Bombay, ngày 6 Tháng Giêng 1960
Tâm trí
là điều-đã-biết . Nó
là là điều đã được kinh nghiệm qua. Bằng thước đo đó, chúng ta cố gắng
tìm biết
điều-không-biết. Nhưng điều-đã-biết rõ ràng không bao giờ có thể biết
điều-không-biết; nó chỉ có thể biết điều gì nó đã kinh nghiệm, đã được
chỉ dạy,
đã thu thập. Liệu tâm trí có thể thấy sự thật rằng nó không có khả năng
biết
điều-không-biết chăng? [The mind is the known – the known being that
which has
been experienced. With that measure, we try to know the unknown. But
the known
can obviously never know the unknown; it can know only what it has
experienced,
what it has been taught, what it has gathered. Can the mind see the
truth of
its own incapacity to know the unknown?]
Chắc chắn nếu tôi thấy rất rõ rằng tâm
trí
tôi không thể biết điều-không-biết thì sẽ có sự im lặng tuyệt đối
(Surely if I
see very clearly that my mind cannot know the unknown, there is
absolute
quietness). Nếu tôi cảm thấy tôi có thể nắm bắt được điều-không-biết
bằng khả
năng của điều-đã-biết thì tôi rất ồn ào; tôi nói về nó, tôi từ chối,
tôi chọn
lựa, tôi cố gắng tìm cách đạt tới điều đó. Nhưng nếu tâm trí nhận thấy
nó tuyệt
đối không thể biết điều-không-biết, nếu nó biết nó không thể tiến một
bước nào
về hướng điều-không-biết thì khi ấy chuyện gì xảy ra? Khi ấy tâm trí
tuyệt đối
yên lặng. Nó không tuyệt vọng; nó không tìm kiếm điều gì nữa. (It is
not in
despair; it is no longer seeking anything).
Sự tìm kiếm chỉ có thể đi từ
điều-đã-biết
tới điều-đã-biết, và tất cả những gì tâm trí có thể làm là biết rằng sự
tìm
kiếm này sẽ không bao giờ khám phá được điều-không-biết. Bất cứ sự tìm
kiếm nào
bởi điều-đã-biết thì vẫn ở trong phạm vi điều-đã-biết. Đó là điều duy
nhất tôi
phải thấy; đó là điều duy nhất tâm trí phải nhận ra. Khi ấy, không sự
phấn
khích nào, không mục đích gì, tâm trí im lặng/The movement of search
can only
be the known to the known, and all that the mind can do is to be aware
that
this movement will never uncover the unknown. Any movement on the part
of the
known is still within the field of the known. That is the only thing I
have to
perceive; that is the only the mind has to realize. Then, without any
stimulation, without any purpose, the mind is silent.
Bạn không nhận thấy tình yêu là sự im
lặng
sao? [Have you not noticed that love is silence?] Nó có thể là lúc bạn
nắm tay
một người khác, hoặc âu yếm nhìn một đưá trẻ, hoặc hít thở vẻ đẹp của
buổi
chiều cho thấm vào cơ thể. Tình yêu không có quá khứ hay tương lai, và
tình
trạng khác thường này của sự im lặng thì cũng vậy. Và không có sự vắng
lặng
này, mà nó là sự hoàn toàn trống vắng, thì không có sự sáng tạo. Bạn có
thể rất
thông minh tài giỏi trong khả năng của bạn, nhưng ở đâu không có sự
sáng tạo,
nơi đó có sự hủy diệt, sự suy tàn, và tâm trí héo úa. [Love has no past
or
future, and so it is with this extraordinary state of silence. And
without this
silence, which is complete emptiness, there is no creation. You may be
very
clever in your capacity, but where there is no creation, there is
destruction,
decay, and the mind withers away]. Khi tâm trí trống vắng, im lặng, khi
nó ở
trạng thái hoàn toàn phủ định - mà không là sự trống rỗng, cũng không
là trái
nghĩa của xác định, nhưng là một tình trạng hoàn toàn khác trong đó mọi
ý
nghĩ/tư tưởng chấm dứt/ngưng lại - chỉ khi đó điều không thể gọi tên
mới xuất
hiện.[When the mind is empty, silent, when it is in a state of complete
negation – which is not blankness, not the opposite of being positive,
but a
totally different state in which all thought has ceased – only then is
it
possible for that which is unnamable to come into being.]
*
Từ
Những bài nói chuyện ở Âu
Châu
London, 30 Tháng Chín 1967
Có lẽ
sẽ là điều đáng bỏ ra
một ít thời giờ để thử tìm xem đời sống có chút ý nghiã nào không.
Không phải
là đời sống người ta vẫn sống, bởi vì cuộc sinh tồn hiện đại có rất ít
ý nghĩa
Người ta cho đời sống có ý nghĩa lý trí, một ý nghĩa có tính chất lý
thuyết,
tri thức, thần học, hay thần bí (nếu người ta có thể dùng chữ đó);
người ta cố
gắng tìm ra một ý nghĩa sâu xa – như vài nhà văn đã làm ở giữa sự tuyệt
vọng
trong toàn bộ cuộc sống vô vọng này - chế ra mấy lý do quan trọng, sâu
sắc, có
tri thức. Và hình như đối với tôi điều đáng giá rất nhiều nếu chúng ta
có thể
tìm ra cho chính chúng ta, không bằng xúc cảm, không bằng lý trí, nhưng
bằng
thực tế, bằng sự kiện, xem trong đời sống có điều gì đó thực sự thiêng
liêng
hay không/And it seems to me that it would be very much worthwhile if
we could
find out for ourselves, not emotionally or intellectually, but
actually,
factually, if there is in life anything really sacred. Không phải là
những chế
tác của tâm trí đã cho đời sống một ý nghĩa thần thánh, nhưng thực sự
có một điều
như thế không. Bởi vì người ta quan sát cả hai phương diện, sử học và
thực tế
trong sự tìm kiếm này, trong đời sống người ta vẫn sống – công việc, sự
cạnh
tranh, sự tuyệt vọng, sự cô độc, sư lo lắng, với sự tàn phá của chiến
tranh và
thù hận - tất cả đời sống đó có rất ít ý nghĩa. Chúng ta có thể sống
bảy mươi
năm, mất bốn hay năm muơi năm ở văn phòng, với công việc thường làm
hằng ngày,
sự buồn tẻ và sự cô độc của nó có rất ít ý nghĩa. Nhận thấy điều đó, cả
ở
Phương Đông và ở đây, người ta khi ấy cho một biểu tượng, một ý tưởng,
một
Thượng Đế có ý nghĩa và giá trị - mà rõ ràng chúng là những chế tác của
tâm
trí. Họ đã nói ở Phương Đông rằng sự sống là một: đừng giết hại; Thượng
Đế ở
trong mỗi con người: đừng hủy diệt. Nhưng phút sau họ tiêu diệt nhau,
bằng thực
tế, bằng lời nói, hoặc trong công việc, và vì thế ý tưởng rằng sự sống
là một,
là thiêng liêng có rất ít ý nghĩa.
Cũng
ở Phương Tây, nhận thấy
đời sống thực sự là gì - sự hung bạo, tính gây hấn, sự cạnh tranh tàn
nhẫn mỗi
ngày – nên người ta cho một biểu tượng có ý nghĩa. Những biểu tượng đó
đặt trên
tất cả các tôn giáo được xem như rất thiêng liêng. Nghĩa là, những nhà
thần
học, những tu sĩ, những ông thánh mà họ đã có những kinh nghiệm khác
thường đã
cho đời sống những ý nghĩa và chúng ta bám víu vào những ý nghĩa đó vì
sự tuyệt
vọng, sự cô độc, công việc hàng ngày có rất ít ý nghĩa. Và nếu chúng ta
có thể
dẹp bỏ tất cả biểu tượng, tất cả ảnh tượng, những ý tưởng, và những
niềm tin mà
người ta đã xây dựng qua những thế kỷ và đã cho chúng một ý nghĩa
thiêng liêng,
nếu chính chúng ta có thể thực sự làm vô hiệu tất cả những chế tác
không có
liên quan đó đối với chúng ta thì khi ấy có lẽ chúng ta có thể thực sự
hỏi
chúng ta xem liệu có điều gì đó là thực, là thực sự thần thánh và
thiêng liêng
không. Bởi vì đó là điều con người đã tìm kiếm giữa tất cả sự hỗn loạn,
sự
tuyệt vọng, điều tội lỗi và sự chết này. Con người đã luôn luôn tìm
kiếm trong
những hình thức khác nhau cảm giác này của điều gì đó phải ra ngoài
tính tạm
thời, ra ngoài sự thay đổi liên tục của thời gian. Chúng ta có thể bỏ
ít thời
gian đi vào vấn đề này và thử tìm ra cho chúng ta xem có một điều như
thế
không? – nhưng không là điều gì bạn muốn, không là Thượng Đế, không là
một ý
tưởng, không là một biểu tượng/but not what you want, not God, not an
idea, not
a symbol.. Người ta có thể thực sự gạt bỏ tất cả điều đó để rồi tìm ra
không?
Ngôn
từ chỉ là một phương
tiên liên lạc nhưng ngôn từ không là sự vật/sự việc. Ngôn từ, biểu
tượng không
là thực tế, và khi người ta bị kẹt trong ngôn từ thì rất khó làm mình
thoát
khỏi biểu tượng, ngôn từ, ý tưởng mà thực sự ngăn ngừa sự nhận thức. Dù
người
ta phải dùng ngôn từ, ngôn từ không là sự kiện. Cho nên nếu chúng ta
cũng thấy,
cảnh giác rằng ngôn từ không là sự kiện thì khi ấy chúng ta có thề bắt
đầu đi
rất sâu vào vấn đề. Nghĩa là, do sự lẻ loi và sự tuyệt vọng người ta đã
cho một
ý tưởng, một hình tượng làm ra bằng tay hay bằng tâm trí có sự thiêng
liêng.
Hình tượng trở thành quan trọng khác thường đối với Ki Tô giáo, Ấn Độ
giáo,
Phật Giáo, v.v.v, và họ đã cho ý nghĩa thiêng liêng vào trong ảnh tượng
đó.
Chúng ta có thể dẹp nó – không bằng lời nói, không bằng lý thuyết,
nhưng thực
tế đẩy nó qua bên- hoàn toàn thấy sự vô ích của một hành động như thế
không?
Khi ấy chúng ta bắt đầu hỏi. Nhưng không ai trả lời, bởi vì bất cứ câu
hỏi căn
bản nào chúng ta đặt cho chúng ta thì hoàn toàn không ai có thể trả lời
và ít
nhất bởi chúng ta. Nhưng điều chúng ta có thể làm là đặt câu hỏi và để
nó sôi
âm ỉ - để câu hỏi đó chuyển động. Nhưng người ta phải có khả năng đi
theo câu
hỏi đó xuyên suốt. Đó là điều chúng ta đang hỏi: có chăng, ở ngoài biểu
tượng,
ngôn từ, bất cứ điều gì có thực, đúng, điều gì đó hoàn toàn thiêng
liêng ở
trong nó/Can we brush it aside – not verbally, not theoretically, but
actually
push it aside – completely see the futility of such an activity? Then
we can
begin to ask. But there is no one to answer, because any fundamental
question
that we put to ourselves cannot be answered at all by anyone and at
least of
all by ourselves. But what we can do is to put the question and let the
question simmer, boil – let that question move. And one must have the
capacity
to follow that question right through. That is what we are asking:
whether
there is, beyond the symbol, the word, anything real, true, something
completely holy in itself.
*
Eddington, Pennsylvania,
12
Tháng Sáu 1936
Quan
điểm cuả thuyết cơ giới
về đời sống cho rằng, vì con người chỉ là sản phẩm cuả môi trường/xã
hội và cuả
những phản ứng khác nhau mà chỉ những giác quan mới nhận thức được nên
môi
trường và những phản ứng đó phải được kiểm soát bằng một tổ chức hợp lí
chỉ cho
phép cá nhân hoạt động trong khuôn khổ cuả nó mà thôi. Xin hiểu hết ý
nghiã cuả
quan điểm này. Nó không quan niệm có một thực thể tối cao, tiền nghiệm
nào,
không có sự tiếp nối nào; quan điểm này không chấp nhận có sự sống tiếp
tục ở
bất cứ loài nào sau khi chết; đời sống chỉ là khoảng thời gian ngắn
ngủi dẫn
đến huỷ diệt. Vì con người không là gì khác hơn kết quả cuả những phản
ứng môi
trường, theo đuổi sự an toàn ích kỷ cuả riêng mình, đã góp phần tạo ra
cả mộ hệ
thống bóc lột, sự tàn nhẫn và chiến
tranh. Cho nên hoạt động cuả con người phải được uốn nắn và hướng dẫn
bằng sự
thay đổi và kiểm soát môi trường.
Rồi
có những người chấp nhận
quan điểm rằng con người là thiêng liêng về bản chất, số phận cuả nó
được điều
khiển và hướng dẫn bởi trí lực tối cao nào đó. Họ xác quyết đang kiếm
tìm
Thượng Đế, sự toàn thiện, sự tự do, hạnh phúc, một trạng thái trong đó
mọi sự
xung đột chủ quan/có chủ đích đều đã chấm dứt. Niềm tin của họ vào một
thực thể
tối cao hướng dẫn số phận con người được dưạ trên lời cam kết (Their
belief in
a supreme entity who is guiding man’s destiny is based on faith). Họ
nói thực
thể tiền nghiệm hay trí lực tối cao đã tạo ra thế giới và cái tôi, cá
nhân, là
điều gì đó vĩnh cưủ trong bản thân nó và có phẩm chất bất diệt.
Đôi
khi bạn nghĩ đời sống là
máy móc, và những lúc khác khi đau khổ và bối rối, bạn quay về niềm
tin, trông
chờ quyền lực tối cao hướng dẫn và giúp đỡ. Bạn qua lại giữa những sự
tương
phản, trong khi chỉ bằng sự hiểu biết aỏ tưởng cuả những tương phản đó
bạn mới có
thể tự giải thoát khỏi những giới hạn và những trở ngại./You vacillate
between
the opposites, whereas only through comprehension of the illusion of
the
opposites can you free yourself from their limitations and
encumbrances. Bạn
thường tưởng tượng bạn thoát khỏi chúng, nhưng bạn chỉ có thể thoát
khỏi tận
gốc rễ khi bạn hiểu đày đủ tiến trình xây dựng và chấm dứt những giới
hạn này.
Bạn không thể hiểu điều-có-thực, điều-hiện-là bao lâu diễn tiến/tiến
trình của sự ngu dốt không có bắt đầu này
được tiếp
tục. Khi diễn tiến này, tự xác nhận chấm dứt những sinh hoạt cuả lòng
khao khát
do ý chí cuả mình thì có điều được gọi là thực tại, sự thực, hạnh
phúc/You
often imagine that you are free from them, but you can be radically
free only
when you fully comprehend the process of the building up of these
limitations
and of bringing them to an end. You cannot possibly have the
comprehension of
the real, of what is, as long as this beginningless process of
ignorance is
perpetuated. When this process, sustaining itself through its own
volitional
activities of craving, ceases, there is that which may be called
reality,
truth, bliss.
Từ
Những bài nói chuyện ở Âu
Châu
London, 30 Tháng Chín 1967
Có
lẽ sẽ là điều đáng bỏ ra
một ít thời giờ để thử tìm xem đời sống có chút ý nghiã nào không.
Không phải
là đời sống người ta vẫn sống, bởi vì cuộc sinh tồn hiện đại có rất ít
ý nghiã.
Người ta cho đời sống có ý nghĩa lý trí, một ý nghĩa có tính chất lý
thuyết,
tri thức, thần học, hay thần bí (nếu người ta có thể dùng chữ đó);
người ta cố
gắng tìm ra một ý nghĩa sâu xa – như vài nhà văn đã làm ở giữa sự tuyệt
vọng
trong toàn bộ cuộc sống vô vọng này - chế ra mấy lý do quan trọng, sâu
sắc, có
tri thức. Và hình như đối với tôi điều đáng giá rất nhiều nếu chúng ta
có thể
tìm ra cho chính chúng ta, không bằng xúc cảm, không bằng lý trí, nhưng
bằng
thực tế, bằng sự kiện, xem trong đời sống có điều gì đó thực sự thiêng
liêng
hay không/And it seems to me that it would be very much worthwhile if
we could
find out for ourselves, not emotionally or intellectually, but
actually,
factually, if there is in life anything really sacred. Không phải là
những chế
tác của tâm trí đã cho đời sống một ý nghĩa thần thánh, nhưng thực sự
có một
điều như thế không. Bởi vì người ta quan sát cả hai phương diện, sử học
và thực
tế trong sự tìm kiếm này, trong đời sống người ta vẫn sống – công việc,
sự cạnh
tranh, sự tuyệt vọng, sự cô độc, sư lo lắng, với sự tàn phá của chiến
tranh và
thù hận - tất cả đời sống đó có rất ít ý nghĩa. Chúng ta có thể sống
bảy mươi năm,
mất bốn hay năm muơi năm ở văn phòng, với công việc thường làm hằng
ngày, sự
buồn tẻ và sự cô độc của nó có rất ít ý nghĩa. Nhận thấy điều đó, cả ở
Phương
Đông và ở đây, người ta khi ấy cho một biểu tượng, một ý tưởng, một
Thượng Đế
có ý nghĩa và giá trị - mà rõ ràng chúng là những chế tác của tâm trí.
Họ đã
nói ở Phương Đông rằng sự sống là một: đừng giết hại; Thượng Đế ở trong
mỗi con
người: đừng hủy diệt. Nhưng phút sau họ tiêu diệt nhau, bằng thực tế,
bằng lời
nói, hoặc trong công việc, và vì thế ý tưởng rằng sự sống là một, là
thiêng
liêng có rất ít ý nghĩa.
Cũng
ở Phương Tây, nhận thấy
đời sống thực sự là gì - sự hug bạo, tính gây hấn, sự cạnh tranh tàn
nhẫn mỗi
ngày – nên người ta cho một biểu tượng có ý nghĩa. Những biểu tượng đó
đặt trên
tất cả các tôn giáo được xem như rất thiêng liêng. Nghĩa là, những nhà
thần
học, những tu sĩ, những ông thánh mà họ đã có những kinh nghiệm khác
thường đã
cho đời sống những ý nghĩa và chúng ta bám víu vào những ý nghĩa đó vì
sự tuyệt
vọng, sự cô độc, công việc hàng ngày có rất ít ý nghĩa. Và nếu chúng ta
có thể
dẹp bỏ tất cả biểu tượng, tất cả ảnh tượng, những ý tưởng, và những
niềm tin mà
người ta đã xây dựng qua những thế kỷ và đã cho chúng một ý nghĩa
thiêng liêng,
nếu chính chúng ta có thể thực sự lảm vô hiệu tất cả những chế tác
không có
liên quan đó đối với chúng ta thì khi ấy có lẽ chúng ta có thể thực sự
hỏi
chúng ta xem liệu có điều gì đó là thực, là thực sự thần thánh và
thiêng liêng
không. Bởi vì đó là điều con người đã tìm kiếm giữa tất cả sự hỗn loạn,
sự
tuyệt vọng, điều tội lỗi và sự chết này. Con người đã luôn luôn tìm
kiếm trong
những hình thức khác nhau cảm giác này của điều gì đó phải ra ngoài
tính tạm
thời, ra ngoài sự thay đổi liên tục của thời gian. Chúng ta có thể bỏ
ít thời
gian đi vào vấn đề này và thử tìm ra cho chúng ta xem có một điều như
thế
không? – nhưng không là điều gì bạn muốn, không là Thượng Đế, không là
một ý
tưởng, không là một biểu tượng/but not what you want, not God, not an
idea, not
a symbol.. Người ta có thể thực sự gạt bỏ tất cả điều đó để rồi tìm ra
không?
Ngôn
từ chỉ là một phương
tiên liên lạc nhưng ngôn từ không là sự vật/sự việc. Ngôn từ, biểu
tượng không
là thực tế, và khi người ta bị kẹt trong ngôn từ thì rất khó làm mình
thoát
khỏi biểu tượng, ngôn từ, ý tưởng mà thực sự ngăn ngừa sự nhận thức. Dù
người
ta phải dùng ngôn từ, ngôn từ không là sự kiện. Cho nên nếu chúng ta
cũng thấy,
cảnh giác rằng ngôn từ không là sự kiện thì khi ấy chúng ta có thề bắt
đầu đi
rất sâu vào vấn đề. Nghĩa là, do sự lẻ loi và sự tuyệt vọng người ta đã
cho một
ý tưởng, một hình tượng làm ra bằng tay hay bằng tâm trí có sự thiêng
liêng.
Hình tượng trở thành quan trọng khác thường đối với Ki Tô giáo, Ấn Độ
giáo,
Phật Giáo, v.v.v, và họ đã cho ý nghĩa thiêng liêng vào trong ảnh tượng
đó.
Chúng ta có thể dẹp nó – không bằng lời nói, không bằng lý thuyết,
nhưng thực
tế đẩy nó qua bên- hoàn toàn thấy sự vô ích của một hành động như thế
không?
Khi ấy chúng ta bắt đầu hỏi. Nhưng không ai trả lời, bởi vì bất cứ câu
hỏi căn
bản nào chúng ta đặt cho chúng ta thì hoàn toàn không ai có thể trả lời
và ít
nhất bởi chúng ta. Nhưng điều chúng ta có thể làm là đặt câu hỏi và để
nó sôi
âm ỉ - để câu hỏi đó chuyển động. Nhưng người ta phải có khả năng đi
theo câu
hỏi đó xuyên suốt. Đó là điều chúng ta đang hỏi: có chăng, ở ngoài biểu
tượng,
ngôn từ, bất cứ điều gì có thực, đúng, điều gì đó hoàn toàn thiêng
liêng ở
trong nó/Can we brush it aside – not verbally, not theoretically, but
actually
push it aside – completely see the futility of such an activity? Then
we can
begin to ask. But there is no one to answer, because any fundamental
question
that we put to ourselves cannot be answered at all by anyone and at
least of
all by ourselves. But what we can do is to put the question and let the
question simmer, boil – let that question move. And one must have the
capacity
to follow that question right through. That is what we are asking:
whether
there is, beyond the symbol, the word, anything real, true, something
completely holy in itself.
Từ Tự Do Đầu Tiên và Cuối Cùng, Chương 28
Người
hỏi/NH:Tâm trí chúng ta
chỉ biết điều-đã-biết. Điều gì trong chúng ta thúc giục tìm kiếm
điều-không-biết, chân lí, Thượng Đế?
Krishnamurti:
Tâm trí bạn có
thúc giục hướng về điều-không biết không? Trong chúng ta có sự hối thúc
tìm biết
điều-không-biết, chân lí, Thượng Đế không? Xin hãy suy nghĩ kỹ điều đó
một cách
nghiêm chỉnh. Đây không phải là một câu hỏi thuộc về tu từ học; chúng
ta hãy
thực tế tìm ra. Trong mỗi chúng ta có sự thôi thúc ở nội tâm tìm kiếm
điều-không-biết không? Có không? Làm thế nào bạn tìm thấy
điều-không-biết? Nếu
bạn không biết nó, làm thế nào bạn có thể tìm thấy nó? Có sự thôi thúc
tìm biết
chân lý hay nó chỉ là ham muốn mở rộng kiến thức (điều-đã-biết)? Bạn
hiểu ý tôi
muốn nói gì chứ?Tôi đã biết nhiều điều; chúng không làm tôi hạnh phúc,
mãn
nguyện, hài lòng.Vì thế bây giờ tôi muốn điều gì khác sẽ làm tôi vui vẻ
hơn,
hạnh phúc hơn, sống động hơn - điều gì tùy ý bạn. Điều-đã-biết, nó là
tâm trí
tôi - bởi vì tâm trí tôi là điều-đã-biết, kết qủa của qúa khứ - liệu
tâm trí đó
có thể kiếm tìm điều-không-biết chăng? Chắc chắn nó phải tới, tôi không
thể
chiếm đoạt nó. Nếu tôi làm thế là tôi sẽ chiếm đoạt điêu-đã-biết do tôi
phóng
chiếu/Surely it must come, I cannot go after it. If I go after it, I am
going
after something that is the known, projected by me.
Vấn
đề của chúng ta không
phải là điều gì trong chúng ta thúc đẩy tìm kiếm điều-không-biết. Điều
đó đủ
rõ; nó chính là chúng ta muốn được an toàn hơn, thường xuyên hơn, chắc
chắn
hơn, hạnh phúc hơn; muốn thoát khỏi sự bất an, sự đau khổ, sự bối
rối/it is our
own desire to be more secure, more permanent, more established, more
happy; to
escape from turmoil, from pain, confusion . Đó rõ ràng là điều sui
khiến chúng
ta. Khi có sự sui khiến, thôi thúc đó, bạn sẽ tìm lối thoát, một nơi
trú ẩn
tuyệt vời – nơi Phật, nơi Chúa, hay nơi những khẩu hiệu chính trị và
tất cả
những điều còn lại khác có thể kể ra. Đó không lả chân lý; đó không là
điều-không-thể-biết, điều-không-biết. Do đó sự thôi thúc về
điều-không-biết
phải chấm dứt, sự tìm kiếm điều-không-biết phải ngưng lại, có nghĩa
phải hiểu
sự tích lũy điều-đã-biết (kiến thức), tức tâm trí/which means there
must be
understanding of the cumulative known, which is the mind. Tâm trí phải
hiểu
chính nó lả điều-đã-biết, bởi vì tất cả những gì nó biết là vậy. Bạn
không thể
nghĩ về điều gì bạn không biết. Bạn chỉ có thể nghĩ về điều bạn biết.
Khó
khăn của chúng ta là
không để tâm trí tiếp diễn trong điều-đã-biết/Our difficulty is for the
mind
not to proceed in the known; nó chỉ có thể xảy ra khi tâm trí hiểu
chính nó và
cách thức mọi chuyển động của nó từ qúa khứ, tự phóng chiếu qua hiện
tại tới
tương lai diễn tiến như thế nào. Nó là một chuyển động tiếp nối của
điều-đã-biết. Chuyển động đó có thể chấm dứt không? Nó chỉ có thể kết
thúc khi
người ta hiểu cơ cấu diễn tiến của nó, chỉ khi tâm trí hiểu chính nó,
sự vận
hành, cách thức, mục đích, mục tiêu, yêu cầu của nó – không chỉ những
yêu cầu
trên bề mặt mà còn những thôi thúc, những động lực ở sâu trong nội tâm.
Đây là
một việc làm hết sức gay go. Không thể chỉ trong một buổi họp mặt hay
một buổi
nói chuyện hay đọc một cuốn sách mà bạn sẽ tìm ra. Trái lại, nó cần
theo dõi,
nhận thức liên tục mọi chuyển động của suy nghĩ, không chỉ khi bạn thức
nhưng
cả khi bạn ngủ nữa. Nó phải là một diễn tiến toàn diện, không là một
diễn tiện
rời rạc, không thường xuyên, từng phần/On the contrary, it needs
constant
watchfulness, constant awareness of every movement of thought, not only
when
you are awake, but also when you are asleep. It must be a total
process, not a
sporadic, partial process.
Ý
định cũng phải đúng. Nghĩa
là, phải ngưng điều mê tín ở trong tâm tất cả chúng ta, là sự mong muốn
điều-không-biết. Nghĩ rằng tất cả chúng ta đều tìm kiếm Thượng Đế thì
đó là một
ảo tưởng; chúng ta không vậy. Chúng ta không phải tìm kiếm ánh sáng. Sẽ
có ánh
sáng khi không có bóng tối, và qua bóng tối chúng ta không thể thấy ánh
sáng.
Tất cả những gì chúng ta có thể làm là di dời những rào cản tạo ra bóng
tối, và
sự di dời đó tùy thuộc ý định. Nếu bạn di dời chúng để thấy ánh sáng
thì khi đó
bạn không di dời gì cả, bạn chỉ thay thế chữ ánh sáng bằng bóng tối.
Còn nhìn
xa hơn bóng tối là chạy trốn bóng tối/Even to look beyond the darkness
is an
escape from darkness.
Chúng
ta không phải xem xét
điều gì đang thúc đẩy chúng ta, nhưng phài xem xét tại sao trong chúng
ta có sự
bối rối, sự bất an, sự cố gắng và sự đối kháng như thế - tất cả những
điều ngốc
nghếch trong cuộc sống của chúng ta. Khi những điều này không tồn tại
thì khi
ấy có ánh sáng, chúng ta không phải tìm nó. Khi sự ngu dốt biến đi thì
có trí
tuệ. Nhưng người ngu dốt cố gắng để có trí tuệ thì vẫn ngu dốt. Sự ngu
dốt
không bao giờ có thể làm thành sự khôn ngoan, thông thái; chỉ khi sự
ngu dốt
chấm dứt thì mới có sự khôn ngoan, trí tuệ. Người ngu dốt cố gắng trở
thành
thông minh, khôn ngoan thì rõ ràng không bao giờ được như vậy. Để biết
sự ngu
dốt là gỉ, người ta phải xem xét nó, không ở bề mặt, nhưng trọn vẹn,
đầy đủ,
thâm sâu; người ta phải đi sâu vào tất cả những tầng lớp khác nhau của
sự ngu
dốt, và khi sự ngu dốt chấm dứt thì có sự khôn ngoan/and when there is
the
cessation of that stupidity, there is wisdom.
Do
đó điều quan trọng không
phải là tìm ra có hay không có điều gì khác hơn, điều gì vĩ đại hơn
điều-đã-biết, thúc giục chúng ta tìm kiếm điều-không-biết, nhưng là để
thấy
trong chúng ta điều gì tạo ra sự rối loạn, chiến tranh, phân biệt giai
cấp, đua
đòi, theo đuổi tiếng tăm, tích lũy kiến thức, thoát ly qua âm nhạc, qua
nghệ
thuật, qua rất nhiều phương cách. Quan trọng, chắc chắn là thấy chúng
như chúng
hiện là và trở lại chúng ta như chúng ta hiện là/It is important,
surely, to
see them as they are and to come back to ourselves as we are. Từ đó
chúng ta có
thể tiếp tục. Khi đó vứt bỏ điều-đã-biết là tương đối dễ. Khi tâm trí
im lặng,
khi nó không còn tự phóng chiếu vào tương lai, mong muốn điều gì đó,
khi tâm
trí thực sự yên tĩnh, an bình sâu lắng thì điều-không-biết xuất hiện.
Bạn không
phải tìm kiếm nó. Bạn không thể mời gọi nó/When the mind is silent,
when it is
no longer projecting itself into the future, wishing for something,
when the
mind is really quiet, profoundly peaceful, the unknown comes into
being. Điều
bạn có thể mời gọi chỉ có thể là điều bạn biết. Bạn không thể mời một
người
khách không quen biết. Bạn chỉ có thể mời người bạn biết. Nhưng bạn
không biết
điều-không-biết, Thượng Đế, chân lý, hoặc tên gọi gì khác theo ý bạn.
Điều đó
phải đến. Nó chỉ có thể đến khi đồng ruộng thích đáng, khi đất đã được
cày bừa,
nhưng nếu bạn cày để cho nó đến thì bạn sẽ không có nó.
Vấn
đề của chúng ta không
phải là tìm kiếm điều-không-thể-biết bằng cách nào, nhưng là hiểu những
diễn
tiến tích lũy của tâm trí mà nó vốn là điều-đã-biết. Đó là một việc khó
khăn;
nó đòi hỏi sự chú ý, nhận thức bền bỉ trong đó không có cảm giác sao
lãng, nhận
diện, phê phán; nó đang xuất hiện như nó vốn là thế. Chỉ khi đó tâm trí
mới có
thể tĩnh lặng. Trầm tư, kỷ luật không thể làm tâm trí tĩnh lặng chút
nào –
trong ý nghĩa đích thực của chữ đó. Chỉ khi những làn gió ngưng thổi
thì mặt hồ
mới êm. Bạn không thể làm cho mặt hồ êm. Việc của chúng ta không là
theo đuổi điều-không-thể-biết,
nhưng là hiểu sự rối loạn, sự bất an, sự bất hạnh trong chính chúng ta.
Và rồi
điều đó âm thầm tới, có niềm hoan lạc trong nó/And then that thing
darkly comes
into being in which there is joy.
Từ Đời sống phía trước,
Chương 4 (Trang 23)
Người
hỏi/NH: Thượng Đế là
gì?
Krishnamurti:
Bằng cách nào
bạn sẽ tìm ra câu trả lời? Bạn sẽ chấp nhận thông tin của người nào
khác chứ?
Hay tự bạn cố gắng khám phá Thượng Đế là gi? Đặt câu hỏi thì dễ nhưng
trải qua
sự thật thì cần rất nhiều công sức trí tuệ và rất nhiều sự tra vấn và
tìm
kiếm/to experience the truth requires a great deal of intelligence, a
great
deal of inquiry and search.
Vì
thế câu hỏi đầu tiên là:
Bạn sẽ chấp nhận điều một người khác nói về Thượng Đế chứ? Không thành
vấn đề
người đó là ai, Krishna, Phật hay Chúa, bởi vì tất cả họ đều có thể
nhầm lẫn –
và đạo sư của bạn cũng thế.Chắc chắn, để tìm thấy sự thật, tâm trí bạn
phải tự
do tra hỏi, tìm hiểu, nghĩa là nó không thể chỉ chấp nhận hay tin
tưởng/Surely,
to find out what is true, your mind must be free to inquire, which
means that
it cannot merely accept or believe. Tôi có thể mô tả về sự thật cho
bạn, nhưng
nó sẽ không giống như điều chính bạn trải qua. Tất cả các kinh sách đều
mô tả
Thượng Đế là gì, nhưng những mô tả đó không là Thượng Đế. Chữ Thượng Đế
không
là Thượng Đế, phải không?
Để
tìm thấy sự thật là gì bạn
phải không bao giờ chấp nhận, không bao giờ bị ảnh hưởng bởi những kinh
sách,
những vị thày, hoặc bởi lời nói của bất cứ ai. Nếu bạn bị họ ảnh hưởng,
bạn sẽ
chỉ tìm thấy điều họ muốn bạn tìm thấy mà thôi. Và bạn phải biết rằng
tâm trí
bạn có thể tạo ra hình ảnh của điều bạn muốn; nó có thể tưởng tượng
Thượng Đế
có râu, hoặc có một mắt; nó có thể làm Ông ấy có màu xanh hay màu tím.
Vì thế
bạn phải biết những ham muốn của bạn và đừng để bị lừa bởi những phóng
chiếu
của những nhu cầu và những ao ước của chính bạn. Nếu bạn ao ước thấy
Thượng Đế
trong hình thức nào đó thì hình ảnh bạn thấy sẽ tùy theo những mong cầu
của
bạn, và hình ảnh đó sẽ không là Thượng Đế, phải vậy không?Nếu bạn đau
khổ và
muốn được an ủi, hoặc nếu bạn đa cảm và ảo tưởng trong những khát vọng
tôn giáo
của bạn, cuối cùng bạn sẽ tạo ra một Thượng Đế sẽ cho bạn điều bạn
muốn, nhưng
nó vẫn sẽ không là Thượng Đế /To find out what is true you must never
accept,
you must never be influenced by the books, the teachers, or anyone else
may
say. If you are influenced by them, you will find only what they want
you to
find. And you must know that your mind can create the image of what it
wants;
it can imagine God with a beard, or with one eye; it can make Him blue
or
purple. So you have to be aware of your own desires and not to be
deceived by
the projections of your own wants and longings. If you long to see God
in a
certain form, the image you see will be according to your wishes, and
that
image will not be God, will it? If you are in sorrow and want to be
comforted,
or if you feel sentimental and romantic in your religious aspirations,
eventually you will create a God who will supply what you want, but it
will not
be God.
Cho
nên tâm trí bạn phải hoàn
toàn tự do, và chỉ khi đó bạn mới có thể tìm thấy sự thật là gì/So your
mind
must be completely free, and only then can you find out what is true –
không
bằng chấp nhận điều dị đoan nào đó, cũng không bằng đọc những gì được
gọi là
sách thánh, cũng không bằng theo đạo sư nào đó. Chỉ khi có sự tự do
này, sự tự
do đích thực này thoát khỏi những ảnh hưởng từ bên ngoài cũng như thoát
khỏi
những ham muốn và ước ao của chính bạn để tâm trí được hoàn toàn thuần
khiết -
chỉ khi đó mới có thể tìm thấy Thượng Đế là gì. Nhưng nếu bạn chỉ ngồi
và suy
đoán thì sự suy đoán khi ấycủa bạn cũng chỉ bằng cỡ và hão huyền ngang
với đạo
sư của bạn mà thôi.
NH:
Chúng ta có thể biết
những ham muốn vô-thức của chúng ta không?
K:
Trước hết, bạn có biết
những ham muốn có-ý-thức của bạn không? Bạn có biết ham muốn là gì
không? Bạn
có biết rằng bạn thường không lắng nghe bất cứ ai nói điều gì đó trái
với điều
bạn tin không? Ham muốn của bạn ngăn cản bạn lắng nghe. Nếu bạn muốn
cóThượng
Đế, và người nào đó chỉ ra rằng Thượng Đế mà bạn mong muốn chỉ là hậu
qủa do
những nỗi thất vọng và sợ hãi của bạn gây ra, thì bạn có sẽ nghe không?
Tất
nhiên không. Bạn muốn một điều, và sự thật là điều gì đó hoàn toàn
khác. Bạn tự
giới hạn mình trong những ham muốn của chính bạn. Bạn chỉ biết một nửa
những
ham muốn có-ý-thức (conscious) của bạn thôi, phải không? Và biết những
ham muốn
ẩn dấu dưới sâu thì khó khăn hơn nhiều. Để tìm thấy điều ẩn dấu, để
khám phá
những động lực của chúng là gì, tâm trí đang tìm kiếm phải hoàn toàn
thuần
khiết và tự do. Cho nên trước hết hãy biết hết những ham muốncó-ý-thức;
rồi,
khi bạn biết những gì ở bề mặt nhiều hơn lên thì bạn có thể càng ngày
càng đi
sâu hơn/So first be fully of your conscious desires; then, as you
become
increasingly aware of what is on the surface, you can go deeper and
deeper.
Từ
Đời Sống Phía Trước,
Chương 7, với Người Trẻ (trang 25)
NH:
Cách nào dễ nhất để tìm
thấy Thượng Đế?
K:
Tôi sợ rằng không có cách
dễ dàng nào, bởi vì tìm thấy Thượng Đế là một điều khó khăn nhất, cực
nhọc
nhất. Điều chúng ta gọi là Thượng Đế không phải là điều tâm trí tạo ra
sao? Bạn
biết tâm trí là gì. Tâm trí là kết qủa của thời gian, và nó có thể tạo
ra bất
cứ điều gì, bất cứ ảo tưởng, ảo ảnh nào/The mind is the result of time,
and it
can create anything, any illusion. Nó có khả năng tạo ra những ý tưởng,
tự
phóng chiếu trong những điều võ đoán, trong sự tưởng tượng; nó liên tục
tích
lũy, vứt bỏ, lựa chọn. Thành kiến, hẹp hòi, hạn chế, tâm trí có thể
hình dung
Thượng Đế, nó có thể tưởng tượng Thượng Đế là gì tùy theo những giới
hạn của
nó. Bởi vì những vị thày, những nhà tu nào đó, và những người được gọi
là những
vị cứu tinh đã nói rằng có Thượng Đế và mô tả, nên tâm trí có thể tưởng
tượng
Thượng Đế trong những điều kiện, những lời lẽ đó, nhưng hình ảnh ấy
không là
Thượng Đế. Thượng Đế là điều gì đó không thể tìm thấy bằng tâm trí/God
is
something that cannot be found by the mind.
Để
biết Thượng Đế, trước hết
bạn phải biết tâm trí của chính bạn/To understand God, you must first
understand your own mind. Đó là điều rất khó khăn. Tâm trí rất phức
tạp, và
biết nó thì không dễ. Nhưng ngồi xuống xem xét vài loại giấc mơ, thấy
những
hình ảnh và có những ảo tưởng khác nhau, và rồi nghĩ rằng bạn đang ở
rất gần
Thượng Đế thì không mấy khó. Tâm trí có thể hết sức lừa dối chính nó.
Vì thế để
thực sự trải nghiệm điều có thể được gọi là Thượng Đế, bạn phải hoàn
toàn yên
tĩnh – và bạn đã không thấy điều đó vô cùng khó khăn thế nào sao?So to
really
experience that which may be called God, you must be completely quiet –
and
have you not found out how extremely difficult that is?Bạn đã không nhận thấy ngay cả những người già không bao
giờ ngồi yên, họ bồn chồn, họ ngọ nguậy những ngón chân và cử động bàn
tay như
thế nào sao? Thân xác khó ngồi yên, và để tâm trí tĩnh lặng thì còn khó
khăn
hơn biết chừng nào! Bạn có thể theo mấy đạo sư và buộc tâm trí bạn yên
lặng;
nhưng tâm trí bạn không thực sự yên lặng. Nó vẫn không ngừng nghỉ,
giống một
đứa bé bị buộc đứng trong một góc. Cho tâm trí hoàn toàn im lặng mà
không có sự
ép buộc là một nghệ thuật tuyệt vời,và chỉ khi đó mới có thể trải
nghiệm điều
có thể được gọi là Thượng Đế/It ìs a great art for the mind to be
completely silent
without coercion, and only then is there a possibility of experiencing
that
which may be called God.
NH:
Thượng Đế có ở mọi nơi
không?
K:
Bạn có thực quan tâm tìm
ra điều đó không? Bạn đặt câu hỏi, và rồi bạn kém nồng nhiệt; bạn không
lắng
nghe. Bạn đã thấy những người già hầu như không bao giờ lắng nghe bạn
thế nào
không? Họ hiếm khi nghe bạn bởi vì họ bị vây hãm trong những suy nghĩ,
những
xúc cảm, những điều toại ý và những nỗi buồn của chính họ.Tôi hy vọng
bạn đã
nhận thấy điều này. Nếu bạn biết cách quan sát và lắng nghe, thực sự
lắng nghe
thì bạn sẽ tìm thấy nhiều điều, không chỉ về con người mà còn về thế
giới
nữa/If you know how to observe and how to listen, really listen, you
will find
out a lot of things, not only about people but about the world.
Ở
đây cậu bé này hỏi Thượng
Đế có ở mọi nơi không. Cậu khá trẻ để có câu hỏi đó. Cậu không biết
điều đó
thực sự có nghĩa gì. Có lẽ cậu có một ý niệm mơ hồ về một điều gì đó -
cảm nhận
vẻ đẹp, thấy chim bay trên trời, thấy nước chảy, thấy một khuôn mặt
tươi cười,
thấy một chiếc lá nhảy múa trong gió, thấy một người đàn bà mang vác
nặng. Và
có sự giận dữ, sự ồn ào, nỗi buồn - tất cả đang có trong không gian. Vì
thế tự
nhiên cậu quan tâm và khao khát tìm xem đời sống là gì qua tất cả những
điều
đó. Cậu nghe những người lớn tuổi nói về Thượng Đế, và cậu bị rối trí.
Một câu
hỏi như thế đối với cậu là rất quan trọng, phải không? Và cũng rất quan
trọng
cho tất cả các bạn tìm câu trả lời; bởi vì, như tôi đã nói ngày hôm
trước, bạn
sẽ bắt đầu hiểu ý nghĩa của tất cả điều này ở nội tâm, một cách vô
thức, ở dưới
sâu; và rồi khi bạn lớn lên, bạn sẽ có những dấu hiệu của những điều
khác ngoài
cái thế giới đấu tranh đáng sợ này/you will begin to catch the meaning
of all
this inwardly, unconsciously, deep down; and then, as you grow up, you
will
have hints of other things besides this ugly world of strugle. Thế giới
đẹp đẽ,
trái đất trù phú, nhưng chúng ta làm hư, phá hủy nó.
NH:
Mục đích thực sự của đời
sống là gì?
K:
Nó là, trước hết, những gì
bạn tạo ra nó. Nó là những gì bạn làm thành đời sống/It is, first of
all, what
you make of it. It is what you make of life.
NH:
Nói về sự thật/chân lí,
nó phải là điều gì đó khác hơn. Tôi không đặc biệt quan tâm có một mục
đích cá
nhân, nhưng tôi muốn biết mục đích chung cho mọi người là gỉ.
K:
Cách nào bạn sẽ tìm thấy
điều đó? Ai sẽ chỉ cho bạn? Bạn có thể tìm thấy bằng đọc sách không?
Nếu bạn
đọc, tác giả này có thể cho bạn một phương pháp, trong khi một tác giả
khác lại
cống hiến một phương pháp hoàn toàn khác. Nếu bạn tới một người đang
đau khổ,
người ấy sẽ nói mục đích của đời sống là được hạnh phúc. Nếu bạn tới
một người
đang đói, đã không đủ ăn trong nhiều năm thì mục đích của người đó là
được no
bụng. Nếu bạn tới một chính trị gia, mục đích của ông ta là trở thành
một trong
những giám đốc, một trong những người lãnh đạo thế giới. Nếu bạn hỏi
một bà, bà
ấy sẽ nói, ‘Mục đích của tôi là sinh một đứa con’. Nếu bạn tới một nhà
tu hành
khất thực Ấn Độ, mục đích của ông ấy là tìm thấy Thượng Đế. Mục đích,
ham muốn
mạnh mẽ của con người thường thường là tìm ra điều gì đó mãn nguyện, an
ủi; họ
muốn hình thức an ninh, an toàn nào đấy để không có những điều nghi
ngờ, không
có những thắc mắc, không lo lắng, không sợ hãi. Đa số chúng ta muốn
điều gì đó
vững bền để có thể bám vào nó.
Vì thế
mục đích chung của đời
sống cho con người là loại hy vọng, loại an toàn, loại vĩnh cửu nào đó.
Đừng
nói,‘Đó là tất cả sao? Đó là sự kiện trước mắt, và bạn phải hoàn toàn
làm quen
với nó trước hết. Bạn phải hỏi tất cả điều đó - nghiả là bạn phải tự
hỏi bạn.
Mục đích chung của đời sống cho con người nằm trong bạn, bởi vì bạn là
thành
phần của toàn thề. Chính bạn muốn sự an toản, sự vĩnh cửu, hạnh phúc ;
bạn muốn
điều gì đó để bám vào.
Vậy thì
để tìm thấy có điều
gì khác ngoài nó ra không, sự thật nào đó không là của tâm trí, thì tất
cả ảo
ảnh, ảo tưởng của tâm trí phải chấm dứt; nghĩa là, bạn phải hiểu biết
và dẹp
chúng qua bên. Chỉ khi đó bạn mới có thể khám phá điều có thực, hoặc có
một mục
đích hay không. Quy định rằng phải có một mục đích, hay tin tưởng rẳng
có một
mục đích, chỉ là một ảo tưởng khác. Nhưng nếu bạn có thể nghiên cứu tất
cả
những mâu thuẫn, những cố gắng, những nỗi đau, những hư danh, những
tham vọng,
những hi vọng, những sự sợ hãi, và xem xét chúng tỉ mỉ, đi ra ngoài và
trên
chúng thì rồi bạn sẽ tìm thấy/But if you can question all your
conflicts,
struggles, pains, vanities, ambitions, hopes, fears, and go through
them, go
beyond and above them, then you will find out.
NH: Nếu
tôi ngày càng phát
huy những ảnh hưởng cao hơn thì sau cùng tôi có sẽ thấy điều tối cao
không?
K: Cách
nào bạn có thể thấy
điều tối cao bao lâu còn có nhiều rào cản giữa bạn và điều đó? Trước
hết bạn
phải di dời những rào cản. Bạn không thể ngồi trong môt phòng đóng kín
và biết
không khí trong lành như thế nào. Để có không khí tươi mát bạn phải mở
các cửa
sổ. Tương tự, bạn phải thấy tất cả những ngăn trở, tất cả những hạn chế
và
những tác động của hoàn cảnh ở trong bạn; bạn phải hiểu và dẹp bỏ
chúng. Khi đó
bạn sẽ tìm thấy. Nhưng ngồi ở phiá bên này và cố gắng tìm thấy đìều gì
ờ phiá
bên kia thì không có ý nghĩa.
Từ Những Chú Giải Về Cuộc
Sống
Đợt đầu tiên,
Chương 18
Bóng
chiều đổ dài trên mặt
nước êm ả, và con sông trở nên im vắng sau một ngày. Cá nhảy khỏi mặt
nước, và
những con chim nặng nề bay về ngủ giữa đám cây to. Bầu trời không mây,
màu xanh
bạc. Một chiếc thuyền chở đầy người trôi suôi giòng nước; họ vừa hát
vừa vỗ
tay, và một con bò gọi đàn ở xa xa. Có hương thơm của buổi chiều. Một
vòng hoa
cúc vạn thọ trôi theo giòng lấp lánh trong nắng chiều. Tất cả thật đẹp
và sống
động biết bao – giòng sông, đàn chim, rừng cây, những dân làng.
Chúng
tôi đang ngồi dưới một
gốc cây, nhìn qua con sông. Gần đấy là một ngôi đền nhỏ, và mấy con bò
gầy ốm
đang lang thang, quanh quẩn. Ngôi đền sạch sẽ và được quét dọn kỹ
lưỡng; khóm
hoa được tưới nước và chăm sóc. Một người đang hành lễ buổi chiều,
giọng kiên
nhẫn và buồn. Dưới những tia nắng cuối cùng, mặt nước là màu của những
bông hoa
mới sinh. Chẳng mấy chốc có người nhập bọn với chúng tôi và bắt đầu nói
chuyện
về những kinh nghiệm của người ấy. Ông nói đã tận tụy nhiều năm của đời
sống
mình để tìm Thượng Đế, đã thực hành nhiều điều khổ hạnh và từ bỏ nhiều
điều
thiết thân. Ông cũng giúp ích đáng kể với những công tác xã hội, xây
dựng một
trường học vvv và vvv. Ông quan tâm nhiều điều, nhưng mối quan tâm nổi
trội là
tìm kiếm Thượng Đế, và bây giờ, sau nhiều năm, tiếng nói của Ngài đang
được
nghe thấy, và nó đã hướng dẫn ông trong những việc nhỏ cũng như lớn.
Ông không
có ý riêng, nhưng theo tiếng nói của Thượng Đế ở bên trong. Tiếng nói
ấy đã
không bao giờ quên ông, tuy ông đã thường làm hư sự trong sáng của nó,
đã từng
cẩu nguyện cho sự thanh sạch trong huyết quản, điều lẽ ra ông đã đáng
được nhận
lãnh.
Điều
không thể đo lường đó
bạn và tôi có thể tìm thấy không? Liệu điều thuộc về thời gian lại có
thể được
tìm thấy bởi điều do thời gian tạo ra sao? Thực hành siêng năng một kỷ
luật có
thể dẫn chúng ta tới điều-không-biết chăng? Có một phương tiện đi tới
điều-không-bắt-đầu và không-kết-thúc chăng? Chân lý đó có thể nắm bắt
được
trong lưới dục vọng của chúng ta không? Điều chúng ta có thể giành được
là sự
phóng chiếu của điều-đã-biết; nhưng điều-không-biết thì không thể nắm
bắt bằng
điều-đã-biết. Điều-gọi-tên-được thì không là điều-không-thể-gọi-tên; và
bằng sự
gọi tên, chúng ta chỉ đánh thức những phản ứng đã bị điều kiện hóa/bị
tác động
của hoàn cảnh, môi trường. Những phản ứng này, dù cao qúy, đẹp đẽ thế
nào vẫn
không là sự thật. Chúng ta đáp lại theo sự kích thích, nhưng chân lý
không biểu
lộ sự kích thích nào. Nó hiện sinh/Nó vốn tồn tại/It is.
Tâm trí
chuyển động từ
điều-đã-biết tới điều-đã-biết, và nó không thể với ra ngoài tới
điều-không-biết/The mind moves from the known to the known, and it
cannot reach
out into the unknown. Bạn không thể suy nghĩ đến điều gì đó bạn không
biết; nó
là điều không thể có được. Bạn suy nghĩ về điều thuôc về điều-đã-biết,
qúa khứ,
hoặc đã xa, hoặc mới qua một giây. Quá khứ này là suy nghĩ, do nhiều
ảnh hưởng
tác động và hình thành, tự biến đổi theo hoàn cảnh và sức ép nhưng bao
giờ cũng
ở trong diễn biến của thời gian. Suy nghĩ chỉ có thể phủ nhận hay xác
nhận, nó
không thể khám phá hay tìm ra điều mới. Suy nghĩ không thể bắt gặp điều
mới,
nhưng khi suy nghĩ im lặng, khi đó có thể có điều mới – mà nó liền bị
suy nghĩ
chuyển thành điều cũ, điều đã được kinh nghiệm. Suy nghĩ mãi mãi hình
thành,
biến đổi, tô màu tùy theo khuôn mẫu của kinh nghiệm/Thought can only
deny or
assert, it cannot discover or search out the new. Thought cannot come
upon the
new, but when thought is silent, then there may be the new – which is
immediately transformed into the old, into the experienced, by thought.
Thought
is ever shaping, modifying, colouring according to a pattern of
experience.
Chức năng của suy nghĩ là thông tri nhưng không ở trạng thái trải
nghiệm. Khi
trải nghiệm ngưng thì suy nghĩ thay thế và xếp nó vào danh mục
điều-đã-biết/The
function of thought is to communicate but not to be in the state of
experiencing. When experiencing ceases, then thought takes over and
terms it
within the category of the known. Suy nghĩ không thể đi sâu vào
điều-không-biết, và vì vậy nó không bao giờ có thể khám phá hoặc trải
nghiệm
chân lý/Thought cannot penetrate into the unknown, and so it can never
discover
or experience reality.
Kỷ
luật, sự hy sinh, sự quên
mình, sự gắn bó, lễ nghi, thực hành đạo đức - tất cả những điều này, dù
cao qúy
thế nào, vẫn là diễn tiến của suy nghĩ; và suy nghĩ chỉ có thể hướng về
một mục
đích, về một sự thành tựu mà mãi mãi là điều-đã-biết. Thành tựu là sự
an thân,
sự chắc chắn tự-bảo-vệ của điều-đã-biết. Tìm kiếm sự an thân trong
điều-không-tên đó là phủ nhận nó/To seek security in that which is
mameless is
to deny it. Sự an thân có thể được tìm thấy chỉ có trong sự phóng chiếu
của qúa
khứ, của điều-đã-biết. Vì lý do này tâm trí phải im lặng hoàn toàn và
sâu lắng;
nhưng sự im lặng này không thể có được qua sự hy sinh, sự lý tưởng hoá,
hay sự
đè nén. Sự im lặng này đến khi tâm trí không tìm kiếm nữa, không còn
vướng mắc
trong tiến trình của sự-trở-thành nữa/This silence comes when the mind
is no
longer seeking , no longer caught in the process of becoming. Sự im
lặng này
không do tích lũy, không thể được bồi đắp qua thực hành. Sự im lặng
phải như
điều-không-biết, điểu-không-thời-gian đối với tâm trí; vì nếu tâm trí
trải
nghiệm sự im lặng, khi đó có người trải nghiệm, là kết qủa của những
kinh
nghiệm qúa khứ, có nhận thức về một sự im lặng đã qua; và điều gì được
người-trải-nghiệm kinh qua thì chỉ là một sự lập lại đã
tự-phóng-chiếu/what is
experienced by the experience is merely a self-projected repetition.
Tâm trí
không bao giờ có thể trải nghiệm điều mới, và vì thế tâm trí phải hết
sức vắng
lặng.
Tâm trí
chỉ có thể vắng lặng
khi nó không trải nghiệm, nghĩa là, khi nó không đặt hay gọi tên, ghi
lại hay
chứa đựng trong trí nhớ. Gọi tên hay ghi lại là một diễn tiến liên tục
ở những
tầng khác nhau của ý thức, không chỉ ở tầng trên của trí óc. Nhưng khi
bề mặt
của trí óc yên tĩnh, phần sâu hơn có thể cho thấy những thông tri tinh
tế. Khi
toàn thể ý thức im vắng và bình lặng, thoát khỏi tất cả vọng tưởng muốn
trở
thành thế này thế khác một cách tự sinh, chỉ khi đó
điều-không-thể-đo-lường mới
xuất hiện. Mong muốn duy trì sự tự do này khiến người-vọng-tưởng tiếp
tục nhớ
lại, mà nó là trở ngại cho chân lý. Chân lý không có sự-tiếp-nối; nó
thường có,
mãi mãi tươi mới. Điều gì có sự tiếp nối thì không bao giờ có tính sáng
tạo/When the whole consciousness is silent and tranquil, free from all
becoming, which is spontaneity, then only does the immesurable come
into being.
The desire to maintain this freedom gives continuity to the memory of
the
becomer, which is a hindrance to reality. Reality has no continuity; it
is from
moment to moment, ever new, ever fresh. What has continuity can never
be
creative.
Tầng
trên của trí óc chỉ là
một phương tiện liên lạc, nó không thể đo lường
điều-không-thể-đo-lường. Chân
lý không nói tới được; nếu nói được, nó không còn là chân lý nữa.
Đây là
thiền định.
Bombay,
3 Tháng Ba 1965
(Trang 32)
Đối với
tôi hình như rằng con
người, trong rất nhiều thế kỷ đã luôn tìm kiếm sự an bình, sự tự do và
một tình
trạng hạnh phúc gọi là Thượng Đế. Con người đã tìm kiếm nó dưới những
tên gọi và
ở những thời kỳ khác nhau trong lịch sử, và rõ ràng chỉ một số rất ít
đã tìm
thấy cảm giác an bình, tự do vĩ đại, và tình trạng gọi là Thượng Đế đó
ở nội
tâm. Trong thời đại ngày nay điều đó trở nên ít quan trọng; chúng ta
dùng chữ
Thượng Đế với rất ít ý nghĩa. Chúng ta luôn tìm kiếm hạnh phúc, an
bình, tự do
xa cách thế giới này, và chúng ta thoát ly trong những hình thức khác
nhau để
tìm thấy điều gì đó vững bền nơi tôn nghiêm và linh thiêng, khiến chúng
ta có
cảm giác yên tĩnh sâu lắng ở nội tâm. Người ta tin vào Thượng Đế hoặc
không tin
là tùy thuộc sự tác động của tinh thần, truyền thống, hoàn cảnh. Tìm
thấy hạnh
phúc, tự do, an bình kỳ diệu đó, nó phải là điều sống thực. Người ta
phải hiểu,
tôi nghĩ, tại sao người ta không thể đối mặt với sự kiện và chuyển hóa
nó, để
từ đó vượt ra ngoài nó/To find that state of bliss, that freedom, that
extraordinary peace, it must be a living thing. One must understand, I
think,
why one is not capable of facing the fact and transforming the fact,
and
thereby going beyond it.
Tôi
muốn, nếu được phép - hay
đúng hơn cùng chia xẻ nói về - tại sao chúng ta luôn cho ý tưởng sự
quan trọng
lớn lao chứ không cho hành động. Tuy chúng ta đã nói về nó nhiều cách
khác nhau
và ở những thời gian khác nhau, tôi muốn đi vào vấn đề một cách khác
hơn, bởi
vì hình như đối với tôi chúng ta có trách nhệm hoàn toàn và trọn vẹn về
xã hội
chúng ta đang sống. Về sự đau khổ, sự hoang mang/bối rối/nhầm lẫn và sự
tàn bạo
hết sức, mỗi chúng ta đều hoàn toàn có trách nhiệm đẩy đủ. Chúng ta
không thể
né tránh; chúng ta phải chuyển hoá nó. Con người là thành phần của xã
hội, đã
tạo dựng nó - phải có trách nhiệm hoàn toàn và đầy đủ về nó - phải
chuyển hoá
nó, và đem lại một sự biến đổi, một sự biến chất trong chính con người
và do đó
trong khuôn mẫu của xã hội, đó là điều duy nhất có thể xảy ra khi con
người
hoàn toàn ngưng thoát ly vào ý tưởng/-must transform it, and to bring
about a
mutation, a transformation within himself and thereby within the
pattern of
society, is only possible when he ceases completely to escape into
ideas.
Thượng
Đế là một ý tưởng tùy
thuộc hoàn cảnh, môi trường, vả truyền thống trong đó bạn được nuôi
nấng, giáo
dục. Trong thế giới Công Sản, ở hoàn cảnh đó, người ta không tin vào
Thượng Đế.
Còn ở đây dựa trên hoàn cảnh và đời sống, phong tục tập quán, bạn đã
xây dựng ý
tưởng của bạn. Người ta phải giải phóng mình khỏi những hoàn cảnh này,
khỏi xã
hội, và chỉ khi đó một người mới có thể tìm thấy sự thật trong sự tự do
đó.
Nhưng chỉ núp vào ý tưởng được gọi là Thượng Đế thì hoàn toàn không
giải quyết
được vấn đề/But merely to escape into an idea called God does not solve
the
problem.
‘Thượng
Đế’hay bất cứ chữ nào
khác bạn muốn dùng – là sự bịa đặt/chế tác ranh ma của con người, và
chúng ta
che đậy sự chế tác đó bằng hương trầm, nghi lễ, những hình thức khác
nhau của
niềm tin, giáo điều, chúng chia rẽ con người thành người Cơ Đốc giáo,
người Ấn
Độ giáo, người Hồi giáo, người Parsi, người Phật giáo - tất cả cấu trúc
ranh ma
khéo léo đó do con người tạo ra. Con người, đã tạo ra nó, lại bị kẹt
trong đó.
Không hiểu thế giới hiện tại, thế giới con người sống trong đó - thế
giới của
sự khổ đau, của sư rối loạn, của sự buồn chán, lo lắng, thất vọng, và
cuộc sống
cực khổ, hoàn toàn cô quạnh, cảm giác hết sức phù phiếm của đời sống –
không hiểu
tất cả điều đó, chỉ là ý tưởng được nhân lên nhiều lần, dù có hài lòng
cách mấy
thì cũng không có giá trị chút nào/Without understanding the present
world, the
world he lives in – the world of his misery, the world of his
confusion,
sorrow, anxiety, despair, and the agony of existence, the complete
loneliness,
the sense of utter futility of life – without understanding all that,
the mere
multiplication of ideas, however satisfactory, has no value at all.
Rất
quan trọng hiểu tại sao
chúng ta tạo ra hay bày tỏ một ý tưởng. Tại sao tâm trí tạo ra ít nhất
một ý
tưởng? Với chữ bày tỏ tôi muốn nói việc tạo ra cấu trúc của những ý
tưởng có
tính triết lí, thuần lí, nhân bản hay duy vật. Ý tưởng là suy nghĩ có
tổ chức;
con người sống trong suy nghĩ có tổ chức, niềm tin và ý tưởng đó. Đó là
điều
tất cả chúng ta đều làm, có tôn giáo/có đạo hay không có tôn giáo. Tôi
nghĩ
điều quan trọng là tìm ra lí do con người qua những thời đại đã cho
những ý
tưởng sự quan trọng đặc biệt như thế. Tại sao chúng ta ít nhất tạo ra
những ý
tưởng? Chúng ta bày tỏ ý tưởng khi chúng ta sao lãng, không chú ý, nếu
người ta
quan sát mình thì thấy. Khi bạn hoàn toàn chủ động, nó đòi hỏi sự chú ý
đầy đủ
- nó là hành động – trong đó không có ý tưởng, bạn đang hành động/When
you are
completely active, which demands total attention – which is action – in
that
there is no idea; you are acting.
Tôi xin
đề nghị hãy chỉ lắng
nghe. Đừng chấp nhận hay phủ nhận; đừng phòng thủ để ngăn cản sự lắng
nghe bằng
những suy nghĩ riêng, những niềm tin, những mâu thuẫn, và tất cả điều
đó. Nhưng
chỉ lắng nghe. Chúng tôi không cố gắng thuyết phục bạn tin bất cứ điều
gì;
chúng tôi không dùng bất cứ phương tiện nào để ép buộc bạn phải thích
nghi với
một ý tưởng, một mẫu mực, một hành động riêng biệt nào. Chúng tôi chỉ
nêu những
sự kiện - bạn thích hay không thích chúng – và điều quan trọng là biết
về sự
kiện. ‘Biết’ bao hàm lắng nghe trọn vẹn, quan sát toàn diện. Khi bạn
bạn lắng
nghe tiếng kêu của một con qụa [trên những cây nơi nó đang kêu], đừng
nghe với
những sự ồn ào nơi chính bạn, với sự sợ hãi,với những suy nghĩ, với
những ý
tưởng, với những quan niệm của chính bạn. Khi đó bạn sẽ thấy không có ý
tưởng
nào hết thảy, nhưng bạn thực sự đang lắng nghe/and what is important is
to
learn about the fact. ‘Learning’ implies total listening, a complete
observation. When you listen to the sound of the crow [in the trees
where he is
speaking], do not listen with your own noises, with your own fears,
thoughts,
with your own ideas, with your own opinions. Then you will see that
there is no
idea at all, but you are listening.
Cũng
cách thức như vậy, tôi
xin đề nghị hãy chỉ lắng nghe. Hãy chỉ lắng nghe, không chỉ một cách ý
thức
nhưng còn một cách vô thức nữa – mà có lẽ nó còn quan trọng hơn nhiều.
Đa số
chúng ta bị ảnh hưởng. Chúng ta có thể loại bỏ những ảnh hưởng có ý
thức; nhưng
dẹp qua bên những ảnh hưởng vô thức thì khó khăn hơn nhiều. Khi bạn
lắng nghe
theo cách này, khi ấy nó là sự lắng nghe không ý thức mà cũng không vô
thức.
Khi ấy bạn hoàn toàn chú ý. Và sự chú ý không là của bạn hay của tôi;
nó không
có tính cách quốc gia, dân tộc, không có tính tôn giáo, không thể phân
chia
được. Khi bạn hoàn toàn lắng nghe như thế thì không có ý tưởng nào; chỉ
có một
trạng thái lắng nghe/When you are listening in this manner, then it is
neither
conscious nor unconscious listening. Then you are completely attentive.
And
attention is not yours or mine; it is not nationalistic, it is not
religious,
it is not divisible. When you are so completely listening, there is no
idea;
there is only a state of listening. Đa số chúng ta làm như vậy khi
chúng ta
đang lắng nghe điều gì đó khá tốt đẹp, khi có âm nhạc dễ thương, hay
khi bạn
đang quan sát một trái núi, ánh chiều, hay tia sáng trên mặt hồ, hay
một đám
mây. Khi ấy trong trạng thái chú ý đó, trong trạng thái lắng nghe, quan
sát đó,
không có ý tưởng/Then in that state of attention, in that state of
listening,
seeing, there is no idea.
Trong
cùng một cách nếu bạn
có thể lắng nghe với sự dễ dàng/thanh thản đó, với sự chú ý không cố
gắng
đó/that effortless attention, thì khi ấy có lẽ bạn sẽ thấy ý nghĩa
tuyệt vời
của ý tưởng và hành động. Phẩn đông chúng ta tỏ bày ý tưởng khi không
có sự chú
ý. Chúng ta tạo ra hay diễn đạt những ý tưởng khi chúng cho chúng ta sự
an
toàn, một cảm giác vững chắc. Và cảm giác vững chắc đó, cảm giác được
an toàn
đó, đem lại những ý tưởng, và chúng ta thoát ly vào những ý tưởng đó;
và như
thế không có hành động. Chúng ta tạo ra hay bày tỏ ý tưởng khi chúng ta
không
hoàn toàn hiểu điều-hiện-là/We create or formulate ideas when we do not
completely comprehend that which is. Vì thế ý tưởng trở thành quan
trọng hơn sự
kiện.
Để
tìm thấy - thực tế là tìm
thấy sự kiện – có Thượng Đế hay không thì ý tưởng không có bất cứ ý
nghiã nào.
Dù bạn tin hay không tin, dù bạn là một người hữu thần hay vô thần,
điều đó
không có ý nghĩa. Để tìm thấy, bạn cần tất cả năng lượng của bạn, đầy
đủ, toàn
bộ, không kén chọn, không khuynh hướng, không bị làm sai lạc/To find
out, you
need all your energy, your complete, total energy, energy that is not
spotted,
that is not scratched, energy that has no twist, that has not been made
corrupt.
Vì
vậy để hiểu, để tìm thấy
có chân lí mà con người đã tìm kiếm rất nhìều triệu năm như thế hay
không,
người ta phải có năng lượng – toàn bộ và không bị ô nhiễm. Và để có
năng lượng
đó, chúng ta phải hiểu sự cố gắng.
Phần
đông chúng ta sống trong
cố gắng, phấn đấu, và sự cố gắng, sự phấn đấu, sự ráng sức làm phung
phì năng
lượng đó/ the effort, the struggle, the striving, is a dissipation of that energy. Con
người, qua suốt thời kỳ lịch sử, đã nói
rằng để tìm thấy
chân lí hay Thượng Đế - hay bất cứ tên gọi nào khác con người có thể
gán cho -
bạn phải là một người độc thân; nghĩa là, bạn nguyện hứa trinh tiết, và
đè nén,
kiểm soát, chiến đấu với chính bạn không ngừng suốt đời để giữ lời hứa
ấy. Hãy
nhìn xem sự phí phạm năng lượng đó! Đam mê buông thả cũng là phí phạm
năng
lượng. Và bạn đè nén thì còn nghiêm trọng hơn nhiều. Cố gắng ức chế,
kiểm soát,
phủ nhận ham muốn đều làm tâm trí sai lạc, qua đó bạn có một cảm giác
khắc khổ
nào đó, mà nó sẽ trở thành tánh gắt gỏng/quạo quọ. Xin hãy lắng nghe.
Hãy quan
sát chính nơi bạn và những người quanh bạn. Và hãy quan sát sự phí phạm
năng
lượng này, cuộc chiến đấu – không bao hàm dục tính, không là hành động
thực tế,
nhưng là những quan niệm, những ảnh tượng, điều vui thú – suy nghĩ liên
tục về
những điều đó là một sự phí phạm năng lượng. Và phần đông người ta phí
phạm
năng lượng hoặc qua sự phủ nhận, hoặc qua sự khấn hứa trinh tiết, hoặc
trong sự
nghĩ tưởng không ngừng về nó/And observe this waste of energy, the
battle – not
the implications of sex, not the actual act, but the ideals, the
images, the
pleasure – the constant thought about them is a waste of energy. And
most people
waste their energy either through denial, or through a vow of chastity,
or in
thinking about it endlessly.
Con
người có trách nhiệm -
bạn và tôi có trách nhiệm - về hoàn cảnh xã hội chúng ta đang sống
trong đó.
Bạn có trách nhiệm chứ không phải những chính trị gia, bởi vì bạn làm
nên tính
cách của họ - không thật thà, ca tụng mình, mưu cầu địa vị và uy tín –
là những
điều chúng ta vẫn làm hàng ngày. Chúng ta có trách nhiệm về xã hội. Kết
cấu của
xã hội về phương diện tâm lí thì quan trọng hơn nhiều về mặt tổ chức.
Về tâm
lý, xã hội được đặt cơ sở trên tánh tham lam, đố kị, hám lợi, cạnh
tranh, tham
vọng, sợ hãi, đòi hỏi liên tục này của một người muốn được chắc chắn
trong mọi
quan hệ, trong của cải, trong liên hệ với người, với những ý tưởng. Đó
là cấu
trúc xã hội con người đã tạo ra. Và xã hội khi ấy đặt cấu trúc tâm lí
đó trên
mỗi người chúng ta. Tham lam, đố kị, tham vọng, cạnh tranh, tất cả đều
là phí
phạm năng lượng, bởi vì trong nó luôn luôn có mâu thuẫn – mâu thuẫn
không chấm
dứt, như ở một người ghen ghét.
Tánh
ghen ghét là một ý
tưởng. Ý tưởng và sự kiện là hai điều khác nhau. Xin hãy lắng nghe. Bạn
có cảm
giác gọi là ‘ghen ghét’qua ý tưởng. Bạn không đến thẳng bằng sự tiếp
xúc với
cảm giác gọi là ghen ghét. Nhưng bạn có sự ghen ghét qua hồi tưởng một
chữ nào
đó mà bạn đã thiết lập trong trí bạn như sự ghen ghét. Nó trở thành một
ý
tưởng, và ý tưởng đó ngăn cản bạn đến thẳng tiếp xúc với cảm giác mà
bạn gọi là
sự ghen ghét đó. Đây lại là một sự kiện. Vì thế cơ chế, ý tưởng ngăn
trở bạn
tiếp xúc thẳng với cảm giác đó, và do vậy ý tưởng làm tiêu tan năng
lượng này/
So the formula, the idea, prevents you from coming directly into
contact with
that feeling, and therefore the idea dissipates this energy.
Vì
chúng ta trách nhiệm về sự
thống khổ, sự đói nghèo, chiến tranh, sự bất
an hoàn toàn, nên một người có tôn giáo/có đạo
không kiếm tìm Thượng
Đế. Người có tôn giáo quan tâm việc chuyển hoá xã hội tức chuyển hoá
người ấy.
Người có tôn giáo không là người thực hiện vô số nghi lễ, theo truyền
thống, sống
trong một nền văn hoá đã chết, đã qua, không ngừng cắt nghĩa kinh Gita
hay Kinh
Thánh, không ngừng ngợi ca, hoặc tuyên hứa. Đó không là người có đạo/có
tôn
giáo; một người như thế thì thoát ly sự kiện. Người có tôn giáo quan
tâm hoàn
toàn và đầy đủ việc hiểu biết xã hội mà cũng là hiểu chính người đó.
Người đó
không tách khỏi xã hội. Đem lại sự biến đổi hoàn toàn và đầy đủ nơi
người ấy là
chấm dứt hết tánh tham lam, tánh đố kị, tham vọng; và do vậy người đó
không phụ
thuộc hoàn cảnh, dù người đó do hoàn cảnh mà có/and therefore he is not
dependent on circumstances, though he is the result of circumstances -
thực
phẩm người ấy dùng, sách báo người ấy đọc, phim ảnh người ấy xem, lý
thuyết tôn
giáo, niềm tin, nghi thức, và tất cả việc đó. Người ấy có trách nhiệm;
do đó
người có tôn giáo phải hiểu mình, là thành quả của xã hội mà chính
người ấy đã
tạo ra. Vì vậy để tìm thấy chân lí người ấy phải bắt đầu ở đây, không ở
một đền
thờ, một ảnh tượng - ảnh tượng được khắc ghi bằng tay hoặc bằng tâm
trí. Không
vậy làm thế nào người ấy có thề tìm thấy điều gì đó hoàn toàn mới, một
trạng
thái mới?
An
bình không chỉ là sự phát
triển của luật pháp hay chủ quyền. An bình là điều gì đó hoàn toàn
khác; nó là
một trạng thái nội tâm không thể đến được bằng sự thay đổi hoàn cảnh
bên ngoài,
tuy rằng sự thay đổi đó là cần thiết. Nhưng nó phải bắt đầu trong việc
đem lại
một thế giới khác. Và để đem lại một thế giới khác, bạn hết sức cần
năng lượng,
và năng lượng đó hiện đang bị phung phí liên tục vào những mâu thuẫn.
Do vậy,
người ta phải hiểu mâu thuẫn này.
Nguyên
nhân chính của mâu
thuẫn là sự thoát ly – thoát li qua ý tưởng/The primary cause of
conflict is
escape – escape through idea. Xin bạn quan sát chính bạn; Thay vì giáp
mặt -
chẳng hạn - sự ghen ghét, tánh đố kị, thay vì tiếp xúc trực tiếp với nó
thì bạn
nói, ‘Làm thế nào tôi vượt qua nó? Tôi phải làm gì? Phương thức nào
khiến tôi
không thể ghen ghét? tất cả là những ý tưởng và do đó là sự thoát ly
khỏi sự
kiện bạn ghen ghét, một sự chạy xa khỏi sự kiện bạn đang ghen ghét.
Việc tránh
xa khỏi sự kiện qua ý tưởng không chỉ phí phạm năng lượng, mà còn ngăn
cản bạn
tiếp xúc thẳng với sự kiện. Bạn phải chú ý đầy đủ, không qua một ý
tưởng/You
have to give your complete attention, not through an idea. Ý tưởng, như
chúng
ta đã chỉ ra, ngăn trở sự chú ý. Vì thế khi bạn quan sát, hay nhận thức
cảm
giác ghen ghét này, và chú ý vào nó mà không có những ý tưởng, khi ấy
bạn sẽ
thấy rằng không những bạn chỉ tiếp xúc thẳng với cảm giác đó, nhưng còn
vì bạn
đã chú ý đầy đủ, không qua những ý tưởng nên cảm giác đó không còn trở
thành
điều gì khác/because you have given your complete attention, not
through ideas,
it ceases to be. Khi đó bạn có năng lượng vĩ đại hơn để gặp điều bất
ngờ kế
tiếp xảy ra, hoặc xúc cảm hay cảm giác kế tiếp.
Để
khám phá, để đem lại một
sự biến đổi hoàn toàn, bạn phải có năng lượng – không phải năng lượng
do sự ức
chế đem lại, nhưng là năng lượng do bạn không thoát ly qua những ý
tưởng hay
qua sự đè nén. Sự thực, nếu bạn nghĩ đến nó, chúng ta biết chỉ có hai
cách đương
đầu với đời sống - hoặc chúng ta cùng thoát li nó, là một hình thức của
tình
trạng mất trí dẫn đến bệnh tâm thần, hoặc chúng ta đè nén tất cả mọi
điều bởi
vì chúng ta không hiểu. Đó là tất cả điều chúng ta biết.
Ức
chế không những là một
việc làm sau cùng trước khi bất cứ cảm giác hay sự xúc động nào bùng vỡ
mà còn
là một hình thức giải thích theo lý trí, duy lí. Xin quan sát chính bạn
và bạn
sẽ thấy những gì đang được nói đến thực sự là như thế nào. Bởi vậy cần
thiết là
bạn không thoát li. Và một trong những điều quan trọng nhất là khám
phá, không
bao giờ thoát li. Một trong những điều khó khăn nhất là – tìm ra - bởi
vì chúng
ta thoát li qua ngôn từ. Chúng ta thoát li khỏi sự kiện không chỉ bằng
cách
chạy tới đền thờ và tất cả những nơi còn lại khác như thế, nhưng còn
qua ngôn
từ, qua những tranh cãi duy lí, những quan niệm, những phán đoán. Chúng
ta có
quá nhiều cách thoát li sự kiện. Thí dụ, lấy sự kiện một người tối dạ.
Nếu một
người tối dạ, đó là một sự kiện. Vả khi bạn ý thức bạn tối dạ, thì
thoát li là
cố gắng trở thành thông minh. Nhưng để trở nên bén nhậy đòi hỏi tất cả
sự chú ý
của bạn phải được hướng tới tình trạng tối dạ đó của tâm trí.
Nên
bạn cần năng lượng, mà nó
không do bất cứ sự mâu thuẫn, sự căng thẳng nào, nhưng nó xảy ra khi
không có một
chút cố gắng nào/but which comes about when there is no effort at all.
Xin hiểu
điều này rất đơn giản, sự kiện có thực: rằng chúng ta phí phạm năng
lượng qua
sự cố gắng, và sự phí phạm năng lượng đó ngăn trở tiếp xúc thẳng với sự
kiện.
Khi tôi cố gắng hết sức lắng nghe bạn, tất cả năng lượng của tôi mất đi
vào sự
cố gắng đó, và thực sự tôi không lắng nghe. Khi tôi nóng giận hay mất
kiên
nhẫn, tất cả năng lượng của tôi tiêu hết vào sự cố gắng để nói, ‘Tôi
không được
giận’. Nhưng khi tôi chú ý đầy đủ vào cơn giận, hay tình trạng tâm trí
đó, bằng
cách không thoát li qua lời nói, qua sự kết án, qua xét đoán, thì khi
ấy trong
tình trạng chú ý đó có tự do không còn bị điều gọi là cơn giận tác
động. Như
vậy sự chú ý đó, là tổng cộng năng lượng không là sự cố gắng. Chỉ tâm
trí không
cố gắng mới là tâm trí có tôn giáo/có đạo. Và, vì vậy, chỉ một tâm trí
như thế
có thể tìm thấy có hay không có Thượng Đế/It is only the mind that is
without
effort that is the religious mind. And, therefore, such a mind alone
can find out
if there is, or if there is not, God.
Rồi
có một yếu tố khác: Chúng
ta là những con người có tính bắt chước/làm theo. Không có gì nguyên
thủy.
Chúng ta là kết quả của thời gian, của nhiều, nhiều ngàn ngày hôm qua.
Từ thời
thơ ấu chúng ta đã được dạy bắt chước, vâng lời/ phục tùng/nghe theo,
sao chép
truyền thống, đi theo kinh thánh, đi theo uy quyền. Chúng ta không nói
đến
quyền hành luật pháp phải được tuân hành, nhưng chúng ta nói đến uy
quyền cuả
kinh thánh, uy quyền tinh thần, mẫu mực, cách thức. Chúng ta phục tùng
và làm
theo/mô phỏng.
Khi
chúng ta làm theo – là
làm cho phù hợp ở nội tâm với một mẫu mực, hoặc do xã hội đặt để, hoặc
bởi
chính bạn qua kinh nghiệm riêng - sự thích nghi, sự bắt chước, sự phục
tùng như
thế hủy hoại sự thuần khiết của năng lượng. Bạn lảm theo, bạn thích
nghi, bạn
phục tùng uy quyền, bởi vì bạn sợ hãi. Một người thông hiểu, thấy rõ
ràng, rất
chú ý, thì không sợ; do vậy người ấy không có lý do phải bắt chước.
Người ấy là
chính mình - bất kể chính mình đó có thể là gì - ở mọi lúc.
Cho
nên sư mô phỏng, sự thích
nghi đối với một mẫu mực tôn giáo hay sự không thích nghi đối với một
mẫu mực
tôn giáo nhưng sự thích nghi với chính kinh nghiệm riêng của một người
thì vẫn
là hậu qủa của sự sợ hãi. Và một người sợ hãi – dù sợ Thượng Đế, sợ xã
hội, hay
sợ chính mình - một người như thế không là một người có tôn giáo/có
đạo. Bởi
vậy người đó phải đến chỗ tiếp xúc thẳng với sự sợ hãi, không qua ý
tưởng về sự
sợ hãi.
Năng
lượng không chọn lựa,
không vẩn đục, sinh động chỉ cùng đến khi bạn phủ nhận/từ bỏ/The coming
together of that unspotted, uncorrupted, vital energy can only happen
when you
reject. Tôi không biết bạn đã từng nhận thấy khi bạn phủ nhận điều gì
đó không
như một phản ứng thì chính sự phủ nhận ấy tạo ra năng lượng. Khi bạn
phủ nhận,
- tham vọng, chẳng hạn, không vì bạn muốn có đức tính cao cả, không vì
bạn muốn
sống bình an, không vì bạn muốn có Thượng Đế hoặc bất cứ điều gì khác,
nhưng vì
chính nó mà thôi – khi bạn thấy bản chất hủy diệt hoàn toàn của mâu thuẫn nằm trong tham vọng và phủ nhận
nó thì chính sự phủ nhận đó là năng lượng.Tôi không biết bạn đã từng
phủ nhận
bất cứ điều gì chưa. Khi bạn phủ nhận/từ chối một thú vui riêng tư -
chẳng hạn, khi bạn bỏ thú vui hút thuốc,
không vì
bác sĩ của bạn nói nó có hại cho phổi, không vì bạn không có tiền đề
hút vô số
điếu thuốc mỗi ngày, không vì bạn vướng vào một thói quen bằt lệ thuộc,
nhưng
vì bạn thấy nó không có ý nghĩa nào – khi bạn từ bỏ nó mà không có phản
ứng,
thì chính sự từ bỏ đó đem đến năng lượng/when you reject it without a
reaction,
that very rejection brings an energy. Tương tự, khi bạn từ chối xã hội
– không
chạy trốn nó như một nhà tu khổ hạnh, một thày tu, và những người gọi
là có tôn
giáo làm, khi bạn phủ nhận hoàn toàn cái kết cấu tâm lí của xã hội –
thì do sự
phủ nhận đó bạn có năng lượng rất lớn. Chính hành động phủ nhận là năng
lượg/.
Vậy
thì bạn đã thấy, đã hiểu,
đã lắng nghe, bản chất của mâu thuẫn, của nỗ lực lảm tiêu tan năng
lượng. Và
bạn đã hiểu, đã thấy rõ, không bằng lời nói nhưng bằng thực tế, ý nghiã
này của
năng lượng, nó không là hậu quả của mâu thuẫn, nhưng nó đến khi tâm trí
đã hiểu
toàn bộ hệ thống của sự thoát ly, ức chế, xung đột, mô phỏng, sợ hãi.
Khi đó
bạn có thể tiến tới, có thể tỉm thấy cho chính bạn sự thật là gì không
như một
sự thoát li, không như một phương tiện bạn tránh né trách nhiệm trong
thế giới
này. Bạn chỉ có thể tìm ra điều-có-thực là gì, điều tốt là gì - nếu có
điều tốt
– không qua niềm tin, nhưng qua sự chuyển hoá chính bạn ở trong mối
quan hệ cuả
bạn với của cải, với con người, và với những ý tưởng, và do đó được tự
do đối
với xã hội. Chỉ khi ấy bạn mới có năng lượng đó để tìm thấy, chứ không
bằng
thoát li hay ức chế.
Nếu
bạn đã đi xa tới đó, khi
ấy bạn phải bắt đầu tìm ra bản chất của kỉ luật, sự khắc khổ nơi người
ta, hoặc
do truyền thống, hoặc vì bạn đã am hiểu. Có một diễn biến tự nhiên của
sư khắc
khổ, một diễn biến tự nhiên của kỷ luật, mà nó không thô bạo, không
thích nghi,
nó không chỉ bắt chước một thói quen đặc biệt thú vị nào. Và khi bạn đã
hoàn
tất việc này, bạn sẽ khám phá có một sự thông minh trong hình thức cao
nhất của
tính mẫn cảm. Không có tính mẫn cảm này, bạn không có cái đẹp.
Một
tâm trí có đạo phải biết
cảm giác kỳ diệu này của tính mẫn cảm và của cái đẹp. Tâm trí có đạo mà
chúng
ta đang nói tới thì khác hoàn toàn với tâm trí có đạo của chính thống
giáo. Bởi
vì đối với tâm trí có đạo của chính thống giáo thì không có cái đẹp;
người ấy
hoàn toàn không biết thế giới hiện chúng ta đang sống – cái đẹp của thế
giới,
cuả trái đất, của núi đồi, cuả rừng cây, của một khuôn mặt khả ái với
nụ cười.
Đối với người chính thống giáo đó cái đẹp là sự cám dỗ; là đàn bà mà
người ấy
phải tránh né bằng mọi giá để tìm thấy Thượng Đế. Một tâm trí như thế
không là
một tâm trí có đạo, bởi vì nó không mẫn cảm đối với thế giới - thế giới
của cái
đẹp, thế giới của sự bẩn thỉu. Bạn không thể chỉ mẫn cảm với cái đẹp;
bạn cũng
phải mẫn cảm với cái bẩn thỉu, với cái vô giá trị, với tâm trí hỗn độn
của con
người. Mẫn cảm là mẫn cảm với mọi điều xung quanh, không chỉ ở một
hướng riêng
biệt nào/Sensitivity means sensitivity all around, not just in one
particular
direction. Vì thế một tâm trí mà không nhận thức cái đẹp này tự bên
trong nó
thì không thể đi tới xa hơn. Phải có phẩm chất mẫn cảm này.
Khi
đó một tâm trí như thế,
nó là tâm trí có đạo, sẽ hiểu bản chất của cái chết. Bởi vì nếu nó
không hiểu
cái chết, nó sẽ không hiểu tình yêu. Chết không là kết thúc đời sống.
Chết
không là biến cố xảy ra do bệnh hoạn, lão suy, tuổi già, tai nạn. Chết
là điều
bạn sống hàng ngày với nó, bởi vì bạn đang chết đi hàng ngày đối với
mọi điều
bạn biết. Nếu bạn không biết cái chết, bạn sẽ không bao giờ biết tình
yêu là
gì/Death is something that you live every day with, because you are
dying every
day to everything that you know. If you do not know death, you will
never know
what love is.
Tình
yêu không là sự nhớ lại;
tình yêu không là một biểu tượng, một hình ảnh, một ý tưởng; tình yêu
không là
một hành vi xã hội; tình yêu không là một đức hạnh; nếu có tình yêu thì
bạn có
đức hạnh; bạn không phải phấn đấu để có đức hạnh. Nhưng không có tình
yêu, bởi
vì bạn đã không bao giờ biết chết là gì - chết đi với kinh nghiệm, với
thú vui,
với hình thức trí nhớ thầm kín của cá nhân bạn mà bạn không biết. Và
khi bạn bỏ
ra tất cả chuyện này và chết đi từng phút - với căn nhà của bạn, với
những ký
ức, với những thú vui - một cách tự nguyện, dễ dàng và không cố gắng,
thì khi
đó bạn sẽ biết tình yêu là gì/Love is not memory; love is not a symbol,
a
picture, an idea; love is not a social act; love is not a virtue. If
there is
love, you are virtuous; you do not have to struggle to be virtuous. But
there
is no love, because you have never understood what it is to die – to
die to
your experience, to die to your pleasures, to die to your particular
form of
secret memory of which you are not aware. And when you bring out all
that and
die every minute – to die to your house, to your memories, to your
pleasures –
voluntarily and easily and without effort, then you you will know what
love is.
Và
không có cái đẹp, không có
ý nghĩa của cái chết, không có tình yêu, bạn sẽ không bao giờ tìm thấy
chân
lí/And without beauty, without the sense of death, without love, you
will never
find reality; làm gì bạn muốn, đi lễ tất cả các đền thờ, đi theo mọi
tôn sư do
mọi người không minh mẫn chế ra thì bạn sẽ không bao giờ tìm ra chân lí
theo
cách đó. Chân lí là sự sáng tạo/Reality is creation.
Sáng
tạo không có nghĩa sinh
con, hay vẽ một bức tranh, hay làm một bài thơ, hay làm một món ăn
ngon. Đó
không là sự sáng tạo, đó chỉ là thành qủa của một tài năng riêng tư,
một thiên
bẩm, hay tri thức một kỹ thuật riêng biệt. Sáng chế/bày ra/đặt ra không
là sáng
tạo. Sáng tạo chỉ xảy ra khi bạn chết đi đối với thời gian; nghĩa là,
không có
ngày mai. Sáng tạo chỉ diễn ra khi có sự tập trung đầy đủ năng lượng mà
hoàn
toàn không có chuyển động nào ở bên trong hoặc bên ngoài/Creation can
come
about only when you are dead to time; that is , when there is no
tomorrow.
Creation can only take place when there is complete concentration of
energy
that has no movement at all within or without.
Xin
theo dõi điều này. Dù bạn
hiểu nó hay không không thành vấn đề. Đời sống của chúng ta rất xấu,
rất bất
hạnh; có rất nhiều nỗi thất vọng và rất nhiều nỗi khổ đau. Chúng ta đã
sống cả
hai triệu năm, và chẳng có gì mới mẻ. Chúng ta chỉ biết lập lại, sự
buồn tẻ, và
mọi điều chúng ta làm đều hết sức vô ích. Để đem lại một tâm trí mới,
một ý
thức vô tư, một cảm giác tươi mới thì phải có tính mẫn cảm, cái chết và
tình
yêu này và sự sáng tạo đó. Sự sáng tạo đó có thể xảy ra khi có đầy đủ
năng
lượng này mà không có sự chuyển động về bất cứ hướng nào.
Hãy
xem! Khi tâm trí đối diện
một vấn đề, nó luôn luôn tìm cách thoát ra bằng cố gắng giải quyết vấn
đề, vượt
qua nó, vòng quanh nó hay ra ngoài hay đi trên nó, bằng cách luôn luôn
làm điều
gì đó có vấn đề, chuyển động bên ngoài hoặc bên trong. Nếu nó đã không
chuyển
động trong bất cứ hướng nào – khi hoàn toàn không có chuyển động, bên
trong
hoặc bên ngoài, nhưng chỉ có vấn đề đó thôi – thì khi ấy sẽ có sự bùng
vỡ trong
chính vấn đề đó/If it did not move in any direction – when there is no
movement
at all, within or without, but there is only the problem – then there
would be
an explosion in that problem. Bạn làm điều này một lúc nào đó và bạn sẽ
thấy
thực tế của điều đang được nói đến – mà bạn không phải tin, tranh cãi,
hoặc không
tranh cãi. Không có uy quyền ở đây.
Cho
nên khi có sự tập trung
năng lượng này, nó không do sự cố gắng, và khi năng lượng đó không
chuyển động
trong bất cứ hướng nào thì lúc đó có sự sáng tạo.Và sự sáng tạo đó là
sự thật,
Thượng Đế hay điều gì bạn muốm gọi tên./So when there is this
concentration of
energy that is the outcome of no effort, and when that energy has no
movement
in any direction, at that moment there is creation. And that creation
is truth,
God, or what you will.– ngôn từ khi đó không có ý nghĩa gì. Khi ấy sự
bùng vỡ
đó, sự sáng tạo đó, là sự an bình; bạn không phải tìm kiếm sự an bình.
Sự sáng
tạo đó là cái đẹp. Sự sáng tạo đó là tình yêu.
Chỉ
tâm trí có đạo như thế
mới có thể đem lại trật tự trong thế giới hỗn độn, đau khổ này. Và
chính là
trách nhiệm của các bạn - của các bạn và không của ai khác – đang khi
sống
trong thế giới này, để đem lại một đời sống sáng tạo như thế. Và chỉ
một tâm trí
như thế mới là một tâm trí có đạo và hạnh phúc.
Bombay,
8 Tháng Hai 1948
Người
hỏi/NH: Người ta có thể
yêu sự thật mà không yêu con người không? Người ta có thể yêu con người
mà
không yêu sự thật không? Điều nào đến trước?
Krishnamurti:
Chắc chắn, thưa
bạn, tình yêu đến trước. Bởi vì yêu sự thật thì bạn phải biết sự thật,
và biết
sự thật là phủ nhận nó.Điều gì biết được thì không là sự thật bởi vì
điều đó đã
bị kẹt trong thời gian; do đó nó hết là sự thật /Surely, sir, love
comes first.
Because to love truth you must know truth, and to know truth is to deny
it;
therefore it ceases to be truth. Sự thật liên tục chuyển động nên không
thể
đánh giá/đo lường trong thời gian và trong ngôn từ; không thể giữ nó
trong tay
bạn. Vì thế yêu sự thật là biết sự thật - bạn không thể yêu điều gì đó
mà bạn
không biết. Nhưng sự thật không thể tìm thấy trong kinh sách, trong sự
sùng bái
thần tượng, trong đền thờ. Nó được tìm thấy trong hành động, trong cuộc
sống,
trong suy nghĩ, và như thế tình yêu đến trước - điều này rõ ràng, chính
sự tìm
kiếm điều-không-biết lại chính là tình yêu, và bạn không thể tìm kiếm
điều-không-biết mà không quan hệ với người khác. Bạn không thể tìm thấy
sự
thật, Thượng Đế, hay tên gọi gì đó bạn muốn, bằng cách rút vào sự cô
lập. Bạn
chỉ có thể thấy điều-không-biết ở trong mối quan hệ, chỉ khi con người
quan hệ
với con ngườil. Do đó tình yêu của con người là sự tìm kiếm sự
thật/Therefore
the love of man is the search for reality.
Không
yêu con người, không
yêu nhân loại, thì không thề tìm kiếm sự thật/Without loving man,
without
loving humanity, there cannot a search for the real; bởi vì khi tôi
biết bạn –
ít nhất khi tôi thử làm quen với bạn trong mối quan hệ - thì trong quan
hệ đó
tôi mới biết tôi. Mối quan hệ là tấm gương, nhìn vào nó tôi khám phá
chính tôi,
không phải cái tôi ‘cao hơn’, nhưng là toàn thể, là hết thảy diễn biến
của
chính tôi. Cái tôi ‘cao hơn’ hay cái tôi ‘thấp hơn’vẫn nằm trong phạm
vi của
tâm trí; và không hiểu tâm trí, tác-nhân-suy-nghĩ thì làm thế nào tôi
có thể đi
ra ngoài tư tưởng, và khám phá?/Relationship is a mirror in which I am
discovering myself, not my ‘higher’ self, but the whole, total process
of
myself. The ‘higher’ self and the ‘lower’ self are still within the
field of
the mind; and without understanding the mind , the thinker, how can I
go beyond
thought, and discover? Chính mối quan hệ là sự tìm kiếm sự thật bởi vì
đó là sự
tiếp xúc duy nhất tôi có với chính tôi; do đó hiểu mình trong mối quan
hệ chắc
chắn là sự bắt đầu của đời sống/The very relationship is the search for
the
real because that is the only contact I have with myself; therefore the
understanding of myself in relationship is the beninning of life. Nếu
tôi không
biết yêu bạn, là người tôi có quan hệ thì làm thế nào tôi có thể tìm
kiếm sự
thật, và do đó yêu sự thật được? Không có bạn thì không có tôi, phải
không? Tôi
không thể sống xa rời bạn, không thể ở trong sự cô lập. Vì thế trong
mối quan
hệ của chúng ta, trong mối quan hệ giữa bạn và tôi, tôi bắt đầu hiểu
chính tôi;
và hiểu mình là bắt đầu sự khôn ngoan, phải vậy không? Cho nên tìm kiếm
sự thật
là sự khởi đẩu của tình yêu trong mối quan hệ. Yêu một điều gì đó bạn
phải biết
điều đó, bạn phải hiểu nó, phải thế không? Yêu bạn tôi phải biết bạn,
tôi phải
tìm hiểu, phải phát giác, phải tiếp nhận tất cả tính nết của bạn, và
không chỉ
biết những tham vọng, những mưu cầu, những ham muốn của tôi. Và biết
bạn tôi
bắt đầu khám phá chính tôi. Không có bạn không thề có tôi; và nếu tôi
không
hiểu mối quan hệ đó giữa bạn và tôi, thì làm thế nào có tình yêu được?
Vả chắc
chắn không có tình yêu thì không có sự tìm kiếm, phải không? Bạn không
thể nói
người ta phải yêu sự thật; bởi vì yêu sự thật, bạn phải biết sự thật.
Bạn có
biết sự thật không? Bạn có biết sự thật là gì không? Lúc bạn biết điều
gì đó,
thì điều đó đã qua rồi, phải thế không? Nó ở trong phạm vi của thời
gian rồi,
vì thế nó hết là sự thật/Do you know what reality is?The moment you
know
something, it is already over, is it not? It is already in the field of
time,
therefore it ceases to be truth.
Vấn
đề của chúng ta là: Làm
sao một trái tim khô cằn, trống rỗng có thể biết sự thật? Nó không thể.
Sự thật
không là điều gì ở xa. Nó rất gần, nhưng chúng ta không biết tìm nó,
chúng ta
phải hiểu mối quan hệ, không phải chỉ với con người nhưng còn với thiên
nhiên,
với tư tưởng. Tôi phải hiểu mối quan hệ của tôi với trái đất, với sự
tạo thành
tư tưởng, cũng như với bạn; và để hiểu, chắc chắn phải có sự cởi mở/in
order to
understand, surely there must be openness. Nếu tôi muốn hiểu bạn, tôi
phải cởi
mở với bạn, tôi phải dễ tiếp thu, tôi không giữ lại điều gì, không thể
có một
diễn biến cô lập nào. Sự thật nằm trong sự hiểu, và hiểu phải có tình
yêu; vì
không có tình yêu thì không thể hiểu. Vì vậy không phải con người hay
sự thật
đến trước, nhưng là tình yêu; và chỉ có tình yêu trong mối quan hệ,
nghĩa là
người ta phải cởi mở trong mối quan hệ, và do đó rộng mở đối với sự
thật. Không
thể mời sự thật tới, nó phải tới với bạn.Tìm kiếm sự thật là phủ nhận
sự
thật/To search for truth is to deny truth. Sự thật đến với bạn khi bạn
cởi mở,
khi bạn hoàn toàn không bị cản trở, khi tác-nhân-suy-nghĩ không tiếp
tục suy
nghĩ, không có thêm, không sinh thêm ý nghĩ, tư tưởng nào nữa, khi tâm
trí rất
tĩnh lặng – không bị ép buộc, không do ma túy, không bị mê hoặc bởi
ngôn từ,
bởi sự lập đi lập lại. Sự thật phải tới. Khi người-suy-nghĩ kiếm tìm sự
thật,
người ấy chỉ mưu cầu lợi ích riêng của mình. Vì thế sự thật tránh né
người ấy.
Người-suy-nghĩ/tác nhân suy nghĩ chỉ được nhận ra trong mối quan hệ; và
để hiểu
thì phải có tình yêu. Không tình yêu thì không có tìm kiếm.
*
NH:
Ông không bao giờ đề cập
tới Thượng Đế. Ngài không có chỗ trong những lời giảng của ông sao?
K:
Bạn nói rất nhiều về
Thươtng Đế, phải không? Trong những kinh sách của bạn có đầy những điều
nói về
Thượng Đế. Bạn xây dựng nhà thờ, thánh thất, bạn thực hành các lễ nghi,
thực
hiện các lễ lạc và bạn có đầy các ý tưởng về Thượng Đế, phải thế không?
Bạn
nhắc đi nhắc lại chữ Thượng Đế, nhưng bạn hành động không tin kính,
phải không?
Dù bạn thờ phượng điều được gọi là Thượng Đế,bạn vẫn cư xử, suy nghĩ và
sống
không ngoan đạo, phải không? Dù bạn nhắc hoài chữ Thượng Đế bạn vẫn khai thác/lợi dụng người khác, không
phải vậy sao? Các bạn có những Thượng Đế của các bạn – Ấn Độ giáo, Hồi
giáo, Cơ
Đốc giáo, và những đạo khác còn lại có thể kể ra. Bạn xây các thánh
thất, và
càng giàu bạn càng xây nhiều thánh thất hơn (có tiếng cười). Đừng cười,
chính
bạn cũng sẽ làm vậy - tất cả vẫn chỉ là bạn đang cố gắng trở thành giàu
có.
Bởi
vậy bạn rất thân thiết
với Thượng Đế, ít nhất với chữ đó; nhưng chữ đó không là Thượng Đế, chữ
không
là sự thật. Chúng ta hãy rất minh bạch ở điểm đó: Ngôn từ không là
Thượng Đế.
Bạn có thể dùng chữ Thượng Đế hoặc mấy chữ khác, nhưng Thượng Đế không
là chữ
bạn xử dụng. Bởi vì bạn dùng nó, nó không có nghĩa bạn biết Thượng Đế;
bạn chỉ
biết chữ đó. Tôi không d ùng chữ đó vì lí do rất đơn giản rằng bạn biết
nó.
Điều bạn biết thì không là sự thật. Và ngoài ra, để thấy sự thật, tất
cả những
lời rì rầm của tâm trí phải chấm dứt, không phải sao? Bạn có ảnh tượng
Thượng
Đế, nhưng ảnh tượng không là Thượng Đế, chắc chắn vậy. Bạn biết Thượng
Đế cách
naò? Rõ ràng không qua ảnh tượng, không qua thánh thất. Để tiếp nhận
Thượng Đế,
điều-không-biết, tâm trí phải là điều-không-biết/To receive God, the
unknown,
the mind must be the unknown. Nếu bạn đi tìm/mưu cầu Thượng Đế, khi ấy
bạn biết
Thượng Đế rồi, bạn biết mục đích. Bạn biết bạn theo đuổi điều gì, phải
không?
Nếu bạn tìm kiếm Thượng Đế, bạn phải biết Thượng Đế là gì; bằng không,
bạn
không tìm kiếm, phải không? Bạn tìm kiếm Thượng Đế hoặc theo kinh sách
của bạn,
hoặc theo tình cảm của bạn, và tình cảm của bạn chỉ là sự phản hồi của
trí nhớ.
Do đó điều bạn tìm kiếm đã được tạo ra rồi, hoặc qua trí nhớ hoặc qua
nghe-nói,
và điều đã được tạo ra thì không là điều vĩnh cửu – nó là sản phẩm của
tâm trí.
Nếu không có các kinh sách, nếu không có các đạo sư thì không có lời
tuyên bố
nào, không kế hoạch nào, không thể thức nào để đưọc nhắc lai, bạn sẽ
chỉ biết
buồn vui thôi, phải thế không? - buồn và đau khổ triền mien, ít khi
hạnh phúc.
Và rồi bạn muốn biết tại sao bạn đau khổ. Bạn đã không thể
bỏ chạy tới Thượng Đế - nhưng có thể bằng
những cách khác, và bạn sớm phát minh ra những thần thánh như một lối
thoát.
Nhưng nếu bạn thực sự muốn hiểu toàn thể diễn biến của sự đau khổ, như
một con
người mới, tìm hiểu và không chạy trốn, thì khi ấy bạn sẽ tự giải phóng
mình
khỏi sự đau khổ, khi ấy bạn sẽ thấy sự thật là gì,Thượng Đế là gì/But
if you
really want to understand the whole process of suffering, as a new man,
a fresh
man, inquiring and not escaping, then you will free yourself from
sorrow, then
you will find out what reality is, what God is. Nhưng một người đau khổ
không
thể tìm thấy Thượng Đế hay sự thật; sự thật chỉ có thể được tìm thấy
khi ngưng
đau khổ, khi có hạnh phúc, không như một sự tương phản, không như một
sự đối
nghịch, nhưng trạng thái sống đó không có sự đối kháng ở bên trong/that
state
of being in which there are no opposites.
Vì
vậy điều-không-biết không
do tâm trí tạo ra và bày tỏ. Không thể suy nghĩ về điều-không-biết/That
which
is unknown cannot be thought about. Lúc
bạn nghĩ về điều-không-biết, nó là điều-đã-biết rồi. Chắc chắn bạn
không thể
nghĩ về điều-không-biết, phải vậy không? Tư tưởng chuyển từ
điều-đã-biết tới
điều-đã-biết; và điều gì đã biết thì không là sự thật, phải
không?/Thought moves from the known to the
known; and what
is known is not reality, is it? Cho nên,
khi bạn suy nghĩ và thiền định, khi bạn ngồi và nghĩ về Thượng Đế, bạn
chỉ nghĩ
về điều gì đã biết, và điều gì đã biết thì ở trong thời gian; nó bị
vướng mắc
trong lưới của thời gian, và do đó không là sự thật. Sự thật chỉ hiện
thực khi
tâm trí thoát khỏi lưới thời gian. Khi tâm trí ngưng tạo tác thì có
sáng
tạo/When the mind ceases to create, there is creation. Nhĩa là, tâm trí
phải
tuyệt đối tĩnh lặng, nhưng không do sự làm ra, một sự tĩnh lặng bị thôi
miên,
đó chỉ là một hậu qủa. Cố gắng trở thành tĩnh lặng để trải qua sự thật
lại là
một hình thức chạy trốn khác. Chỉ có sự im lặng khi mọi vấn đề đã chấm
dứt/There is silence only when all problem have ceased . Khi mặt hồ yên
tĩnh là
lúc gió ngưng, vì thế tâm trí tự nhiên yên tĩnh khi yếu tố khích động,
người-suy-nghĩ, ngưng lại. Để người-suy-nghĩ không suy nghĩ nữa, tất cả
ý nghĩ
người ấy sinh ra phải được xem xét chín chắn. Dựng rào cản hay cưỡng
lại tư
tưởng là điều không hay, bởi vì phải thăm dò các tư tưởng/To put an end
to the
thinker, all the thoughts that he manufactures must be thought out. It
is no
good erecting a barrier. a resistance against thought, because thoughts
must be
felt out.
Khi
tâm trí tĩnh lặng thì sự
thật, điều-không-thể-mô-tả xuất hiện. Bạn không thể mời nó tới. Mời nó,
bạn
phải biết nó, và điều gì biết được thì không là sự thật. Cho nên tâm
trí phải
đơn sơ, không chất nặng niềm tin, khả năng tạo thành quan niệm. Và khi
có sự
tĩnh lặng , khi không có ham muốn, không có ước ao, khi tâm trí tuyệt
đối yên
tĩnh với sự tĩnh lặng mà không do làm ra thì khi ấy sự thật hiện diện.
Và sự
thật đó, chân lí đó là tác nhân chuyển biến duy nhất; nó là yếu tố độc
nhất đem
lại cuộc cách mạng căn bản, tận gốc rễ trong cuộc sống, trong đời sống
hàng
ngày của chúng ta. Và thấy sự thật đó không là tìm kiếm nó, nhưng là
hiểu những
yếu tố khuấy động, làm xáo trộn chính tâm trí. Khi ấy tâm trí giản dị,
yên
tĩnh, tĩnh lặng. Trong sự tĩnh lặng đó hiện hữu điều-không-biết,
điều-không-thể-biết. Và khi điều đó xảy ra thì có niềm hạnh phúc vô
cùng/And to
find that reality is not to seek it, but to understand the factors that
agitate
the mind, that disturb the mind itself. Then the mind is simple, quiet,
still.
In that stillness the unknown, the unknowable, comes into being. And
when that
happens, there is a blessing.
Bangalore,
4 Tháng Bảy 1948
(Trang 43)
Người
hỏi: Con người phải
biết Thượng Đế là gì trước khi có thể nhận raThượng Đế. Cách nào ông sẽ
giới
thiệu ý tưởng về Thượng Đế với con người mà không đem Thượng Đế đến
trình độ
của con người?
Krishnamurti:
Bạn không thể,
thưa bạn. Vậy thì sức thúc đẩy nào ở đằng sau sự tìm kiếm Thượng Đế, và
sự tìm
kiếm đó có thực không? Với đa số chúng ta nó là sự thoát ly thực tế.
Vậy chúng
ta phải xem cho rõ trong chúng ta sự tìm kiếm Thượng Đế là một sự thoát
ly hay
là sự tìm kiếm chân lý trong mọi điều, mọi sự - chân lý trong những mối
quan
hệ, trong giá trị của sự việc, chân lý trong ý tưởng của chúng ta. Nếu
chúng ta
tìm kiếm Thượng Đế chỉ vì chúng ta chán thế giới này và những cảnh khổ
cực thì
khi ấy nó là một sự thoát ly. Khi ấy chúng ta tạo ra Thượng Đế, và vì
thế nó không là Thượng Đế. Thượng Đế của
những
đền thờ, của những kinh sách thì không là Thượng Đế/The God of the
temples, of
the books, is not God; hiển nhiên nó là sự thoát ly diệu kỳ. Nhưng nếu
chúng ta
cố gắng tìm ra sự thật, không ở một nhóm hành động hạn chế nào, nhưng ở
tất cả
những hành động, những ý tưởng, và những mối quan hệ của chúng ta, nếu
chúng ta
tìm kiếm giá trị đích thực của vấn đề cơm ăn, áo mặc, nhà ở, thì khi
ấy, với
tâm trí thuần khiết và hiểu biết, chúng ta tìm kiếm sự thật thì sẽ tìm
thấy.
Khi ấy nó không là sự thoát ly. Nhưng nếu chúng ta nhầm lẫn/lúng túng
với những
chuyện của thế gian – cơm ăn, áo mặc, nhà ở, mối quan hệ, và những ý
tưởng –
thì làm thế nào chúng ta có thể tìm thấy chân lí? Chúng ta chỉ có thể
bịa đặt
‘chân lí’. Vì thế, một tâm trí nhầm lẫn, bị điều-kiện-hoá (bị hoàn cành
tác
động), bị giới hạn thì không biết Thượng Đế, sự thật, hay chân lí. Cách
nào một
tâm trí như thế tìm ra chân lí hay Thượng Đế? Trước hết nó phải tự hoá
giải /vô
hiệu hoá sự tác động của hoàn cảnh. Nó phải tự giải phóng mình khỏi
những giới
hạn, và chỉ khi đó nó mới có thể biết Thượng Đế là gì; hiển nhiên là
không có
trước. Chân lí là điều-không-biết, và điều-đã-biết thì không là sự
thật. It has
first to de-condition itself. It has to free itself from its own
limitations,
and only then can it know what God is; obviously, not before. Reality
is the
unknown, and that which is known is not the real.
Cho
nên, một tâm trí mong cầu
biết chân lí phải tự thoát khỏi sự tác động của hoàn cảnh diễn ra ở nội
tâm hay
ở bên ngoài; và bao lâu tâm trí còn tạo ra sự tranh chấp, sự xung đột
trong mối
quan hệ thì nó không thể biết chân lí. Cho nên nếu một người nào đó
biết chân
lí thì tâm trí phải vắng lặng; nhưng nếu tâm trí bị bắt buộc, bị ép vào
kỉ luật
để trở nên vắng lặng thì sự vắng lặng đó tự thân là một sự hạn chế, nó
chỉ là
sự tự thôi miên mình. Tâm trí trở nên tự do và vắng lặng chỉ khi nào nó
hiểu
các giá trị vây quanh nó. Cho nên để hiểu điều tối cao, sự thật, chúng
ta phải
bắt đầu từ nơi rất thấp, rất gần; nghĩa là chúng ta phải tìm thấy giá
trị của
sự việc, của mối quan hệ, của tư tưởng làm chúng ta bận tâm mỗi
ngày/So, a mind
that wishes to know reality has to free itself from its own
conditioning, and
that conditioning is imposed either externally or internally; and as
long as
the mind creates contention, conflict in relation, it cannot know
reality. So
if one is to know reality, the mind must be tranquil, but if the mind
is
compelled, disciplined to be tranquil, that tranquility is in itself a
limitation,
it is merely self-hypnosis. Và không hiểu chúng, làm thế nào tâm trí có
thể tìm
kiếm chân lí? Nó có thể bịa ra ‘chân lí’, sao chép, bắt chước; bởi vì
nó đã đọc
quá nhiều sách, nó có thể lập lại kinh nghiệm của người khác. Nhưng
chắc chắn
đó không là sự thật. Để trải qua sự thật, tâm trí phải ngừng tạo tác,
bởi vì
bất cứ gì nó tạo ra vẫn còn ở trong vòng ảnh hưởng của thời gian. Vấn
đề không
phải là có hoặc không có Thượng Đế, nhưng là làm thế nào con người khám
phá ra
Thượng Đế. Nếu trong sự tìm kiếm, con người tự thoát khỏi mọi sự thì sẽ
chắc
chắn tìm thấy chân lí đó/To experience the real, the mind must cease to
create,
because whatever it creates is still within the bondage of time. The
problem is
not whether there is or is not God, but how man may discover God. If in
his
search he disentangles himself from everything, he will inevitably find
that
reality. Nhưng con người phải bắt đầu từ gần chứ không từ xa. Rõ ràng
rằng, để
đi xa người ta phải bắt đầu từ gần. Nhưng đa số chúng ta muốn suy đoán,
là một sự
thoát ly rất tiện lợi. Và đó là lý do tại sao các tôn giáo cung cấp một
thứ
thuốc diệu kỳ như thế cho đa số người ta.
Vì
thế làm cho tâm trí thoát
khỏi sự nhầm lẫn/lúng túng về tất cả các giá trị mà nó đã tạo ra là một
việc
làm hết sức gay go, và vì tâm trí chúng ta mệt mỏi, hay chúng ta lười
biếng,
chúng ta thích đọc các sách tôn giáo và suy đoán về Thượng Đế hơn;
nhưng điều
đó, chắc chắn không khám phá sự thật. Thực chứng là trải nghiệm, không
là noi
gương/bắt chước/ làm theo/Realizing is experiencing, not imitating.
NH:
Tâm trí có khác với
người-suy-nghĩ không?
K:
Thế thì, người-suy-nghĩ có
khác với những suy-nghĩ của người đó không? Có người-suy-nghĩ mà không
có những
suy-nghĩ không? Người-suy-nghĩ có tách biệt với suy-nghĩ không? Ngưng
suy nghĩ,
thì người-suy-nghĩ ở đâu? Người-suy-nghĩ của suy-nghĩ này có khác với
người-suy-nghĩ của một suy-nghĩ khác không? Người-suy-nghĩ có tách biệt
với
suy-nghĩ của người đó không, hay suy-nghĩ có tạo ra người-suy-nghĩ, là
người
khi đó tự đồng hóa với suy-nghĩ khi người ấy thấy nó thuận lợi, và tách
biệt
mình khi nó không thuận lợi? Nghĩa là, cái ‘Tôi’, người suy nghĩ là gì?
Rõ ràng
, người suy nghĩ bao gồm những suy-nghĩ khác nhau làm nên danh xưng
‘tôi’. Cho
nên những suy-nghĩ làm ra người-suy-nghĩ, chứ không phải cách ngược
lại. Nếu
tôi không có những suy nghĩ, khi ấy không có người-suy-nghĩ; không phải
là
người suy nghĩ khác nhau ở mỗi lúc, nhưng nếu không có những suy nghĩ
thì không
có người-suy-nghĩ. Cho nên những suy-nghĩ làm ra người-suy-nghĩ, như
những hành-động
làm ra người-hành-động. Người-hành-động không làm ra những hành-động/So
the
thoughts produce the thinker, not the other way round. If I have no
thoughts,
then there is no thinker; not that the thinker is different each time,
but if
there are no thoughts there is no thinker. So thoughts produce the
thinker, as
actions produce the actor. The actor does not produce actions.
*
NH:
Kinh nghiệm của tôi cho
thấy không có sự hợp tác của cái ‘Tôi’thì không có nhận-thức.
K:
Chúng ta không thể nói đến
sự-nhận-thức thuần túy. Nhận-thức luôn luôn trộn lẫn với
người-nhận-thức – nó
là một hiện tượng kết hợp. Nếu chúng ta nói đến nhận-thức thì ngườ
-nhận-thức
liền kéo vào ngay. Nói về sự nhận-thức, nó ở ngoài kinh nghiệm của
chúng ta;
chúng ta không bao giờ có một kinh nghiệm như thế về nhận thức. Bạn có
thể rơi
vào một giấc ngủ say, khi người-nhận-thức không nhận thức chính người
ấy; nhưng
trong giấc ngủ say không có nhận-thức cũng không có người-nhận-thức.
Nếu bạn
biết một trạng thái trong đó người nhận thức thấy chính mình mà không
đem lại
những đối tượng nhận thức nào khác, khi ấy bạn nói đến người-nhận-thức
thì mới
có giá trị. Bao lâu trạng thái đó không được biết đến, mà chúng ta nói
đến
người-nhận-thức phân biệt với sự-nhận-thức thì không đúng. Vì thế
người-nhận-thức và sự-nhận-thức là một hiện tượng hỗn hợp, chúng là hai
mặt của
một tấm huy chương. Chúng vốn không cách biệt, và chúng ta phân cách
chúng là
sai. Chúng ta cứ muốn phân cách người-nhận-thức ra khỏi sự-nhận-thức
khi không
có cơ sở vững chắc cho việc đó. Chúng ta biết không có người-nhận-thức
nào mà
không có sự-nhận-thức, và không có sự-nhận-thức nào mà không có
người-nhận-thức. Do đó, kết luận duy nhất có giá trị là sự-nhận-thức và
người-nhận-thức,
cái ‘Tôi’ và ý chí/ý muốn, là hai mặt của cùng một tấm huy chương; nó
là hai
phương diện của cùng một hiện tượng, không là sự-nhận-thức cũng không
là
người-nhận-thức. Một sự khảo sát chính xác về nó đòi hỏi quan sát kỹ
lưỡng.
NH:
Điều đó xảy ra cho chúng
ta ở đâu?
K:
Thưa bạn, câu hỏi này nảy
sinh từ thắc mắc về sự tìm kiếm Thượng Đế. Rõ ràng rằng đa số chúng ta
muốn có
kinh nghiệm về chân lí. Chắc chắn điều đó có thể được biết đến chỉ khi
nào
người-trải-nghiệm ngưng trải nghiệm, bởi vì người-trải-nghiệm tạo ra
kinh
nghiệm. Nếu người-trải-nghiệm tạo ra kinh nghiệm thì khi đó người ấy sẽ
tạo ra
Thượng Đế; do đó nó sẽ không là Thượng Đế. Người-trải-nghiệm có thể
ngừng lại
không? Đó là toàn bộ vấn đề trong câu hỏi này. Vậy thì nếu
người-trải-nghiệm và
kinh nghiệm là một hiện tượng hỗn hợp, mà nó hiển nhiên như thế, thì
khi ấy
người-trải-nghiệm, người-hành-động, người-suy-nghĩ, phải ngưng suy
nghĩ. Điều
đó không rõ sao? Vậy người-suy-nghĩ có thề ngưng suy nghĩ không? Bởi vì
khi
người ấy suy nghĩ, người ấy sẽ tạo ra, và điều người ấy tạo ra thì
không là sự
thật. Do đó để tìm thấy hoặc có hoặc không có chân lí, Thượng Đế, hay
tên gọi
gì bạn muốn thì tiến trình suy nghĩ phải chấm dứt, nghĩa là
người-suy-nghĩ phải
ngưng lại – hoặc người ấy có do những suy nghĩ làm ra hay không thì lúc
này
không thích hợp. Toàn bộ diễn tiến của suy nghĩ gồm người-suy-nghĩ,
phải kết
thúc. Chỉ khi đó chúng ta mới sẽ tìm thấy chân lí/Therefore to find out
whether
there is or there is not reality, God, or what you will, the thought
process
has to come to an end, which means that the thinker must cease –
whether he is
produced by thoughts is irrelevant for the moment. The whole thought
process,
which includes the thinker, has to come to an end. It is only then that
we will
find reality. Vậy thì, trước hết, làm thế nào chấm dứt tiến trình đó,
và ai làm
việc đó? Nếu người-suy-nghĩ làm, người-suy-nghĩ vẫn là sản phẩm của
suy-nghĩ.
Người-suy-nghĩ chấm dứt suy nghĩ thì vẫn tiếp tục suy nghĩ. Vậy thì
người-suy-nghĩ sẽ làm gì? Bất cứ sự cố gắng nào về phiá người-suy-nghĩ
thì vẫn
là tiến trình suy-nghĩ. Tôi hy vọng tôi đang tự làm rõ vấn đề.
*
NH:
Tại sao chúng ta nhấn
mạnh sự tách biệt người-nhận-thức ra khỏi sự nhận thức, người-ghi-nhớ
ra khỏi
trí-nhớ? Đây không là căn nguyên gây phiền muộn cho chúng ta sao?
K:
Chúng ta tách biệt nó bởi
vì người-ghi-nhớ, người-trải-nghiệm, người-suy-nghĩ trở thành tách biệt
do sự
ngăn cách. Những ký ức thì rõ ràng thoáng qua; cho nên người-ghi-nhớ,
người-trải-nghiệm, người-suy-nghĩ, tâm trí tự tách biệt mình bởi vì nó
muốn sự
bền vững lâu dài. Tâm trí cố gắng, ráng sức, chọn lựa, bị ép vào kỷ
luật thì rõ
ràng không thể tìm thấy sự thật; bởi vì, như chúng ta đã nói, qua chính
nỗ lực
đó nó tự phóng chiếu và duy trì người-suy-nghĩ. Vậy thì làm thế nào
giải phóng
người-suy-nghĩ ra khỏi những suy-nghĩ? Đây là điều chúng ta đang thảo
luận. Bởi
vì bất cứ điều gì người ấy nghĩ đều phải là hậu quả của qúa khứ, và do
đó người
ấy tạo ra Thượng Đế, sự thật từ trí nhớ, mà rõ ràng nó không là
điều-có-thực.
Nói cách khác, tâm trí thường xuyên chuyển động từ điều-đã-biết tới
điều-đã-biết. Khi trí nhớ hoạt động, tâm trí chỉ có thể chuyển động
trong phạm
vi của điều-đã-biết, và khi nó chuyển động nội trong phạm vi của
điều-đã-biết
thì không bao giờ nó có thể biết điều-không-biết/In other words, the
mind is
constantly moving from the known to the known. When memory functions,
the mind
can move only in the field of the known, and when it moves within the
field of
the known, it can never know the unknow. Cho nên vấn đề của chúng ta là
làm thế
nào giải phóng tâm trí ra khỏi điều-đã-biết. Giải phóng chúng ta ra
khỏi
điều-đã-biết, bất cứ sự cố gắng nào cũng đều có hại bởi vì nó vẫn còn
là của
điều-đã-biết. Cho nên mọi cố gắng phải chấm dứt. Bạn đã từng khi nào
thử không
cố gắng chưa? Nếu tôi hiểu rằng mọi cố gắng đều vô ích, rằng mọi cố
gắng lại
tăng thêm sự phóng chiếu cùa tâm trí, của cái ‘Tôi’, của
người-suy-nghĩ, nếu
tôi thấy rõ sự thật của điều đó thì điều gì xảy ra? Nếu tôi thấy rõ
ràng cái
nhãn ‘thuốc độc’ trên một cái chai, tôi không rớ tới nó. Không có cố
gắng nào
bị hấp dẫn để đụng tới nó. Cũng vậy – và trong việc này có sự khó khăn
lớn lao
nhất - nếu tôi thấy rõ bất cứ cố gắng nào về phần tôi đều có hại, nếu
tôi thấy
sự thật của điều đó thì khi ấy tôi hết cố gắng. Cố gắng nào về phiá
chúng ta
cũng có hại, nhưng chúng ta không chắc chắn không cố gắng, bởi vì chúng
ta muốn
có một kết qủa, chúng ta muốn một thành tựu – và đó là khó khăn cuả
chúng ta.
Bởi vậy, chúng ta tiếp tục ráng sức, ráng sức, ráng sức. Nhưng Thượng
Đế, sự
thật, không là một kết quả, một phần thưởng, một mục đích. Chắc chắn
điều đó
phải đến với chúng ta, chúng ta không thể đi tới điều đó. Nếu chúng ta
cố gắng
đi tới điều đó là chúng ta đi tìm một kết quả, một sự thành tựu. Nhưng
để sự
thật tới, một người phải nhận thức một cách thụ động /But God, truth,
is not a
result, a reward, an end. Surely it must come to us, we cannot go to
it. If we
make an effort to go to it, we are seeking a result, an achievement.
But for
truth to come, a man must be passively aware Nhận thức thụ động là một
trạng
thái trong đó không có cố gắng; nhận thức không xét đoán, không chọn
lựa, không
trong ý nghĩa cuối cùng, nhưng trong mọi tình hình; nhận thức những
hành động,
những suy nghĩ, những đáp ứng tương quan của bạn mà không chọn lựa,
không lên
án, không xác nhận hoặc không phủ nhận, để tâm trí bắt đầu hiểu từng ý
nghĩ và
từng hành động mà không xét đoán. Điều này gợi lên câu hỏi liệu có thề
có sự
hiểu biết mà không có ý nghĩ không.
NH:
Chắc chắn nếu ông vô
tình/lãnh đạm đối với điều gì đó.
K:
Thưa bạn, vô tình/lãnh đạm
là một hình thức xét đoán. Một tâm trí ù lì và lãnh đạm thỉ không nhận
thức.
Thấy mà không xét đoán, biết chính xác điều gì đang xảy ra là sự nhận
thức. Vì
thế tìm kiếm Thượng Đế hay sự thật mà không nhận thức ngay trong hiện
tại thì
vô hiệu/So it is vain to seek God or truth without being aware now, in
the
immediate present. Đi lễ đền thờ thì dễ hơn nhiều, nhưng đó là sự trốn
chạy vào
lãnh vực võ đoán. Để hiểu chân lí, chúng ta phải biết nó một cách trực
tiếp, và
chân lí rõ ràng không là của thời gian và không gian; nó ở trong hiện
tại, và
hiện tại là chính tư tưởng và hành động của chúng ta/present is our own
thought
and actions.
Bombay,
27 Tháng Hai 1955
Tôi
nghĩ đa số chúng ta phải
rất quan tâm tới vấn đề hành động. Khi chúng ta đối đầu với rất nhiều
chủ đề -
đói nghèo, nhân mãn, phát triền cơ giới khác thường, công nghiệp hóa,
chiều
hướng thoái hoá trong nội tâm và bên ngoài xã hội – thì người ta phải
làm gì?
Bổn phận hay trách nhiệm của cá nhân là gì trong mối tương quan với xã
hội? Đây
phải là một vấn đề đối với tất cả những ai có suy nghĩ. Càng thông minh
lanh
lợi, người ta càng tích cực/năng nổ, càng muốn lao mình vào những công
tác cải
tạo xã hội hoặc những công việc nào khác. Vậy thì trách nhiệm thực sự
của người
ta là gì? Tôi nghĩ câu hỏi này chỉ có thể được trả lời đầy đủ ở tầm mức
quan
trọng sinh tử nếu chúng ta hiểu toàn bộ mục đích của văn minh, văn hóa.
Sau
hết, chúng ta đã tạo dựng
xã hội ngày nay; nó là kết qủa tạo ra bởi những mối quan hệ cá nhân của
chúng
ta. Xã hội này chủ yếu có giúp con người tìm thấy chân lí, Thượng Đế,
hay tên
gọi nào khác không? Hay nó chỉ là một khuôn mẫu/mẫu mực quyết định lời
giải đáp
cho một vấn đề của chúng ta, hoặc chúng ta phải có hành động nào trong
mối quan
hệ với xã hội? Nếu văn hóa, văn minh ngày nay, không giúp con người tìm
thấy
Thượng Đế, sự thật, thì nó là một trở ngại; và nếu nó là một trở ngại,
khi ấy
mọi sự cải tạo, mọi hoạt động làm tốt hơn lại làm nó thoái hóa thêm,
trở ngại
thêm cho sự khám phá chân lí, mà chỉ sự khám phá này mới có thể đem lại
hành
động đích thực/the discovery of reality, which alone can bring about
true
action.
Tôi
nghĩ hiểu điều này là rất
quan trọng, và không chỉ là quan tâm tới loại công tác cải tạo xã hội
nào hoặc
hoạt động người ta nên đồng hoá mình với nó. Chắc chắn đó không là vấn
đề. Vấn
đề rõ ràng sâu sắc hơn nhiều. Người ta rất dễ mải mê với mấy loại công
việc nào
đó hoặc việc cải tạo xã hội, và khi ấy nó là một phương tiện để tránh
né, để
quên hay hy sinh mình qua hành động; nhưng tôi không nghĩ rằng nó sẽ
giải quyết
được nhiều vấn đề của chúng ta. Những vấn đề của chúng ta rất to lớn
hơn và
chúng ta cần một lời giải đáp tương xứng, mà tôi nghĩ chúng ta sẽ tìm
thấy nếu
chúng ta có thể đi vào vấn đề này để xem văn hóa ngày nay – bao hàm tôn
giáo,
toàn thể cái khung của xã hội và luân lý – có giúp con người tìm thấy
chân lí
hay không. Nếu nó không giúp được, thì khi ấy chỉ sự cải tạo văn hoá
hay xã hội
như thế là phí thời gian; nhưng nếu nó hữu ích cho con người trong ý
nghĩa đích
thực, thì tất cả chúng ta phải hết lòng với nó.Tôi nghĩ điều đó là cơ
sở của
vấn đề.
Chúng
ta muốn nói văn hoá là
toàn bộ vấn đề của tư tưởng, phải vậy không? Với đa số chúng ta, tư
tưởng là
kết qủa với những hình thức khác nhau của sự tác động bởi hoàn cảnh,
của giáo
dục, của sự thích nghi, của những áp lực và ảnh hưởng mà tư tưởng bị lệ
thuộc
trong khuôn khổ một nền văn minh cá biệt. Ngày nay tư tưởng của chúng
ta bị xã
hội uốn nắn, và trừ khi có một cuộc cách mạng trong suy nghĩ của chúng
ta, sự
cải tổ hời hợt về văn hoá hoặc xã hội mà thôi thì hình như đối với tôi
là một
sự lạc hướng, một yếu tố sẽ đem lại sự đau khổ lớn lao hơn.
Sau
hết, điều chúng ta gọi là
nền văn minh là một diễn biến/qúa trình giáo dục tư tưởng trong khuôn
mẫu Ấn Độ
giáo, Cơ Đốc giáo hay Cộng Sản, và vv…Tư tưởng được giáo dục như thế có
khi nào
có thể tạo ra một cuộc cách mạng quan trọng nhất không? Có áp lực nào,
sự uốn
nắn tư tưởng nào sẽ đem lại sự khám phá hay sự hiểu biết sự thật không?
Chắc
chắn tư tưởng phải tự giải phóng mình khỏi tất cả các áp lực, nghĩa là
thực sự
khỏi xã hội, khỏi mọi hình thức ảnh hưởng, và từ đó tìm thấy sự thật là
gì; khi
ấy chính sự thật có hành động của riêng nó cùng lúc đem lại một nền văn
hóa
khác/Will any pressure, any shaping of thought, bring about the
discovery or
the understanding of what is truth? Surely thought must free itself
from all
pressure, which means really from society, from all forms of influence,
and
thereby find out what is truth; then that very truth has an action of
its own
that will bring about an altogether different culture.
Nghĩa
là, xã hội tồn tại tự
phơi bày sự thật, hay người ta phải được tự do đối với xã hội để tìm
thấy sự
thật? Nếu xã hội giúp con người tìm thấy sự thật, khi ấy mọi loại công
tác cải
tạo trong xã hội đều thiết yếu; nhưng nếu nó là một trở ngại cho sự
khám phá
thì cá nhân không nên tách khỏi xã hội để tìm sự thật sao? Chỉ một
người như
thế là thực sự có tôn giào chứ không phải người thực hành các lễ lạy
khác nhau,
hay người tiếp cận đời sống qua những mô hình thần học. Khi một cá nhân
tự giải
phóng mình khỏi xã hội và tìm sự thật thì người đó, trong chính sự tìm
kiếm của
người ấy không đem lại một nền văn hóa khác sao?/When the individual
frees
himself from society and seeks reality, does he not bring about in his
very
search a different culture?
Tôi
nghĩ đây là một vấn đề
quan trọng bởi vì đa số chúng ta chỉ quan tâm tới sự cải tạo. Chúng ta
thấy sự
nghèo đói, nạn nhân mãn, mọi hình thức phân hóa, chia rẽ, và sự xung
đột; và
thấy tất cả những điều đó, người ta phải làm gì? Người ta có nên bắt
đầu bằng
việc gia nhập một nhóm đặc biệt, hay bằng làm việc nghiên cứu tư tưởng?
Đó có
phải là chức năng của một người có-tôn-giáo không? Người có-tôn-giáo,
chắc
chắn, là người tìm sự thật,/The religious man, surely, is he who seeks
reality
và không là người đọc và dẫn lời kinh Gita, hoặc là người đi lễ mỗi
ngày. Điều
đó rõ ràng không là tôn giáo; nó chỉ là một sự bắt buộc, sự tác động
của tư
tưởng bởi xã hội. Vậy người nhiệt tâm phải làm gì, người thấy sự cần
thiết và
muốn đem lại một cuộc cách mạng tức thì? Người ấy có phải làm việc cho
sự cải
tạo trong khuôn khổ xã hội không? Xã hội là một nhà tù, và người ấy sẽ
chỉ phải
cải tạo nhà tù bằng trang trí mấy chấn song và hoàn tất những việc làm
bên
trong những bức tường đó cho đẹp hơn không? Chắc chắn người rất nhiệt
tâm, thực
sự có-tôn-giáo là người cách mạng duy nhất; không có người nào khác, và
một
người như thế là người tìm chân lí, người đang cố gắng tìm ra Thượng Đế
hoặc sự
thật là gì.
Vậy
thì hành động của một
người như thế sẽ như thế nào? Người ấy sẽ phải làm gì? Người ấy phải
làm việc
nội trong xã hội hiện nay thôi, hay phải tách ra và hoàn toàn không
quan tâm
tới xã hội? Tách ra không có nghĩa trở thành một nhà tu hành khổ hạnh,
một nhà
tu hành khất thực, cô lập mình bằng những ám thị thôi miên kỳ dị. Và
tuy vậy
người có-tôn-giáo không thể là một nhà cải tạo, bởi vì người nhiệt tình
chỉ
theo đuổi những công việc cải tạo mà thôi thì điều đó phung phí năng
lượng/sinh
lực, suy tư vô ích, uổng tính sáng tạo.Vậy người nhiệt tình phải làm
gì? Nếu
người ấy không muốn trang hoàng mấy bức tường của nhà tù, di dời mấy
chấn song,
cho thêm ít bóng đèn, nếu người ấy không quan tâm tới tất cả điều đó,
và nếu người
ấy cũng thấy sự quan trọng phải đem lại một cuộc cách mạng căn bản, một
sự thay
đổi tận gốc rễ trong mối tương quan giữa con người với con người - mối
quan hệ
đã tạo ra xã hội đáng kinh hãi này trong đó có người giàu vô cùng và
những
người tuyệt đối không có gì, cả bên trong nội tâm lẫn bên ngoài xã hội
-- vậy
người đó phải làm gì?Tôi nghĩ đó là câu hỏi quan trọng đặt ra cho chính
mình.
Sau
hết, văn hóa có hiện thực
qua tác động của sự thật không, hay văn hóa do con người làm ra?/After
all,
does culture come into being through the action of truth, or is culture
man-made? Nếu nó do con người làm ra, rõ ràng nó sẽ không dẫn bạn tới
sự thật.
Và văn hóa của chúng ta do con người làm ra, bởi vì nó dựa trên những
hình thức
khác nhau của những điều thâu đạt được, không chỉ về phương diện vật
chất mà
còn về phương diện tinh thần nữa; nó là kết qủa của lòng ham muốn địa
vị trong
mọi hình thức, sự nâng cao mình, và vv…Một nền văn hóa như vậy rõ ràng
không
thể dẫn con người tới chỗ thực chứng điều tối cao; và nếu tôi thấy thế,
khi ấy
tôi sẽ làm gì? Bạn sẽ làm gì nếu bạn thực sự nhận thức rõ xã hội đó là
một trở
ngại? Xã hội không chỉ là một hay hai hoạt động, nó là toàn thể cơ cấu
mối quan
hệ của con người trong đó tất cả sự sáng tạo đã chấm dứt, trong đó có
sự liên tục
mô phỏng; nó là một khuôn khổ của sự sợ hãi trong đó giáo dục chỉ là sự
thích
nghi và hoàn toàn không có tình yêu, nhưng chỉ là hành động phù hợp với
khuôn
mẫu được mô tả như tình yêu. Trong xã hội này những yếu tố chính là sự
nhìn
nhận và sự kính trọng; nghĩa là những gì tất cả chúng ta phấn đấu để có
được -
đều sẽ được nhìn nhận. Năng lực, sự hiểu biết của chúng ta phải được xã
hội
nhìn nhận để chúng ta sẽ là những người nào đấy. Khi người ấy nhận thức
tất cả
điều này và trông thấy cái nghèo, nạn đói, tâm trí phân tán vào những
niềm tin
khác nhau thì người nhiệt tâm sẽ làm gì?
Nếu
chúng ta thực sự lắng
nghe những gì đang được nói tới, lắng nghe trong chiều hướng muốn tìm
ra sự
thật là gì, để không có xung đột ý kiến của bạn chống ý kiến của tôi,
hoặc tính
khí của bạn trái với tính khí của tôi,
nếu chúng ta có thể để tất cả điều đó qua bên và cố tìm ra sự thật là
gì, mà
điều đó đòi hỏi tình yêu, khi ấy tôi nghĩ trong
chính tình yêu đó, trong ý thức của lòng nhân
ái chúng ta sẽ tìm
thấy sự thật tạo ra một nền văn hóa mới. Khi ấy người ta tự do đối với
xã hội,
người ta không quan tâm tới việc cải tạo xã hội. Nhưng để tìm thấy sự
thật là
gì thì cần có tình yêu, và trái tim chúng ta trống rỗng, vì chúng đầy
những thứ
của xã hội. Bị lấp đầy như thế, chúng ta cố gắng cải tạo, và việc cải
tạo của
chúng ta không ngát hương tình yêu/If we really listen to what is being
said,
listen in the sense of wanting to find out what is truth, so that there
is not
the conflict of your opinion against my opinion, or your temperament
opposed to
mine, if we can set all that aside and try to find out what is true,
which
requires love, then I think in that very love, in that sense of
goodness we
shall find the truth that creates a new culture. Then one is free of
society,
one is not concerned with the reformation of society. But to find what
is truth
requires love, and our hearts are empty, for they are filled with the
things of
society. Being filled, we try to reform, and our reformation is without
the
perfume of love.
Bởi
vậy một người nhiệt tâm
phải làm gì? Người ấy phải tìm kiếm sự thật, Thượng Đế, hoặc tên gọi
nào khác
bạn muốn, hoặc người ấy phải dùng trái tim và khối óc để cải thiện xã
hội mà
thực sự là cải thiện mình? Bạn hiểu chứ? Người ấy sẽ thắc mắc tìm hiểu
sự thật
là gì hay sẽ cải thiện hoàn cảnh xã hội, mà nó là cải thiện chính mình?
Người
ấy phải cải thiện mình nhân danh xã hội, hay phải tìm kiếm sự thật,
trong đó
hoàn toàn không có sự cải thiện chăng? Cải thiện bao hàm thời gian,
thời gian
để trở thành, nhưng trái lại sự thật không liên quan gì tới thời gian,
nó đươc
nhận thức/lãnh hội tức thì/Shall he improve himself in the name of
society, or
shall he seek truth, in which there is no improvement at all?
Improvement
implies time, time to become, whereas truth has nothing to do with
time, it is
to be perceived immediately.
Bởi
vậy vấn đề quan trọng
khác thường, phải không? Chúng ta có thể nói về cải tạo xã hội, nhưng
nó vẫn là
cải tạo mình. Và để cho một người tìm điều có thực, sự thật là gì, thì
không có
sự cải tạo mình; trái lại, có sự chấm dứt hoàn toàn bản ngã/cái tôi, mà
nó là
xã hội. Do đó người ấy không quan tâm tới cải tạo xã hội/And for the
man who is
seeking what is real, what is truth, there is no reformation of the
self; on
the contrary, there is the total cessation of the self, which is
society.
Therefore he is not concerned with the reformation of society.
Toàn
bộ cơ cấu tổ chức xã hội
dựa trên diễn tiến nhìn nhận và kính trọng; và chắc chắn, thưa các bạn,
một
người nhiệt tình không thể tìm kiếm việc cải tạo xã hội, mà nó là sự
cải thiện
bản thân mình. Trong sự cải tạo xã hội, trong sự đồng hóa mình với điều
gì đó
tốt, người ấy có thể nghĩ đang hy sinh mình, nhưng nó vẫn là cải thiện
mình.
Còn, đối với người đang tìm điều tối thượng, điều cao nhất, thì không
có sự cải
thiện mình; trong chiều hướng đó không có sự cải thiện ‘cái tôi’, không
có sự
trở thành, không có sự thực hành, không có tư tưởng ‘Tôi sẽ là’. Điều
này thực
sự có nghĩa chấm dứt tất cả các áp lực lên tư tưởng, và khi không có áp
lực nào
lên tư tưởng thì còn có suy nghĩ không? Chính cái áp lực lên tư tưởng
là diễn
biến của suy nghĩ, suy nghĩ theo xã hội, hoặc theo phản ứng đối với xã
hội đó;
và nếu không có áp lực thì có suy nghĩ không? Chỉ tâm trí không có
chuyển động
này của tư tưởng – mà nó là áp lực của xã hội - chỉ một tâm trí như thế
có thể
thấy sự thật; và trong tìm kiếm điều tối cao, tâm trí như thế tạo ra
văn hóa
mới. Đó là điều cần thiết: đem lại một loại văn hóa hoàn toàn khác,
không cải
tạo xã hội hiện tại. Và một nền văn hoá như thế không thể xuất hiện trừ
khi
người nhiệt tâm hoàn toàn theo đuổi sự thật với tất cả năng lượng/sinh
lực,
tình yêu. Sự thật không thể tìm thấy trong bất cứ kinh sách nào, qua
bất cứ
người lãnh đạo nào, nó xuất hiện khi tư tưởng tĩnh lặng, và sự tĩnh
lặng đó
không thể có được do bất cứ thứ kỷ luật nào. Sự tĩnh lặng xảy đến khi
có tình yêu/Whereas,
for the man who is seeking that which the supreme, the highest, there
is no
self-improvement of the ‘me’, there is no becoming; there is no
practice, no
thought of ‘I shall be’. This means really the cessation of all
pressure on
thought, and when there is no pressure on thought, is there thinking?
The very
pressure on thought is the process of thinking, thinking in terms of a
particular society, or in terms of a reaction to that society; and if
there is
no pressure, is there thinking? It is only the mind that has not this
movement
of thought – which is the pressure of society – it is only such a mind
that can
find reality; and in seeking that which is the supreme, such a mind
creates the
new culture. That is what is necessary; to bring about a totally
different kind
of culture, not to reform the present society. And such a culture
cannot arise
unless the earnest man pursues completely, with total energy, with
love, that
which is real. The real is not to be found in any book, through any
leader; it
comes into being when thought is still, and that stillness cannot be
bought by
any disciple. Stillness comes when there is love.
Trong
xem xét một vài trong
số những vấn đề này, tôi nghĩ rằng quan trong là chúng ta phải kinh
nghiệm trực
tiếp điều đang được nói tới, và bạn không thể làm vậy nếu bạn chỉ quan
tâm tới
một lời giải đáp cho vấn đề. Nếu chúng ta cùng nhau đi vào vấn đề,
chúng ta
không thể có chung ý kiến về vấn đề đó – lí lẽ của tôi chống lí lẽ của
bạn -
bởi vì những lí lẽ và ý kiến là một trở ngại cho sự hiểu biết vấn
đề/theories
and speculations are a hindrance to the understanding of a problem.
Nhưng nếu
bạn và tôi lặng lẽ và thận trọng đi sâu vào vấn đề, khi ấy có lẽ chúng
ta có
thể hiểu nó. Thực sự không có vấn đề. Chính là tâm trí tạo ra vấn
đề/Actually
there is no problem. It is the mind that creates the problem. Trong sự
hiểu
biết vấn đề người ta hiểu mình, hiểu hoạt động của tâm trí. Sau hết,
vấn đề chi
có khi sự xáo trộn bén rễ trong tâm trí. Và tâm trí không thể nhìn vào
một vấn
đề, thấy rõ bất cứ sự xáo trộn nào mà không để nó bén rễ trong tâm trí
sao? Tâm
trí giống một cuốn phim nhậy bén; nó hiểu, cảm nhận những hình thức
phản ứng
khác nhau. Nhưng nó không thể hiểu, cảm nhận, phản ứng với tình yêu, để
chính
tâm trí không trở thành nơi ở đó phản ứng bén rễ và trở thành một vấn
đề
chứ?/The mind is like a sensitive film; it perceives, it feels various
forms of
reaction. But is it not possible to perceive, to feel, to react with
love, so
that the mind itself does not become the soil in which the reaction
takes root
and becomes a problem?
Người
hỏi/NH: Ông nói rằng
chú ý đầy đủ là tốt; vậy cái gì là xấu?
Krishnamurti/K:
Tôi tự hỏi có
một điều gọi là xấu như thế hay không? Xin bạn chú ý, hãy đi với tôi,
chúng ta
hãy cùng tìm hiểu. Chúng ta nói có điều tốt và điều xấu. Có tính ghen
ghét và
tình yêu, và chúng ta nói ghen ghét là xấu và tình yêu là tốt. Tại sao
chúng ta
phân chia đời sống, gọi điều này là ‘tốt’ và điều kia là ‘xấu’, do đó
tạo sự
mâu thuẫn giữa những điều đối nghịch? Không phải là không có tính ghen
ghét,
hận thù, tính hung bạo trong tâm tri và lòng con người, vắng bóng tình
thương,
tình yêu; nhưng tại sao chúng ta chia đời sống thành điều được gọi là
‘tốt’ và
điều được gọi là ‘xấu’? Không phải đời sống chỉ có một điều, đó là một
tâm trí
không-có-sự-lưu-ý sao? Chắc chắn khi có sự lưu ý đầy đủ, nghĩa là, khi
tâm trí
hoàn toàn biết, tỉnh thức, theo dõi, thì không có điều xấu hoặc tốt như
thế;
chỉ có một tình trạng tỉnh thức. Nhân ái khi ấy không là một phẩm chất,
không
là một đức hạnh, nó là trạng thái của tình yêu. Khi có tình yêu thì
không có
đỉều tốt cũng không có điều xấu, chỉ có tình yêu mà thôi. Khi bạn thực
sự yêu
người nào bạn không nghĩ đến điều tốt hay điều xấu, bạn hoàn toàn sống
với tình
yêu đó. Chỉ khi không còn sự lưu ý đầy đủ, không còn tình yêu thì khi
ấy có
xung đột giữa điều tôi hiện-là và điều tôi nên-là/Surely when there is
complete
attention, that is, when the mind is totally aware, alert, watchful,
there is
no such thing as evil or good; there is only an awakened state.
Goodness then
is not a quality, not a virtue, it is a state of love. When you really
love
somebody you are not thinking of good or bad, your whole being is
filled with
that love. It is only when there is the cessation of complete
attention, of love,
that there comes the conflict between what I am and what I should be.
Then that
which I am is ‘evil’, and that which I should be is the so-called
‘good.’Trong
trường hợp ấy sự kiện tôi là thì ‘xấu’, và sự kiện tôi nên là thì được
gọi là
‘tốt’.
Có
thể nào hoàn toàn không
suy nghĩ theo cách phân chia, không tách đời sống thành điều tốt và
điều xấu,
không bị vướng mắc vào sự xung đột này không? Xung đột giữa tốt và xấu
là cuộc
đấu tranh để trở thành điều gì đó. Lúc tâm trí muốn trở thành điều gì
đó thì phải
có sự cố gắng, sự xung đột giữa những điều tương phản. Đây không là lý
thuyết.
Bạn theo dõi tâm trí bạn và bạn sẽ thấy lúc tâm trí ngưng suy nghĩ theo
cách để
trở thành điều gì đó thì sự tác động ngưng lại – mà nó không là sự đình
trệ; nó
là trạng thái hoàn toàn chú ý, nó là tính nhân ái. Nhưng sự hoàn toàn
chú ý đó
không xảy ra bao lâu tâm trí còn vướng mắc trong sự cố gắng để trở
thành điều
gì đó/Is it at all possible not to think in terms of fragmentation, not
to
break life up into the good and the evil, not to be caught in this
conflict?
The conflict of good and evil is the struggle to become something. The
moment
the mind desires to become something, there must be effort, the
conflict
between the opposites. This is not a theory. You watch your own mind
and you
will see that the moment the mind ceases to think in terms of becoming
something, there is a cessation of action – which is not stagnation; it
is a
state of total attention that is goodness. But that total attention is
not
possible as long as the mind is caught in the effort to become
something.
Xin
hãy lắng nghe, không chỉ
điều tôi đang nói, nhưng chính hoạt động của tâm trí bạn, và nó sẽ vén
mở cho
bạn thấy tư tưởng cố gắng trở thành điều gì đó một cách dai dẳng khác
thường,
không ngừng phấn đấu để là điều gì khác hơn nó hiện là, mà chúng ta gọi
là sự
bất mãn. Chính sự cố gắng này để trở thành điều gì đó là ‘điều xấu’,
bởi vì nó
là sự lưu ý cục bộ, không là lưu ý toàn diện. Khi có lưu ý toàn diện
thì không
có tư tưởng trở thành, chỉ có tình trạng hiện là/hiện sinh/hiện
hữu/When there
is total attention, there is no thought of of becoming, there is only a
state
of being. Nhưng khi bạn hỏi, ‘Làm cách nào tôi tới được trạng thái hiện
là, làm
cách nào tôi ý thức đầy đủ?’ thì bạn đã đi vào con đường của ‘điều xấu’
rồi bởi
vì bạn muốn có kết qủa. Nhưng trái lại, nếu người ta chỉ nhận ra rằng
bao lâu
có sự trở thành, ráng sức, cố gắng là một điều gì đó, người ta ở trên
đường cùa
‘điều xấu’, nếu người ta có thể hiểu sự thật của điều đó, chỉ thấy sự
kiện như
nó là, thì khi ấy người ta sẽ thấy rằng đó là tình trạng hoàn toàn lưu
ý; và
tình trạng đó là tình thương, không có sự cố gắng ở trong đó./just see
the fact
as it is, then one will find that that is the state of total attention;
and
that state is goodness, there is no strife in it.
NH:
Những nền văn hóa lớn đều
dựa trên một mẫu mực, nhưng ông lại nói đến một nền văn hóa mới không
lệ thuộc
mẫu mực. Một nền văn hóa không mẫu mực có bao giờ có không?
K:
Tâm trí không phải tự do
đối với tất cả các mẫu mực để tìm thấy sự thật sao? Và được tự do để
thấy sự
thật, nó sẽ không tạo ra mẫu mực riêng của nó mà xã hội ngày nay không
thể nhận
biết sao? Tâm trí bị vướng mắc vào một mẫu mực, suy nghĩ trong mẫu mực,
bị tác
động bởi xã hội có thể tìm thấy điều-không-thể-đo lường được mà nó
không có mẫu
mực chăng? Ngôn ngữ này, tiếng Anh đang được xử dụng, là một kiểu mẫu
đã phát
triền qua nhiều thế kỷ. Nếu có sự sáng tạo và sự tự do không lệ thuộc
những
kiểu mẫu, khi ấy sự sáng tạo đó, sự tự do đó có thể dùng kỹ thuật của
ngôn ngữ;
nhưng qua kỹ thuật, qua mẫu mực của ngôn ngữ, không thể tìm thấy sự
thật. Qua
thực hành, qua thiền định loại đặc biệt nào đấy, qua kiến thức, qua bất
cứ hình
thức kinh nghiệm nào, tất cả điều đó đều ở trong một mẫu mực, nên tâm
trí không
bao giờ có thể hiểu sự thật là gì. Để hiểu sự thật là gì, tâm trí phải
tự giải
phóng mình khỏi những mẫu mực. Một tâm trí như thế là một tâm trí tĩnh
lặng, và
rồi nó tự sáng tạo hành động. Nhưng bạn thấy đấy, đa số chúng ta không
bao giờ
giải phóng mình khỏi những mẫu mực. Chẳng bao giờ có lúc nào mà tâm trí
hoàn
toàn thoát khỏi sự sợ hãi, sụ thích nghi, thói quen muốn trở thành điều
này
điều nọ, hoặc ở thế giới vật chất này hay trong thế giới tâm linh. Khi
diễn
biến/qúa trình của sự trở thành trong bất cứ chiều hướng nào hoàn toàn
chấm dứt
thì khi ấy Thượng Đế/sự thật xuất hiện và tạo ra một mẫu mực mới, một
nền văn
hóa của riêng nó/When the process of becoming in any direction
completely
ceases, then that which is God, truth, comes into being and creates a
new pattern,
a culture of its own.
NH:
Vấn đề của tâm trí và vấn
đề nghèo đói và mất quân bình của xã hội cần được xử trí và hiểu cùng
lúc.Tại
sao ông chỉ nhấn mạnh một vấn đề?
K:
Tôi chỉ nhấn mạnh một vấn
đề thôi sao? Và có vấn đề nghèo đói và mất quân bình của xã hội, vấn đề
thoái
hóa và đau khổ, tách biệt với vấn đề của tâm trí như thế sao? Không
phải chỉ có
một vấn đề, đó là tâm trí thôi sao? Chính tâm trí đã tạo ra vấn đề xã
hội; và
đã sinh ra vấn đề, nó lại cố gắng giải quyết không có sự tự thay đổi
chính mình
một cách căn bản. Bởi vậy vấn đề của chúng ta là tâm trí, tâm trí muốn
thấy
mỉnh cao hơn và từ đó tạo ra sự mất quân bình, theo đuổi sự thành đạt
trong
những hình thức khác nhau bởi vì nó cảm thấy an toàn trong của cải,
trong quan
hệ, hay trong ý tưởng, mà nó là kiến thức. Chính sự đòi hỏi liên tục
được an
toàn này tạo ra sự mất quân bỉnh mà nó là một vấn đề không bao giờ có
thể được
giải quyết cho tới khi chúng ta hiểu tâm trí tạo ra sự khác biệt, tâm
trí không
có tình yêu. Pháp luật sẽ không giải quyết vấn đề này, cũng không được
giải
quyết bởi những ngưở Cộng Sản hay những ngưởi Xã Hội. Vấn đề mất quân
bình chỉ
có thể được giải quyết khi có tình yêu, và tình yêu không chỉ là một
lời nói bị
bỏ qua. Một người có tình yêu không quan tâm ai ở trên cao, ai ở dưới
thấp; đối
với người đó không có sự quân bình cũng không có sự mất quân bình; mà
chỉ có
trạng thái hiện là/hiện sinh/hiện hữu, đó là tình yêu/The problem of
inequality
can be solved only when there is love, and love is not just a word to
be thrown
about . The man that loves is not concerned with who is superior and
who is
inferior; to him there is neither equality nor inequality; there is
only a
state of being.Nhưng chúng ta không biết trạng thái đó, chúng ta chẳng
bao giờ
cảm nhận trạng thái đó. Thế thì tâm trí hoàn toàn quan tâm tới hoạt
động và
công việc của nó, đã tạo ra sự đau khổ như thế trên thế giới này và sẽ
đi thẳng
tới sự tạo thêm sự phiền muộn, sự hủy diệt – làm thế nào một tâm trí
như thế
lại có thể đem lại một cuộc cách mạng toàn diện nơi chính nó?Chắc chắn
đó là
vấn đề.Và chúng ta không thể đem lại cuộc cách mạng này qua bất cứ cuộc
cải tạo
xã hội nào, nhưng khi chính tâm trí thấy sự cần thiết phải thực hiện
đìều này,
khi ấy có cuộc cách mạng.
Chúng
ta luôn luôn nói đến sự
nghèo đói, sự mất quân bình, và sự cải tạo bởi vì trái tim chúng ta
trống rỗng.
Khi có tình yêu chúng ta sẽ không có vấn đề, nhưng tình yêu không thể
hiện diện
qua bất cứ sự thực hành nào/When there is love we shall have no
problem, but
love cannot come into being through any practice. Nó chỉ có thể xuất
hiện khi
bạn vắng mặt, nghĩa là, khi bạn không còn quan tâm về bạn, địa vị, uy
tín, tham
vọng, nguyên nhân thất vọng của bạn, khi bạn hoàn toàn không còn nghĩ
về bạn,
không phải ngày mai nhưng ngay bây giờ. Sự bận rộn với chính mình thì
cũng thế,
nó có thể là sự bận rộn của người đang theo đuổi điều người ấy gọi là
Thượng
Đế, hoặc của người hoạt động cho một cuộc cách mạng xã hội. Và một tâm
trí bận
rộn như thế thì không bao giờ biết tình yêu là gì.
NH:
Hãy nói đến Thượng Đế cho
chúng tôi nghe.
K:
Thay vì tôi nói cho bạn
nghe Thượng Đế là gỉ, chúng ta hãy tìm xem chúng ta có thể thực hiện
trạng thái
khác thường đó không, không phải ngày mai hay một tương lai xa nào đấy,
nhưng
ngay bây giờ đang khi chúng ta cùng ngồi yên lặng nơi đây. Chắc chắn
điều đó
quan trọng hơn nhiều. Nhưng để tìm thấy Thượng Đế, tất cả niềm tin phải
ra đi.
Tâm trí sẽ khám phá ra sự thật là gì thì không thể tin vào sự thật,
không thể
có lý thuyết hay giả thuyết nào về Thượng Đế/But to find out what God
is, all
belief must go. The mind that would discover what is true cannot
believe in
truth, cannot have theories or hypotheses about God. Xin lắng nghe. Bạn
có
những giả thuyết, những niềm tin, bạn có giáo lý, bạn có đầy những ức
đoán. Đã
đọc sách này sách khác về sự thật hay Thượng Đế là gì, tâm trí bạn bồn
chồn một
cách lạ lùng. Một tâm trí đầy kiến thức thì không ngưng nghỉ; nó không
yên
lặng, nó chỉ bị làm cho nặng thêm, và chỉ sức nặng thôi không biểu thị
một tâm
trí tĩnh lặng. Khi một tâm trí đầy niềm tin, hoặc tin có Thượng Đế hoặc
không
có Thượng Đế thì nó bị làm cho nặng thêm, và một tâm trí nặng nề thì
không bao
giờ có thể tìm thấy sự thật là gì. Để tìm ra sự thật là gì, tâm trì
phải tự do,
tự do đối với những nghi thức, những niềm tin, những giáo điều, kiến
thức và
kinh nghiệm. Chỉ khi ấy tâm trí mới có thể nhận thức sự thật. Bởi vì
một tâm
trí như vậy thì yên tĩnh, không cỏn chuyển động ra, vào, là chuyển động
của dục
vọng. Nó không đè nén dục vọng, đó là năng lượng. Trái lại, cho một tâm
trí
được tĩnh lặng thì phải có năng lượng dồi dào; nhưng không thể có sự
chin chắn
hoặc đầy đủ năng lượng nếu như có bất cứ hình thức hoạt động ngoại cảnh
nào, và
do đó có một phản ứng ở nội tâm. Khi tất cả điều đó lắng xuống thì tâm
trí yên
tịnh.
Tôi
không mê hoặc làm các bạn
thành yên lặng. Chính bạn phải thấy sự quan trọng của việc buông bỏ,
vứt đi
không cố gắng, không cưỡng lại, tất cả những điều tích lũy của những
thế kỷ,
những điều dị đoan, kiến thức, những niềm tin; bạn phải thấy sự thật
rằng bất
cứ hình thức gánh nặng nào đều làm cho tâm trí không yên, phí phạm năng
lượng.
Để tâm trí được yên lặng thì phải có năng lượng dồi dào, và năng lượng
đó phải
tĩnh lặng. Và nếu bạn thực sự tới được trạng thái đó mà không cố gắng,
khi ấy
bạn sẽ thấy năng lượng đó, tĩnh lặng, có chuyển động của riêng nó mà
không là
hậu qủa do sự bắt buộc hay sức ép của xã hội. Bởi vì tâm trí đã có dư
thừa năng
lượng, vắng lặng và im lặng nên tâm trí tự nó trở thành điều siêu phàm.
Không
có người trải nghiệm điều siêu phàm; không có thực thể nào nói, ‘Tôi đã
thể
nghiệm chân lí.’Bao lâu còn có người trải nghiệm, chân lí không thể
hiện thực,
bởi vì người trải nghiệm là hoạt động thâu thập hoặc tiêu trừ kinh
nghiệm. Vì
thế phải hoàn toàn chấm dứt người trải nghiệm/There is no experience of
the
sublime; there is no entity who says. ‘I have experienced reality’. As
long as
there is an experience, reality cannot be, because the experiencer is
the
movement to gather experience or to liquidate experience. So there must
be a total
cessation of the experiencer.
Cứ
thử nghe điều này. Đừng cố
gắng, chỉ thấy và để mặc người trải nghiệm, lả hoạt động của tâm trí ở
trong
nội tâm và ở ngoại cảnh, phải tới chỗ kết thúc. Phải có sự chấm dứt
hoàn toàn
tất cả hoạt động như thế, và điều đó đòi hỏi năng lượng lạ lùng, không
là sự đè
nén năng lượng. Khi tâm trí hoàn toàn vắng lặng, nghĩa là, khi năng
lượng/sinh
lực không bị phung phí cũng không bị làm sai lạc bởi kỷ luật, thì
khi
ấy năng lượng/sinh
lực đó là tình yêu; khi ấy điều là sự thật thì không tách biệt với
chính năng
lượng/sinh lực đó/When the mind is completely still, that is, when
energy is
neither dissipated nor distorted through disciple, then that energy is
love;
then that which is real is not separate from that energy itself.
Bombay,
24 Tháng Mười Hai
1958
Cá
nhân là quan trọng nhất,
cho dù xã hội, tôn giáo, các chính phủ không nhìn nhận sự kiện đó. Bạn
rất quan
trọng bởi vì bạn là phương tiện duy nhất đem lại tính sáng tạo mạnh mẽ
của sự
thật. Chính bạn là môi trường trong đó sự thật này có thể hiện thực.
Nhưng bạn
sẽ nhận xét thấy trước rằng tất cả các chính phủ, các tôn giáo có tổ
chức và
các xã hội, dù xác quyết sự quan trọng của cá nhân, họ lại cố gắng xóa
sạch
phần quan trọng nhất của nó, cảm nghĩ của cá nhân, bởi vì họ muốn ý
kiến của
tập thể, một phản ứng của quần chúng. Nhưng tâm trí chỉ được tổ chức
theo một
mẫu mực của niềm tin nào đó, bị đè nặng bởi phong tục, bởi truyền
thống, bởi
kiến thức thì không là một tâm trí cá nhân. Chỉ có thể là một tâm trí
cá nhân
khi bạn dẹp bỏ tất cả những ảnh hưởng này bằng cảm nghĩ, bằng sự cân
nhắc và
hiểu biết bởi vì bạn đã hiểu ý nghĩa và giá trị hời hợt của chúng. Khi
ấy chỉ
có một tâm trí sáng tạo/An individual mind can only be when you
deliberately,
knowingly, with feeling, put all these influences aside because you
have
understood their signification, their superficial value. Then only is
there an
individual creative mind.
Thật
khó khăn lạ lùng khi
phải tách biệt cá nhân ra khỏi tập thể, và tuy thế không có sự tách
biệt này
thì không thể có sự thật. Như thế cá nhân đích thực không là cá nhân
chỉ có tên
gọi, những phản hồi của xúc cảm, những phản ứng của thói quen, ít nhiều
tài
sản, vv…, nhưng cá nhân đích thực là người ra sức cắt hết sự rối loạn
tư tưởng,
truyền thống ngăn cản sự tiến bộ, là người dẹp bỏ tất cả những điều này
và cố
gắng tìm ra lí do, điểm nòng cốt, trung tâm của sự đau khổ nơi con
người/So the
true individual is not the individual who merely has his own name,
certain
emotional responses, certain customary reactions, some proverty, and so
on, but
the true individual is he who is endeavouring to cut through this
confusion of
ideas, through this morass of tradion, who sets aside all these and
tries to
find the reason, the core, the center of human misery . Một người như
thế không
cầu đến sách vở, quyền hành, tập quán nổi tiếng, nhưng vứt bỏ tất cả
điều này
và bắt đầu tìm hiểu –thì người ấy là cá nhân đích thực. Nhưng đa số
chúng ta
lập lại, chấp nhận, tuân theo, mô phỏng, vâng lời - phải vậy không? -
bởi vì
đối với chúng ta vâng lời đã trở thành nguyên tắc – vâng lời trong gia
đình,
nghe theo sách vở, nghe theo đạo sư, thày, và vv…- và với sự vâng lời
chúng ta
cảm thấy an ninh, an toàn. Nhưng thực tế đời sống không an toàn; đời
sống không
bao giờ chắc chắn; trái lại đời sống là không chắc chắn nhất. Và vì nó
không
chắc chắn, nó cũng hết sức phong phú, không thể đo lường/And because it
is
uncertain it is also profoundly rich. Nhưng tâm trí trong sự tìm kiếm
của nó,
muốn thấy sự an toàn và an ninh, do đó nó vâng lời, tuân theo; và một
tâm trí
như thế thì hoàn toàn không là một tâm trí cá nhân.
Đa
số chúng ta không là những
cá nhân dù mỗi chúng ta đều có một tên gọi, hình dạng riêng, bởi vì
trạng thái
tâm trí bên trong bị thời gian* ràng buộc, bị đè nặng bởi phong tục,
truyền
thống và quyền lực - quyền lực của chính phủ, quyền lực cùa xã hội,
quyền lực
trong gia đình. Một tâm trí như thế không là một tâm trí cá nhân; tâm
trí cá
nhân ở ngoài tất cả điều đó; nó không ở trong khuôn mẫu của xã hội. Tâm
trí cá
nhân ở trong sự nổi dậy và vì thế không tìm kiếm an ninh. Tâm trí cách
mạng
chính trị không là tâm trí ở trong sự nổi dậy. Tâm trí cách mạng chính
trị chỉ
muốn thay đổi những điều theo một khuôn mẫu nào đó, và một tâm trí như
vậy
không là một tâm trí nổi dậy, một tâm trí không bằng lòng nơi chính
nó/Such a
mind is not an individual mind; the individual mind is outside of all
that; it
is not within the pattern of society. The revolutionary mind is not the
mind
that is in revolt. The revolutionary mind merely wants to alter things
according to a certain pattern, and such a mind is not a mind in
revolt, a mind
is in itself discontented.
Tôi
không biết bạn đã nhận
thấy sự bất mãn là một điều lạ lùng như thế nào hay không. Bạn chắc
phải biết
nhiều người trẻ bất mãn. Họ không biết làm gì; họ khổ sở, sống trong
tình trạng
nổi loạn, tìm kiềm điều này, thử điều kia, liên tục có những câu hỏi.
Nhưng khi
lớn lên họ tìm ra một việc làm, lấy vợ/lấy chồng và thế là hết. Sự bất
mãn chủ
yếu của họ bị buộc đi theo một hướng nhất định và rồi sự đau khổ bắt
đầu. Khi
còn nhỏ họ được cha mẹ, thày giáo, xã hội, tất cả đều bảo họ không được
bất
mãn, bảo họ tìm ra điều muốn làm và hãy làm điều ấy – nhưng nó luôn
luôn ờ
trong khuôn mẫu. Một tâm trí như thế không thực sự ở trong sự nổi dậy,
và bạn
cần một tâm trí thực sự nổi dậy để tìm sự thật, chứ không phải một tâm
trí
thích nghi. Nổi dậy nghĩa là nhiệt tình/Revolt means passion.
Như
thế trở nên một cá nhân
thì rất quan trọng, và chỉ có cá tính qua biết mình mà thôi/there is
individuality
only through self-knowing - bạn biết bạn, biết tại sao bạn mô phỏng,
tại sao
bạn thích nghi, tại sao bạn tuân hành. Bạn vâng lời vì sợ hãi, phải
không? Vì
muốn được an toàn bạn thích nghi, để có thêm sức mạnh, thêm tiền bạc,
hoặc điều
này hoặc điều khác. Nhưng để thấy điều gì bạn gọi là Thượng Đế, để thấy
có hay
không có sự thật đó thì phải là cá nhân chết đi với qúa khứ, chết đi
với kiến
thức, chết đi với kinh nghiệm; phải là một tâm trí hoàn toàn mới, tươi
tắn, vô
tư. Tôn giáo là sự khám phá điều là sự thật, nó có nghĩa bạn phải tìm
ra và
không theo người nào đó nói người ấy đã tìm thấy và muốn cho bạn biết
về điều
đó. Phải là một tâm trí tiếp nhận sự thật đó, chứ không phải một tâm
trí chỉ
chấp nhận sự thật qua lời nói và thích nghi với tư tưởng của sự thật đó
trong
hi vọng được an toàn/But to find what you call God, to find whether
there is or
is not that reality, there must be the individual who is dead to the
past, who
is dead to knowledge, dead to experience; there must be a mind that
wholly,
totally new, fresh, innocent. Religion is the discovery of what is
real, which
means that you have to find, and not follow somebody who says he has
found and
wants to tell you about it. There must be a mind that receives that
reality,
not a mind that merely accepts reality verbally and conforms to that
idea of
reality in the hope of being secure.
Vì
thế có sự khác biệt giữa
biết và cảm nhận, và tôi nghĩ hiểu điều này thì rất quan trọng. Với
chúng ta,
những sự giải thích là đầy đủ rồi, nó là ‘biết’. Chúng ta nói: ‘Tôi
biết tôi có
tham vọng, tôi biết tôi tham lam, tôi biết tôi căm ghét, nhưng biết như
thế
không thoát khỏi ảnh hưởng do sự kiện đó tác động. Bạn có thể biết bạn
căm
ghét, nhưng thực sự cảm thấy căm ghét và thoát khỏi ảnh hưởng của nó là
một điều
hoàn toàn khác với việc đi tìm sự giải thích nó và nguyên nhân của nó,
phải thế
không/You may know that you hate, but the actual feeling of hate and
the
freedom from it is an entirely different thing from the pursuit of the
explanation of it and the cause of it, is it not? Nghĩa là, biết tôi u
mê, ngốc
nghếch, và nhận thức cảm giác u mê và ngốc nghếch là hai điều hoàn toàn
khác
nhau. Cảm nhận bao hàm rất nhiều sức sống, rất nhiều sức mạnh, nghị
lực, nhưng
chỉ biết thôi thì chỉ tiếp cận đời sống một phần nào, chứ không tiếp
cận đầy
đủ. Bạn có thể biết một chiếc lá được hình thành như thế nào về phương
diện
thực vật học, nhưng cảm nhận một chiếc lá, ngửi thấy mùi của nó, thực
sự nhìn
thấy nó đòi hỏi thâm nhập rất sâu – vào chính mình. Tôi không biết bạn
đã từng
bao giờ cầm trong tay một chiếc lá và nhìn nó hay chưa. Các bạn tất cà
đều là
cư dân thành thị, đều bận rộn với chính các bạn, với công việc đang
tiến hành,
với sự thành tựu, với những hoài bão, những thái độ ghen ghét, những
người chỉ
huy, những mục sư, và tất cả những điều vô nghĩa còn lại khác có thể kể
ra. Đó
thật là thảm thương bởi vì nếu bạn đã biết cảm nhận sâu đậm thế nào thì
khi đó
bạn đã chan chứa thương cảm, đã làm gì đó, đã hành động với tất cả sự
sống của
bạn; nhưng nếu bạn chỉ biết rằng có sự nghèo đói, chỉ làm việc trí óc
để xoá
nghèo đói, như một viên chức chính phủ, một người cải cách ở làng, mà
không có
sự cảm nhận thì bạn làm gì cũng rất ít quan trọng.
Bạn
biết đấy, hiểu sự thật
thì cần thiết phải có nhiệt tình – tôi dùng chữ nhiệt tình trong ý
nghĩa đầy đủ
của nó - bởi vì cảm nhận mạnh mẽ, sâu đậm, với tất cả sự sống của bạn
là thiết
yếu; bằng không điều lạ lẫm được gọi là sự thật sẽ không bao giờ tới
với bạn.
Nhưng các tôn giáo, các vị thánh của bạn nói bạn không được ham muốn,
bạn phải
kiểm soát, đè nén, vượt qua, tiêu diệt nó, nghĩa là bạn tới sự thật đã
bị cháy
rụi, hư hại, trống rỗng, đã chết. Bạn phải có nhiệt tình để gặp điều kỳ
lạ gọi
là đời sống, và bạn không thể có nhiệt tình, cảm nhận mạnh mẽ, nếu bạn
bị xã
hội, phong tục tập quán mê hoặc, nếu bạn bị vướng mắc vào những niềm
tin, những
giáo điều, những lễ lạy. Vì thế để lĩnh hội ánh sáng đó, sự thật đó, sự
thật
không thể đo lường đó, chúng ta phải trước hết hiểu điều chúng ta gọi
là tôn
giáo và thoát khỏi ảnh hưởng của nó/we must first understand what we
call
religion and be free from it – không bằng lời nói, không bằng lý trí,
không qua
sự giải thích, nhưng bằng thực sự tự do; bởi vì tự do – không phải tự
do bởi lý
trí của bạn nhưng là trạng thái tụ do thực sự - nó cho sức sống. Khi
bạn đã đi
qua tất cả chuyện vô lí này, khi bạn đã dẹp bỏ những điều lầm lẫn,
những điều
thuộc về truyền thống, những điều mô phỏng thì khi ấy tâm trí có tự do,
tâm trí
tỉnh thức, nhiệt tình. Và chỉ một tâm trí như vậy mới có thể hành động.
Vì
thế, như những cá nhân con
người, bởi vì bạn và tôi là những người quan tâm chứ không phải tập thể
- không
có một tập thể như thế ngoại trừ một thực thể chính trị, nên chúng ta
hãy tìm
ra ý nghĩa của tôn gìáo. Đối với đa số chúng ta tôn giáo là gì? Đó
chẳng phải
là một niềm tin vào điều gì đó, vào một thần thánh siêu phàm điều
khiển, uốn
nắn, đem hi vọng đến và hướng dẫn chúng ta sao? Và chúng ta cầu nguyện
và lễ
lạy thực thể đó; trong danh xưng của đấng đó chúng ta hy sinh, làm
lành, cầu
nguyện, cầu xin, và hướng về ‘Ngài’như ‘Cha’cứu giúp chúng ta trong cơn
khốn
khó. Đối với chúng ta, tôn giáo không những chỉ là
ảnh tượng được ghi khắc trong đền thờ, những chữ
viết trong đền thờ
Hồi Giáo, hoặc thánh giá trong nhà thờ, không những chỉ là ảnh tượng
ghi khắc
làm bằng tay nhưng còn làm bằng tâm trí, ý tưởng nữa. Như vậy, đối với
chúng
ta, tôn giáo rõ ràng là một phương tiện để chúng ta chạy trốn nỗi buồn
phiền,
những hoang mang, bối rối hàng ngày/So to us, religion is obviously a
means of
escape from our daily sorrow, our daily confusion. Chúng ta không hiểu
những sự
mất quân bình, những bất công, cái chết, những nỗi buồn triền miên,
những cuộc
tranh giành, vật lộn, những nỗi thất vọng và tuyệt vọng, nên chúng ta
quay qua
thần thánh nào đó, qua những lễ lạy, qua đám đông, những lời cầu
nguyện, và
theo cách ấy hi vọng tìm được sự khuây khoả, niềm an ủi. Và trong qúa
trình
này, các thánh, các triết gia, các kinh sách đè nặng chúng ta bằng sự
giải
thích riêng biệt, bằng tục lệ, bằng truyền thống. Đó là lối sống của
chúng ta,
phải vậy không? Nếu bạn nhìn vào chính mình, bạn sẽ không đồng ý rằng
đó là
nguyên tắc đại cương của tôn giáo sao? Nó do tâm trí tạo ra để tự an
ủi, chứ
không là điều gì làm đời sống phong phú và trọn vẹn, hoặc cho cuộc sống
một
nhiệt tình. Vì thế chúng ta biết điều đó – nhưng ở đây biết và cảm nhận
lại là
hai điều khác nhau. Biết sự giả mạo của tôn giáo có-tổ-chức là một
điều, nhưng
thấy nó, buông bỏ nó tất cả - đòi hỏi thực sự cảm nhận rất sâu đậm. Do
đó vấn
đề - không dễ dàng có câu trà lời cho nó – là làm cách nào buông bỏ một
điều,
làm cách nào chết đi đối với nó, đối với mọi sự giải thích này, với mọi
vị
thánh không thực này; bởi vì tất cả những vị thánh do tâm trí hay bàn
tay làm
ra thì đều giả. Không sự giải thích nào sẽ làm bạn chết đi đối với nó.
Vậy
thì điều gì sẽ làm bạn
chết đi đối với nó, khiến bạn nói: ‘Nay tôi buông bỏ nó chứ?’Thông
thường chúng
ta bỏ điều gì đó để lấy một đìều khác tốt đẹp hơn, và gọi nó là sự hy
sinh/sự
quên mình. Nhưng chắc chắn đó không là sự quên mình. Quên mình là từ bỏ
mà
không biết tương lai là gì, không biết ngày mai sẽ ra sao/To renounce
means to
give up not knowing what the future is, not knowing what tomorrow will
bring.
Nếu bạn từ bỏ, biết ngày mai sẽ đem lại gì thì khi ấy chỉ là một sự
trao đổi, một
món hàng mua bán ở chợ; nó không giá trị gì. Khi thân xác chết, bạn
không biết
điều gì xảy ra tiếp theo; đó là chung cuộc. Cũng như vậy, chết đi, từ
bỏ, dẹp
qua bên một cách toàn diện và sâu đậm tất cả những điều chúng ta gọi là
tôn
giáo, mà không biết điều gì sẽ xảy ra - bạn đã trải qua điều này chưa?
Tôi
không biết nó có là một vấn đề cho bạn hay không, nhưng chắc chắn nó
phải là
vấn đề cho bất cứ ai tỉnh thức, nhận thấy tất cả, bởi vì có sự bất công
rộng
lớn như thế trên thế giới. Tại sao người này đi xe hơi trong khi người
kia đi
bộ? Tại sao có người đói khát, nghèo khổ, và cũng có những người qúa
giàu? Tại
sao có người có chức có quyền, củng cố uy quyền bằng hành động tàn bạo?
Tại sao
một đứa bé chết? Tại sao có sự đau khổ quá quắt này ở khắp nơi? Một
người có
tất cả những câu hỏi này phải thực sự nung nấu nó, không là tìm ra mấy
nguyên
nhân kém suy xét - một nguyên nhân kinh tế, xã hội hay chính trị. Rõ
ràng rằng
người thông minh phải quay qua điều gì đó có ý nghĩa hơn rất nhiều so
với những
nguyên nhân chỉ bằng sự giải thích. Và vấn đề của chúng ta nẳm ở chỗ
này/Obviously the intelligent man must turn to something much more
significant
than mere explanatory causes. And this is where our problem lies.
Điều
đầu tiên và quan trọng
nhất là không hài lòng với những sự giải thích, với chữ ‘nghiệp’, với
những
triết lý xảo trá, nhưng là nhận thấy rõ, cảm nhận đầy đủ rằng có vấn đề
vô cùng
lớn này mà không chỉ sự giải thích nào có thể xóa sạch. Nếu bạn cảm
thấy thế,
bạn sẽ thấy có một cuộc cách mạng trong tâm trí/The first and most
important
thing is not to be satisfied by explanations, not to be satisfied with
cunning
philosophies, but to realize, to feel completely that there is this
immense
problem that no mere explanation can wipe away. Thường thường nếu người
ta tìm
ra một giải pháp cho sự đau khổ, người ta trở nên đau khổ hơn, yếm thế,
hoặc
người ta chế ra một triết thuyết dựa trên tâm trạng thất vọng của mình.
Nhưng
nếu tôi đối mặt với sự kiện đau khổ, rằng có cái chết, tình trạng thoái
hóa, và
nếu tâm trí cởi bỏ tất cả những sự giải thích, tất cả những giải pháp,
tất cả
những giải đáp, thì khi ấy tâm trí trực tiếp đối mặt với chính sự kiện;
và một
cách lạ lùng, tâm trí chúng ta lại không bao giờ cho phép sự nhận thức
trực
tiếp đó/But if I am faced with the fact of suffering, that there is
death,
deterioration, and if the mind is stripped of all explanations, all
solutions,
all answers, then the mind is directly confronted with the thing
itself; and
curiously, our mind never allows that direct perception.
Bởi
vậy có sự khác biệt giữa
thấy và biết, cảm nhận và yêu thương/So there is a difference between
seeing
and knowing, feeling and loving. Cảm nhận và yêu thương không có nghĩa
sự sùng
bái/dâng hiến; bạn không thể tới sự thật qua sự sùng bái. Mải mê với
một ý
tưởng thường được gọi là sự tận tâm/tận tình/dâng hiến, nhưng nó loại
trừ sự
thật, bởi vì bằng sự mải mê với điều gì đó bạn chỉ đồng hóa mình với
điều đó/by
giving yourself up to something you are merely identifying yourself
with that
thing. Yêu các vị thánh, choàng vòng hoa cho đạo sư, lập lại những từ
nào đấy,
bị mê hoặc đang khi vị ấy có mặt, và khóc lóc - bạn có thể lảm tất cả
điều đó
ngàn năm sau nhưng bạn sẽ không bao giờ thấy sự thật. Để thấy, để cảm
nhận, để
yêu một đám mây, một cái cây, một con người, đòi hỏi sự chú tâm lớn lao
và làm
thế nào bạn có thể chú ý khi tâm trí bạn bị kiến thức làm sao lãng?
Kiến thức
hữu dụng về phương diện kỹ thuật, và tất cả là vậy/To perceive, to
feel, to
love a cloud, a tree, a human being, requires enormous attention, and
how can
you attend when your mind is distracted by knowledge?Knowledge is
useful
technologically. Nếu một bác sĩ y khoa không biết mổ, thì tốt hơn nên
từ giã
ông ấy. Kiến thức thì cần thiết ở mức độ nào đó, về một phương diện nào
đó,
nhưng kiến thức không là sự giải đáp đầy đủ cho sự đau khổ của chúng
ta. Giải
đáp trọn vẹn nằm ở sự cảm nhận, sự nhiệt tình khi cái tôi của bạn vắng
mặt, khi
bạn xác thật với tất cả sự hiện hữu của bạn/The total answer lies in
this
feelin, this passion that comes when there is the absence of yourself,
when you
are obvious of all that you are . Phẩm chất đó của sự nhiệt tình thì
cần thiết
để cảm nhận, để lĩnh hội, để yêu.
Sư
thật không có tính lý
trí/Reality is not intellectual; nhưng từ thủa nhỏ, qua giáo dục, qua
mọi hình
thức gọi là học tập chúng ta đã đem lại một tâm trí thông minh, ganh
đua, tranh
thắng, chồng chất thông tin –nó là trường hợp của các luật sư, các nhà
chính
trị, các nhà kỹ thuật và các nhà chuyên môn. Tâm trí chúng ta được làm
cho sắc
sảo thêm, lanh lợi ra, và nó trở thành điều quan trọng nhất để tiếp tục
đi tới;
và vì thế tất cả tình cảm, xúc cảm của chúng ta đã tàn lụi. Bạn không
cảm thông
với người nghèo trong cảnh cùng khổ của người ấy; bạn không bao giờ
thấy vui
khi nhìn một người giàu có lái chiếc xe hơi đẹp; bạn chẳng bao giờ
thích thú
khi thấy một khuôn mặt đẹp; chẳng có sự rộn ràng khi bạn nhìn thấy một
cây cầu
vòng hay vẻ tuyệt đẹp của một bãi cỏ xanh. Chúng ta qúa bận rộn với
công việc,
với tình cảnh cực khổ đến nỗi không có lúc nào rảnh rang để cảm thấy
tình yêu,
sự tử tế, tính bao dung là gì. Ấy vậy không có tất cả điều này mà chúng
ta lại
muốn biết Thượng Đế là gì! Thật ngốc nghếch không thể tin được và ấu
trĩ biết
bao! Yet without all this we want to know what God is! How incredibly
stupid
and infantile! Bởi thế rất quan
trọng
cho cá nhân sống lại – không phải là phục hồi; bạn không thể phục hồi
những
tình cảm đã chết, vinh quang đã tắt. Nhưng chúng ta không thể sống mãnh
liệt,
trọn vẹn, phong phú, ngay chỉ trong một ngày thôi sao? Vì một ngày như
thế bao
trùm cả ngàn năm. Đây không là sự tưởng tượng của thi ca. Bạn sẽ biết
nó khi
bạn đã sống một ngày huy hoàng không thời gian, không tương lai, không
qúa khứ;
khi đó bạn sẽ biết sự toàn vẹn của trạng
thái khác thường đó. Sống như thế chẳng có gì liên quan tới kiến
thức/You will
know of it when you have lived one rich day in which there is no time,
no
future, no past; you will know then the fullness of that extraordinary
state.
Such living has nothing to do with knowledge.
Bombay,
8 March 1961
Tôi
không thể thấy bất cứ
điều gì, không thể quan sát rõ ràng, chính xác, khi tôi tự xưng là một
người Ấn
Độ giáo, một người Cơ Đốc giáo, một người Phật giáo – toàn bộ truyền
thống ,
phong tục, tập quán là những điều đó, là sức nặng của kiến thức, là sự
tác động
của hòan cảnh. Với tâm trí đó tôi chỉ có thề nhìn đời sống, nhìn điều
gì đó như
một người Cơ Đốc giáo, một người Ấn Độ giáo, một người Phật giáo, một
người
quốc gia, một người Cộng Sản, như điều nọ điều kia; và như thế ngăn cản
sự quan
sát. Giản dị là như thế.
Khi
tâm trí quan sát chính nó
như một thực thể bị điều-kiện-hoá/bị hoàn cảnh tác động thì đó là một
trạng
thái. Nhưng khi tâm trí nói, ‘Tôi bị điều kiện hóa/bị tác động bởi hoàn
cảnh’,
lại là một trạng thái khác.Trong trạng thái đó có ‘Tôi’ là người quan
sát theo
dõi trạng thái bị điều-kiện-hóa. Khi tôi nói, ‘Tôi thấy bông hoa’, thì
có người
quan sát và đối tượng quan sát; người quan sát khác với vật quan sát;
do đó có
khoảng cách không gian, có khoảng cách thời gian, có tính hai mặt, có
những đối
kháng; và rồi có sự vượt qua, chiến thắng những đối kháng, có sự nối
kết hai
mặt/and then there is the overcoming of the opposites, the cementing of
the
dual. Đó là một trạng thái. Rồi có một trạng thái khác- tâm trí quan
sát chính
nó khi bị điều-kiện-hoá – trong đó không có người quan sát và vật quan
sát/when
the mind observes itself as being conditioned – in which there is no
observer
and the thing observed. Bạn thấy sự khác nhau chứ?
*
Liệu
tâm trí bạn có thể biết
nó bị điều-kiện-hoá không như người quan sát theo dõi chính nó bị
điều-kiện-hóa
không – có thể ngay bây giờ, không phải ngày mai, không phải phút sau,
cái
trạng thái trong đó không có người quan sát - giống
như khi bạn đang nóng giận không?/Việc này cần
hết sức chú ý.
Không phải là tập trung. Khi bạn tập trung thì có tính hai mặt. Can
your mind
be aware that it is conditioned not as observer watching itself being
conditioned – experiencing now, not tomorrow, not the next minute, the
state in
which there is no observer – the same as the state you experience when
you are
angry?This demands tremendous attention. Not concentration; When you
concentrate, there is duality. Khi bạn tập trung vào điều gì, tâm trí
tập trung
theo dõi điều đó; vì thế có tính hai mặt. Trong sự chú ý không có tính
hai mặt
bởi vì trong đó chỉ có trạng thái trải nghiệm/In attention there is no
duality
because in that state there is only the state of experiencing.
Khi
bạn nói, ‘Tôi phải tự do
đối với tất cả các tác động của hoàn cảnh, tôi phải thể nghiệm’,thì vẫn
có
‘Tôi’là tâm điểm từ đó bạn quan sát; vì thế, trong nó vẫn hoàn toàn
không có tự
do bởi vì luôn luôn có tâm điểm, là định kiến, là hồi ức, là một điều
đang theo
dõi, nói, ‘Tôi phải, Tôi không phải’. Khi tôi đang nhìn, khi tôi đang
trải
nghiệm thì có trạng thái không-người-quan-sát, một trạng thái không có
tâm điểm
từ đó bạn nhìn. Lúc bạn thực sự đang đau thì không có ‘Tôi’. Lúc bạn vô
cùng
hân hoan thì không có người quan sát; cả bầu trời đầy ắp niềm hân hoan
mà bạn
là thành phần của nó, toàn bộ là hoan lạc. Trạng thái tâm trí này diễn
ra khi
tâm trí thấy trạng thái cố gắng để trở nên, để thành tựu và nói về
tính-không-thời-gian là sai/This state of mind takes place when the
mind sees
the falseness of the state of mind that attempts to become, to achieve,
and
talks about timelessness. Trạng thái không-thời-gian chỉ có khi không
có người
quan sát/There is a state of timelessness only when there is no
observer.
NH:
Tâm trí đã quan sát đìều
kiện/tình hình của nó, liệu có thể vượt quá tư tưởng và tính hai mặt
không?
K:
Bạn thấy bạn không chịu
quan sát điều gì đó một cách rất đơn giản như thế nào chứ? Thưa bạn,
khi bạn
nóng giận, thì trong trạng thái đó, có một ý nghĩ, một người quan sát
nào
không? Khi bạn say mê, có sự kiện nào khác ngoại trừ nó không? Khi bạn
đầy lòng
ghen ghét thì có người quan sát, ý tưởng nào, và tất cả những điều nào
khác có
thể kể ra không? Khoảnh khắc một giây sau, nó xuất hiện nhưng trong
trạng thái
hoàn toàn khác.
NH:
Tình yêu có hướng về mục
tiêu nào không? Trong tình yêu có tính hai mặt không?
K:
Thưa bạn, tình yêu không
hướng về điều gì đó. Ánh nắng không hướng về bạn và tôi; nó ở đó.
Người
quan sát và đối tượng
quan sát, ý tưởng và hành động, ‘điều-hiện-là’ và ‘điều-nên-là’ – trong
này có
tính hai mặt, những đối kháng của nó và sự thôi thúc nối kết hai mặt;
mâu thuẫn
của hai mặt ở trong phạm vi đó. Nó hoàn toàn là phạm vi của thởi gian.
Với tâm
trí đó, bạn không thể tiếp cận hay khám phá có hoặc không có thời gian
hay
không. Bằng cách nào tâm trí có thể xoá sạch phạm vi đó? Không là ‘cách
nào’,
không là cơ chế, không là phương pháp, bởi vì lúc bạn áp dụng một
phương pháp
thì bạn lại ở trong phạm vi thời gian. Khi đó vấn đề là: có thể nào
nhảy vọt ra
khỏi phạm vi đó không? Bạn không thể làm chuyện này bằng sự thay đổi từ
từ, bởi
vì như thế lại bao hàm thời gian. Tâm trí có thể xoá sạch
sự-điều-kiện-hoá (ảnh
hưởng do tác động của hoàn cảnh), không qua thời gian nhưng qua nhận
thức trực
tiếp không? Có nghĩa rẳng tâm trí phải thấy cái sai và cái đúng. Khi
tâm trí
nói, ‘Tôi phải tìm ra không-thời-gian là gì’, một câu hỏi như thế cho
một tâm
trí dính líu với thời gian thì không có câu trả lời. Nhưng tâm trí là
sản phẩm
của thời gian có thể tự làm sạch – không qua cố gắng, không qua kỷ luật
chăng?Tâm trí có thể tẩy sạch sự-điều-kiện-hoá không do nguyên nhân nào
không?
Nếu có một nguyên nhân thì khi ấy bạn lại trở lui vào thời gian/If it
has a cause
then you are back again in time.
Như
thế bạn bắt đầu tìm hiểu
tình yêu là gì, một cách phủ định như tôi đã giải thích trước. Rõ ràng
tình yêu
có một động lực thì không là tình yêu/Obviously love that has a motive
is not
love. Khi tôi tặng một ông xếp lớn một bó hoa vì tôi muốn xin một việc
làm, vì
tôi muốn điều gì đó nơi ông thì như thế là kính trọng hay thực sự là
bất kính?
Người không-bất-kính thì tự nhiên kính trọng/The man who has no
disrespect is
naturally respectful. Đó là một tâm trí ở trạng thái phủ định – không
là đối
nghịch của xác định, nhưng là phủ định thấy điều sai, và gìữ nó lại như
một
điều không đúng – thì đó là tâm trí có thể tìm hiểu/It is a mind that
is in a
state of negation – which is not the opposite of the positive, but the
negation
of seeing what is false, and putting away the false as a false thing –
that can
inquire.
Khi
tâm trí thấy hết sự kiện,
rằng qua thời gian, nó làm được những gì nó muốn, nó không bao giờ có
thể tìm
thấy điều khác, thì khi ấy có điều khác/When the mind has completely
seen the
fact that through time, do what it will, it can never find the other,
then
there is the other. Nó là điều gì đó rộng lớn hơn nhiều,
không-giới-hạn,
không-thể-đo-lường; là năng lượng/sinh lực không có bắt đầu và không có
kết
thúc/It is something much vaster, limitless, immesurable; it is energy
without
a beginning and without an end. Bạn không thể tới đó, không tâm trí nào
có thể
tới đó, duy nhất nó ‘tồn tại’. Chúng ta chỉ phải quan tâm việc tảy rửa
- nếu có
thể làm sạch nó – không từ từ. Đó là sự vô tư. Chỉ một tâm trí vô tư
mới có thể
thấy điều này, điều khác thường giống như một dòng song này/That is
innocency.
It is only an innocent mind that can see this thing, this extraordinary
thing
like a river. Bạn biết một dòng sông là gì chứ? Bạn đã từng ngồi trên
thuyền
quan sát hay bơi qua một dòng sông chưa? Đó thật là điều tuyệt vời!
Dòng sông
có thể có một chỗ bắt đầu và một nơi kết thúc. Chỗ bắt đầu không là
dòng sông
và nơi kết thúc không là dòng sông. Dòng sông ở giữa; nó đi qua những
làng mạc,
mọi vật bị kéo vào nó; nó đi qua những thành thị, tất cả bị ô nhiễm bởi
các hóa
chất độc hại; rác rến và nước cống đổ vào nó; và một vài dậm xa hơn, nó
đã tự
làm sạch; chính là trong dòng sông mọi thứ sinh sống – cá ở bên dưới và
con
người uống nước ở bên trên. Đó là dòng sông; nhưng đằng sau đó, có áp
lực khủng
khiếp của nước, và chính diễn biến tự-làm-sạch này là dòng sông.
Tâm trí
vô tư giống như năng
lượng/sinh lực đó. Nó không có khởi đầu và không có kết thúc. Đó là
Thượng Đế.
Không phải Thượng Đế cuả đền thờ/It is God. Not the temple God. Không
bắt đầu
và không kết thúc, do đó nó tức thì và không-thời-gian. Và tâm trí
không thể
tới nó được. Tâm trí đo lường trong thời gian thì phải tự xoá mình và
nhập vào
đó mà không biết điều đó/The mind that measures in time must wipe
itself away
and enter into that without knowing that; bởi vì bạn không thể biết nó,
bạn
không thể nếm trải nó, nó không màu, không có không gian, không hình
thề. Điều
này là đối với diễn giả, không phải đối với bạn, bởi vì bạn đã không bỏ
lại
điều kia. Đừng nói có trạng thái đó – nó là điều không thực khi lời nói
đó là
của một người đang bị ảnh hưởng. Tất cả những gì bạn có thể làm là nhảy
ra khỏi
nó, và rồi bạn sẽ biết. Khi đó bạn sẽ không còn biết: bạn là thành phần
của trạng
thái kỳ diệu này/Then you won’t even know. You are part of this
extraordinary
state.
Luân
Đôn, 23 Tháng Mười 1949
Kinh
nghiệm không là thước
đo, không là đường dẫn đến sự thật bởi vì, sau hết, chúng ta kinh ghiệm
theo
niềm tin, theo hoàn cảnh chúng ta bị điều kiện hóa/bị hoàn cảnh tác
động; và
niềm tin đó rõ ràng lẩn trốn/né tránh chính chúng ta. Để biết mình, tôi
không
cần có bất cứ niềm tin nào; tôi chỉ phải quan sát tôi một cách rõ ràng
và không
chọn lựa/Experience is not a measure, is not the way to reality
because, after
all, we experience according to our belief, according to our
conditioning, and
that belief is obviously an escape from ourselves./To know myself, I
need not
have any belief; I only have to watch myself clearly and choicelessly –
quan
sát tôi trong mối quan hệ, trong sự né tránh, trong sự gắn bó/watch
myself in
relationship, watch myself in escape, watch myself in attachment. Người
ta phải
quan sát mình không thành kiến, không kết luận, không quyết đoán. Trong
sự
thấy, biết thụ động đó, người ta khám phá cảm giác cô đơn khác
thường.One has
to watch oneself without any prejudice, without any conclusion, without
any
determination. In that passive awareness, one discovers this
extraordinary
sense of aloneness. Tôi chắc rằng đa số chúng ta đã tửng cảm thấy điều
này -
cảm giác hoàn toàn trống không mà không gì có thể lấp đầy/-the sense of
complete emptiness that nothing can fill. Chỉ ở trong trạng thái đó mọi
giá trị
mới hoàn toàn chấm dứt, chỉ khi chúng ta có thể cô đơn và đối mặt với
sự cô đơn
đó mà không có bất cứ cảm tưởng né tránh nào, chỉ khi đó sự thật mới
xuất hiện.
Bởi vì các giá trị chỉ là hậu quả của hoàn cảnh chúng ta bị điều kiện
hoá,
giống như kinh nghiệm, chúng được đặt trên một niềm tin và là một trở
ngại cho
sự hiểu biết chân lí. It is only in abiding in that state when all
values have
utterly ceased, only when we are capable of being alone and facing that
aloneness without any sense of escape, only then that reality comes
into being.
Because values are merely the result of our conditioning; like
experience, they
are based on a belief, and are a hindrance to the understanding of
reality.
Nhưng
đó là một công việc khó
khăn mà đa số chúng ta không muốn thực hiện. Vì thế chúng ta bám vào
những kinh
nghiệm, thần bí và dị đoan, những kinh nghiệm của mối quan hệ, của điều
được
gọi là tình yêu, và kinh nghiệm của sự thủ đắc. Những điều này trở nên
rất quan
trọng, bởi vì chúng làm nên chúng ta. Chúng ta được làm nên bởi những
niềm tin,
những tác động của hoàn cảnh, những ảnh hưởng của môi trường. Đó là cơ
sở nền
móng của chúng ta, và từ cơ sở đó chúng ta xét đoán, đánh giá. Và khi
người ta
thông suốt, hiểu toàn bộ cơ sở này thì người ta tới chỗ hoàn toàn cô
đơn. Người
ta phải hoàn toàn cô đơn thì mới thấy sự thật /And when one goes
through,
understands, the whole process of this background,
then one comes to a point where one is
utterly alone.One must be alone to find reality– mà nó không có nghĩa
sự lẩn
tránh, sự rút lui khỏi đời sống. Trái lại nó triệt để làm đời sống mãnh
liệt
hơn bởi vỉ khi đó nó được tự do đối với cơ sở, đối với ký ức của những
kinh
nghiệm lẩn trốn. Trong sự cô đơn đó, trong sự cô độc đó, không có sự
chọn lựa,
không có sự sợ hãi điều-hiện-là. Sự sợ hãi chỉ nổi lên khi chúng ta
không muốn
thừa nhận hoặc không muốn thấy điều-hiện-là/In that aloneness, in that
loneliness, there is no choice, there is no fear of what is. Fear
arises only
when we are unwilling to acknowledge or see what is.
Do
đó để chân lý hiện thực,
cần thiết phải bỏ qua bên vô số những sự lẩn tránh người ta đã dựng nên
và
vướng mắc vào. Nếu bạn quan sát, bạn sẽ thấy chúng ta xử sự với người
ta như
thế nào – với những người chồng, những người vợ, những nhóm người,
những người
mang quốc tịch khác nhau - để lẩn tránh chúng ta. Chúng ta tìm kiếm
nguồn an ủi
trong mối quan hệ. Như thế đem lại những kinh nghiệm nào đấy và chúng
ta bám
vào chúng. Để lẩn tránh chúng ta, kiến thức cũng quan trọng khác
thường; nhưng
kiến thức rõ ràng không là đường dẫn đến chân lý/but knowledge is
obviously not
the way to reality. Tâm trí phải hoàn toàn trống vắng và tĩnh lặng để
chân lý
hiện thực. Mind must be completely empty and still for reality to come
into
being. Nhưng một tâm trí râm ran với kiến thức, ham tư tưởng và niềm
tin, nói
huyên thuyên mãi thì không thể tiếp nhận điều-hiện-là/But a mind that
is
rattling around with knowledge, addicted to ideas and beliefs, ever
chattering,
is incable of receiving that which is.
Tương
tự, nếu chúng ta tìm
kiếm nguồn an ủi trong mối quan hệ, khi ấy mối quan hệ lẩn tránh chúng
ta.
Trong quan hệ chúng ta muốn sự an ủi, muốn điều gì đó để nương tựa,
muốn sự
nâng đỡ, muốn được yêu, muốn bị kiểm soát/khống chế - tất cả cho thấy
sự sống
nghèo nàn của chúng ta. Tương tự chúng ta ham muốn của cải, tên tuổi,
chức
tước, quyền sở hữu, điều đó cho thấy chúng ta thiếu thốn ở bên trong.
Khi
nhận thấy đây không là
đường dẫn tới chân lý, người ta tới trạng thái tâm trí không tìm kiếm
nguồn an
ủi nữa, hoàn toàn hài lòng với điều-hiện-là – mà nó không có nghĩa tình
trạng
tù hãm/mụ mẫm. Trốn chạy điều-hiện-là thì chết; nhìn nhận và biết
điều-hiện-là
thì sống/In the flight from what is there is death; in the recognition
and
awareness of what is there is life. Vì vậy kinh nghiệm dựa trên sự
điều-kiện-hóa, kinh nghiệm của một niềm tin – mà nó là hậu quả của sự
lẩn
tránh– và kinh nghiệm của mối quan hệ, những điều này trở thành trở
ngại, cản
ngăn; chúng che giấu sự nghèo nàn của chúng ta. Và chỉ khi chúng ta
nhận ra
những điều này là sự lẩn tránh, thì mới thấy giá trị đích thực của
chúng, là
khả năng yên tĩnh, vắng lặng, ở trong sự trống không đó, ở trong sự cô
đơn đó.
Và khi tâm trí rất yên tĩnh, không chấp nhận cũng không phủ nhận, biết
điều-hiện-là một cách thụ động thì khi ấy chân lý không thề đo lường có
khả
năng hiện thực/And when the mind is very quiet, neither accepting nor
rejecting, being passively aware of that which is, then there is a
possibility
for that immeasurable reality to be .
Người
hỏi/NH: Có hay không có
một chương trình thiêng liêng của Thượng Đế? Nếu không có, sự phấn đấu
của
chúng ta có ý nghĩa gì?
Krishnamurti:
Tại sao chúng
ta phấn đấu? Và chúng ta phấn đấu để được gì? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu
chúng ta
không phấn đấu? Chúng ta có sẽ bị trì trệ, suy sụp không? Sự phấn đấu
bền bỉ
này để thành điều gì đó, nó là gì? Sự phấn đấu này, nỗ lực này biểu lộ
điều gì?
Sự hiểu biết có đến qua nỗ lực và qua phấn đấu không? Người ta liên tục
phấn
đấu để trở nên tốt hơn, để thay đổi mình, để thích hợp với một mẫu mực
nào đó,
để trở thành điều gì đó - từ thư ký tới người quản lý, từ người quản lý
tới nhà
thần học. Cố gắng này có đem lại sự hiểu biết không?
Tôi
nghĩ rằng vấn đề nỗ lực
phải được thực sự hiểu biết. Điều gì làm chúng ta cố gắng, và chúng ta
muốn nói
gì với ‘ý muốn tương lai’?/What is it that is making the effort, and
what do we
mean by ‘the will to be’? Không phải là chúng ta cố gắng để đạt được
một kết
qủa, để trở nên tốt hơn, đạo đức nhiều hơn hay ít hơn về một chuyện gì
khác
sao? Trong chúng ta thường xuyên có cuộc chiến diễn ra giữa những ham
muốn tiêu
cực và tích cực, cái nọ lấn lướt cái kia, ham muốn này khống chế ham
muốn nọ,
chỉ chúng ta gọi nó là cao hơn hay thấp hơn mà thôi. Nhưng rõ ràng nó
vẫn là
ham muốn. Bạn có thể đặt nó ở bất cứ trình độ nào và cho nó một cái tên
khác
thì nó vẫn là ham muốn, một sự ao ước/sự khao khát thành một điều gì
đó. Cũng
có sự phấn đấu liên tục trong chính mình và với người khác, với xã hội.
Vậy
thì, xung đột của những
ham muốn này có đem đến sự hiểu biết không? Xung đột của những đối
kháng,
điều-muốn và điều-không-muốn có đem lại sự minh bạch không? Trong sự
đấu tranh
dẫn chúng ta đến một ý tưởng có sự hiểu biết không? Vì vậy vấn đề không
là sự
phấn đấu, sự đấu tranh, hoặc điều gì có thể xảy ra nếu chúng ta đã
không đấu
tranh, không cố gắng, không ra sức để là điều gì đó, về tâm lý cũng như
về thực
tế bên ngoài; vấn đề là: Sự hiểu biết xuất hiện như thế nào? Bởi vì một
khi có
sự hiểu biết thì không có sự phấn đấu. Bạn hiểu gì thì từ đó bạn tự do.
Because
when once there is understanding, there is no strife. What you
understand, of
that you are free.
Sự
hiểu biết xuất hiện như
thế nào? Tôi không biết bạn đã từng nhận thấy hay chưa rằng bạn càng
phấn đấu
để hiểu thì bạn lại càng ít hiểu bất cứ vấn đề gì hơn . Nhưng lúc bạn
ngưng
phấn đấu và cứ để vấn đề cho bạn biết toàn bộ câu chuyện, ý nghĩa của
nó thì
khi ấy có sự hiểu biết; điều đó có nghĩa rõ ràng rằng để hiểu, tâm trí
phải yên
tĩnh. Tâm trí phải thấy rõ không chọn lựa, thụ động; và trong trạng
thái đó có
sự hiểu biết nhiều vấn đề của đời sống/But the moment you cease to
struggle and
let the problem tell you the whole story, give all its significance,
then there
is understanding; which means, obviously, that to understand, the mind
must be
quiet. The mind must be choicelessly, passively, aware; and in that
state,
there is understanding of the many problems of our life.
Người
hỏi muốn biết có hay
không có một chương trình thiêng liêng của Thượng Đế. Tôi không biết
bạn muốn
nói gì với một ‘chương trình của Thượng Đế’, nhưng chúng ta chắc biết -
phải
không? - rẳng chúng ta đau khổ, bối rối, rằng sự bối rối và đau khổ cứ
tăng lên
mãi về mặt xã hội, tâm lý, cá nhân, và tập thể. Đó là những gì chúng ta
đã làm
nên thế giới này. Hoặc có hoặc không có một chương trình của Thượng Đế
thì hoàn
toàn không quan trọng. Nhưng quan trọng là hiểu sự hỗn loạn trong đó
chúng ta
sống, ở bên ngoài cũng như bên trong. Để hiểu sự hỗn loạn đó, chúng ta
phải bắt
đầu với chúng ta một cách rõ ràng, bởi vì chúng ta là sự hỗn loạn;
chính chúng
ta tạo ra sự hỗn loạn bên ngoài trên thế giới. Và để làm sạch sự rối
loạn đó
chúng ta phải bắt đầu với chúng ta, bởi vì chúng ta là gì thì thế giới
là thế
ấy.
Vậy
bạn sẽ nói, ‘Thế thì, nó
sẽ mất một thời gian rất lâu theo cách này đề mang lại trật tự cho thế
giới’.
Tôi không chút nào chắc chắn rằng bạn đúng; bởi vì sau hết chính là một
hay hai
người rất sáng suốt, hiểu biết, đem đến một cuộc cách mạng, một sự thay
đổi.
Nhưng chúng ta lười biếng, bạn thấy, đó là một sự khó khăn. Chúng ta
muốn những
người khác thay đổi, hoàn cảnh thay đổi, chúng ta muốn chính quyền làm
cho đời
sống chúng ta trật tự, hoặc phép lạ nào đó xảy ra sẽ biến đổi chúng ta.
Và vì
thế chúng ta kéo dài sự hỗn loạn.
Vì
vậy điều thực sự quan
trọng không phải là tra hỏi có hay không có một chương trình của Thượng
Đế, bởi
vì nó phí phạm nhiều giờ suy đóan, chứng minh có hay không có. Nó trở
thành một
trò chơi/ý đồ/mưu đồ cho những người truyền giáo. Quan trọng là thực sự
giải
phóng mình khỏi sự hỗn loạn/What is important is really to free oneself
from
confusion, và điều đó không mất một thời gian dài. Điều chủ yếu là thấy
mình
rối loạn, tất cả các sinh hoạt, các hành động
nảy sinh từ sự rối loạn cũng phải rối loạn.
Giống như một người rối
loạn tìm một vị lãnh đạo; vị lãnh đạo đó cũng phải rối loạn. Vì thế
điều chủ
yếu là thấy mình rối loạn, không cố gắng chạy trốn nó, không cố gắng
giải thích
nó - biết/thấy rõ một cách thụ động, không chọn lựa. Khi ấy bạn sẽ thấy
một
hành động hoàn toàn khác nảy sinh từ sự biết thụ động đó. Bởi vì nếu
bạn cố
gắng làm rõ trạng thái rối loạn thì điều bạn tạo ra vẫn sẽ rối loạn/So
what is
essential is to see that one is confused, and not try to escape from
it, not
try to find explanation for it – to be passively, choicelessly, aware.
Then you
will see that quite a different action springs from that passive
awareness.
Because if you make an effort to clarify the state of confusion, what
you
create will still be confused. Nhưng nếu bạn tự biết mình một cách
không chọn
lựa và thụ động thì sự rối loạn sẽ mở ra và lụi tàn /But if you are
aware of
yourself, choicelessly, passively aware, then that confusion unfolds
and fades
away.
Bạn
sẽ thấy nếu bạn thực
nghiệm điều này – và nó không mất nhiều thời gian, bởi vì thời gian
hoàn toàn
không dính dáng đến chuyện này – thì sự minh bạch xuất hiện. Nhưng bạn
phải
hoàn toàn chú ý, quan tâm vào nó. Tôi không hoàn toàn chắc chắn rằng đa
số
chúng ta không thích bị bối rối bởi vì trong trạng thái bối rối bạn
không cần
hành động. Vì thế bạn bằng lòng với sự bối rối; bởi vì hiểu sự bối rối
thì cần
hành động tức là không theo đuổi một lý tưởng hay một sự tạo thành quan
niệm/to
understand confusion demands action that is not the pursuit of an idea
or an
ideation.
Cho
nên vấn đề hoặc có hoặc
không có một chương trình của Thượng Đế thì không thích đáng. Chúng ta
phải
hiểu chính chúng ta và thế giới chúng ta đã tạo ra: điều bất hạnh, sự
lầm lẫn,
sự xung đột, chiến tranh, sự chia rẽ, sự lợi dụng. Tất cả là kết qủa
của mối
quan hệ giữa chúng ta và những người khác. Và nếu chúng ta hiểu chính
chúng ta
trong quan hệ với người khác, nếu chúng ta thấy cách chúng ta đối xử
với những
người khác, cách chúng ta cố gắng lẩn tránh mình qua người, qua của
cải, qua
kiến thức, và do đó cho chúng sự quan trọng qúa lớn - nếu chúng ta có
thể thấy
tất cả điều đó, hãy biết nó một cách thụ động thì khi ấy chúng ta sẽ tự
do đối
với cơ sở hiện hữu của chúng ta. Chỉ khi ấy mới có thể thấy
điểu-hiên-là. Nhưng
dùng thời giờ để suy đoán có một chương trình của Thượng Đế hay không,
cố gắng
tìm hiểu về nó, diễn thuyết về nó thì hình như đối với tôi là rất ấu
trĩ. Bởi
vì sự bình an không đến qua sự y theo bất cứ chương trình nào, hoặc tả,
hữu,
hay thiêng liêng. Sự y theo chỉ là sự đè nén, và trong sự đè nén có sự
sợ hãi.
Chỉ trong sự hiểu biết mới có bình an và sự yên tĩnh; và trong sự yên
tĩnh đó
chân lý tồn tại.
NH:
Sự hiểu biết đến với
người ta một cách bất ngờ, không liên quan tới cố gắng và kinh nghiệm
qúa khứ?
K:
Chúng ta muốn nói gì qua
kinh nghiệm qúa khứ? Bạn trải qua một sự thách đố như thế nào? Sau hết,
đời
sống là một diễn tiến/qúa trình của thách đố và đáp ứng - phải vậy
không? –
thách đố thì luôn luôn mới,bằng không nó không là thách đố. Và đáp ứng
của
chúng ta là hậu qủa tất yếu của cơ sở, của hoàn cảnh chúng ta bị điều
kiện hóa.
Vì thế đáp ứng, nếu không thích đáng, đầy đủ, trọn vẹn, đối với sự
thách đố thì
chắc chắn tạo ra sự bất hoà, sự mâu thuẫn/ And our response is
inevitably the
outcome of the background, of our conditioning. So the response, if is
not
edequate, full, complete, with regard to the challenge, must create
friction,
must create conflict Xung đột này giữa thách đố và đáp ứng chúng ta gọi
là kinh
nghiệm. Tôi không biết bạn đã từng nhận thấy hay chưa rằng nếu bạn đáp
ứng đầy
đủ sự thách đố thì chỉ có trạng thái trải nghiệm mà thôi, chứ không có
sự nhớ
lại một kinh nghiệm. Nhưng khi đáp ứng không thích đáng, khi ấy chúng
ta bám
vào hồi ức của kinh nghiệm.
Điều
này không khó lắm, đừng
bối rối. Chúng ta hãy thăm dò thêm chút nữa thì bạn sẽ thấy. Như tôi đã
nói,
đời sống là một diễn tiến của thách đố và đáp ứng - ở mọi cấp độ, không
ở một
cấp độ đặc biệt nào – và bao lâu đáp ứng sự thách đố không thích đáng
thì phải
có xung đột. Chắc chắn điều đó là rõ ràng. Và xung đột ngăn cản sự hiểu
biết
một cách không thay đổi. Qua xung đột người ta không thể hiểu bất cứ
vấn đề gì,
phải không? Nếu tôi cứ cãi cọ mãi với người hàng xóm, với vợ tôi, với
những
người cộng sự thì không thể hiểu mối quan hệ đó. Chỉ có thể hiều khi
không có
xung đột.
Hiểu
biết có đến một cách bất
ngờ không? Nghĩa là, xung đột có thề chấm dứt đột nhiên không? Hay
người ta
phải đi qua vô số những xung đột, hiểu từng mỗi xung đột, và rồi được
tự do đối
với tất cả mọi xung đột? Nghĩa là, đặt vấn đề một cách khác, đằng sau
câu hỏi
này tôi chắc có một câu hỏi khác: ‘Vì bạn đã qua những sự hoang mang,
bối rối,
xung đột khác nhau, đã có niềm tin ở các vị Thày, ở sự đầu thai, những
lối sống
xã hội khác nhau, vv và vv thì tôi cũng phải qua những điều đó không?
Vì bạn đã
qua những giai đoạn nào đấy, thì tôi cũng phải qua những giai đoạn đó
để được
tụ do không?’Nghĩa là, tôi không phải trải qua tất cả sự bối rối, để
không bị
bối rối chứ?
Thế
không là câu hỏi rằng:
‘Hiểu biết có đến qua sự theo sau hay chấp nhận những khuôn mẫu nào đó
và sống
qua những khuôn mẫu để được tự do không? Hãy nói ví dụ, có một lần bạn
đã tin
vào những tư tưởng nào đấy, nhưng bây giờ bạn đã bỏ chúng qua một bên;
thế là
bạn tự do và hiểu biết. Và tôi đến thấy bạn đã sống qua những niềm tin,
đã bỏ
chúng và có sự hiểu biết. Vì thế tôi nói với tôi, ‘Tôi cũng sẽ theo hay
chấp
nhận những niềm tin đó, và sau cùng tôi sẽ hiểu biết. Chắc chắn đó là
một diễn
tiến sai, phải không? Điều quan trọng là hiểu. Hiểu có là vấn đề của
thời gian
không? Chắc chắn không. Nếu bạn quan tâm tới điều gì thì nó không có
vấn đề
thời gian. Bạn hoàn toàn hiện hữu ở đó, tập trung, chăm chú triệt để
vào điều
đó. Và chỉ khi bạn muốn có kết qủa thì vấn đề thời gian mới xen vào. Vì
thế nếu
bạn xem sự hiểu biết như một cứu cánh để đạt tới, khi ấy bạn cần thời
gian, bạn
nói về ‘ngay lập tức’ hay ‘hoãn lại’. Nhưng hiểu biết, chắc chắn không
là một
diễn-tiến-có-mục-đích. Hiểu biết đến khi bạn yên tĩnh, khi tâm trí vắng
lặng.
Và nếu bạn thấy tâm trí cần thiết phải vắng lặng, khi ấy có ngay sự
hiểu
biết./But understanding, surely, is not an end-process. Understanding
comes
when you are quiet, when the mind is still. And if you see the
necessity of the
mind’s being still, then immediately there is understanding.
NH:
Theo ông, thiền định đích
thực là gì?
K:
Vậy thì mục đích của thiền
định lả gì? Và bạn muốn nói gì qua sự thiền định? Tôi không biết bạn đã
từng
thiền định chưa, nên chúng ta hãy cùng nhau thực nghiệm để thấy thiền
định đích
thực là gì. Đừng chỉ lắng nghe tôi diễn đạt; chúng ta sẽ cùng nhau khám
phá và
thể nghiệm thiền định đích thực là gì. Bởi vì thiền định là quan trọng,
phải
không? Nếu bạn không biết thiền định đúng thì không biết mình; và không
biết
mình thì thiền định không có ý nghĩa/If you do not know what is right
meditation, there is no self-knowledge; and without knowing yourself,
meditation has no meaning. Ngồi trong một góc hoặc đi rạo trong vườn
hoặc ngoài
phố, và cố gắng thiền định thì không có ý nghĩa. Điều đó chỉ dẫn đến
một sự tập
trung đặc biệt, nó là sự ngăn chặn. Tôi chắc rằng vài trong số tất cả
các bạn
đã từng thử những phương pháp đó. Nghĩa là, bạn cố gắng tập trung vào
một vật
đặc biệt, cố ép tâm trí, khi tâm trí lang thang khắp nơi để tập trung
nó; và
khi chuyện đó không thành thì bạn cầu nguyện.
Nếu
người ta muốn hiểu thiền
định đích thực là gì, người ta phải thấy những điều không đúng mà chúng
ta đã
gọi là thiền định. Hiển nhiên rằng tập trung không là thiền định bởi
vì, nếu
bạn quan sát, trong diễn tiến của sự tập trung thì có sự ngăn chặn/loại
trừ, và
do đó mất sự chú ý. Bạn đang tập trung vào một điều gì đó, và tâm trí
bạn lang
thang về một điều gì khác; và có cuộc chiến diễn ra liên tục để giữ tâm
trí cố
định vào một điểm trong khi nó không chịu và cứ lang thang/Obviously,
concentration is not meditation because, if you observe, in the process
of
concentration there is exclusion, and therefore there is distraction.
You are
trying to concentrate on something, and your mind is wandering off
towards
something else; and there is a constant battle going on to be fixed on
one
point while the mind refuses and wanders off. Cho nên chúng ta mất
nhiều năm cố
gắng tập trung, học tập trung, điều bị gọi lầm là thiền định.
Rồi
có vấn đề cầu nguyện. Cầu
nguyện hiển nhiên có kết qủa, nếu không hàng triệu người sẽ không cầu
nguyện.
Trong sự cầu nguyện, rõ ràng tâm trí được làm cho yên tĩnh; bằng cách
lập đi
lập lại những từ ngữ nào đấy thì tâm trí trở nên yên tĩnh. Trong sự yên
tĩnh đó
có những thông tri, những trực giác, những hồi đáp nào đấy. Nhưng đó
vẫn là một
phần trò ảo thuật của tâm trí; bởi vì, sau cùng, qua một hình thức của
thuật
thôi miên bạn có thể làm cho tâm trí rất yên tĩnh. Và trong sự yên tĩnh
đó có
những phản hồi ẩn dấu nảy sinh từ vô thức và từ ý thức bên ngoài. Nhưng
nó vẫn
là một trạng thái trong đó không có sự hiểu biết.
Và
thiền định không là sự
sùng bái/And meditation is not devotion– sùng bái một tư tưởng, một
hình ảnh,
một nguyên tắc - bởi vì những sản phẩm của tâm trí vẫn có tính cách
sùng bái
thần tượng. Người ta có thể không thờ phượng một bức tượng – xem nó là
sùng bái
hình tượng, ngu xuẩn, dị đoan – nhưng người ta, như đa số chúng ta vẫn
thờ
phượng những sản phẩm của tâm trí. Điều đó cũng là sùng bái hình tượng.
Sùng
bái một hình ảnh hoặc một tư tưởng, một vị Thày, không là thiền định.
Rõ ràng,
nó là một hình thức chạy trốn chính mình. Nó là một sự chạy trốn dễ
chịu, nhưng
nó vẫn là chạy trốn.
Sự
phấn đấu liên tục này để
trở thành, để có đạo đức qua kỷ luật, qua xem xét mình cẩn thận, và
vvv, rõ
ràng cũng không là thiền định. Đa số chúng ta vướng mắc vào những diễn
biến
này, nhưng vì chúng không làm chúng ta hiểu biết mình nên chúng không
là cách
thiền định đúng. Sau cùng, không hiểu biết mình, bạn dựa vào đâu để có
suy nghĩ
đúng? Tất cả những gì bạn sẽ làm mà không có sự hiểu biết mình đều chỉ
là thích
nghi với cơ sở, với hoàn cảnh bị điều kiện hóa của bạn. Và đáp ứng với
sự điều
kiện hoá như thế không là thiền định. Nhưng biết/thấy rõ những phản ứng
đó,
nghĩa là, thấy rõ những chuyển động của tư tưởng và tình cảm mà không
có một
cảm giác kết án nào, để những chuyển động, những lề thói của cái tôi,
được hiểu
đầy đủ thì đó là cách thiền định đúng/But to be aware of those
responses, that
is, to be aware of the movements of thought and feeling without any sense of condemnation, so that the
movements of the self, are completely understood, that way is the way
of right
meditation.
Thiền
định không rút khỏi đời
sống. Thiển định là một diễn biến hiểu biết mình/Meditation is not a
withdrawal
from life. Meditation is a process of understanding oneself.Và khi mình
bắt đầu
hiểu mình, không chỉ có ý thức nhưng cũng còn tất cả những phần ẩn dấu
của
chính mình thì khi ấy có sự yên lặng. Một tâm trí được làm cho vắng
lặng qua thiền
định, qua sự ép buộc, qua thích nghi thì không vắng lặng. Đó là một tâm
trí mụ
mẫm. Đó không là một tâm trí tỉnh táo, thụ động, có khả năng tiếp thu
sáng tạo.
Thiền định đòi hỏi liên tục quan sát, liên tục thấy rõ mọi lời nói, mọi
tư
tưởng và tình cảm, chúng bộc lộ trạng
thái hiện hữu của chúng ta, phần ẩn dấu cũng như phần bề mặt/Meditation
demands
constant watchfulness of every word, every thought and feeling, which
reveals
the state of our own being; khi việc đó khó khăn, chúng ta thoát vào
mọi điều
tiện lợi, dễ lầm lẫn, và gọi nó là thiền định.
Nếu
người ta thấy rằng biết
mình là khởi đầu của thiền định, khi ấy vấn đề trở nên quan trọng và
sống động
khác thường. Bởi vì nếu không hiểu mình, bạn có thể thực hành điều bạn
gọi là
thiền định và còn gắn bó với những nguyên tắc, với gia đình, với tài
sản của
bạn; hoặc, từ bỏ của cải đó, bạn có thể gắn bó với một tư tưởng, và tập
trung
vào nó qúa nhiều đến nỗi càng ngày càng phát huy tư tưởng đó. Chắc chắn
đó
không là thiền định. Bởi vậy biết mình là khởi đầu của thiền định;
không biết
mình thì không có thiền định/So self-knowledge is the beginning of
meditation;
without self-knowledge there is no meditation. Và khi mình đi sâu hơn
vào vấn
đề biết mình thì không những lớp trên của tâm trí trở nên vắng lặng,
yên tĩnh
nhưng cả những lớp khác của phẩn ẩn khuất cũng được vén mở. Khi bề mặt
của tâm
trí yên tĩnh, khi đó vô thức, những lớp ẩn dấu của ý thức tự phóng
chiếu; chúng
bộc lộ nội dung, chúng cho những thông tri để mình hiểu toàn bộ diễn
biến sự
hiện hữu của mình.
Như
vậy tâm trí trở nên hết
sức yên tĩnh - hiện thực yên tĩnh (yên tĩnh tự nhiên); nó không là yên
tĩnh
được tạo ra, nó không bị bắt buộc yên tĩnh bởi sự tưởng thưởng, bởi sợ
hãi. Khi
ấy có sự im lặng trong đó chân lí tồn tại. Nhưng sự im lặng đó không là
im lặng
Cơ Đốc giáo, hoặc im lặngẤn Độ giáo, hoặc im lặng Phật giáo. Im lặng đó
là im
lặng, không tên/That silence is silence, not named. Nếu bạn theo đường
im lặng
Cơ Đốc giáo, hoặc Ấn Độ giáo hoặc Phật giáo thì không bao giờ bạn im
lặng. Một
người thấy sự thật thì phải hoàn toàn bỏ được ảnh hưởng do hoàn cảnh
tác động
(ai cũng bị hoàn cảnh tác động nhưng vấn đề là có bỏ được ảnh hưởng của
nó hay
không, theo K)/A man who would find reality must abandon his
conditioning
completely – dù là tín đồ Cơ Đốc giáo, Ân Độ giáo, Phật giáo, hoặc bất
cứ tôn
giáo nào. Chỉ củng cố cơ sở qua thiền định, qua thích nghi sẽ làm cho
tâm trí
mụ mẫm, đần độn/Merely to strengthen the background through meditation,
through
conformity brings about stagnation of the mind, dullness of the mind;
và tôi
không hoàn toàn chắc chắn nó không là điều đa số chúng ta muốn, bởi vì
tạo ra
một khuôn mẫu để noi theo thì dễ dàng hơn rất nhiều. Nhưng để được tự
do đối
với cơ sở đòi hỏi sự quan sát liên tục trong mối quan hệ/tương quan/But
to be
free of the background demands constant watchfulness in relationship.
Một
khi có sự im lặng đó, bấy
giờ có trạng thái sáng tạo khác thường/When once that silence is, then
there is
an extraordinary creative state – không là trạng thái bạn phải làm thơ,
vẽ
tranh; bạn có thể hoặc không. Sự im lặng đó không thể mưu cầu, sao
chép, mô
phỏng được – nếu là như thế, nó không còn là im lặng. Bạn không thể tới
nó qua
bất cứ đường nào. Nó chỉ hiện hữu khi mình hiểu những cung cách, thái
độ của
cái tôi, và khi cái tôi với tất cả những hoạt động và mối bất hòa đi
tới kết
thúc. Nghĩa là, khi tâm trí ngưng tạo tác thì khi ấy có sự sang tạo/It
comes
into being only when the ways of the self are understood, and the self
with all
its activities and mischiefs comes to an end. That is, when the mind
ceases to
create, then there is creation.
Do đó,
tâm trí phải giản dị,
yên tĩnh; nó phải yên tĩnh –‘phải’ là sai; nói tâm trí phải là bao hàm sự bắt buộc – và tâm trí chỉ yên
tĩnh khi toàn bộ diễn biến của cái tôi tới chỗ kết thúc. Khi hiểu tất
cả cung
cách, lề thói của cái tôi, và do đó những hoạt động của cái tôi đã chấm
dứt,
chỉ khi ấy mới có sự im lặng. Sự im lặng đó là thiền định đích thực. Và
trong
sự im lặng đó là điều vĩnh cửu/And in that silence the eternal comes
into
being.
Madras,
29 Tháng Giêng 1964
Tôi xin
phép nói về thiền
định/meditation. Tôi muốn nói về chuyện này bởi vì tôi cảm thấy nó là
điều quan
trọng nhất trong đời sống/it is the most important thing in life.
Để hiểu
thiền định, để đi rất
sâu vào chuyện này, người ta trước hết phải hiểu ngôn từ và sự kiện/
the word
and the fact/To understand meditation, to go into it very deeply, one
must
first of all understand the word and the fact; vì đa số chúng ta lệ
thuộc vào
ngôn từ. Chữ thiền định tự nó gợi ra ở đa số người ta một tình trạng,
một sự
mẫn cảm, một sự yên tịnh nào đó, một sự ham muốn đạt được điều này hay
điều nọ.
Nhưng ngôn từ không là sự việc/But the word is not the thing. Ngôn từ,
biểu
tượng, tên gọi - nếu không được hiểu đầy đủ - là một điều tai hại. Nó
như một
rào cản, làm tâm trí lệ thuộc/mù quáng. Và phản ứng với ngôn từ, với
biểu
tượng, đa số chúng ta hành động, bởi vì chúng ta không biết hoặc không
ý thức
chính sự kiện. Chúng ta tiếp cận/hiểu sự kiện, điều-hiện-là’ bằng quan
điểm,
bằng xét đoán, bằng đánh giá, bằng những hồi ức của chúng ta. Và chúng
ta chẳng
bao giờ thấy sự kiện, ‘điều-hiện-là’/We come to the fact, to ‘what is’,
with
our opinions, judgements, evaluations,
our memories. And we never see the fact, the ‘what is’. Tôi nghĩ điều
đó phải
được hiểu rõ ràng.
Để nhận
thức thấu đáo từng
kinh nghiệm, từng tình trạng của tâm trí, ‘điều-hiện-là’, sự kiện thực,
thực
tại, người ta không được lệ thuộc ngôn từ - và đó là một trong những
điều khó
khăn nhất. Đặt tên nó bằng ngôn từ sẽ khuấy động những hồi ức khác
nhau; và
những hồi ức này tác động, điều khiển, uốn nắn, lèo lái sự kiện,
‘điều-hiện-là’/To comprehend every experience, every state of mind, the
‘what
is’, the actual fact, the actuality, one must not be a slave to words –
and
that is one of the most difficult things. Bởi vậy, người ta phải đặc
biệt nhận
thức sự lầm lẫn này và không đưa đến xung đột giữa ngôn từ và thực tại,
‘điều-hiện-là’. Và đó là việc rất khó khăn cho tâm trí; nó đòi hỏi sự
chính
xác, sự minh bạch. Không có tính minh bạch, người ta không thể thấy sự
việc như
chúng là chúng. Có cái đẹp khác thường trong cái thấy sự việc như chúng
là
chúng – không do quan niệm, sự xét đoán, hồi ức của bạn/Without
clarity, one
cannot see things as they are. There is an extraordinary beauty in
seeing
things as they are – not from your opinions, your judgements, your
memories.
Người ta phải thấy cái cây như nó là nó, không một sự lẫn lộn nào;
tương tự
người ta phải thấy bầu trời in trên mặt hồ vào một buổi chiều - chỉ
thấy thôi,
không nói, không gợi ra biểu tượng, ý tưởng, và hồi ức.Trong đó có cái
đẹp khác
thường.Và cái đẹp là chủ yếu. Cái đẹp là sự cảm nhận, tính mẫn cảm về
chính
mình đối với sự việc - đối với thiên nhiên, đối với con người, đối với
ý tưởng.
Nếu không có tính mẫn cảm thì sẽ không có tính minh bạch; hai điều này
đi chung
với nhau, đồng nghĩa. Tính minh bạch là thiết yếu nếu chúng ta hiểu
thiền định
là gì - just to see, without verbalization, without arousing symbols,
ideas,
and memories. And beauty is essential. Beauty is the appreciation, the
sensitivity to things about one – to nature, to people, to ideas. If
there is
no sensivity, there will be no clarity; the two are together,
synonymous. This
clarity is essential if we would understand what meditation is.
Một tâm
trí lầm lẫn, một tâm
trí vướng mắc trong tư tưởng, trong kinh nghiệm, trong sự hối thúc của
dục
vọng, chỉ sản sinh xung đột/A mind that is confused, a mind caught up
in ideas,
in experiences, in all the urges of desires, only breeds conflict.Và
một tâm
trí thực sự ở trạng thái thiền định thì phải thấy rõ không những ngôn
từ mà còn
cả việc gọi tên kinh nghiệm hay trạng thái đó do sự phản hồi của bản
năng
nữa/And a mind that would really be in a state of meditation has to be
aware
not only of the word, but also of the instinctive response of naming
the
experience or the state.Và chính việc gọi tên trạng thái hay kinh
nghiệm đó –
dù nó là gì đi nữa, dù tàn nhẫn cách mấy, dù đúng sai thế nào – cũng
chỉ tăng
cường trí nhớ làm chúng ta tiếp tục có thêm kinh nghiệm. And the very
naming of
that state or experience – whatever the experience be, however cruel,
however
real, however false – only strengthen memory with which we proceed to
further
experience.
Tôi
xin phép chỉ ra rằng,
hiểu điều chúng ta đang nói tới là rất quan trọng, bởi vì nếu bạn không
hiểu,
bạn sẽ không thể cùng diễn giả đi vào toàn bộ vấn đề thiền định này.
Như
chúng ta đã nói, thiền
định là một trong những điều quan trọng nhất trong đời sống, hoặc, có
lẽ là điều
quan trọng duy nhất. Không thiền định thì không thể vượt ngoài phạm vi
của tư
tưởng, tâm trí và não bộ.Và để đi vào vấn đề thiền định này, ngay từ
đầu người
ta phải đặt nền tảng đạo đức /If there is no meditation, there is no
possibility of going beyond the limits of thought and mind and brain.
And to go
into this problem of meditation, from the very beginning one must lay
the
foundation of virtue.Tôi không có ý nói đạo đức do xã hội bắt phải
theo, một
nền luân lý do sợ hãi, tham lam, ghen ghét, thưởng, phạt. Tôi nói tới
đạo đức
xảy đến một cách tự nhiên, tự động, dễ dàng, không có xung đột hay sự
chống cự
nào, khi có sự-biết-mình. Không biết mình, bạn làm điều gì bạn muốn thì
không
thể ở trạng thái thiền định được/virtue that comes about naturally,
spontaneously,
easily, without any conflict or resistance, when there is self-knowing.
Without
knowing yourself, do what you will, there cannot possibly be the state
of
meditation. Với ‘biết mình’, tôi muốn
nói biết từng ý nghĩ, từng tính khí, từng lời nói, từng cảm giác, biết
phạm vi
hoạt động của tâm trí bạn/I mean by ‘self-knowing’, knowing every
thought,
every mood, every word, every feeling, knowing the activity of your
mind –
không phải là biết ‘Đấng Tối Cao’, ‘Đại Ngã’ – không có điều như thế,
‘Đấng Trên
Cao’, ‘Tiểu Ngã’chỉ có trong phạm vi tư tưởng. Tư tưởng là kết qủa bạn
bị hoàn
cảnh tác động, là sự phản hồi của trí nhớ - do tổ tiên truyền lại hay
trực
tiêp. Và chỉ cố gắng thiền định mà không trước hết xây dựng nền đạo đức
bằng
sự-biết-mình thì hoàn toàn giả dối và tuyệt đối vô ích.Thought is the
result of
your conditioning, thought is the response of your memory. And merely
to try to
meditate without first establishing deeply, irrevocably, that virtue
that comes
about through self-knowing, is utterly deceptive and absolutely useless.
Xin chú
ý, thật rất quan
trọng cho những ai nghiêm chỉnh muốn hiểu điều này, bởi vì nếu không
thế, thiền
định và cuộc sống thực tế của bạn sẽ bị phân ly, tách biệt nhau – xa
đến độ dù
bạn có thể thiền định với tư thế nào chăng nữa suốt quãng đời còn lại
của bạn
thì bạn cũng sẽ không thấy xa hơn mũi bạn. Bất cứ bạn lấy tư thế nào,
bất cứ
bạn làm gì thì cũng không có bất cứ ý nghĩa nào.
Cho nên
tâm trí tra hỏi – tôi
dùng chữ tra hỏi có mục đích – vào vấn đề thiền định là gì, thì phải
đặt nền
tảng này mà nó xảy đến một cách tự nhiên, tự động, với sự dễ dàng không
cố
gắng, khi có sự-biết-mình. Và cũng quan trọng hiểu sự biết mình này là
gì, nó
chỉ là hiểu rõ ‘cái tôi’ có nguồn gốc ở rất nhiều hồi ức mà không có sự
lựa
chọn /And also it is important to understand what this self-knowing is,
just to
be aware, without any
choice, of the ‘me’ that has its source in a
bundle of memories – Tôi sẽ đi ngay vào ý nghĩa của sự hiểu rõ là gì –
nó chỉ
là ý thức mà không giải thích, chỉ quan sát sự chuyển động của tâm trí.
Nhưng
sự quan sát đó bị ngăn cản khi bạn chỉ tích lũy qua sự quan sát
điều-sẽ-làm,
điều-sẽ không-làm, điều-sẽ-đạt-được, điều-sẽ-không-đạt-được. Nếu bạn
làm vậy,
bạn chấm dứt tiến trình chuyển động linh hoạt của tâm trí thành cái
tôi. Nghĩa
là, tôi phải quan sát và thấy sự kiện, thực tế, điều-hiện-là. Nếu tôi
tiếp cận
nó với một ý tưởng, một quan điểm - chẳng hạn như ‘Tôi không được’ hoặc
‘Tôi
phải’ thì đó là những phản hồi của trí nhớ - khi ấy chuyển động của
‘điều-hiện-là’bị cản trở, bị ngăn chặn; và thế là không hiều rõ/không
biết – I
will go presently into what we mean by awareness – just to be conscious
of it
without interpretation, merely to
observe the movement of the mind. But that observation is prevented
when you are
merely accumulating through observation what to do, what not to do,
what to
achieve, what not to achieve. If you do that, you put an end to the
living
process of the movement of the mind as the self. That is, I have to
observe and
see the fact, the actual, the ‘what is’. If I approach it with an idea,
with an
opinion – such as ‘I must not’ or ‘I must’, which are the responses of
memory –
then the movement of ‘what is’ is hindered, is blocked; and therefore
there is
no learning.
Để quan
sát sự chuyền động
của làn gió mát trên cây thì bạn không thể làm gì. Nó chuyển động hoặc
mạnh mẽ,
hoặc uyển chuyển, hoặc đẹp mắt. Bạn, người quan sát, không thể điều
khiển nó.
Bạn không thể uốn nắn nó, bạn không thể nói, ‘Tôi sẽ giữ nó trong tâm
trí tôi’.
Nó ở đó. Bạn có thể nhớ lại nó. Nhưng nếu bạn nhớ lại nó và hồi tưởng
làn gió
mát trên cây đó ở lần sau nhìn nó thì bạn không nhìn sự chuyển động tự
nhiên
của nó, mà chỉ nhớ lại sự chuyển động của qúa khứ. Vì thế bạn không
hiểu
rõ/không biết; bạn chỉ thêm vào những gì bạn đã biết. Cho nên, ở một
mức độ nào
đó, kiến thức trở thành một chướng ngại không tiến xa hơn.
Tôi hi
vọng đây là điều rất
rõ ràng. Bởi vì điều chúng ta sắp đi vào bây giờ đòi hỏi một tâm trí
hoàn toàn
minh bạch, có thể nhìn, thấy, lắng nghe mà không hề có sự nhận ra như
đã biết
trước/a mind that is completely clear, capable of looking, seeing,
listening
without any movement of recognition.
Vì thế
người ta trước hết
phải rất minh bạch, không lầm lẫn. Tính minh bạch là thiết yếu. Với
‘tính minh
bạch’tôi muốn nói, thấy mọi điều như chúng là chúng, thấy
‘điều-hiện-là’mà
không có bất cứ quan điểm nào, thấy sự chuyển động của tâm trí, quan
sát nó rất
sát, từng phút, chăm chú, không mục đích, không hướng dẫn. Chỉ quan sát
thôi
đòi hỏi tính minh bạch lạ lùng; bằng không bạn không thể quan sát. Nếu
bạn quan
sát một con kiến bò loanh quanh, đang sinh hoạt và bạn tiếp cận nó với
các sự
kiện sinh vật học khác nhau về kiến thì kiến thức đó sẽ ngăn cản bạn
nhìn. Bởi
vậy bạn bắt đầu thấy ngay ở đâu kiến thức là cần thiết và ở đâu kiến
thức trở
thành trở ngại. Như thế không có sự lầm lẫn.
Khi
tâm trí minh bạch, chính
xác, có khả năng lý luận sâu sắc, cơ bản thì nó ở tình trạng phủ
định/When the
mind is clear, precise, capable of deep, fundamental
reasoning, it is in a
state of negation. Đa số chúng ta dễ dàng
chấp nhận những sự
việc, chúng ta rất cả tin bởi vì chúng ta muốn sự thoải mái, sự an
toàn, một
cảm giác hy vọng, muốn ai đó cứu vớt chúng ta - những vị thày, những
đạo sư;
bạn biết hết mớ hỗn độn đó mà! Chúng ta sẵn sàng, dễ dàng chấp nhận; và
cũng dễ
dàng từ chối, tùy theo tình hình của tâm trí.
Cho
nên ‘tính minh bạch’nằm
trong nghĩa thấy sự việc như chúng là chúng ở trong chính mình/So
‘clarity’ is
in the sense of seeing things as they are within oneself. Bởi vì chính
mình là
một phần của thế giới. Chính mình là sự chuyển động của thế giới. Chính
mình là
biểu hiện bên ngoài của chuyển động bên trong – nó giống như thủy triều
ra vào.
Chỉ tập trung vào hay quan sát chính bạn, tách rời thế giới thì dẫn bạn
tới sự cô
lập và tất cả những hình thức suy nghĩ khác thường, chứng loạn thần
kinh, sự sợ
hãi cô lập, và vvv. Nhưng nếu bạn quan sát thế giới và theo sự chuyển
động của
nó, cùng nó chuyển vào bên trong thì khi đó không có sự chia cắt giữa
bạn và
thế giới; bạn không là một cá nhân chống lại tập thể.
Và
phải có cảm giác quan sát
này, gồm cả khám phá và quan sát, lắng nghe và hiểu rõ. Tôi dùng chữ
quan sát
trong nghĩa đó. Chính hành vi quan sát là hành vi khám phá. Bạn không
thể khám
phá nếu bạn không tự do. Do đó để khám phá, để quan sát, phải có tính
minh
bạch. Để khám phá trong chính bạn một cách thâm sâu, bạn phải tiếp cận
nó mỗi
lần đều tươi mới. Nghĩa là, trong sự khám phá đó bạn đã không bao giờ
đạt được
một kết qủa nào, bạn đã không bao giờ trèo một cái thang và nói, ‘Bây
giờ tôi
biết’. Không có cái thang nào cả. Nếu bạn có trèo, bạn phải xuống ngay,
để tâm
trí bạn quan sát, theo dõi, lắng nghe một cách hết sức bén nhậy/The
very act of
observation is the act of exploration.You cannot explore if you are not
free.
Therefore to explore, to observe, there must be clarity. To explore
within
yourself deeply, you must come to it each time afresh. That is, in that
exploration you have never achieved a result, you have never climbed a
ladder,
and you never say, ‘Now I know’. There is no ladder. If you do climb,
you must
come down immediately, so that your mind is tremendously sensitive to
observe,
to watch, to listen.
Và
do sự quan sát, lắng nghe,
thấy, theo dõi này mà có cái đẹp khác thường của đạo đức đó. Không có
đạo đức
nào khác ngoài đạo đức từ sự biết mình/There is no other virtue except
that
which comes from self-knowing. Khi ấy đạo đức đó là chủ yếu, mạnh mẽ,
sinh động
– không là một điều đã chết mà bạn từng nuôi dưỡng, chăm sóc. Và đạo
đức đó
phải là nền tảng. Nền tảng của thiền định là quan sát, tính minh bạch
và đạo
đức, trong ý nghĩa chúng ta muốn nói – chứ không trong ý nghĩa làm đạo
đức
thành một điều sẽ được nuôi dưỡng, chăm sóc, ngày qua ngày, nó chỉ là
sự cưỡng
lại/The foundation for meditation is observation, clarity, and virtue,
in the
sense we mean – not in the sense of making virtue a thing to be
cultivated day
by day, which is mere resistance.
Rồi
chúng ta có thể thấy từ
đó ý muốn nói về những điều được gọi là những lời kinh, những lời niệm,
những
câu chú, việc ngồi trong một góc cố gắng dồn mắt vào một vật, một chữ
hoặc một
biểu tượng đặc biệt – nó là thiền định có chủ tâm. Xin lắng nghe cẩn
thận. Cố ý
lấy một tư thế hay làm những điều gi đó để thiền định, có chủ tâm, có ý
thức
thì chỉ ngụ ý rằng bạn đang chơi trong phạm vi những ham muốn và sự
điều-kiện-hóa của bạn; vì thế nó không là thiền định/Taking a
deliberate
posture or doing certain things to meditate, deliberately, consciously,
only
implies that you are playing in the field of your own desires and your
own
conditioning; therefore it is not meditation. Người ta có thể thấy rất
rõ, nếu
người ta quan sát, rằng những người thiền định đều thấy tất cả các loại cảnh tượng, hình ảnh; họ thấy Krishna, Chúa,
Phật, và họ nghĩ họ đã đạt được điều gì đó. Như một người Ki Tô giáo
thấy Chúa;
đó là một hiện tượng rất đơn giản, rất rõ ràng; nó là một hình ảnh
phóng chiếu
của sự điều-kiện-hóa, của sự sợ hãi, của hy vọng, và mong muốn được an
toàn của
người đó. Người Ki Tô giáo thấy Chúa như bạn thấy Rama hoặc bất cứ vị
thần linh
đặc biệt nào bạn yêu thích.
Không
có gì đáng chú ý về
những hình ảnh này. Chúng chỉ là sản phẩm của vô thức mà bạn đã bị điều
kiện
hóa, bị luyện thành như thế. Khi bạn hơi yên tĩnh, nó nổi lên với những
hình
ảnh, những biểu tượng và những ý tưởng. Cho nên những thị-kiến, những
sự xuất
thần, những hình ảnh, những tư tưởng đều không có bất cứ giá trị nào.
Nó giống
như một người lập đi lập lại mãi mấy câu chú hoặc mấy nhóm chữ hoặc một
cái
tên. Khi bạn lập đi lập lại mãi một cái tên, hiển nhiên bạn làm tâm trí
bạn ù
lì, ngốc nghếch; và trong sự ngốc nghếch đó tâm trí trở nên yên tĩnh.
Ngay cả
bạn cũng có thể dùng ma túy để làm cho tâm trí yên tĩnh – và có những
thứ ma
túy như thế - và trong tình trạng yên tĩnh đó, trong tình trạng có ma
túy đó,
bạn có những thị kiến/hình ảnh. Những điều đó rõ ràng là sản phẩm cùa
xã hội,
văn hóa, hi vọng và sự sợ hãi của bạn. Chúng chẳng có liên quan gì tới
sự thật.
Những
kinh cầu nguyện cũng
vậy. Người cầu nguyện thì giống một người cho tay vào túi một người
khác.
Thương gia, nhà chính trị và toàn xã hội cạnh tranh đang cầu nguyện hoà
bình;
nhưng họ đang làm mọi điều đem đến chiến tranh, lòng thù hận và sự đối
kháng.
Nó không có ý nghĩa, nó không có sự hợp lý. Kinh cầu nguyện của bạn là
lời khẩn
khoản, xin điều gì đó mà bạn không có quyển xin - bởi vì bạn không
sống, bạn
không đạo đức. Bạn muốn điều gì đó an bình, vĩ đại, làm phong phú đời
sống bạn,
nhưng bạn đang làm mọi điều trái ngược để hủy diệt, trở nên tầm thường,
nhỏ
mọn, ngu ngốc.
Những
kinh cầu nguyện, những
hình ảnh thấy được, những thị kiến, ngồi thẳng lưng trong một góc, thở
đúng
cách, thực hiện với tâm trí thì rất non nớt, chưa trưởng thành; chúng
không có
ý nghĩa cho một người thực sự muốn hiểu đầy đủ thiền định là gì. Vì thế
một
người hiểu thiền định là gì sẽ hoàn toàn dẹp qua bên tất cả điều này,
dù người
ấy có thề mất việc. Người ấy không lập tức quay qua một thần linh không
quan
trọng để có một việc mới – đó là cái trò tất cả các bạn từng chơi. Khi
có sự
đau khổ, sự xáo trộn nào đấy, bạn quay qua một đền thờ và tự coi mình
là có tôn
giáo. Tất cả những điều này phải được triệt để dẹp qua bên để chúng
không đụng
tới bạn. Nếu bạn đã làm xong việc này thì khi đó chúng ta có thể tiến
vào toàn
bộ câu hỏi thiền định là gì.
Bạn
phải có sự quan sát, tính
minh bạch, sự biết mình và, vì vậy có đạo đức. Đạo đức là một điều
thường xuyên
nở hoa trong lòng lành; bạn có thể đã sai lầm, làm những điều xấu,
nhưng chúng
đã chấm dứt; bạn tiến tới, nở hoa trong lòng lành, bởi vì bạn đang biết
bạn/Virtue is a thing that is flowering in goodness all the time; you
might
make a mistake, do ugly things, but they are finisned; you are moving,
are
flowering in goodness, because you are knowing yourself. Đã đặt nền
tảng đó,
bạn có thể dẹp những kinh cầu nguyện, những lời đọc lầm rầm và những tư
thế.
Khi đó bạn có thể bắt đầu tra hỏi vào thiền định là gì.
Rất
quan trọng hiểu kinh
nghiệm là gì, bởi vì tất cả chúng ta đều muốn có kinh nghiệm. Chúng ta
có những
kinh nghiệm hàng ngày - đến văn phòng, cãi vã, ghen ghét, ganh tị, tàn
nhẫn,
cạnh tranh, tình dục. Trong đời sống, chúng ta đi qua từng loại kinh
nghiệm,
ngày qua ngày, có ý thức và không có ý thức. Chúng ta sống trên bề mặt
của đời
sống mình, không có cái đẹp, không có chiều sâu, không có gì của chúng
ta là
nguyên gốc, đầu tiên, rõ ràng. Chúng ta đều là những
con-người-phó-sản/second-hand human beings, trích dẫn, theo sau người
khác,
trống rỗng như một vỏ sò/We are all second-hand human beings, quoting
others,
following others, empty as a shell. Và tự nhiên là chúng ta muốn có
thêm kinh
nghiệm ngoài những kinh nghiệm hàng ngày. Vì vậy chúng ta tìm kiếm kinh
nghiệm
này hoặc qua thiền định hoặc qua những ma túy mới nhất. LSD25 là một
trong
những thứ đó. Khi bạn đã dùng nó rồi, bạn cảm thấy bạn có ‘thần bí giáo
tức
thì’- tôi đã không dùng thứ đó. (Có tiếng cười).
Chúng
ta đang nói chuyện
nghiêm chỉnh. Bạn chỉ cười đùa với vẻ tức giận nhỏ nhất; do đó bạn
không nghiêm
chỉnh; bạn không đi từng bước vào chuyện đó, quan sát chính bạn; bạn
chỉ lắng
nghe lời nói, đi theo chúng, là điều tôi đã lưu ý bạn đề phòng ở đầu
buổi nói
chuyện này.
Những
thứ ma túy này làm ý
thức của bạn giãn ra, đôi lúc làm bạn nhậy cảm cao. Và trong tình trạng
cảm
giác được nâng cao bạn thấy những điều: cây cối trở nên sống động lạ
lùng nhất,
sáng láng, rõ ràng, bao la. Hoặc, nếu bạn có tư tưởng tôn giáo, trong
tình
trạng đó bạn cảm thấy an bình và ánh sáng khác thường; không có sự khác
biệt
giữa bạn và điều được quan sát - bạn là nó, và toàn vũ trụ là thành
phần của
bạn. Và bạn khao khát những thứ ma túy này bởi vì bạn muốn có thêm kinh
nghiệm,
hy vọng nó sẽ cho đời sống bạn ý nghĩa; nên bạn bắt đầu phụ thuộc. Tuy
vậy, khi
bạn có những kinh nghiệm này, bạn vẫn ở trong phạm vi của tư tưởng,
trong phạm
vi của điều-đã-biết.
Bởi
vậy bạn phải hiểu kinh
nghiệm – đó là, sự đáp ứng một thách thức, mà nó trở thành một phản
ứng; và
phản ứng đó uốn nắn tư tưởng, tình cảm, cuộc sống của bạn. Và bạn càng
ngày
càng bổ xung kinh nghiệm; bạn nghĩ đến càng ngày càng có kinh nghiệm.
Những hồi
ức của những kinh nghiệm đó càng rõ ràng thì bạn càng nghĩ rằng bạn
biết. Nhưng
nếu bạn quan sát, bạn sẽ thấy rằng bạn càng biết bạn càng trở thành
nông cạn,
càng trống rỗng. Trở thành trống rỗng hơn, bạn muốn có kinh nghiêm
nhiều hơn và
to lớn hơn. Cho nên bạn phải hiểu không những tất cả điều tôi đã nói
lúc trước
nhưng còn hiểu sự đòi hỏi khác thường này về kinh nghiệm nữa. Bây giờ
chúng ta
có thể đi tới.
Một
tâm trí tìm kiếm bất cứ
loại kinh nghiệm nào thì vẫn ở trong phạm vi của thời gian*, trong phạm
vi của
điều-đã-biết, trong phạm vi của những điều ham muốn tự phóng chiếu/A
mind is
seeking experience of any kind is still within the field of time,
within the
field of the known, within the field of self-projected desires. Như tôi
đã nói
ở phần đầu của bài nói chuyện này, thiền định có chủ tâm chỉ dẫn đến ảo
ảnh, ảo
tưởng. Tuy vậy phải có thiền định. Thiền định có chủ tâm chỉ dẫn đến
tự-thôi-miên mình, đến những hình thức kinh nghiệm khác nhau được phóng
chiếu
bởi những ham muốn và sự điều-kiện-hóa của chính bạn; và những ham muốn
và sự
điều-kiện-hoá này uốn nắn tâm trí bạn, điều khiển tư tưởng bạn. Cho nên
một
người thực sự hiểu ý nghĩa thâm sâu của thiền đĩnh phải hiểu ý nghĩa
của kinh
nghiệm; và tâm trí người đó cũng phải tự do đối với sự tìm kiếm. Điều
này rất
khó. Tôi sắp đi vào chuyện đó bây giờ.
Đã
đặt tất cả điều này làm
căn bản, một cách tự nhiên, tự động, dễ dàng, khi đó chúng ta phải thấy
điều
khiển, kiểm soát tư tưởng có ý nghĩa gì. Bởi vì đó là điều bạn phỏng
theo; bạn
càng kiểm soát tư tưởng, bạn càng nghĩ rằng bạn đã tiến trong thiền
định. Với
tôi, mọi hình thức kiểm soát - thể xác, tâm lý, lý trí, cảm xúc - đều
có
hại/For me, every form of control – physical, psychological,
intellectual,
emotional – is detrimental. Xin lắng nghe cẩn thận. Đừng nói, ‘Vậy thì
tôi sẽ
làm những gì tôi thích’. Tôi không nói vậy. Kiểm soát ngụ ý khuất phục,
đè nén,
thích nghi, uốn nắn tư tưởng vào một mẫu mực đặc biệt - ngụ ý rằng mẫu
mực thì
quan trọng hơn sự khám phá sự thật. Cho nên kiểm soát trong bất cứ hình
thức
nào - chống lại, đè nén, lý tưởng hoá – càng ngày càng uốn nắn tâm trí
tùy theo
qúa khứ, tùy theo tác động của hoàn cảnh trong đó bạn đã được giáo dục,
tùy
theo ảnh hưởng của một cộng đồng đặc biệt, vv vả vv.
Cần
thiết phải hiểu thiền
định. Vậy thì xin lắng nghe cẩn thận. Tôi không biết bạn đã từng thiền
định
loại này chưa. Có thể bạn chưa từng, nhưng bây giờ bạn sẽ cùng tôi thực
hiện.
Chúng ta sẽ cùng nhau đi, không bằng lời nói, nhưng bằng thực tế thực
hiện nó
tới tận cùng của sự liên lạc bằng lời. Nó giống như cùng đi ngay tới
cửa, rồi
hoặc bạn qua cửa hoặc bạn dừng lại phiá bên này cửa. Bạn sẽ dừng lại
phía bên
này cửa nếu bạn đã không thực sự làm mọi điều như đã được chỉ ra –
không vì
diễn giả nói thế, nhưng vì điều đó đúng mực, lành mạnh, hợp lý, và sẽ
đứng vững
qua mọi cuộc thử thách, kiểm tra.
Cho
nên bây giờ, cùng nhau,
chúng ta sẽ thiền định – không thiền định có chủ tâm, bởi vì điều đó
không tồn
tại. Nó giống như để cửa sổ mở và không khí lọt vào - bất kể không khí
đem theo
gì, bất kể làn gió nào. Nhưng nếu bạn trông mong, đợi cơn gió đến vì
bạn đã mở
cửa thì nó sẽ không bao giờ đến. Bởi vậy nó phải được mở ra do tình
yêu, tình
thương, sự tự do – không do bạn muốn điều gì đó. Và đó là trạng thái
của cái
đẹp, của tâm trí thấy và không đòi hỏi.
Thấy
rõ là một trạng thái
khác thường của tâm trí - thấy rõ xung quanh bạn, cây cối, chim đang
hót, hoàng
hôn đằng sau bạn; thấy rõ những khuôn mặt, những nụ cười, rác rến trên
đường,
vẻ đẹp của vùng đất, của cây cọ nổi bật trong hoàng hôn màu đỏ, trên
sóng nước
lăn tăn - chỉ thấy rõ mà thôi, không chọn lựa. Xin làm điều này đang
khi chúng
ta cùng đi. Hãy nghe tiếng những con chim này; đừng gọi tên chúng, đừng
nhận
diện chúng thuộc loại nào, nhưng chỉ lắng nghe âm thanh. Hãy lắng nghe
sự
chuyển động của chính tư tưởng bạn; đừng kiểm soát chúng, đừng uốn nắn
chúng,
đừng nói, ‘Điều này đúng, điều kia sai.’Chỉ chuyển động với chúng. Đó
là sự
thấy rõ mà trong đó không có sự chọn lựa, không kết án, không xét đoán,
không
so sánh hay giải thích, chỉ là sự quan sát thôi. Nó làm tâm trí bạn mẫn
cảm
cao. Lúc bạn gọi tên thì bạn đã đi trở lại, tâm trí bạn trở thành ù lì,
bởi vì
đó là điều vẫn thường như thế.
Trong
trạng thái của sự thấy
rõ đó có sự chú tâm – không phải là kiểm soát, không phải là tập trung.
Đó là
sự chú tâm. Nghĩa là bạn đang lắng nghe chim hót, thấy hoàng hôn, thấy
vẻ im
lìm của cây cối, bạn đang nghe xe cộ chạy gần bên, đang nghe diễn giả;
và bạn
chú tâm vào ý nghĩa của những chữ, bạn đang chú tâm vào chính tư tưởng
và tình
cảm của bạn, vào sự chuyển động trong sự chú tâm đó. Bạn chú tâm đầy
đủ, không
giới hạn, không chỉ một cách có ý thức, mà còn không-có-ý-thức nữa.
Không-có-ý-thức thì quan trọng hơn; do đó bạn phải tìm hiểu nó.
Tôi
không dùng chữ vô thức
như một từ chuyên môn về kỹ thuật hay một kỹ thuật. Tôi không dùng nó
theo
nghĩa các nhà tâm lý học xử dụng nhưng theo nghĩa bạn không có ý thức.
Bởi vì
đa số chúng ta sống trên bề mặt của tâm trí: đến văn phòng, thâu thập
kiến thức
hoặc một kỹ thuật, gây gổ, và vv. Chúng ta không bao giờ chú tâm vào
chiều sâu
của đời sống chúng ta, mà nó là kết qủa của cộng đồng chúng ta, của
phần sót
lại về chủng tộc, của tất cả qúa khứ - không chỉ của bạn như một người,
nhưng
cũng còn của cả con người, những âu lo của con người. Khi bạn ngủ, tất
cả những
điều này tự phóng chiếu thành những giấc mơ, và rồi có sự giải thích
những giấc
mơ đó. Giấc mơ hoàn toàn không cần thiết cho một người tỉnh thức, cảnh
giác,
quan sát, lắng nghe, thấy rõ, chú tâm.
Vậy
thì, sự chú tâm này đòi
hỏi sinh lực lớn lao; không phải sinh lực bạn đã thâu lượm được qua
thực hành,
qua cuộc sống độc thân và tất cả những điều khác có thể kể ra – mà
chúng là tất
cả sinh lực của sự tham lam. Tôi đang nói đến sinh lực của
sự-biết-mình. Vì bạn
đã đặt nền tảng đúng, từ đó có sinh lực chú tâm, không có cảm giác tập
trung.
Tập
trung là sự loại trừ -
bạn muốn nghe bản nhạc đó [từ một con đường kế bên], và bạn cũng muốn
nghe diễn
giả đang nói gì, nên bạn cưỡng lại tiếng nhạc đó và cố gắng nghe diễn
giả; như
vậy thực sự bạn không hoàn toàn chú tâm. Một phần sinh lực dùng vào
việc cưỡng
lại tiếng nhạc và một phần để cố gắng nghe diễn giả; do vậy bạn không
triệt để
lắng nghe, bạn không chú tâm. Vì thế nếu bạn tập trung, bạn chỉ cưỡng
lại, loại
trừ.
Cho
nên từ sự chú tâm này mới
có trí óc yên tịnh. Chính những tế bào não yên tịnh – không làm cho yên
tịnh,
không bị ghép vào kỷ luật, không bị ép buộc, không bị điều-kiện-hoá
mạnh bạo.
Nhưng có sự chú tâm một cách tự nhiên, tự động, không cố gắng, dễ dàng,
những
tế bào não không bị dùng sai, không bị cứng lại, không bị làm thành
thô, không
bị làm thành hung dữ. Tôi hy vọng bạn nghe kịp tất cả điều này. Trừ khi
chính
các tế bào não nhạy bén lạ lùng, tỉnh táo, linh động, không bị làm cứng
lại,
không bị gò ép, không bị làm việc qúa sức, không chuyên môn hoá ở một
điạ hạt
kiến thức đặc biệt, trừ khi chúng bén nhậy khác thường thì chúng không
thể yên
tịnh. Vì thế não bộ phải yên tịnh, nhưng tuy vậy phải bén nhậy với mọi
phản
ứng, thấy rõ tất cả tiếng nhạc, tiếng ồn, tiếng chim, nghe những lời
này, ngắm
nhìn hoàng hôn – không sức ép, không căng thẳng, không ảnh hưởng nào.
Não bộ
phải rất yên tịnh, bởi vì không yên tịnh – không bị sui khiến, không bị
đem đền
một cách giả tạo – thì không thể có tính minh bạch/The brain must be
very
quiet, because without quietness – uninduced, not brought about
artificially –
there can be no clarity.
Và
chỉ có thể có tính minh
bạch khi có không gian trống. Bạn có không gian trống khi não bộ tuyệt
đối yên
tịnh nhưng tuy vậy vẫn nhậy bén cao, không bị làm lu mờ. Và đó là lý do
tại sao
những gì bạn làm trong cả ngày thì rất quan trọng. Tàn bạo, dã man bởi
hoàn
cảnh, xã hội, việc làm, sự chuyên-môn-hoá, bởi ba hoặc bốn chục năm làm
việc
trong văn phòng, nên não bộ nghiền nát không thương tiếc - tất cả điều
này hủy
diệt tính bén nhậy khác thường của não bộ. Và não bộ phải yên tịnh. Từ
đó, toàn
bộ tâm trí, gồm não bộ trong đó, có khả năng hoàn toàn yên tịnh. Tâm
trí yên
tịnh đó không còn tìm kiếm, không đợi chờ kinh nghiệm, không chút kinh
qua bất
cứ điều gì/That still mind is no longer seeking, it is not waiting for
experience; it is not experiencing anything at all.
Tôi
hy vọng bạn hiểu tất cả
điều này. Có lẽ bạn không hiểu. Không thành vấn đề, hãy lắng nghe thôi.
Đừng để
tôi mê hoặc, nhưng hãy lắng nghe sự thật của điều này. Và có lẽ lúc đó,
khi bạn
đang đi ngoài phố, ngồi trên xe buýt, ngắm nhỉn một giòng suối hay một
đồng
lúa, nặng hạt và xanh tốt thì điều này xảy đến, không hay biết, giống
như một
cơn gió nhẹ từ một vùng xa thổi tới.
Như
thế tâm trí khi ấy trở
nên hoàn toàn tĩnh lặng, không có sức ép, sự bắt buộc nào. Sự tĩnh lặng
này
không do tư tưởng làm ra, bởi vì tư tưởng đã chấm dứt, toàn bộ guồng
máy của tư
tưởng đã tới chỗ kết thúc. Tư tưởng phải chấm dứt; bằng không tư tưởng
sẽ sản
sinh thêm hình ảnh, ý tưởng, ảo tưởng – thêm nữa và thêm nữa. Do đó bạn
phải
hiểu toàn bộ guồng máy này của tư tưởng - chứ không phải cách nào chấm
dứt sự
suy nghĩ. Nếu bạn hiểu toàn bộ guồng máy của tư tưởng, mà nó là phản
hồi của
trí nhớ, của liên tưởng và của sự nhận diện/nhận ra, của việc gọi tên,
của sự so
sánh, của sự xét đoán - nếu bạn hiểu nó, thì tự nhiên nó chấm dứt. Khi
tâm trí
hoàn toàn tĩnh lặng, khi ấy do sự tĩnh lặng đó, trong sự tĩnh lặng đó,
có một
chuyển động hoàn toàn khác/Therefore you have to understand this whole
machinery of thought – not how to stop thinking. If you understand the
whole
machinery of thought, which is the response of memory, association and
recognition, naming, comparing, judging – if you understand it,
naturally it
comes to an end. When the mind is completely still, then out of that
stillness,
in that stillness, there is quite a different movement.
Chuyển
động đó không được tạo
ra bởi tư tưởng, xã hội, những gì bạn đọc được hay không đọc. Chuyển
động đó
không là của thời gian, không là của kinh nghiệm bởi vì nó không có
kinh
nghiệm. Đối với một tâm trí tĩnh lặng thì không có kinh nghiệm. Một
nguồn sáng
đang cháy sáng, mạnh mẽ, không đòi hỏi gì thêm, nó là nguốn sáng cho
chính nó.
Chuyển động đó không nằm trong phương hướng nào, bởi vì phương hướng
bao hàm
thời gian. Chuyển động đó không có nguyên nhân, bởi vì bất cứ điều gì
có nguyên
nhân thì có hậu quả và hậu quả đó lại trở thành nguyên nhân và cứ thế
tiếp tục
- một chuỗi không dứt nhân quả. Bởi thế nó hoàn toàn không hậu qủa,
không
nguyên nhân, không động lực, không cảm giác trải nghiệm nào. Bởi vì tâm
trí
hoàn toàn tĩnh lặng, một cách tự nhiên tĩnh lặng, bởi vì bạn đã đặt nền
tảng,
nó trực tiếp liên quan tới đời sống, nó không tách khỏi cuộc sống hàng
ngày
Nếu
tâm trí đã đi xa như vậy,
thì chuyển động đó là sự sáng tạo. Không có sự âu lo nào để thể hiện,
bởi vì
một tâm trí ở trạng thái sáng tạo thì có thể bộc lộ hay không bộc lộ.
Trạng
thái tâm trí đó ở trong sự im lặng hoàn toàn – nó sẽ chuyển động,
chuyển động
của nó vào điều-không-biết, vào điều-không-thể-gọi-tên. Như thế thiền
định mà
bạn vẫn hành thì không phải thiền định chúng ta đang nói đến. Đây là
thiền định
từ vô cùng đến vô tận, bởi vì bạn đã không đặt nền móng trên thời gian
nhưng
trên sự thật/This meditation is from the everlasting to the
everlasting, because
you have laid the foundation not on time but on reality .
Madras,
15 Tháng
Mười Hai 1974
Những
điều tư tưởng đặt để vào
nhau coi như điều linh thiêng thì không linh thiêng/The things that
thought has
put together as sacred are not sacred. Chúng chỉ là những ngôn từ tạo
cho đời sống
một ý nghĩa, bởi vì đời sống của bạn không linh thiêng, không thần
thánh. Chữ
thần thánh/holy do chữ toàn thể/whole, có nghĩa là khoẻ mạnh và ổn kiện
- tất cả
được ngụ ý trong chữ đó. Cho nên một tâm trí vận hành qua tư tưởng, dù
mong muốn
tìm thấy điều linh thiêng cách mấy thì vẫn ở trong phạm vi của thời
gian, của
điều không-nguyên-vẹn -. Tâm trí có thể nguyên vẹn, không rời rạc
chăng? Tất cả
phần hiểu biết về thiền định là ở điểm này.Tâm trí là sản phẩm của sự
tiến hóa,
của thời gian, của rất nhiều ảnh hưởng, rất nhiều nỗi đau, rất nhiều
khó nhọc,
nỗi buồn, nỗi ưu tư lo lắng – tâm trí vướng mắc vào tất cả điều đó, là
kết qủa
của tư tưởng mà bản chất là không-nguyên-vẹn -- thì tâm trí như nó hiện
giờ, có
thoát khỏi chuyển động của tư tưởng không?Can the mind that is the
product of
evolution, product of time, product of
so much influence, so many hurts, so many travails, such great sorrow,
great
anxiety – caught in all that, all that is the result of thought,
thought that
is fragmentary by its very nature – can the mind that is the result of
thought,
as it is now, be free of the movement of thought? Tâm trí có thể nguyên
vẹn chăng?
Bạn có thể nhìn đời sống như một toàn thể không?Tâm trí có thể là một
toàn thể,
không một mảnh rời chăng? Vậy thì có sự chuyên chú xuất hiện trong
chuyện này.
Một tâm trí là toàn thể khi nó chuyên chú, nghĩa là có sự quan tâm,
tình thương,
tình yêu lớn lao – hoàn toàn khác với tình yêu của một người đàn ông và
một người
đàn bà.
Cho
nên tâm trí toàn vẹn thì chăm
chú, và do đó quan tâm, và có cảm giác sâu sắc của tình yêu. Một tâm
trí như thế
là toàn vẹn mà bạn chợt thấy khi bạn bắt đầu tra hỏi thiền định là gì.
Rồi chúng
ta có thể tiếp tục thấy linh thiêng là gì.
Xin
lắng nghe. Nó là đời sống của
bạn. Hãy để con tim và khối óc của bạn tìm ra một lối sống khác biệt,
nghĩa là
khi tâm trí đã từ bỏ mọi sự kiểm soát/Give your heart and mind to find
out a
way of living differently, which means when the mind has abandoned all
control.
Điều đó không có nghĩa bạn sống và làm những gì bạn thích, chịu thua
mọi ham muốn,
mọi cái nhìn thèm khát hoặc phản ứng lại mọi lạc thú, mọi đòi hỏi theo
đuổi thú
vui, nhưng là tìm xem bạn có thể sống hàng ngày mà không có một sự kiểm
soát
nào hay không/whether you can live a daily life without a single
control. Điều đó
có phần trong thiền định. Nghĩa là người ta phải có phẩm chất của sự
chú ý. Sự
chú ý này nhìn vào bên trong đúng vị trí của tư tưởng, thấy tư tưởng đó
không
toàn vẹn, và ở đâu có sự kiểm soát, điều khiển thì ở đó có người kiểm
soát và
điều-bị-kiểm-soát, mà nó rời thành mảng/That is part of meditation.
That means
one has to have this quality of attention. That attention has brought
about
insight into the right place of thought
and seen that thought is fragmentary, and that where there is control,
there is
controller and the controlled, which is fragmentary. Vì
thế để thấy một lối sống không có một sự kiểm
soát nào đòi hỏi sự chú ý, kỷ luật lớn lao. Chúng ta không nói đến thứ
kỷ luật
bạn đã quen thuộc, mà nó chỉ là sự đè nén, sự kiểm soát, sự mô phỏng,
nhưng nói
đến một thứ kỷ luật là thấy biết/but of a discipline that means to
learn. Chữ kỷ
luật là từ chữ môn đệ, học trò. Ở đó học trò học hỏi. Nay ở đây không
thày, không
học trò; bạn là thày và bạn là học trò nếu bạn đang thấy, biết. Chính
hành vi biết
đó đem lại trật tự của chính nó.
Bây
giờ tư tưởng đã thấy đúng
chỗ của nó. Cho nên tâm trí không còn bị chất
nặng bởi chuyển động của tư tưởng như một diễn
biến cụ thể(vật chất),
có nghĩa tâm trí tuyệt đối yên tĩnh/Now thought has found its own
place, its
right place. So the mind is no longer burdened with the movement of
thought as
a material process, which means the mind is absolutely quiet. Nó yên
tĩnh một
cách tự nhiên, không phải yên tĩnh được tạo ra. Yên tĩnh được tạo ra
thì vô
ích. Trong điều ngẫu nhiên yên tĩnh đó, trong sự yên tĩnh đó, trong sự
trống
không đó, một điều mới có khả năng diễn ra/It is naturally quiet, not
made quiet.
That which is made quiet is sterile. In that which happens to be quiet,
in that
quietness, in that emptiness, a new thing can take place.
Tâm
trí, tâm trí của bạn có thể
tuyệt đối yên tĩnh, không có sự kiểm soát, không có sự chuyển động của
tư tưởng
không? Nó sẽ yên tĩnh một cách tự nhiên nếu bạn thực sự nhìn vào bên
trong để đem
tư tưởng về đúng vị trí của nó – tư tưởng ở đúng chỗ của nó thì tâm trí
yên tĩnh.
Bạn hiểu sự im lặng và sự yên tĩnh có nghĩa gì chứ? (Bạn biết bạn có
thể làm
cho tâm trí bạn yên tĩnh bằng cách dùng ma túy, bằng cách lập lại một
câu trú
hay một chữ. Bằng cách cứ lập đi lập lại mãi thì tự nhiên tâm trí bạn
sẽ trở nên
yên tĩnh, nhưng một tâm trí như thế là một tâm trí đần độn, ngốc
nghếch). Có một
sự im lặng giữa hai tiếng ồn. Có sự im lặng giữa hai nốt nhạc. Có sự im
lặng giữa
hai chuyển động của tư tưởng. Có sự im lặng của một buổi chiều khi chim
chóc kêu
ồn ào, hót líu lo rồi đi ngủ. Khi không có tiếng vỗ cánh trong đám lá
cây, không
có gió thổi thì có sự yên tĩnh tuyệt đối. Không ở trong thành phố,
nhưng khi bạn
ra ngoài với thiên nhiên, với rừng cây, hay ngồi trên bờ sông khi sự im
lặng đổ
xuống trái đất thì bạn là một phần của sự im lặng đó.Vì thế có nhiều sự
im lặng
khác nhau. Nhưng sự im lặng chúng ta đang nói về, là sự yên tĩnh của
tâm trí,
không thể mua được, không tập luyện được, không là điều gì đó bạn có
thể đoạt
được như một phần thưởng, không là một sự đền bù cho một đời sống khốn
khổ. Chỉ
khi đời sống khốn khổ đó được chuyển biến thành đời sống tốt đẹp - với
chữ tốt
đẹp tôi không muốn nói sự sung túc, nhưng là đời sống của lòng từ bi –
mà trong
sự nở hoa của lòng từ bi đó, của cái đẹp đó, khi ấy có sự im lặng/But
the
silence we are talking about, the quietness of a mind, that silence is
not to
be bought, is not to be practiced, is not something you gain as a
reward, a
compensation to an ugly life – by good I mean not having plenty, but
the life
of goodness, that beauty, then the silence comes.
Bạn
cũng phải tìm biết xem cái đẹp
là gì. Cái đẹp là gì? Bạn đã từng đi sâu vào câu hỏi này chưa? Bạn sẽ
thấy nó
trong một cuốn sách và cho tôi hoặc cho chúng ta biết cuốn sách nói cái
đẹp là
gì chứ? Cái đẹp là gỉ? Bạn đã nhìn vào hoàng hôn chiều nay khi bạn ngồi
ở đó không?
Hoàng hôn ở sau lưng diễn giả - bạn có nhìn nó chứ? Bạn có cảm thấy ánh
sáng và
vẻ huy hoàng của nó trên một chiếc lá không? Hay bạn nghĩ cái đẹp là
nhục cảm,
và tâm trí tìm kiếm những điều linh thiêng thì không thể bị cái đẹp hấp
dẫn, không
quan hệ gì với cái đẹp, và do đó chỉ tập trung vào hình ảnh bé nhỏ mà
bạn phóng
chiếu từ tư tưởng thành điều tốt đẹp. Nếu bạn muốn thấy thiền định là
gì, bạn
phải thấy cái đẹp là gì, cái đẹp trên khuôn mặt, cái đẹp trong tính
cách – không
phải tính cách, tính cách là điều ít gía trị, tùy thuộc vào phản ứng
đối với môi
trường; sự chăm sóc phản ứng đó được gọi là tính cách – cái đẹp của
hành động,
cái đẹp của thái độ, cách cư xử, cái đẹp bên trong, cái đẹp trong cách
đi,
trong cách nói, trong điệu bộ của bạn. Tất cả điều đó là cái đẹp và,
không có nó
thì thiền định chỉ lả sự trốn chạy, một sự bù đắp, một hành động vô
nghĩa. Có cái
đẹp trong sự thanh đạm, trong sự mộc mạc – không phải sự khắc khổ của
nhà tu hành
khất thực Ấn Độ, sự khắt khe của một tâm trí ngăn nắp trật tự. Có trật
tự khi bạn
hiểu đầy đủ sự rối loạn bạn sống trong đó, và từ sự rối loạn này có
trật tự một
cách tự nhiên mà nó là đạo đức. Do đó đạo đức, trật tự là sự giản dị
cao nhất,
không phải là không ăn ba bữa trong một ngày hay tuyệt thực, hay cạo
trọc đầu,
và tất cả những điều khác còn lại có thể kể ra.
Vì
thế có trật tự, mà nó là cái
đẹp. Có cái đẹp của tình yêu, cái đẹp của tỉnh thương. Và cũng có cái
đẹp của một
đường phố sạch sẽ, của một tòa nhà có kiểu kiến trúc hay, có cái đẹp
của một cái
cây, một chiếc lá xinh, những cành cây rất vĩ đại. Thấy tất cả những
điều đó là
cái đẹp; không phải chỉ đến các viện bảo tàng và nói mãi về cái đẹp. Sự
im lặng
của một tâm trí yên tĩnh là cốt lõi của cái đẹp đó/The silence of a
quiet mind
is the essence of that beauty. Bởi vì nó im lặng và không là đồ chơi
của tư tưởng,
nên khi ấy trong sự im lặng đó có điều không thể hủy diệt được, mà nó
linh thiêng.
Khi điều linh thiêng đó xảy ra thì đời sống trở nên linh thiêng, đời
sống bạn
linh thiêng, mối quan hệ của chúng ta linh thiêng, mọi điều linh thiêng
bởi vì
bạn đã đụng vào điều đó mà nó là linh thiêng.
Chúng
ta cũng phải thấy trong
thiền định có hay không có điều gì đó bất diệt, không-có-thời-gian hay
không. Có
nghĩa, tâm trí đã được nuôi dưỡng trong
địa
hạt của thời gian có thể thấy, chợt gặp hay thấy điều đó từ vô cùng đến
vô tận
không? Nghĩa là tâm trí có thể không-có-thời-gian không? Dù thời gian
là cần
thiết để đi từ nơi này tới nơi kia, và tất cả những cái khác có thể kể
ra, tâm
trí đó, vẫn chính là tâm trí đó hoạt động trong thời gian, đi từ đây
tới kia,
không bằng tâm lí nhưng bằng thể xác có thể không-có-thời-gian không?
Có nghĩa
tâm trí đó không qúa khứ, không hiện tại, không tương lai không? Tâm
trí đó có
thể ở trong tình trạng tuyệt đối không-có-gì không? Đừng sợ chữ đó. Bởi
vì trống
không nên nó có khoảng trống rộng lớn. Bạn có từng quan sát trong tâm
trí bạn có
chút khoảng trống nào hay không? Chỉ là khoảng trống, bạn biết không,
một khoảng
trống nhỏ thôi? Hoặc đầy mọi thứ? Bởi lo lắng, tình dục hoặc không tình
dục, thành
công, kiến thức, tham vọng, sợ hãi, ưu tư, tính nhỏ nhen. Làm thế nào
một tâm
trí như thế có thể hiểu, hoặc ở trong tình trạng có khoảng trống to lớn
đó?
Khoảng
trống thỉ luôn luôn rộng
lớn. Một tâm trí không có khoảng trống nào trong đời sống hàng ngày thì
không
thể bất chợt thấy điều bất diệt, không-thời-gian. Đó là lý do tại sao
thiền định
trở nên quan trọng khác thường. Không phải là thứ thiền định tất cả các
bạn thực
hành, đó không là thiền định gì cả. Thiền định chúng ta nói tới làm
chuyển biến
tâm trí. Chỉ một tâm trí như thế mới là tâm trí có-tôn-giáo, và chỉ một
tâm trí
có-tôn-giáo như thế mới có thể đem đến một nền văn hóa khác biệt, một
lối sống
khác biệt, quan hệ khác biệt, một cảm giác của điều linh thiêng , cái
đẹp tuyệt
vời và tính chân thật. Tất cả điều này xảy đến tự nhiên, không cố gắng,
không
chiến đấu.
New
Delhi, 31 Tháng Mười 1956
Người
hỏi: Làm cách nào tôi có
thể kinh nghiệm được Thượng Đế, điều sẽ làm đời sống chán ngắt của tôi
có một ý
nghĩa? Không có kinh nghiệm đó thì cuộc sống có ý nghĩa gì?
Krishnamurti:
Tôi có thể hiểu
trực tiếp đời sống không, hay phải qua kinh nghiệm điều gì đó cho đời
sống có một
ý nghĩa? Qúy bạn hiểu chứ? Để hiểu rõ cái đẹp, tôi có phải biết mục
đích của nó
là gì không? Tình yêu phải có nguyên nhân không? Và nếu có nguyên nhân
để yêu,
thì nó có là tình yêu không? Người hỏi nói ông ấy phải có kinh nghiệm
nào đấy để
cho đời sống có một ý nghĩa – nó ngụ ý rằng chính đời sống không quan
trọng đối
với ông ta. Vì thế trong sự tìm kiếm Thượng Đế ông ấy thực sự thoát ly
cuộc đời,
thoát ly sự buồn khổ, cái đẹp, cái xấu, sự giận dữ, sự nhỏ nhen, sự
ghen tức, và
sự ham quyền, sự phức tạp khác thường của cuộc sống. Tất cả điều đó là
đời sống,
và vì không hiểu nó, ông ấy nói, ‘Tôi sẽ tìm ra điều vĩ đại hơn cho đời
sống có
một ý nghĩa’.
Xin
lắng nghe điều tôi nói, nhưng
không chỉ ở tầm mức lời nói, tri thức bởi vì khi đó nó sẽ có rất ít ý
nghĩa. Bạn
có thể nói rất nhiêu lời về tất cả điều này, đọc tất cả kinh sách trên
trái đất,
nhưng nó sẽ vô ích bởi vì nó không liên quan gì đến đời sống, đến cuộc
sinh tồn
mỗi ngày của bạn.
Cuộc
sống của chúng ta là gì? Điều
chúng ta gọi là cuộc sinh tồn này là gì? Rất đơn giản, không triết lý,
nó là một
chuỗi kinh nghiệm vui sướng và đau buồn, và chúng ta muốn tránh những
nỗi đau đang
khi giữ chặt niềm vui. Muốn có quyền, muốn là một nhân vật quan trọng
trong thế
giới rộng lớn, muốn áp chế ngườivợ nhỏ bé
hoặc người chồng, khống chế nỗi đau, nỗi
thất vọng, nỗi lo cùng tham vọng, thói xấu xu nịnh kẻ quyền thế, và vvv
- tất cả
làm nên cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Nghĩa
là, điều chúng ta gọi là cuộc sống là một chuỗi hồi tưởng trong phạm vi
của điều-đã-biết;
và nó trở thành vấn đề khi tâm trí không tự do đối với điều-đã-biết.
Hoạt động
trong phạm vi của điều-đã-biết -- điều-đã-biết là kiến thức, kinh
nghiệm, và ký
ức của kinh nghiệm đó – tâm trí nói, ‘Tôi phải biết Thượng Đế’. Vì thế
theo tập
truyền, quan niệm, và sự tác động của hoàn cảnh, nó phóng chiếu một
thực tại gọi
là ‘Thượng Đế’; nhưng thực thể đó là kết qủa của điều-đã-biết; nó vẫn
nằm trong
phạm vi của thời gian/That is, what we call living is a series of
memories
within the field of the known; and the known becomes a problem when the
mind is
not free of the known. Functioning within the field of the known – the
known
being knowledge, experience, and the memory of that experience – the
mind says,
‘I must know God’. So according to its tradition, according to its
ideas, its
conditioning, it projects an entity that it calls ‘God’; but that
entity is the
result of the known; it is still within the field of time.
Cho
nên bạn có thể thấy bằng sự
sáng tỏ, bằng sự thật, và bằng kinh nghiệm thực tế rằng có Thượng Đế
hay không,
chỉ khi nào tâm trí hoàn toàn tự do đối với điều-đã-biết. Chắc
chắn điều gì đó, được gọi là Thượng Đế hay sự thật, phải hoàn toàn mới, không thể nhận ra như điều đã biết/Surely
that something,which may be called God or truth, must totally new, unrecognizable,và một tâm trí tiếp cận điều
đó qua kiến thức, qua kinh nghiệm và những đức-hạnh-được-tích-lũy, cố
nắm bắt điều-không-biết
trong khi sống trong phạm vi của điều-đã-biết thì đó là một điều không
thể được.
Tất cả những gì tâm trí có thể làm là tìm hiểu có thể tự giải phóng
mình khỏi điều-đã-biết
hay không. Thoát khỏi điều-đã-biết là hoàn
toàn thoát khỏi tất cả những dấu ấn của
qúa khứ, thoát khỏi toàn bộ sức nặng của truyền thống. Chính
tâm trí là sản phẩm của điều-đã-biết, nó được sắp đặt với nhau bởi
thời gian thành ‘tôi’ và ‘không-phải-tôi’, là mâu thuẫn của tính hai mặt/To be free from the known is to be
completely free from all the impressions of the past,
from the whole weight of tradition. The
mind itself is the product of the known, it is put together as the ‘me’
and the
‘not-me’, which is the conflict of duality.
Nếu điều-đã-biết hoàn toàn chấm dứt, ý thức
hay vô thức – và tôi nói, không lý thuyết, rằng có khả năng nó chấm dứt
– khi đó
bạn sẽ không bao giờ hỏi có Thượng Đế hay không bởi vì một tâm trí như
thế thì
không thể đo lường được trong chính nó. Giống
như tình yêu, nó là sự bất diệt của chính nó/Like love, it is its own
eternity.
Ojai,
5 Tháng Bảy 1953
Biết
toàn bộ nội dung của tâm
trí - phủ nhận, chống lại, rèn luyện, nỗ lực để được an toàn, tất cả
những điều
đó đều ảnh hưởng và hạn chế suy nghĩ – tâm trí, như một diễn tiến hợp
nhất có
thể hoàn toàn tự do khám phá điều bất diệt không? Bởi vì không khám
phá, không
kinh nghiệm thực tại đó thì tất cả những vấn đề của chúng ta cùng những
giải
pháp cho những vấn đề đó chỉ thêm dẫn đến sự đau khổ và thảm họa mà
thôi/Knowing
the whole content of the mind – its denials, its resistances, its
disciplinary
activities, its various efforts at security, all of which condition and
limit
its thinking – can the mind, as an integrated process, be totally free
to discover
that which is eternal? Because without that discovery, without the
experiencing
of that reality, all our problems with their solution only lead to
further
misery and disaster. Điều đó hiển nhiên, bạn có thể thấy trong đời sống
hàng ngày.
Về mặt cá nhân, chính trị và quốc tế, trong hoạt động hàng ngày, chúng
ta càng
ngày càng nuôi dưỡng mối bất hòa, nó là điều không thể tránh khỏi bao
lâu chúng
ta không trải qua tình trạng tôn giáo đó,
mà nó chỉ có thể kinh nghiệm được khi tâm trí hoàn toàn tự do/that
state that
is experienceable only when the mind is totally free.
Sau
khi nghe điều này, nếu chỉ
một giây thôi, bạn có thể biết sự tự do đó không? Bạn không thể biết nó
chỉ vì
tôi gợi nó ra, vì khi đó nó sẽ chỉ là một ý tưởng, một quan niệm không
có ý nghĩa
gì. Nhưng nếu bạn đã theo dõi rất nghiêm chỉnh thì bạn bắt đầu biết tư
tưởng của
bạn diễn tiến thế nào, với phương hướng, mục đích, nguyên nhân của nó;
và do biết,
bạn chắc chắn tới một tình trạng trong đó bạn không còn tìm kiếm, chọn
lựa, phấn
đấu để đạt thành. Đã hiểu toàn thể diễn tiến của nó, tâm trí trở nên
tĩnh lặng
khác thường, không phương hướng, không ý muốn, không có hành động nào
bởi ý chí.Ý
chí vẫn là dục vọng, phải không? Người tham vọng, trong
nghĩa phổ quát, rất muốn chiến thắng,
muốn thành công, muốn trở nên nổi tiếng, và dùng ý chí cho chính mình
có sự
quan trọng. Cũng thế, chúng ta vận dụng ý chí để phát huy đức hạnh, để
đạt điều
được gọi là tình trạng tâm linh. Nhưng điều
tôi đang nói thì hoàn toàn khác; nó tuyệt đối không có dục vọng, không
có hành
động thoát ly, không có sự bắt buộc phải là cái này hoặc cái kia/But
what I am
talking about is totally different; it is devoid entirely of any
desire, of any
action towards escape, of any compulsion to be this or that.
Xem
xét điều tôi nói, bạn dùng
lý trí, phải không? Nhưng lý trí chỉ có thể dẫn tới đó và không xa hơn.
Rõ ràng chúng ta phải dùng lý trí, khả năng
nghĩ ra nhiều điều một cách đầy đủ và không dừng lại nửa chừng. Nhưng
khi lý
trí tới giới hạn của nó và không thể đi xa hơn thì khi ấy tâm trí không
còn là
khí cụ của lý trí, của mưu mô, của tính toán, của tấn công và phòng
ngự, bởi vì
chính cái trung tâm mà từ đó nổi lên tất cả những suy nghĩ, những mâu
thuẫn của
chúng ta đã kết thúc/We must obviously exercise reason, the capacity to
think
things completely and not stop half way. But when reason has reached
its limit
and can go no further, then the mind is no longer the instrument of
reason, of
cunning, of calculation, of attack and defense, because the very centre
from
which arise all our thoughts, all our conflicts, has come to an end.
Vậy
bây giờ bạn đã lắng nghe,
chắc chắn bạn bắt đầu liên tục biết chính bạn qua các hành động khác
nhau trong
ngày. Tâm trí đến chỗ biết chính nó, với tất cả những sai lạc, những
chống đối,
những niềm tin, những đeo đuổi, những tham vọng, những sợ hãi, những
thôi thúc
để hoàn thành. Biết tất cả điều này, nếu
chỉ trong thoáng chốc, tâm trí không thể hoàn toàn tự do để biết một sự
im lặng
trong đó có tự do sao?Và khi có tự do của sự im lặng đó, chính tâm trí
khi ấy
không là điều bất diệt sao?/Being aware of all this, is it not possible
for the
mind, if only for an instant, to be totally still, to know a silence in
which
there is freedom? And when there is that freedom of silence, then is
not the
mind itself the eternal?
Để
trải nghiệm điều-không-biết, chính tâm trí phải là điều-không-biết/To
experience the unknown, the mind itself must be the unkown.
Tâm trí,
bao lâu nay, là kết qủa của điều-đã-biết. Bạn là gì ngoại trừ sự tích
lũy của điều-đã-biết,
của tất cả những điều bất an, những hư danh, những tham vọng, những nỗi
đau, những
thành công, những thất bại?Tất cả điều đó là điều-đã-biết, ở trong thời
gian và
không gian; và bao lâu tâm trí còn hoạt động
trong phạm vi của thời gian, của điều-đã-biết thì nó không bao giờ là
điều-không-biết,
nó chỉ có thể tiếp tục trải nghiệm điều nó đã biết/as long as the mind
is
functioning within the field of time, of the known, it can never be the
unkown,
it can only go on experiencing that which it has known. Xin chú ý,
đây không
là điều gì phức tạp hoặc huyền bí. Tôi mô tả những sự kiện hiển nhiên
trong đời
sống hàng ngày của chúng ta. Bị chất nặng bởi điều-đã-biết, tâm trí tìm
sự khám
phá điều-không-biết. Làm thế nào nó có thể làm được? Chúng ta đều nói
đến Thượng
Đế:Trong mọi tôn giáo, mọi nhà thờ và mọi miếu đền người ta dùng chữ
đó, nhưng
luôn luôn trong hình ảnh của điều-đã-biết. Nhưng chỉ rất, rất ít người
từ bỏ tất
cả nhà thờ, miếu đền, kinh sách để đi ra ngoài giới hạn và khám phá.
Hiện
tại, tâm trí là kết qủa của
thời gian, của điều-đã-biết, và khi một tâm trí như thế bắt đầu khám
phá, nó chỉ
khám phá điều nó đã kinh nghiệm, là điêu-đã-biết. Khám phá
điều-không-biết, tâm trí phải tự giải phóng mình hoàn toàn khỏi điều-đã-biết, khỏi qúa khứ, không bằng
phân tích chậm chạp, không bằng nghiên cứu từng bước vào sâu trong qúa
khứ, bằng
diễn dịch mọi giấc mơ, mọi phản ứng, nhưng bằng thực tế và tức khắc
thấy đầy đủ
tất cả điều này, khi bạn đang ngồi ở đó. Bao
lâu tâm trí còn là kết qủa của thời gian, của điều-đã-biết thì nó không
bao giờ
thấy điều-không-biết, là Thượng Đế, chân lý hay điều gỉ bạn muốn/As
long as the
mind is the result of time, of the known, it can never find the
unknown, which
is God, reality, or what you will.Thấy sự thật của điều đó thì giải
phóng tâm
trí khỏi qúa khứ. Đừng giải thích ngay rằng sự giải phóng khỏi qúa khứ
là như bạn
quên không biết đường về nhà. Đó là bệnh kém trí nhớ. Đừng giảm nó
thành suy
nghĩ ấu trĩ như thế. Nhưng tâm trí được
giải phóng thấy rằng khi bị đè nặng bởi điều-đã-biết thì nó không thể
thấy sự
thật, tình trạng khác thường của điều-không-biết, /But the mind is
freed the
moment it sees the truth that it cannot find the real, this
extraordinary state
of the unknown, when it is burdened
with the known. Kiến thức, kinh nghiệm, là cái ‘tôi’, là bản thân
đã tích lũy,
gom góp; do đó tất cả kiến thức phải bị đình chỉ, tất cả kinh nghiệm
phải bị dẹp
bỏ. Và khi có sự im lặng của sự tự do, khi đó tự tâm trí không là điều
bất diệt
sao? Khi đó nó trải qua điều gì đó hoàn toàn mới, nó là sự thật; nhưng
để kinh nghiệm
điều đó, tâm trí phải là điều đó. Xin đừng nói tâm trí là chân lý. Nó
vốn không
là. Tâm trí chỉ có thể trải nghiệm chân lí khi nó hoàn toàn tự do đối
với thời
gian/And when there is the silence of freedom, then is not the mind
itself the
eternal?Then it is experiencing something totally new, which is the
real; but
to experience that, the mind must be that. Please don’t say the mind is
reality. It is not. The mind can experience reality only when it is
totally
free from time.
Toàn
thể tiến trình khám phá này là tôn
giáo. Chắc chắn tôn giáo không là điều
gì bạn tin; nó chẳng có gì liên quan đến chuyện bạn là một Cơ Đốc nhân,
một Phật
tử, một người Hồi giáo hay một người Ấn giáo/This whole process of
discovery is
religion. Surely religion is not what you believe; it has nothing to do
with
whether you are a Christian or a Buddhist, a Moslem, or a Hindu.
Những
điều đó không có ý nghĩa gì; nó là một chướng ngại; và tâm trí sẽ khám
phá thì
phải được trút bỏ hết những thứ đó. Để được tươi mới, tâm trí phải cô
đơn. Để sự
sáng tạo của điều bất diệt hiện hữu, chính tâm trí phải ở tình trạng đó
để tiếp
nhận nó/To be new, the mind must be
alone. For eternal creation to be,
the mind itself must be in that state to receive it. Nhưng bao lâu tâm
trí còn đầy
những phấn đấu khó nhọc, những cuộc đấu tranh, bao lâu nó còn nặng
những kiến
thức và những ngăn trở rắc rối về tâm lí thì nó không bao giờ có thể tự
do để
tiếp nhận, hiểu và khám phá.
Một
người thực sự có tôn giáo
không là người phủ bên ngoài bằng những niềm tin, những giáo lí, những
lễ nghi. Người ấy không có niềm tin nào; sống thường
xuyên, không bao giờ tích lũy bất cứ kinh nghiệm nào,và do đó là người cách mạng duy nhất.
Sự Thật không tiếp nôí trong thời gian; nó phải
được khám phá mới mỗi
lúc/He has no beliefs; he is living from moment to moment, never
accumulating
any experience, and therefore he is the only revolutionary being.Truth
is not a
continuity in time; it must be discovered anew at every moment. Tâm
trí góp
nhặt, giữ lại, chất chứa bất cứ kinh nghiệm nào thì đều không thể sống
thường
xuyên khám phá điều mới.
Những
ai thực sự nghiêm túc, hết lòng, không giỡn chơi với tất cả điều này
thì thấy sự
quan trọng,ý nghĩa khác thường trong đời sống, bởi vì họ sẽ là nguồn
sáng cho
chính họ và có lẽ cho người khác nữa/Those who are really serious, who
are not
dilettantes, not merely playing with all this, have an extraordinary
importance
in life, because it is they who will become a light unto themselves and
therefore, perhaps, to others. Nói
đến Thượng Đế mà không trải
nghiệm, không có một tâm trí hoàn toàn tự do và mở rộng cho
điều-không-biết thì
có rất ít giá trị. Nó giống người lớn chơi đồ chơi trẻ con; và khi
chúng ta chơi
đồ chơi, gọi nó là ‘tôn giáo’thì chúng ta tạo thêm sự rối loạn, sự đau
khổ lớn
hơn.
Chỉ
khi chúng ta hiểu toàn bộ tiến trình/diễn biến của suy nghĩ, khi chúng
ta không
còn vướng mắc vào chinh tư tưởng của chúng ta, là điều có thể cho tâm
trí chúng
ta vắng lặng. Và chỉ khi đó điều bất diệt mới hiện thực/It is only when
we
understand the whole process of thinking, when we are no longer caught
in our
own thought, that it is possible for the mind to be still. And only
then can
the eternal come into being.
Saanen,
1 Tháng Tám 1965
Xin
chú ý, như bữa trước tôi có
nói, diễn giả không quan trọng; điều ông ta nói mới quan trọng, bởi vì
nó là tiếng
nói của bạn tự nói với chính bạn. Qua những lời cuả diễn giả, bạn lắng nghe chính bạn (you are listening
to yourself) chứ không phải diễn giả, và do đó lắng nghe trở nên
quan trọng
khác thường. Lắng nghe là biết, và không
tích luỹ (to listen is to learn, and not to accumulate). Nếu bạn
tích lũy
kiến thức và lắng nghe từ sự tích lũy đó, từ cơ sở hiểu biết, thì khi
ấy bạn
không lắng nghe. Chỉ khi bạn lắng nghe
thì bạn mới biết (It is only when you listen that you learn). Bạn
biết về
chính bạn, và do đó bạn phải lắng nghe với sự cẩn trọng, với sự chú ý
khác thường,
và không còn là chú ý khi bạn biện minh,
phán đoán, hoặc đánh giá những gì bạn nghe
(and attention is denied when you justify, condemn, or otherwise
evaluate what
you hear).Khi ấy bạn không lắng nghe, bạn không nhận thức, không
thấy.
Nếu
bạn ngồi trên bờ một con sông
sau một cơn bão, bạn thấy giòng chảy mang theo rất nhiều rác rến. Tương
tự, bạn
phải quan sát sự chuyển động cuả chính bạn, theo từng ý nghĩ, từng cảm giác, từng ý định,
từng nguyên nhân. Chỉ quan sát nó mà
thôi; sự quan sát đó cũng là lắng
nghe (to watch the movement of yourself, following every thought, every
feeling, every intention, every motive. Just watch it; that watching is
also
listening). Đó là việc bạn đang biết bằng mắt, bằng tai, cũng bằng
nhìn bên
trong tất cả các giá trị con người đã tạo ra và bởi chúng mà bạn bị
hoàn cảnh tác
động (bị điều kiện hoá). Chỉ tình trạng
biết toàn diện này mới chấm dứt mọi sự tìm kiếm (It is only this state
of total
awareness that will end all seeking).
Như
tôi đã nói, tìm kiếm và tìm thấy là phí phạm năng
lượng/sức
sống (seeking and finding is a waste of energy). Khi chính tâm trí
vẩn đục,
rối loạn, sợ hãi, đau khổ, lo lắng thì sự tìm kiếm cuả nó có ích lợi gì
không?
Ngoài sự hỗn loạn này, bạn tìm thấy gì ngoại trừ thêm sự hỗn loạn? Nhưng
khi có sự sáng suốt bên trong, khi tinh thần không sợ hãi, không đòi
hỏi sự bảo
đảm một lần nữa, khi ấy không tìm kiếm và do đó không tìm thấy. Để thấy Thượng Đế, sự thật, không là hành vi
tôn giáo. Hành vi tôn giáo duy nhất
là chợt thấy sự sáng suốt bên trong qua
biết mình; nghĩa là, qua biết tất cả những mong muốn thầm kín, riêng tư
và cho
phép chúng mở ra, không hề sửa chữa, kiểm soát, hoặc buông thả, nhưng
luôn luôn
quan sát chúng/ To see God, truth, is not a religious act. The only
religious
act is to come upon this inward clarity through self –knowing; that is,
through
being aware of all one’s intimate, secret desires and allowing them to
unfold,
never correcting, controlling, or indulging, but always watching them)..
Từ
sự quan sát liên tục đó có sự sáng suốt khác thường, tính mẫn cảm, và
sự bảo tồn
năng lượng to lớn phi thường.Và người ta phải có năng lượng vô cùng
lớn, bởi vì
tất cả hành động là năng lượng, chính đời sống là năng lượng. Khi chúng
ta buồn
phiền, lo lắng, cãi vã, ghen tức, sợ hãi, bị sỉ vả hay được tâng bốc -
tất cả đều
phung phí năng lượng. Bịnh hoạn, thể chất hay tinh thần, cũng đều đổ ra
năng lượng.
Mọi điều chúng ta làm, suy nghĩ, và cảm xúc đều mất năng lượng. Hoặc
chúng ta
hiểu sự phung phí năng lượng và từ đó mà tự nhiên có tất cả các năng
lượng, hoặc
chúng ta sống phấn đấu để đem đến các hình thức năng lượng trái ngược
nhau, hi
vọng đi từ ngoài biên tới được cốt lõi.
Cốt
lõi cuả tôn giáo là sự thiêng liêng mà không liên quan gì tới các tổ
chức tôn
giáo cũng không liên quan tới tâm trí bị vướng mắc và bị điều kiện hoá
bởi một niềm
tin, một giáo điều (The essence of religion is sacredness, which has
nothing to
do with religious organizations, nor with the mind that is caught and
conditioned by a belief, a dogma)..
Đối với một tâm trí như thế,
không gì là thiêng liêng ngoại trừ Thượng Đế nó đã tạo ra, hoặc lễ nghi
nó đã sắp
đặt, hoặc những cảm giác, cảm tưởng có được từ lời kinh, từ sự thờ
phượng, từ lòng
mộ đạo. Nhưng tất cả những điều này chẳng linh thiêng chút nào. Giáo
điều, lễ lạc,
cảm giác, cảm xúc chẳng có gì là thiêng liêng. Thiêng
liêng chính là cốt lõi cuả một tâm trí có tôn giáo (Sacredness
is the very essence of a mind that is religious), và đó là điều
chúng ta sẽ
khám phá. Chúng ta không quan tâm những gì được tin là thiêng liêng -
biểu tượng,
lời nói, con người, hình ảnh, kinh nghiệm cá nhân, tất cả những điều đó
đều chưa
trưởng thành – nhưng chúng ta quan tâm cái cốt lõi. Điều đó đòi hỏi mỗi
chúng
ta sự hiểu biết thông qua quan sát, hoặc biết, trước hết những sự việc
bên ngoài.
Tâm trí không thể biết bên trong mà không trước hết biết cung cách,
thái độ bên
ngoài, cử chỉ, áo quần, hình dạng, kích cỡ và màu sắc cuả một cái cây,
bề ngoài
cuả một người, một ngôi nhà. Chiều hướng đi ra giống chiều hướng đi
vào, và nếu
không biết bên ngoài thì bạn chẳng bao giờ biết bên trong là gì.
Xin
lắng nghe điều này. Đa số
chúng ta nghĩ rằng biết là điều gì đó huyền bí có thể tập luyện được,
và chúng
ta nên gặp gỡ nhau ngày qua ngày để nói về biết. Bạn hoàn toàn không
biết theo
cách đó. Nhưng nếu bạn biết những sự việc bên ngoài – khúc quanh một
con đường,
hình dạng một cái cây, màu sắc áo quần cuả một người, hình bóng ngọn
núi in trên
nền trời xanh, vẻ mong manh cuả một bông hoa, nét đau khổ trên khuôn
mặt một
người qua đường, sự dốt nát, tánh đố kị, lòng ghen ghét cuả những người
khác, vẻ
đẹp cuả trái đất – khi ấy thấy tất cả
những sự việc bên ngoài mà không phê phán, không chọn
lựa
thì bạn có thể biết bên trong/ then,seeing all these outward things
without
condemnation, without choice, you can ride on the tide of inner
awareness.
Khi đó bạn sẽ biết những phản ứng, những
điều nhỏ nhặt, những điều ghen ghét cuả bạn. Tử biết bên ngoài, bạn vào
bên
trong; nhưng nếu bạn không biết bên ngoài, bạn không thể vào bên trong.
Khi
biết bên trong mọi sinh hoạt
cuả tâm trí và thể xác, khi bạn biết ý nghĩ, tình cảm cuả bạn, cả kín
đáo lẫn bộc
lộ, ý thức và vô thức, thì khi đó có sự sáng suốt mà không do tâm trí
xui khiến,
sắp đặt. Và không có sự sang suốt đó, bạn có thể thăm dò trời, đất và
biển cả
nhưng bạn sẽ không bao giờ thấy sự thật là gì.
Cho
nên người nào khám phá sự
thật là gì thì phải có cái biết bén nhạy chứ không phải cái biết luyện
tập. Luyện tập cái biết chỉ dẫn đến thói quen,
và thói quen thì hủy diệt tất cả sự mẫn cảm/The practice of awareness
only
leads to habit , and habit is destructive of all sensitivity. Bất
kể thói
quen nào, hoặc thói quen làm tình, thói quen uống rượu, thói quen hút
thuốc, hoặc
điều gì bạn muốn đều làm tâm trí hết mẫn cảm; và một tâm trí không mẫn
cảm thì
ngoài sự phung phí năng lượng còn trở thành mụ mẫm. Một tâm trí mụ mẫm,
nông cạn,
bị hoàn cảnh chi phối, tầm thường có thể xử dụng ma túy để có một kinh
nghiệm lạ
lùng trong giây lát, nhưng nó vẫn là một tâm trí tầm thường. Điều chúng
ta đang
làm là tìm cách chấm dứt sự tầm thường của tâm trí.
Sự
tầm thường không thể được chấm
dứt bằng cách thâu thập thêm tin tức, thêm kiến thức, nghe nhạc hay,
hoặc viếng
những thắng cảnh thế giới vvv…; tất cả những thứ đó chẳng làm được gì. Sự sáng suốt tự biết mình, sự vận động không
giới hạn của tâm trí khiến chấm dứt sự tầm thường. Chỉ một tâm trí như
thế là
có-tôn-giáo/What brings about the ending of pettiness is the clarity of
self-knowing, the movement of the mind that has no restrictions. It is
only
such a mind that is religious.
Cốt
lõi của tôn giáo là sự thiêng liêng/The essence of religion is
sacredness;
nhưng
sự thiêng liêng thì không ở trong bất cứ nhà thờ, miếu đền, giáo đường,
hình tượng
nào. Tôi nói về cái cốt lõi chứ không phải những điều chúng ta gọi là
thiêng liêng. Khi người ta hiểu cái cốt lõi này cuả tôn
giáo mà nó là sự thiêng liêng, thì khi ấy đời sống có một ý nghiã hoàn
toàn khác; mọi sự đều đẹp, và cái
đẹp là thiêng liêng/When one understand this
essence of religion, which is sacredness, then life has a different
meaning
altogether; then everything has beauty, and beauty is sacredness. Cái đẹp không kích thích, khêu gợi. Khi bạn
thấy một ngọn núi, một toà cao ốc, một con sông, một thung lũng, một
bông hoa,
hoặc một khuôn mặt, bạn có thể nói nó đẹp bởi vì bạn bị nó kích thích,
nhưng
cái đẹp mà tôi đang nói tới thì không có bất cứ sự phấn khích nào. Nó
là cái đẹp
không thấy trong bất cứ hình ảnh, biểu tượng, ngôn từ, bản nhạc nào.
Cái đẹp đó
là sự thiêng liêng. Nó là cốt lõi cuả một tâm trí có-tôn-giáo, một tâm
trí
trong suốt tự biết mình. Người ta bất chợt thấy cái đẹp đó, không bằng
ham muốn,
đòi hỏi, ao ước, nhưng chỉ khi chấm dứt mọi ham muốn sự trải nghiệm; và
đó là một
trong những điều khó hiểu nhất/Beauty is not that which stimulates.
When you
see a mountain, a building, a river, a valley, a flower, or a face, you
may say
it is beautiful because you are stimulated by it, but the beauty about
which I
am talking offers no stimulation whatsoever. It is a beauty not to be
found in
any picture, in any symbol, in any word, in any music. That beauty is
sacredness. It is the essence of a religious mind, of a mind that is
clear in
its self-knowing. One comes upon that beauty, not by desiring, wanting,
longing
for the experience, but only when all desire for experience has come to
an end;
and that is one of the most difficult things to understand.
Như
tôi đã chỉ ra lúc trước, một
tâm trí tìm kiếm sự trải nghiệm thì vẫn còn chuyển động ngoài biên, và
sự chuyển
đổi mỗi kinh nghiệm sẽ tùy thuộc hoàn cảnh riêng của bạn. Hoặc bạn là
một người
Ki Tô giáo, một Phật tử, một người Hổi giáo, một người Ấn giáo, hay một
người Cộng
Sản, dù bạn là người nào, những trải nghiệm của bạn sẽ hiển nhiên bị
chuyển đổi
và bị tác động tùy theo cơ sở gốc đó, và càng đòi hỏi trải nghiệm bao
nhiêu, bạn
càng củng cố thêm cái cơ sở đó bấy nhiêu. Qúa trình này không hủy diệt,
cũng không
chấm dứt nỗi khổ; nó chỉ lẩn tránh mà thôi. Một
tâm trí sáng suốt tự biết mình, một tâm trí chính là cốt lõi của sự
sáng suốt
và ánh sáng thì không cần sự trải nghiệm. Nó là cái nó
hiện hữu/A mind that is clear in its self-knowing , a mind
that is the very essence of clarity and light, has no need of
experience .It is
what it is. Cho nên sự sáng suốt đến qua tự biết mình, và không qua
chỉ dạy
của một người khác, dù người đó là một nhà văn tài giỏi, một nhà tâm
lý, một
triết gia, hay một người được gọi là đạo sư.
Không
có sự thiêng liêng nào mà không có tình yêu và sự hiểu biết cái chết.
Bạn biết không, một trong những điều huyền
diệu nhất của đời sống là khám phá điều gì đó không trông đợi, tự nhiên
đến, là
chợt gặp điều gì đó không định trước, là liền thấy cái
đẹp, sự thiêng liêng, chân lí của nó. Nhưng một tâm
trí tìm kiếm và muốn thấy thì
hoàn toàn không bao giờ ở vị thế này. Tình
Yêu không là điều được đào luyện.
Tình Yêu, giống như sự khiêm cung không thể do tâm trí sắp đặt/There is
no
sacredness without love and the understanding of death. You know, it is
one of
the most marvelous things in life to discover something unexpectedly,
spontaneously, to come upon something without premeditation, and
instantly to
see the beauty, the sacredness, the reality of it. But a mind that is
seeking
and wanting to find is never in that position at all. Love is not a
thing to be
cultivated. Love, like humility, cannot be put together by the mind .Chỉ
người
kiêu ngạo mới ráng khiêm cung; chỉ người ngạo mạn mới tìm cách vứt bỏ
tánh kiêu
căng bằng tập luyện tánh khiêm cung. Tập luyện tánh khiêm cung còn là
hành vi tự
mãn. Lắng nghe và do đó biết, phải là phẩm
chất tự nhiên của tánh khiêm cung; và
một tâm trí hiểu bản chất của tánh
khiêm cung thì không bao giờ theo
sau, không bao giờ
phục tùng/ To listen and therefore to
learn, there must be a spontaneous quality of humility; and a mind that
has
understood the nature of humility never follows, never obeys. Làm
thế nào
cho điều hoàn toàn phủ định, trống không, lại phục tùng hoặc theo sau
bất cứ người
nào chứ?
Một
tâm trí sáng suốt do tự biết
mình đã khám phá tình yêu là gì thì cũng sẽ biết bản chât và cơ cấu của
cái chết.
Nếu chúng ta không chết đi đối với qúa khứ, với mọi điều của ngày hôm
qua, thì
khi ấy tâm trí vẫn còn vướng mắc trong những mong muốn, trong bóng của
ký ức,
trong sự tác động của hoàn cảnh, và như thế không có sự sáng suốt. Chết
đi đối
với ngày hôm qua dễ dàng, tự nguyện, không bàn cãi hay biện minh đòi
hỏi năng lượng.
Bàn cãi, biện minh, và chọn lựa là phí phạm năng lượng, và do đó người
ta không
khi nào chết đi đối với những ngày hôm qua để tâm trí có thể được làm
tươi, mới.
Một khi có sự sáng suốt biết mình thì khi ấy có tình yêu êm ái theo
sau; có phẩm
chất tự nhiên của sự khiêm cung, và qúa khứ cũng không tác động qua cái
chết.
Và
do tất cả điều này mới có sáng tạo /And out of all this comes creation.
Sáng
tạo không là bày tỏ bản ngã, nó không là chuyện vẽ trên canvas, hoặc
viết trong
hình thức một cuốn sách, hoặc làm bánh trong nhà bếp, hoặc mang thai
một đứa bé.
Tất cả điều đó không là sáng tạo. Chỉ là sáng
tạo khi có tình yêu và cái chết. Sáng tạo có thể đến
khi có cái chết mỗi
ngày đối với mọi điều, để không có sự tích lũy nào thành ký ức/Creation
can
come only when there is a dying everyday to everything, so that there
is no
accumulation as memory. Rõ ràng là bạn phải gom góp áo quần, nhà
cửa, và tài
sản cá nhân, tôi không nói về điều đó. Tôi nói cái nghiã bên trong của
tâm trí
về tích lũy và chiếm hữu – mà từ đó dậy lên ưu thế, uy quyền, sự phù
hợp, sự phục
tùng – chúng ngăn cản sáng tạo, bởi vì một tâm trí như thế không bao
giờ tự do.
Chỉ một tâm trí tự do mới biết cái chết là gì và tình yêu là gì; và chỉ
có sáng
tạo cho tâm trí đó thôi. Trong trạng thái này, tâm trí có tôn giáo.
Trong trạng
thái này có sự thiêng liêng.
Đối
với tôi chữ thiêng liêng có một ý nghiã khác thường.
Xin hiểu, tôi không tuyên truyền cho chữ đó, tôi không tìm cách thuyết
phục bạn
về điều gì, và tôi không cố gắng làm bạn có cảm nhận hay kinh nghiệm
chân lí
qua chữ đó. Bạn không thể như thế. Bạn phải đi qua tất cả điều này cho chính bạn,
không bằng lời nói, nhưng bằng thực tiễn. Bạn phải thực sự chết đi đối
với mọi
điều bạn biết, những ký ức, những điều bất hạnh, những ý thích. Và khi
không có
ghen ghét, đố kị, tham lam, nỗi đau tuyệt vọng, khi ấy bạn sẽ biết tình
yêu là
gì, và bạn sẽ bất chợt gặp điều được
gọi là thiêng liêng/You have to go through all this for yourself, not
verbally,
but actually. You actually have to die to everything
you know, to your memories, to your miseries,
to your pleasures. And when there is
no jealousy, no envy, no greed, no torture of despair, then you will
know what
love is, and you will come upon that which may be called sacred. Do
đó thiêng
liêng là cốt lõi của tôn giáo. Bạn biết đấy, một con sông lớn có thể bị
ô nhiễm
khi nó chảy qua một thành phố, nhưng nếu sự ô nhiễm không quá lớn thì
sông sẽ tự
làm sạch đang khi chảy, và trong vài dặm nó sẽ lại sạch sẽ, mát mẻ,
tinh khiết.
Tương tự, khi một lần tâm trí chợt gặp sự thiêng liêng này thì mọi hành
vi, hành
động đều là thanh tẩy. Qua chính sự chuyển
động của mình, tâm trí tự làm nó hồn nhiên, và bởi vậy nó không tích
lũy /Through
its very movement the mind is making itself innocent, and therefore it
is not
accumulating. Một tâm trí đã thấy sự thiêng liêng này thì ở trong
cuộc cách
mạng bất biến, không phải cách mạng kinh tế hay xã hội nhưng là cuộc
cách mạng
bên trong không ngừng thanh tẩy nó. Hành động của nó không dựa trên ý
tưởng hay
cách thức nào. Giống như con sông có lượng nước khổng lồ ở đằng sau tự
làm sách
đang khi chảy, tâm trí cũng tự thanh tẩy khi một lần đã bất chợt biết
sự thiêng
liêng tôn giáo này.
Saanen,
2 Tháng Tám 1964
Tôi
muốn thảo luận về ý nghĩa của
tôn giáo, không chỉ để cắt nghĩa bằng lời mà còn để hiểu một cách thâm
sâu nữa.
Nhưng trước khi đi sâu vào vấn đề này, chúng ta phải làm sáng tỏ tâm
trí có-tôn-giáo, và trạng thái của một tâm trí thực sự tìm hiểu toàn bộ vấn đề tôn giáo là
gì/ the religious mind, and what is
the state of a mind that really inquires into the whole question of
religion.
Đối
với tôi thì hình như điều rất
quan trọng là hiểu sự khác nhau giữa cô lập
và cô đơn/ the difference between
isolation and aloneness . Đa số chúng ta sinh hoạt hàng ngày xoay
quanh tâm
điểm là chính chúng ta; dựa trên quan điểm, kinh nghiệm, tư chất của
chúng ta.
Chúng ta suy nghĩ theo hoàn cảnh gia đình, công việc, ước vọng thành
công, cũng
như theo sự sợ hãi, niềm hy vọng và nỗi thất vọng. Tất cả điều đó cho
thấy chúng
ta là trung tâm, nó đem lại sự-tự-cô-lập, như chúng ta có thể thấy
trong đời sống
hàng ngày. Chúng ta có những ham muốn âm thầm, những đeo đuổi và tham
vọng che
dấu, và chẳng bao giờ liên hệ với ai, vợ, chồng hoặc con cái. Sự
tư-cô-lập này
chính là hậu qủa của sự chạy trốn nỗi buồn chán, tâm trạng vỡ mộng và
những điều
chẳng ra gì trong đời sống hàng ngày. Nó cũng bởi chúng ta tránh né,
bằng nhiều
cách khác nhau, cái cảm giác cô độc/loneliness lạ lùng khi chúng ta
chợt cảm thấy
không có bất cứ quan hệ gì, khi mọi điều xa cách và không có mối cảm
thông, mối
liên hệ nào với bất cứ ai. Tôi nghĩ đa số chúng ta đều đã cảm thấy sự
cô độc này
một cách rất sâu đậm, nếu chúng ta nhận thức tất cả diễn biến của đời
sống
chúng ta. Vì sự cô độc này, từ cảm giác cô lập này, chúng ta cố đồng
hoá mình với
điều gì đó cao quý hơn tâm trí – nó có thể là Quốc Gia, hoặc một lý
tưởng, hoặc
một quan niệm gì về Thượng Đế. Danh xưng này với điều gì đó vĩ đại,
hoặc bất tử
ở ngoài địa hạt tư tưởng, thường được gọi là tôn giáo, và nó dẫn đến
niềm tin,
tín điều, lễ lạy và các nhóm có niềm tin riêng rẽ cạnh tranh nhau, mỗi
nhóm tin
vào những phương diện khác nhau của cùng một điều. Cho nên
điều chúng ta gọi là tôn giáo lại làm tăng thêm sự cô lập hơn nữa/So
what we call religion brings about still further isolation.
Rồi
người ta thấy thế giới bị
chia thành các quốc gia cạnh tranh nhau như thế nào, mỗi quốc gia có
chính quyền
và những hàng rào kinh tế riêng. Tuy tất cả chúng ta đều là con người,
chúng ta
đã xây dựng những bức tường ngăn cách giữa chúng ta với những quốc gia
láng giềng
qua chủ nghĩa quốc gia, chủng tộc, đẳng cấp, và giai cấp mà chúng lại
nuôi dưỡng
sự cô lập, sự cô độc.
Trong
tình hình đó, một tâm trí
vướng mắc trong sự cô độc, trong tình trạng cô lập thì không bao giờ có
thể hiểu
tôn giáo là gì. Nó có thề tin, có thể có những lý thuyết, những quan
niệm, những
phương thức, có thể tự đồng hoá với điều gọi là Thượng Đế, nhưng tôn giáo, đối với tôi hình như chẳng có bất
cứ gì liên quan tới lòng tin, tu sĩ, giáo
hội, hoặc kinh sách/religion, it seems to me, has nothing whatsoever to
do with
any belief, with any priest, with any church, or so-called sacred book.
Trạng
thái của tâm trí có-tôn-giáo chỉ có thể hiểu được khi chúng ta bắt đầu
hiểu cái
đẹp là gì, và hiểu cái đẹp phải được
tiếp cận thông qua sự hoàn toàn cô đơn…Chỉ
khi tâm
trí hoàn toàn cô đơn mới có thể
biết cái đẹp là gì, và không ở trạng thái nào khác/The state of the
religious
mind can be understood only when we begin to understand what beauty is,
and the
understanding of beauty must be approached through total aloneness.
Only when
the mind is completely alone can it know what beauty is, and not in any
other
state.
Cô
đơn rõ ràng không phải là cô lập/Aloneness is obviously not isolation, và không phải là
duy nhất.
Duy nhất chỉ là ngoại lệ cách nào đó, trong khi hoàn toàn cô đơn đòi
hỏi sự mẫn
cảm khác thường, thông minh, hiểu biết. Hoàn
toàn cô đơn ngụ ý rằng tâm trí tự do đối với mọi ảnh hưởng, và do đó
không bị
nhiễm độc bởi xã hội. Và phải cô đơn để hiểu tôn giáo là gì - điều sẽ
tìm thấy
cho chính mình xem có gì đó bất tử, ngoài thời gian hay không / To be
completely alone implies that the mind is free of every kind of
influence, and
is therefore uncontaminated by society. And it must be alone to
understand what
religion is – which is to find out for oneself whether there is
something
immortal, beyond time.
Cho
tới nay, tâm trí là kết qủa
của nhiều ngàn năm ảnh hưởng – sinh vật, xã hội, môi trường, khí hậu,
dinh dưỡng,
và vvv. Điều
này
khá rõ ràng. Bạn bị ảnh hưởng bởi thực phẩm bạn ăn, báo chí bạn đọc, vợ
chồng,
người hàng xóm, nhà chính trị, truyền thanh, truyền hình và một ngàn
những thứ
khác. Bạn thường xuyên bị ảnh hưởng bởi những gì đổ vào ý thức và vô
thức của tâm
trí bạn từ nhiều phương hướng khác nhau. Có
thể nào biết những ảnh hưởng này mà người ta lại không bị vướng mắc vào
bất cứ ảnh
hưởng nào và hoàn toàn không bị nhiễm độc bởi chúng không? Nếu không thế, tâm trí chỉ là công cụ của
môi trường. Nó có thể tạo ra một hình ảnh của điều nó nghĩ là
Thượng Đế, hoặc
Chân Lý bất diệt, và tin vào điều đó, nhưng nó vẫn bị những đòi hỏi,
những áp lực,
những điều dị đoan, những thúc bách của môi trường, và
niềm tin của nó hoàn toàn không là trạng thái của một tâm trí
có-tôn-giáo/and its belief is not the state of a religious mind at all.
Là
một tín đồ Cơ Đốc Giáo bạn đã
được giáo dục trong một giáo hội được người ta xây dựng qua thời gian
trên hai
ngàn năm với các tu sĩ, giáo điều, thánh lễ. Khi còn nhỏ bạn đã được
làm phép rửa
tội, và khi lớn lên bạn được chỉ bảo niềm tin; bạn trải qua toàn bộ qúa
trình của
sự tác động và tẩy não đó. Áp lực truyền giáo này rất mạnh, đặc biệt
bởi vì nó được
tổ chức rất chặt chẽ và có thể xử dụng ảnh hưởng tâm lý qua giáo dục,
qua thờ
phượng hình ảnh, qua sự sợ hãi, có thể ảnh hưởng tâm trí một ngàn cách
khác
nhau. Khắp Đông Phương người ta cũng bị ảnh hưởng nặng nề bởi những
niềm tin,
những giáo điều, những điều dị đoan, và bởi một truyền thống mười ngàn năm hoặc hơn nữa về trước.
Thế
thì trừ khi tâm trí có tự do, nó không thể thấy sự thật là gì, và có tự
do là
thoát
khỏi ảnh hưởng/Now
unless the mind has freedom, it cannot find out what is true, and to
have
freedom is to be free from influence. Bạn phải thoát khỏi ảnh hưởng
của quốc
gia, của nhà thờ với những niềm tin và giáo điều, và cũng phải thoát
khỏi tánh
tham lam, tánh đố kị, sự sợ hãi, sự buồn phiền, tham vọng, sự cạnh
tranh, sự lo
lắng. Nếu tâm trí không thoát khỏi tất cả những điều này thì những áp
lực từ bên
ngoài và bên trong nó sẽ tạo ra mâu thuẫn, tình trạng rối loạn thần
kinh, và một
tâm trí như vậy không thể khám phá sự thật là gì, hoặc có điều gì đó ở
ngoài thời
gian hay không.
Bởi
vậy người ta thấy cần thiết
biết bao cho tâm trí thoát khỏi mọi ảnh hưởng. Có thể có một điều như
thế không?
Nếu không thể, khi đó không thể có sự khám phá điểu vĩnh cửu, điều
không thể gọi
tên, điều tối thượng. Để thấy cho chính mình điều đó có hay không,
người ta phải
biết những ành hưởng này, không chỉ ngồi ở đây, nhưng cũng còn ở trong
đời sống
hàng ngày nữa. Người ta phải quan sát xem chúng làm độc, uốn nắn, tác
động tâm
trí như thế nào. Người ta rõ ràng không thể luôn luôn biết nhiều ảnh
hưởng khác
nhau đang đổ vào tâm trí, nhưng có thể thấy sự quan trọng của nó – và
tôi nghĩ đây
là điểm then chốt của vấn đề - là thoát
khỏi tất cả các ảnh hưởng/the crux of
the matter – of being free of all influence. Khi một lần người ta
hiểu sự cần
thiết của điều đó, lúc ấy tiềm thức biết đến ảnh hưởng cho dù ý thức có
thể thường
không biết.
Tôi
có tự làm rõ điều này không?
Điều tôi cố gắng chỉ ra là thế này: Có những ảnh hưởng tinh vi khác
thường uốn
nắn tâm trí bạn, và một tâm trí bị uốn nắn
bởi ảnh hưởng thì luôn luôn ở trong
phạm vi thời gian, không thể khám phá điều bất diệt, hoặc
có một điều như thế hay không/a mind that is shaped by influences
that are always within the field of time, cannot possibly discover the
eternal,
or if there is such a thing as the eternal. Cho nên câu hỏi khi đó
lả: Nếu ý
thức của tâm trí không thề biết tất cả các ảnh hưởng thì nó sẽ làm gì?
Nếu bạn
đặt câu hỏi này cho chính bạn một cách nghiêm chỉnh và nhiệt tình, đòi
hỏi bạn
chú ý hoàn toàn thì bạn sẽ thấy trọn phần tiềm thức của bạn không bị
bận rộn
khi những lớp trên của tâm trí đang làm việc thì phần tiềm thức đó
trách nhiệm
quan sát tất cả các ảnh hưởng đi vào.
Tôi
nghĩ hiểu điều này là rất
quan trọng, bởi vì nếu bạn chỉ chống đỡ, hoặc bạn tự bảo vệ chống lại
ảnh hưởng
thì sự chống đỡ đó, nó là một phản ứng, sẽ tạo thêm sự tác động cho tâm
trí. Hiểu
toàn bộ diễn biến của ảnh hưởng thì không phải cô gắng; nó phải nhận
thức trực
tiếp, có phẩm chất. Nó như thế này: Nếu bạn thực sự thấy không bị ảnh
hưởng là điều
quan trọng lớn cho chính bạn, thì khi ấy một phần nào đó tâm trí của
bạn sẽ chịu
trách nhiệm bất kể khi nào ý thức của bạn bận rộn với những điều khác,
và phần
tâm trí đó rất tỉnh táo, tích cực, cảnh giác. Cho nên quan
trọng là thấy ngay không bị ảnh hưởng bởi bất cứ hoàn cảnh
nào hoặc bất cứ người nào là có ý nghĩa
to lớn/So what is important is to see immediately the enormous
significance of
not being influenced by any circumstances or by any person whatsoever.
Đó là
điểm thực tế, không phải là làm cách nào chống ảnh hưởng, hoặc làm gì
trong trường
hợp bạn bị ảnh hưởng. Một khi bạn đã nắm được sự kiện trung tâm này,
bạn sẽ thấy
có một phần tâm trí bạn luôn tỉnh táo quan sát, luôn sẵn sàng tự làm
sạch từng ảnh
hưởng, dù nó tinh vi thế nào. Từ sự tự do
này đối với mọi ảnh hưởng mà có sự cô đơn, hoàn toàn khác với sự cô
lập. Và phải
có sự cô đơn, bởi vì cái đẹp ở ngoài phạm vi thời gian, và chỉ tâm trí
hoàn
toàn cô đơn mới có thể biết cái đẹp là gì/Out of this freedom from all
influence comes aloneness, which is entirely different from isolation.
And
there must be alonenss, because beauty is outside the field of time,
and only
the mind that is completely alone can know what beauty is.
Đối
với đa số chúng ta, cái đẹp
là chuyện của tỉ lệ, hình dạng, kích thước, đường nét, màu sắc. Chúng
ta thấy một
cao ốc, một cái cây, một ngọn núi, và chúng ta nói nó đẹp; nhưng như
thế vẫn có
người-đứng-ngoài, người-kinh-nghiệm nhìn vào những vật đó, và do đó
điều chúng
ta gọi là cái đẹp vẫn còn ở trong phạm vi của thời gian. Nhưng
tôi cảm thấy cái đẹp vượt ngoài thời gian và để biết cái đẹp thì
phải không còn người-kinh-nghiệm. Người-kinh-nghiệm chỉ là sự tích lũy
kinh
nghiệm để từ đó xét đoán, đánh giá,
suy nghĩ/But I feel that beauty is
beyond time and that to know beauty there must be the ending of the
experiencer. The experiencer is merely an accumulation of experience
from which
to judge, to evaluate, to think. Khi tâm trí nhìn một tấm hình,
hoặc nghe một
bản nhạc, hoặc thấy một dòng sông chảy siết thì nó thường thường từ cơ
sở của
kinh nghiệm đã được tích lũy; nó nhìn từ quá khứ, từ phạm vi thời gian,
và đối
với tôi đó không phải là biết cái đẹp. Biết
cái đẹp, tức thấy điều bất diệt là gì thì chỉ có thể có khi tâm trí hoàn
toàn cô đơn/To know beauty, which is to find
out what is the eternal, is possible only when the mind is completely
alone.Và
điều đó chẳng có bất cứ gì liên quan tới những điều các tu sĩ cùng các
tổ chức
tôn giáo nói. Tâm trí phải hoàn toàn không bị ảnh hưởng, bị nhiễm độc
bởi xã hội,
bởi tâm lý tham lam, đố kị, lo lắng, sợ hãi. Nó phải hoàn toàn được tự
do đối với
tất cả những điều đó. Từ sự tự do này mới
có sự cô đơn, và chỉ trong trạng thái cô đơn tâm trí mới có thể biết
điều ở
ngoài thời gian/Out of this freedom comes aloneness, and it is only in
the
state of aloneness that the mind can know that which is beyond the
field of
time.
Cái
đẹp và điều bất diệt không
thể bị tách rời. Bạn có thể vẽ, viết, quan sát thiên nhiên, nhưng nếu
có cái
tôi hoạt động trong bất cứ hình thức nào, có bất cứ chuyển động nào của
tư tưởng
xoay quanh cái-tôi-trung-tâm thì khi đó điều bạn nhận thấy không còn là
cái đẹp,
bởi vì nó vẫn còn ở trong phạm vi thời gian.Và nếu bạn không hiểu cái
đẹp, bạn
không thể thấy điều bất diệt là gì, bởi vì chúng đi chung với nhau.
Khám phá điều
bất diệt, điều bất tử, tâm trí bạn phải tự do đối với thời gian - thời
gian là
truyền thống, kiến thức tích lũy và kinh nghiệm của quá khứ. Bạn tin
hay không
tin điều gì không là vấn đề; điều đó không trưởng thành, hoàn toàn non
nớt, và
không liên quan gì tới vấn đề. Nhưng tâm trí nhiệt tình, thực sự muốn
thấy, sẽ
từ bỏ tất cả sinh hoạt tự cô lập mình, và bằng cách đó sẽ bất chợt gặp
tình trạng
hoàn toàn cô đơn. Chỉ trong tình trạng
hoàn toàn cô đơn đó mới hiểu cái đẹp, điều bất diệt.
Bạn
biết, ngôn từ thì nguy hiểm
bởi vì chúng là biểu tượng, và biểu tượng thì không thực. Chúng mang
một ý nghĩa,
một quan niệm, nhưng ngôn từ không là sự vật/việc. Bởi vậy khi tôi nói
về điều
vĩnh cửu, bạn phải xem bạn có đang bị lời nói của tôi ảnh hưởng không
hoặc bị mắc
vào một niềm tin, mà chúng đều qúa ấu trĩ.
Để
thấy có điều bất diệt như thế
hay không, người ta phải hiểu thời gian là gì. Thời gian là điều kỳ
diệu nhất.
Tôi không nói về thời gian của niên đại ký, thời gian của đồng hồ, là
điều vừa
rõ ràng vừa cần thiết. Tôi nói về thời
gian là sự tiếp diễn tâm lý/I am talking about time as psychological
continuity. Có thể sống không có sự tiếp diễn đó không? Chắc chắn
tư tưởng
sinh ra sự tiếp diễn. Nếu người ta nghĩ về điều gì đó không dứt thì có
sự tiếp
diễn. Nếu người ta cứ nhìn mãi hình người vợ mỗi ngày thì nó có sự tiếp
diễn. Có thể nào sống trên đời mà hành động lại
không có sự tiếp diễn để cho mỗi hành động của người ta được tươi mới?
Nghĩa
là, tôi có thể chết đi đối với mỗi hành động trong ngày để tâm trí
không bao giờ
tích lũy, và do đó không bao giờ bị nhiễm độc bởi qúa khứ, nhưng luôn
tươi, mới,
hồn nhiên không? Tôi nói rằng một điều như thế có thể có được, rằng
người ta có
thể sống như vậy / Is it possible to
live in this world without giving continuity to action, so that one
comes to
every action afresh? That is, can I die to each action throughout the
day, so
that the mind never accumulates and is therefore never contaminated by
the
past, but is always new, fresh, innocent? Nhưng chuyện đó không có
nghĩa hiện
thực cho bạn. Bạn phải tìm ra cho chính bạn.
Cho
nên người ta bắt đầu thấy rằng
tâm trí phải hoàn toàn cô đơn, nhưng không cô lập. Trong
trạng thái tuyệt đối cô đơn có cảm giác về cái đẹp kỳ lạ, về điều
gì đó kkông do tâm trí tạo ra/In this
state of complete aloneness there comes a sense of extraordinary
beauty, of
something not created by the mimd. Nó không liên quan gì tới việc
soạn nhạc
hay dùng sơn để vẽ, nhưng vì nó cô đơn nên tâm tri ở trong cái đẹp, và
do đó nó
hoàn toàn bén nhậy, thông minh. Nó không là thông minh của sự khéo léo
hay của
kiến thức, cũng không là khả năng làm điều gì. Tâm trí
thông minh trong nghĩa rằng nó không bị chế ngự, bị ảnh hưởng,
và không sợ hãi. Nhưng để ở trong trạng thái đó tâm trí phải có khả
năng tự làm
mới nó mỗi ngày, nghĩa là chết đi mỗi ngày đối với qúa khứ, đối với mọi
điều nó
đã biết/The mind is intelligent in the sense that it is not being
dominated,
influenced and is unfraid. But to be in that state the mind must be
able to
renew itself every day, which is to die every day to the past, to
everything it
has known.
Như
tôi đã nói, ngôn từ, biểu tượng
thì không thực. Từ cái cây không là cái
cây, và người ta phải rất cảnh giác để không bị mắc vào ngôn từ. Khi tâm trí được tự do đối với ngôn từ thì
nó ở tình trạng khám phá/When the mind is free of the word, the symbol,
it
becomes astonishingly sensitive, and then it is in a state of finding
out.
Sau
cùng, người ta đã tìm kiếm điều
này thời gian rất lâu rồi, từ thời rất xa xưa cho tới ngày nay. Họ muốn
tìm điều
gì đó không do con người làm ra. Mặc dù tồ chức tôn giáo không có ý
nghĩa gì đối
với bất cứ người thông minh nào, tuy nhiên họ vẫn luôn nói rằng có điều
gì đó ở
ngoài tâm trí. Con người đã luôn luôn tìm kiếm điều gì đó ấy, bởi vì nó
không
ngừng sống trong cảnh buồn rầu, đau khổ, rối loạn, tuyệt vọng. Luôn
luôn sống
trong tình trạng thoáng qua của thời gian, con người muốn tìm thấy điều
gì đó vĩnh
cửu, điều gì đó tồn tại lâu dài, bền vững, tiếp nối; và do đó sự tìm
kiếm luôn
luôn ở trong phạm vi của thời gian. Nhưng như người ta thấy không có gì
vĩnh cửu.
Các mối quan hệ bà con, công việc của chúng ta đều không vĩnh cửu. Vì
chúng ta
quá sợ hãi sự-không-vĩnh-cửu này, chúng ta luôn tìm kiếm điều gì đó
vĩnh cửu mà
chúng ta gọi là bất tử, bất diệt, hoặc điều gì chúng ta muốn. Nhưng tìm
kiếm những
điều này chỉ là phản ứng, và do đó không giá trị. Chỉ khi tâm trí được
tự do đối
với sự mong muốn này thì nó mới chắc chắn có thể tìm thấy có hay không
điều bất
diệt, điều gì đó ở ngoài không gian, thời gian, ngoài người suy nghĩ,
ngoài điều
nó đang nghĩ về hoặc đang tìm kiếm. Quan sát và hiểu toàn bộ điều này
đòi hỏi sự
chú ý hoàn diện, và kỷ luật mềm dẻo có phẩm chất, là kết qủa của sự chú ý đó. Trong sự chú ý như thế không có
sự xao lãng, không có sự căng thẳng, không có sự chuyển động về bất cứ
hướng nào,
bởi vì mọi chuyển động như thế, mọi nguyên nhân, đều là kết qủa của ảnh
hưởng ,
của quá khứ hoặc của hiện tại.Trong trạng
thái chú ý không cố gắng đó có cảm
giác tự do khác thường, và chỉ khi đó, hoàn toàn trống
không, yên tĩnh, vắng lặng, tâm trí mới có khả năng khám phá điều bất
diệt đó/In such attention there is no distraction, there is no strain,
there is
no movement in any particular direction, because every such movement,
every
motive, is the result of influence, either of the past or of the
present. In
that state of effortless attention there comes an extraordinary sense
of
freedom and only then, being totally empty, quiet, still, is the mind
capable
of discovering that which is eternal.
Có
lẽ các bạn muốn đặt câu hỏi
về những gì đã nói.
Người
hỏi/NH: Làm thế nào để
người ta chắc chắn thoát khỏi sự ham muốn?
Krishnamurti/K:
Chữ làm thế nào ngụ ý một phương pháp, phải
vậy không? Nếu bạn là một người thợ xây vả tôi hỏi bạn cách xây một căn
nhà, bạn
có thể cho tôi biết điều bạn sẽ làm, bởi vì có một phương pháp, một
cách thức,
một đường lối thiết lập cho việc xây cất. Nhưng theo một phương pháp
hay một phương
thức là đã điều kiện hóa tâm trí rồi, cho nên thấy ngay sự khó khăn
trong việc
dùng chữ làm thế nào.
Rồi
chúng ta cũng phải hiểu sư
ham muốn... Ham muốn là gì? Thấy hay nhận thấy, rồi tiếp xúc hay đụng
chạm vào,
rồi cảm giác, và sau cùng nổi lên điều chúng ta gọi là ham muốn. Chắc
chắn đây
là điều xảy ra. Xin theo sát nó. Hãy xem như chúng ta thấy một cái xe
đẹp. Từ
chính hành vi thấy đó, ngay cả không rớ tới cái xe, vẫn có cảm giác
khiến sinh
ra muốn lái, muốn có cái xe. Chúng ta không quan tâm cách chống lại hay
thoát
khỏi ham muốn, bởi vì người nào đã chống lại và nghĩ rằng đã thoát khỏi
ham muốn
thì người ấy thực sự bị tê liệt, đã chết.
Quan trọng là hiểu toàn bộ diễn biến của ham muốn, sự quan trọng và
không quan
trọng của nó. Người ta phải tìm thấy, không phải cách chấm dứt ham
muốn, nhưng
là cái gì làm cho ham muốn tiếp diễn/What is important is to understand
the
whole process of desire, which is to know both its importance anh its
total
unimportance. One has to find out, not how to end desire, but what it
is that
gives continuity to desire.
Vậy
cái gì làm cho ham muốn tiếp
diễn? Đó là tư tưởng, không phải vậy sao? Trước hết là thấy chiếc xe,
rồi cảm
giác mà tiếp theo nó là ham muốn. Và nếu
tư tưởng không xen vào và làm cho ham
muốn tiếp diễn bằng cách
nói, ‘tôi phải có chiếc xe đó, tôi phải làm cách nào để có nó?’thì khi
ấy ham
muốn chấm dứt. Bạn theo kịp chứ? Tôi không nhất mực rằng phải thoát
khỏi ham muốn;
mà trái lại. Nhưng bạn phải hiểu toàn bộ cơ cấu của ham muốn, và khi đó
bạn sẽ
thấy ham muốn không còn tiếp diễn, nhưng là
điều gì đó khác hơn cùng xảy ra / something else together
Cho
nên ham muốn không là điều quan trọng, nhưng là sự kiện chúng ta làm nó
tiếp diễn/So
what is important is not desire, but the fact that we give it
continuity.
Chẳng
hạn, chúng ta làm cho tính dục tiếp diễn qua tư tưởng, qua hình dung,
ảnh tượng,
qua cảm giác, qua trí nhớ; chúng ta tiếp tục gợi lại bằng cách nghĩ về
nó, và tất
cả điều này làm tính dục tiếp diễn, làm giác quan thành quan trọng.
Không phải
là cảm giác không quan trọng, chúng quan trọng. Nhưng
chúng ta làm thú vui của giác quan tiếp diễn thành qúa sức
quan trọng trong đời sống chúng ta. Bởi vậy vấn đề không là thoát khỏi
ham muốn,
nhưng là hiểu cấu trúc cuả nó và cách tư tưởng làm nó tiếp diễn – và
tất cả là
thế. Khi ấy tâm trí được tự do, và bạn không phải tìm kiếm tự do từ sự
ham muốn.
Lúc bạn tìm kiếm tự do từ sự ham muốn thì bạn bị vướng vào mâu thuẫn,
xung đột.
Mỗi lần bạn thấy một chiếc xe, một người đàn bà, một căn nhà, hoặc bất
cứ gì hấp
dẫn bạn thì tư tưởng bước vào làm cho ham muốn tiếp diễn, và khi ấy tất
cả trở
thành một vấn đề không có kết thúc.
Điều
quan trọng là sống một đời sống không cố gắng, không có một vấn đề nào.
Bạn có
thể sống không có vấn đề nếu bạn hiểu bản chất của cố gắng và thấy rất
rõ toàn
thể cơ cấu của ham muốn/ What is important is to live a life without
effort, without
a single problem.You can live without a problem if you understand the
nature of effort and see clearly the whole
structure of desire. Đa
số chúng ta có cả một ngàn vấn đề, và để
không có vấn đề chúng ta phải có khả năng
chấm dứt từng mỗi vấn đề ngay khi nó nổi lên/to be free of problem we
must be
able to end each problem immediately as it arises .Tuyệt đối cần
thiết cho
tâm trí là hoàn toàn không có một vấn đề nào, và sống như thế mà không
cố gắng.
Chắc chắn một tâm trí như thế là tâm trí duy nhất có tôn giáo, bởi vì
nó hiểu sự
đau khổ và sự chấm dứt đau khổ. Nó không sợ hãi, và do đó nó là nguồn
sáng rọi
vào chính nó.
*
Chấm
dứt thời gian,
2
Tháng Tư 1980
(Krishnamurti
chuyện trò với
David Bohm)
Krishnamurti:
Ông là một nhà
khoa học, đã nghiên cứu nguyên tử, và đại loại những thứ như thế.Vậy
trong nghiên
cứu, ông không cảm thấy có gì đó nhiều hơn nữa ngoài tất cả những thứ
ấy
sao?/You are a scientist, you have examined the atom, and so on. Don’t
you,
when you have examined all that, feel there is something much more,
beyond all
that?
David
Bohm: Ông luôn luôn cảm
thấy có nhiều hơn thế, nhưng nó không cho ông biết nó là cái gỉ. Rõ
ràng rằng bất
cứ điều gì người ta biết thì đều có giới hạn/You can always feel that
there is
more beyond that, but it doesn’t tell you what it is. It is clear that
whatever
one knows is limited.
K:
Vâng.
DB:
Và phải có gì nhiều hơn nưã,
ngoài nó.
K:
Làm thế nào điều ấy liên lạc
với ông để, với sự hiểu biết khoa học và khả năng trí óc, ông có thể
hiểu nó? /
How can that communicate with you, so that you, with your scientific
knowledge,
with your brain capacity, can grasp it?
DB:
Ông nói không thề hiểu nó
sao?
K:
Không. Ông hiểu nó cách nào?
Tôi không nói ông không thể hiểu nó. Ông có thể hiểu nó chứ?
DB:
Coi nào, vậy là không rõ ràng.
Ông đã nói khi trước rằng không thể hiểu nó bằng …
K:
Hiểu, trong nghiã, tâm trí ông
có thể vượt ra ngoài những lý luận không? Điều
tôi muốn nói là, ông có thể chuyển dịch vào
tâm trí chứ? Không là chuyển dịch, chỉ hoàn toàn trong ý nghiã của thời
gian thôi.
Ông có thể nhập vào nó không? Không, những điều ấy chỉ là ngôn từ.
Ngoài sự trống
không là gì? Nó có là sự im lặng không?/ Grasp, in the sense, can your
mind go
beyond theories? What I am trying to say is, can you move into it? Not
move, in
the sense of time and all that. Can you enter it? No, those are all
words. What
is beyond emptiness? Is it silence?
DB:
Điều đó chẳng tương tự sự
trống không sao?/ Isn’t that similar to emptiness?
K:
Vâng, tôi hiểu được điều đó/Yes,
that is what I am getting at. Hãy đi từng bước. Nó có là sự im lặng
không? Hay
sự im lặng là thành phần cuả sự trống không?
DB:
Vâng, tôi phải nói điều đó.
K:
Tôi cũng phải nói điều đó. Nếu
nó không là sự im lặng, liệu chúng ta – tôi tự hỏi – có thể nói nó là
gì đó tuyệt
đối không? Ông hiểu chứ?
DB:
À, chúng ta có thể xem xét điều
tuyệt đối. Nó hẳn sẽ là điều gì hoàn toàn không phụ thuộc; đó thực sự
là ý nghiã
cuả ‘tuyệt đối’. Nó không phụ thuộc bất cứ điều gì.
K:
Vâng. Ông đã tới đâu đó gần
nó.
DB:
Hoàn toàn tự chuyền động,
như nó đã từng như vậy, tự vận hành.
K:
Vâng. Ông sẽ nói mọi điều đều
có một nguyên nhân, và điều đó thì hoàn toàn
không có nguyên nhân chứ?
DB:
Ông thấy, quan niệm này đã
xưa rồi. Nó đã được Aristotle khai triển, rằng tuyệt đối là nguyên nhân
cuả chính
nó.
K:
Vâng.
DB:
Nó không có nguyên nhân,
trong một ý nghiã. Đó là điều cũng như vậy.
K:
Ông thấy lúc ông nói
Aristotle – nay nó không là điều đó. Chúng ta sẽ hiểu điều này thế nào?
Sự
trống không là năng lượng, và nó tồn tại trong sự im lặng, hoặc ngược
lại, không
thành vấn đề - đúng không? Ồ, vâng, có gì đó ở ngoài tất cả điều này.
Có lẽ nó
không bao giờ có thể được đặt vào ngôn từ. Nhưng nó cứ phải được đặt
vào ngôn từ. Ông
nghe kịp chứ?/You see the
moment you said Aristle – it is not that. How shall we get at this?
Emptiness
is energy, and that emptiness exists in silence, or the other way
round, it
doesn’t matter – right? Oh, yes, there is something
beyond
all this. Probably it can never be put into words.
But it must be put
into words. You follow?
DB:
Ông nói điều tuyệt đối phải
được đặt vào ngôn từ, nhưng chúng ta cảm thấy không thể được phải
không? Bất cứ
toan tính nào đặt nó vào ngôn từ thì đều làm nó thành tương đối.
K:
Vâng. Tôi không biết nói cách
nào.
DB:
Tôi nghĩ, chúng ta có một lịch
sử lâu dài, nguy hiểm với sự tuyệt đối. Người ta đã đặt nó vào ngôn từ,
và nó
trở nên rất gay go/I think that we have a long history of danger with
absolute,
and it has become very oppressive.
K:
Hãy bỏ qua tất cả những điều
đó. Ông
thấy, không biết những người khác đã nói
gì, Aristotle và Phật, và
vvv, là điều ích lợi/You see, being ignorant of what other people have
said,
Aristotle and the Buddha, and so on, has an advantage. Ông hiểu
tôi muốn
nói gì chứ? Điều thuận lợi trong nghiã rằng tâm trí không bị tư tưởng
của người
khác làm sai lạc, không bị vướng mắc vào lời nói của người khác. Tất cả
điều đó
tác động/điều kiện hóa chúng ta. Bây giờ sẽ vượt ngoài tất cả điều đó!
Chúng ta
thử làm gì đây?
DB:
Tôi nghĩ, thông tri về điều
tuyệt đối, điều vượt ngoài phạm vi này.
K:
Tôi cất ngay chữ tuyệt đối đó đi.
DB:
Vậy thì nó là bất cứ điều gì;
sự trống không và sự im lặng ở bên ngoài.
K:
Vượt ngoài tất cả điều đó. Nó
là điều gì đó, là thành phần cuả sự mênh mông,
DB:
Vâng, ngay cả sự trống không
và sự im lặng là một sự bao la, phải không ? Chính năng lượng là một sự
bao la.
K:
Vâng, tôi hiểu điều ấy. Nhưng
có điều gì đấy còn bao la hơn điều đó nhiều. Sự trống không, sự im lặng
và năng
lượng thì bao la, không thực sự đo lường được. Nhưng có điều gì đó –
tôi dùng
chữ, vĩ đại hơn điều đó.
DB:
Tôi đang xem xét đây. Tôi
nhìn vào nó. Người ta có thể thấy rằng dù bạn nói gì về sự trống không,
hoặc về
bất cứ điều gì khác, vẫn có điều gì đó ở bên ngoài.
K:
Không, là nhà khoa học, tại
sao ông chấp nhận – không phải là chấp nhận, thứ lỗi cho tôi dùng chữ
đó - tại
sao ông còn đồng thuận với điều này? No, as a scientist, why do you
accept –
not accept, forgive me for using that word – why do you even move along
with
this?
DB:
Bởi vì chúng ta đã đi xa tới
đây từng bước, thấy sự cần thiết của từng bước.
K:
Ông thấy tất cả điều đó rất
hợp lý, phải lẽ, đúng mực.
DB:
Và người ta cũng thấy nó rất
đúng.
K:
Vâng. Cho nên nếu tôi nói có
điều gì đó vĩ đại hơn tất cả sự im lặng này, năng lượng – ông có sẽ
chấp nhận nó
không ? Chấp nhận trong nghĩa rằng cho tới lúc này chúng ta đã có lý.
DB:
Chúng ta sẽ nói rằng bất cứ
điều gì chúng ta nói tới thì chắc chắn có điều gì đó ở ngoài nó. Sự im
lặng, năng
lượng, hay bất cứ gì, thì khi ấy vẫn có chỗ cho điều gì đó ở ngoài nó,
một cách
hợp lý. Nhưng điểm cốt yếu là thế này: ngay cả khi ông đã phải nói có
điều gì đó
ở ngoài nó, ông vẫn có chỗ để lại đi ra ngoài điều đó, một cách hợp lý.
K:
Không.
DB:
Tại sao vậy? Ông thấy, bất
cứ ông nói gì, luôn luôn có điều gì đó ở bên ngoài.
K:
Không có gì bên ngoài.
DB:
Thế thì điểm đó không rõ ràng,
ông thấy đó.
K:
Không có gì ngoài nó. Tôi kiên
định điều đó. Không võ đoán hoặc ngoan cố. Tôi cảm thấy đó là khởi đầu và kết thúc của mọi
điều. Bắt đầu và kết thúc là như nhau/that
is the beginning and the ending of
everything.The ending and the beginning
are the same– đúng không?
DB:
Trong ý nghĩa nào? Có phải
trong ý nghĩa ông dùng sự bắt đầu của mọi điều như là sự kết thúc?
K:
Vâng. Đúng không? Ông sẽ nói
điều đó chứ?
DB:
Vâng. Nếu chúng ta lấy căn
cứ từ đó mọi điều, mọi sự kết thúc, thì nó phải là căn cứ mọi điều, mọi
sự khởi
đầu.
/Yes.
If we take the ground
from which it comes, it must be the ground to which it falls.
K:
Đúng thế. Đó là căn cứ mọi điều
tồn tại, không gian …
DB:
…năng lượng…
K:
… năng lượng, sự trống không,
sự im lặng, tất cả điều đó hiện hữu.Tất cả điều đó. Không phải là căn
cứ, ông
hiểu chứ?/ …energy, emptiness, silence, all that is. All that. Not
ground, you
understand?
DB:
Không, nó chỉ là một ẩn dụ.
K:
Không có gì bên ngoài nó. Không
nguyên nhân.Nếu ông có một nguyên nhân thì
khi ấy ông có căn cứ/There
is nothing beyond it. No cause. If you have a cause then you have
ground.
DB:
Ông có một căn cứ khác.
K:
Không. Điều đó là sự bắt đầu
và sự kết thúc.
DB:
Nó trở nên rõ ràng hơn.
K:
Đúng vậy. Nó có chuyển đạt bất
cứ điều gì cho ông không?
DB:
Vâng. Tôi nghĩ có điều gì đó.
K:
Điều gì đó. Ông sẽ nói xa hơn
thế nữa, rằng không có bắt đầu và không có kết thúc chứ?
DB:
Vâng. Nó từ căn cứ tới, đi
tới căn cứ, nhưng không bắt đầu hoặc kết thúc/Yes. It comes from the
ground,
goes to the ground, but it does not begin or end.
K:
Vâng. Không bắt đầu và không kết thúc/There
is no beginning and no ending. Những ẩn ý thì rất lớn. Cái chết
đó – không
phải là cái chết trong nghĩa, tôi sẽ chết, nhưng nó có là sự chấm dứt
hoàn toàn
của mọi điều không?
DB:
Ông thấy đó, lúc đầu ông đã
nói sự trống không là sự chấm dứt mọi điều, vậy
bây giờ điều nói thêm này có ý nghĩa gì? Sự trống
không là sự chấm dứt của
mọi điều, không phải vậy sao?
K:
Vâng, vâng. Cái chết đó, là
sự trống không này chứ? Cái chết của mọi điều
mà tâm
trí đã nuôi dưỡng. Sự trống không này
không là sản phẩm của tâm
trí, của tâm trí cá biệt nào/Death of everything the mind has
cultivated. This
emptiness is not the product of the mind, of the particular mind.
DB:
Không. Nó là tâm trí
chung/No, it is the universal mind.
K:
Sự trống không đó là nó/That
emptiness is that.
DB:
Vâng.
K:
Sự trống không đó chỉ tồn tại
khi có cái chết toàn diện - của điều cá biệt/That emptiness can only
exist when
there is death – total death – of the particular.
DB:
Vâng.
K:
Tôi không biết tôi có chuyển
đạt điều này hay không.
DB:
Có, đó là sự trống không.
Nhưng rồi ông nói điều đó, ở căn cứ này, thì cái chết có đi xa hơn
không?
K:
Ồ, vâng.
DB:
Bởi vậy chúng ta nói sự chấm
dứt điều cá biệt, cái chết của điều cá biệt, là sự trống không, là cái
chung. Vậy
ông sẽ nói cái chung cũng sẽ chết chứ?
K:
Vâng, đó là điều tôi muốn nói.
DB:
Vào căn cứ.
K:
Nó có chuyền đạt bất cứ điều
gì không?
DB:
Có thể, có.
K:
Hãy ngừng một phút. Chúng ta
hãy xem nó. Tôi nghĩ nó có chuyển đạt điều gì đó, phải không?
DB:
Vâng. Bây giờ nếu cái riêng
và cái chung chết , thì khi đó nó có phải là cái chết không?
K:
Vâng. Sau hết, một nhà thiên
văn học nói mọi vật trong vũ trụ đang hấp hối, nổ bùng, chết.
DB:
Nhưng lẽ tất nhiên ông có
thể cho rằng đã có điều gì đó bên ngoài.
K:
Vâng, đúng là như vậy.
DB:
Tôi nghĩ chúng ta đang chuyển
động. Cái chung và cái riêng. Trước hết cái riêng chết vào sự trống
không, và rồi
tới cái chung.
K:
Và điều đó cũng chết.
DB:
Vào căn cứ, đúng không?
K:
Vâng.
DB:
Vậy ông có thể nói căn cứ
không sanh và không chết.
K:
Đúng thế.
DB:
A, tôi nghĩ nó hầu như không
thể diễn tả được nếu ông nói rằng cái chung đã chết, bởi vì sự biểu
hiện là cái
chung/Well, I think it becomes almost inexpressible if you say the
universal is
gone, because expression is the universal.
K:
Ông thấy – tôi đang cắt nghĩa
đây - mọi điều đang chết, ngoại trừ điều đó. Điều này có chuyền đạt gỉ
không?
DB:
Có. Từ điều đó mà mọi điều
xuất hiện và chết vào trong đó/Yes. Well it is out of that that
everything
arises and into which it dies.
K: Cho nên nó không có bắt đầu và
không có chấm dứt/So that has no beginning and no ending.
DB:
Nói đến sự chấm dứt cái
chung sẽ có ý nghĩa gì? Chấm dứt cái chung sẽ có ý nghĩa gì?
K:
Không có gì. Tại sao phải có
ý nghĩa nếu nó xảy ra? Nó có quan hệ gì với con người? Ông hiểu tôi
muốn nói gì
chứ? Con người đang trải qua thời kỳ khủng khiếp. Điều đó đã dính líu
gì với
con người?
DB:
Chúng ta hãy cho rằng con
người cảm thấy phải có sự tiếp xúc nào đấy với căn cứ tối thượng /Đấng
tối cao
trong cuộc đời, bằng không nó không có ý nghĩa.
K:
Nhưng nó lại không có. Đấng đó
không có bất cứ mối liên hệ nào với con người. Ngài tự sát, ngài làm
mọi điều
ngược lại với căn cứ /But it hasn’t. That ground hasn’t any
relationship with
man. He is killing himself, he is doing everything contrary to the
ground.
DB:
Vâng, đó là lý do đời sống
không có ý nghĩa nào cho con người.
K:
Tôi là một người bình thường;
tôi nói, được rồi, ông nói rất tuyệt vời về những buổi hoàng hôn, nhưng
nó quan
hệ gì tới tôi? Điều đó hay lời kể của ông có giúp tôi vượt qua nỗi
phiền muộn của
tôi không? Những chuyện cãi vã với vợ tôi hay bất cứ chuyện gì không?/I
am an
ordinary man; I say, you have talked marvelously of sunsets, but what
has that
got to do with me? Will that or your talk help me to get over my
ugliness? My
quarrels with my wife or whatever it is?
DB:
Tôi nghĩ tôi sẽ quay trở lại
nói, chúng ta đã đi vào chuyện này một cách hợp lý khởi từ sự đau khổ
của nhân
loại, cho thấy nó bắt nguồn ở một khúc quanh sai lạc, mà hiển nhiên dẫn
tới…/I
think I would go back and say, we went into this logically starting
from the
suffering of mankind, showing it originates in a wrong turning, that
leads
inevitably…
K:
Vâng, nhưng con người xin, hãy
giúp tôi qua khỏi khúc quanh sai lạc. Hãy đặt tôi trên đúng đường. Và
đáp lại lởi
đó người ta nói, xin hãy đừng trở nên bất cứ điều gì.
DB:
Đúng. Khi ấy vấn đề là gì?
K:
Con người vẫn không lắng
nghe.
DB:
Khi ấy đối với tôi thì hình
như rằng điều cần thiết cho người nào thấy điều này là tìm ra điều gì
là trở ngại
cho sự lắng nghe /Then it seems to me that it is necessary for the one
who sees
this to find out what is the barrier to listening.
K:
Rõ ràng ông có thể thấy trở
ngại là gì
DB:
Trở ngại là gì?
K:
“Tôi”.
DB:
Vâng, nhưng tôi muốn nói sâu
thêm.
K:
Sâu thêm là tất cả suy nghĩ,
tình cảm gắn bó của ông – nó nằm trong lối sống của ông. Nếu ông không
bỏ được
chúng, ông sẽ không có liên quan gì với điều đó. Nhưng con người không
muốn bỏ
những điều này.
DB:
Vâng, tôi hiểu. Điều con
người muốn là cách suy nghĩ của mình phải có kết qủa/Yes, I understand.
What he
wants is the result of the way he is thinking.
K:
Con người muốn lối sống dễ dàng,
thoải mái không phiền muộn, và nó không thể có được điều đó.
DB:
Không. Chỉ bằng buông bỏ tất
cả điều này.
K:
Phải có mối quan hệ. Phải có
sự giao tiếp nào đó với căn cứ và đây là sự liên hệ với người bình
thường. Bằng
không, đời sống có ý nghĩa gì?
DB:
Đó là điều tôi đã cố gắng nói
khi trước. Không có mối liên lạc này thì…
K:
… Không có ý nghĩa.
DB:
Và rồi con người chế ra ý
nghĩa.
K:
Tất nhiên.
DB:
Ngay cả trở về trước, các tôn
giáo cổ xưa đã từng nói những điều tương tự, rằng Thượng Đế là căn cứ,
bởi vậy
họ nói tìm Thượng Đế, ông biết đấy.
K:
A, không, điều này không là
Thượng Đế.
DB:
Không, đó không là Thượng Đế,
nhưng nó nói cùng một điều. Ông có thể nói rằng ‘Thượng Đế’là một toan
tính đặt
quan niệm này có lẽ hơi qúa cá nhân.
K:
Vâng. Hãy cho họ hi vọng, hãy
cho họ niềm tin, ông theo kịp chứ? Làm cho đời sống dễ chịu hơn một
chút.
DB:
Thế, ở điểm này ông có hỏi
rằng làm thế nào điều này được chuyền đạt cho người bình thường? Đó có
phải là
câu hỏi của ông không?
K:
Đại khái thế. Và cũng quan
trọng rằng người ấy phải lắng nghe điều này. Ông là nhà khoa học. Ông
lắng nghe
tốt rồi bởi vì chúng ta là bạn. Nhưng ai sẽ lắng nghe trong số các nhà
khoa học
khác? Tôi cảm thấy nếu người ta theo đuổi điều này thì chúng ta sẽ có
một thế
giới được sắp đặt tuyệt vời.
DB:
Vâng. Và chúng ta sẽ làm gì
trong thế giới này?
K:
Sống.
DB:
Nhưng, tôi muốn nói, chúng
ta đã nói gì đó về tính sáng tạo…
K:
Vâng. Và khi ấy nếu ông không
có xung đột, không có ‘Tôi” thì có điều gì khác vận hành.
DB:
Quan trọng là nói điều đó,
bởi vì ý tưởng toàn thiện Cơ Đốc giáo xem ra khá buồn chán bởi vì chẳng
có gì để
làm!
K:
Chúng ta phải tiếp tục chuyện
này thời gian nào khác, bởi vì nó là điều gì đó đã được đặt vào qũy
đạo/We must
continue this some other time, because it is something that has got to
be put
into orbit.
DB:
Xem ra không thể được.
K:
Chúng ta đã đi khá xa rồi.