*





Nhân dịp Tuyển Tập “Những Miểng Vụn của Tiểu Thuyết” được xuất bản: Trò chuyện với nhà văn Thảo Trường

Wednesday, August 27, 2008 

Phạm Phú Minh

Giữa lúc sinh hoạt văn học của người Việt hải ngoại có phần trầm lắng, thì có một tin vui, đó là nhà xuất bản Người Việt vừa in xong Tuyển Tập “Những Miểng Vụn Của Tiểu Thuyết” của nhà văn Thảo Trường.

Nhà văn Thảo Trường là một cây bút quân đội đã thành danh từ lâu trước 1975 tại miền Nam. Tập truyện ngắn đầu tay của ông có nhan đề Thử Lửa xuất bản năm 1962 khi ông ở tuổi thanh niên. Sau đó ông được mọi người biết đến với các tác phẩm như Người Ðàn Bà Mang Thai Trên Kinh Ðồng Tháp (1966), Vuốt Mắt (1969), Cánh Ðồng Ðã Mất (1971) và nhiều tác phẩm khác. 

Từ biến cố 1975 ông đã là một trong những người bị giam cầm lâu nhất trong các trại cải tạo, hết trong Nam đến ra ngoài Bắc, hết ngoài Bắc lại vào trong Nam, tổng cộng 17 năm. Sau khi đến Mỹ năm 1993, ông lại tiếp tục sáng tác sau gần hai thập niên xa cách với thế giới chữ nghĩa. Cuốn sách đầu tiên của thời kỳ sau cải tạo là Tiếng Thì Thầm Trong Bụi Tre Gai xuất bản năm 1995, từ đó đến nay đều đặn cứ vài ba năm ông lại cho ra đời một đứa con tinh thần. 

Nhân dịp tuyển tập của ông được xuất bản vào Mùa Hè năm nay, Phạm Phú Minh đã có cuộc trao đổi với ông trên đài truyền hình VOCT, được ghi lại như sau.
*

Phạm Phú Minh: Thưa nhà văn Thảo Trường, chúng tôi nhận được tin vui là anh vừa in xong tuyển tập của anh, xin được chúc mừng anh. Sau một thời gian dài cầm bút, nay in tuyển tập thì chắc là anh có ý định tạm thời làm tổng kết cho việc viết lách của mình? Tính đến bây giờ thì anh đã viết văn trong bao nhiêu năm, và đã xuất bản được bao nhiêu tác phẩm?

 Thảo Trường: Tôi bắt đầu thích thú với công việc viết văn làm thơ từ thời đi học, tức thời trước năm 1954 tại thành phố Nam Ðịnh. Lúc đó tôi học trung học, và có một ông thầy là cụ Trần Văn Hào, tôi đã được nghe thầy giảng mấy trăm bài Ðường thi và Truyện Kiều cùng rất nhiều ca dao tục ngữ. Từ thời ấy tôi đã ao ước trong đời tôi sẽ làm một điều gì đó giống như những điều mình đã học. Mới 15, 16 tuổi mà tôi đã tính... ra một tờ báo!

 Sau đó vào Nam tôi thất bại trong việc học hành, vì tôi đi có một mình, ông cụ tôi mất và mẹ tôi lại ở lại miền Bắc. Sau khi thi rớt Tú Tài, tôi đi vào quân trường Thủ Ðức. Ra trường Thủ Ðức tôi đóng ở Quảng Trị, vùng vĩ tuyến 17, thời gian này tôi bắt đầu cầm bút, và cuốn truyện đầu tiên của tôi là tập Thử Lửa, viết cách đây hơn 50 năm.

 Tổng kết việc viết lách, thì tôi đã xuất bản 14 cuốn truyện tại Việt Nam trước 1975; tại Mỹ từ 1993 đến nay đã in được tám quyển. Còn một số bản thảo viết tại Việt Nam mang đi Mỹ được thì tôi chưa in. Vừa rồi tôi tập họp một số truyện từ trước đến giờ để in trong tuyển tập “Những Miểng Vụn Của Tiểu Thuyết.”

 Sở dĩ gọi là “miểng vụn” vì khi ở trong tù tôi có dự tính khi ra khỏi tù sẽ viết một cuốn trường thiên tiểu thuyết thật đầy đủ về quãng lịch sử vừa qua, thế mà khi qua Mỹ rồi, cuộc sống ở đây khiến tôi chỉ thích viết truyện ngắn. Tuy là truyện ngắn mà truyện nào tôi cũng muốn chứa đựng trong đó cả một giai đoạn lịch sử của cuộc chiến. Suốt mười mấy cái truyện ngắn tôi cứ làm đi làm lại như vậy, mà vẫn không thành một truyện dài như tôi đã mong ước. Các truyện ngắn ấy tôi coi như là những miểng vụn của cái trường thiên tiểu thuyết tôi định làm mà không làm được, vì thế tôi gọi là “Những Miểng Vụn Của Tiểu Thuyết.”

 Phạm Phú Minh: Thưa anh, anh vừa là chứng nhân vừa là người tham dự trọn vẹn cuộc chiến 20 năm trước khi miền Nam mất vào tay Cộng Sản. Có nhà phê bình đã cho rằng tác phẩm của anh trước 1975 phản ảnh nhiều mặt của cuộc chiến ấy với quan niệm nhà văn tại đây phải tự nhận trách nhiệm, trình bày bộ mặt kinh khủng của chiến tranh với những tra vấn không ngừng của người trí thức. Anh nghĩ sao về nhận định này?

 Thảo Trường: Tôi nghĩ điều đó đúng, nhà văn thì không thể tách rời ra khỏi cuộc sống và xã hội quanh mình. Vì thế, cuộc chiến tại Việt Nam trước 1975, thời gian đi tù từ 1975, cũng như thời gian sang lánh nạn bên Mỹ này, dù muốn dù không đều có tác động đến tôi và có mặt trong tác phẩm tôi viết.

 Khi viết, tôi lấy những dữ kiện, chất liệu trong cuộc sống đó - trong chiến tranh, trong trại giam và trong cuộc sống của chúng ta bên Mỹ bây giờ cộng với những điều tôi đọc được trong sách vở - từ những cái đó tôi dựng nên những nhân vật, những câu chuyện. Tôi mô tả cuộc sống thông qua tác phẩm văn nghệ.

 Phạm Phú Minh: Xin anh cho biết những tác phẩm nào trước 1975 mà anh bằng lòng nhất trong công việc phản ảnh những bi đát của một cuộc chiến vừa mang tính chất ý thức hệ vừa là huynh đệ tương tàn của Việt Nam? Và xin anh cho biết tác phẩm của anh có liên quan đến điều mà người ta thường nói, là “phản chiến”?

 Thảo Trường: Trước hết, tôi là người tham chiến. Nếu có ai bảo tôi là phản chiến thì là không đúng, vì tôi ở trong cuộc chiến đó. Những năm đầu sĩ quan của tôi, tôi đi theo những đơn vị tác chiến từ vĩ tuyến 17 cho đến Ðồng Bằng Sông Cửu Long, và làm một số công việc, chẳng hạn đi tiền sát cho pháo binh trong những trận đánh. Những năm về sau tôi được điều động về cơ quan tham mưu, từ đây tôi có cơ hội tìm hiểu nhiều hơn những diễn tiến của cuộc chiến Việt Nam. Tất cả những cái đó dù muốn dù không cũng “ám” vào tác phẩm của tôi.

 Trong những truyện tôi đã viết, có những truyện tôi rất thích mà tôi nghĩ độc giả cũng thích, ví dụ truyện Người Ðàn Bà Mang Thai Trên Kinh Ðồng Tháp, hoặc Viên Ðạn Bắn Vào Nhà Thục chẳng hạn. Trong số những truyện loại này có một truyện tôi muốn dùng một nhân vật ngoài cuộc chiến nhìn vào cuộc chiến ấy, đó là một cô nữ sinh trong một trường nội trú ở Ðà Lạt trốn ra về với mẹ, và chứng kiến cảnh chiến tranh. Cô đã thấy cảnh đánh nhau, cảnh giết nhau, thấy những tử thi... Tôi muốn dùng một nhân vật không biết gì về cuộc chiến để nhìn cuộc chiến đó. Không biết độc giả có để ý đến truyện này không, riêng tôi, tôi rất thích cái nhìn khác về cuộc chiến của nhân vật trong truyện này. Ðó là truyện Thềm Ðá Xanh Rêu.

 Rồi đến những cái thê thảm của trại giam, dù muốn dù không nó cũng nằm trong truyện của tôi. Có người nói rằng mọi thứ bây giờ đã qua rồi, nói lại chuyện ấy làm gì, nhưng tôi thì cho rằng không thể nào không nói đến.

 Phạm Phú Minh: Từ sau năm 1975, anh đã bị cầm giữ trong nhà tù cải tạo suốt 17 năm, di chuyển tới hàng chục trại trong Nam và ngoài Bắc. Ðó là một điều rất rủi ro. Nhưng với tư cách của một nhà văn, anh có thấy trong cái rủi này cũng có được một khía cạnh tích cực, ấy là anh đã thu thập những kinh nghiệm rất đặc biệt làm phong phú cho công việc viết lách cho mình về sau này không?

 Thảo Trường: Nếu tôi nói may mắn được đi tù thì không đúng, không ai muốn đi tù. Tôi lỡ chẳng may nó bắt được thì nó bỏ tù. Nhưng một khi đã sa vào một hoàn cảnh như vậy, khi đã lấy lại bình tĩnh mà nhận định thì thấy đây cũng là một xã hội, cũng là một khung cảnh sống, tại sao mình không nghiên cứu, tìm hiểu nó. Vì thế, thời gian ở tù về sau lại có ích cho tôi. Tất cả đau khổ, tàn nhẫn, xót xa mà anh em trong tù phải chịu, những cảnh trớ trêu mình gặp hay sự dốt nát, tội nghiệp của cai tù... đều đòi hỏi mình để tâm phân tích. Ðối với tôi thời gian ở tù đã cung cấp rất nhiều chất liệu để viết. Cuộc chiến Việt Nam thì cả thế giới này người ta đã nhìn thấy, kể cả cuộc sống tù đày sau đó cũng thế. Nhưng là nhà văn, anh phải thể hiện những cái đó ra, vì thế tôi đã để tâm phân tích, tồn trữ, khi qua Mỹ tôi mới sử dụng trong tác phẩm của mình.

 Nhưng tất cả đều là “miểng” hết, không có tác phẩm lớn như mình mong muốn. Trước 1975 tôi đã viết một tiểu thuyết dài, đó là cuốn Bà Phi mấy nghìn trang, chưa xuất bản. Lúc đó cần tiền cho gia đình, tôi đã bán truyện ấy cho báo Tiền Tuyến để đăng dần trong suốt mấy năm trời. Thời gian này số phát hành báo Tiền Tuyến tăng đáng kể, các anh đã làm trong báo Tiền Tuyến, như anh Phan Lạc Phúc chẳng hạn, biết chuyện đó.

 Phạm Phú Minh: Bây giờ anh có ý định in lại Bà Phi không?

 Thảo Trường: Tôi chưa có khả năng làm việc này, vì bản thảo chưa tìm được đầy đủ. Hiện tại tôi chỉ có độ 500 trang thôi. Tôi đã liên lạc các thư viện miền Ðông nước Mỹ, được biết tại đó báo Việt ngữ thời trước của miền Nam còn rất nhiều, trong đó chắc có các tờ báo đã đăng truyện của tôi. Sau 1975, bản thảo của tôi bị mất, tôi phải làm cách này để thu thập trở lại.

 Phạm Phú Minh: Nếu tôi nhớ không lầm thì anh định cư ở Hoa Kỳ năm 1993, và chỉ hai năm sau, vào năm 1995 một nhà xuất bản ở Paris đã cho ra cuốn Tiếng Thì Thầm Trong Bụi Tre Gai, rồi tiếp theo các nhà xuất bản ở Mỹ đã ấn hành Ðá Mục (1998), Tầm Xa Cũ Bắn Hiệu Quả (1999), Mây Trôi (2002), Miểng (2005), Thềm Ðá Xanh Rêu (2007). Anh có thể cho biết, so với các tác phẩm trước 1975, các cuốn sau này có những khác biệt gì về đề tài, về chất liệu, về vốn sống, về quan niệm viết v.v... không?

 Thảo Trường: Khác biệt rất nhiều. Xã hội trước 1975 là một xã hội tan rã, một xã hội chiến tranh trong đó cuộc chiến tương tàn gây rất nhiều đổ vỡ. Chỉ có một chất liệu đó thôi.

 Nhưng sau 75 có thêm chất liệu về hận thù, về khổ sở đói khát, về giam cầm. Rồi đến khi qua Mỹ thì cuộc sống ở đây hoàn toàn khác Việt Nam. Tất cả những điều vừa nói đã tác động vào bộ não, vào suy nghĩ của tôi, và những tác phẩm của tôi sau này tôi viết khác trước 1975.

 Bây giờ trong tuổi già tôi vẫn làm việc đều đặn. Có khi cả ngày tôi chẳng viết được dòng nào, thay vào đó tôi có thể đọc, rà lại sự việc để chuẩn bị. Các diễn tiến trong các tác phẩm viết tại Mỹ được trình bày kỹ càng hơn, ý nghĩ trầm hơn, và cũng gay gắt hơn. Ðó là sự khác biệt giữa những tác phẩm thời chiến tranh và thời lưu vong.

 Phạm Phú Minh: Xin cám ơn nhà văn Thảo Trường đã dành cho buổi trao đổi hôm nay. Một lần nữa xin chúc mừng nhà văn đã ra tuyển tập, chúc anh tiếp tục viết khỏe như những năm vừa qua.