng ngơ ngác, dè
dặt bên
cạnh chồng. Không có đám đông ăn uống chúc tụng nói cười. Không ai cả.
Vắng rợn
như khúc sông chiều với tiếng bìm bịp kêu, như mảnh vườn thâm u tiếng
con tu
hú. Bằng nhìn những ngón tay nhỏ nhắn và khẽ khàng của cô, lúc nhón cái
bánh,
lúc chậm mồ hôi, lúc vén mớ tóc lòa xòa, lúc cắn hột dưa, cảm giác lâng
lâng
như khi bắt đầu cất tiếng chim gọi nước. Thỉnh thoảng cô nhìn Bằng,
thẳng thắn
và dạn dĩ, có chút dò hỏi, chút ngạo nghễ, rồi môi đỏ nhuộm nụ cười
cũng đỏ, thả
lửng lơ về phía thằng con trai đang đứng lơ ngơ.
Cô
đi khi nước vẫn chưa lớn, vịn Bằng để bước xuống chiếc đò máy, cô cười,
“chà, không biết chừng nào mới gặp lại…”. Bằng vẫn không biết tên tuổi,
không
biết nhà cô ở đâu, cô đã có chồng hay chưa. Bằng càng không biết được
cô có còn
nhớ cậu không, khi quay lưng lại. Nhưng điều đó chẳng làm cậu buồn, hay
mất
mát. Bằng đã kịp nắm bàn tay của cô, chạm vào từng ngón, từng ngón.
Chúng mềm
và mỏng manh như những cọng bông súng chớm héo đi dưới nắng.
Không một chút oán giận nào cái dòng sông đưa
cô đi, như đã từng đưa ba,
má cậu đi. Lúc rảnh rỗi, Bằng ngồi bên dòng chảy, nhìn tàu qua, nhìn
tàu qua. Mỗi
ngày năm bảy lượt. Bằng nhớ cô, nhớ nụ cười, cái nhìn, bàn tay ấm nắng.
Bằng
hay giơ bàn tay mình ra, dưới ánh sáng mặt trời, như không tin vào điều
kỳ diệu,
bàn tay chai sạn sứt sẹo này đã từng nắm lấy một bàn tay.
Một
sáng, bỗng dưng có chiếc tàu ghé lại, họ tưởng Bằng đã vẫy tay gọi. Sự
hiểu lầm
làm cậu ngẩn ngơ giây lát, ông chủ tàu hối “lẹ lên, mậy…”. Vậy là
Bằng nhảy
xuống tàu. Cái thềm nắng lấp ló sau hàng bông bụp, nơi bà ngoại cậu
đang treo
võng ăn trầu, nơi cậu từng ngồi vót cần câu thả… đã khép lại, như gánh
hát khép
màn.
Lúc
thu tiền, ông chủ tàu đò hỏi Bằng đi đâu, cậu cười, tàu chú đi tới đâu
tôi theo
tới đó. Ông chưng hửng, trời, vậy nhà cửa chú mầy chỗ nào mới được
chớ... Cậu lại
cười, lòng nghĩ, nơi nào có người tôi thương nhớ, thì nhà tôi ở đó.
Nhưng giờ
thì tôi chưa biết nhà cô ấy ở đâu.
Khi
đi, Bằng mặc cái quần lỡ màu xám, áo sơmi xanh dương ngã màu đã đứt hai
cái nút
phía trên, chân không, đầu trần với ít chục ngàn trong túi…
Nguyễn Ngọc Tư
Nguồn