Mùa hè còn
mãi
Nguyễn Chí
Kham
Shall I
compare you to a Summer’s day
William Shakespeare
Phần Thứ Nhất
I
Chỉ còn ít hôm nữa là Thụy hết thời
gian nghỉ phép. Sáng nay, lúc sắp xếp quần áo và các thứ quà bánh vào
túi vải
nhà binh, chặt gọn, căng đầy, bỗng dưng lòng anh thấy nôn nao, lạ
thường, tưởng như đang mang mang một nỗi
nhớ về người
mình yêu. Thực sự, Thụy đang yêu và ước mơ về Thúy Hà. Nàng đã lấy
chồng, nhưng
trong tình yêu vẫn còn để lại cho anh với rất nhiều lá thư.
Huế, thành phố và con người có chung
một dòng sông. Mới cách đây một tuần , không khí của mùa thi rộn rã ,
hoa phượng
đỏ rực trời, trên đường Lê Lợi bao nhiêu tà áo trắng làm sáng đẹp một
ngày mai
như đó là sự xuất hiện những đàn chim thiên thần. Nhưng rồi, vang âm ấy
chợt bơ
vơ sau hồi trống im bặt, vắng lặng, có chút gì tựa áng mây phiêu bạt
bên trời làm bạn cảm thấy nó muộn màng,
chẳng còn nữa
sự đợi mong.
-Anh không
đi đâu chơi ?
Phương xuất hiện ở thềm cửa, trên
bàn tay nắm đầy một chùm quả mận vừa mới hái ngoài vườn. Thụy nhìn cô
em gái và
thấy cả một nụ cười dịu sáng nơi cặp mắt vui của thiếu nữ.
-Anh còn bao
nhiêu ngày phép nữa ?
-Sắp hết rồi.
Phương để những quả mận vào dĩa,
xong kéo chiếc ghế ngồi xuống. Một cơn gió vừa làm dịu đi sức nóng,
trong tiếng
lào xào bên ngoài vườn Thụy ngửi được cả
mùi vị thơm của lá và trái cây.
Phương ăn ngon làm Thụy thèm, anh lấy
một quả nhỏ, vừa cắn đã thấy có vị chát.
-Anh Nguyên
lúc này, sao ?
-Anh ít khi
về nhà.
Rồi một giọng thân tình, Phương nói:
-Anh ấy đã
có chị Thiên Nga.
-Bạn gái của
anh ?
Cô em gật đầu, mắt nhìn Thụy như thể
dò ý. Thụy hỏi:
-Hai anh chị
quen nhau lâu chưa ?
-Em không
rõ, chắc là mới đây thôi.
-Em đã
gặp chưa ?
-Có chứ. Anh
Nguyên đưa chị Nga về nhà chơi mấy lần.
- Thiên Nga
cũng người Huế.
-Không, ở Đà
Nẵng.
-Lạ nhỉ, sao
anh Nguyên không nói gì hết.
-Anh về phép
sớm hơn là gặp chị rồi.
-Anh đâu hay
biết gì mà có ý định về thời gian nghỉ phép.
Sau câu nói, bỗng dưng Thụy băn
khoăn. Gia đình ở Đà Nẵng, cô gái ra Huế học trường Mỹ Thuật năm tới là
năm thứ
hai. Từ ít nét qua trí tưởng, hình ảnh
Thiên Nga tỏa rộng trên khung vải bức tranh thiếu nữ có một gương mặt
đẹp, phảng
phất nỗi buồn. Và chiếc áo dài tím, cô gái cũng cho anh lắng nghe ra
tiếng nói,
hình dung từng dáng bước đi thật dịu dàng trên những bông hoa vừa mới
nở.
Thụy hỏi Phương:
-Mẹ có hay
biết gì không ?
-Có.
-Mẹ nói sao
?
-Mẹ rất vui.
Cả nhà, ai cũng mến chị.
-Ờ nhỉ, anh
đã hình dung thấy rồi. Mong là, hình ảnh chị ấy như anh đang nghĩ tới.
Một giọng vui, Phương nói:
-Chị Nga có
đọc truyện anh viết.
-Vậy à. Anh
Nguyên đưa cho chị.
-Không phải,
em đưa.
-Chị có nhận
xét gì không ?
-Chị nói,
anh thật lãng mạn.
Lòng vui Thụy mơ nghĩ đến người con
gái, và nàng còn đây, đang hiện diện trong tâm trí anh.
Ngày hôm sau, buổi sáng trời mưa Thụy
đi Phú Bài để ghi chuyến bay. Viên Trung úy nhận giấy phép xong, quay
lại xem bảng
phi trình, nói:
-Ngày mai có
hai chuyến Sài Gòn. Anh muốn đi sáng hay trưa ?
-Tôi muốn đi
chuyến sáng.
-OK. 8 giờ
có mặt.
Xong việc, Thụy ra về. Trời đã tạnh.
Thật may, Thụy xin quá giang được chuyến xe nhà binh về phố. Xe chạy
không
nhanh, trên đường, Thụy nhìn ngắm quang cảnh đồng quê hiện ra trong vẻ
ẩm ướt
sau cơn mưa. Lạ nhỉ, một niềm bâng khuâng trong anh như thể cơn gió
lạnh trở
mùa. Thụy đang nghĩ đến câu chuyện của Phương nói về một cô gái mà anh
chưa được
gặp. Cô đến Huế, rồi xa nơi này đã lâu chưa thấy trở lại.
Thụy cứ lan man mơ mộng bóng dáng cô
gái, rồi sực tỉnh khi xe về tới thành phố. Huế vẫn đông vui, rộn ràng.
Xe ngừng
lại phía bên đây cầu Trường Tiền. Thụy nhảy xuống xe, đưa cao tay vẫy
chào tạm
biệt anh tài xế và hai người lính ngồi phía trước. Họ gửi lại anh một
nụ cười.
Từ dốc cầu, Thụy thong thả đi bộ đến sạp báo nằm ngoài khuôn viên Đài
Phát
Thanh. Hiếu nhận ra Thụy, vội la lớn tiếng làm nhiều người nhìn anh chú
ý. Ngày
trước, Thụy khá thân với Hiếu. Nhớ một thời đi học, những buổi chiều hè
Thụy
thường có mặt ở đây say mê đọc báo và hết
sức vui được nghe những lời bàn luận thể thao của các cổ động viên cùng
tâm ý
như mình. Thế nhưng, nay thời gian đã đổi khác Thụy rất nhiều, anh không còn say mê môn bóng tròn như trước nữa,
mà từ ngày đi lính, trong lòng anh mang nặng nhiều ý nghĩ
về chiến tranh, về cuộc đời, vừa hoài nghi từ
những mối mặc cảm.
Vừa chuyện trò với bạn , Hiếu vẫn tiếp
khách mua báo. Một lúc sau, câu chuyện ngừng hẳn vì khách đến khá đông.
Thụy mua tờ báo Nghệ Thuật số cũ. Từ
ngày sáng tác được vài truyện ngắn đăng báo, Thụy bắt đầu chú tâm đến
các sinh
hoạt văn nghệ, và ngày càng trở nên yêu thích việc đọc sách, kể cả cái
thú đến
phòng triển lãm xem tranh.
Thụy không đứng lâu, trả tiền báo
xong anh và Hiếu bắt tay. Hiếu hỏi:
-Hôm nào đi
?
-Ngày mai,
Thụy đáp.
Đứng ở trong quầy, cái dáng người
cao, hơi gầy của Hiếu vẫn như ngày nào. Có chuyến xe buýt vừa đến, đang
ngừng, Thụy vội chạy nhanh. Lên xe, Thụy
ngồi cạnh một
cô gái. Tờ báo cầm trên tay, Thụy mở ra đọc lướt. Cô gái cũng ghé mắt
nhìn vào
trang báo của anh. Hai người không hỏi nhau một câu. Những hàng cây lùi
rất xa
trên đường xe đang chạy. Bên kia công viên, dòng sông đang chảy vào
thành phố,
Thụy chợt nghĩ đến ngày mai lên đường.
Xe ngừng ở nhà ga, Thụy và cô gái
cùng bước xuống. Mỗi người đi một ngả. Thụy hẳn sẽ còn nhớ được cô gái
có cặp mắt
nâu , chiếc áo dài trắng. Cô bước đi một mình. Thụy dõi mắt trông bóng
dáng cô
mỗi lúc xa dần, khuất biệt, khi cô đi qua lối cửa phụ bên cạnh nhà ga
vào phía
bên trong. Thụy chợt nghĩ một đôi điều
như mới có trong đôi mắt, anh nghe ra tiếng nói, biết tên cô gái, và
căn nhà
phía bên kia cánh đồng trơ trọi, nơi ấy rất dễ cho bạn tìm thấy những
dấu vết
chiến tranh còn đó ở hai bên hàng rào kẽm gai, ở chỗ hồ nước đầy rêu có
một cây
khế trái chín rụng từng ngày vương vãi trên mặt đất. Rồi, ngày nào đó
cô gái đi
đến một nơi xa, không hề trông mong gặp lại bạn lần nữa.
Thụy trở gót, bước nhẹ nhàng. Về đến
nhà, Thụy vui lây trong tiếng mấy đứa em reo mừng. Anh Nguyên cũng có
về nhưng
đã vào lại đơn vị.
Sau bữa ăn, Thụy mở ví lấy tiền đưa
cho mẹ một ít , còn lại cho mấy em. Thụy đi lính, đồng lương không
nhiều, nhưng
anh vẫn luôn cố gắng dành dụm cho những kỳ được về phép thăm gia đình.
Một
thoáng yên lặng, Thụy lại nhớ anh Nguyên
, và nhớ rất nhiều trong sự hình dung qua từng nét
về một cô gái.
-Sang năm
anh về phép nữa không ?
-Chưa biết.
Nếu xin được kỳ nghỉ, anh về thăm.
Có tiền của Thụy cho, em anh, đứa
nào cũng cất dành. Những ngày qua anh sống thật nhẹ nhàng yên vui với
mỗi bữa
ăn, mỗi câu chuyện của người mẹ và các đứa em, trong tâm tình đó, những dòng thơ Huy Cận anh yêu thích bỗng dội
lên những cơn sóng nước giạt dào, tỏa ánh một miền quê , miền ấy, là
quê ngoại
mà trong tâm tư anh thường hay nhớ tưởng.
Thụy trải chiếu lên tấm phản, đặt
chiếc gối xong , lăn người nằm. Anh ngủ ngon giấc, lúc thức dậy, đã nửa
buổi
chiều. Rửa mặt xong, anh rời nhà đi bộ qua thăm dì Quyên. Nhà dì anh ở
gần, đầu
ngã ba trông xuống bến sông. Trời vẫn còn hanh nóng, chưa dịu hẳn.
Vừa thấy Thụy trước cửa, Loan lên tiếng,
cô gái nhìn người anh họ qua ánh mắt vui. Rồi một cô gái mặc áo trắng
chợt quay
đầu nhìn làm Thụy ngạc nhiên, liền nhớ ra ngay là mới gặp cô lúc trưa
trên chuyến
xe ngừng đỗ ở trạm nhà ga.
Bà dì ở nhà sau đi lên, với nụ cười
thật điềm đạm.
-Ngày nào
con đi ?
-Dạ, ngày
mai.
Nhìn gương mặt dì Quyên, Thụy cố gắng
tìm một lời để nói. Và, lúc đó Loan giới thiệu anh
với cô
bạn học. Thụy và cô gái nhìn nhau hơi bỡ ngỡ. Nhưng rồi, lướt qua bằng
giọng tự
nhiên , thật vui Thụy nói:
-Anh có linh
cảm là tới đây để tìm em.
-Thực không
?
-Cô hỏi bạn
của cô đi.
Loan nhìn hai người, tỏ ra ngạc
nhiên. Chỉ qua ít giây bối rối thôi, câu chuyện trở nên rõ ràng, nhưng
Thụy
cũng hơi dài dòng khi thuật lại sự tình cờ gặp cô bạn của Loan trên
chuyến xe
buýt đi từ dưới phố lên ga.
Thụy kéo ghế ngồi. Vừa lúc ấy, có tiếng
rao quà của người bán hàng rong. Dì Quyên vội đứng lên đi ra cửa, rồi
cất tiếng
gọi. Một lúc sau, chị bán quà xuất hiện đặt chiếc gánh xuống thềm hiên.
Cả ba người ngừng chuyện để chờ bữa
quà chiều. Rất nhanh gọn, mỗi người một dĩa bánh với nước mắm dằm ớt
cay.
Ngồi bên ngoài, chị bán hàng cầm chiếc
nón đưa lên quạt. Trên vầng trán của chị ít giọt mồ hôi còn đọng. Người
nào ăn
cũng thấy ngon. Cô gái hay ngừng đũa nhìn qua Thụy. Cô gái có nước da
ngăm, cặp
mắt nâu, và trên áo trắng thêu tên của cô. Một giọng nhỏ nhẹ, cô hỏi:
-Anh làm việc
ở Sài Gòn ?
-Anh đi
lính, đóng ở căn cứ Tân Sơn Nhất.
Chỉ có mình Thụy ăn thêm. Bà dì,
Loan và cô bạn ăn xong một dĩa lớn là quá no. Nhìn ra ngoài hiên, Thụy
thấy chị
bán hàng đang rửa chén bát ở cái thau nhôm. Vội vàng anh ăn nhanh, xong
đứng
lên mang dĩa ra trả cho người bán. Bà dì và chị bán hàng cùng tính
tiền, sau
đó, dì vào nhà lấy một cái dĩa ra mua thêm, dĩa này để phần cho Linh,
em kế
Lăng và cũng là chị của Loan.
Bóng nắng theo chị bán hàng đi khuất
ra cổng. Thụy hỏi Loan:
-Lúc nào em
tựu trường ?
-Đầu tháng
chín.
-Cũng gần đến
rồi, hai tuần lễ nữa thôi.
-Mỗi năm anh
đều về nghỉ phép.
Cô gái nhìn Thụy khi hỏi. Lòng Thụy
cảm thấy có được sự an ủi trên cặp mắt cô và còn nghe rõ một giọng nói
thân
tình. Vậy mà, anh cứ băn khoăn tìm lời giải thích cho cô hiểu về tình
cảnh người
lính không dễ sống yên bình, phẳng lặng như cuộc đời người công chức.
-Anh về phép
lần này là lần đầu kể từ khi vào lính, Thụy nói.
Cô gái tên Liên An.
Thụy nhìn tên cô thêu trên áo, và đọc
trong cặp mắt cô một điều thầm lặng.
Loan
quay lưng rút một cuốn sách ở kệ. Cô đem cuốn sách
để lên bàn và mở ra
trang đầu. Bỗng nhiên cô ngừng đọc hỏi:
-Anh Nguyên
đi đâu không thấy ghé.
-Anh còn ở
đơn vị.
Loan ngả người dựa lưng ghế, cười
nói:
-Không chắc
đâu. Anh đi Đà Nẵng thăm chị Nga rồi.
-Sao Loan biết
?
-Cả nhà, đều
biết.
-Loan
gặp chị ấy rồi.
-Chị
Nga thân với em lắm.
Thụy ngẩn người, lạ lùng. Liên An
nhìn qua anh. Buổi chiều, có chuyến xe lửa về đến ga.
-Ngày mai
anh đi buổi sáng, hay chiều ?
-Buổi sáng.
Sài Gòn lúc này đang bắt đầu mùa mưa.
Sau điều vừa nghĩ, bỗng dưng Thụy có
cảm giác bàn tay cô gái đặt lên vai mình. Hai người nhìn nhau, đôi mắt
cô gái hết
sức ngại ngùng.
Và rồi, buổi chiều xuống nhanh. Cô
gái đứng lên kiếu từ, trên tay cầm hai cuốn vở và một tập giấy. Thụy
cũng muốn
về nhà, rồi cùng cô gái đi ra phía cổng.
Giọng thân tình, cô gái nói:
-Em mong
sang năm anh về phép.
-Anh cũng
mong như em.
Hai người đi bộ trên con đường ven
sông. Dừng bước lại, Thụy hỏi:
-Nhà Liên An
gần đây không ?
-Dạ gần.
-Bên kia cầu
?
-Em ở phía
trên nhà ga .
-Em thích về
một mình hay muốn có anh theo.
-Anh tiễn em
một đoạn qua cầu thôi.
-Anh cùng đi
với em.
Trong câu chuyện, cô gái cho Thụy biết
qua về gia đình cô. Và, cùng với sự thân tình ấy, cô nói về mẹ anh, các
em của
anh, và rất là thích thú khi cô tả qua cho anh nghe về nàng Thiên Nga.
Thụy hỏi:
-Em thấy anh
Nguyên ra sao ?
-Anh ấy rất
đẹp .
-Còn nàng
Thiên Nga?
-Em chưa tìm
ra được ai để so sánh với nàng.
-Phương đã vẽ
hình ảnh Thiên Nga và kể hết chuyện cho
anh nghe. Ở thành phố này, vẻ đẹp của áo trắng rất là thuần khiết.
-Anh thích
em mặc áo trắng không ?
-Anh rất
mong, mỗi cô thiếu nữ, ai cũng đều có riêng cho mình một màu áo yêu
thương.
-Anh thật có
tâm hồn đa cảm.
-Anh rất vui
được nghe tiếng nói của em.
-Anh có mong
gặp lại em không ?
-Anh đang đi
bên em. Những ngày tới đây, anh xa khỏi thành phố này. Áo trắng, tên
Liên An của
em, tên Thiên Nga người con gái xứ Quảng chúng ta vừa nhắc đến là kỷ
niệm thật
đẹp mà Huế đã cho anh một sự rung động đầy mối hoài cảm trong ngày về.
-Em có cảm
tưởng, anh luôn đi xa, nhưng lúc nào cũng mãi nhớ thương ngày tháng cũ.
-Em nói được
những ý tưởng của anh. Những ý tưởng ấy nhắc anh nhớ đến một bài hát
rất quen
thuộc.
-Anh hát đi.
-Anh không
biết hát.
Sau vài giây, Thụy bỗng nói:
-Anh nhớ được
một đôi câu ... nhà tôi bên chiếc cầu soi nước, em vắng tôi một chiều...
Bóng nắng chiếu nghiêng nghiêng,
dòng sông không lớn nhưng nó tạo ra được cái dáng vẻ đẹp riêng cho
thành phố.
Hình ảnh chiếc cầu sáng trắng màu vôi, theo ánh nắng, bóng hai người đi
qua con
sông , bỗng nhiên nghe tiếng động cơ nổ dội lên vang thật xa. Và lúc
đó, một
chiếc thuyền máy xuất hiện lênh đênh trên sóng nước, khi ra khỏi dòng
sông nhỏ
này chiếc thuyền sẽ gặp dòng sông lớn.
Nơi đây, trở lại sự yên
bình. Nhà ở hai bên nằm ven theo bờ sông,
mỗi căn nhà đều có khoảnh sân ở phía trước
và căn vườn nhỏ sau lưng.
Bỗng nhiên Liên An dừng bước lại, cô
nói với Thụy:
-Đã đi qua hết
cây cầu, anh có nhớ lời em nói không ?
-Nhớ chứ.
Nhưng sao em không nghĩ anh muốn tiễn em lên nhà ga để đợi một chuyến
tàu.
-Anh muốn em
làm kẻ lữ hành đơn độc.
-Hãy cùng
anh đến đó.
Thụy nói với cô gái vừa hình
dung về khung cảnh nhà ga, trong buổi
chiều muộn màng biết bao nhiêu hành khách mong đợi có chuyến tàu đến,
riêng một
mình cô gái đứng lẻ loi bên cạnh tháp nước, đôi mắt đăm đăm nhìn về
ngôi nhà trống
bỏ hoang. Hình ảnh Liên An áo trắng, tấm lòng buổi chiều nhớ hương gió
mà nỗi
buồn dờn dợn một màu quê.
-Anh có ra
thăm Quảng Trị không ?
-Có, anh về
được ít ngày. Thời trước, nhà anh ở ngay ga Quảng trị. Nhà ở, nhìn sang
bên kia
con đường ray thấy bóng cái tháp nước.
-Em có linh
cảm, anh hay đi xa nhà, nhưng luôn ước mong có được ngày trở về.
-Có được
ngày trở về là cả sự bao dung.
Nhà ga yên lặng, trống vắng. Hai người
đã dừng bước, họ đứng bên nhau nhìn qua bãi đất trống. Bên cạnh hàng
rào kẽm
gai có một hồ nước. Căn nhà lợp mái tôn, sân trước rộng, ở đằng sau, có
một con
đường nhỏ dẫn ra tới bến đò.
-Em ở căn
nhà đó đã mười năm.
-Ngày anh
mong gặp lại em, thời gian có đổi khác đi nhiều không ?
-Không, em
không biết.
Thụy cầm bàn tay Liên An, rồi nói:
-Ngày mai
anh không chỉ xa thành phố này thôi, mà còn xa thêm em nữa.
-Em cám ơn
anh.
-Anh cám ơn
em cho anh ngày gặp gỡ.
-Em về một
mình, nghe.
-Em về một
mình.
Liên An bước đi không ngoái đầu nhìn
lại. Thụy bỗng nghĩ, mình mới là người lữ khách đang trông đợi một
chuyến tàu .
II
Lúc nghe tiếng động rất khẽ của chiếc
ghế, người mẹ thức giấc. Giọng bình thường, bà hỏi:
-Đi sớm vậy
con ?
Thụy không đáp lời, anh chợt ngửi
mùi vị sương muối từ ngoài vườn tan vào, rồi lặng yên ngồi xuống bên
giường mẹ.
Trên chiếc gối, mái tóc đã bạc của mẹ anh xõa rộng, lúc này, anh vẫn
không biết
mình muốn nói điều gì.
-Sang năm,
con về thăm nhà ?
-Dạ, chưa biết.
-Sao con
không xin về ngoài này cho gần nhà ?
Thụy nắm lấy bàn tay của mẹ. Vừa đủ
để cho mẹ nghe tiếng, Thụy nói:
-Ở trong đó
con có điều kiện tìm kiếm thêm việc làm.
-Con ở nhà
thuê ?
-Không, ở trại
lính.
-Thằng
Nguyên có đem cô bạn gái về.
-Con biết.
-Con đã gặp
chưa ?
-Dạ chưa.
-Cô Nga dễ
thương lắm, ở Đà Nẵng.
-Dạ.
-Với con,
thì sao . Đã quen ai chưa ?
-Chưa.
-Ba mẹ rất
mong các con có gia đình.
-Nhưng vẫn
còn lâu, mẹ ạ.
Trong bóng tối, tiếng chuyện trò vẫn
gây một cảm giác xa vắng lẫn vào trong
sương muối. Thụy chợt
nghĩ đến
người cha. Hình như trong đời mình, ba anh luôn sống xa gia đình nhưng
mỗi khi
có được dịp trở về, lòng ông thấy rất vui, rồi bao nhiêu hạnh phúc của
mình lại
chỉ muốn được để dành hết cho người vợ.
-Thôi, mẹ nằm
nghỉ đi.
Thụy nhấc bổng chiếc ghế đem cất. Với
túi xách nhỏ trên tay cùng vai đeo ba lô, anh bước ra ngoài rồi cẩn
thận đóng
cánh cửa.
Có tiếng Phương cất lên gọi. Vừa mới
dời bước, Thụy ngoái đầu nhìn lại rồi vẫy
tay tạm biệt cô em gái.
Nhà gia đình Thụy thuê ở nằm khuất
sau lưng vườn, có lối đi riêng bằng đường nhỏ, và trong lúc trời hẳn
còn tối Thụy
đi bộ ra phía cổng để gặp con đường chính. Thụy dừng bước ít giây vì mắt anh bị chói lóa bởi ánh đèn điện hắt
xuống.
Từ con đường ngang trước mặt, anh lại đi bộ lên phía nhà ga nơi có trạm
ngừng
xe buýt. Một mình, khí lạnh ban mai làm anh cảm thấy thật dễ chịu. Mùa
hè như
đã xa, và mùa thu là một nơi nào đó.
Bên ngoài sân ga, đèn mở sáng suốt
đêm. Chỉ có một chiếc xe buýt đậu chờ khách. Khi vượt qua khỏi cây cầu
Thụy
trông thấy hai quán hàng mở cửa bán cà phê. Đèn trong quán hắt ra một
vũng nhỏ,
và anh đến vừa kịp lúc xe sắp chạy.
Người tài xế dụi tắt điếu thuốc, tiếng
máy xe nổ khô khan, rồi nặng nề lăn bánh. Ra khỏi ga, chiếc xe vượt cây
cầu nằm
trên con đường về trung tâm thành phố. Những hàng cây phượng đẫm ướt qua sương sớm, ánh
đèn điện cứ lùi dần khi xe đang chạy. Thụy
nhìn qua công viên thấy sương mù trên sông, thấy những chấm đèn sáng
của mấy
con thuyền neo đậu, còn bên xa kia kinh thành vẫn đang mờ tối, chập
chùng những
cái bóng di chuyển trên bức tường gạch.
Chỉ hơn mười phút từ nhà ga đến cầu
Mới , rồi xe qua phố Trần Hưng Đạo để vào bến chính nằm bên trái khu
chợ.
Xe ngừng, hành khách xuống. Không
khí buổi sáng sớm ở bến xe yên lặng, ấm áp. Những người đạp xích lô
đang chuyện
trò, mấy người buôn bán còn đứng bên cạnh những gánh hàng để chờ xe đổi
chuyến.
Quán cà phê mở cửa sớm, trong quán, đông khách ngồi. Thụy ghé vào quán,
ngồi
bàn trống ở ngoài gọi một ly cà phê và thêm chiếc bánh
pâté chaud. Cà phê đã pha sẵn, rất nóng,
Thụy uống một hớp nhỏ rồi đốt điếu thuốc. Thụy sẽ ăn chiếc bánh, và
uống cà phê
sau khi hút xong điếu thuốc. Buổi sáng sớm, trời thấm lạnh, lúc này sắp
sang
thu. Mùa hè mong muốn đi xa, còn lại thành phố này, bóng dáng con tàu,
những
chiếc ghế trống và người lính đang ngồi đây với bao nỗi niềm riêng của
mình, Thụy
chợt nghĩ đến hai hình ảnh thiếu nữ, một cô gái nhỏ bé áo trắng, và một
cô mang
hình bóng áo tím như đang lớn dậy giữa cuộc đời, hai hình ảnh đó anh có
thể
mang theo với sự trìu mến ân cần, hay tốt hơn, hãy nên cứ gởi lại cho
thành phố
để nhớ ngày về.
-Con đã quen
ai chưa ?
-Dạ chưa.
Ly cà phê đậm bỗng làm Thụy nhớ đến
Huê. Chiều hôm ấy trời đổ xuống trận mưa lớn.
Căn phòng ở tầng lầu hai bật đèn sáng. Trên chiếu bạc, mọi người hồi
hộp theo
dõi cô Huệ làm cái đang bắt bài. Rút cây thứ tư, cô nhẩm
cộng số nút trên từng lá, ra vẻ ngập ngừng,
suy nghĩ. Lành cười nói:
-Còn bài non
đó cô Thi.
Cô Huệ không đáp lời mà chỉ nhìn
qua mỗi tụ bài của các nhà con đang để úp. Trong lúc chờ , Thụy đếm
tiền sắp lại
ngay ngắn. Trời mưa lớn, anh nghe tiếng mưa và cứ tưởng mình đang ngóng
đợi,
trông chờ ai.
-Nhà nào bù,
bỏ ra.
Cô Huệ đã rút thêm cây bài nữa
mà Thụy chẳng hay. Huê reo lên:
-Em hên quá.
Rồi tiếp theo là Lành nở nụ cười
mãn nguyện. Cô Huệ bắt lá 6 chót, dư một nút, nếu là 5 hay 4 là cô ngũ
linh, ăn
toàn làng. Từ trái sang phải, theo thứ tự, cô Huệ lật bài xem xét lại
và chung
tiền. Bài của Thụy hai con tây, quá chắc ăn. Từ trưa đến giờ anh thật
đỏ, trúng
luôn nhưng vì không đặt lớn nên ăn không
nhiều lắm.
Hết cái, cô Huệ đưa bộ bài qua
cho anh Thái. Với bàn tay mau lẹ anh Thái xóc bài, rồi chẻ bài, trước
khi mở hội
đã lên tiếng :
-Cho đặt
líp.
Thụy
nghỉ chơi, đứng dậy nhường cho Phụng
vào chiếu. Ra lối cầu thang, Thụy bước nhanh chân xuống nhà. Nhà dưới
vắng lặng,
mọi người đang ở trên lầu chơi bài thành hai hội, một hội xì dách, một
hội tứ sắc.
Ở hội tứ sắc , người lớn chơi và luôn có tay dì Hồng mẹ của Thúy. Thúy
cũng
đang ngồi bên chiếu bạc, say mê.
Thụy đi xuống bếp, mở chạn tủ
lấy gói cà phê và chiếc phin ra. Thụy cho cà phê vào phin vừa đúng hai
muỗng đầy.
Xong, Thụy để phin lên cái ly nhỏ rồi
xách chiếc ấm ra bể lấy nước. Thụy đổ nước đầy ấm, đem vào đặt lên lò ,
tay sắp những thanh củi gác chồng lên nhau
xong bật
diêm mồi que đóm cho lèn vào dưới lớp củi. Đóm bằng gỗ thông có chất
dầu nên
mau bắt lửa, cháy bùng thật nhanh.
Gian bếp nằm riêng biệt, không
rộng nhưng ngăn nắp. Trên cái bàn gỗ cũ kỹ, phía đầu để một rổ chén
bát, và
ngay bên trên là ống tròn bằng nhôm móc vào sợi thép cứng để bỏ đũa.
Chiếc bàn
dựa sát tường phên với nhà bên cạnh, có ô cửa lưới ăn thông. Vào giờ
đứng bếp,
hai nhà cùng nấu nướng, vừa chuyện trò với nhau. Nhà dì
Hồng và cô Tư rất thân thiện. Bên cô Tư đông
con cái đến mười người. Cô chỉ có hai cậu con trai, còn tất cả là gái,
từ mấy
chị lớn đến các cô nhỏ người nào cũng thùy mị, dễ mến trong cách trò
chuyện hay
vui đùa. Cô Tư ở nhà nội trợ, còn thầy đang làm Hiệu trưởng trường tiểu
học Cầu
Kho.
Thụy đứng cạnh bếp lò nhìn những ngọn
lửa cháy sáng đều. Trời mưa lớn, bỗng anh thích thú với ý nghĩ mình sẽ
được thưởng
thức một ly cà phê thơm, vừa đậm ngon. Mọi thứ, đều đã có sẵn. Thụy để tay lên túi áo sờ nhẹ gói thuốc, thấy
nó còn đầy. Chút nữa, pha xong cà phê, anh uống một ngụm cho ngon miệng
rồi sẽ
đốt điếu thuốc.
Bất giác Thụy mỉm cười một mình, liền
ngay đó Huê xuất hiện. Thụy hỏi:
-Sao em nghỉ,
không chơi nữa ?
-Em thua, hết
tiền rồi.
-Có cần, anh
cho mượn.
-Không, em
cũng không thích ngồi lâu.
Thụy ngước mắt nhìn khuôn mặt Huê.
Thụy thấy cái dáng vẻ Huê đúng là một thiếu nữ đẹp. Huê mặc bộ quần áo
thường
có chấm bông đỏ, khuôn mặt trái soan rất hợp với mái tóc cắt ngắn. Và
nét đẹp của
Huê rất là Tây phương. Thúy, con dì Hồng cũng dịu dàng nhưng không đẹp bằng Huê. Trong
ngõ hẻm từ dãy nhà đầu đến cuối rất đông các cô gái còn đi học, nhưng
không một
cô nào đẹp sánh bằng Huê cả. Ba mẹ
cô
gái người Bắc, nhưng mấy anh em đều nói theo tiếng Nam. Huê có hai anh
chị học
Đại Học. Vào ngày thường, Huê hay mang gạo qua gởi nhà dì Hồng quen gọi
là cô
Ba để nhờ nấu cơm. Thụy đã để ý đến Huê, và bắt chuyện làm quen sớm hơn
ai hết,
ngay sau tuần lễ đầu anh đến ở nhà dì Hồng. Huê cũng mến anh, cô rất
thường hay
qua nhà Thúy và lúc gặp Thụy cô gái chuyện trò rất tự nhiên. Huê học
trường Gia
Long, cô học khá, là một thiếu nữ rất ghiền xem phim. Thụy cũng mê phim
ảnh,
các nam nữ tài tử anh đều nhớ hết tên, và những phim kể chuyện tình,
lúc xem,
anh còn nhớ rõ từng chi tiết. Thế nhưng, Thụy không có được sự kiên
nhẫn, chăm
chỉ với sách đèn. Thụy đã bỏ học, và rồi đây anh sẽ
xa cách với bao nhiêu kỷ niệm buồn câm nín
trong lòng mình.
-Anh đun nước
pha cà phê ?
Chỉ
trong ít giây, hình ảnh Huê kéo Thụy trở
về gần gũi bên nàng. Thụy mỉm cười, nói
giọng tự nhiên:
-Trời lạnh,
không có gì thú bằng uống cà phê.
-Anh có tâm
hồn nghệ sĩ.
-Một chút
thôi. Em uống cà phê nghe, uống với anh cho vui.
-Không, em
không uống được cà phê.
Thụy nấu một ấm đầy cho cả nhà
dùng luôn nên đứng chờ lâu. Giờ thì nước sôi đã reo, vừa bốc hơi. Cả
hai người
cùng lặng im để nghe tiếng nước reo, bên ngoài mưa càng lớn.
Thụy nhấc ấm nước, lửa trong bếp
dần tàn ngọn. Huê bước tới gần nhìn anh
pha cà phê. Sau khi rưới cho thấm ướt cà phê một chút, Thụy đổ nước sôi
đầy
phin, xong đậy nắp. Cà phê rớt xuống chiếc ly trong từng giọt đậm, thật
đẹp mắt
làm Huê thích thú. Huê đứng ngắm những giọt cà phê chảy, cô chợt nghĩ,
nước mưa
thì vui như tiếng nói hay tiếng cười, còn từng giọt cà phê là màu đen
đậm đặc,
nó luôn mang mang nỗi buồn.
-Em lên chơi
bài tiếp đi.
-Bộ anh đãng
trí rồi sao ?
-Không. Anh
sẽ đưa tiền cho em lên chơi tiếp. Ăn thì mình cưa đôi.
-Còn thua,
sao ?
-Thì thôi.
-Thôi, hôm
nay em đen lắm. Anh ăn nhiều phải không ?
-Anh được
hơn sáu trăm.
-Anh ăn non
rồi đứng dậy.
-Anh chơi
cho vui thôi. Ít ngày nữa, anh xa Sài Gòn .
-Anh đi đâu
vậy ?
Thụy và Huê bỗng đưa mắt nhìn
nhau. Thụy nói, giọng nhỏ đi:
-Ngày mai
anh xa em đó, biết không ?
Huê hỏi:
-Nhưng mà
anh đi đâu ?
-Anh đi Nha
Trang. Anh vào lính rồi.
-Anh không học
nữa sao ?
-Không.
Thụy đáp, giọng nói khô vừa tan
trong tiếng hạt mưa lớn rớt xuống mái tôn. Rồi phút giây ấy lặng im,
vừa dửng
dưng, mỗi người chợt theo đuổi một ý nghĩ. Thụy vừa thoáng thấy vẻ buồn
trên cặp
mắt của Huê. Giữa anh và cô gái, không phải hai người có đã có nỗi rung
động vì
yêu nhau, mà đúng ra, rất mến nhau một cách thân tình như anh em. Lúc
nãy chơi
bài ở trên lầu Huê ngồi cạnh Thụy , có lúc nàng hơi nghiêng đầu dựa vai
Thụy, mắt
chăm chú xem những cây bài Thụy bắt lên. Và lúc ấy, Thụy nhìn thấy
người em dễ
thương lạ.
Cà phê ngừng chảy. Thụy nhấc chiếc phin ra khỏi ly,
múc mấy muỗng nhỏ đường
cho vào cà phê khuấy nhẹ. Cà phê pha xong dậy lên mùi thơm làm Huê thấy
thèm,
và nàng cũng thấy cái dáng vẻ nghệ sĩ của người con trai qua mái tóc
quăn dợn
sóng, thật tự nhiên.
Thụy cầm ly cà phê đưa mời :
-Em uống thử
đi.
Rất chậm từng tiếng, Huê
đáp:
-Đã bảo, em
không uống được mà.
-Em nói giọng
Bắc hay lắm.
-Vâng, anh.
Hai người nhìn nhau cười.
Trời vẫn mưa, mù mịt. Tiếng mưa lớn, nước dội ào ào xuống mái tôn. Thụy
bỗng nhớ
đến một câu thơ cổ: Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách.
Trong gian bếp, có mấy chiếc
ghế con. Thụy để cà phê lại trên bàn, lấy một chiếc ghế nhỏ đưa cho Huê cầm rồi hai người dời ra gần chỗ sáng.
-Mưa lớn
quá.
-Có mưa, mới
giữ được em ngồi đây, Thụy nói.
Thụy uống vài hớp nhỏ,
xong châm điếu thuốc. Huê
cười trong mắt, nàng nhìn Thụy uống cà phê, hút thuốc tỏ ra thích thú.
Thụy nhắc lại câu nói lúc nãy:
-Có mưa, mới
giữ được em ngồi đây với anh.
-Tại sao anh
bỏ học đi lính ?
Đôi mắt Thụy bỗng trở nên
trơ trọi sau câu nói của Huê. Và, anh bỗng nhớ đến Thúy Hà , người bạn
gái ở
nơi một thành phố xa xôi.
-Tuần rồi,
em có đi xem phim không ?
-Có. Phim
Les jeunes loups, anh coi chưa ?
-Có, phim
hay lắm.
-Em lặng người
đi lúc nghe tiếng kèn thật não nuột.
-Em thật
giàu cảm xúc.
-Còn anh,
lúc nào cũng ra vẻ nghệ sĩ.
-Anh cũng có
một vài điểm giống em.
Thụy nói xong, Huê không
giãi bày gì cả. Cơn mưa bị chiều gió thổi tạt, một giọt mưa lớn rớt
xuống vai
áo của Huê. Thụy bỗng cầm lấy tay Huê lúc cô gái đứng dậy dịch chỗ ngồi
tránh
mưa. Rồi Thụy buông tay ra lúc Huê ngồi
xuống. Nhìn gương mặt đẹp của cô gái, Thụy nói:
-Anh có một
người bạn gái rất thân.
Huê hỏi:
-Anh sẽ đi
xa bao lâu ?
-Chừng ba
tháng.
-Rồi anh trở
về lại đây.
-Chưa biết nữa,
nhưng anh rất mong về. Anh rất nhớ Sài Gòn, anh nghĩ đây là thành phố
tuổi trẻ
của mình.
- Anh sẽ làm
phi công ?
-Không, anh
đi chuyên viên. Có thể sau này anh trở thành thợ máy.
-Làm thợ máy
cho phi cơ ?
-Khi nào phi
cơ hư hỏng, trở ngại đem vào ụ thì chuyên viên coi sóc sửa chữa. Giống
như xe
hư, mình sửa vậy.
Thụy giải thích cho Huê
bằng những
điều nghe được trong những ngày qua khi anh làm đơn tình nguyện vào
Không quân,
và những ngày đi khám sức khoẻ anh hay chuyện trò với những người lính
cũ, họ
đã cho anh biết một số ngành nghề trong binh chủng này.
Huê
hẳn còn là một cô gái học sinh. Nàng
chưa quen ai cả, và nàng cũng đã biết anh để ý tới nàng ngay từ những
ngày đầu
mới gặp.
-Anh học ở
quân trường nào ?
-Nha Trang
. Em đến thành phố đó chưa ?
-Chưa.
-Em có thích
những thành phố ở miền biển ?
-Rất thích.
Nhưng tại sao anh không làm phi công ?
Thụy bỗng nhìn lâu vào mắt
Huê. Anh thấy Huê đúng là hình ảnh của cô Phượng trong tiểu thuyết Đời
Phi Công
của nhà văn Toàn Phong. Thụy đã đọc cuốn đó một đôi lần, anh thật mến
yêu cô
Phượng là hình ảnh đẹp trong văn chương đem ra giới thiệu với người
đời. Và rồi,
anh cũng nghĩ mình chọn binh chủng Không
Quân vì yêu cuốn sách, vì bóng hình cô gái đó. Giờ đây, Huê chính là cô
Phượng
đang ngồi trước mặt anh. Nàng thật là giống, giống lắm, với mái tóc cắt
ngắn
bao quanh gương mặt đầy đặn, với nỗi buồn quá nhẹ chỉ để làm đẹp cặp
mắt khi
nàng cảm thấy vui, hạnh phúc. Nhưng thật buồn thay, anh không phải là
phi công.
Thụy nói thầm với Huê , anh không phải
là thế, nhưng anh yêu em.
Những ngày cuối sắp rời Sài Gòn,
giây phút nào nỗi buồn cũng cứ buông trôi , chấp chới trong cõi lòng
khiến Thụy
có cảm giác miệng lưỡi cứ đầy ứ những vị chua, vừa đắng. Mỗi ngày, Thụy
hầu như
ngồi trên các chuyến xe buýt. Một hôm ấy,
Thụy tìm đến Lăng. Vừa thấy bóng Thụy xuất hiện lối hiên ngoài, Lăng
vội ngừng
viết, gấp sách. Thụy bước vào, với vẻ mặt ủ rũ . Lăng nhìn Thụy lo
ngại, định
lên tiếng hỏi nhưng vừa ngồi xuống ghế,
Thụy nói ngay.
-Tôi sắp đi
Nha Trang.
-Anh đi có
việc gì ?
-Tôi nhập
ngũ, vào binh chủng Không Quân.
Lăng hơi ngạc nhiên, và những
ý tưởng Lăng muốn nói bỗng nằm lại trong cặp mắt mình với một nỗi xốn
xang, tuy
nhiên, nếu có nói ra cũng sẽ không phù hợp với những điều Thụy đang
nghĩ. Thụy
tiếp lời:
-Tôi đi
chuyên viên, lính thường thôi.
-Chừng nào
anh đi ?
-Hai ngày nữa.
Hai người im lặng. Thụy nhìn
vào chồng sách, cầm một cuốn sách Luật xem qua rồi gấp lại. Lăng hỏi:
-Anh không đợi
đến hè, thi cử xong đã.
-Thôi, tự
nhiên tôi chán chuyện học hành.
-Anh đi, có
bạn nào quen không ?
-Có, bạn học
ở Đà Nẵng. Bạn thân, nó muốn tôi đi cùng.
Lăng không nói gì, nhưng rất
hiểu tâm trạng của Thụy. Từ ngày vào Sài Gòn, Thụy sống như một kẻ lạc
lõng,
chênh vênh không có điểm tựa. Những ngày đầu háo hức trước một thành
phố có đời
sống xô bồ, sôi nổi, giờ đây đã lắng dịu , buồn bã trong lòng anh. Vào
đây, Thụy
cố gắng tìm kiếm việc làm, nhưng nó không ổn định.
-Anh đợi thi
xong đã.
-Thôi, tôi
không thích học nữa.
Thụy vẫn muốn giấu, không cho
Lăng biết đơn xin hoãn dịch của anh đã bị
từ chối. Buổi chiều thật yên tĩnh. Lăng xếp sách vở cho vào kệ xong
thay quần
áo, mở hòm rương lấy ít tiền bỏ túi rủ Thụy đi chơi.
Hai người rời nhà đi ra trạm
xe buýt. Vừa đi, Thụy bắt đầu câu chuyện nói với Lăng. Bằng một giọng
cố gắng
giữ niềm tự tin, Thụy nói cho Lăng biết anh đã làm đơn xin nhập Không
Quân từ một
tháng nay. Mỗi ngày, Thụy đều có mặt ở Bộ
Tư Lệnh Không Quân để bổ túc hồ sơ và khám sức khoẻ. Kết quả, anh đủ
điều kiện
để theo học khoá chuyên viên. Bên Không Quân khác với Bộ Binh, nói là
đi lính,
nhưng sau mấy tháng học căn bản quân sự không phải ra ngoài chiến trận
mà sau
đó, được theo học ngành nghề, những ngành như không lưu, kiểm báo, hoặc
cơ khí
, rất dễ có cơ hội được gởi đi nước ngoài học thêm về chuyên môn.
Lúc Thụy ngừng nói, Lăng hỏi:
-Anh đi học
chừng bao lâu ?
-Ba tháng.
-Rồi trở về
Sài Gòn.
-Không biết
nữa, ra khỏi quân trường là đi đơn vị.
-Mình có chắc
được đi học ngành không ?
-Ở đơn vị một
thời gian, sau đó họ sẽ cho đi học.
Hai người đứng chờ bên trạm xe
buýt. Không biết nói với nhau gì thêm, Thụy nhìn ra con đường, lúc này
trên
gương mặt anh không giấu được cái vẻ còn ngơ ngác của mình. Chuyến xe
buýt tới
trạm ngừng. Xe đông khách, Thụy và
Lăng đứng ở cạnh lối cửa lên xuống. Và,
chuyến xe chạy đi ngay sau ít phút ngừng, rồi cứ ghé vào mỗi trạm là
thả khách
xuống rồi đón khách lên.
Xe vào bến chính ở trước chợ Bến
Thành trong cảnh tượng buổi chiều thật huyên náo giữa đô thị. Xuống xe,
Thụy hỏi
Lăng:
-Mình đi đâu
?
-Đi lòng
vòng chơi phố một lúc.
Thụy bước theo Lăng, trong đầu
óc đôi lúc còn nghĩ vẩn vơ. Ngang qua những tiệm tạp hoá, hiệu sách và
các quán
dọc vỉa hè, Thụy và Lăng chỉ đưa mắt nhìn thoáng. Bất chợt Lăng hỏi:
-Anh cần mua
gì không ?
-Không.
-Anh cứ mua
đi, có tiền đây .
-Thôi, chẳng
có gì cần mang theo.
Thụy và Lăng cứ đi dọc theo vỉa
hè phố Lê Lợi mắt lướt nhìn, và trong ý nghĩ như cố gắng gợi nhớ ra một
chuyện
gì quan trọng. Thụy tự dưng thấy mình xúc động trước hình ảnh một ngày
cuối ở
Sài Gòn. Thụy nhìn quang cảnh phố có cảm giác xa lạ hơn bao giờ cả, và
dù cho
anh đã vào đây ở được sáu tháng, nhưng anh vẫn không thể coi đây là
thành phố
thân thuộc với mình.
Không mua sắm gì, hai người
ghé vào quán Mai Hương ngồi nghỉ chân uống nước, sau đó, sẽ đến rạp hát
Lê Lợi
xem nếu có phim hay thì vào coi, không cả hai xuống nhà dì Hồng.
Rạp Lê Lợi luôn chiếu thường
trực, có nhiều phim hay và giá vé rất rẻ. Thụy thường xem phim ở rạp Lê
Lợi. Chỉ
cần có 10 đồng trong túi là mua được một ly trái cây xay, một lát bánh
mì nướng
và một vé xem phim thường trực.
Rạp đang chiếu phim The
Sun Also Rises. Trong
lúc Lăng đến quầy mua vé, Thụy ghé vào quán nước mua bánh mì và nước
giải khát
mang vào rạp để vừa xem vừa ăn.
Xuất hát trước vãn, giờ đang
đón khách cho xuất hát mới. Dòng người theo nhau tiến vào cửa. Aùnh đèn
và hơi
mát của máy lạnh làm cho Thụy cảm thấy dễ chịu khi bước vào trong rạp.
Hai người
ngồi ở bên bìa hàng ghế giữa. Lúc này, đang giờ nghỉ, phim chưa chiếu
nhưng có
phần nhạc đệm cho khán giả vừa nghe vừa giải lao.
-Đến hè,
Lăng có về Huế không ?
-Về, nhưng
cũng đợi kết quả thi xong mới về.
Bỗng dưng trong lòng Thụy khơi dậy một
niềm bâng khuâng. Và anh đã nhớ ra từ ngày ấy, về lại hôm nay, vào
những phút
giây sắp lên đường Thụy có cảm tưởng đời anh luôn là một kẻ cứ trông
ngóng, đợi
chờ .
Trên con sông, những lớp sương mù mỏng
tan dần. Thụy chỉ ngồi ở quán cà phê chừng hai mươi
phút. Khi đứng dậy, anh đeo vai ba lô, tay cầm
túi xách đến quầy trả tiền và mua thêm một gói thuốc bọc đi đường. Hàng
xe buýt
đậu gần nhau đối diện với quán nước. Một khoảng sân rộng giữa bến dùng để cho xe ra vào hay trở đầu. Xe đi
Phú Bài nằm cuối hết, gần bờ sông. Khi thằng lơ xe dắt Thụy đến, có thêm vài người khách nữa cùng lên. Xe
vẫn đợi khách, chưa tới giờ chạy. Thụy không ngồi dãy ghế trước mà chọn
ở đằng
sau, gần lối cửa lên xuống. Ở phía sau, cảnh vật cho bạn nhìn thấy rõ
và lâu
hơn. Khi đặt chiếc ba lô xuống cạnh chân , Thụy cảm thấy dễ chịu. Thụy
lấy làm
vui khi nghĩ đến trưa nay được có mặt ở Sài Gòn. Sài Gòn, thành phố của
mùa
mưa. Rất có thể buổi chiều khi cơn mưa tới, anh đang ngồi trong rạp
hát. Thụy
nhớ lại cuốn phim The sun also rises, bóng dáng Thúy Hà , hình ảnh nữ
tài tử Ava Gadner. Và, đến tối, anh tìm
đến quán cà
phê quen thuộc, nơi ấy, có bóng dáng người thiếu phụ trẻ đẹp với vẻ
nghiêm
trang, và trên gương mặt nàng luôn phác
họa những nét buồn rất dịu dàng, ngây thơ. Nhưng nếu trời không mưa,
bạn sẽ làm
gì ? Thụy đặt cho mình một câu hỏi, rồi
tự nghĩ nếu Sài Gòn không mưa, thì lúc anh về tới, trời đã quá trưa,
hoặc bắt đầu
vào buổi chiều với không khí dịu mát, tươi vui, nhiều sắc màu của nắng
và của
những tà áo tung bay trên đường phố, chừng đó, cũng đủ gây cho anh niềm
vui
ngày trở lại Sài Gòn, với buổi chiều
lang thang trên vỉa hè dọc theo các dãy phố buôn bán sách báo cũ. Anh
cũng cầu
mong gặp Huê , giữa anh và nàng luôn hòa hợp nhau trong một tâm hồn rất
mến yêu
văn nghệ và cuộc sống.
Từ băng
ghế sau nhìn qua con sông, Thụy trông thấy cây cầu và dãy phố bên kia
với những
mái nhà im vắng và những hàng cây cao, rất thẳng đều. Thụy nhận ra Huế
trong
lúc này, nó không thay đổi gì nhiều đối với người lính từ nơi xa mới
trở về. Nhưng có Huế ,
thì anh
có thể nói ra được với bạn bè về
những ngày khó khăn đầu tiên của tuổi trẻ. Từ ngày đó, anh
luôn cảm thấy mình đơn độc, sự dừng bước một
nơi chốn chẳng bao giờ lâu.
-Ủa, đi đâu
đây ?
Thụy giật mình, nhận ra Hạnh. Ánh lửa
que diêm sáng lên khi Thụy đang đốt điếu thuốc.
-Tao mới về
nghỉ phép.
Thụy đưa gói thuốc cho Hạnh.
-Mầy còn nhớ
tao không ?
-Nhớ chứ. Hạnh,
B1.
-Đúng rồi.
Hạnh mặc đồ lính mới toanh, cũng
mang ba lô túi xách như Thụy. Hạnh ngồi xuống bên cạnh , châm xong điếu
thuốc
Thụy mời, hắn hỏi:
-Mày đi đâu
?
-Về lại Sài
Gòn .
-Đơn vị ở
trong đó ?
-Ờ, Thụy
đáp.
Hạnh nhìn qua Thụy trong vài giây.
-Sao không
đeo lon lá gì cả ?
-Lính thường
thôi, không được Sĩ quan như bạn đâu.
Hạnh chỉ cười, và Thụy thấy cặp lon
Hạnh đeo sáng lên.
-Mầy làm việc
ở Tổng Tham Mưu ?
-Không, ở
căn cứ Tân Sơn Nhất.
-Không quân.
-Đúng.
-Mẹ, anh chọn
đi lính cậu để phè phỡn.
-Vậy thôi,
còn bạn chừng nào lên Thiếu úy.
-Sáu tháng nữa.
-Đơn vị đóng
ở đâu ?
-Pleiku.
-Quân đoàn
II.
-Đúng.
-Piston của
bạn cũng mạnh lắm.
-Ông anh tao
làm Phòng 4 Quân đoàn.
-Băng của tướng
Toàn.
-Sao mày hay
vậy ?
-Tao là
lính, nhưng dân nhà báo.
Hạnh cười lớn, bàn tay nắm vai Thụy.
Xe rời bến lúc nào không hay. Hai đứa
cùng ngừng câu chuyện trông ra đường. Trên phố chính Trần Hưng Đạo xe
còn chạy
chậm, để rồi trong ý nghĩ riêng mình, mỗi hình ảnh người lính trở về
phép là để
ấp ủ lấy một vài bóng dáng người thân, sau đó là tâm trạng sắp sửa rời
thành phố
đi đến nơi xa. Nơi nào xa, người lính cũng nghĩ mình sẽ đối diện với
chiến
tranh.
Xe chạy nhanh khi ra khỏi thành phố.
Thụy và Hạnh trở lại câu chuyện, và cũng có lúc ngừng, như thể phút
giây ấy là sự
ràng buộc, mơ hồ vừa thân thiết. Trên quốc lộ, gió thổi lướt qua cánh
đồng tìm
đến các ngôi làng, cảnh ruộng vườn, nhà ở, ánh đèn trong sự chuyển động
xôn xao
và sẽ trở nên bình yên khi trời sáng. Có tiếng súng nổ lẻ tẻ, và Thụy
chợt
trông thấy vài bóng dáng người băng qua núi.
Thụy hỏi Hạnh:
-Về nghỉ
phép được bao lâu ?
-Mười ngày.
Thụy nhớ lại rõ những tháng năm của
thời niên thiếu, trong số bạn học, có Hạnh. Hạnh cũng đã đi lính, nhưng
không
thay đổi nhiều, vóc dáng vẫn nhỏ bé, giọng nói chậm rãi, thân tình.
Trời rạng sáng và có mưa. Xe buýt
không vào phi trường, đậu ngoài đường lộ và chỉ có mình Thụy và Hạnh
xuống xe.
Khi hai người lính đã xuống, xe chạy tiếp. Trời mưa nhẹ hạt. Từ đường
ngoài vào
trạm tiếp liên gần 200 mét, hai người lính bước đi nhanh. Vừa lo mưa
nặng hạt,
nhưng trong mắt, trong lòng anh nào cũng thấy vui, vừa thích làm dáng.
-Ở Không
quân, mầy cấp bậc gì ?
-Lính trơn.
-Vậy thôi .
-Ờ, yên thân
ở thành phố. Nhưng rồi cũng đi học chuyên môn.
-Mầy cũng phải
xin học khóa chuyên môn.
-Đang chờ.
Hai người dừng lại ngoài mái hiên lấy
khăn lau mặt. Bên trong, đã có một số hành khách chờ chuyến bay. Kim
đồng hồ
trên tường mới 7 giờ kém 10. Sau khi coi lại bảng phi trình, Thụy hỏi
Hạnh:
-Mầy ăn uống
gì chưa ?
-Chưa.
-Còn sớm,
qua quán cà phê ngồi.
Tự nhiên, Thụy cảm thấy
mình lớn hơn Hạnh, và trong tình bạn
hai đứa rất muốn nói với nhau một đôi điều để có sự che chở. Thụy và
Hạnh cùng
ngồi xuống chiếc bàn ngoài. Quán cũng đông khách, có tiếng trò chuyện
của lính
tráng , nhưng không ai làm ồn. Cà phê, khói thuốc lan tỏa.
Hạnh kêu hủ tiếu và cà phê sữa. Thụy
không ăn sáng, chỉ uống cà phê, và anh vẫn thích cà phê đen bỏ chút bơ
hơn là
dùng với sữa.
Năm học đó, hai bạn cùng đậu vào Đệâ
Thất trường Nguyễn Hoàng. Mấy tháng đầu còn học ở trường nhà tranh gần
bến Hộ,
đến trước Tết Nguyên Đán chừng một tuần học sinh dọn về trường mới nằm
ở sân vận
động. Nơi đây, trường ốc, sân chơi rộng rãi, và học sinh có một ngày
vui liên
hoan tại lớp với các thầy cô trước khi được nghỉ mười ngày về ăn Tết
với gia
đình.
Đứa bé gái bưng chiếc khay ra đặt xuống
bàn thấp. Tô hủ tiếu và ly cà phê sữa cho Hạnh. Ly cà phê của Thụy đen
đậm, anh
cầm thìa nhỏ lấy đường trong hủ cho thêm
vào xong khuấy nhẹ.
Thụy uống cà phê, nhìn Hạnh đang ăn.
Ở ngoài sân, những đám bụi mưa bay trong gió sớm, mang cái vẻ buồn vắng
rất nhẹ
nhàng. Bỗng Hạnh hỏi:
-Mầy lên
Pleiku bao giờ chưa ?
-Chưa.
-Đó là thành
phố của lính.
-Đất của
Pleiku màu đỏ.
Thụy thấy người bạn ăn ngon. Trên
gương mặt còn thư sinh, hắn cũng là thứ
lính cậu, an nhàn như Thụy, hai đứa chẳng có gì hơn nhau ngoài cái lon
đeo trên
ve áo, nhưng với Hạnh tương lai có được
sự đợi chờ. Ngày ra quân trường đi đơn vị, Thụy may mắn được ở Sài Gòn,
đây là
thành phố anh dễ tìm kiếm thêm việc làm bằng nghề viết báo, vừa được
vui thích,
tự do.
Thụy cười nhìn bạn cũ, hỏi:
-Sao ?, vợ
con hay có bồ em nào chưa ?
-Chưa, nhưng
mầy yên chí.
-Em, Pleiku.
-Ờ, một em
làm cô giáo.
Hạnh tiếp tục ăn. Một lúc hắn hỏi:
-Có coi phim
The quiet American không ?
-Có.
Thụy được coi phim này ở rạp Châu
Tinh ngay trong tuần nghỉ phép đầu tiên.
Hạnh
lấy trong túi ba lô cuốn truyện bản tiếng Anh. Thụy cầm cuốn sách lật
xem qua
vài trang, nói:
-Tao có đọc
rồi, đọc qua bản dịch.
-Còn phim, mấy
thấy sao ?
-Xem cũng được,
không hay bằng truyện.
Trong lúc Hạnh còn ăn, Thụy nhớ nghĩ
đến Phượng. Phượng rất là thân thiết với tác giả, với Sài Gòn và có anh
nữa.
Anh yêu thích nhân vật Phượng. Anh thấy nàng đẹp khi xõa rộng mái tóc
xuống vai
áo. Và thuở ấy, thành phố này được gói ghém sự yêu thương trong lời đề
tặng ở
trang đầu của tác giả. Graham Green là một nhà văn người Anh, ông đã có
thời
gian sống lâu ở Việt Nam trong cuộc chiến tranh Pháp-Việt Minh. Nhà văn
Jules
Roy viết cuốn trận Điện Biên Phủ có nhắc đến tên ông. Và, trong cuốn
sách ấy,
hai người được nói đến nhiều nhất là tướng Navarre và tướng Võ nguyên
Giáp.
Ăn xong, Hạnh cầm ly cà phê sữa đưa
lên miệng uống. Hắn uống nhanh, cảm thấy thỏa mãn sau bữa ăn sáng no
bụng. Tô hủ
tiếu hắn gọi là tô lớn. Thụy hẳn còn ít cà phê chưa uống hết. Thụy uống
chậm và
đã đốt liền mấy điếu thuốc trong lúc Hạnh ăn , vừa chuyện trò. Hạnh
nghe Thụy
nói:
-Tao có nhiều
truyện dịch hay.
-Mầy nên tìm
nguyên tác mà đọc.
-Ngoại ngữ
tao không khá.
-Mầy cứ đọc
bừa, tự nó vỡ ra.
-Đọc truyện
Anh, Pháp phải có nhiều ngữ vựng.
-Nhưng chịu
khó đọc, cứ đọc đi, rồi nghĩa các câu chữ sẽ bật ra.
-Mầy xong
trên Đại học chưa ?
-Chưa, mới
được hai chứng chỉ.
-Bên nào.
-Văn khoa.
Tao cũng có được một chứng chỉ bên Luật.
-Có tính học
tiếp không ?
-Có chứ. Phải
cố cho xong.
Chỉ hai mươi phút ngồi ở quán mà thời
gian tưởng như lâu. Khi cả hai đứng lên, vừa lúc có một xe ca chở khách
tới và ở
văn phòng trạm tiếp liên thông báo giờ các chuyến bay cho hành khách.
Hầu hết
là lính tráng đi phép, đi công tác, có một số ít thường dân xin quá
giang. Tự
dưng, Thụy và Hạnh có cảm giác lạc lõng, vì sắp sửa chia tay. Có hai
tuần phép,
và đây là kỳ nghỉ phép đầu tiên từ ngày Thụy đi lính. Liên An nhỏ bé
thân
thương, nhìn đôi mắt An, anh nói với cô gái được một đôi điều về đời
lính và
hình ảnh người lính trong đời anh. Về Huế, thành phố này thật đầy ắp
những kỷ
niệm. Thụy có hai ngày ra Quảng Trị thăm làng quê bên nội. Thụy gặp vài
người bạn
cũ, các bạn anh không bị đi lính, đang dạy học. Khu Morin là khu Đại
học, ở khu
này có nhiều quán cà phê đông nam nữ sinh viên tụ tập tạo nên không khí
văn nghệ
thật đặc biệt dành cho lớp trí thức trẻ. Và, mỗi buổi chiều cũng có khá
đông
lính tráng đến, họ là lính thành phố và
một thời là sinh viên. Thực ra, Thụy rất muốn vào Đà Nẵng để thăm gia
đình Thúy
Hà nhưng chẳng hiểu sao anh lại không mong mỏi chuyến đi. Và rồi anh
nghĩ, khi
trở lại Sài Gòn anh sẽ nhận được một hai lá thư của nàng. Hay là, anh
đã cảm thấy
vương vấn hình ảnh của Thiên Nga vì trong
chuyện về cô gái và anh Nguyên nghe Phương kể thật
là vui, rất chân tình
.
Bên kia con đường, người lính trông
thấy cánh đồng, phía xa là ngôi làng và bóng núi. Sương mù làm mờ
khuất, trời
đang mưa nên cảnh vật trở nên hiu quạnh vắng vẻ, nhưng nó cũng đã tạo
cho bạn
có một vẻ đẹp xa vắng của thời gian. Bỗng nghe có tiếng còi tàu vọng,
một lúc
sau, đoàn tàu tới gần và chạy ngang qua với tốc độ bình thường. Thụy
nhìn đoàn
tàu, chỉ thấy có hai toa hành khách. Những toa xe khác nối nhau nhưng
cửa đóng
kín.
Hai người lính chia nhau điếu thuốc,
đốt que diêm châm lửa, và bắt tay nhau. Thụy đứng vào hàng đợi nhân
viên của trạm
hướng dẫn ra cổng. Có bốn chuyến bay sáng nay, mỗi chuyến cách nhau một
giờ.
Sau chuyến đầu Thụy đi Sài Gòn là tới chuyến
Pleiku của Hạnh.
-Đi nghe Hạnh.
-Ờ, mong gặp
lại.
Hành khách di chuyển. Khi ra ngoài
sân bay, họ cùng nhìn thấy một quang cảnh trống trải, hai chiếc phi cơ
đậu hai
nơi xa cách nhau, và cả đoàn đi theo viên Trung úy hướng dẫn đến chiếc
C130
đang chuyển hàng.
Hành khách dừng lại khi tới gần.
Viên Trung úy gặp trưởng phi cơ trình danh sách, một nhóm trong phi
hành đoàn đứng
dưới cánh bay lớn đang hút thuốc trò chuyện. Viên Đại úy Trưởng phi cơ
người tầm
thước, mặc đồ bay lam, đội nón lưỡi trai có gắn phù hiệu phi đoàn và ba
bông
mai.
Sự tình cờ làm Thụy chú
ý nhìn lên phía trước khi thấy bóng
một cô gái xuất hiện với chiếc áo dài trắng. Anh thấy mái tóc dài của
cô phủ
trên lưng áo. Cô có mái tóc đẹp, nhưng anh chưa trông thấy rõ khuôn mặt
cô. Huế-Sàigòn
xa cách gần hai giờ bay, và anh nghĩ, cô gái đang học ở Sài Gòn, những
ngày
tháng qua của mùa hè cô về thăm gia đình. Ngày về phép của những người
lính như
anh thì ngắn, còn cô gái, những ngày nghỉ được sống với gia đình lâu
hơn, luôn
luôn được nghe tiếng nói là nguồn vui của hạnh phúc. Nhưng chắc gì sang
năm,
khi mùa hè tới, cô sẽ rời xa Sài Gòn để về Huế. Thụy chợt vui, nghĩ
rằng, mỗi
cô gái thường chọn các thành phố thích hợp với thời tiết trong tâm hồn
mình. Và
riêng anh, cũng có lúc thầm nghĩ cuộc đời như một bài hát.
Hành khách bước lên phi cơ sau khi
hàng hóa quân nhu chuyển xong hết. Không đợi lâu, đèn trong phi cơ bật
sáng và
rồi tiếng động cơ nổ. Thụy bắt đầu đếm từng khoảnh khắc thời gian khi
phi cơ
lăn bánh. Tới đầu phi đạo định hướng,
phi cơ dừng, trong một phút chờ đợi , phi công liên lạc với đài kiểm
soát không
lưu. Khi động cơ rùng lên, thân phi cơ rung chuyển , rồi với vận tốc
cất cánh
phi cơ lao đi bay lên bầu trời.
Sau hơn một tiếng mười lăm phút vượt
không gian, chuyến bay đưa hành khách tới Sài Gòn. Ngồi bên cửa nhìn
xuống lúc phi cơ hạ thấp cao độ chuẩn bị
đáp, dần dần
qua bóng những đám mây tản mác, Thụy nhớ lại những bóng hình ngọn núi,
sương
mù, biển và con đèo Hải Vân bên dưới đôi cánh phi cơ. Và, đó cũng là
lúc, anh
chợt nghĩ đến Thiên Nga, ước mong gặp nàng. Anh cũng không hiểu sao,
với kỳ
phép rộng thời gian mà anh không có được ít ngày vào Đà Nẵng thăm gia
đình Thúy
Hà, để lúc ấy, được gần gũi và nói với nàng những lời yêu thương.
III
Trung úy Nguyên cùng đội dân sự vụ
và y tế đi Phò Trạch. Ở đó một tuần, đoàn làm
công tác khám bệnh, đào giếng, gặt lúa và lợp nhà cho dân. Khi trở lại
đơn vị
Trung đoàn, cả toán được nghỉ xả hơi ít ngày. Nguyên về thăm nhà , tắm
rửa xong
anh vội vàng thay quần áo đón xe đò vào Đà Nẵng.
Tới thành phố giữa buổi chiều, nắng
hè đã dịu bớt. Thiên Nga có mặt ở nhà lúc Nguyên tới,
nàng hết sức ngạc nhiên nhưng lòng cũng thấy
vui khi gặp chàng. Hai người nhìn nhau có chút ngại ngùng, vừa cảm
thông.
Căn nhà Thiên Nga nằm ở khu phố
chính trông ra hai con đường Hùng Vương và Triệu Nữ Vương. Những lần
trước,
Nguyên được cô gái cho phép chàng theo chuyến xe khách từ Huế vào Đà
Nẵng khi
cô về thăm nhà, và họ ngồi chuyện trò ở quán nước một giờ khá lâu trước
khi
chia tay. Có một đôi lần, qua nhắn tin, hai người gặp nhau ở nhà người
bạn
thân. Luôn luôn, cô gái rất giữ gìn ý tứ.
Và, đây là lần đầu tiên vì quá nhớ
nhung, Nguyên liều lĩnh tìm đến nhà Nga. Với tình yêu, cô gái rất hiểu.
Hai người
ngồi ở bàn khách nhà dưới chuyện trò, giọng nhỏ nhẹ, thân tình. Nguyên
nhìn mái
tóc, gương mặt, và nghe tiếng Thiên Nga nói, anh có cảm giác như thời
gian là
cánh cửa thấp thoáng những hình bóng của anh.
Sau những phút giây băn khoăn,
Nguyên mời Nga đi chơi phố. Không chỉ tiếng nói nhỏ, mà trên gương mặt
Nguyên lộ
ra hết vẻ bỡ ngỡ khiến Nga không giấu được nụ cười trong cặp mắt nhìn
lại anh.
Một lúc sau cô đứng dậy, để Nguyên lại một mình. Nguyên thật lo lắng
khi nghe
tiếng Nga nói chuyện với bà mẹ. Cũng khá lâu, Nga mới trở
ra ngoài và bảo Nguyên ngồi chờ.
Chỉ nửa tiếng, Nga thay quần áo xong
. Phố đông vui ngày cuối tuần, ra khỏi nhà một quãng xa nàng mới để cho
Nguyên
nắm tay mình. Bên nhau, hai người dạo bước, giọng nói của Thiên Nga rất
hồn
nhiên và tự tin. Trên đường đi, Nguyên kể cho người yêu về mấy ngày đi
công tác
vừa qua, và anh tả lại ngôi làng Phượng Liễu
bằng những nét phác họa sống động như làm một bài
luận văn.
Bên kia đồi cát là ranh giới hai tỉnh.
Hải Lăng là một quận lỵ ở gần ngay đó, từ quận về quê nội của Nguyên
khoảng mười
cây số. Quê nội anh ở gần biển và trước khi đến biển con đường xuyên
qua một
khu nghĩa địa là những đồi cát trắng trải dài trông hình dáng như đàn
voi. Biển
rất vắng, rất xanh, tràn
ngập bầy chim bay rộng cả một vùng trời.
Tiệm giải khát đối diện với rạp hát.
Hai người ngồi dưới chiếc dù lớn đặt gần mái hiên. Bên ngoài rạp hát,
lảng vảng
một hai bóng người còn đứng xem những tấm biển quảng cáo chiếu phim kỳ
tới. Lúc
này, trong rạp phim đang chiếu, chừng bốn lăm phút nữa mới vãn xuất.
Nguyên ngoắc tay gọi đứa gái nhỏ đến
gần.
-Cà phê đá.
-Nước cam
tươi.
Đứa bé gái bỏ đi ngay vào quầy.
Nguyên lặng nhìn Nga với một nụ cười trong đôi mắt. Nàng cũng rất yêu
đôi mắt đẹp
của Nguyên. Nàng rất thích cái dáng trẻ thơ của anh, và những câu
chuyện anh kể
về đời lính. Những cô gái trước đây Nguyên quen, anh cũng kể ra cho
nàng biết,
có những chuyện vui ngộ nghĩnh làm nàng bật cười. Và, sau này, anh tỏ
lòng tha
thiết nói lời tâm sự, giờ đây chỉ có nàng là hơn hết.
Nguyên uống cà phê, nhưng không hút
thuốc. Anh không biết hút thuốc lá, nhưng cà phê thì phải có. Những năm
ở Sài
Gòn làm báo, mỗi buổi sáng, Nguyên thường viết bài ở quán cà phê ngay
trước mặt
tòa soạn. Anh viết nhanh, và cà phê là chất xúc tác gợi nhiều cảm hứng
cho anh
viết.
Thỉnh thoảng mắt Nguyên lơ đãng nhìn
ra đường ngắm phố và chú ý những người đi qua lại.
Thiên Nga uống từng ngụm nước, cặp
môi mỏng ướt của nàng đẹp như cánh hoa. Nàng rất vui tính, những ngày
qua về
nghỉ hè nàng cũng biết mình nhớ Nguyên rất nhiều. Nhưng với tâm hồn
thiếu nữ,
nàng có sự ấp ủ, vừa e thẹn để giữ gìn nỗi nhớ nhung luôn thật dịu mềm
như là một
thứ tơ lụa.
-Nga định
hôm nào ra Huế ?
-Ngày mốt.
-Anh ở đây
chờ Nga ra luôn.
-Anh không sợ
bị phạt à ?
Nguyên cười bảo:
-Có Nga ,
anh chẳng sợ ai cả.
Nàng cười. Anh tiếp lời:
-Anh được
nghỉ phép ít ngày sau chuyến công tác.
-Tối nay,
anh ở đâu ?
-Ở nhà người
bạn.
Ánh mắt nàng nhìn qua người yêu có vẻ
bối rối, vừa ngại ngùng. Nhưng rồi, lấy một giọng bình thản, Nga nói.
-Về nhà em
mà nghỉ.
-Má có la
không ?
-Em sẽ xin
phép cho anh.
-Cám ơn em.
-Cám ơn
suông thôi sao ?
-Anh bao em
một vé ciné được không ?
-Quá đúng ý
em.
Nguyên nắm tay người yêu. Bàn tay cô
gái rất mềm mại, nhan sắc nàng cũng tỏa
ra hương thơm làm anh thật sung sướng với tình yêu mình đang có.
-Em có vẽ
tranh không ?
-Có, em vẽ
được khá nhiều.
Trong khoảnh khắc này đã làm Nguyên
nghĩ nhiều đến cô gái. Anh nghĩ về cô trong năm học tới. Anh nghĩ tới
những màu
sắc cô yêu thích, những khung vải hình thành bức tranh cô đã vẽ. Cô gái
yêu
thích hội họa và tài năng của cô sẽ phát triển. Cô là một họa sĩ lãng
mạn có
tâm hồn thật phong phú, rồi đây những bức tranh sáng tác sẽ làm cô nổi
tiếng.
Hai người nhìn nhau trong sự
yên lặng của niềm cảm thông. Trên bàn, ly nước
cam và ly cà phê đã vơi một nửa. Trong màu vàng của ly nước cam, ánh
lên âm
thanh hay đó là bao nhiêu tiếng nói cô gái đã ghi nhận được từ những
tấm ảnh của
cô sắp xếp trong cuốn album. Cô gái có một cuốn album nhỏ, trong cuốn
này, những
tấm ảnh của cô được sắp xếp theo thứ tự thời gian.
Mỗi lúc, trên đường phố ngang qua rạp
hát người đi và xe cộ qua lại rất đông. Mùa hạ sắp hết nhưng trời còn
nóng. Và
khi nghe gió rung động những cây lá, bạn sẽ có cảm giác ánh nắng cũng
bị gió cuốn
trôi, bập bềnh, lan rộng ra tới bờ sông. Thành phố nằm bên con sông.
Con sông
chảy qua bến Cảng rồi theo dòng chính trôi giạt tới biển. Miền Trung
đất hẹp rất
dài dựa lưng núi Trường Sơn và hướng ra biển Đông. Thành phố này cách
xa biển 6
cây số. Có nhiều bãi biển rất đẹp. Ở thành phố này có phi trường lớn,
ngoài
quân đội Việt Nam Cộng Hòa còn có những đơn vị Đồng Minh Mỹ, Đại Hàn,
Tân Tây
Lan, Úc. Và, về đêm trong thành phố không khí chiến tranh vẫn có lúc đe
dọa.
Hai người chuyện trò với nhau cho đến
lúc bên kia rạp hát đèn sáng lên ở ngoài và xuất hát vừa vãn. Từ cửa
chính,
khán giả ra đông còn vọng tiếng ồn ào từ những câu chuyện về cuốn phim.
Nàng cười nhìn chàng, nói:
-Anh phải giữ
lời hứa với em.
Chàng gật đầu, lúc ấy mắt nàng nhìn
chàng một cách trìu mến. Chàng còn dáng vẻ thanh tú của một sinh viên.
Chàng có
đôi mắt đẹp. Nàng cũng rất thích cái dáng điệu ngập ngừng của chàng khi
nhìn
nàng và muốn nói một câu tỏ tình. Từ buổi
đầu gặp, hai người rất ăn ý với nhau.
Năm ngoái, nàng trông thấy chàng ở một
quán cà phê. Tối hôm đó có buổi trình diễn nhạc của một nhóm sinh viên.
Trong
đám đông người trẻ nổi bật một chàng
trai mặc đồ lính, dáng vẻ linh động, anh ta đang chuyện trò với các
sinh viên
thuộc thế hệ cùng lứa ngày xưa. Anh chàng này ham vui chuyện mà không
trông thấy
cô gái để ý đến mình. Buổi ca nhạc nhiều tiết mục thật sôi động, vui
nhộn, hào
hứng với nhiều người thay nhau lên bục sân khấu. Có những bản nhạc, mọi
người
cùng vỗ tay và hát. Trong một lúc bất chợt quay hướng nhìn, chàng trông
thấy
nàng. Thực sự đó lá phút kỳ diệu, nhớ đời. Chàng đã cảm ngay hình ảnh
cô gái ngồi
ở phía bên kia với gương mặt dịu hiền và mái tóc xõa rộng thật là quyến
rũ.
Nhưng chàng không dám nhìn lâu, sau ít giây trầm lắng, thiết tha với
nàng,
chàng quay trở lại nói chuyện với người bạn bên cạnh.
Mười hai giờ đêm chương trình nhạc kết
thúc, quán cà phê đóng cửa. Khi về đến nhà, cả hai người bỗng hết sức
ngạc
nhiên gặp nhau ở lối cổng vào. Và, người nào cũng thấy vui, có sự thân
tình
ngay lúc đó như thể đã quen từ trước.
-Cô ở đây mà
tôi không hề hay.
-Em mới dọn
đến tuần trước.
-Vậy à.
Nhưng trước đây, thì ở đâu ?
-Em ở trong
thành nội.
-Tôi ở đơn vị
ít khi về nhà .
-Em cũng
không thấy anh từ hôm dọn đến bây giờ.
Nguyên nhìn cô gái với đôi mắt thiện
cảm, nghĩ cô như là em gái của mình. Cô gái nói:
-Lúc nãy
trong buổi nghe nhạc, chỉ có mình anh mặc đồ lính.
-Lạ quá phải
không ?
-Ờ, cũng thấy
lạ.
Hai người chợt dừng bước, nửa muốn
chia tay, nửa trong ngập ngừng vẫn còn muốn nói thêm một vài chuyện.
Trăng sáng
bất ngờ. Bên lối cổng vào là con đường đi ra bờ sông. Khi trăng dậy
sáng, quang
cảnh khu phố ánh lên một màu vàng tuyệt đẹp. Từ chỗ hai người đứng, họ
trông thấy
chiếc cầu, và cũng trông thấy mặt nước trên dòng sông, tự dưng mỗi
người nghe
lòng mình có một cảm giác nôn nao kỳ lạ. Nguyên nhìn thấy cô gái đẹp lạ
lùng.
Và, lúc ấy, cô gái cũng thật là bối rối, vì quá lo sợ lời tỏ tình của
chàng sẽ
nói với mình. Thế nhưng, nàng cứ chôn chân một chỗ, không thể dời bước
nổi.
-Em cho anh
biết tên được không ?
Nàng đáp:
-Em tên Nga.
-Anh tên là
Nguyên.
Họ vẫn còn bên nhau, và lúc này,
cùng nghe thấy rõ tiếng nước dòng sông chảy.
-Trăng sáng
đẹp quá, phải không Nga?
Một giọng vui, Nga nói đùa:
-Vâng, nó
cũng đẹp như anh đang mơ mộng.
-Tên em cũng
có vầng trăng.
-Có phải anh
liên tưởng đến một câu trong Kiều.
-Em nói
đúng.
Với nụ cười vừa dịu sáng trên đôi mắt
đẹp, bao nhiêu ý tưởng trong đầu chàng, nàng biết hết.
Rồi một giọng thân tình, nàng hỏi:
-Anh ít khi
về nhà lắm phải không ?
-Anh thường ở
trên đơn vị.
-Sao anh ít
về nhà ?
-Anh sẽ về,
đểâ luôn được gặp em. Em đang học ngành nào ?
-Em học trường
Mỹ Thuật.
-Hay quá.
Hôm nào cho anh xem những bức tranh em vẽ.
-Em mới học
năm thứ nhất.
-Anh có nhiều
người bạn dạy bên đó.
-Chắc là
thân với anh.
-Những năm
anh chưa đi lính, những bạn ấy học chung với anh ở trường Văn Khoa.
-Anh học
xong rồi.
-Chưa. Anh học
dang dở, rồi đi lính.
Giọng Nguyên nói nghe khô khan. Cô
gái nhìn anh, nàng hiểu được lời thành thực của anh khi nói ra điều ấy
với
nàng. Với sự cảm thông ấy, cả hai người dời gót lúc nào không hay. Bên
nhau,
cùng đôi mắt và ý nghĩ về cuộc đời, họ theo con đường hướng đến bờ
sông.
Trên chiếc cầu, độc nhất có một bóng
người đi xe đạp.
-Em không có
gia đình ngoài này ?
-Gia đình em
ở Đà nẵng.
Trên bờ sông đầy cỏ , những hàng cây
trồng rất đều ở bên này cũng như bên kia. Ở cạnh lối đi xuống bến nước
có băng
ghế đá, hai người ngồi xuống. Đêm bắt đầu trôi giạt khi sương mù giăng
trên
sông.
-Em thấy lạnh
không ?
-Lạnh.
-Ngồi đây một
chút rồi mình về.
-Tùy anh.
Khi Nguyên rời ghế đứng dậy đi tới
quầy trả tiền nước, Nga ngồi một mình, nàng vừa nhớ lại cuộc gặp gỡ đầu
tiên của
hai người cách đây hơn một năm.
Trên bàn, chàng để lại tiền lẻ cho
người phục vụ nước uống. Hai người đi bộ tới ngã tư, họ dừng chờ đèn
dành cho bộ
hành. Rồi tay nắm tay, cả hai băng qua đường cùng với nhiều người khác.
Từ ngã
tư, họ đi ngược trở lại đến rạp hát đối diện với quán nước. Bỗng dưng
cô gái hỏi:
-Người em của
anh đang ở đâu ?
-Ở Sài Gòn.
Nó vừa trở về phép thăm nhà, giờ đi lại rồi.
-Em anh cũng
đi lính.
-Ờ, nó đi
lính thường thôi, không phải Sĩ quan.
-Sao không
phải là Sĩ quan ?
-Nó học hành
dang dở, không được hoãn dịch đành đi lính. Tuy nhiên, hắn có được bằng
Tú Tài
bán, hai năm nay, hắn thi toàn phần, keo nào cũng trượt.
-Người nào học
hành dang dở cũng đều thất bại.
-Trên nguyên
tắc là như vậy.
-Người em đi
lính gì ?
-Không quân.
-Chà, đó là
lính hào hoa.
-Văn vẻ vậy
thôi, nó cũng rách lắm.
-Ít có tiền
tiêu xài.
-Đúng vậy.
-Có viết văn
nữa, phải không ?
-Ờ, nó đang
tập tễnh viết văn. Cũng có năng khiếu, triển vọng.
-Em có đọc một
truyện ngắn.
-Em thấy nó
viết được không ?
-Cũng được.
Lãng mạn, có triển vọng như anh nhận xét. Lấy bút hiệu Thiên Lan là sao? Chắc là quen cô nào đó.
-Ờ, nó được
quen cô nào là đưa người đó vào truyện.
-Bao nhiêu
phần sự thực ?
-Anh chịu.
-Còn anh, đến
bao giờ sẽ viết về em ?
-Đã hẳn rồi,
một ngày sắp tới.
-Anh phải nhớ
đưa em đọc.
Với sự dừng bước nhẹ nhàng, chàng gởi
vào đôi mắt nàng cái nhìn thật trìu mến. Chàng yêu nàng, hạnh phúc
trong tình
yêu dành hết cho người em gái .
Rồi, nàng đi theo chàng. Nàng có ý
tưởng, từ nay, chàng là điểm tựa của nàng. Tới rạp hát đông người, nàng
đợi
chàng mua vé. Nàng nhìn lên đồng hồ trước rạp ước tính thời gian cho
buổi đi
chơi bên nhau. Khi thấy chàng từ quầy vé
trở ra, nàng rất vui với nụ cười trên đôi mắt.
Khán giả đi vào cửa chính. Đây là rạp
hát lớn nhất của thành phố rất lịch sự, sạch sẽ. Những hàng ghế trống
trước mặt
lần lần có khán giả vào lấp chỗ, hai người ngồi ở hàng ghế xa bên dưới
mái hiên
của tầng lầu trên.
Đèn trong rạp hát sáng, một bản nhạc
dạo nghe êm ái, thân tình. Bàn tay nàng trong tay chàng, những ngón tay
đan vào
nhau, ấm áp như bao giờ cũng có mùa đông và những sợi len đan cho cuộc
đời.
-Anh ở đơn vị
lúc này ra sao ?
-Anh đi công
tác luôn. Đôi khi, sau chuyến công tác phải viết bài phóng sự gởi báo
Tiền Tuyến
ở Sài Gòn.
-Ở đây, mình
cũng làm việc cho báo Sài Gòn.
-Việc này
anh làm thêm, khi đăng bài, tòa báo trả tiền nhuận bút.
-Em rất hãnh
diện về anh.
-Còn em của
anh là một cô họa sĩ trẻ đẹp.
-Em sẽ vẽ bức
chân dung tặng anh.
Bỗng nhiên, tiếng nhạc ngừng, rạp
hát lắng im vừa đúng lúc đèn tắt. Trong bóng tối, chàng thấy từ gương
mặt nàng
ánh sáng tỏa rất dịu hiền. Nhìn gương mặt nàng, một giọng thầm, chàng
nói:
-Em đẹp quá.
Chàng nghiêng mình qua, trải
rộng cánh tay lên thành ghế và chàng thấy
hạnh phúc vô cùng khi nàng ngả xuống cả mái tóc mềm dịu rồi tựa đầu lên
cánh
tay chàng. Chàng hôn xuống vầng trán, xuống bên đôi má hồng của nàng,
rồi hai
người im hơi, dấu yêu với từng nụ hôn ngọt ngào trên cặp môi mềm ướt,
thơm tho.
Khi chàng hôn, đôi mắt nàng khép lại, run rẩy, và nàng thấy lại hình
ảnh nhỏ bé
thời thơ ấu, nàng cũng nhớ đến cô em gái có gương mặt thiên thần, và
luôn luôn
những bóng dáng ấy hiện về trong trí tưởng khi nàng nghĩ đến ngày mai
đây của đời
mình.
-Em và anh,
chúng ta có nhau.
-Em yêu anh,
nàng nói.
-Cám ơn em.
Hai cánh tay nhẹ nhàng buông. Hai
người đã qua phút mê đắm, giờ họ trở lại với cuốn phim dạo đang chiếu
trên màn ảnh.
Một lúc khá lâu, phim chính bắt đầu.
Khi trên màn bạc hiện ra một quang cảnh
những đoàn quân đang di chuyển Nguyên bỗng nhớ ngay đến những giòng đầu
tiên ở
cuốn tiểu thuyết mình đã đọc và liên tưởng đến một miền đất nước Ý
trong thời kỳ
chiến tranh. Đây là cuốn phim dựa vào tác phẩm cùng tên L’adieu aux
armes của
nhà văn nổi tiếng Mỹ đoạt giải văn chương Nobel, Ernest Hemingway.
Bỗng nghe tiếng khán giả, và tiếng
cô gái nữa cũng kêu lên:
-Trời , cô
ta dữ không.
Rồi cô gái nắm giữ chặt cánh tay
chàng. Cảnh trên phim vừa diễn ra là cái tát mạnh của cô gái vào mặt
chàng trai
khi anh chàng cố ý liều lĩnh ôm hôn cô. Rồi cô ta xin lỗi, và hai người
trở lại
với câu chuyện lòng của mình. Sau đó, cô để cho chàng ôm siết lấy và
hôn mình.
Khi xem phim, Nguyên luôn gợi nhớ từng
đoạn văn mình đã đọc, và khung cảnh chiến tranh đã cho anh nghĩ nhiều
đến số phận
những người lính. Bên cạnh anh , người yêu cũng cuốn hút say mê xem
phim.
Jennifer Jones nữ tài tử nổi tiếng trong vai cô y tá Cathérine , Rock
Hudson
nam diễn viên, đóng vai chàng Trung úy Henry. Henry là người Mỹ phuc vụ
trong đội
cứu thương bên quân Ý.
Một ngày hôm đó, đơn vị anh đóng
quân bị địch tấn công bằng trọng pháo, và anh bị thương. Từ mặt trận,
Henry được
đưa về bệnh viện, ở đây anh gặp lại người mình yêu . Và, từ đó mối tình nẩy nở.
..Nghe mưa
kìa.
-Mưa đang nặng
hạt.
-Và anh sẽ
luôn yêu em phải không ?
-Sẽ luôn
luôn yêu.
-Và mưa cũng
sẽ chẳng gây nên điều gì khác biệt ?
-Chẳng làm
khác biệt.
-Dễ chịu
quá. Bởi em sợ mưa.
-Sao vậy
?.....
-Em không biết,
anh yêu. Nhưng em luôn sợ mưa.
-Anh thích
mưa.
-Em thích đi
dầm mưa. Nhưng chẳng thể nào yêu được.
-Còn anh thì
luôn yêu em.
-Em sẽ yêu
anh trong mưa, trong tuyết, trong cả mưa đá và.. có còn loại gì khác
nữa ?
-Anh không
biết. Anh thấy buồn ngủ quá.
-Ngủ đi, anh
yêu và dẫu thế nào đi nữa thì em cũng mãi yêu anh.
-Em chẳng sợ
mưa lắm phải không ?
-Chỉ trừ lúc
được ở bên anh.
-Sao em lại
sợ mưa ?
-Em không biết.
-Nói đi.
-Đừng buộc
em.
-Nói cho anh
biết đi.
-Không mà.
-Hãy nói đi.
-Thôi được.
Em sợ mưa bởi đôi lúc em thấy mình chết trong mưa.
-Em chẳng chết
đâu.
-Và thỉnh
thoảng, em cũng thấy anh chết trong mưa.
Thiên Nga bỗng thốt lên sung sướng,
cảm kích với đoạn đối thoại rất hay sau khi lắng nghe, vừa đọc hết dòng
phụ đề
Việt ngữ. Và cũng mang tâm trạng lo âu như cô gái trong cuốn phim, nàng
nắm giữ
chặt lấy cánh tay của chàng.
Sau thời gian dưỡng bệnh, Henry trở
lại chiến trường. Anh trở lại vào mùa thu năm sau đó. Trên đường đi,
anh nhìn
thấy quang cảnh những hàng cây trơ trụi lá và đường sá đầy bùn lầy. Từ Udine, anh đến Gorizia trên một chiếc xe nhà
binh, xuống đây, anh tìm đến chỗ đóng quân của đơn vị cũ. Không khí
chiến tranh
nay hoàn toàn thay đổi. Vào giai đoạn này, quân đội Ý bị nguy khốn và
quân Áo
đang thắng thế đã chiếm được nhiều ngọn đồi, nhiều ngọn núi và một số
điểm chiến
lược trọng yếu trên toàn mặt trận. Người ta bắt đầu thấy chán ghét
chiến tranh.
Rồi đến lúc, nhiều đơn vị của quân Ý phải di tản. Một cuộc rút quân
diễn ra dưới
cảnh trời mưa tầm tã. Henry cũng có mặt cùng với đồng đội là những
người lính cứu
thương trong đoàn quân triệt thoái. Nhưng khi vượt vòng kiểm soát của
địch quân
Áo đến vùng do quân Ý canh gác, Henry lại bị bắt giữ cùng với nhiều Sĩ
quan
khác. Những viên Sĩ quan này bị kết tội đầu hàng làm nhục nước Ý. Rất
nhanh
trí, thừa cơ lúc lộn xộn với quân số
đông, Henry đào thoát lao ra bờ sông, sau đó, anh leo lên trốn ở mái
toa của
đoàn xe lửa, và nhảy xuống trước khi tàu tiến vào ga Milan.
Đối với Henry, anh đào thoát và coi
như cuộc chiến tranh không còn nghĩa lý gì nữa với anh. Sau những gian
nan, bất
ngờ, Henry tìm gặp lại được yêu của mình. Do có lệnh truy nã vì tội đào
ngũ, một
lần nữa Henry phải trốn khỏi đất Ý. Lần
này, anh cùng với người yêu ra đi, trong đêm tối trên
một chiếc thuyền hai người cố sức chèo vượt
sóng nước trên hồ, mưa tầm tã suốt đêm, nhưng rồi họ cũng đến được đất
Thụy Sĩ.
Nơi mảnh đất này là chốn yên bình, họ được sống bên nhau những tháng
ngày rất hạnh
phúc.
Rồi Cathérine báo tin cho Henry biết,
nàng có thai. Nhưng đến ngày hạnh phúc ấy, trong khi sinh nở khó,
Cathérine kiệt
sức do bị băng huyết, và cái chết của nàng như đã có trước sự ám ảnh:
nàng chết
dưới cơn mưa.
Cuốn phim dài đúng hai tiếng đồng hồ,
rất hay và xúc động. Khi đèn sáng, khán giả trong rạp cùng đứng lên và
nối theo
hàng trên các lối đi ra cửa chính.
Bên ngoài, màn đêm vừa buông xuống
phủ dài trên đường phố nhộn nhịp. Rạp hát vẫn còn chiếu
một xuất cuối nữa.
Nguyên hỏi cô gái:
-Em nghĩ là
mình nên ăn ở đâu ?
-Về nhà em.
Anh chiều ý nàng, tay nắm tay, hai
người đi bộ và rất thú vị khi trở lại với cuốn phim vừa xem. Cuốn tiểu
thuyết nổi
tiếng được dựng thành phim Nguyên đã đọc, lúc này, anh phân tích cho cô
gái
nghe những nét, những chi tiết gây được ấn tượng trong tác phẩm. Và,
qua đề tài
mưa, mưa trong tình yêu, mưa trong một cuộc chiến, mưa trong hạnh phúc
tìm đến
một nơi chốn riêng biệt thanh bình, với giọng nói của một tâm hồn trung
thực,
anh làm cho cô gái lắng im trong dòng tư tưởng.
Rồi anh hỏi nàng:
-Em thích
mưa không ?
-Rất thích,
nhưng em cũng sợ mình chết trong mưa.
-Không đâu,
chúng mình sẽ được yêu nhau trong mưa.
-Đó là tiểu
thuyết mà anh.
-Không hẳn
đâu. Ngoài đời, biết bao nhiêu đôi tình nhân đi dưới mưa. Mưa cũng là
cảnh của
nghệ thuật, mưa với dòng nhạc, với tiếng đàn, và mưa trong tiếng nói
nữa.
-Em rất muốn
vẽ một bức tranh mưa .
-Hay lắm. Em
nên vẽ, hãy nói cho anh biết ý nghĩa.
Thiên Nga nhớ lại buổi sáng ấy của
ngày nhập học trời mưa lớn, vừa lúc cô đến cửa lớp thì chiếc guốc cô
mang bị đứt.
Và, lúc cô cầm chiếc guốc trên tay, nửa muốn cười, nửa như đang khóc,
cảnh tượng
lạ lùng đó đã làm cô ghi nhớ một hình ảnh thiếu nữ, và luôn luôn cô tự
nhủ hãy
đợi một ngày hoàn thành nên bức tranh.
-Hãy vẽ bức
tranh quí giá đó. Em sẽ thấy mình đẹp, vẻ đẹp chính là cái bóng của em
trong cuộc
đời.
Cô gái chợt hỏi:
-Anh có ý tưởng
trời đang mưa không ?
-Em thật
lãng mạn. Em đang nghĩ đến mưa, phải không ?
-Hãy cùng em
nhớ cảnh mưa trong phim.
Và rồi, chắp nối từng lời, hai người
cùng ghi lại đoạn đối thoại rất hay, rất đầy ý nghĩa.
Thiên Nga bỗng nói:
-Em phải tìm
đọc cuốn này.
-Anh sẽ tìm
cho em.
-Nhưng có bản
dịch tiếng Việt không ?
-Có.
-Em đọc được
tiếng Việt thôi, tiếng Pháp, tiếng Anh em còn yếu.
-Em nên học
thêm.
-Anh dạy em
đi.
-Em sẽ học với
anh lúc anh có thì giờ rảnh.
-Trước khi
đi lính, anh có dạy học không ?
-Thời sinh
viên, anh có dạy lớp đêm trong tổ chức của Tổng hội.
Về đến nhà, thay áo quần áo nhẹ xong
Nga đi đến phòng người mẹ. Bà mẹ hiểu được lòng cô con gái, và bảo cô
chu đáo dọn
chỗ nghỉ cho Nguyên ở căn phòng dành cho khách. Nga thấy trong lòng
vui, nàng
xuống bếp làm bữa ăn tối. Bữa ăn chỉ cho hai người thôi. Rất đơn giản,
mỗi người
một tô mì lớn đặt trên chiếc khay. Vừa ăn, chuyện trò, lúc này cô gái
kể cho
Nguyên chuyện về gia đình, về người cha,
người mẹ, và các cô em gái. Cô không có anh hay em trai, và cô tâm sự,
đó là một
tình cảm dường như làm cô thấy thiếu vắng.
Nguyên nói:
-Hãy nghĩ là
có anh trong đó.
Cô gái gật đầu, và nói:
-Em cũng rất
mong, đôi khi, em tìm được anh qua những ý nghĩ về gia đình. Em rất cần
có một
người anh.
-Còn một người
em thì sao ?
-Cũng được,
nhưng em thích có anh hơn.
Một lúc ngập ngừng, Nguyên nói:
-Năm sau, nó
được về phép, anh sẽ đưa nó tới thăm em.
-Người em có
giống anh không ?
-Nó giống mẹ
anh nhiều hơn. Bề ngoài với khuôn mặt khô, cứng cỏi, nhưng đời sống nội
tâm của
nó rất là sâu lắng, đam mê. Nó thích viết văn, đang muốn mình có sự
nghiệp.
-Anh thì sao
?
-Anh chỉ
theo nghề báo, về sau này, hết chiến tranh anh cũng sẽ làm báo.
-Anh không
thích dạy học.
-Không. Những
năm ở Sài Gòn, anh sống bằng nghề viết báo.
-Từ Huế
ra quê anh xa không ?
-Bằng nửa đường
Huế- Đà Nẵng.
Bữa ăn xong. Vừa đứng lên dọn dep,
cô gái nói.
-Lúc nào có
dịp, anh đưa em ra ngoài đó thăm.
-Cám ơn em.
IV
Bên cạnh lối cầu thang có một căn
phòng dành cho khách. Khi mở cánh cửa đi vào, Nga bật sáng thêm một
ngọn đèn nữa,
xong nàng sửa soạn chăn màn cho Nguyên nằm nghỉ. Rồi trước khi rời
phòng, nàng
đứng lại giây lát để cho Nguyên đặt môi hôn lên trán nàng.
-Chúc em ngủ
ngon.
-Anh ngủ
ngon.
Nguyên nghe bước chân của Nga đi trở
xuống cầu thang, rồi xa dần. Nguyên có cảm giác thật dễ chịu, êm ái khi
lên giường
nằm, và trong cảm giác ấy anh nhận ra Nga còn bên anh.
Bỗng nhiên Mỵ Châu ngước mắt khi
nhìn thấy người chị xuất hiện.
-Em chưa ngủ
?
Cô bé mỉm cười. Cô bé có gương mặt của
thiên thần, đôi mắt đen mở to đẹp lạ thường.
Nga kéo chiếc ghế ngồi xuống bên cạnh
em. Và nàng cầm lấy cuốn sách, lật xem qua vài trang.
Giọng cô em gái hỏi:
-Nhà mình có
khách ?
-Anh Nguyên,
bạn của chị.
-Học cùng
trường ?
-Không, anh ở
trong quân đội. Trước đây là sinh viên.
Hai chị em lặng yên nhìn nhau. Không
nói gì thêm cho đến lúc nghe chuông đồng hồ thong thả đánh lên từng
tiếng nhạc
trước khi báo giờ.
-Em nghỉ đi.
-Dạ.
Chỉ để lại ánh sáng ngọn đèn nhỏ
trong phòng, hai ngọn đèn lớn đều tắt. Khi trở ra, Nga cũng tắt đèn cầu
thang rồi
lặng bước về phòng mình nằm nghỉ.
Nắng sớm dâng lên lan tỏa rất nhanh
và tràn vào hết các căn phòng. Nguyên đã thức dậy, mặc xong quần áo,
ngồi một
mình anh mở tờ báo ra đọc. Nga xuất hiện với một gương mặt sáng đẹp,
dịu hiền:
-Anh ngủ
ngon không ?
Nguyên ngước mắt với nụ cười nhìn
người yêu. Nga đến gần, ngồi xuống cạnh anh và mở rộng bàn tay.
Một chốc lát sau, nàng đứng lên nói:
-Em làm cà
phê và dọn bữa ăn sáng cho anh.
Nguyên lại ngồi đọc báo và chờ nàng
trở lại. Sau khi dọn bữa ăn sáng xong, nàng trở lại tìm Nguyên. Hai
người ngồi
xuống ở bàn ăn tối hôm qua. Bữa ăn sáng có trứng ớp la, bánh mì cắt
từng lát,
và còn có bơ, pâté, cà phê sữa.
-Sáng nay
mình đi biển chơi.
-Anh thích
ra biển hay là chơi phố.
-Thôi, chơi
phố, để nhớ phố trong những ngày hè. Ngày mai, em trở ra Huế và bắt đầu
năm học
mới.
-Anh nghĩ,
em nên chọn ngành gì ?
-Em phải chọn
ngành trong năm nay ?
Thiên Nga gật đầu. Nguyên uống cà
phê sữa, khen ngon. Cũng đã lâu, Nguyên mới có được ít ngày nghỉ thoải
mái bên
cạnh người mình yêu. Rồi những ngày tới đây, đời lính của anh, không
chỉ có
trách nhiệm cá nhân, còn là của cả đơn vị.
Nhìn đôi mắt Nga, anh nói:
-Em ra ngoài
đó học, có gì cần cho anh biết.
-Em muốn anh
gìn giữ sức khỏe, luôn về với gia đình.
Nguyên đột nhiên đứng dậy, lên tiếng
chào , Nga vừa quay đầu thấy bà mẹ xuất hiện. Nàng hỏi:
-Má đã ăn
sáng chưa ?
-Chưa, má
chưa ăn.
Một giọng tự nhiên, cô gái nói:
-Anh Nguyên
mới ở Huế vào hôm qua. Có má đây anh được gặp, chút nữa con đưa anh đi
thăm cả
nhà luôn.
Bà mẹ nhìn Nguyên và cô con gái. Bà
hỏi Nguyên:
-Cậu quen
Nga đã lâu chưa ?
-Dạ, cháu biết
Nga từ năm ngoái.
-Cậu ở Huế một
mình, hay có gia đình nữa.
-Dạ, gia
đình cháu ở Huế đã lâu.
Xong bữa ăn, cô gái không phải dọn dẹp
mà nhân thể gặp bà mẹ, cô đưa Nguyên đi thăm và giới thiệu cả gia đình
bên
mình. Nguyên chỉ đáp lời khi nghe câu hỏi từng người.
Và sau cùng, Nga đưa Nguyên vào một
căn phòng riêng để thăm cô gái út trong gia đình.
Nguyên rất ngạc nhiên trước vẻ sáng
đẹp như thiên thần của Mỵ Châu và anh cũng
rất là ái ngại, cảm
thấy chạnh
lòng. Mỵ Châu nhìn anh với cặp mắt thơ ngây. Nguyên chưa tìm được lời
nói, bà mẹ
ngồi đó lên tiếng giải thích.
Có được không khí thân thiện trong
gia đình, Nguyên hỏi:
-Em thích đọc
truyện không ?
Cô gái chỉ cười. Nguyên tiếp lời:
-Anh sẽ tìm
những truyện hay cho em đọc.
Một cuốn sách cô gái đang đọc dở,
Nguyên mượn xem. Đó là cuốn truyện dịch: Con Chim Trốn Tuyết (Snow
goose) của
nhà văn Mỹ Paul Gallico.
-Những tiểu
thuyết tiền chiến em thích đọc không ?
Bà mẹ cười nói:
-Ngày nào,
em nó cũng đọc sách.
Nguyên gây được sự thiện cảm với người
mẹ của hai cô gái, không bằng những câu khách sáo, mà sự chân thực biểu
lộ rõ
nét trên vẻ mặt của mình. Khi có được một con người thân tình như thế,
bà mẹ
hài lòng. Ngồi với con gái không lâu, bà đứng lên. Nga hỏi:
-Má thích ăn
gì con đi mua.
-Khỏi, chút
nữa má đi với ba.
Nga cười, giọng dí dỏm nói với
Nguyên:
-Má không
lúc nào để riêng ba một mình.
Người mẹ đáp ngay:
-Không, ba một
mình không được đâu.
Căn phòng tuy hơi tối nhưng ấm cúng
nhờ ánh sáng những ngọn đèn néon. Nguyên ngồi xuống bên cạnh Mỵ Châu,
nắm giữ
bàn tay nhỏ bé của cô em gái. Anh nói:
-Em sẽ có
nhiều sách hay đọc. Và, rồi đây, em sẽ làm một công việc viết văn để đi
tìm ánh
sáng đẹp cuộc đời.
-Anh nghĩ,
là em có thể viết văn không ?
Một giọng nhấn mạnh rất thân tình,
Nguyên nói:
-Em sẽ phải
có một cuốn sách của mình.
-Em viết nhật
ký.
-Đã có ai đọc
nhật ký của em chưa ?
-Chị Thiên
Nga.
Nga đưa mắt nhìn hai người, gật đầu
nhẹ. Nguyên và Mỵ Châu ngồi bên nhau chuyện trò, và lần đầu tiên cô bé
rất cảm
kích về người anh của mình.
Nga rời ghế đứng lên, sau vài bước
đi, nàng kéo nhẹ bức màn làm cho ánh nắng tràn vào khung cửa sổ rực
sáng lên.
Bên kia bức màn là phòng vẽ tranh của Nga. Bên ngoài khung cửa, một cây
bàng có
những chiếc lá khô nhẹ nhàng rung động. Gió đang bay, qua cửa sổ nhìn
xa hơn bạn
có thể trông thấy một dãy phố bên kia. Ở phía đó, có một con đường đất
dẫn tới
một khu nghĩa địa bên ngã ba, từ đó, lại trông thấy một con đường nhựa
khá rộng,
rất dài ra đến vùng biển.
Trong khi Nga đứng ngắm những bức
tranh trên giá vẽ của mình, Nguyên nhìn Mỵ Châu với tình thương vô bờ
đối với
cô em gái. Anh nắm bàn tay Mỵ Châu, dìu bước cô em qua phòng tranh.
Nga nói:
-Đây là những
bức em đã vẽ xong.
Nguyên ở bên cạnh Mỵ Châu, hai anh
em nhìn tranh vẽ của Nga.
Nga lên tiếng hỏi:
-Anh thấy em
vẽ được không ?
-Anh muốn chọn
một bức, em nghĩ thế nào ?
-Được chứ.
Anh chọn hay là em ?
-Để cho em Mỵ
Châu chọn, phải không nào ?
Cô bé nở nụ cười, gương mặt hiện lên
cái bóng của thiên thần. Lúc này, không khí trong phòng tranh thật là
ấm cúng,
trong đó, bạn chợt hiểu ra ý nghĩa về sự đi tìm tha nhân của mùa hè.
Mỵ Châu nói:
-Chị Thiên
Nga là nguồn ánh sáng của em.
Nga đưa mắt nhìn Nguyên. Nàng nói:
-Khi em ngồi
vẽ tranh, luôn có Mỵ Châu bên em.
Nói xong một câu ngắn, Thiên Nga dừng
để tìm ý tiếp cho lời. Nguyên bỗng nhắc:
-Và cây bàng
ngoài kia, những chiếc lá khi còn xanh.
-Em cũng
nghĩ như thế. Anh đã tìm được ý đó cho em.
Tiếng Mỵ Châu nói:
-Về cây
bàng, em có được đọc truyện Chiếc lá cuối cùng.
Bỗng dưng, cả ba người ngơ ngẩn khi
nghe tiếng chuông nhà thờ vang vọng.
-Anh Nguyên
và chị Nga dạo phố đi.
Nga đi lên phòng riêng của mình thay
quần áo. Nguyên đưa Mỵ Châu về lại chỗ nằm. Bức màn khi kéo ra, đã làm
cho cả
căn phòng rộng rãi , ánh sáng đầy ắp, và có chút hương vị thơm.
Nga xuất hiện với chiếc áo dài tím,
mái tóc xõa vai. Nguyên nói với Mỵ Châu:
-Anh sẽ tìm
một cuốn truyện hay cho em đọc.
-Cám ơn anh.
Rồi trước mắt hai người, khu phố mở
ra một ngày sinh hoạt náo nhiệt như thường lệ. Nguyên đã cho nổ máy,
nhưng xe
chưa lăn bánh. Nga ngồi sau, cẩn thận kéo vạt áo và xê dịch một chút vị
thế chỗ
ngồi.
Ông bà Tri đứng ở trên balcon nhìn
xuống, cả Nguyên và Nga không trông thấy. Khi ra đầu đường, Nguyên cho
xe rẽ phải
lên phố Độc Lập. Rồi từ ngã tư đầu phố này, anh chạy xe hướng về phía
bến Cảng.
Trên đường Độc Lập, hai bên lối đi là vỉa hè lát đá ca rô nhỏ, những
hàng cây
vươn cao, thẳng đều. Thành phố Đà Nẵng, thời Pháp có tên là Tourane,
nay vẫn
còn quen dùng ở những người thuộc thế hệ yêu thích nói tiếng Pháp. Nơi
thành phố
này cũng ghi nhận hai sự kiện lịch sử, ngày 1-9-1858 Hải quân Pháp đánh
chiếm hải
cảng này mở đầu cuộc xâm lăng thuộc địa, ngày 8 tháng 3 năm 1965, có
hai tiểu
đoàn Thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ một dấu hiệu cho thấy cuộc chiến
tranh Việt
Nam bắt đầu leo thang.
Thiên Nga, nàng là một thiếu nữ có vẻ
đẹp tựa như mặt trời và mặt trăng trên trái đất. Nguyên thật sung
sướng, anh sẽ
giữ mãi trong tim anh một lời cám ơn nàng. Và, nàng đang nói với anh
những lời
của ánh nắng mùa hè, rồi lời của gió, cơn gió nghe rung động bỗng ùa
tràn tới
thổi tung bay, rào rạt qua mái tóc của nàng.
-Em phải trả
lại căn nhà ngoài đó ?
-Sao vậy ?
-Nhà người
anh họ của em, anh ấy học ở Sài Gòn nay trở về.
-Rồi em định
sẽ ở đâu ?
-Ở nhà người
bạn trên đường Huyền Trân, cũng không xa nhà anh lắm.
-Anh sẽ về
nhà luôn như lời em dặn.
-Nhớ đó, lời
nói của em tuy nhẹ, nhưng cũng cứng như thép.
-Ngày mai,
em tính đi bằng cách nào ?
-Thì ra bằng
xe đò.
-Anh nghĩ,
đi xe lửa ngắm cảnh vui hơn.
-Cũng được.
Đi xe lửa cũng thích.
Ngôi trường Sao Mai ló dạng phía trước.
Khi đi ngang qua một cửa hiệu nước hoa, vừa trông thấy tên bảng hiệu,
Nguyên
nói:
-Cô gái ngồi
trong cửa hiệu là bạn học của Thụy đó.
-Anh cũng biết.
-Anh biết.
Thụy đã dẫn cô ấy lên quân trường Thủ Đức thăm chồng, anh ta học sau
anh một
khóa.
-Cô Thúy Hà
phải không ?
-Hình như vậy.
-Cậu Duy có
bà con bên gia đình mẹ em.
-Thụy
cũng học ở trường Sao Mai.
Ngôi trường đối diện với bến Cảng.
Thiên Nga nói:
-Mới đó mà
đã hai năm em xa trường cũ.
-Em cũng nên
dành thì giờ học thi ?
-Chương
trình Tú Tài nhiều môn quá, em học không hết.
-Em gắng học
ngoại ngữ để thi ban văn chương .
-Em chỉ biết
tạm tiếng Anh, tiếng Pháp quá yếu.
-Anh sẽ giúp
em.
-Hoàn tất
nhiệm vụ không ?
-Có em, anh
rất hết lòng.
-Người con
trai nào khi được yêu, lời nói nghe thật dịu dàng.
-Nước trái
cây là chất xúc tác của tiếng nói, em đồng ý không ?
-Anh nhớ hoa
hồng nào cũng có gai, nhé.
-Tên em là
tên của loài chim, không phải của những bông hoa.
-Vậy mà, em
rất thích hoa, vẽ tranh về hoa.
-Em là đôi
cánh của thiên thần. Một ngày nào đó, anh nhìn thấy em trên bầu trời,
và cũng
có thể trên mặt biển.
-Em rất
thương Mỵ Châu ?
-Anh biết.
Nhưng tại sao em Mỵ Châu chịu cảnh tật nguyền.
Với giọng xúc động của người chị yêu
thương em, Thiên Nga kể câu chuyện cô bé em mình cho Nguyên nghe.
-Con bé giúp
việc ham chơi quá.
Nguyên cố nói ra giọng hờ hững để
che dấu xúc động. Nga đang khóc, nàng nói thêm:
-Nếu em Châu
chịu khó, có thể thương tích sẽ lành lặn.
Vào năm đó, Mỵ Châu được đưa lên Đà
Lạt để trị bệnh và điều dưỡng. Nhưng ở một nơi cao nguyên lạnh lẽo,
vắng lặng,
cô bé rất buồn vì xa gia đình, vậy đó mà đành chịu không chữa được nữa.
Từ bến Cảng, Nguyên phóng xe
chạy trên con đường hướng ra biển. Hai người
nghĩ đến nhau qua câu chuyện về gia đình, về cuộc sống đã có trong quá
khứ.
Khi đến biển, Nguyên gởi xe và cùng
với Nga đến chỗ nhà nghỉ ngồi uống nước nhìn ngắm cảnh biển. Ngoài
biển, nhiều
người đang tắm. Trên bãi, đông người đi dạo, chơi bóng tròn, bóng
chuyền. Nhìn
lên phía xa một chút, có một nhóm du khách phụ nữ nước ngoài, họ ngồi
trên ghế vải dưới mái những chiếc dù màu
hồng, màu
xanh dương, và hướng tầm mắt nhìn tới một nơi xa đang có sương mù bao
phủ bóng
núi.
Nguyên nói:
-Năm đầu
tiên lên trung học, anh và Thụy được đi dự trại hè ở Cửa Đại.
-Em có ý tưởng,
anh và người em rất giống nhau.
-Khi được
hay biết em học về ngành mỹ thuật, nó sẽ hỏi em nhiều lắm.
-Thụy cũng
biết vẽ chứ ?
-Không.
Nhưng nó rất thích về họa. Tâm hồn của hắn là ly cà phê, chiếc áo mặc
màu thuốc
lá, và những bức tranh vẽ ngựa uống nước bên dòng suối. Bên dòng suối,
không chỉ
có khung cảnh thanh bình của bầy ngựa, mà còn có những cô gái nữa.
-Chắc là người
em, chưa biết gì về chuyện quen nhau của anh và em.
-Chưa đâu.
-Anh không hề
nói.
-Không. Năm
tới, em nán ở lại ở Huế những ngày hè, rất có thể nó được một kỳ nghỉ
phép trở
về thăm.
Nga cười nhìn sang Nguyên đang nói.
Trên tay, nàng luôn trở nhẹ hai thanh gọng chiếc kính mát .
-Anh nghĩ,
em có nên chuẩn bị một câu chuyện hay về hội họa để nói với Thụy khi
gặp nhau
không ?
-Không nên,
em cứ nói ra bằng cảm xúc trong sự sáng tạo của mình.
Nguyên gọi người hầu bàn đến trả tiền.
Hai người rời nhà nghỉ đến chỗ gửi xe, và từ phía biển cách xa thành
phố Nguyên
chạy xe nhanh trở về, lúc tới bến Cảng anh men theo con đường bờ sông.
Một giọng
vui, anh nói:
-Trên sông
đang đầy nắng, đợi có gió lớn em nhớ thả
cho mái tóc bay qua sông.
-Em không
lãng mạn như anh nghĩ đâu .
-Nhưng em
cũng đừng để cho sợi tóc nào cứa đứt môi.
-Sao vậy ?
-Linh hồn của
tình yêu nằm trong sợi tóc. Khi một sợi tóc cứa đứt môi, đó là dấu hiệu
của sự
chết chóc.
-Nhưng
đó cảnh bi thảm về chiến tranh.
-Em có nhớ
không ?, Cathérine ám ảnh cái chết của mình trong cơn mưa.
-Vâng, em hiểu.
-Mưa, tác giả
nói về chiến tranh, nói về tình yêu chỉ tìm thấy ở một nơi riêng biệt
thanh
bình.
-Em có cảm
giác mình run sợ.
-Không đâu
em, anh chỉ nói về lãng mạn của tình yêu đấy thôi. Em đang còn một thời
thiếu nữ
đỏ rực như hoa phương nở trong mùa hè.
-Anh thích
màu tím không ?
-Anh thấy đó
là màu buồn. Còn hoa hồng, em thích chứ.
-Đôi lúc,
anh hãy gọi tên em là Rose.
-Anh nhớ.
Dòng sông trải dài với nhiều đợt
sóng nước lớn và nắng tỏa rộng hết quang cảnh hai bên bờ.
Tới một ngả ba, có lối rẽ lên phố
chính Nguyên theo con đường này trở lại
khu trung tâm của thành phố. Nguyên cho xe chạy quanh một vòng ngắm phố
rồi đến
ngừng trước hiệu sách Lam Sơn.
Xe dừng bên lề đường. Nga bước xuống,
nàng sửa lại thân áo và mái tóc hơi bị xổ rối bởi gió ngoài sông.
Buổi trưa, cửa hiệu đông khách ra
vào, và giờ này cũng là giờ cao điểm phát hành các nhật báo Sài Gòn.
Hai người đi sâu vào bên trong, dừng
lại trước dãy kệ dành cho sách truyện. Nguyên lướt nhanh mắt nhìn qua
mỗi tầng
kệ để tìm mấy cuốn sách, trước hết cho Mỵ Châu, sau đó là củaThiên Nga.
Nguyên
thực vui, hài lòng khi tìm thấy. Rồi đến lượt, Nga dắt Nguyên qua chỗ
trưng bày
sách về họa và nhạc. Nga chọn được mấy tập nhạc tiền chiến, và tập nàng
thích
nhất là Những Tình Khúc Bất Tử, nhạc ngoại quốc, Phạm Duy soạn lời Việt.
Khi ra quầy trả tiền, cô bán hàng
cho tất cả sách hai người mua vào cái túi nylon nhiều màu có tên của
hiệu sách
in ở ngoài trông rất đẹp. Nga cầm túi xách theo Nguyên ra đường, rồi
hai người
lên xe về nhà không đi đâu nữa.
Buổi chiều ấy, Nguyên ở nhà với
Thiên Nga và trò chuyện với mọi người trong nhà. Ông bà Tri có bốn cô
con gái,
sự hiện diện của Nguyên mang một tình cảm đặc biệt với gia đình Nga.
Suốt buổi chiều, đôi tình nhân không
rời nhau. Nguyên cũng biết đánh đàn, anh đánh một số ca khúc, còn Nga
rất thích
những bài hát trong tuyển tập Những tình khúc bất tử. Nàng đã hát theo
nhịp đàn
lúc Nguyên phụ họa. Ở tập này, có cả lời tiếng Pháp nữa, những bài nào
Nga
thích, Nguyên vừa đọc lời tiếng Pháp và giảng nghĩa cho Nga hiểu.
Tối hôm ấy, cũng là tối đầu tiên
Nguyên hướng dẫn cho Nga học môn tiếng Pháp.
Ngày hôm sau, hai người đi chuyến
tàu sớm. Nguyên tới quầy mua hai vé ở toa đặc biệt. Khi ra khỏi cửa ga,
hai người
đi về phía toa cuối hết. Nguyên xách chiếc vali của Nga, còn Nga đeo
túi xách,
và một tập giấy vẽ cùng cọ, bút màu. Nàng mặc quần jean,
áo sơ mi kẽ sọc tím, dáng bước thật nhanh nhẹn.
Khung cảnh nhà ga có những nét lạ làm Nguyên chú ý, sinh hoạt buổi sáng
ở đây rất
ồn ào nhưng không diễn ra cảnh hỗn độn, chen lấn.
Cửa sổ toa xe mở cả hai phía. Nguyên
sắp xếp hành lý lên giá xong xuống ngồi cạnh Nga. Tàu chạy đúng giờ đã
ghi trên
bảng thông báo hành khách, những vòng bánh lăn chậm lướt qua, bên dưới
một vài
người đưa tay vẫy chào, rồi con tàu cứ thế dần xa, khuất dạng thành phố.
Bữa ăn sáng trên toa đặc biệt có nhiều
món , hai người gọi hủ tiếu và cà phê sữa.
-Khi nào có
Thụy về phép, chúng mình ra thăm quê ngoại một chuyến.
-Xa không
anh ?
-Xa hơn quê
nội chừng ba mươi cây số.
-Em thấy bác
trai hay đi nhiều, ít khi ở nhà.
-Ba anh làm
việc ở ngành xã hội nên đi công tác luôn.
-Anh và Dung
có nét mặt giống bác trai.
-Ba anh tuy
nhỏ người nhưng cũng hay. Ông có má lúm đồng tiền đó.
Nga cười:
-Anh cũng có
nữa.
Nguyên ăn xong, cầm ly cà phê sữa uống.
Trong lúc Nga còn ăn, anh cầm thìa khuấy sữa cho ly cà phê của Nga.
Nàng nhìn
anh, luôn cảm thấy hạnh phúc từ cặp mắt anh gửi lại, trẻ thơ, đằm thắm.
Hai người,
anh cũng như cô gái luôn có một ý nghĩ giống nhau từ những nụ cười tỏa
sáng ra
nơi cặp mắt.
Hai bên đường, ánh sáng rõ dần lan rộng
trên từng cảnh vật. Và rồi, chỉ ra khỏi thành phố nửa giờ đường, đoàn
tàu đã dừng
lại một nhà ga nằm gần quốc lộ, nơi đây bạn sẽ nhìn thấy biển và con
đèo bên dưới
núi.
-Em chọn học
về lụa, anh nghĩ sao ?
-Anh không mấy
rành về hội họa, nhưng chọn học vẽ lụa, thích hợp với em hơn.
-Em chọn con
đường nào anh cũng thấy đúng phải không ?
Nguyên gật đầu. Nga ngả người trong
vòng tay ôm ấp của anh. Nguyên vẫn lặng im như thể tìm một câu chuyện,
một khoảng
thời gian nào đó đã xa, trước khi anh có cơ duyên được gặp cô gái đang
hạnh
phúc trong vòng tay của anh. Tàu chuyển bánh rời ga, từ cửa toa tàu,
hai người
nhìn thấy một không gian rộng sáng đẹp, hài hòa những màu sắc êm dịu và
nổi vật
như là cảnh trong bức tranh.
-Cô họa sĩ của
anh !
-Anh nhớ cô
nào đó mà gọi tên đấy.
-Anh không
nhớ ai hết, nhưng anh biết em yêu anh ?
-Thực không
?
-Đó là tình
yêu của thiên nhiên.
-Em rất là
vui khi được anh dạy em học.
-Anh mong mỗi
ngày đều có em.
Đoàn tàu vừa đến bên dưới chân đèo,
rồi dừng lại. Không gian đã phối hợp và sắp đặt từng vị trí cảnh vật
hai bên đường
trước khi con tàu chuyển bánh. Biển lòa sáng dưới nắng. Những cánh rừng
bên triền
núi xanh thẳm và có những khe suối khi ẩn, khi hiện. Nước suối chảy gập
ghềnh
qua những mô đá. Và, chim rừng cất tiếng ca hát, vừa gọi nhau.
Bây giờ con tàu chuyển bánh trở lại.
Trong tình yêu dấu, Nguyên ôm giữ lấy Nga và cả hai cùng yên lặng ngồi
trên chiếc
ghế sát cửa sổ toa xe, vừa nhìn và cố ghi nhận từng nét cảnh vật. Đoàn
tàu trườn
lên vượt qua từng đoạn dốc với hai đầu máy, trước kéo, đằng sau đẩy.
Sau cái
nhìn luyến nhớ từ đôi mắt, Nga hé môi để cho Nguyên đặt môi hôn.
Chẳng bao lâu, đoàn tàu qua khỏi Hải
Vân bên con đường đèo dài đến 12 cây số. Phía dưới đèo là vùng đồng
bằng, cảnh
trí là ruộng đồng, làng mạc, những con sông, những cây cầu. Khi Thiên
Nga nhìn
cảnh vừa vẽ tranh, Nguyên lục tìm trong túi xách tờ báo, hoặc cuốn sách
để đọc.
Buổi chiều qua, ở hiệu sách, Nguyên mua được mấy cuốn để dành cô em gái
Mỵ Châu
và người yêu của mình.
Khi lấy cuốn sách, Nguyên chưa mở ra
đọc ngay, anh nhìn ngắm Thiên Nga đang buông thả tâm hồn với cảnh vật
và qua những
nét trên bức vẽ. Nắng sáng, in dấu trên mái tóc nàng. Và, cả trên thân
áo của
nàng nữa cũng điểm lấm tấm những bông hoa của ánh nắng. Rồi, cùng với
bút vẽ những
nét tài hoa của nàng bay lượn trên giấy , mỗi nét tạo được ngay ấn
tượng không
cho bạn nhận ra từ cảnh ở ngoài mà chỉ thấy trên tranh nàng đang vẽ.
Bên dòng
suối chảy có bóng cây, trên mái nhà có ánh nắng, một dòng sông bên dưới
cây cầu,
rất xa khung cảnh đó là một làng quê vắng lặng yên bình.
Nguyên mở sách đọc: Thung lũng Salinas
ở về phía Bắc tiểu bang California là
một dãy đất dài và hẹp nằm giữa hai dãy núi và con sông Salinas ngoằn
ngoèo uốn
khúc ở chính giữa cho đến khi đổ thẳng ra vịnh Monterey.
Nguyên đọc nhanh và từng trang dịch
của câu chuyện rất cuốn hút anh. Cuốn sách anh đang cầm đọc là cuốn
Phía đông
vườn địa đàng (East of Eden), tác giả là nhà văn Mỹ John Steinbeck.
Lúc này, đoàn tàu đang chạy chậm sắp
sửa đến ga xép. Qua bóng im của lá rừng, Nguyên trông thấy người bẻ ghi
cầm cờ
đứng đợi đoàn tàu tới.
-Em vẽ xong
chưa ?
-Chưa đâu.
-Anh muốn
ngưng đọc sách để ở bên em.
-Khoan đã.
Anh cứ đọc sách đi. Em đang sửa lại bức vẽ.
-Em là một
cô họa sĩ rất dễ thương.
-Anh khen em
nhiều lắm rồi, từ hôm qua đến hôm nay.
-Không có ai
thật lãng mạn như em cả. Vừa là hành khách trên tàu, vừa là họa sĩ vẽ
tranh.
-Em cảm thấy
thật dễ chịu.
-Anh đọc
sách tiếp đây.
-Anh đọc đi.
Rồi kể cho em nghe.
Khi đoàn tàu dừng, những người bán
hàng rong cất tiếng rao. Và, có một đứa nhỏ đứng bên dưới nhìn cô họa
sĩ vẽ
tranh. Bất chợt gặp nó, cô gái mỉm cười rất là thú vị.
Sau mười phút ngừng, đoàn tàu chuyển
bánh. Cô gái đã vẽ xong bức tranh. Người yêu của cô ngừng đọc sách, rất
hài
lòng với bức tranh cô vẽ. Trên quãng đường đi, đoàn tàu lúc nhanh, lúc
chậm và
đến mỗi ga xép lại ngừng khoảng chừng trong năm, hoặc mười phút.
V
Sài Gòn vẫn đang trong mùa mưa. Thụy
mới viết thư về thăm gia đình. Trong lá thư này, anh nhắc đến Thiên Nga
với cô
em gái và nhắn gửi một đôi lời hỏi thăm nàng. Trong sự thầm kín không
phải vì
đã yêu, nhưng thực lòng rất mong nhớ, anh rất muốn viết lá thư gởi
nàng, những
dòng thư của anh sẽ trang trải hết mọi niềm hân hoan từ buổi chiều nghe
câu
chuyện em gái anh nói về nàng, thế là anh có gặp nàng trong trí tưởng,
hay là
trong giấc mộng.
Sau thư gia đình, cùng hôm đó Thụy
viết thư gởi Thúy Hà. Vừa áy náy, cân nhắc, rốt cùng anh phải bỏ qua
không nói
với nàng về kỳ nghỉ phép về Huế mới đây. Nhưng
ích gì không, người bạn gái dường như vẫn còn ở
trong tim anh một sự chờ
đợi, vẫn có một mối tình mà dù ở hoàn cảnh nào cũng không ngăn cách
nổi. Đã có
lúc, anh tự nhủ mình quên, nhưng rồi, bóng dáng nàng từ đâu trở lại
đứng bên
anh rất lâu trong thời gian của giấc mơ.
Thụy rất thường hay đến nhà dì Hồng,
có bữa ở lại chơi ăn cơm và đánh bài xì dách. Thụy thường được bạc nhờ
đỏ,
nhưng không nhiều lắm.
Suốt cả tuần nay bên nhà Huê đóng cửa.
Thụy không hỏi Thúy, nhưng mỗi lần đi
ngang không thấy bóng nàng, anh băn khoăn.
Rồi cũng không vắng lâu, nàng đã trở
lại. Vừa trông thấy nhau, cả hai cùng vui mừng. Huê mặc bộ quần áo
thường có chấm
bông đỏ đứng ở hiên ngoài. Gió thổi nhẹ mát, lay động những ngọn lá
trên chậu
hoa nơi Huê đang đứng. Thụy tới gần, dừng lại trên bậc thềm.
-Anh mới đi
đâu về ?
-Đi chơi với
người bạn.
Huê mời Thụy vào nhà chơi. Đèn căn
phòng trước sáng, thật dễ chịu trong không gian rộng vì chỉ bày biện
đơn giản.
Cô gái lên tiếng:
-Em ở Long
Xuyên mới về.
-Vậy à.
-Em về thăm
ba mẹ.
Huê bỏ đi ngay sau đó, cô vào nhà
trong, chốc lát sau trở ra với chiếc khay rộng có trái cây và nước
uống. Thụy
đang ngắm nhìn bức ảnh của Huê đóng khung treo trên tường. Bức ảnh đen
trắng,
càng nhìn anh thấy rõ hơn những nét đẹp duyên dáng, ở đôi mắt lồng kính
một nụ
cười đang tỏa sáng trên một gương mặt thật tươi trẻ.
-Trái cây đầu
mùa phải không em ?
-Vâng.
-Em thi cử
ra sao ?
-Trượt rồi.
-Em không
nói đùa.
-Không.
-Em không thể
nào rớt được.
-Anh không
tin à ?
-Hoàn toàn
không .
-Tùy ý anh.
Hai người ngồi xuống gần nhau.
-Trông anh
khỏe mạnh.
-Anh trông
tin em. Đi ngang qua nhà mấy lần vẫn thấy đóng cửa.
-Thúy không
nói gì với anh ?
-Anh không hỏi.
-Em mới về
chiều nay.
Mỗi thứ trái cây có vị ngọt, hương
thơm riêng. Hạnh phúc đến với Thụy hơn hết là lúc này được ngồi bên Huê
trong
nhà nàng. Nhà vắng, Thụy hơi bâng khuâng và có chút do dự, ngỡ ngàng.
Huê nói:
-Em sắp đi ở
nơi khác.
Thụy bỗng ngồi im, bất động. Một lát
sau, anh hỏi nàng:
-Sao em muốn
đi khỏi đây?
-Nhà này gia
đình muốn cho thuê.
-Cho thuê hả.
-Ờ. Huê cười
tiếp lời, anh muốn thuê không ?
Thụy bỗng có ý tưởng như đây là căn
nhà của anh. Cô gái để nguyên vẹn khuôn mặt cho anh ngắm nàng. Thụy nhớ
lại buổi
chiều hôm ấy trời mưa, canh bạc nhỏ trên căn gác, tiếng nói của Huê ,
rồi ly cà
phê mang ý nghĩa cuộc đời của kẻ thất chí, nỗi buồn nhớ anh vẫn còn ray
rứt
trong ngày ra đi. Rồi một buổi sáng ấy trên bến Cảng có hình ảnh một
thiếu nữ mặc
áo trắng. Con tàu cất tiếng còi nghe vắng xa. Tàu vừa tách bến, Huê ở
trong
lòng anh, nàng theo anh qua một quãng đời.
-Anh về nghỉ
phép vui không ?
-Không vui,
buồn.
-Sao vậy ?
Chắc cô bồ ngoài đó quên anh.
-Không, anh
không có bồ.
-Thực vậy
sao ?
-Về Sài Gòn,
gặp lại em anh vui.
-Thực hả.
Rồi một giọng điềm nhiên , Huê nói:
-Hết tháng
này người thuê nhà dọn đến ở.
- Nhưng em
đi đâu, xa hay gần Sài Gòn.
- Cóù nhà
bên khu Bàn Cờ, em về ở với gia đình chị Yến.
-Còn anh
Chương ?
-Anh đi du học,
qua Mỹ rồi.
-Ở nơi này sẽ
vắng bóng em.
-Em nghĩ là
không sao cả. Thực tình, chỉ thi lại loạt hai nên em dễ đậu.
-Mừng cho em.
Huê không nói gì, nhưng đôi mắt nàng
muốn gợi nhớ ra nhiều kỷ niệm cũ. Từ ngày ấy không xa lắm khi người
lính trở về.
Ngày nhập ngũ, Thụy lên đường ra Nha
Trang bằng tàu thủy. Lênh đênh giữa sóng biển một ngày đêm, sáng hôm
sau tàu ra
tới thành phố Nha Trang, và đây là một thành phố biển đẹp nhất miền
Trung.
Rồi sau ba tháng học căn bản quân sự,
lễ mãn khóa Thụy được cấp bằng hẳn hoi. Thụy rời quân trường trễ hơn
các bạn một
tuần, vì ở lại dự kỳ thi Tú Tài I. Thực may mắn, mấy hôm thi anh làm
bài được,
nhưng cũng có nhờ hai thí sinh ngồi gần bàn nữa. Buổi chiều ngày chủ
nhật, Thụy
đi ra phố chơi, ghé quán nước giải khát rồi vào rạp hát xem phim Le
temps
d’aimer et le temps de mourrir. Cuốn phim dựa theo tiểu thuyết của nhà
văn người
Đức Erich Maria Remarque. Thụy đã đọc cuốn
truyện dịch, nên lúc coi phim, có nhiều câu đối thoại bằng tiếng Pháp
anh hiểu
được, không cần nhìn xuống dòng phụ đề.
Khi đèn rạp hát sáng lên, anh vẫn ngồi
trên ghế. Ý nghĩa về cái chết của người lính trong chiến tranh thật là
buồn.
Tình yêu của nàng và người lính, nương tựa vào lá thư, vậy mà lá thư
anh ta cầm
trên tay chỉ đọc được ít giòng, rồi anh ngã gục, lá thư buông trôi trên
dòng nước.
Phố chính đường Độc Lập bừng dậy
trong không khí nhộn nhịp, rất đông người ngày cuối tuần. Hai bên,
những cửa hiệu
buôn bán nối nhau, nhiều quán hàng ăn, quán giải khát chỗ nào cũng đông
khách
ra vào, và ồn lên tiếng nhạc kích động.
Thụy ghé tiệm phở, lúc bước vào thấy
đông khách , nhưng anh không đợi lâu. Tiệm ăn sạch sẽ, mùi phở thơm
ngào ngạt
làm anh cảm thấy đói. Thụy gọi tô lớn, lúc người chạy bàn mang ra, có
bao nhiêu
thứ gia vị để sẵn trên bàn, anh cho mỗi thứ một chút, và rồi một mình
thưởng thức
bữa ăn ngoại lệ của mình. Trong lúc ăn, anh muốn quên đi cảnh đời khó
khăn của
gia đình, ba mẹ, các em anh đang ở Huế, và quên đi số phận mình là
người lính
dù không bị súng đạn đe dọa, nhưng cuộc sống không cách nào nhìn thấy
ngày mai
đây sẽ trở nên tốt đẹp.
Thụy ăn hết tô phở, vừa đủ no và
ngon. Bên kia đường là một hiệu sách có bày nhiều tranh ảnh đẹp treo ra
phía
ngoài. Trên phố nãy giờ luôn nhộn nhịp, đông vui, và những gương mặt
người tân
binh hay SVSQ các quân trường trông rất tươi trẻ. Hạnh phúc cho các
thiếu nữ và
các chàng trai người đang có người yêu đi bên cạnh mình. Thụy dừng lại
giây lát
trên bờ đường nhìn ngắm mái tóc, những tà áo duyên dáng, mơ mộng của
các cô gái
trong thành phố này. Và, mai đây như thế nào thì đó là chuyện của thời
gian trả
lời.
Ở trên chiếc bàn dài thấp gần quầy
tính tiền là nơi đặt báo. Tất cả đều mới,
tạp chí, tuần báo đến nhật báo. Báo Văn, số này là tuyển tập thơ văn.
Lúc báo
này ra mắt số đầu tiên, Thụy rất thích, khi mượn được của người bạn
trong tuần
đầu anh đã đọc hết. Và, báo này đã gợi lên trong anh niềm ước ao sự có
mặt tên
tuổi của mình. Thời gian qua, anh không dám gởi bài vì lượng sức mình
chưa đủ.
Những truyện ngắn anh sáng tác, chỉ vừa trong trình độ của nhật báo,
tuần báo
thôi. Nhìn báo Văn, truyện muốn được đăng bạn cần có một cách viết lạ
trong
ngôn ngữ và ý tưởng mới. Một lần thất bại
của Thụy là truyện ngắn viết về Thúy Hà, người bạn gái anh vô cùng yêu
thương.
Khi nhận được thư tòa soạn, anh hiểu ra
cái non nớt, yếu kém của mình không là nội dung câu chuyện, mà ở cách
viết. Tuy
nhiên, anh rất hài lòng với chi tiết tả buổi sáng ở lớp học cùng với
nàng đánh
cờ ca rô , bất giác, trong phút giây xúc động của tình yêu, nàng để cho
anh mở
rộng bàn tay nâng mái tóc nàng lên nhìn gương mặt nàng qua một vẻ đẹp
tỏa sáng.
Buổi chiều đang xuống, nắng dần trôi
xa. Khi ra khỏi hiệu sách, bên tay Thụy là một cái túi nylon đựng một
cuốn truyện
dịch và mấy tờ báo.
Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày
Thụy bước đi thanh thản, vừa sống với
những giờ khắc hạnh phúc. Mỗi nơi chốn mang đến, từng thứ một thật là
nhẹ
nhàng.
Buổi chiều thân tình như người bạn.
Thụy chưa muốn trở về trại, vì hôm nay
là ngày cuối ở Nha Trang, và sáng mai chiếc
túi sac marin, chiếc ba lô đeo vai, Thụy sẽ giã từ
quân trường.
Bỗng nhiên, Thụy dừng bước đưa tay dụi
mắt. Một bóng người đàn bà áo trắng vụt hiện, đứng ngay trước mặt anh
thật lạ
lùng. Thụy hết sức bối rối, ít giây sau mới nhận ra. Và, anh thấy nàng
thay đổi
rất nhiều. Nàng đứng yên đó, cặp mắt bất động nhìn anh.
Anh thấy nàng (có hơi mờ đi), và hơi
e thẹn, ngập ngừng.
-Ông Thụy,
nàng khẽ nói.
Người lính mỉm cười, vẻ mặt bỡ ngỡ.
-Ông không
nhận ra tôi ?
Một vài giây sau.
-Có, Thụy
đáp nhỏ tiếng.
-Ông biết
tên tôi không ?
-Cô Thùy.
Nàng cười, đưa tay cho Thụy bắt.
Nhìn quanh, anh nhận ra đây là khu Phước
Hải ngày xưa, không thay đổi nhiều. Phía bên đường là nhà thờ Chánh tòa
xây bằng
đá. Thụy nhớ lại những buổi tối anh và Nhị ra nhà thờ ngồi chơi, hóng
mát, gió
nhẹ rung lên khi buổi chiều vừa tới giờ chuông đổ, sau một lúc, có
tiếng còi
tàu từ nhà ga vọng tới.
-Cô Thùy vẫn
còn ở Đà Lạt ?
Nàng cười bảo:
-Tôi đâu còn
là học sinh nữa.
-Tôi cũng vậy,
mới đi lính mấy tháng.
-Ông có nhà ở
đây ?
-Không, tôi
đang ở quân trường.
Quán nước mía bên đường có căng tấm
bạt rộng. Thụy và nàng đến đó, ngồi xuống ghế nhỏ bên chiếc bàn vuông
thấp. Nước
mía mang ra, mỗi ly có ống hút.
-Cô Thùy được
mấy cháu rồi ?
-Chưa.
-Sao vậy ?
-Đừng hỏi
lôi thôi, ông bạn.
-Không lẽ,
cuộc sống gia đình không có gì vui ?
-Bộ ông muốn
nhảy vô hả.
-Không dám.
Nàng cười nhìn lại người bạn cũ.
-Anh Thụy vẫn
trẻ con như ngày đó.
-Tôi vẫn nhớ
buổi đầu tiên gặp Thùy . Những kỷ niệm về Đà Lạt của tôi nằm trong ngày
đó.
Nàng chỉ mỉm cười không nói.
-Nước mía uống
thật ngon.
-Anh có viết
thư thăm thầy Phiên không ?
-Có. Cậu tôi
đã được giải ngũ.
-Rồi đến lúc
nào anh ra trường ?
-Tôi vừa mãn
khóa học. Ngày mai, tôi trở về Sài Gòn.
Ly nước mía bên nàng đã vơi một nửa.
Nàng nói:
-Gia đình
Thùy vẫn ở Đà Lạt.
-Đường Phan
Bội Châu ?
-Sao mà nhớ
ghê vậy ?
-Có cây si
trồng ở đó, chặt đứt không ?
Nàng cười, ánh mắt dịu lên một vùng
sáng. Bên cạnh người lính, còn một chiếc ghế trống. Và, nàng vừa mở
rộng bàn
tay cho chàng được nắm lấy.
-Đà Lạt, kỷ
niệm đẹp trong thời đi học.
-Rồi sương
mù, rồi cỏ, những đồi thông, rồi.. nhiều nữa.
-Thùy
sinh ở Đà Lạt hay ngoài miền Bắc.
-Ở đường
Phan Bội Châu.
-Con đường
có đồi khế, màu đất đỏ.
-Cám ơn anh
Thụy đã nhớ.
-Tại sao
Thùy không mặc áo tím ?
Thời gian đã làm cho kỷ niệm lắng xuống
rất sâu. Và, nếu Thụy nhớ lại rõ nét, nói ra tên con đường, vẽ lại từng
màu sắc
chiếc áo, vẽ lại được cả từng hạt mưa, thì những hình bóng cũ ấy cũng
đã là một
sự mất mát, muộn màng thật cảm động. Vì thế, anh đã ngăn được ý nghĩ
của mình
khi muốn gợi ra một câu hỏi về những lá thư anh trao tận tay nàng, về
những điều
nàng đã biết tại sao anh yêu nàng, và trong đó nữa có một tấm lòng của
nàng đối
với ba mẹ anh ở xa, khi đã có những lần nàng ghé qua trạm bưu điện bỏ
giúp những
lá thư anh gởi về nhà.
Ngồi chuyện trò cũng khá lâu, trời
đã tối, đường phố sáng đèn. Thụy cùng đi bên cạnh nàng một đoạn đường,
tới ngã
tư gần đó hai người dừng bước.
Thùy ngước mắt, nàng nói:
-Bao giờ
cũng vậy, gặp lại nhau là biết kỷ niệm vẫn còn nhớ.
Và lúc này đây, Huê còn nhắc Thụy nhớ
đến khuôn mặt viên Trung úy trưởng trại và chữ ký của ông nằm trong
khuôn dấu đỏ.
Thụy vẫn nhớ cái bắt tay rất chân tình cùng lời từ giã ông nói, trong
đó, ngày
mai anh sẽ đi xa không hy vọng gặp lại ông nữa. Ông rất quí mến Thụy,
và riêng
anh đã có sự đóng góp làm tờ Đặc San cho một khóa học, tuy gấp gáp vì thời gian quá ngắn nhưng thể hiện được điều
ông mong muốn.
-Anh có món
quà dành cho em.
-Đâu nào ?
-Anh để bên
nhà.
-Anh cho em
món quà gì ?
-Một tờ Đặc
San anh và các bạn làm ở quân trường.
-Hay qúa, chịu
khó về mang qua cho em.
-Sáng mai,
anh đem qua cho.
-Không. Về lấy
đi anh.
Thụy biến mất như cái bóng. Thúy ra
mở cửa khi nghe có tiếng chuông.
-Anh đi đâu
về ?
-Đi với người
bạn.
Thụy đi nhanh lên gác, vội vàng mở
túi xách lấy tờ báo. Rồi anh vụt chạy xuống cầu thang lúc ấy, trong nhà cũng đang vui tiếng chuyện trò của
mấy người bạn dì Hồng ngồi ở nhà sau.
Huê vẫn một mình trong phòng khách
trống vắng. Khi thấy Thụy trở lại, nhìn vẻ mặt anh nàng không thể nhịn
cười. Thụy
đặt tay lên vai nàng, giữ lâu trong chốc
lát.
Hai người ngồi xuống bên nhau trên
chiếc ghế xô pha rộng. Thụy cầm chén nước trà đưa lên miệng uống từng
hớp. Ý
nghĩ về ly cà phê dậy chút men, anh ngồi im mắt không rời khỏi những
ngón tay
Huê đang giữ lấy từng trang báo. Khi thấy bài Thụy ký tên, nàng ngừng
lâu. Nàng
chợt mỉm cười, Thụy nói:
-Có em trong
đó.
Huê đọc thêm một đoạn, rồi lật trang.
Tờ giấy vàng đục, chữ đánh máy đen đậm trong đó mang dấu vết ngày tháng
in sâu
nỗi buồn nhân thế. Thụy chẳng hề tâm sự với ai, nhưng anh đã viết. Anh
viết về
Huê, trong bóng dáng và tên gọi của nàng anh đã lẫn lộn biết bao nhiêu
điều chỉ
muốn nói về một người bạn gái của mình. Và, ngồi đây bên cạnh một cô
gái không
phải là người yêu, Thụy nghĩ rằng mình đang trốn khỏi một cuộc chiến.
Thụy rất
ngạc nhiên, vì nó đã vây hãm cuộc sống của anh những ngày trước đây đến
đỗi sống
ở Sài Gòn anh vẫn lo sợ, nhất là, nhận diện rõ ràng qua quần áo mặc của
mình.
Huê gấp tờ báo lại, cô nói:
-Hay quá,
anh đã thực hiện được tờ báo này.
-Chỉ trong
vòng mười ngày.
-Anh kể chuyện
mấy tháng ở quân trường cho em nghe.
-Ngày nào
anh cũng tắm nắng và đổ mồ hôi.
-Anh quá
lãng mạn.
Thụy rót thêm đầy tách nước, rồi đưa
qua cho Huê.
-Cám ơn anh.
Thụy cầm tờ báo lên xem qua. Đồng hồ
trên tường đổ chuông. Rồi sau đó, anh và Huê hai người giúp nhau chuẩn
bị bữa
ăn tối. Khi ở trong căn nhà trống vắng, ánh đèn điện sáng lên đó là sự
ấm cúng,
điềm đạm, vừa chừng mực, đó cũng là một dấu hiệu về lương tri. Chàng và
nàng
như là hai anh em ruột thịt sống bên nhau trong những ngày ở xa gia
đình. Cách
đây hơn một giờ, Thụy ngồi với Minh ở quán ăn bên khu chợ Thái Bình.
Thụy và
Minh, hai người gặp lại nhau sau một năm. Ở Đà Nẵng Minh vào Sài Gòn,
không phải
mong học tiếp mà tìm kiếm việc làm. Rồi hắn đổi ý, và hắn còn đợi chờ
mười ngày
nữa đi chuyến bay quân sự lên Đà Lạt đặt chân vào trường Võ Bị.
Dứt một giây hồi tưởng, Thụy hỏi
Huê:
-Em có nghĩ
tới hạnh phúc cho mình trong tương lai.
-Em vẫn sống
bình thường, tự nhiên.
-Anh luôn
luôn nghĩ đến hạnh phúc của em.
-Bây giờ
không có gì cả là hay nhất.
-Thật vậy
sao ?
-Anh có chọn
nghiệp văn cho đời mình không ?
-Em hãy chọn
cho anh.
-Em không biết
.
-Anh cảm thấy
vui khi em còn ở Sài Gòn.
Có bóng người đi qua bên ngoài. Thụy
cảm thấy nôn nao muốn nói với Huê:
-Không, sự
ràng buộc đời tôi là Thúy Hà. Tôi yêu nàng, vì tôi nghĩ nàng đã sống
với tôi
trong bao nhiêu tình cảnh người vợ qua những kiếp luân hồi. Trên miệng
lưỡi, hễ
gọi tên nàng là tôi nhận ra dư vị cay đắng lẫn ngọt ngào.
Thụy để lộ ra một bộ mặt si dại, ngớ
ngẩn. Huê buông đũa, cười lớn tiếng, tiếng cười dồn đổ nghe như là một
trận
mưa. Trong người Thụy nóng ran lên như cơn sốt, ngay lúc đó, anh để
ngửa lòng
bàn tay.
Vậy rồi, buổi tối đó qua đi mà chàng
cũng đã che giấu hết sức vội vàng. Chàng được ở bên cô gái đến nửa đêm.
Hai người
chơi đánh bài. Chàng luôn chú ý những con bài cơ hồng đỏ hình trái tim,
nó rạo
rực trên mấy ngón tay của Huê.
Bỗng tiếng cô gái nói:
-Thôi, anh về
đi. Đã khuya rồi.
Chàng không muốn nghe giọng ái ngại ấy
làm gì. Rồi không thể nào cô tránh kịp, chàng đã ôm gọn lấy thân cô
gái, rồi thật
yên lặng cô để cho chàng đặt môi hôn,
nhưng một lúc sau chàng nghe tiếng cô khóc. Cô gái khóc,
chàng nói những lời dỗ dành, vừa nghe tiếng hạt
mưa và tiếng mình nói xúc động hòa tan vào hương vị thơm của mùi tóc.
Về nhà, Thụy thao thức không ngủ được.
Anh cảm thấy mình hối hận và nghĩ đến Thúy Hà. Sau đó, anh gặp nàng
trong giấc
mơ. Bên cánh cửa, nàng bồng đứa con trai nhỏ. Anh đứng yên lặng sau
lưng nàng một
lúc rất lâu, bỗng nhiên, trên tường vôi trắng anh trông
thấy nàng ngồi một mình xõa tóc. Không
biết nàng tìm thấy ai đó trong dĩ vãng.
Sáng hôm sau thức dậy, Thụy vẫn còn
nuối tiếc giấc mơ. Anh không lo âu, sợ hãi, nhưng nghĩ rằng Huê vẫn còn
khóc.
Nàng khóc vì ức chế, chứ không có gì giận dỗi ai cả. Thụy lại rời nhà,
cùng đi
với Lăng suốt ngày. Hai đứa đi xe đạp, đến thăm gia đình họ hàng. Ai
cũng thấy
anh thay đổi, trông vẻ mặt đầy nghị lực, tin tưởng vào cuộc sống. Và,
những lời
khuyên chân tình của bà con làm anh xúc động, tự hứa với mình cố gắng
trở lại với
sách đèn.
Qua tuần lễ sau, Thụy trở lại nhà dì
Hồng và đi qua nhà Huê. Anh mạnh dạn bước lên bậc thềm, vừa gọi tên,
vừa bấm
chuông.
Huê ra mở cửa, thấy anh nàng hỏi:
-Đi đâu
cả ngày nay ?
Thụy
nhìn đồ đạc đang bỏ lung tung trên bàn ghế.
-Em đang làm
gì ?
-Ngày mai em
dọn nhà.
Thụy cầm lấy tay Huê.
-Anh còn muốn
gì nữa ?
-Anh rất nhớ
em.
-Bày vẽ ra.
-Em cần
anh giúp em một tay không ?
-Thích làm
giúp thì nhảy vô.
Thụy để Huê sắp xếp
quần áo, còn sách vở, mấy thứ
linh tinh anh dọn giúp nàng. Cô gái nói:
-Em cũng thật
bê bối với những thứ đồ đạc của mình.
-Ngày mai
thì sao ?
-Giúp cho
tôi một tay.
-Em không dịu
ngọt chút nào cả ?
-Người em
hay nổi nóng, lên cơn lắm.
-Còn anh lúc
nào cũng thèm đi xa. Có em, anh thấy lòng mình vui.
-Anh liều với
em, không chỉ một lần đâu.
Giọng Huê rất giản dị, lắng sâu. Thụy
không đáp lời, chỉ thu xếp những thứ còn lại
vào túi xách.
Trước khi rời nhà, buổi sáng Huê mời
Thụy uống cà phê. Khi Huê hỏi chuyện về sự liên hệ của anh với dì Hồng,
anh nói
rõ hơn.
-Em là bạn
thân của Thúy.
-Anh biết.
Một giờ sau, Huê và Thụy cùng đi
chuyến xe lam đến nhà người chị. Người mẹ đi vắng, hai đứa nhỏ vòng tay
chào
đón khách. Huê có căn phòng riêng ở nhà dưới. Thụy giúp nàng dọn dẹp
căn phòng.
-Công việc
này làm anh luôn nhớ đến em.
Thụy vừa nói, vừa đặt khung ảnh của
nàng treo ngay ngắn trên tường chỗ có đặt bàn học. Khi đã có được chút
nồng nàn
với cô gái, lúc nào trong lòng bạn cũng đầy ắp hương vị của tình yêu.
Treo bức ảnh
xong, Thụy lùi lại một bước nhìn đăm đăm bóng dáng người đẹp. Trong
lòng anh
, nắng ấm chan hòa, ánh sáng của ngày vừa
đổi mới.
Xong việc dọn nhà, Huê mời Thụy đi
ăn cơm trưa. Thụy không đói lắm, nhưng từng giây phút được ở bên cạnh
nàng là một
dịp anh sống với cuộc đời hạnh phúc khi có được tình yêu. Yêu một người
con
gái, và được gần gũi nàng vui tiếng chuyện trò, dù cho chưa gì với nhau
cả,
mình cũng cảm thấy được tình yêu. Huống gì, vào buổi tối ấy, sự đâm
liều của
anh nó may mắn như một người trúng vé số.
Nhà Huê ở trong khu bàn cờ, gần đấy
là khu chợ, và đi ra đầu đường là gặp phố chính. Dọc con phố, nhà nào
cũng là cửa
hiệu buôn bán, quán ăn, quán giải khát. Quán ăn của người Hoa luôn đông
khách.
Hai người ngồi phía dãy ngoài mái hiên, Huê cầm menu gọi món ăn, và anh
có hơi
ngạc nhiên khi cô gọi cả bia nữa.
Thụy lên tiếng:
-Ông cho một
chai bia lớn, hai ly.
Không đợi lâu, bữa ăn dọn ra ngay
sau đó ít phút. Cả cơm và thức ăn nóng tràn hơi khói. Thụy cầm chai bia
rót vào
ly Huê trước xong đến mình.
Thụy bảo Huê cầm ly lên, cụng một
cái trước khi uống. Và, anh nói:
-Rượu bia
này uống chơi.
Nàng nhìn lại anh hỏi:
-Khi nào mới
uống thiệt ?
-Đâu biết.
Chuyện của em mà.
Huê nói:
-Em không
cám dỗ anh đâu.
-Không , thì
thôi.
Bữa ăn trong sự yên lặng. Nhưng
không có gì đáng tiếc xảy ra cho hai người. Sau bữa ăn, Thụy đưa Huê về nhà rồi chia tay.
Không biết đi đâu, và cũng chưa muốn
về nhà, ra tới trạm xe buýt gặp xe anh bước lên và theo chuyến xe về
tới bến.
Sài Gòn luôn đông vui. Một mình lang
thang trên phố, hai mắt người lính trẻ luôn nhìn xa gần, chung quanh,
và trong
ý nghĩ luôn ước mong gặp một ai quen để nói ra những lời tâm sự.
Trên vỉa hè Lê Lợi có rất nhiều bán
sách báo cũ. Qua mỗi sạp, Thụy dừng lại trong chốc lát. Anh mua được
mấy cuốn
sách , và một số tạp chí Sáng Tạo cũ. Thụy cứ đi hết con đường lên tới
nhà hát
thành phố. Và rồi, anh vòng qua bên đường đi ngược trở lại dọc theo hè
phố, đến
quán Mai Hương ghé vào gọi một ly cà phê đá
Người ngồi
trong quán hút thuốc nhiều làm anh bị sặc khói. Nhưng, anh vẫn đốt
thuốc để uống
cà phê. Ngồi trong quán ai cũng nhìn ra con đường rất đông người đi dạo
trên phố
chính. Những tà áo dài của các cô gái đi ngang qua làm dịu mát buổi
chiều. Những
tà áo thật đẹp, đem cho mỗi người một niềm vui, và có cả sự buồn nhớ
nữa. Trời
sắp tối, Thụy ra về. Quán vẫn đông khách, và bắt đầu ồn lên cùng với
tiếng nhạc,
lời ca, vọng từ dĩa hát.
Về nhà dì Hồng, Thụy gặp Lăng. Hôm
nay là ngày giỗ của mẹ dì Hồng. Thụy nói lời xin lỗi dì rồi đi dốt
hương. Khi
anh trở vào, cô Thúy nhìn anh với cặp mắt dò xét. Ngồi quanh chiếc bàn
tròn có
Lăng, dì Hồng, và Thúy, Thụy nói chuyện về những ngày nghỉ phép đã qua.
Sau đó, bữa cỗ dọn lên. Chuyện trò
vui, anh hăng hái nói chuyện về đời lính, về tương lai của một chuyên
viên
Không Quân mà anh tin tưởng là sẽ đem lại nguồn vui cho cuộc sống của
mình.
Thúy nói:
-Anh đi lính
rồi trông trẻ hẳn ra.
Thụy cảm thấy nhẹ nhõm vì có được sự
dịu nhẹ mối nghi ngờ trong mắt Thúy.
-Anh khỏi lo
chuyện quân dịch nữa.
-Rồi anh có
đi học lại không ?
-Thong thả,
qua năm tới.
Thụy hỏi qua Lăng:
-Có định về
thăm dì không ?
-Không. Tuần
đến tôi đi Đà Lạt.
-Đi chơi.
-Không. Tôi
đi dạy
Không hiểu sao, Thụy chợt có cảm
giác mình đang bị thành phố bỏ rơi.
-Lên trên đó
ở luôn.
-Không, sang
năm tôi về.
VI
Trước khi bắt đầu vào năm học, Thiên
Nga dành hai ngày đi theo Nguyên ra Quảng Trị thăm làng quê bên nội và
bên ngoại
của chàng. Hai người chỉ đem chung cái túi xách với vài bộ quần áo để
thay,
khăn mặt, bàn chải đánh răng, một ít thức ăn khô và trái cây trong hộp,
đây là
phần lương khô hàng tháng của Nguyên. Nga cũng đem theo cọ, mực màu,
giấy vẽ, đặc
biệt là chiếc máy ảnh hiệu Canon. Nguyên vẫn thích mặc đồ lính cho
tiện. Nga
không mặc áo dài, nàng chọn chiếc sơ mi sọc xanh, quần jean, đội nón
vải và đeo
kính mát. Nàng thật đẹp trong dáng dấp áo dài tím thướt tha, và cũng
thật trẻ
trung, nhanh nhẹn trong lối mặc áo quần của lớp thanh niên.
Xe lửa rời ga lúc 8 giờ sáng. Trời dịu
mát với quang cảnh đầu thu lãng đãng những bóng cây, ánh sáng buồn dịu
dàng, và
trên bầu trời có những cánh chim một mình bay xa.
Với tốc độ rất đều, đoàn tàu chạy qua cầu,
qua sông, rồi những cánh đồng ven miền quê. Nga rất thích thú nhìn
quang cảnh,
nàng đang ở trong vòng tay ôm ấp của người yêu. Nguyên thích trò
chuyện, anh có
nhiều câu chuyện kể thật là thú vị.
Nga chợt hỏi:
-Tại sao anh
bỏ Sài Gòn về ngoài này ?
-Anh ở trong
đó lâu năm rồi.
-Thì ở Huế,
không là nơi anh ở lâu à.
-Ở thành phố
này rất là dễ chịu. Hơn nữa, giờ đây anh có em.
-Hôm chúng
mình gặp nhau ở quán cà phê, tình tứ quá phải không.
Nguyên hỏi:
-Trong hai
người, theo em, ai biết mình được để ý trước.
Nga đáp lời ngay không suy nghĩ:
-Anh.
-Thật vậy
sao ?
-Anh không
tin.
-Ờ.
-Anh không
tin em yêu anh sao ?
-Tin chứ.
Nhưng em nói thật không ?
-Vậy chứ
theo anh ai được chú ý trước ?
-Em.
-Thật là cảm
động.
-Anh ghi lại
được ngay phút giây đó gương mặt em dịu hiền, mái tóc đẹp, và nụ cười
thật dễ
thương.
-Chết em mất.
Nguyên tìm lời chỉ trong vài giây,
anh lên tiếng:
-Bây giờ em
cho anh nói thật không ?
-Anh nói đi.
-Anh cám ơn
em, nhiều vô kể.
-Ít thôi,
nhiều quá cất không hết.
-Để anh nói
rõ thêm.
-Anh cứ nói.
-Vừa tan buổi
văn nghệ, anh mong gặp em nhưng vì gặp người bạn có chuyện trao đổi
lâu, lúc ra
đến ngoài, anh tìm không thấy em đâu cả.
-Cuối cùng,
ai cũng ngạc nhiên.
-Đêm hôm đó,
trăng sáng lạ lùng.
-Đến khuya,
trên con đường vắng chỉ có tiếng bước chân chúng mình.
-Anh nhớ mãi
tên em, và mong được gọi đó là tên của thành phố.
-Lớn quá, gọi
bằng tên của dòng sông nghe gần gũi hơn.
-Em đã bảo
anh, em có tên Rose nữa, đúng không ?
-Em rất
thích hoa hồng. Khi hoa tàn, em không nở vứt đi mà hái cánh hoa ngâm
vào trong
chậu nước.
-Em thực là
con người nhân hậu.
-Anh nói sai
rồi, phụ nữ có lúc rất cần phải dữ, rất cần la lối om sòm để cho kẻ
khác sợ.
-Em nghĩ, nếu
anh có làm điều gì lỗi với em, thì làm sao ?
-Anh đứng
trước mặt em, vòng hai tay xin lỗi.
Nguyên chợt dụi mắt vì bụi than. Những
đám khói tàu ngược chiều gió cuồn cuộn bắn bụi than tung tóe bay vào
các toa
xe. Lúc ấy, Nga rút chiếc khăn trong ví ra và Nguyên nhắm lại để nàng
lau bụi
bên khóe mắt.
Sau ít giây, Nguyên mở mắt hơi khó
chịu một chút. Bụi tan, Nga lấy chai nước lọc rót vào cái ly nhựa đưa
cho Nguyên
uống. Nguyên uống thong thả từng ngụm đầy.
Phía ngoài cánh đồng, một đàn bò đi
dưới nắng. Nga hỏi:
-Hồi xưa,
ông ngoại anh làm quan lớn không ?
-Ông ngoại
làm tri phủ. Anh là con trai đầu của mẹ, và cũng là đứa cháu được ông
ngoại
thương nhất.
-Thực không
?
-Ông ngoại
làm tri huyện Nga Sơn.
-Hay nhỉ.
Nghe như có tên em trong đó nữa.
Nguyên bắt đầu kể rành mạch chuyện
được theo mẹ lên tàu từ Đông Hà ra Thanh Hóa, được ở chơi cả tháng trời.
-Ngày anh về,
ông ngoại nhớ lắm.
-Ông ngoại
có đến hai bà vợ phải không anh ?
-Ai kể cho
em nghe, chắc là mẹ.
Nga gật đầu. Nguyên nói:
-Bà ngoại đầu,
tên Nga.
- Tên nghe
hay. Hai bà của ông ngoại thương nhau không ?
-Hai chị em
ruột.
-Lạ không .
-Ngày xưa,
có chị thì phải có em. Ở đời ông cố anh cũng vậy.
-Vậy nữa sao
.
-Anh rất
thích cái tích xưa trong chuyện Trầu Cau.
-Em rất
thích bài hát đó.
Ngày xưa có hai anh em nhà kia cùng
yêu thương một người. Nga cất tiếng hát,
nàng vừa hát, đầu vừa ngả xuống cánh tay Nguyên với cả mái tóc mềm mại.
Nguyên
lắng nghe những câu cô gái đang hát.
Khi cô ngưng lời ca, Nguyên hỏi:
-Bên trường
Mỹ Thuật cũng phải học năm dự bị.
-Có chứ anh.
Sinh viên phải học đủ bốn năm mới tốt nghiệp.
-Em có mơ cuộc
triển lãm về những tác phẩm của mình.
-Đó là giấc
mơ của em.
-Anh cũng có
giấc mơ giống em.
-Không giống
đâu.
Nàng mỉm cười, và khi Nguyên có ý định
cúi xuống hôn, nàng hé môi. Nguyên hôn xuống khuôn mặt, và trên cặp môi
mọng ướt
của nàng thật lâu. Một giọng đậm đà, còn thơm ướt nụ hôn, Nguyên nói:
-Hôm nay là
một ngày vui. Ngày vui này còn mãi.
-Mùa hè đã
qua nhanh, Thiên Nga nói.
Tàu vừa ngừng. Nguyên không nhớ đây
là ga nào. Nhà ga nằm bên kia đường, phía dưới cây cầu. Ngước mắt nhìn
lên, hai
người cùng trông thấy vài ngôi làng và con sông. Bên ngoài trời nắng
đầy, nhưng
ở phía ngôi làng hiện ra vẻ êm ả của những hàng tre xanh.
Làng tôi xanh bóng tre, có tiếng
chuông nhà thờ rung, Thiên Nga hát lên một câu rồi hỏi Nguyên:
-Anh nhớ tên
bài hát không ?
-Không nhớ,
nhưng đó là dòng nhạc của Văn Cao.
-Anh nói
đúng.
Chỉ ngừng năm phút, tàu chuyển bánh.
Khi trông thấy bảng tên nhà ga, Nguyên nói:
-Còn một ga
nữa thôi, mình xuống.
Tàu bắt đầu chạy nhanh. Cánh đồng vẫn
trống trải, như đang cố vươn mình theo. Luôn luôn, những cảnh vật không
muốn dừng.
Ở cảnh vật, người ta thích quan sát để nghe riêng niềm tâm sự. Đó là
một thoáng
buồn Nga chợt nghĩ tới.
Nga vẫn ở trong vòng cánh tay êm ái
của Nguyên. Nàng có cảm giác tiếng Nguyên nói, ý tưởng trong đầu
Nguyên, mỗi thứ
ấy là những nét mới mẻ của mùa màng, thời tiết. Và, trong trí tưởng
nàng, cả một
bức tranh có thể vẽ ra được đang hình thành.
Tàu chạy nhanh, nhưng không đến mười
lăm phút, lại trở về tốc độ chậm rồi từ
từ tiến vào ga.
-Mình xuống ở
đây.
Hai người cùng đứng lên và lấy hành
lý để trên giá. Không có gì để quên sau khi kiểm soát, hai người rời
khỏi toa.
Hành khách xuống không đông. Nhưng ở
ga này, tàu ngừng lâu đến mười lăm phút.
Bóng nắng vạch một đường rất thẳng dọc
theo lối đi bên đoàn tàu. Hành khách còn phải đi bộ một quãng xa mới
đến cổng
kiểm vé.
Khi ra bên ngoài, hai người dừng bước
nghỉ dưới mái hiên. Thiên Nga điều chỉnh máy ảnh xong, bảo Nguyên:
-Anh đứng
bên này đi, em chụp cho anh một tấm ảnh.
Nguyên đứng gần cửa sổ. Bên trong
cánh cửa là căn phòng làm việc của trưởng ga.
-Nhìn đây,
cười lên nhé.
Hết phiên mình, Nguyên bảo Nga chọn
chỗ đứng để anh chụp ảnh cho nàng. Nga rất là vui, luôn luôn cười.
Nguyên chụp
cho nàng ba tấm ảnh.
Đoàn tàu đã rời ga. Hồi còi vang vọng,
tiếng bánh sắt nặng nề , gió cuộn vòng những đám khói dâng lên cao.
-Mình phải
kiếm một quán nào nghỉ chân.
Nguyên nhìn tới phía xa, anh tiếp lời:
-Em nhìn
phía đó thấy gì không ?
Ít giây, rồi Nga mới nói:
-Thì cũng là
nhà ở, đường sá, có gì lạ đâu.
-Chỗ ngã ba,
bên trong là chợ.
Hai người xuống khỏi thêm tam cấp, vội
băng nhanh qua bên kia đường. Phía bên trên, nhiều con đường đất mở các
lối tắt
băng qua đồng ruộng. Ở một khu đất vắng, mọc lên một ngôi trường tiểu
học. Ngôi
trường, phía đầu hồi là lợp ngói, tiếp nối theo là những dãy phòng lợp
tôn.
Nguyên bỗng nói:
-Con bé Phương
rất là nhiều chuyện, nghe em.
-Con bé vui
tính.
-Thụy
viết thư về có hỏi thăm em.
-Thụy
viết thư cho anh.
-Không, nó
viết về cho mẹ và con Phương.
-Không chừng,
Phương đã kể chuyện về em.
-Con bé nó
thích ai rồi, tha hồ thêu dệt. Bây giờ cả nhà ai cũng mến em.
-Riêng anh,
hơn hết phải không ?
-Vẫn nhiều
lúc, anh băn khoăn.
Sau một lúc suy nghĩ, giọng ngập ngừng
Nga nói:
-Má cứ lo
cho em.
-Anh hiểu.
Anh cũng chưa dám nghĩ quá xa. Nhưng mà thôi, thấy em vui là anh vui.
-Cứ nghĩ đến
má, em thấy lo.
-Anh biết má
rất là quan trọng.
-Ba em có vẻ
thích anh.
-Anh cũng rất
quí mến ba. Con người ba rất vô tư.
-Nói vậy là
làm rể được rồi, phải không ?
-Hy vọng
thôi. Với ba, anh chỉ thi viết, còn má là phải vào vấn đáp.
-Có một thời
má đi dạy, nhưng rồi ít năm sau, xin nghỉ.
-Em thích dạy
học không ?
-Thích lắm
chứ.
-Tốt nghiệp
xong, em xin đi dạy.
-Em cũng có
ý nghĩ đó.
-Em dạy ở Đà
Nẵng thì gần nhà, nhưng nếu ra ngoài đất Quảng trị này thì cả thành phố
là dành
hết cho em.
-Hân hạnh.
Hai người vui chuyện và cùng tâm ý.
Tới ngã ba, đường rẽ vào khu chợ chừng khoảng trăm mét. Không khí xôn
xao, tiếng
ồn trỗi dậy từ phía chợ và ngang qua các dãy quán hàng, cùng lúc, mùi
vị thức
ăn pha trộn bay ra từ các quán, nhưng cũng dễ phân biệt. Cô gái bắt đầu
nhận ra
tiếng nói nghe rất là nặng của người vùng quê. Giọng họ khác đôi chút
với giọng
của Nguyên. Nguyên sinh trưởng ở đây, nhưng anh đã theo gia đình ra
thành phố,
rồi đi vào Nam, rồi trở về Huế, bao nhiêu cuộc sống trong nhiều năm
tháng ấy đã
thay đổi tiếng nói và cả con người anh nữa.
Giữa chợ cảnh buôn bán đang nhộn nhịp.
Lối đi trở nên hẹp vì người đông và các quán hàng không chỉ cố định bên
trong
mà còn tràn lấn cả ra ngoài. Thế nhưng, bạn vẫn thấy có cảm giác dễ
chịu đối với
sinh hoạt chợ vùng quê. Thực ra, đây hẳn còn là quận lỵ số dân đông, có
trường
học, chùa chiền, nhà thờ, và đời sống rất gần với một thị trấn.
Quán hàng ăn khá nhiều, hai người
cùng cảm thấy đói. Nguyên đưa mắt tìm, chỗ nào cũng đông chật, sau cùng
hai người
đi tới cuối chợ, ở đó có một quán ăn rộng rãi. Bên kia quán, một căn
nhà mở rộng
mái hiên để hai bàn bi da cho thuê. Có cả bàn bóng bàn, đang trống,
chưa có người
chơi. Có một đám thanh niên đang chơi bi da. Không khí lặng im, hồi hộp.
Vừa thấy khách vào , chị bán quán cất
tiếng mời chào. Hai người ngồi xuống ghế thấp trước cái bàn dài bày
chén, tô và
đũa muỗng, bên cạnh hai nồi cháo và bún đang nóng lên khói.
-Có gì ăn
đây ?
-Dạ thưa nhiều
thứ, cháo bánh canh, bún rêu, bánh lá, bánh ướt.
-Em ăn gì ?
-Ăn bánh trước
đi.
-Rồi ăn thêm
cháo hoặc bún nữa..
Nga gật đầu. Ơû phía trên có một
quán cà phê mở nhạc, giọng ca sĩ Hoàng Oanh đang hát.
Chị bán quán làm hai dĩa bánh đầy
vun, trông ngon mắt. Bánh ướt vùng quê với nước mắm ớt, với chả, và có
thịt heo
xắt lát mỏng. Vị cay rất dịu làm cho nước mắm pha thật ngon. Nga rất
vui ngay
lúc cầm đũa gắp miếng bánh đầu tiên.
Bánh ướt ở vùng quê ngoài này hơi dày, nhưng thật dẽo. Loại bánh này có
thể
dùng làm bánh phở, hoặc pha màu thành mì Quảng. Có chả và thịt ăn ghém,
mỗi thứ,
Nga gắp một ít. Hai người vui với bữa ăn, không nói chuyện nhiều, nhưng
rất hiểu
ý khi đưa mắt nhìn nhau. Nguyên và cô gái, ai cũng có nét đẹp riêng
trên cặp mắt.
Ở Nguyên, đôi mắt đẹp của anh gợi cho các thiếu nữ
nghe ra được tiếng hát của chim, và những tiếng
nói trong tình bạn. Ở đôi mắt cô gái, nụ cười là ánh sáng tỏa niềm vui,
và khi
cô có một nỗi buồn xa xôi, bạn sẽ thấy một màu nhung xanh của chiếc áo
hiện về
trên cặp mắt của cô. Và đôi mắt ấy, mang mang hoài nỗi nhớ của thời
gian.
Hai người ăn hết dĩa bánh, đã thấy
no. Nhưng rồi, thấy chị bán hàng mời mọc món cháo bánh canh cá, mỗi
người ăn
thêm tô nhỏ. Nguyên nhìn sang quán bên cạnh gọi nước giải khát.
Bên ngoài, buổi họp chợ vẫn đông. Tiếng
nói của người vùng quê, Nga chỉ nghe lõm bõm, cô không hiểu được hết ý
nghĩa của
tiếng nói.
Ngồi trong quán đã lâu, nhưng hai
người chưa đứng dậy. Nga nhìn đồng hồ đeo tay mới biết là lúc này trời
đã trưa.
Bến xe lam nằm phía đầu ngã ba, có
sáu chiếc ở đó đậu dưới bóng im đang chờ khách.
Nga mở ngăn ví lấy tiền trả. Khi hai
người dời bước đi, có mấy người trong quán đưa mắt nhìn theo, ai cũng
khen đôi
lứa tình nhân xứng hợp.
Vừa tới bến xe, Nguyên bỗng nghe có
tiếng gọi:
-Chú Nguyên.
Ngay lúc đó Nguyên nhận ra anh
Quang, con người o ruột ở dưới làng. Nguyên giới thiệu Nga với người
anh. Anh
Quang lấy làm vui, cười nói hả hê với mấy người bạn tài xế. Đột nhiên
anh quay
lại hỏi Nguyên:
-Chú và cô
đi đâu đây ?
-Về thăm
làng.
-Xe tôi sắp
chạy.
Anh Quang nhìn đồng hồ tay, xong ra
phía sau đếm hành khách. Có một người nửa tới với hàng hóa, anh vội leo
lên trần
xe để chất hàng. Nga chú ý đến dáng vẻ bề ngoài của anh, chiếc quần tây
đen, áo
kaki nhà binh có cầu vai và hai túi, đầu đội nón lưỡi trai.
Anh Quang cột hàng xong, từ trần xe
bước xuống và dành hai ghế trước cho Nguyên và cô gái ngồi.
Khi xe mới nổ máy, Nguyên hỏi:
-Mỗi ngày
anh chạy mấy chuyến ?
-Bốn.
-Cũng được
chứ anh.
-Ờ, tàm tạm
thôi. Thường chuyến lên chợ buổi sớm, và chuyến cuối buổi chiều về đông
khách
hơn.
Ngồi bên Nguyên, Nga vừa
cảm thấy xa lạ, vừa thân quen với nơi
mình đến. Từ lâu nay, nàng với cuộc sống ở thành phố, và đây là lần đầu
tiên
nàng đi về làng quê của chàng. Tự dưng cô yêu mến, không hề có ý do dự,
đòi hỏi.
Xe lăn bánh bánh chạy một vòng cua
quanh bến, ra đầu ngã ba, rẽ trái chạy trên con đường trồng cây thông ,
vượt
lên dốc cầu, đổ xuống quận lỵ sau đó bắt đầu là con đường làng đất
cứng, nhưng
bằng phẳng, rộng rãi.
Khung cảnh làng quê hiện ra thật yên
bình, nắng mênh mông trải rộng qua những đồng lúa, bờ đê, và một con
kinh đào rất
sâu, rất dài, dẫn nước từ phía dòng sông đưa vào ruộng. Những nguồn
nước dẫn ở
sông vào chảy mạnh, dào dạt như dòng suối, và hình ảnh làm cô gái thấy
lạ lùng,
quan sát là những chiếc xe đạp nước. Lúc
này là giờ nghỉ trưa, nhiều chiếc ngừng hoạt động nhưng vẫn còn một vài
chiếc
có người đang đạp.
-Chú Nguyên
còn viết báo không ?
-Cũng còn,
nhưng không chuyên lắm. Tôi ra ngoài này rồi, không ở Sài Gòn nữa.
-Chú có gặp
chị Số không ?
-Chị ở Biên
Hòa. Tôi có đi thăm, lúc sau này, chị buôn bán cũng khá.
-Ở làng
mình, người ta lần đi vào Nam hết.
-Đã lâu quá,
nay tôi mới về.
-Bà vẫn còn
mạnh.
-Tôi đưa cô
bạn về thăm bà, thăm quê, ở một hôm nay ngày mai đi ra
Đông Hà về quê ngoại.
-Sao chú đi
ít ngày vậy ?
-Không được
nhiều ngày, cô còn trở vào đi học nữa.
-Cô người ở
đâu ?
-Người Đà Nẵng.
-Hồi đi
lính, tôi ở đơn vị tiếp vận trong đó.
-Anh được giải
ngũ.
-Ờ, giải ngũ
loại hai.
Ruộng lúa hai bên nối nhau trải dài.
Nhà ở các ngôi làng nằm sâu bên trong, có ít nhà ngói, nhiều nhà tranh,
nhà nào
cũng có sân phơi lúa, có vườn, và dọc con đường làng nơi nào cũng có
trồng cây
lấy bóng mát. Những ngôi làng kế cận nhau, nhưng cách vài cây số là có
tên
khác. Và mỗi nơi, cảnh vật cũng có chút đổi thay.
Từ quận, con đường quan rộng chạy thẳng
ra tới vùng biển Mỹ Thủy xa12 cây số. Nãy giờ, Nga chẳng lên tiếng
chuyện trò với
Nguyên và ông anh họ tài xế, nhưng nàng rất vui thích được nhìn cảnh
đồng quê.
Hàng cau, bụi chuối, giếng nước, những lớp màu ngói đỏ, ngói nâu, những
ngôi
nhà tranh, từng sự vật tưởng như đang sắp xếp thật
gọn một chuyến đi đường dù là ngắn, nhưng
nàng sẽ nhớ mãi về sau này.
Hai chặng anh Quang ngừng xe cho
khách hàng xuống. Con đường xe chạy cũng qua ba khúc quanh, hai đoạn
dốc và bốn
cây cầu gỗ.
Xe dừng đầu chợ, Nguyên và cô gái xuống.
Anh Quang xua tay khi Nguyên trả tiền nhưng Nguyên bắt anh lấy và tiền
Nguyên
đưa cũng rộng rãi.
Anh Quang cám ơn và cho xe trở đầu.
Thực sự, lộ trình xe chỉ dừng khách đầu ngã tư, nhưng vì là người trong
gia
đình anh đưa người em đến chợ để đi con đường vào làng cho gần.
Nguyên nói với người yêu:
-Làng
anh ở đây.
-Mới là con
đường thôi.
-Em nói đúng.
Nhưng về tới làng, chỉ còn xa chừng vài trăm mét.
Ngồi trong quán, một chị bán quán
nhìn ra. Chị ta lên tiếng:
-Mua quà
bánh đi anh.
Nguyên liền đi vào quán mua hai ốp
hương. Khi trở ra ngoài, vừa đi ít bước Nguyên nói:
-Làng quê
anh rất nghèo.
-Anh làm em
cảm động.
-Có em về
thăm, bà nội chắc mừng lắm.
-Không phải
đâu, anh đừng tưởng em không hiểu ý anh.
Một giọng vui, Nguyên nói:
-Nhưng cảnh
làng quê nghèo, nó được thi vị hóa cái đẹp, phải không Nga?
-Vậy nên,
đám nghệ sĩ, anh nào cũng nghèo.
-Họ là những
người rất có tâm hồn.
-Bài hát nào
về làng quê anh thích nhất ?
-Bài Quê
nghèo.
-Cảnh quê giống
như làng anh, đúng không ?
-Không, mà
giống miền quê ngoại.
-Quê ngoại
nghèo lắm sao ?
-Không,
nhưng hồn bài nhạc làm anh nhớ đến quê ngoại nhiều hơn.
-Anh nhớ bài
nhạc không ?
-Anh không
nhớ hết.
Con đường nhỏ hẹp, có bóng im, cát
thật mịn màng dưới bước chân. Nga có ngay được cảm giác này khi cô tháo
đôi dép
xách tay để được bàn chân êm đi trên cát. Bên cạnh đường, dưới hàng nứa
thấp là
con mương nhỏ, nước rất trong.
-Thiên
Nga ơi, tiếng Nguyên nghe lạ tai.
-Trời đất,
em đây mà, anh sợ em đi mất sao ?
-Không, anh
muốn nói với em. Ngày Tết, ở miền quê ngoại rất vui.
-Ngày Tết,
đâu mà không vui .
-Nhưng quê
ngoại mới là niềm vui cho em. Anh vừa nhớ ra câu hát trong bài nhạc:
Nằm mơ, mơ
thấy trăm họ tốt tươi, mơ thấy bên lề cuộc đời áo dài đùa trong tiếng
cười.
Nga reo lên:
-Em hiểu ý
anh. Đó là câu hát ca ngợi cảnh ngày xuân,
không ở nơi đâu hay bằng.
Rồi một giọng xa vắng, nàng tiếp lời:
-Hồn quê như
nắng mùa xuân. Hồn quê cũng đẹp như một
tấm áo dài.
VII
Với túi xách nhẹ đeo vai và chiếc va
li nhỏ đựng áo quần sách vở, Lăng từ giã Sài Gòn. Khi xe buýt ghé trạm
ngừng ở
lề đường bên ngoài bến xe Pétrus Ký, chỉ có mình Thụy và Lăng xuống.
Thời gian còn sớm, hai bạn ghé vào
quán ăn sáng nằm trong khu vực bến xe. Trời đã sang thu, buổi sáng dịu
mát.
Hai tô hủ tiếu lớn, ăn no. Rồi gọi
tiếp hai ly cà phê sữa nóng. Đốt xong điếu thuốc, Thụy nói:
-Tôi sắp đi
Nha Trang.
-Anh đổi ra
làm việc ngoài đó ?
-Không, tôi
đi học khóa chuyên môn.
-Lâu không ?
-Ba tháng.
Tôi lại được về Sài Gòn .
Nhìn lại Thụy qua một nụ cười, Lăng
nói:
-Anh đi lính
mà sướng hơn làm quan.
-Tôi học
chuyên môn để lấy bằng ăn phụ cấp, xong tôi cũng không đi ngành này mà
sẽ biệt
phái trở lại làm cho báo Lý tưởng.
Cà phê nóng ấm, ngon miệng. Nghĩ về
chuyến đi, Thụy thấy Lăng không vui. Một giọng dè dặt, Thụy hỏi:
-Năm sau thi
lại, chỉ vấn đáp thôi hay cả viết nữa.
-Tôi thi vấn
đáp hai thôi.
-Rồi cũng
nhanh, năm sau về lại Sài Gòn.
Ngồi không lâu, xong bữa ăn sáng Thụy
trả tiền và đi cùng Lăng tới chỗ xe đậu. Trên đường đi, Thụy nhắc tới
anh
Nguyên, và cũng tiện cho Lăng biết về cô bạn gái của anh Nguyên tên là Thiên Nga ở Đà Nẵng.
-Anh đã có gặp
rồi ?
-Chưa. Nhân
kỳ nghỉ phép tôi nghe Phương nói.
-Anh và cô
Huê, hai người tới đâu rồi ?
-Không có gì
cả.
Nói xong, Thụy lại tiếp lời giải
thích là Huê chưa thực sự có người yêu như nàng muốn. Thế nhưng, anh
được ở bên
nàng như một người bạn hiểu nàng, và nghe nàng nói những lời tâm sự.
Vừa rồi,
Huê thi đậu khóa hai, ý định sẽ ghi danh học ở Văn Khoa. Từ hôm Huê dọn
nhà đến
nay, thỉnh thoảng anh tới thăm, lúc trò chuyện ở nhà, lúc ra quán cà
phê ngồi.
Kể ra, vì chưa có gì với nhau cả, nên hai người rất thân mật một cách
tự nhiên.
Dừng lại bên dưới xe, Lăng lên trước
xong nhận chiếc va li Thụy chuyền qua ô cửa. Sắp xếp chỗ để hành lý
trên ngăn
giá xong, Lăng ngồi xuống ghế ngoài, trong lúc chờ xe khởi hành hai bạn
tiếp nối
câu chuyện cho qua giờ.
-Chừng nào
anh ra Nha Trang ?
-Cuối tháng
này.
-Lâu nay,
anh có truyện nào đăng báo không ?
-Có. Tôi hay
gởi truyện đăng ở báo ngày và tuần báo.
-Nhuận bút
khá không ?
-Ít thôi,
nhưng đăng ở mấy báo đó dễ dàng.
Không đợi đến mười phút xe chạy. Thụy
đọc thấy một nỗi buồn trên cặp mắt của Lăng, bỗng dưng cảm thấy đó là
người bạn
thân thiết nhất của mình.
Nắng đã lên cao, và trải rộng dần
trên khắp các khu phố.
Hôm nay là thứ bảy. Sài Gòn cách Đà
Lạt 300 cây số, xe đò hay rước khách dọc đường, thời gian cũng phải
chạy mất
hơn bảy tiếng đồng hồ mới đến nơi. Và dù vậy, Lăng cũng có được một
tuần lễ nghỉ
trước khi vào năm học mới.
Xe buýt đỗ khách tại bến chính ở khu
chợ Bến Thành. Giữa cảnh tượng ồn ào, huyên náo trên các ngả đường,
Thụy chẳng
biết mình đi đâu, và làm gì đây cho qua hết một ngày.
Những quầy sách cũ, rạp hát, quán cà
phê đã vội vàng biến mất khi Thụy vừa nghĩ đến sự tìm kiếm. Nơi thành phố cũ ấy, áo trắng là hương thơm
tinh khiết của mùa hoa lan. Vừa bước đi, Thụy muốn vẽ lại trong trí nhớ
mình
thành phố đó. Với những dòng sông, bao nhiêu cây cầu, và mùa thu đã trở
lại. Thụy
nghĩ đến giọng nói, đôi mắt của Liên An. Bây giờ đây, anh thật hết sức
cố gắng
tìm sao cho thấy được một bóng dáng Thiên Nga nguyên mẫu ngoài đời. Ký
ức về
nàng, dù là qua sự mường tượng nhưng vẫn có thể xây dựng nên một câu
chuyện
tình. Trong năm học ấy, Thúy Hà mới 17 tuổi. Trước khi đến thành phố
nàng ở và
gặp nàng, Thụy đã trải qua một mùa thi đầy ân hận, cay đắng. Về thời
gian sau
này, anh học hành có tiến bộ, trở thành học sinh khá trong lớp, vậy mà
anh
không được cái vận may trong mấy ngày thi cử nên bị rớt hai khóa liền.
Thật chết
người ở lần thi khóa nhì, anh qua được loạt I, nhưng rớt loạt II, vì
thiếu một
điểm. Chiều hôm ấy, trời xứ Huế buồn dưới cơn mưa nặng hạt. Dưới mái
hiên văn
phòng trường Quốc Học, có hai cha con đứng đợi thầy giám thị xem điểm
giúp. Một
lúc khá lâu, thầy trở ra, và khi nhìn dáng thầy đi chậm bước mắt nhìn
xuống tờ
giấy, Thụy linh cảm chuyện không may cho mình. Quả thực, anh hỏng thi.
Trên
vuông giấy xanh, những môn thi của anh được ghi điểm, rồi một giọng
bình thản
người thầy hỏi Thụy có được điểm thể dục không ?, anh đáp không, lặng
người đứng
chôn chân một chỗ. Sự hối tiếc và ân hận, đã muộn rồi. Tại sao mình
không nghĩ
rằng, ở môn nhiệm ý này chỉ cần có dự thi, dù không đạt tiêu chuẩn về
nhảy rào,
nhảy cao, nhảy dài, leo dây các huấn luyện viên cũng châm chước cho các
thí
sinh một vài điểm dư để cộng thêm vào kỳ thi. Hôm đó, thực sự Thụy có
đi theo
các bạn cùng lớp từ trường Bình Linh xuống sân vận động trường Quốc
Học, nhưng
lúc sắp vào cuộc thi, anh chợt nghĩ lại một lần chơi đá bóng bị té ngã
gãy
xương vai, nếu lần này, thi nhảy qua rào, nhảy cao và nhảy dài, lỡ té
ngã,
xương cũ của anh sẽ bị nứt khó chữa lành. Thụy mang nỗi lo sợ ấy, do dự
một
lúc, và rồi không biết chuyện gì đã xui khiến anh rời khỏi sân vận động
ra về.
Trên đường đi, Thụy cố tự nhủ, tuy không có điểm thêm của môn thể dục
mình vẫn
thừa khả năng thi đậu.
Nhưng sự coi thường này, Thụy đã trả
một giá đắt, nặng nề, không chỉ mất một năm học lại mà còn nhìn thấy
tương lai
bấp bênh, còn nữa, một chuyện phải lo thêm giấy tờ xin hoãn dịch. Và,
có một lối
thoát dạo đó Thụy không nghĩ ra, đó là việc đổi tên và làm giấy khai
sinh sụt
tuổi. Chuyện này không khó, vì ba anh chỉ việc ra ngoài quê nói bác anh
là thôn
trưởng làm cho một giấy khai sinh mới, rồi đem trình tòa án tỉnh xác
nhận là
xong, và qua được chuyện này, anh sẽ cảm thấy yên tâm học hành.
Thật tình Thụy không nghĩ ra được
cách giải quyết này là vấn đề quan trọng cho đời mình. Nhưng rồi, Thụy
lại vẫn
tiếc rẻ cho cái bằng Thành Chung mình thi đậu, nhờ nó, anh mới lên tinh
thần và
thấy ham học. Thụy còn nghĩ thêm, với bằng
Thành Chung anh có thể thi Sư phạm cấp tốc, sau một năm ra làm giáo
viên tiểu học,
đồng lương cũng không đến nổi quá kém, thiếu hụt. Rồi, nương cái nghề
giáo làm
chỗ dựa, lần hồi, anh học thêm, trễ tràng lắm từ một đến ba năm anh
cũng lấy
xong được bằng Tú Tài.
Mùa thi ấy đã qua. Những cây phượng
trên các ngả đường trong thành phố, hoa vẫn còn đỏ. Những ngày đợi mùa
thu sắp
về, tâm trạng những người học sinh rộn rã lắm, nhưng Thụy cảm thấy mình
chán nản
gần như tuyệt vọng. Thụy muốn rời xa Huế, đi Sài Gòn. Thụy thèm trở lại
thành
phố này, và nếu được, anh sẽ tìm kiếm một công việc làm có đồng lương
rồi đi học
lớp buổi tối. Thụy ngỏ lời tâm sự với ba anh, nhưng ông im lặng, không
quyết
đoán. Rồi hôm ấy, dì Bích Vân ở Đà Nẵng ra làng quê nhân tiện ghé thăm,
nhân
lúc đó mẹ anh hỏi xin ý kiến dì, được dì bằng lòng chấp thuận.
Dì Bích Vân về thăm quê một tuần mới
trở lại. Rồi, Thụy đi theo dì vào Đà Nẵng, đến nhà dì ở đường Trưng Nữ
Vương. Một
tuần lễ sau, Thụy mới làm đơn xin nhập học trường Sao Mai.
Trường Sao Mai là trường tư thục
công giáo lớn nhất thành phố. Ngôi trường tọa lạc trên một diện tích
đất khá lớn,
các phòng học đều rộng, thoáng đãng, phần đằng sau gồm nhiều dãy nhà
dành cho
các lớp tiểu học và đệ nhất cấp. Nơi phần sau này, còn có sân chơi bóng
chuyền
, vũ cầu, và một trạm phát thanh. Ở phần trước, một tòa nhà lầu ba
tầng, có hội
trường, sân thượng, nơi này, cổng chính nhìn ra công viên của bến Cảng.
Và toàn
thể của tòa nhà được dành cho các lớp đệ nhị cấp.
Trường Sao Mai bậc đệ nhị cấp có đủ
các lớp Đệ Tam, Đệ Nhị và Đệ Nhất. Thụy nhập học trễ, thầy giám thị ghi
tên anh
vào lớp Đệ Nhị B1, đây là lớp vào giờ ngoại ngữ được tách ra, nhập
chung với lớp
của ban A.
Thụy không hay biết , đến buổi sáng
thứ sáu sau hai giờ đầu, vừa nghe chuông báo giờ chơi hơn một nửa lớp
bên anh
đã vội ôm tập rời phòng. Thụy hỏi ra, mới hiểu, và anh đã ngồi lại yên
chỗ để
chờ giờ học môn tiếng Pháp.
Giờ chơi mới bắt đầu. Sự đổi lớp ồn
ào, lộn xộn nhưng Thụy không bị chia trí. Thụy lấy tờ báo Tiếng Chuông
mở ra đọc.
Thụy đọc một truyện ngắn dự thi đăng ở trang tư. Bỗng dưng có sự linh
cảm, anh
ngẩng đầu nhìn ra cửa thấy một cô gái xuất hiện. Hai người cùng ngạc
nhiên,
nhìn thấy anh chú ý, cô gái liền dừng bước. Thụy có ngay một hình ảnh
toàn diện
về cô, trước tiên là dáng người thanh nhã qua chiếc áo dài nâu, mái tóc
xõa xuống
kín vai, sau đó, là vẻ đẹp của một đôi mắt nhỏ như hai vị sao dừng rất
lâu trên
một gương mặt tỏa ra ánh sáng. Lúc ấy, cô gái tỏ ra nghiêm trang, nhưng
mắt cô
vẫn nhìn anh. Thụy thầm nói với cô về sự bối rối, nỗi ngại ngùng của
mình. Ít
giây thôi mà tưởng thật lâu, cô gái dời bước rẽ lối trái, đến dãy bàn
thứ nhì,
xong cô đặt chiếc cặp xuống. Sau đó, Thụy không còn nghe rõ gì nữa
tiếng cô nói
với một người bạn ngồi cạnh bên cô.
Thụy đang bâng khuâng, cố gắng trở lại
sự bình thường. Thụy lại cúi xuống đọc báo, đến đoạn gần cuối truyện
lúc đoàn
tàu vừa chuyển bánh rời ga thì hồi chuông báo hết giờ ra chơi vang lên.
Thầy giáo vào lớp, đặt chiếc cặp da
lên bàn. Thụy nhìn người thầy, hỏi nhỏ anh bạn, được biết là thầy
Huynh. Vị thầy
có mái tóc muối tiêu, chải rẽ gọn gàng. Trên gương mặt sạm đen, hằn
đọng nhiều
dấu vết suy tư, và cặp mắt nhỏ của thầy ẩn bên trong chiếc kính trắng
lớn.
Hôm nay, chúng ta học bài mới. Thầy Huynh
nói xong, mở rộng cuốn sách bìa xanh của tác giả Mauger, giới thiệu một
đoạn
trích giảng văn rút từ trong tiểu thuyết Courrier Sud của nhà văn Pháp,
Antoine
de Saint Exupéry.
Phòng học của lớp khá rộng, có một bức
tranh và chiếc đồng hồ treo tường. Từ phía những cửa sổ bên trái, không
cần phải
đứng lên, ngồi ở bàn phía ngoài có thể trông thấy rõ hết quang cảnh
đường phố,
khu công viên và mọi sinh hoạt trên bến Cảng.
Thầy Huynh đứng trên bục giảng đọc
đoạn văn, tiếng đọc chậm, lời nghe du dương, cảm khái. Vừa đọc, thầy
vừa dùng động
tác bằng tay lúc đưa ra, lúc kéo vào để biểu thị những sắc nét hùng hồn
hay êm
ái của đoạn văn. Và chừng sau mười lăm phút, thầy đọc xong.
Trước khi giảng, thầy nói qua về tiểu
sử tác giả. Saint Exupéry là một nhà văn phi công. Bước vào nghiệp bay,
ông làm
phi công chở thư cho những chuyến bay đường dài, tới các xứ vùng Nam
Mỹ. Có chiến
tranh, ông nhập ngũ, là Đại úy phục vụ ở một phi đoàn tác chiến. Trong
thế chiến
thứ nhì, ông bay loại phi cơ thám thính,
trước năm cuộc đại chiến kết thúc, ông bị mất tích trong một phi vụ
tình báo
trên vùng lãnh thổ nước Đức chiếm đóng. Có tin là ông bị địch bắn hạ,
nhưng
cũng có tin máy bay của ông bị hỏng máy rơi xuống biển. Người ta chỉ
ghi nhận
là ông bị mất tích, do máy bay lâm nạn.
Ngoài nghiệp bay mà ông gắn bó, ông
còn là một tiểu thuyết gia nổi tiếng. Những tác phẩm quan trọng của ông
gồm có:
Bay đêm (Vol de nuit), Chuyến thư miền Nam (Courrier Sud), Terre des
homes (Cõi
người ta) Pilote de guerre (Phi công thời chiến) Citadelle (Thành Trì)
Le petit
prince (Cậu hoàng con)
Người thầy đã nói về cuộc đời một
nhà văn phi công bằng một giọng thật cảm khái, hùng hồn. Riêng Thụy,
anh cũng
đã có một lần ước nguyện được trở thành phi công. Năm học vừa qua, nếu
Thụy lấy
được bằng Tú Tài I, anh cũng rất muốn tính chuyện gia nhập vào Không
quân đi
theo ngành phi hành. Nhưng, ước mơ này
đã vuột khỏi tầm tay, rồi nó cũng không còn làm anh mong đợi nữa. Nhà
văn Saint
Exupéry cũng làm anh nhớ đến một tác giả khác nữa, nhà văn Toàn Phong
với cuốn
truyện Đời Phi Công. Đây là một tập tiểu
thuyết gói ghém những lá thư bốn phương trời của một chàng
sinh viên nước Việt gởi về cho một cô em gái
nơi quê nhà. Cô gái, tên Phượng, tên của một loài chim hiếm quý. Thụy
đã đọc
xong cuốn sách này trong một ngày chủ nhật trên căn gác. Đọc xong, anh
thật mến
yêu và cảm động về tình đất nước của chàng trai. Còn với cô Phượng,
không chỉ
bao nhiêu hương sắc và nét đẹp của cô dành cho chàng trai thôi, mà có
cả mình
trong đó nữa. Rồi như đâu, một lần ấy tương tư, cô hỏi Thụy, bạn đã tìm
thấy được
ai là Phượng ngoài đời chưa. Thụy khẽ lắc đầu, chợt mỉm cười nghĩ đến
một lứa
đôi hạnh phúc đó là chàng trai của tác giả và cô gái đây thôi. Từ dạo
đó, Thụy
thích đọc nhiều tiểu thuyết. Khi một nhân vật nữ xuất hiện cho mình một
tình cảm
rung động, anh thường hay đem hình ảnh đó trong tiểu thuyết ra hiện
diện trước
cuộc đời. Nhà văn Nhất Linh viết cuốn Đôi Bạn thật là hay. Những chiếc
lá bàng
lay động, phất phơ trong ký ức của một người Hà Nội đang nhớ nghĩ về
thành phố
xưa của mình. Thụy rất thật lòng đối với cô Loan. Thụy cũng đã biết
Dũng Nhất
Linh rất yêu cô. Khi xa cô, Dũng chỉ gói ghém một mình cô trong tấm
lòng áo trắng.
Nhà văn Nhất Linh luôn gắn bó cuộc đời mình với những nhân vật ông đã
sáng tạo
ra tiểu thuyết. Thụy còn thích một cuốn truyện khác nữa của ông, đó là
Bướm trắng.
Khi đọc xong cuốn truyện, không một chút ngại ngần Thụy nói ngay với
tác giả rằng,
anh đã yêu cô Thu. Nhất Linh suy nghĩ, đôi mắt đen sâu, ông ngồi im như
pho tượng.
Ôi, cô ấy thật tuyệt vời. Nhìn cô trong dáng vẻ một thiếu nữ mặc áo xô
tang, thật
là đẹp buồn rất não nùng. Rồi lúc được gần bên nhau, cô để cho Thụy say
đắm
nhìn cô, và rất tự nhiên cô ngồi nghe anh nói những lời tỏ tình.
Tiếng giảng bài của thầy Huynh chậm
đều, rất rõ, và lôi cuốn từ mỗi tác động hai bàn tay và trên đôi mắt.
Tiếng
Pháp thầy đọc, vang âm như nước dòng suối. Thụy vừa lắng nghe những lời
giảng
bài của thầy, nhưng vẫn chưa muốn rời khỏi tên các cô gái Geneviève,
Phượng,
Loan, Thu, là những bóng hình rất đáng yêu trong tâm tưởng.
Trên tấm bảng sơn xanh, người thầy
khởi sự viết những dòng đầu tiên của đoạn văn trích giảng. Cả lớp yên
lặng, ghi
chép. Đoạn văn khá dài, dòng cuối kết thúc là lúc phi cơ cất cánh rời
khỏi phi
trường.
Với dáng người cao, bước đi trầm lặng,
cái bóng áo trắng của người thầy qua lại trong lúc học sinh chép bài.
Không đợi lâu, người thầy khởi sự
ngay bài giảng, lúc này, phần chính yếu về văn phạm, rồi nghĩa chữ khó
và các
thành ngữ. Hết giờ đầu, có tiếng chuông ngắn đổi giờ, nhưng lớp học vẫn
tiếp tục
buổi học. Khi kết thúc xong bài giảng, thầy cho cả lớp mười phút chuẩn
bị phần
bài dịch. Rồi, lần lượt thầy gọi một vài học sinh đứng lên dịch từng
đoạn ngắn.
Mỗi khi thầy gọi người nào, Thụy đều chú ý, lắng nghe tên. Bỗng nhiên,
Thụy thấy
tim mình đập mạnh lúc thầy gọi tên cô gái. Hướng mắt nhìn về cô, anh
chờ đợi
trong cảm giác nôn nao. Cô cất tiếng đọc đoạn văn, rồi bắt đầu dịch.
Thụy nghe
được tiếng cô rất trong trẻo, và đoạn dịch văn thật suông sẻ. Thụy cũng
thấy thầy
Huynh lắng tai chú ý nghe những lời dịch của cô. Thầy gật đầu nhẹ, lúc
cô vừa dịch
xong, thầy quay về phía bảng gạch bên dưới những thành ngữ và giải
thích thêm một
số nghĩa mới.
Từ bên này, mắt Thụy không rời bóng
dáng cô. Thụy tự nhiên cảm thấy vui trong lòng. Và thực sự, anh yêu mến
cô gái
rất nhiều với những hình ảnh đầu tiên của cô mà anh đang cố tìm cách
lưu giữ.
Vì rằng, cô đã xâm chiếm hồn anh bằng màu nâu nhạt của chiếc áo dài, bằng đôi mắt nhỏ bé, bằng tất cả sự duyên
dáng của bước đi qua mái tóc mượt mà kín xõa hết xuống hai vai. Bao
nhiêu nét ấy,
còn gợi ra cho anh mường tưởng một bức tranh vẽ chân dung rộng lớn, nó
mang ấn
tượng về cuộc đời bằng một sự trầm lặng, xưa cũ. Nhìn thật lâu, bạn sẽ
còn thấy
ở cô thêm nhiều nét lạ lùng , nổi bật là một khuôn mặt dịu dàng tỏa
sáng, rồi
trong cặp mắt nhỏ đẹp như hai vị sao những nụ cười xanh lấm tấm tưởng
đấy là tiếng
chân chim vui đang nhảy nhót . Sự yêu thương
dành cho cô gái biết bao nhiêu mới đủ, khi mà cô
thực sự mong rằng, luôn
luôn cô là nỗi nhớ trong lòng của bạn và tôi. Nỗi nhớ , không chỉ
thoáng trong
một phút, một giây, hoặc một ngày giờ gần như đáng kể, mà đấy là cả
tháng năm
ưu phiền, mỏi mệt, suốt đời như con nước trầm lặng chảy theo dòng sông.
Thời gian còn chừng mười lăm phút nữa,
tan buổi học. Thầy Huynh có một vài câu chuyện nói với cả lớp. Thụy
nghe, nhưng
không thể rời mắt khỏi cô gái, và rồi cô bắt gặp cái nhìn của anh. Hiểu
được
lòng anh nên cô đã nguyên vẹn cả một gương mặt cho anh
có được một sự yêu thương hết đời mình.
Bất chợt, thầy Huynh gọi Thụy đứng dậy.
Cả lớp nhìn anh, và có đôi mắt cô gái nữa.
-Em là học
sinh mới ?
-Dạ.
-Em tên gì ?
-Em tên Thụy.
-Trước đây,
em học ở đâu ?
-Dạ, ở Quảng
Trị.
-Gia đình em
từ ngoài đó, vào trong này ?
-Dạ, không.
Em vào đây một mình.
Thụy bắt đầu ái ngại, không dám nhìn
đâu cả. Thầy Huynh nói:
-Tôi có một
thời gian dạy học ngoài đó.
Thụy đứng im. Lúc này, lòng anh dịu
lại và được đón nhận từ đôi mắt cô gái nhìn sang , vừa giữ ý. Một giọng
thân
tình, thầy Huynh nói với lớp học về những kỷ niệm trong năm đất nước
mới chia
đôi, và ngôi trường đầu tiên thầy dạy học ở tỉnh Quảng Trị.
Hồi chuông reo lên, kéo dài đã cắt
đứt hết câu chuyện và những kỷ niệm thân thiết
của thầy đối với tỉnh Quảng Trị, nơi ấy là quê hương của Thụy. Sau này,
anh ít
khi trở về thăm lại chốn cũ.
Thầy Huynh vừa khuất dạng, cả lớp ồn
dậy lên tiếng cười nói, đùa nghịch vang vọng ra bên ngoài. Nhưng một
mình Thụy
vẫn yên lặng, anh bước nhanh xuống cầu thang, đến hội trường rẽ trái,
rồi đi ra
cổng chính. Và, chỉ dừng trên vỉa hè một phút rồi băng qua đường, anh
đứng lại
dưới bóng cây im nắng trong khu công viên rộng rãi, mát mẻ, rải rác
trên các ghế
đá có người ngồi nghỉ chân, chuyện trò. Phía ngoài con sông mặt nước
mênh mông,
tràn ngập nắng, và đây là bến cảng trong thành phố. Có nhiều tàu lớn
nhỏ đang
neo đậu và rất đông thủy thủ đứng trên boong tàu.
Trưa, nắng bắt đầu gắt. Từ nơi này,
Thụy có được cái nhìn bao quát các con
đường mà học sinh đi ra phía cổng sau hay cổng trước đều trông thấy.
Thụy mong
tìm được cảm giác nhẹ nhõm, buông thả hết những mơ mộng về tình yêu gởi
nàng.
Thụy đã có hai năm học ở Đà Lạt, thành phố ấy là ánh nắng hồng của mùa
hoa anh
đào. Cũng ở đó, những ngày mưa, buồn rất da diết. Thụy đến nơi thành
phố ấy để
đi học, rồi có cơ duyên, anh khởi sự viết câu chuyện tình của mình và
một cô bạn
gái cùng trường. Nhưng mà thôi, đừng có chia trí, lan man, hãy ngóng
đợi một hạnh
phúc đẹp sắp mang đến cho đời anh.
Bây giờ học sinh đang dồn ra đông.
Trên cặp mắt, Thụy chỉ ngóng tìm một bóng dáng áo nâu. Buổi học chung
hai giờ
cuối để lại trong lòng anh hình ảnh cô gái, vừa xa lạ, nhưng cũng thân
thiết vô
cùng. Bỗng nhiên, anh chợt buồn khi nghĩ đến số phận mình. Nhưng thôi,
nàng
cũng đã biết tên anh, vậy anh hãy cố thu hết sự can đảm nghĩ về một
tình yêu có
nàng, rồi một ngày của bao nhiêu năm sau, hai người trở thành bạn đời.
Cơn gió hất nhẹ thân chiếc áo dài
nâu bay lên. Từ cổng trước đi ra, bên cạnh nàng
có ba cô bạn nữa, hai cô mặc áo trắng, một cô mặc áo
màu lam. Bốn thiếu
nữ thong thả bước. Nàng đi phía ngoài, lúc này, Thụy để mắt theo dõi
bóng nàng,
lòng vừa nôn nao sợ, vừa thầm mong nàng bắt gặp mình đang đứng đợi chờ.
Tới ngã
ba bốn cô cùng dừng bước, rồi ít phút
sau chia tay. Lòng Thụy thực sự vui khi thấy bóng chiếc áo nâu về một
mình. Thụy
bỗng muốn cất tiếng gọi Thúy Hà hoặc liều lĩnh chạy về phía nàng trong
cảm tưởng
như mình là một cậu bé đang xúc động được gặp lại người chị đã xa cách
lâu
ngày.
Bên đây con đường, yên lặng Thụy bước
theo. Thụy nghĩ nàng đi bộ chắc nhà ở gần trường. Thụy hẳn còn ghi nhớ
đôi mắt
ngạc nhiên của nàng khi nhìn thấy anh là học sinh mới, hôm nay mới là
buổi đầu
tiên biết nàng. Ở đây cũng như nhiều tỉnh khác, các trường học khai giảng đã qua hai, hoặc ba tuần nay. Thụy
xin nhập trường cũng như vào lớp muộn, vì nỗi buồn hỏng thi của anh
trong mùa
hè qua vẫn chưa khỏa lấp nổi. Thụy đành học lại một năm để thi, và thay
vì, chọn
trường ngoài Huế anh lẩn vào đây và được ở trọ nhà dì Vân , chị em họ
với mẹ
anh.
Khi tới căn nhà sơn cửa xanh, đây vừa
là cửa hiệu bán nước hoa nàng đi vào. Thụy chợt dừng bước, không đi
nữa. Qua khỏi
bức màn sáo, nàng khuất dạng. Nỗi buồn làm nóng ấm trên cặp mắt, Thụy
nhìn con
đường Độc Lập trải dài qua những hàng cây bên đường. Thụy vẫn đứng yên
chỗ, nhìn
lại căn nhà của nàng bên kia có những cánh cửa sơn xanh, bức màn sáo
nhiều màu,
trong tủ kính những chai nước hoa lớn nhỏ sắp thành hàng, sau đó khi
thấy một
bóng người đi lên căn gác làm anh mường tưởng không biết bao nhiêu kỷ
niệm quyến
luyến về sau này, nếu rồi đây anh sẽ được quen biết nàng.
Sau một hồi còi ngắn, con tàu tách bến.
Gió ngoài sông lùa qua mặt nước, tràn
vào những con đường trên khu phố một thứ hương vị muối ngây ngất, mát
mẻ.
Khi buổi trưa đã bắt đầu xuống thật
yên tĩnh, Thụy mới theo cái bóng đơn độc
của mình về nhà. Sự cô đơn khiến anh
nghĩ ngợi nhiều. Thụy chợt cảm thấy
nỗi đau nhức chuyện hỏng thi chỉ vì thiếu một điểm.
Thụy đâm ra giận
mình, sao mà buổi sáng đó không chịu khó ở lại thi thể dục, nếu mà anh
có thi
thì một điểm thiếu của anh sẽ được đền bù thật may mắn. Nhưng không, số
phận
xui khiến anh không dự thi thể dục buổi sáng đó. Hôm ấy vì lo ngại cánh
tay
trái đã một lần nhảy cao bị té gãy nên anh bỏ cuộc thi trở về nhà,
nhưng rồi chẳng
biết đi đâu, sau đó nghĩ lại anh đâm ra hối tiếc, lo lắng.
Hình như, Thụy vừa linh cảm bóng
dáng chiếc áo nâu chợt thoáng hiện. Anh
lại nhớ, vừa cố gợi ra sự dịu dàng, bao dung đầy thương yêu trên cặp
mắt nhỏ bé
của nàng. Ngày xưa ấy, nơi tận chân trời quê cũ
anh đã trông thấy buổi chiều in bóng áo
nâu của mẹ anh trên con đường đê khi về tới đầu
làng. Anh đứng trước cổng
nhà bà ngoại chăm chú nhìn cái bóng dáng xa gần lay động
hình ảnh mẹ anh. Và, lòng thương dào dạt xiết bao nhiêu khi nhìn thấy chiếc đòn gánh trên
vai người mẹ trĩu nặng xuống, anh muốn mình chạy, muốn mình bay tới
phía con đê
để được đón mẹ về, và lúc gặp mẹ câu hỏi trước tiên là quà bánh mẹ mua
có nhiều
không ?...như thế đó, giấc mơ nghĩ đến mẹ trên cánh đồng ruộng ở vùng
quê giờ đây đã cho anh được nhớ thương một
cô
gái, được trông thấy cô mà liên tưởng đến hình ảnh một người mẹ lúc còn
trẻ.
Chiếc đòn gánh nặng trĩu xuống vai, vì mẹ anh mua nhiều hàng trên chợ
tỉnh. Gió
chiều thổi qua đồng ruộng, qua con sông, thời xưa ấy thật là yên bình.
Bỗng
dưng, Thụy nghe ra một giọng nhỏ nhẻ với tiếng mừng vui, cô gái bảo anh
cứ rán
chút nữa, đã sắp về gần tới nhà rồi.
Mùa hè năm ấy, lần đầu tiên Thụy đi
xa khỏi tỉnh Quảng Trị. Thụy đi với
Huân, bạn thân học cùng lớp và ở cùng xóm quanh khu vực nhà ga. Nhà gần ngay ga, nhưng đôi bạn thiếu niên thích đi
bằng
xe đò khởi hành lúc trưa, tới Huế đầu buổi
chiều. Tại bến ở đây, hai đứa mới mua vé xe suốt . Thụy vào tới Nha
Trang, còn
Huân sẽ xuống quận Ninh Hòa.
Sau hai giờ đợi, lúc số
ghế bán hết xe ca mới
khởi hành. Huế-Đà Nẵng cách nhau khoảng 100 cây số, xe chạy nhanh,
nhưng lên tới
đỉnh đèo Hải Vân phải ngừng chờ nửa giờ để chuẩn bị đổ đèo. Tới Đà
Nẵng, xe vào
đậu bến chính và lúc đó trời đã bắt đầu tối. Xe vừa ngừng, trước khi
hành khách
xuống tìm quán ăn, quán giải khát, cả
người chủ xe và tài xế cùng loan báo cho mọi người biết là vì đường mất
an ninh
nên ở lại tối, sáng mai xe sẽ rời bến sớm.
Nhân dịp này, Thụy và Huân rủ nhau dạo phố.
Từ bến xe đi bộ, mỗi
quãng lại hỏi đường vào
phố chính. Rồi hai đứa dừng bước bên một
ngã tư , mắt vui lên vì được
nhìn thấy dãy phố nào cũng trưng đèn sáng,
các cửa hiệu buôn và tiệm ăn đều mở cửa đông người ra vào. Trên vỉa hè,
tiếng
giày, tiếng guốc khua dậy, và tiếng nói những người đi qua lại nghe
cũng hơi lạ
lùng.
Thụy và Huân rảo loanh
quanh một vòng xong ghé
vào tiệm cơm, mỗi đứa gọi một dĩa cơm gà, một chai bia 33 khổ lớn rót
đầy hai
ly. Ở trong một thành phố lạ, cùng với chuyến đi xa lần đầu hai bạn nhỏ trò chuyện với nhau một cách
thích thú như người lớn. Quảng Trị, tỉnh nhỏ bé thân thương giờ đây hãy
để
quên, hãy cho mỗi đứa trẻ một chút ước ao về chuyến ra đi, về một ngày
mai đẹp
của thời niên thiếu ắp đầy cả giấc mộng
phiêu lưu.
Sau bữa ăn hai đứa góp
chung tiền trả, rồi tiếp tục dạo phố và
lúc trông thấy có tiệm bi da vắng khách, cả hai vào đánh chơi ba cơ vừa
đúng một
giờ. Thụy đánh thắng Huân cơ chung kết,
hơn cách biệt bốn điểm, tuy vậy lúc trả tiền lại cùng góp chung.
Trời đêm mát dịu nên
đôi bạn còn đi chơi. Khi qua rạp
hát Tân Tân , Thụy rủ Huân ghé vào xem biển quảng cáo, xong mua vé để
coi cuốn
phim Le bal des maudits . Rạp hát rộng rãi, đông khán giả. Hai bạn ngồi
dãy ghế
giữa hạng nhì, vừa tầm mắt. Niềm vui dậy dàng lên từ lúc buổi sáng sớm
với chuyến
đi xa, giờ được nghe vang âm qua giọng nói của mình. Cả Huân nữa, nó
cũng mang
niềm hãnh diện như Thụy. Ngày nào đó trở về, mỗi đứa sẽ kể lại bao
nhiêu kỷ niệm
vui thích trong chuyến đi này cho bạn bè nghe.
Ánh đèn chìm tắt, một điệu nhạc trỗi
lên dìu dặt và khi nghe âm điệu vang ngân, trải dài Thụy chợt thoáng
nghĩ đến một
dòng sông đang trôi chảy miên man.
Le bal des
maudits, tên cuốn phim chạy hàng chữ lớn
rồi dừng lại ít giây trên màn ảnh rộng.
Sau đó, lúc tiếng nhạc nhỏ dần, mắt Thụy chú ý đọc tên các tài tử đóng
phim.
Vào phim, nhạc đệm cùng những tiếng
động nghe dồn dập. Khi đoàn xe quân đội
Đức Quốc Xã dừng lại giữa con đường đèo bên trên là cánh
rừng, một viên Sĩ quan rời ghế bước xuống,
gương mặt trẻ trung của tài tử Marlon Brando gây cho Thụy một ấn tượng
khó
quên. Nơi ánh mắt, gương mặt và những nếp nhăn trên vầng trán anh ta
như muốn
biểu lộ một sự phi lý về chiến tranh. Ngay sau đó, có tiếng súng đạn
nổ, những
tốp lính Đức cao lớn, nhanh nhẹn nhảy ào
ra khỏi xe chạy băng vào khu rừng thực
hiện cuộc truy lùng, càn quét địch quân. Bỗng dưng, trong rạp hát mọi
người
cùng lo sợ, nín lặng theo dõi từng bước chân rình rập, từng gót giày đe
dọa của
chiến tranh.
Khoảng nửa giờ sau, Thụy mới nhận ra
một cách lờ mờ về ý nghĩa cuộc chiến, nhưng có rất nhiều cảnh tượng
mang những
suy tưởng triết lý anh đã không hiểu mấy. Chỉ còn hình ảnh Hope Lange,
nữ tài tử
trẻ đẹp là muốn dành riêng cho anh một kỷ niệm thân thiết, hay đó là
nỗi nhớ tưởng
, tựa giấc mơ. Thụy bị rung động bởi tiếng
nói của nàng với người yêu, và trong lặng yên cùng với bóng đêm trên
đường phố
mắt anh cứ nhìn theo đôi tình nhân đang
chậm bước bên nhau lúc đến quảng trường có xe buýt đậu, họ mới rời nhau.
Sau cùng, mọi người chợt
nghe hai tiếng súng nổ,
Marlon Brando, viên Sĩ quan kiêu dũng xuất hiện khi cuốn phim vừa mới
bắt đầu,
giờ anh ta bị trúng đạn do hai người lính Mỹ nhắm bắn, cái chết của anh
trong
tuyệt vọng, nhưng mà đẹp, vì khi ngã gục anh được ôm ấp lấy bờ đất, lấy
cát và
sỏi đá bên dòng suối. Thế rồi, chiến tranh kết thúc với tiếng chim hót
ca bên rừng.
Và, người lính Mỹ đi chinh chiến được trở về, nguyên vẹn trở về hạnh
phúc bên
người yêu.
Cuốn phim dài đến hai
tiếng đồng hồ . Khi ra khỏi rạp hát, đường
phố về đêm khuya vắng vẻ, Thụy và người bạn có vẻ lạc lõng, ngơ ngác.
Thụy còn
cảm thấy nỗi buồn vẫn đọng lại, không muốn loãng tan. Và, anh cũng đang gom góp
những hình ảnh còn nhớ trong vài đoạn phim, đó là
gương mặt của cô gái,
đó là vẻ cuồng si của người thiếu phụ
khi yêu người bạn của chồng mình. Hai bạn lẳng lặng đi bên nhau với
bóng đêm của
mình tợ như trong cảnh phim. Vào lúc này, thành phố lạ bỗng làm Thụy
nghĩ rằng
cũng sẽ có một cuộc chiến tranh đe dọa
tuổi trẻ , thảng hoặc sẽ báo trước một điều gì đó về sau này, nhưng
rồi, anh chỉ
đơn giản nghĩ rằng cuốn phim đã xem là sự ghi nhớ một kỷ niệm cho buổi
đầu của
thời niên thiếu. Không biết, bạn anh
nghĩ gì ?, một chuyến xe sẽ khởi hành sáng sớm mai,
hay niềm ước ao nơi
Huân chỉ mong gặp lại chị Duyên là người thân duy nhất kể từ ngày hai
chị em rời
bỏ miền Bắc di cư vào Nam.
Ba giờ sáng, xe lên đường. Hành
khách còn dật dờ, thấp thỏm nhưng rồi khi xe chạy họ lại ngủ tiếp.
Trong lúc
Huân ngủ say, Thụy ngồi ghế ngoài mắt chăm chú soi rọi qua bóng đêm để
nhìn
quang cảnh dọc quốc lộ I . Từng đoạn đường xe lướt qua, cảnh vật đều
cho anh một
cảm giác mới lạ, nao nức với chuyến đi của
mình, và đến mỗi nơi xe ngừng anh cũng có ý nghĩ đây cũng là một chốn
quê hương
thân thiết giữa cuộc đời.
Xe đò chạy rất mau trên
đường còn vắng, chốc
chốc ánh đèn lóa sáng mở một tầm nhìn xa, rồi thu ngắn lại, và lúc này
ngoài
tài xế cùng lơ xe ra, có thêm Thụy nữa là không ngủ. Mỗi thứ sắc màu
nổi chìm
nơi những chớp sáng, Thụy đều thu nhận hết. Xe qua thị xã Tam Kỳ trời
còn mờ, đến Quãng Ngãi
mới sáng hẳn. Tới đây, tài xế dừng xe ở trạm
xăng đầu thị xã cho hành khách nghỉ mệt để rửa mặt, ăn điểm tâm. Thụy
và Huân
lúc xuống đi đến ngay chỗ xe bán bánh mì
mua mỗi đứa một ổ. Ăn xong còn thèm, hai đứa mua thêm một ổ cưa đôi, ăn
vừa no
bụng.
Xe ngừng trong nửa tiếng. Sau khi
hành khách lên đủ, tài xế cho xe lăn bánh và lúc ra khỏi thị xã là
phóng nhanh
tốc độ, vun vút lao đi đến Qui Nhơn gần
trưa. Không vào thành phố, xe ngừng trước một quán ăn bên ngã ba Diêu
Trì. Hành
khách lục tục xuống xe tìm chỗ tiểu tiện, rửa mặt, rồi cũng lo chuyện
ăn uống
cho xong bữa để tiếp tục lên đường. Thụy và Huân không thấy đói nên hai
đứa chỉ
mua nước uống, ngồi chơi dưới bóng cây trò chuyện với nhau.
Bỗng dưng, từ nơi xa này
Thụy đâm ra nhớ nhà,
hình ảnh ba mẹ và các em cùng hiện lên một lúc trước mắt
khiến cho lòng anh chợt vui lên nhưng rồi sau
đó cảm thấy buồn trở lại.
Đầu năm 48, khi trở về vùng quốc gia
ba anh lên dạy ở Cam Lộ. Một năm sau, ông được thuyên chuyển về thị xã
Đông Hà.
Đông Hà nằm bên cạnh ngã ba đường số 1 và số 9. Ở đây, thị xã vừa mới
xây dựng,
không khí nhộn nhịp trong công việc làm ăn, buôn bán.
Nhà ga xe lửa và phi trường quân sự
nằm về phía Tây, còn phía Đông là sông Hiếu Giang. Quê làng mẹ Thụy ở
Xuân
Thành, ngôi làng này nằm giữa đoạn sông Hiếu Giang. Từ quê mẹ anh đến
biển Cửa
Việt xa chừng ba cây số đường sông.
Khi gia đình anh rời khỏi Cam Lộ dọn
về Đông Hà, cuộc sống ổn định và trở nên
khá giả nhờ vào công việc buôn bán hàng vải của mẹ . Nhưng rồi, hình
ảnh thị xã
mới xây dựng xong, thời gian giúp cho công việc làm ăn của người dân
cũng chỉ đến
trong vài năm sung túc. Giữa mùa hè 1953, một trận lửa cháy kinh hoàng
đã thiêu
rụi thị xã Đông Hà đốt tất cả nhà cửa
hàng trăm gia đình thành tro than. Trước cảnh tượng này, người dân
trong thị xã
cũng như gia đình anh thực sự sống
trong cơn ác mộng .Về sau, lớn lên cùng với sự hiểu biết,
hình ảnh trận cháy ở Moscou trong tiểu thuyết
lịch sử Chiến Tranh và Hòa Bình và trận cháy lửa rực trời ở Rome trong
cuốn
phim Quo Vadis làm Thụy nhớ lại hết tuổi
thơ của mình và hình ảnh những người thân thuộc
trong gia đình đứng chết lặng
trên bờ sông, những cặp
mắt đau đớn
của biết bao nhiêu người dân nhìn vào
khu trung tâm thị xã đang ngùn ngụt cháy
trong biển lửa.
Vậy mà chưa hết, trận hỏa họan chưa
hoàn hồn thì ba anh lại có giấy thuyên chuyển đến nhiệm sở khác trong
tỉnh Quảng
Trị. Một lần nữa, gia đình anh lại dọn đi.
Thụy đã được 9 tuổi, mới học xong lớp
Nhì. Buổi sáng ấy, có một chiếc xe hàng ngừng đậu trước mặt nhà Thụy.
Từ mái
hiên, anh em Thụy đứng nhìn chiếc xe sơn màu xanh biển lấy làm vui vì
sắp được
lên xe đi. Người tài xế xuống xe đi vào nhà anh qua lối cửa hông. Trong
nhà, có
ba mẹ , cậu mợ Tuyên và người phụ giúp khuân vác đang uống trà nói
chuyện.
Một lúc sau, người tài xế trở ra xe.
Ông ta nhanh nhẹn nhảy lên trần , đứng trên đó tay mở các cuộn dây
thừng để cột
đồ đạc và hành lý. Từ trong nhà, đồ đạc di chuyển chuẩn bị xong tối
qua, lúc
này lần lượt đưa lên xe.
Buổi sáng sinh họat trong khu phố và
khu chợ trước nhà anh đã bắt đầu ồn ào như mọi ngày. Khi thấy gia đình
Thụy dọn
đi, bên kia đường có nhiều người đứng
trông sang, chăm chú với vẻ mặt yên lặng. Ở đây, rất
nhiều người kính mến
ba anh, vì ông là thầy giáo dạy học, và cả thị xã chỉ có mỗi một trường
tiểu học
duy nhất ở gần nhà ga.
Người tài xế bước lui tới trên trần
xe với cuộn dây thừng to dùng cột hàng hóa. Ông ta sắp xếp gọn gàng,
sau khi chất
đồ đạc xong, ông phủ trùm một tấm bạt rồi kéo hai vòng dây ở hai đầu
móc trần
xe.
Nắng sáng lên làm rạng rỡ cả khu phố.
Tiếng chuyện trò, cảnh tiễn đưa bỗng rơi vào yên lặng. Thụy nghe tiếng nói thật trầm của cậu Tuyên với ba anh,
còn mợ Tuyên nắm tay mẹ anh.
Anh em Thụy bước lên xe với mấy cái
túi nhỏ. Mẹ , chị Lài ngồi sau với anh
và mấy em , còn ba anh lên ghế trước với tài xế.
Khi xe lăn bánh, anh em Thụy cười
nhìn nhau. Chỉ có hai người trong lòng đang buồn bã đó là chị Lài và mẹ
. Nhưng
rồi bỗng chốc, Thụy có cảm giác mình sắp sửa khóc. Về sau này, hình ảnh
thị xã
Đông Hà anh giữ lại trong ký ức như là một cuộn phim.
Quảng Trị nằm về phía Nam, cách Đông
Hà bằng đọan đường mười hai cây số từ tỉnh lỵ đến quê nội của
Thụy.Thành phố
này đẹp hơn, có nhiều nhà ở, nhiều con đường im bóng mát, thơ mộng nhất
là con
đường ven theo dòng sông hai bên có trồng
những hàng cây phượng, cây bồ đề, cây sao nối nhau
đến khu Cổ Thành Đinh
Công Tráng.
Nhà Thụy ở nằm bên dưới ga đối diện
với tháp nước, nơi chỗ đó những chuyến tàu đi hay về cũng đều ngừng lại
trong
mười phút để lấy nước trước khi tiếp tục cuộc hành trình. Vì quanh chốn
này còn
là vùng đất hoang , tràn đầy cỏ mọc nên nhà ở của gia đình anh mới có
được một
diện tích đất khá rộng rãi, phía trước nhìn ra con đường từ cổng ga đổ
về phố
Trần Hưng Đạo, phía sau là vườn trồng cải, trồng hoa, cây lưu niên và
đào hồ
nuôi cá. Bên dãy nhà phụ, một mái hiên lợp tôn rộng mẹ anh mở quán hàng
hàng
ăn, buổi sáng bán bún, cháo, trưa chiều là cơm.
Nhà ga gần trại lính,
mỗi ngày có đến bốn chuyến
tàu ghé dừng nên quán hàng mẹ anh mở luôn có khách vào ăn uống. Năm
1954, đồng
bào miền Bắc di cư vào Nam khi hiệp định Genève ký kết. Khởi sự từ năm
này, dân
số trong tỉnh tăng lên và kế hoạch định cư được mở rộng ra các vùng
ngọai ô. Với
đồng lương giáo viên tiểu học của ba anh, công việc bán quán của mẹ
anh, lợi tức
hàng tháng góp lại cũng ổn định, bình yên cho cuộc sống gia đình. Ngoài
những
buổi học ở trường, Thụy còn phụ giúp mẹ trong việc chạy bàn mang bữa
ăn, thức uống
phục vụ cho khách.
Vì học kém và chậm, đến năm 1956, Thụy
mới vô được trường công lập trung học.
Nhưng Thụy chỉ lên lớp sau năm đầu Đệ Thất, đến hết
năm Đệ Lục anh không
đủ điểm trong hai kỳ thi lục cá nguyệt phải ở lại, và trong năm học mới
này anh
và Huân quen nhau, trở thành bạn thân và cả hai mới cùng đi xa trong
mùa hè
này.
Bỗng Thụy lên tiếng hỏi Huân:
-Mày ở với
bà chị bao lâu ?
Huân chợt cười bảo Thụy:
-Sao mày hỏi
ngớ ngẩn. Tao đi với mày, đến hết kỳ nghỉ hè thì về.
Thụy ngập ngừng một chút, rồi nói:
-Tao nghĩ
mày ở không lâu, ra lại sớm nên mới hỏi.
Hiểu được ý Thụy, Huân nói:
-Bác có nhờ
tao khi nào về, thì đón mày.
-Nhớ nghe,
không có mày tao phải đi một mình không có ai quen.
Hết giờ nghỉ, tài xế gọi hành khách
lên xe đi. Từ đây, tài xế bắt đầu mở
radio có chương trình nhạc vui cho hành khách nghe. Hai bạn nhỏ vẫn
luôn cảm thấy
nao nức với chuyến đi đường trường. Trong phút im lặng, hẳn Huân sẽ
nghĩ đến
căn nhà của chị Duyên nó cũng có đứa cháu nay lên bốn tuổi rồi, còn
Thụy thành
phố biển Nha Trang đẹp như thế nào, lớn như thế nào, anh đang hình dung
vừa tưởng
tượng nhìn thấy từng khung cảnh hiện ra trước mắt.
Bất chợt, tiếng thằng lơ xe ở đằng
sau hỏi vọng hành khách.
-Ninh Hòa
đây, có ai xuống không ?
Huân giật mình, tôi liền hỏi:
-Có xuống
đây không ?
Huân ngần ngừ, rồi đáp nhanh:
-Thôi, tao
đi Nha Trang với mày. Bác đã nhờ, tao đưa mày đến nơi đến chốn.
Thụy cảm thấy tin tưởng khi có người
bạn bên mình. Xe tới Nha Trang đầu buổi chiều. Bến xe nằm trong thành
phố. Những
con đường rộng mở, vui trong ánh nắng hè và cảnh sinh hoạt thành phố
thật là nhộn
nhịp. Xuống bến, cùng với hành lý, Huân và Thụy đón xích lô đến nhà bác Định. Bác Định là bạn thân với ba
anh. Năm 1954, gia đình bác di cư vào Nam ở lại tỉnh Quảng Trị, bốn năm sau mới vào Nha Trang. Ở xa, ba anh và
bác thư từ nhau luôn.Với tình thân còn gắn bó, nên ba anh cho anh đi
nghỉ hè
Nha Trang đến ở với gia đình bác. Chừng độ một tháng rưởi thôi, Thụy
lại trở về
Quảng Trị, bắt đầu bước vào năm học mới cũng là năm chuẩn bị thi cử.
Nhà bác Định ở khu Phước Hải, đầu đường
Huỳnh Thúc Kháng. Ngoài phía ngã ba là đường Nguyễn Hoàng, dọc con
đường dài
này có nhiều dãy phố buôn bán, ngôi nhà thờ lớn ở trung tâm, từ nhà ga
những
chuyến tàu đi cũng như đến đều cũng phải chạy theo đường ray nằm sau
lưng nhà
thờ. Về tới nơi, thực may hai đứa gặp cả
gia đình bác Định và được đón tiếp niềm nở. Thụy giới thiệu Huân với
hai bác,
còn Nhị con bác là bạn học cùng lớp với
Thụy và Huân. Nhị gặp lại hai bạn thực vui, nhưng chỉ chuyện trò hơn
nửa tiếng
Huân vội xin kiếu từ để ra Ninh Hòa. Thụy cùng với Nhị tiễn Huân ra bến
xe, vì
còn ham vui, cả ba đứa vào quán chơi bi da hết một tiếng đồng hồ mới
chia tay.
Những ngày tháng hè đó thật là hạnh
phúc. Tuần lễ đầu, Thụy chưa vội ghi tên lớp hè để học mà cứ hưởng cái
thú đi
chơi. Hai chiếc xe đạp không rời Thụy và Nhị Buổi sáng sớm, hai đứa đạp
xe ra
biển, tới bãi gởi xe xong là ào xuống tắm. Mùa hè, từ sáng sớm đến
chiều tối,
bãi biển lúc nào cũng đông vui, ấm áp với ánh nắng và mặc sức vẫy vùng,
vượt
sóng. Biển Nha Trang thật đẹp, bãi cát trắng, màu nước biển xanh vời
vợi tạo một
niềm hưng phấn làm hai bạn càng muốn bơi ra xa. Sau hơn một giờ tắm biển , hai bạn lại đạp xe đi nơi khác. Thụy
được Nhị dẫn đi thăm các thắng cảnh Tháp Bà, Hòn Chồng, Hòn Vợ, Xóm
Bóng, và
còn ra tới những vùng ngoại ô xa đến lúc mặt trời lặn mới trở về nhà.
Nhị sành sỏi chơi đàn, Thụy cũng học
đàn với Nhị. Khi đánh đàn, hai bạn cùng hát những bản nhạc vui học ở
trường, những
bài hát về sinh hoạt hướng đạo hay trong những kỳ cắm trại. Nhưng mỗi
tối, bác
Định luôn bảo Thụy và Nhị vào bàn học lo luyện hai môn Toán, Lý Hóa.
Sau tuần lễ
đầu vui chơi thoải mái, cả Thụy và Nhị mới cùng ghi tên lớp hè ở trường
Tương
Lai. Hai bạn trình độ học ngang nhau, về môn Toán Thụy trội hơn Luân
nhưng Lý
Hóa, Nhị lại khá hơn, vào giờ học hai bạn giúp nhau nên tiến bộ khá
nhanh.
Ra Ninh Hòa ở với bà chị được hai tuần,
nhớ bạn, Huân lại vào từ sáng thứ sáu đến chiều chủ nhật mới trở ra
lại. Hội ngộ,
ba đứa kéo nhau đi phố, vào rạp hát coi phim cao bồi, sau khi vãn hát,
lại đi
lòng vòng quanh các phố, hay vào Câu lạc bộ thể thao chơi bóng bàn, bi
da. Ba đứa
thi đấu đều ngang ngửa, luôn tạo nhiều pha bóng tấn công gay cấn hay
những đường
cơ bi da so kè, suýt soát từng điểm.
Những ngày hè của Thụy thật là hạnh
phúc và quí giá như mỗi điểm có được ở bài thi. Căn nhà bác Định, ngoài
nơi chốn
ở bình thường nó còn cho anh hiểu cái đức hạnh chân chính về giá trị
con người.
Bác Định trai thương anh là đứa học trò cũ của bác. Bác gái, luôn gọi
Thụy là
thằng cu như Nhị và các anh con trai lớn
của bác.
Khi đã quen thuộc với một thành phố
mình đến, với một gia đình người thân mình được ở, đó cũng là lúc (mùa
hè sắp hết
rồi) mình lại hồi nhớ về chính mình. Ngoài Nhị và Huân ra,
Thụy cũng còn có những gương mặt bạn bè ở quê
nhà nữa. Ngày mai đây, hẳn rằng, anh sẽ biết trân quí,
biết cất giấu
và sống hạnh phúc với kỷ niệm như tưởng mình đã có
người yêu.
Nha Trang cũng là thành phố lớn. Ga
chính ở đây, mỗi ngày có đến sáu chuyến
tàu chạy đường ngắn, đường suốt. Những chuyến tàu đến hay đi, ngồi ở
nhà vào
lúc chiều hay tối, Thụy đều nghe rõ tiếng
còi tàu. Và, nghe qua từng hồi còi dài ngắn, anh biết chuyến tàu nào
về, chuyến
tàu nào sắp sửa ra đi. Tối hôm ấy, những ngọn đèn sáng, những tiếng
bước chân
người xa lạ và vui, rạp hát chiếu cuốn phim chiến tranh, hình ảnh một
cô gái và
chàng trai đi bên cạnh nhau nói những lời tâm tình, những lời từ biệt,
thành phố
Đà Nẵng bỗng dưng làm Thụy xao động, dấu yêu một nỗi niềm. Và rồi, anh
mường tượng
nhớ đến một buổi trưa hè khác có một người đàn ông và một cô bé trạc
tuổi bằng
em gái anh vào quán hàng cơm của mẹ anh. Anh biết hai người này là
khách đi tàu
ở xa về, vì chuyến tàu về đến vừa mới đi, và lúc này ngoài con đường có
nhiều
chiếc xích lô đang chở khách xuống phố.
Cô bé khuôn mặt dễ thương, nước da
trắng, còn người đàn ông chắc là ba của cô có mái tóc chải tóc bóng
láng, mắt
đeo cặp kính trắng. Lúc ấy đã quá trưa, khách ăn giờ đầu xong đi gần
hết nên ghế
bàn còn lại để trống nhiều.
Khi Thụy mang cơm ra, đặt cái khay
nhôm xuống bàn anh thấy mắt cô bé nhìn anh, nụ cười trên cặp mắt.
Thụy trở vào đứng ở cửa bên quán, cầm
ly nước trà đá uống. Tiếng còi ngắn cất lên, chiếc máng xối hứng nước
được kéo
ra sau đầu máy, rồi con tàu lăn bánh. Thụy hướng mắt nhìn con tàu với
nhiều toa
xe lần lượt chạy qua. Bỗng Thụy chú ý lắng nghe
giọng nói của cô bé và người đàn ông. Khi nghe được,
anh biết là cả hai không phải là người
Quảng Trị ở đây mà
là người miền Bắc. Thời kỳ đó, thời hạn cuộc di cư trong 300 ngày chưa
chấm dứt.
Ngang qua nhà ga nhỏ này, trước đây chỉ có hai chuyến tàu đi, về giờ mỗi ngày có đến sáu chuyến, chưa kể là
có tăng cường thêm xe nhà binh, xe chở hàng nhận công tác cứu trợ đi ra
phía Bắc
đến tỉnh Thanh Hóa chở đồng bào di cư vào miền Nam.
Thụy bỗng có cảm tình với cô bé nên
đưa mắt nhìn chú ý. Cô bé mặc chiếc quần tây xanh, áo sơ mi hồng, và có
cặp mắt
nhỏ thật đẹp. Hai người khách ăn cơm xong gọi tính tiền, Thụy nghe vậy
vội bước
chân đến. Vì phải thối lại nên anh trở vào quán lấy tiền lẻ nơi ngăn
hộc , xong
trở ra.
Người khách cầm lấy tiền
thối, nói với Thụy:
-Cám ơn
cháu.
Thụy cũng đáp lời cám ơn với ông
khách.
Cô gái nghe được tiếng anh nói, ngước
cặp mắt vui lên nhìn.
Hai cha con
đứng dậy rời quán, trở ra đường chờ xe.
Người đàn ông xách cái
túi lớn, da nâu, còn cô bé
quàng dây đeo chiếc túi nhỏ màu vàng bên vai.
VIII
Thụy nhận được thư của Phương. Có một
đoạn trong thư Phương nhắc đến Thiên Nga làm Thụy cảm thấy vui, tưởng
đang ngồi
bên nàng trò chuyện. Những ghi chú rất nhỏ về nàng, thư của Phương làm
anh cảm
động, thật rất trân quí tên nàng. Bây giờ đây, bóng dáng Thiên Nga đã
tạo ra
trong trí Thụy một sự liên tưởng phối hợp, và Thụy nghiệm thấy, nàng
như là một
cô giáo đang dẫn đường, vừa dìu bước anh, dù rằng, đã có lúc nỗi tuyệt
vọng khiến
anh phải vươn dài cánh tay níu giữ nàng lại. Nàng chỉ mỉm cười, cho anh
chút hạnh
phúc thật êm ái, tâm hồn mát dịu như bóng cây, đó là thời gian của nàng
qua
dáng áo tím, đôi mắt dịu hiền và một bàn tay êm mát , thế rồi, nàng nắm
lấy tay
anh bảo anh hãy gắng bước theo nàng. Anh cũng đã trở nên một cậu bé
ngoan
ngoãn, cảm thấy có nàng là sự an ủi, và lúc này, hơn ai hết nàng không
hề có
chút chi phiền muộn khi lắng nghe anh nói về tuổi trẻ bất hạnh của mình.
Buổi sáng hôm ấy, ngồi trên chiếc xe
khách đang chạy mà đầu óc Thụy như là kẻ
vô hồn, không có một ý tưởng nào khác ngòai sự bơ vơ đối với con đường
học vấn
đã chấm dứt. Làm gì cho tương lai, điều này, anh không dám có một chút
tự tin
nơi sức mình mà chỉ còn một nguyện cầu khao khát là mong ông Trời bù
lại cho
anh một chút may cuộc đời trong ánh sáng thế gian.
Khi xe hàng đỗ bến, xuống xe Thụy đi
bộ về nhà. Trên đường nhìn hoa phượng nở đỏ, nhìn những dòng xe đạp của
nam nữ
học sinh dạo chơi cười nói rất vui, tự dưng anh cảm thấy mình lạc lõng
như thể
là kẻ lạ đâu từ miền xa nơi một vùng biệt xứ nào về đây mà không thể có
ai quen
nhận ra mình. Hoa phượng đối với anh trong phút giây này là nỗi buồn
chảy nước mắt. Huế, tuổi trẻ vẫn cứ luôn
ôm ấp cả
một bầu trời thân thương có dòng sông xanh và những hàng cây phượng mỗi
mùa hè
sẽ mang đến nét thắm tươi, rực rỡ cho thành phố này.
Về đến nhà, Thụy dừng bước trên bực
cửa. Nhìn vẻ mặt buồn bã của anh, ba mẹ không hỏi han gì nữa. Các em
anh cũng vậy.
Rồi Thụy bước vào nhà, lặng yên ngồi xuống như một người vừa mới ngã
bệnh.
Tiếng mẹ anh nói rất nhỏ:
-Con cái
mình không có được chút ân huệ khoa bảng.
Thụy nhìn ra cửa, buổi chiều đang xuống
bên ngoài . Trên đường, một chiếc xe búyt đi lên Long Thọ vừa chạy
ngang qua.
Thụy trông thấy con sông, ngôi trường Bình Linh bên kia nơi anh vào học
ở đó
năm trước nữa, và sự yên lặng buổi chiều như muốn nói cho anh biết rõ
về chuyện
gia đình của mình.
Sau hai tuần lễ về nằm nhà với bao
nhiêu nỗi buồn chán không nguôi được, vào một buổi tối trong bữa cơm
gia đình,
Thụy nói với ba cho anh vào Sài Gòn tìm kiếm việc làm.
-Con làm được
công việc gì ?, ba anh hỏi.
-Con chưa biết.
Nhưng vào trong đó, tìm kiếm công việc làm cũng dễ hơn.
-Con có bạn
bè thân trong đó không ?
-Có.
-Con viết
thư cho bạn con đi.
Sau ít giây suy ngẫm, ba anh tiếp lời:
-Ba biết con
nản chí chuyện học hành. Thôi, thì cũng là cái số phận của mỗi người.
Con kiếm
việc làm để ra đời sớm. Rồi về sau, nếu được trời giúp cho con chút cơ
may.
Các em rưng rưng khóc đưa mắt nhìn
Thụy. Thụy đọc được trên từng giọt nước nóng ấm của em mình hình ảnh sự
đơn độc,
khó khăn trước cuộc đời khi anh phải giã
biệt gia đình ra đi. Vào Sài Gòn, đó là nơi đến dứt khóat rồi. Nhưng
anh sẽ làm
công việc gì và sẽ nương tựa nơi đâu. Khi nghĩ đến chỗ nương tựa, Thụy
không
dám tìm gia đình các cậu và các dì em ruột của mẹ anh. Chẳng như, anh
thi cử đỗ
đạt , chuyện nương nhờ còn may, chứ một thân xơ xác vào Sài Gòn mà tìm
đến người
thân thực là một nỗi khó.
Sau cùng, đến lượt anh Nguyên cùng
ra đi. Anh Nguyên cũng vừa mới rớt vấn đáp năm Dự bị Văn Khoa, thực là
cái số của
gia đình Thụy mạt phúc đến như vậy . Nhưng anh Nguyên còn may là có
được bằng
Tú Tài II, và thêm khả năng viết báo. Từ quyết định của anh Nguyên, ba
Thụy cho
hai anh em đi Sài Gòn.
Một lời dứt khóat, Thụy nói:
-Ba mẹ đừng
lo. Con còn độc thân, kiếm được đồng lương con giúp ba mẹ và các em đi
học.
Chỉ còn một tuần nữa là bắt đầu niên
học mới. Nhưng từ nay, gia đình Thụy lại một cảnh hai quê. Thụy và anh
Nguyên
đi xa mưu tìm cuộc sống. Từ nay, cả hai anh em
không còn có mộng ước ở ngưỡng cửa Đại Học như bao
nhiêu bạn bè khác nữa.
Từ nay, hai anh em cùng dấn bước vào đời với chuyến đi xa khởi sự vào
những
ngày sắp tới.
Trước quyết định ra đi, Thụy trở vào
lại Đà Nẵng. Thụy đi nội trong ba ngày. Thụy vào để thăm dì Bích Vân,
sau đó sẽ
đến với gia đình Thúy Hà. Chuyến xe hàng không đông khách nhưng ngừng
nhiều trạm,
mỗi nơi có khách xuống và khách lên, tới đỉnh đèo đã gần trưa. Xe nghỉ
thường lệ
nửa tiếng để chờ xuống đèo hai phía Nam Bắc, nhưng hôm nay, phía Nam,
một quãng
đường gần cây số đang được Công binh sửa chữa. Thụy thèm ly cà phê nên
đi tìm
quán. Đang đi, bỗng nghe có tiếng gọi Thụy giật mình và thật bất ngờ
khi trông
thấy chú Hoàng. Ông chú đang ngồi ở bàn phía ngòai hiên, uống bia một
mình.
-Cháu uống
gì ?
-Thưa chú,
cà phê.
-Gọi đi.
Thụy gọi một ly cà phê đá. Trong lúc
chờ, tiếng chú Hoàng hỏi:
-Đi Đà Nẵng
có việc gì vậy ?
-Cháu vào
thăm dì Vân. Chú còn nhớ dì Vân con ông bác Huyện không ?
-Có. Bên ngoại
con, chú biết hết.
Nhìn lại người chú, Thụy nói:
-Con sắp đi
Sài Gòn.
-Học trong
đó ?
-Dạ không.
Con đi tìm kiếm việc làm.
Cô gái mang ly cà phê ra. Thụy mở hủ
đường cho thêm vài muỗng rồi khuấy uống. Cà phê không được ngon. Thụy
cầm gói
thuốc của chú Hoàng rút một điếu và xin phép hút. Một giọng khàn đục,
Thụy nói:
-Số phận con
đen đủi quá.
-Nhưng sao
mà cháu bỏ học ?
-Không thi đậu,
làm sao học tiếp được nữa chú. Cái số của cháu không sáng dạ trong sách
đèn,
thôi cháu vào đời kiếm lấy cuộc sống mà lo cho bản thân.
-Vào trong
đó cháu làm công việc gì ?
-Cháu chưa
biết. Nhưng ở đô thành việc làm công nhân cũng dễ kiếm.
-Cháu đi một
mình.
-Có anh
Nguyên đi nữa chú. Anh theo nghề viết báo.
-Được lắm.
Thằng Nguyên theo nghề báo là hay, chọn đúng đường đi.
Thụy uống cà phê chậm từng hớp như cố
lấy bình tĩnh. Một dòng đời trôi nhẹ qua tâm hồn anh. Tưởng rằng bao
nhiêu kỷ
niệm cũ ở miền quê thời ấy, anh đem ra bộc bạch với người chú, nhưng mà
không,
một giọng buồn anh đã nói:
-Gia đình
con không có nếp khoa cử, buồn quá chú.
-Chú rất hiểu.
Chú Hoàng đặt ly bia xuống bàn. Như
thể cố nén giọng buồn bực và chia xẻ với người khác, chú nói:
-Chú hiểu từ
lâu rồi.
-Cháu biết,
ba mẹ cháu buồn lắm nhưng số phận từng đứa con và cả gia đình luôn lận
đận.
-Cháu đến tuổi
quân dịch chưa ?
-Dạ rồi.
Đã mười một giờ trưa, xe vẫn còn đợi
sửa đường. Nắng lan rộng trên đỉnh đèo, sương mù đã tan hết nhưng khí
lạnh từ
núi, vang âm dòng suối tuôn chảy và sóng vỗ trên mặt biển dần dần tràn
ra xa. Bỗng
nhiên, lúc trông thấy bóng dáng con tàu Thụy chợt nhớ một buổi sáng mùa
đông
trên bến Cảng, vào giờ đó, trước khi vào lớp học cả đám bạn anh đứng ở
công
viên vẫy tay chào một đòan thủy thủ mặc áo trắng đứng trên boong, họ
cũng cười
vui la hét vẫy vẫy những cánh tay khi con tàu từ từ tách bến.
Hai người trở lại chuyện cũ về gia
đình. Thụy bỗng hỏi:
-Ngày trước,
chú đã ở Hội An?
-Chú làm việc
ở đó ba năm mới ra ngòai này.
-Chú có mặt
ngay lúc đầu Đại Học Huế mở.
Chú Hoàng gật đầu. Thụy đốt thêm điếu
thuốc. Những sợi khói mỏng trườn lên làm Thụy nhớ đến Lăng. Lăng đang
học Luật ở
Sài Gòn, ở nhà cậu Nghiêm. Hội An, thành phố nhỏ ấy Thụy đã đến thăm,
đi chơi
cùng với mấy người bạn. Nơi thành phố ấy, Thụy nhớ biển Cửa Đại, nhớ
một mùa hè
thanh bình, và vào năm đậu xong Trung học Đệ Nhất Cấp, từ Quảng Trị Lăng đi một mình vào Hội An thăm gia đình
người
chú. Lăng với Thụy là anh em bạn dì. Lăng mồ côi năm lên ba tuổi. Dì
Quyên mẹ
Lăng lấy chồng có ba mặt con, ở góa bụa từ thời còn trẻ . Mẹ Thụy, dì
Quyên, cậu
Nghiêm là chị em cùng một cha, một mẹ. Thực ra, ông bà ngọai anh có sáu
người
con nhưng đã mất đi ba. Năm đó, cảnh tản cư chạy lọan những gia đình
người thân
trôi giạt về tạm trú ở quê ngọai rồi tản mát. Hình ảnh chú Vinh ba của
Lăng và
chú Hoàng đây tìm lại trong trí nhớ thuở
đó, Thụy chỉ nhớ ra được dáng người. Rồi Thụy gặp lại chú Hoàng sau này
khi đã
lớn, đó lần đầu tiên anh đến nhà chú vào mùa hè cách đây ba năm ở khi
anh rời
Đà Lạt về Huế học. Ở Sài Gòn, thỉnh thỏang Lăng có viết thư cho Thụy.
Dịp Tết,
có một năm Lăng gởi cho anh ít sách truyện
và báo Xuân để đọc. Luôn luôn hai bạn sống có tình nghĩa với nhau.
Trong các đứa
cháu, Lăng được các cậu, các dì cả bà con xa gần bên ngọai nữa biểu lộ
nhiều
tình cảm vừa hãnh diện về sự học hành, đỗ đạt của Lăng hơn mấy anh em
bên nhà
Thụy. Người ở bên ngòai nhìn thấy vậy nghĩ rằng, Lăng mồ côi cha tự
thuở bé nên
được nhiều tình thương của người thân. Có đúng một phần, nhưng không
phải vậy
đâu. Bên ngọai rất bề thế về sự vinh hiển qua nhiều đời làm quan và
khoa bảng,
nhưng riêng mẹ anh rất ít học, và ba anh
được làm rể gia đình ông ngoại chỉ là giáo viên với
mảnh bằng Tiểu học. Vào thời gian gia đình
gặp họan nạn, sống
nương nhờ người thân, cứ đến bữa ăn ngồi yên lặng Thụy không dám chuyện
trò,
anh luôn có cảm giác nôn nao trong cổ họng khi cố gắng ăn thật chậm
rãi, khẽ
khàng để nuốt từng miếng cơm vào cổ họng. Và ngồi ở đây, chốn này, đem
những lời
tâm sự ra nói với người chú của Lăng, mới hai mươi tuổi đầu, Thụy biết
mình nên
đi tìm đến một vùng đất hứa. Và, anh rất tin cậy ánh sáng, con người,
cùng
thiên nhiên ở miền Nam.
-Cháu có muốn
xin việc làm ở Huế không ?
-Dạ không.
Cháu không thể ở ngòai này được. Và bước đường cùng, cháu nhảy vào lính
là xong
chuyện.
-Cháu đi học
Sĩ quan được không ?
-Không được,
vì cháu không có bằng Tú Tài.
-Nếu cháu ở
lại Huế, chú sẽ xin cho cháu một chân giáo viên dạy ở trường Tiểu học.
-Cháu không
nghĩ tới trường học nữa. Cháu muốn làm công nhân, hoặc là đi lính thôi.
Chú Hoàng rót phần bia còn lại trong
chai vào ly. Thụy thấy chú uống từng ngụm trong sự cố gắng mà có lẽ bởi
những
điều thất vọng của đứa cháu vừa bày tỏ làm chú băn khoăn, suy nghĩ.
Một giọng thản nhiên, chú nói:
-Con cháu, đứa
nào chú cũng thương.
-Dạ, cháu biết.
Nắng ấm áp, sáng sủa, tự dưng lòng
Thụy cởi mở.
-Bây giờ, chị
Hiền sao rồi chú?
-Nó thi đậu
vào trường Sư phạm Qui Nhơn.
-Chị Hiền đi
dạy, cũng hay đó.
-Nó thi rớt
lọat nhì, hai kỳ luôn.
-Cháu cũng bị
hỏng lọat nhì.
Có tiếng kẻng của người lính canh
đánh vang lên nghe giòn giã. Hành khách cười nói, vui chuyện, và họ trở
lại những
xe khách trong vội vàng.
Chú Hoàng đi traction An Lợi, Thụy
lên xe Tiến Lực. Những tiếng còi hiệu vang xa, thực rộn ràng. Rồi từng
chiếc một
nối nhau thành một đoàn chuyển bánh rời trạm nghỉ trên đèo. Lúc này,
lòng Thụy
tự nhiên hoang mang vương vấn một nỗi buồn. Thụy thoáng nghĩ đến Dạ Hân
trong mối
tình thơ dại của cô em gái dịu hiền như hương gió thỏang qua. Ngày rời
xa Đà Lạt,
lòng Thụy rất buồn. Anh đi một mình, không có ai đưa tiễn cả. Hành lý
của anh
có chiếc va li và túi xách đeo vai. Bến xe lam nằm ở chợ, đến nơi, Thụy
vừa kịp
chuyến xe chạy đưa khách lên nhà ga.
Thụy mua được giá vé học
sinh. Thời gian còn sớm,
anh vào quán ở phòng đợi ăn tô mì nóng
và uống ly cà phê. Thụy hút thuốc lúc nhấm nháp ly cà phê. Trời lạnh,
mưa nhỏ hạt,
tuy trong lòng buồn nhưng qua làn khói anh vẫn cảm thấy vui thích với
sự cô
đơn.
Hai toa xe hạng ba nằm phía gần đầu
máy. Hành khách đi tàu không mấy đông nên không có sự chen lấn. Dưới
sân ga trở
nên vắng, và lúc này sắp đến giờ khởi hành. Thụy không cảm thấy nôn
nao, vì hiểu
được rằng chuyến đi này của anh không còn mong ngày trở lại nữa. Trong
một
thoáng nhớ đậm màu khói thuốc, Thụy chợt
nghĩ, những kỷ niệm về tuổi niên thiếu đời anh xin gởi lại thành phố
này.
Tàu chuyển bánh, rời ga. Những vòng
bánh vừa mới lăn trên đường sắt thật nhẹ nhàng như giấc mơ. Tàu xuống
ga Phan
Rang gần nửa đêm. Tại đây, Thụy chuyển sang tàu đi ra Huế.
Trưa hôm đó, Thụy đạp xe tìm đến nhà
Lăng. Từ ngày vào Huế học, Lăng ở nhà ông Hoàng người chú ruột.
Thụy gặp một cô gái từ
trong vườn bước
ra, vội cất tiếng chào hỏi. Cô Dạ Hiền
chỉ cho anh lối rẽ xuống bến sông. Thụy chưa hề gặp chú Hoàng của Lăng,
nên để
xe đạp ở sân vào nhà trước để chào. Vừa thấy anh xuất hiện, hai ông bà
nhận ra
ngay, vui vẻ hỏi chuyện. Thụy ngồi xa một chút, ở chiếc ghế bên góc cột
vừa
nhìn hai người, vừa đáp lời. Mới lần đầu gặp, Thụy cảm thấy thực sự gần
gũi với
mọi người trong gia đình.
Một lúc sau, Thụy đứng dậy đi cùng với
một em gái nhỏ xuống bến sông. Vừa bước qua
vòm cổng, anh đã nghe tiếng chuyện trò và trông thấy bọn trẻ nhỏ đang
tắm la
hét, đuổi bơi xa ngoài sông. Anh Nguyên, Lăng, và người bạn ngồi trên
chiếc giường
tre dưới bóng cây nhãn cùng reo lên khi thấy Thụy. Đi xa, nay trở về
gặp được
người thân anh biết mình xúc động. Anh Nguyên và Lăng, vừa mới thi xong
cách
đây hai ngày nên Thụy không hỏi kết quả. Người bạn tên là Đông, dạy học
các em
nhỏ trong nhà. Đông biết tên Thụy, dù mới lần đầu gặp. Và một niềm vui
tự
nhiên mang đến là Đông và Thụy cùng tuổi,
cùng học cùng một lớp. Vừa chuyện
trò với
anh em, Thụy để mắt chú ý một cô bé đang ngồi giặt quần áo
trên bậc đá. Một lúc sau, anh bỗng lên tiếng
hỏi:
-Em học lớp
mấy rồi ?
-Dạ Đệ Lục.
-Em học trường
nào ?
-Dạ, Đồng
Khánh.
Cô bé ngừng giặt, ngước mắt nhìn Thụy.
Sau đó, anh đứng lên rời khỏi chỗ mình bước qua thềm đá, ngồi xuống bên
cô.
-Em tên là
An, phải không ?
Cô gái cười, nhìn Thụy nói:
-Anh đoán
tên không đúng.
-Vậy em cho
anh biết tên đi.
-Không.
Cô gái mím chặt môi, mắt cười nhìn
Thụy. Rồi cô hỏi:
-Sao anh gọi
tên em là An.
-Hình ảnh nhỏ
bé của em khiến anh nghĩ đến cái tên mình yêu thích.
-Hay là, một
người bạn gái anh tên An.
-Không,
không phải vậy.
-Nói cho em
nghe chuyện đi.
-Không có ai
hết. Chỉ có em cho anh tên An, thôi.
-Anh đặt tên
cũng hay, cô gái nói.
Thụy
tự nhiên thấy vui trong lòng. Giặt hai
áo cánh xong, cô lấy cái thau nhựa múc nước để xả.
Thụy nhìn dáng điệu của
cô qua bóng nắng. Hai lần cô thay nước trong thau, đến lần thứ ba xả
xong nước
chót rồi vắt khô áo. Bên cô, Thụy có được ngày trở về sau nhiều năm đi
xa. An,
cái tên anh hình dung qua cô gái nhắc tôi nhớ một lọai thảo mộc, và nhớ
đến
Cybèle cô bé trong phim Les dimanches de ville d’Avray.
Giặt xong, An còn ngồi lại chuyện
trò với Thụy. Thụy nhận ra niềm vui của An trong ánh mắt nhìn qua anh,
mỉm cười
với cái tên anh gọi cô.
Tuy nhiên, biết thế Thụy không tin chắc rằng
cô sẽ tự hỏi, tại sao trong gia đình ba mẹ không đặt cho cô tên đó.
Vừa mới biết nhau, nhưng Thụy và An
nói chuyện rất là tự nhiên, thân mật. Hình ảnh Đà Lạt còn nguyên vẹn
trong trí
nhớ nên Thụy chỉ cần nhắc lại một đôi chút là đủ để
cho An
tưởng tượng, hình dung ra một thành phố có hoa anh
đào, những con đường
dốc, những ngôi nhà ngói đỏ, các tu viện,
những khu rừng, những đồi thông bị sương mù bao phủ
khi nắng buổi sáng
chưa lên cao hay trong buổi chiều khi trở về cùng với mưa. Một đôi câu
hỏi, hay
là những chuyện kể về Huế trước khi mùa hè tới, bằng giọng nói thật dễ
thương của
An trong vẻ ngập ngừng, tự dưng, Thụy có ý nghĩ
nay mình đã trở nên
khác hẳn.
Khi rời đèo Hải Vân để về thành phố,
các xe nhỏ chạy nhanh hơn nên tới bến trước. Tuy nhiên, các xe lớn cũng
về đến
nơi chỉ chậm sau chừng mươi, mười lăm phút.
Vừa ra khỏi xe, Thụy bỗng thấy chú
Hoàng còn đứng chờ ai ở bến chưa vội đi. Thấy vậy anh bước nhanh đến
chào và hỏi:
-Chú đợi xe
cơ quan ?
-À. Chú đợi
cháu.
-Dạ.
Thụy theo chú Hoàng vào quán ăn trưa
ở bến xe. Thụy không biết người chú định nói gì , nhưng anh cứ đi theo.
Ngồi
trong quán nắng trưa hừng hực nên cần phải có nước giải khát. Thụy uống
nước đá
chanh, còn chú uống bia. Bữa cơm phần được gọi chờ mang ra. Thụy và chú
đốt điếu
thuốc trong lúc chờ bữa ăn.
-Chừng nào
cháu đi ?
-Dạ tuần tới.
Chú nhìn lại vẻ mặt Thụy và anh ước
tưởng, trên gương mặt mình đã lộ thấy cả một đọan trường đầy chông gai,
trắc trở.
Khi bữa ăn mang ra, Thụy cảm thấy
đói vì cơm và thức ăn nóng hổi, lên khói.
- Ăn đi
cháu.
-Dạ, mời
chú.
Hai người ăn thong thả. Chú Hoàng chắc
đã nghĩ kỹ , rồi hỏi:
-Cháu muốn
nghe lời chú không ?
Thụy đáp:
-Dạ. Lúc nào
cháu cũng coi chú như ruột thịt.
-Cháu ở lại
Huế đi. Chú sẽ xin việc cho cháu. Tốt nhất, cháu xin dạy một trường
tiểu học ngọai
ô. Đi dạy còn có thì giờ để cháu học thi lấy bằng Tú Tài.
Thụy đang nuốt miếng cơm, bỗng dưng
có cảm giác trong cổ bị nghẹn. Lòng tốt của chú Hoàng, biết anh sẽ nói
ra sao để
chú hiểu được tâm trạng của mình. Lặng im trong chốc lát, Thụy mới mở
lời:
-Gia đình
cháu không có ai sáng dạ học hành. Anh Nguyên là người khai khoa cho cả
họ hàng
bên nội cháu với mảnh bằng Tú Tài. Về phía ngoại , anh em của cháu
chẳng dám tơ
tưởng để thừa một chút danh thơm. Vậy nên, cháu không thiết nghĩ đến
chuyện học
làm chi. Đến chuyện nghề giáo cũng vậy, ba cháu cũng đã nhận ra nghề bạc bẻo này trong đời mình. Cháu muốn đi xa, vào
miền Nam kiếm sống giống như phu đồn điền thời trước bỏ xứ đi tìm cuộc
mưu
sinh. Thà đi như vậy, cháu có đủ can đảm hơn, vươn mình hơn là an phận
cuộc đời
như ba của cháu. Cháu rất biết ở đây, với uy tín của chú việc gì chú
giúp cũng
thành. Chú rất tốt, cháu biết và cháu hiểu.
Bữa cơm dọn ra nhiều món và Thụy ăn
thực tình. Khi đã hiểu tấm lòng anh trống trải, chú Hoàng lặng im , suy nghĩ về hòan cảnh của anh như là con của chú
phải đi xa vậy.
Xong bữa ăn, chú Hoàng và Thụy tiếp
tục câu chuyện đời. Sau đó, rời quán Thụy nói lời chào chú rồi từ bến
xe đi bộ
về nhà người dì .
Một câu chân tình, dì Vân hỏi:
-Vào Sài
Gòn, cháu vẫn tiếp tục học ?
-Dạ không,
cháu tìm việc làm.
Trên gương mặt người dì lộ vẻ buồn
lo lắng. Thụy nói chuyện với hai người thân khá lâu, sau đó, qua phòng
khách lớn
lúc anh nghe có tiếng dạo đàn. Chị Bích Ái đang chơi dương cầm, Thụy có
nhớ một
vài bản cổ điển và yêu cầu chị đánh cho nghe. Tiếng đàn ngân vang,
trong sáng,
anh nghe mà như ôm giữ cả dòng nhạc
trong tâm hồn một nỗi buồn nhớ lạ lùng.
-Ít ngày nữa,
con đi.
Thụy đáp lời lúc chào từ biệt. Và từ
nhà người dì, Thụy ra đường đón xe lam xuống
phố, ghé vào hiệu sách đọc báo, rồi về nhà Thúy Hà.
Vừa thấy Thụy xuất hiện, Thúy Hà rời
ghế đứng dậy tay cầm một tập giấy. Nàng nói:
-Rất tiếc
truyện không được đăng.
Thụy chợt nghĩ đến một hạnh phúc.
Nàng đã đem lại cho anh hạnh phúc về một lá thư
của anh mà chính tay nàng đã mở ra xem. Thụy rất vui
với sự chân tình của
nàng.
-Cả nhà đi vắng
?
-Cả nhà qua
thăm bác Phúc.
Thụy và Hà cùng ngồi xuống chỗ bàn
khách.
-Tiếc quá,
Thụy nói.
-Sao mà tiếc
?
Nàng hỏi Thụy, không đưa mắt nhìn.
Thụy nói:
-Nếu truyện
được đăng là cả một niềm vui. Lúc gởi đi, cứ ước ao truyện được đăng để
làm món
quà tặng Thúy Hà.
-Bày vẽ ra.
-Thực lòng
đó.
-Không được
đăng thì mình viết truyện người khác.
Nàng đáp lời anh, rồi cúi mắt chăm
chú đọc. Thụy hỏi:
-Mà truyện
viết được không ?
-Không được.
Bịa đặt và tưởng tượng nhiều quá.
-Thì truyện
viết phải tưởng tượng.
-Đồng ý,
nhưng phải tôn trọng sự thật.
-Có nhiều sự
thật trong đó, biết không ?
-Đâu, sự thật
nào đâu ?
- Hà đã
đọc qua hết truyện rồi sẽ thấy.
-Có thấy,
nhưng hôm đó chỉ chơi cờ ca rô thôi mà, làm gì có tóc nàng xõa kín
gương mặt rồi
để chàng vén mái tóc nàng lên cho hai người đưa mắt nhìn nhau.
Thúy Hà có giọng nói thật hay. Nhớ lại
một buổi trưa hôm đó trong giấc ngủ Thụy thấy cảnh anh và nàng chơi cờ
ca rô
trong lớp học. Người ta thường nói chiêm bao là do ức chế, nhưng thực
ra, hình ảnh
nào đã gặp thì được nhìn thấy trở lại trong giấc mơ. Trong truyện, Thụy
có thêm thắt đôi chút để hai người hiểu
nhau.
Trong giấc mơ, hình ảnh đó đã bày tỏ tình cảm thân mật của hai người.
Truyện ngắn Thụy viết 10 trang ,
Thúy Hà đọc hết không bỏ sót dòng nào. Đọc xong, nàng đưa qua cho Thụy.
Thụy cầm
lấy, hơi bối rối không biết làm gì với một món quà tặng không còn dùng
được nữa.
Lặng lẽ, Thúy Hà rót trà vào tách
cho Thụy.
-Anh uống nước
đi.
-Còn hai tuần
nữa thôi, Thúy Hà đi học lại rồi.
-Em
chưa chuẩn bị gì cả.
-Năm cuối,
các môn học đều khó. Mong làm sao, năm tới em vào Đại Học.
Nàng mỉm cười nhìn lại Thụy. Hai người
cùng vui chuyện, nhờ vậy, Thụy quên được nỗi buồn về sự hỏng thi. Rồi,
có những
câu nói gần như vô nghĩa. Với nàng, cuộc sống rất là vô tư. Còn anh,
anh cứ
nhìn ngắm mãi vẻ đẹp trên gương mặt nàng. Trên ánh mắt nàng, anh nhận
ra tình
yêu của thời gian có nhiều màu sắc ánh sáng. Và, anh lại tự nhủ hạnh
phúc cho
Duy đã có được nàng. Thụy luôn nhận ra vẻ đẹp của nàng qua gương mặt và
mái
tóc. Nàng để lộ ánh sáng trắng sữa trên làn da và gương mặt, ở hai cánh
tay và
hình dáng cân đối của nàng.
Đâu đó, mùa thu đang trở về. Và,
thành phố này cây lá sẽ xanh tươi. Thụy biết lòng nàng không buồn nhưng
cũng
không vui.
-Ngày mai,
anh trở ra lại Huế.
-Anh đi Sài
Gòn không ?
-Có. Đi,
nhưng không bao giờ quên Thúy Hà đâu.
Giọng Thụy nói thật chân tình, cảm động.
Thúy Hà ngước mắt nhìn anh. Lúc ấy, hạnh phúc dành cho Thụy là nụï cười
trong cặp
mắt sáng của nàng.
Buổi trưa qua mau. Cả nhà về tới.
Ông Kha thấy Thụy vào lại hỏi thăm sức
khỏe ba mẹ anh ngoài nhà và ông bắt tay anh thật là nồng ấm.
-Cháu đã nhận
được thư của một người bạn ở Sài Gòn.
-Chừng nào cậu
đi ?
-Dạ, đầu tuần
tới. Cháu vào đây thăm hai bác, ngày mai cháu trở ra Huế.
-Không ở
chơi thêm ít ngày.
-Cháu ra,
chuẩn bị chuyến đi để sớm gặp người bạn.
Lúc nói chuyện với gia đình, Thụy
quên mất sự vắng mặt của Hà. Một lúc sau, nàng xuất hiện ở lối cầu
thang đi xuống.
Lúc Thụy ngước mắt nhìn thấy, nàng mỉm cười. Nàng có một vẻ đẹp khiến
cho anh cứ
nhiều lần bối rối, bỡ ngỡ. Hơn một giờ qua, trong lúc nhà vắng vẻ chỉ
có hai
người chuyện trò với nhau mà những ý tưởng thực sự muốn bày tỏ còn ngập
ngừng,
lơ lửng, dù trong thâm tâm là có sự thương cảm của tình yêu mà với hai
người,
ai nói ra trước cũng được. Thụy cảm thấy sự thua kém này vì bản tính
rụt rè, cộng
sự không may mắn của anh sau một năm học. Nhưng nàng chẳng bao giờ quan
tâm đến
chuyện đó. Nàng rất tự nhiên, vẫn nghĩ về anh là một người bạn thân,
vẫn biết
rõ hơn ai hết trong gia đình là anh yêu nàng, dù một chút mong manh
trong hy vọng
nhưng nàng vẫn chấp nhận, và tự nói với chính mình là nàng cũng yêu anh.
Đến trưa, trong bữa ăn Thụy có mặt với
gia đình nàng. Thụy dè dặt, nhưng với vẻ
mặt thân thiện của các em nàng làm anh hài lòng. Sau bữa ăn, ông bà Kha
nghỉ
trưa còn Thụy cùng mấy đứa em và Hà lên gác chơi bài. Vừa chơi bài, vừa
trò
chuyện. Vân nói:
-Rạp Lido có
chiếu phim hay lắm.
Thụy
đưa mắt nhìn qua Hà . Trong cái nhìn của Thụy, Vân
bắt gặp là hiểu. Cô
nói:
-Chị Hà bao
ciné nghe ?
Hà nhìn qua Thụy, gật đầu. Rồi mấy
anh em chơi bài tiếp. Lúc này, Hà là người chủ động dẫn dắt câu chuyện
từ phim ảnh,
đến bạn bè, và nói đến ngày hội Festival có tổ chức cuộc thi nữ sinh
duyên
dáng.
Rất
vui, Thụy lên tiếng:
-Thúy
Vân nên dự thi.
-Em cũng đồng
ý như vậy, Hà tiếp lời.
-Không, em
không đi đâu.
-Anh nghĩ là
em sẽ đoạt giải.
Hà nói:
-Xong chưa,
khui bài nhé.
Tất cả chờ đợi. Khi Hà lật hai cây
bài Thụy lên, nàng cười nói:
-Cái tội dằn
non.
Lòng anh quá vui trong
giọng nói của nàng. Từ dạo anh
biết nàng cho tới nay, mỗi cử chỉ nhỏ nhặt trong ánh mắt, nụ cười của
nàng đều
có liên hệï đến tình yêu.
Buổi chiều, họ cùng xuống phố chơi
và coi chiếu phim. Sau khi vãn hát, Thúy Vân bước tới gần Thụy, nói:
-Em có việc
phải đi.
-Em đi đâu ?
-Em để anh lại
một mình. Một mình để cho anh nói lời từ giã với chị Hà.
Sáng hôm sau, Thụy thức dậy sớm vì
thường ngủ ít. Khoảng mười giờ, nhà dọn bữa ăn sáng, cà phê, nói chuyện
với gia
đình một lúc lâu anh đứng lên xin kiếu từ. Giọng anh hơi run khi nói
lời từ
giã. Ông bà Kha và các em chúc anh đi đường bình an. Riêng Hà, nàng
tặng cho
anh gói quà nhỏ bọc trong giấy hoa. Anh nói rất nhiều lời từ biệt với
nàng bằng
đôi mắt của của mình.
-Anh nhớ viết
thư cho em.
Nói xong, nàng đưa tay cho Thụy bắt.
Đêm qua, nàng thức khuya. Anh biết nàng thức khuya, vì thấy trên căn
gác còn để
sáng đèn đến một giờ khuya. Khi thấy anh bối rối, nàng mỉm cười, như
thế, hai
người sẽ còn nhớ đến nhau khi ở xa nhau. Thế rồi, một mình anh ra đi.
Thụy tới
bến xe vừa kịp chuyến sắp khởi hành. Xe chạy nhanh, sau hai giờ đường
là đến Huế.
Về đến nhà đã quá trưa, anh mệt đi nằm nghỉ. Trong giấc ngủ, hình bóng
người
yêu đến, và rồi, một áng mây trắng bồng bềnh biến thành chiếc áo trắng
nàng mặc.
Nàng cũng đã theo anh về Huế với áo trắng, như thể cho anh nghe được
tiếng nàng
gợi nhắc đến một tấm lòng quê hương cũ.
Khi anh thức dậy, nhà vắng vẻ. Anh
thở nhẹ cho nỗi buồn tan đi, rồi mở túi xách lấy ra gói quà Thúy Hà
tặng cho
anh. Một cuốn sách truyện bọc ngòai, ghép ở trong là một phong bì dày
với lá
thư, mấy tấm ảnh của nàng và có cả một món tiền.
Lá thư, nàng viết:
Anh ra đi
bình yên. Em rất thương anh, luôn nhớ đến anh. Những tấm ảnh này em gởi
anh làm
kỷ niệm. Em không ghi lời đề tặng gì cả. Em cũng rất biết hòan cảnh
anh, đi xa
như vậy sẽ thiếu thốn lúc ban đầu. Tiền Ba Mợ cho để dành, em cho anh
để anh
dùng đến lúc cần.
Em,
Thúy Hà
IX
Thiên Nga đã dọn đến chỗ mới ở khu
phố nhà ga. Một dãy nhà ngang gồm bốn căn có diện tích bằng nhau, căn
đầu tiên
gần lối cổng vào là của gia chủ, một cặp vợ chồng đã hưu trí, hai căn
kế bên cửa
đóng kín, bên trong là nơi thờ tự có chưng các món đồ cổ và đồ gia bảo,
căn cuối
hết vừa mới được mở cửa cho người thuê.
Nga thuê nơi chỗ ở này giá rẻ, nhà rộng
rãi, thoáng mát, có vườn sau, sân trước nhìn ra thấy con đường lên vùng
ngoại
ô, thấy con sông nhỏ hẹp nước trong xanh, và bên kia sông là ngôi
trường nhà
dòng cổ giống như một tu viện.
Nga đã có năng khiếu vẽ trước khi
thi đậu vào trường Mỹ Thuật. Những năm học ở trường Sao Mai, mỗi kỳ
triển lãm
Nga luôn nhận được phần thưởng qua mấy bức tranh vẽ rất đẹp, sắc nét,
giàu nghệ
thuật sáng tạo. Với căn nhà thuê thật vừa ý, Nga đã trang trí từ phòng sinh hoạt ra phòng khách bằng các thứ lọ hoa, tranh vẽ, tượng điêu khắc bằng gỗ, thạch cao, trông giản dị, nhưng đầy ấn tượng.
Bên trong phòng sinh hoạt, lớn nhất
là chiếc giường ngủ trải nệm. Ở cạnh bàn học trông ra cửa sổ có một
chiếc kệ ba
ngăn, ngăn trên là sách hội họa, ngăn giữa để các loại thuyết, và ngăn
dưới là
sách giáo khoa chương trình thi Tú Tài phần hai. Nếu năm tới thi đậu,
nàng sẽ
theo học Luật, còn ở trường Mỹ Thuật là năm thi tốt nghiệp ra trường.
Trường Mỹ Thuật nằm trong khu Đại Nội,
nơi đó, trước đây là khuê phòng cung nữ
của nhiều đời vua triều nhà Nguyễn.
Năm học mới đã bắt đầu được ba tuần
lễ. Lớp của Nga chỉ có hai nữ sinh viên, còn lại là nam, khoảng mười
người.
Chương trình học năm thứ hai khá nặng, rất nhiều môn về văn hóa, lịch
sử , kịch
liên quan đến hội họa và thẩm mỹ , những môn này được các giáo sư ở bên Viện Hán Học và trường Văn Khoa, trường
Kiến Trúc qua dạy.
Thiên nhiên là người thầy nghệ thuật.
Vì vậy, các sinh viên bạn nào cũng tìm kiếm những cảnh trí độc đáo ở
bên ngoài
để làm đề tài cho tranh vẽ. Vào những ngày đi dã ngoại, sinh viên lớp
của Nga
theo các thầy hướng dẫn đi tới những nơi tụ hội nhiều thắng cảnh đẹp,
trữ tình
của sông nước, núi rừng. Vào những buổi học bình thường, khi tan lớp,
Nga đạp
xe về nhà. Trên đường về, bóng dáng nàng qua phố lúc với hình ảnh áo
dài trắng,
lúc là áo dài tím, vàng hoặc màu thiên thanh. Thiên Nga là một thiếu nữ
đẹp dịu
dàng và đức hạnh. Nàng dành cho cuộc đời một khuôn mặt rất hạnh phúc,
một đôi mắt
mãi mãi sáng với nụ cười, một giọng nói rất hồn nhiên và đầy tự tin.
Khi cơn
gió vô tình làm rớt xuống trên vai áo nàng những bông hoa đỏ thắm của
phượng,
lúc ấy, hình ảnh nàng là cả một bức tranh. Nga, tên nàng còn là tên
thành phố của
con tim. Nga, tên ấy của nàng cũng dễ gây cho bạn sự liên tưởng về các
thứ bông
hoa và màu sắc mỗi bông hoa ấy luôn được
nhìn như là biểu tượng. Và một ngày kia, thành phố sẽ mang nhiều bông
hoa khác
nữa từ cái tên và tâm hồn của cô gái để
xây dựng nên thành một khu vườn, một công viên.
Tối qua, gần tới giờ Nga đi nghỉ thì
Nguyên đến, trông anh có vẻ mỏi mệt vì làm việc căng thẳng. Nhưng, anh
cảm thấy
rất là vui khi được về bên người yêu. Nga hỏi:
-Sao anh tới
trễ vậy ?
Nguyên chưa đáp lời, anh cầm bàn tay
Nga rồi hai người ngồi xuống ở bàn học.
-Em làm anh
ly trà đá nghe ?
Nguyên gật đầu. Nga đứng lên, nàng
đi xuống nhà dưới. Nguyên lật cuốn vở học của Nga ghi chép những bài
luận mẫu
Pháp Văn nàng chọn trong sách viết ra, đây có thể là những đề thi. Khi
Nguyên cầm
cây bút sửa lại mấy lỗi viết sai, Nga lên tới. Nàng đặt ly nước mát
xuống bàn,
xong ngồi bên cạnh Nguyên.
-Anh ăn uống
gì chưa ?
-Có, anh ăn ở
trại rồi.
-Anh ghé bên
nhà chưa ?
-Anh về thẳng
đây luôn, một tiếng nữa anh vào trại.
Nguyên uống một hớp đầy xong đưa qua
cho Nga.
-Tuần tới,
em vào nhà không ?
-Không, đến
cuối tháng.
-Năm nay bài
vở nhiều không ?
-Chắc chắn
là nhiều hơn năm ngoái. Năm nay, học thêm môn họa hình và cơ thể học.
-Ngày mốt
anh lên căn cứ hành quân.
-Đi lâu
không ?
-Chừng một
tuần, có thể hơn.
-Lâu nhỉ.
-Em biết
chuyến đi lần này như thế nào không ?
-Thì vẫn là
công tác dân sự vụ.
-Không, em
đoán sai rồi.
Thiên Nga ngước mắt nhìn qua Nguyên,
và lúc nào cũng vậy, nụ cười trong mắt nàng thật sáng dịu. Nguyên nói:
-Có đoàn văn
nghệ Sài gòn ra hát cho lính ở tiền đồn. Anh phải hướng dẫn đi, buổi
đầu tiên
diễn ở trung đoàn sau đó đến các tiểu đoàn.
-Có diễn cho
dân chúng coi không ?
-Tùy ý trưởng
đoàn. Nhưng anh sẽ cố sắp xếp một đêm cho dân làng được xem.
-Anh cần để
cho dân chúng được xem. Ở những vùng xa hẻo lánh, ít khi họ có được dịp
như vậy.
-Em của anh
lúc nào cũng đầy lòng nhân hậu.
-Những
người khác, em rất là dễ dãi, nhưng với anh
phải khó và nghiêm khắc như cô giáo.
-Sao vậy ?
-Anh không
hiểu ra tính tình của anh à.
-Anh vui
tính, luôn biết chìu em.
-Không đúng.
Anh rất là lông bông, liệu hồn đấy.
Nguyên cầm bình trà rót thêm vào ly
còn nước đá. Anh uống và cảm thấy đã khát.
-Anh ăn gì
đi, không thì đói.
-Có gì ăn ?
-Mì gói.
-Chút nữa,
ngồi bên em anh cảm thấy rất dễ chịu.
-Dễ chịu thực
không ?
Im lặng, Nga hé môi để cho Nguyên
hôn. Nguyên hôn thật lâu làm thân người nàng run rẫy.
Bên ngoài trăng sáng. Hai người đứng
dậy đi lên nhà trên mở cửa trước ngồi xuống thềm hiên. Ở thành phố Huế,
bạn
luôn có cảm giác yên lặng và xa xôi. Về đêm, vào mùa trăng sáng, cảnh
vật trở
nên huyền nhiệm, mỗi cảnh lồng vào trong ánh trăng một thứ tiếng nói,
rồi tất cả
hòa vang thành nhạc khúc trên dòng sông đang chảy.
Nga khoác ngoài chiếc áo len hồng,
nàng dựa đầu lên vai chiếc áo jacket dày của Nguyên. Bàn tay nàng trong
tay người
yêu.
-Đúng là cảnh
trăng mùa thu.
Nga mỉm cười sau câu nói của Nguyên.
Rồi nàng bảo:
-Anh có tâm
hồn thi sĩ.
-Mỗi bài thơ
anh sáng tác, luôn mang bóng hình em.
-Nhưng anh
đâu có làm thơ nhiều.
-Anh sẽ viết
riêng một tập thơ đề tên em.
-Ông Nguyên
Sa, với tên người yêu ông chỉ làm thơ một chữ thôi.
-Em là hình ảnh
Lara, anh sẽ viết riêng một tập thơ mang tên em.
-Có một tập
thơ của anh, em sẽ vẽ bìa.
Ngoài con đường, có bóng một người
đàn ông đạp xe đi ngang qua. Ông ta đội chiếc mũ nỉ, vừa đạp chậm rãi,
vừa đưa
mắt nhìn xuống dòng sông.
Những cánh cửa sổ trên tầng ba của
ngôi trường dòng bên kia đang mở. Ánh đèn từ căn phòng đó hắt ra yếu ớt, buông rơi xuống dòng sông. Và, nhờ ánh trăng
sáng, hai người nhìn thấy rõ nước dòng sông và cả hai phía bờ.
Nguyên chợt hỏi:
-Em còn nhớ
những ngày về thăm quê không ?
-Nhớ chứ.
-Mỗi nơi,
cho em một tình cảm riêng phải không ?
-Quê nội
nghèo, như anh nói.
-Ở đó thật
hoang sơ, chỉ có biển và cát.
-Còn dòng
sông thì về miền quê ngoại.
-Mẹ rất
thương em.
-Em hiểu ý
anh muốn nói.
Rồi nàng tiếp lời:
-Quảng Trị,
thành phố tuy nhỏ nhưng đẹp. Về các làng quê, nơi nào cũng có dòng sông
chảy
qua.
-Anh rất nhớ
quê ngoại, qua ngôi nhà thờ, cảnh đồng ruộng và con đường đê.
-Ngày đó, mẹ
anh đi chợ phiên cũng xa nhỉ.
-Con đường
đê rất dài đó, buổi chiều là hình ảnh của mẹ.
-Chắc lúc
nào anh cũng gần bên mẹ.
-Và, bên em
nữa.
Nguyên đặt bàn tay xuống mái tóc người
yêu. Trăng thu sáng, sương đêm xuống lặng lẽ in bóng dáng những đám mây
mỏng
manh, lơ lửng bên kia bờ. Nga ngước mắt nhìn lên trăng, hai tay để ra
đằng sau
vuốt sửa lại mái tóc. Bỗng nhiên, nàng có cảm giác như
một ai đó gọi tên nàng.
Nga chợt mỉm cười qua giấc mơ. Nguyên
nhìn đồng hồ, anh hỏi:
-Em buồn ngủ
chưa ?
-Chưa.
-Anh vào trại
bây giờ .
-Anh lái xe
một mình ?
-Không sao,
đêm có trăng.
Nga đi bên Nguyên, bàn tay nhỏ bé của
nàng trong tay anh. Xe đậu bên lề đường gần bờ sông ngoài cổng. Dừng
bước bên
xe, Nga nói:
-Anh lái xe
cẩn thận.
Nguyên không đáp lời, anh nhìn đồng
hồ tay, bỗng nói:
-Anh đưa em
đi ăn.
-Khuya rồi.
-Em vào nhà
đóng cửa, xong đi ăn với anh.
Nga quay trở vào. Không lâu lắm nàng
trở ra và Nguyên đã cho xe nổ máy. Khi Nga lên ghế ngồi, Nguyên cho xe
chạy một
đoạn tới bến cát rồi trở đầu đi về phía nhà ga. Anh chạy vòng quanh nhà
ga tìm
quán ăn, xong đổ về khu phố Morin và rẽ đường tới nhà Bưu Điện. Một
quán ăn
khuya vẫn còn mở và có khách ăn.
Xe dừng ở bờ đường gần quán. Đêm
thành phố lặng yên với bóng sáng của ánh trăng thật dịu dàng. Nguyên
nhìn qua
mái tóc Thiên Nga, anh nói:
-Khi nào Mỵ
Châu cần sách đọc, nhớ cho anh biết.
-Sách còn
nhiều, Mỵ Châu chưa đọc hết.
-Anh bỗng
nghĩ, có một tu viện, Mỵ Châu ở đó với các xơ, vừa làm việc vừa đọc
sách.
Nga cười lớn tiếng. Nàng hơi dừng bước
hỏi Nguyên:
-Anh nghe em
kể về Mỵ Châu lần nào chưa ?
Nguyên nhắc lại một vài chuyện,
nhưng Nga cho là chưa đúng.
-Khi về nhà,
em sẽ kể cho anh nghe.
Hai người vào quán, ngồi bàn thấp ở
phía ngoài. Có bún, cháo và cà phê.
-Ăn bún
nghe.
Nga gật đầu. Khi đứa nhỏ chạy bàn đi
vào, Nguyên nói với Nga:
-Thụy mới viết
thư về nhà, có gởi lời thăm em.
-Anh gởi
thư, em có lời thăm.
-Thụy rất
mong được gặp em. Nó bảo, anh gởi cho nó xem ảnh của em.
-Anh đừng gởi.
-Không gởi
nó cứ nôn nao mong có kỳ nghỉ phép.
-Đến lúc về,
sẽ gặp. Nếu em không ở đây, anh đưa Thụy vào Đà Nẵng chơi.
Hai tô bún nóng để trên chiếc khay,
đứa nhỏ mang ra cẩn thận đặt xuống bàn. Có chả nóng, Nga lấy hai lọn
bóc lá
xong bỏ vào mỗi tô. Còn nữa, mấy lát, rắc tiêu và vắt chanh.
Hai người mời nhau ăn. Nguyên cảm thấy
vị cay của ớt xông lên nóng mũi. Nga quen với vị cay, trơng nàng ăn
ngon miệng.
-Tối mai anh
về nhà không ?
-Chắc là
không ?
-Được dẫn
các cô ca sĩ đi hát tiền đồn, chắc là anh vui, trông đợi nữa phải không
?
-Những ca sĩ
Sài Gòn anh quen hết ?
-Có cô nào
anh bắt bồ không ?
-Không.
-Em không
tin.
Nguyên ăn chậm, thong thả. Anh nói:
-Trước khi
đi lính, anh làm nghề báo. Không chỉ viết tin, làm phóng sự, anh còn
phụ trách
trang tân nhạc hàng tuần. Có trang này, anh dễ làm quen với các cô ca
sĩ, và cô
nào cũng muốn nhờ anh viết giới thiệu để có cơ hội nổi tiếng. Khi làm
trang
này, anh cũng đã thực hiện một thiên phóng sự
Sài Gòn về đêm qua các phòng trà.
-Các nữ ca
sĩ, cô nào cũng đẹp ?
-Không hẳn.
-Anh tình
nguyện đi lính hay bị động viên.
Nguyên kể chuyện về một vị Thiếu Tá
anh quen làm việc ở Cục Tâm Lý Chiến. Và đúng như lời hứa hẹn của ông,
Nguyên
vào Thủ Đức khóa 21, mãn khóa học xong anh được về làm việc tại phòng
truyền
hình ở Cục Tâm Lý Chiến. Năm 1965, truyền hình bắt đầu có và rất mới
mẻ. Nhiệm
vụ của Nguyên là hướng dẫn người quay phim quay những cảnh thực ngoài
chiến trường,
phần anh, dựa vào mỗi cảnh phim quay viết lời bình và dẫn giải. Với
công việc
này, Nguyên còn tạo được tên tuổi cho mình qua những cuộc phỏng vấn
trực tiếp với
các vị Tướng Tư Lệnh Sư đoàn, các vị Tỉnh trưởng, và anh cũng hay có
mặt trong
những cuộc họp báo đặc biệt của các giới chức cao cấp cả về dân sự và
quân sự.
-Nhưng sao
anh bỏ Sài Gòn ra ngoài này ?
Nhìn Nga, Nguyên nói:
-Để được gặp
em.
-Không đúng.
Gặp nhau là sự tình cờ, không nói là chủ đích được.
Quán ăn tới giờ đóng cửa. Khách ăn đứng
dậy ra về. Nguyên vào quán trả tiền, bất ngờ gặp Lập là bạn trong nhóm
sinh
viên tranh đấu ngày xưa. Khi Nguyên làm Ủy viên báo chí Tổng hội anh
kiêm luôn
chủ bút tờ Sinh Viên Huế, còn Lập là Tổng Thư Ký. Tờ
báo khởi đầu từ sau biến cố đảo chánh 1/11/63
và kết thúc khi sứ mạng của Sinh viên đối với hiến chương Vũng Tàu hoàn
thành.
Thời sinh viên, Nguyên có được những tháng ngày hào hùng, lãng mạn. Nga
rất
thích một bức ảnh anh mặc áo sơ mi màu rêu,
hai túi xẻ, đứng trên bậc thêm ở trường Đại Học Văn
Khoa. Bức ảnh, rất
ăn từng nét đẹp của Nguyên qua dáng người và cặp mắt.
Khi Lập theo Nguyên ra ngoài, gặp
Nga anh bạn chào hỏi rất thân thiện. Và, khi được biết Nga học ở trường
Mỹ Thuật,
anh ta rất mong được xem những tranh vẽ của nàng. Hai tuần lễ tới, Huế
sẽ có một
cuộc triễn lãm dành cho các họa sĩ trẻ.
Nguyên lái xe chậm tốc độ trên đường.
Nga vào câu chuyện kể về Mỵ Châu, nàng nói ra cái ý tưởng ngộ nghỉnh
muốn bỏ
nhà đi tu, ở chùa, hay nhà thờ cũng được,
miễn là được sống xa lánh cuộc đời. Ở cái tuổi còn nhỏ, nhưng được chọn
đi tu
cũng là niềm vui. Nguyên cười lớn tiếng hòa nhịp cùng tiếng cười của
Nga, anh
ngả người dựa lưng ghế buông tay lái, sau đó, anh cầm bàn tay Nga đưa
qua
bên mình và đặt lên phía trái tim.
Nguyên thật sung sướng, rồi anh nói
với Thiên Nga rằng, sự rời bỏ đô thành Sài Gòn để ra ngoài này đó là sự
lựa chọn
của một người lính, nhưng cũng nhờ vào đó, tạo ra cơ duyên cho anh được
gặp một
người mình yêu thật sự trong ước mong.
Sương mù trôi đang bao kín dòng
sông. Ánh trăng thu lan tỏa ra hơi lạnh trong đêm vắng. Về đến nhà,
Nguyên dừng
xe lại trước cổng, anh nói:
-Chúc em ngủ
ngon.
Xuống xe, nàng vẫn chưa vào nhà.
-Anh lái xe
can than.
-Em ngủ
ngon.
Nàng mỉm cười nhìn Nguyên.
-Chắc tối
nay, em không ngủ được.
X
Trước ngày đi ra Nha Trang để dự
khóa học chuyên môn ba tháng, buổi chiều Thụy đến nhà dì Hồng nhận được
cùng
lúc ba lá thư. Đó là thư anh Nguyên, thư
Thúy Hà , và thư chót
là của người
bạn hiện nay đang dạy học dưới Vĩnh Long.
Thư anh Nguyên nhờ Thụy mua giúp anh
cuốn Tìm Hiểu Hội Họa của tác giả Đoàn Thêm,
nếu có sách thì gởi về địa chỉ ở bên nhà hoặc cho cô
Thiên Nga bạn anh.
Thư Thúy Hà có hai tấm ảnh kèm theo thư, đó là ảnh nàng và ảnh đứa con
trai. Ảnh
đứa con trai mới sáu tháng tuổi có ghi lời tặng, còn của nàng, thì
không. Từ
ngày xa cách, Thụy có nhiều tấm ảnh của nàng mang theo, nhưng không một
tấm nào
có đôi dòng chữ nàng ghi lời tặng.
Sau khi đọc thư xong, Thụy đón xe
buýt lên chợ Bến Thành. Sài Gòn, ngày nào cũng huyên náo, xô bồ, nhưng
thật là
dễ sống. Xuống bến xe, Thụy đi qua khu bùng binh Quách Thị Trang đến
nhà sách
Khai Trí, và đi sâu vào phía bên trong cùng để tìm kiếm các loại sách
chuyên
môn. Thật may mắn, Thụy tìm ra cuốn sách anh Nguyên nhờ, chỉ còn một bản duy nhất bày trên kệ. Thụy vói
người lấy cuốn sách xuống, giũ bụi, xong xem lại cẩn thận những trang
in có bị
sót không. Thụy không thể đọc được nhiều, nhưng với tác giả anh đã có
biết, và
nhìn qua cách viết anh thấy người biên soạn rất là cẩn trọng, công phu. Trong sách còn có một số phụ bản
tranh in màu của các họa sĩ danh tiếng Picasso, Gaughin, Renoir, Van
Gogh,
Claude Monet . Bức tranh Người gieo hạt của Van Gogh rất là ấn tượng,
sống động,
nhưng lúc này, Thụy cảm thấy dễ chịu, yêu thích hơn hết là được xem bức
tranh của
người họa sĩ Pháp gốc Hòa Lan, Claude Monet. Bức tranh vẽ ở một công
viên trông
ra biển. Trên công viên bày ra những bàn ghế mây, có một người đàn ông
đội chiếc
nón phớt mắt nhìn ra biển xa, ngoài mặt biển xanh đẹp những làn sóng
nước, có rất
nhiều tàu và thuyền bè đang di chuyển. Bên lối hàng rào, có người phụ
nữ trông
dáng vẻ quí phái đang chuyện trò với một người đàn ông đứng tuổi thật
lịch lãm.
Người phụ nữ dáng mảnh mai, che đầu chiếc dù trắng, còn người đàn ông
mặc áo
veste, một tay cầm cây can. Thụy cảm thấy ngay sức tưởng tưởng tượng
của mình
trong khi họa sĩ phối hợp các màu tươi
sáng trên bức tranh, đáng yêu nhất là màu của các bông hoa thắm nở bao
quanh
công viên.
Khi đến quầy tính tiền, Thụy đưa cuốn
sách cho cô bán hàng, cô coi giá bìa xong bớt giá 15%. Cô bỏ sách vào
túi nylon
đưa cho anh rồi thối tiền lẻ.
Ra khỏi hiệu sách, Thụy
đến quán Mai Hương ngồi
uống một ly cà phê đá. Không phải là ngày cuối tuần, nhưng Sài Gòn vẫn
nhộn nhịp,
huyên náo. Những dãy phố chính nằm giữa trung tâm thành phố thật tưng
bừng, ồn
ào với mỗi cảnh sinh hoạt. Những chuyến xe buýt rời bến,
những dòng xe du lịch, xe taxi nối đuôi nhau
trên các ngả đường, người đi qua lại trên vỉa hè tấp nập, và thật sáng
dịu khi
bóng dáng các cô gái xuất hiện thướt tha trong những chiếc áo dài, rồi
âm thanh
buổi chiều nổi dậy với những tiếng nhạc mở lớn vọng ra từ các rạp hát,
từng cảnh
đó đã làm Thụy cảm thấy vui, tin tưởng vào cuộc sống mới mà từ những
tỉnh lỵ,
thành phố nhỏ bé ở ngoài miền Trung anh đã quyết chí vào đây.
Bây giờ, Thụy chẳng có ai quen ngoài
Huê ra. Buổi chiều đang xuống, Thụy nhấp từng hớp cà phê, và đốt từng
điếu thuốc,
vừa cảm thấy dễ chịu. Anh yêu mến Sài Gòn, yêu thành phố như một mối
tình dễ
thương với Huê, và lúc này, anh nhận ra, hình ảnh của Huê cũng thật là
đẹp như
một bài thơ thi sĩ Nguyên Sa đã viết về thành phố này:
Sài Gòn đi rất chậm buổi chiều
Cánh tay tà áo sát vòng eo
Có nghe đôi mắt vòng quanh áo
Đôi ngón thơ buồn đứng ngó theo
Sài Gòn cười đôi mắt rất tròn
Vòng cung mầu đỏ nét thu cong
Cầu vồng bắc giữa mưa và nắng
Hay đã đưa dần sang nhớ mong
Ngồi một mình nhớ đến Huê, rồi Thụy
đứng lên đến quầy trả tiền. Anh mua thêm gói thuốc, ra đường, đi bộ tới trạm xe buýt.
Về nhà, Thụy viết một lá thư ngắn gởi
cho cô Thiên Nga nói chuyện về cuốn sách anh Nguyên gởi nhờ mua. Và, để
có sự
tin cậy, Thụy còn nói thêm một đôi điều để cô yên tâm khi cần đến những
sách học
ở trường Mỹ Thuật.
Thụy hài lòng với lá thư mình viết
ngắn gọn, suôn sẻ.
Ngày hôm sau, Thụy lên đường đi học.
Từ trạm tiếp liên ra phi cơ, thật bất ngờ Thụy gặp anh
Khanh. Anh đang trò chuyện với một người bạn
cũng là phi công, thấy Thụy, anh vội ngừng chuyện tới gần bắt tay.
Trong một nụ
cười, anh nói:
-Anh mới đọc
truyện ngắn em viết trên báo Lý Tưởng.
-Anh thấy được
không ?
-Được lắm.
Nhưng ai kể chuyện này cho em.
-Nhân vật
trong truyện là Trung úy N. ở bên phi đoàn 217.
-Đúng rồi,
N. là bạn anh. N. bay rực thăng bị trúng đạn, máy bay cháy và anh ấy bị
thương
tích rất nặng. Nhưng, dù cho anh bị thương tích, cô
bạn gái anh ấy vẫn giữ đẹp mối tình, và hai
người đã lấy nhau.
-Em biết câu
chuyện thật hay, cảm động nên viết ra.
-Hôm nay em
đi đâu ?
-Em ra Nha
Trang học khóa chuyên môn.
-Về ngành gì
?
-Ngành điều
không.
-Không phải
em làm ở báo Lý Tưởng đi công tác.
-Không, em
có chỉ số ngành điều không. Báo Lý tưởng kéo em về vì thấy em có khả
năng viết
báo.
-Rồi học
xong, thì sao ?
-Chắc là về
lại Lý Tưởng. Đại úy Hùng sẽ kéo em về,
vì tờ báo cũng cần người. Em đi học
chuyên môn là để lấy bằng hưởng lương phụ cấp.
Anh Khanh gật đầu nghe Thụy giải
thích. Khi đến giờ lên máy bay, Thụy cùng hành khách vào chiếc C47,
chiếc này
anh Khanh là trưởng phi cơ.
Sau hơn một giờ bay, phi cơ ra tới
Nha Trang. Từ trạm tiếp liên Thụy đi bộ tới khu huấn luyện và sau khi
làm xong thủ
tục, anh về phòng khóa sinh sắp xếp đồ đạc
và dọn chỗ nằm.
Ngày hôm sau, Thụy ra phố tới nhà
Bưu điện gởi thư về Huế, địa chỉ nhà cô Thiên Nga ở. Khi mua sách ở Sài
gòn,
anh không gởi ngay, mà muốn lấy địa chỉ KBC ngoài quân trường để trường
hợp thất
lạc, sách sẽ trả lại cho địa chỉ người gởi. Từ câu chuyện của Phương kể
về
nàng, thật lạ lùng, trong trí tưởng anh luôn hình dung về nàng có khuôn
mặt hiền
hậu, đôi mắt đẹp, và qua dáng bước đi trong chiếc áo dài tím, thật nhẹ
nhàng
như sự rung động của
cánh bướm. Thụy thật hạnh phúc khi biết
anh Nguyên của mình có người yêu là nàng.
Buổi chiều ấy, với sự mộng mơ, với
lòng tơ tưởng, Thụy đi lang thang qua các phố , sau đó thả bộ dọc con đường ven biển trở về trường. Tối đến,
nằm trong phòng Thụy đọc truyện, vẫn cuốn truyện cũ Người Mỹ trầm lặng.
Khi đọc
cuốn này, Thụy bỗng nhớ đến Hạnh.
Thụy
đã ra dự khóa học đúng ngày, nhưng anh em khóa sinh
cùng chỉ số là bốn
mươi người chưa tới đủ, mới trình diện
được mười lăm người. Còn thiếu khá nhiều, nhưng thực
sự, có đủ quân số,
khóa học cũng chưa bắt đầu vì còn thiếu giảng viên.
Tới kỳ lương lãnh tiền xong, Thụy liền
chuồn đi Đà Lạt. Thụy phải đi hai chuyến xe lam mới đến bến xe. Hầu hết
xe đi
các tỉnh xa là của hãng Trung Việt. Có hai loại, xe dài, và xe cỡ
trung. Xe dài
được 80 chỗ ngồi, còn cỡ trung chỉ bốn mươi chỗ.
Khi lên xe, Thụy thấy bên chỗ cô gái
đang ngồi còn ghế trống. Thụy xin phép lấy chỗ ngồi, cô gái không nói
gì. Đợi
hai mươi phút nữa, xe mới khởi hành. Thụy đưa mắt nhìn ra ngoài vừa
thoáng ngắm
vẻ mặt cô gái. Tối hôm qua, trong ảo mộng cuộc đời Thụy nghe ra tiếng
nói và thấy
hình ảnh người yêu của anh đi lấy chồng. Ngày hôm ấy nàng đi, hiển hiện
trong
giấc mơ của anh cả một cuốn phim đen trắng, và có vẻ như anh nối kết
lại những
bông hoa ấy thành một bó hoa trông đợi nàng. Giờ đây, một ngày đã khác.
-Cô học ở Đà
Lạt ?
Cô gái mỉm cười lắc đầu.
-Không.
Thụy nhìn giờ qua chiếc đồng hồ đeo ở
tay cô. Bỗng Thụy hỏi ý cô gái muốn được đổi chỗ ngồi phía ngoài cho
thuận tiện.
Không đáp lời, cô gái đứng lên và hai người đổi chỗ. Thụy nhận ra một
cảm giác
êm ái khi chiếc áo dài của cô chạm nhẹ tay anh.
Với một giọng thân tình, Thụy nói:
-Ngày trước,
tôi học ở Đà Lạt.
Cô gái mỉm cười biết chàng gợi chuyện
làm quen. Bỗng cô lên tiếng:
-Tôi không
phải là Sinh viên.
Thụy đáp lời:
-Bây giờ đợi
xe đi lên thành phố đó, tôi cảm thấy nhớ thời đi học của mình.
-Gia đình
ông ở trên đó ?
-Không.
Tới phiên xe rời bến, người tài xế cất
tiếng gọi hành khách còn đứng dưới, vừa mở cửa ghế phòng lái bước lên.
Trong xe,
ở hàng ghế sau có hai người đàn bà hơi lớn tiếng cãi vã nhau. Thằng lơ
xe liền
lên tiếng giải hòa, vừa vui với giọng đùa nghịch. Có người cười, bảo
thằng nhỏ
lém lỉnh. Khói thuốc lan tỏa trong xe. Người tài xế ngồi trước tay lái
vẫn còn
chờ ai đó, và rồi, có một người mang đến cho ông ta giấy tờ để xuất
bến. Xe nổ
máy, tự dưng lòng Thụy nôn nao. Nha Trang- Đà Lạt quãng đường dài hơn
200 cây số.
Xe lăn bánh. Khi ra khỏi bến, xe còn
chạy trên con phố chính đang ồn ào trong cảnh sinh hoạt đầu ngày.
-Gia đình cô
ở Đà Lạt ?
-Không, ở
đây. Tôi làm việc ở Ty Bưu Điện.
-Tôi có đến
đó hai lần nhưng không gặp cô.
-Tôi làm
hành chánh bên trong, không ngồi ở guichet.
Không hỏi gì thêm, Thụy nhìn gương mặt
cô gái. Cô không đẹp, nhưng nhìn kỹ thấy rất có duyên. Có vẻ cái nhìn
trong mắt
Thụy làm cô sợ, vội lên tiếng:
-Tôi có gia
đình rồi.
-Tôi vẫn còn
độc thân.
Cô gái im lặng. Nắng lên cao, xe đã
ra vùng ngoại ô thành phố. Ngồi ở bên ngoài Thụy đưa mắt nhìn đồng
ruộng, quang
cảnh vùng quê, tự dưng anh ước ao có một ngày đất nước thanh bình.
Xe tới một trạm kiểm soát ngừng lại.
Người Cảnh Sát đi dọc theo thành xe, mắt nhìn lên. Trên xe, ngoài Thụy
ra có một
vài thanh niên khác nữa. Viên Cảnh sát hỏi giấy tờ một vài người, lập
tức họ
trình ra ngay những giấy tờ tùy thân. Người Cảnh Sát coi xong trả lại
rồi cho
xe đi. Đây là chuyến xe khách bình thường không có người đi buôn vì
trên trần
không có hàng hóa.
Có những lúc trên đoạn đường xấu xe
tránh ổ ga, nhồi xóc, lắc lư, vai Thụy
và cô gái chạm nhau.
-Ông học ở
Đà Lạt bao nhiêu năm ?
-Hai năm.
Tôi không sinh trưởng ở đó.
-Nghe giọng
nói của ông là biết ?
-Cô nói tôi
người ở đâu ?
-Huế.
-Không phải.
Tôi ở ngoài Quảng Trị, cách Huế gần 60 cây số.
-Ba tôi là
người Huế.
-Mẹ cô người
Bắc.
-Ông thật
tài.
Hai người chuyện trò, và trong lúc
xe chạy, những hành khách quen hay lạ nhau cũng có chuyện nói với nhau
cho đỡ
buồn.
Xe tới Phan Rang gần trưa, ghé vào bến
cho khách nghỉ uống nước nửa tiếng. Nhiều người xuống, và cũng có người
ngồi một
chỗ. Thụy và cô gái vẫn ngồi lại trên xe. Cô gái hỏi:
-Ông làm việc
ở đâu ?
-Tôi đang ở
trong quân đội.
-Tôi cũng
nghĩ như thế.
-Tôi ở binh
chủng Không Quân, ra ngoài này học khóa chuyên môn. Ít tháng nữa, hết
khóa học
tôi về Sài Gòn.
-Ồ, ông ở
Sài Gòn.
-Vâng.
Hai đứa nhỏ bán quà rong mời mua nước
và trái cây. Thụy hỏi ý cô gái, xong mua
hai ly nước mía.
Giọng thân tình, Thụy hỏi:
-Cô được mấy
cháu nhỏ rồi ?
Cô gái cười, hai tay vội vàng đưa
lên che miệng để dằn lại sợ cất lớn tiếng.
-Sao ?
-Lúc nãy,
tôi nói đùa với ông.
-Tôi ngắm
nét duyên của cô mà cô cũng sợ.
-Ông đừng tưởng
các cô gái đi một mình là dễ dãi.
Một cách thân mật tự nhiên Thụy nắm
tay nàng rồi buông ra ngay.
-Cô có mang
áo ấm theo không ?
-Không.
-Lên đèo trời
lạnh lắm.
-Mùa này Đà
Lạt mưa.
Thụy bật que diêm đốt điếu thuốc. Tới
giờ xe chạy, hành khách trở lại chỗ ngồi. Tỉnh lỵ Phan rang nằm sát
ngay bên quốc
lộ. Chừng năm cây số nữa là tới đường rẽ đi Đà Lạt. Lúc này, hành khách
trong
xe ít còn trao đổi tiếng trò chuyện. Thụy cố gắng hồi tưởng lại những
ngày
tháng cũ của thời niên thiếu, trong sự gợi nhớ này, anh nhắc thầm tên
và tìm đến
những hình ảnh thân thương của các cô gái anh đã gặp, và tưởng như lúc
này, người
nào cũng thật hiền dịu mở rộng hai cánh tay đón chào anh.
Thụy vẫn chưa nhìn thấy cuộc chiến
tranh. Tin tức trên báo chí qua những bài phóng sự, tường thuật, những
sự kiện
đó chỉ làm nóng lên trong con người anh sự bồng bột của trí tưởng
tượng, xong rồi
dịu hẳn. Bây giờ đây, trên đường trở lại Đà Lạt, anh mong được thấy
thành phố
cao nguyên với hoa đào, đồi thông, sương mù, trước khi
đến một ngày tận mắt anh nhìn ra thấy cuộc
chiến.
Xe đang hướng con đướng đi lên Đà Lạt.
Ngồi ở ngoài với từng đợt gió thổi qua, lúc mát, lúc lạnh, bỗng dưng
cơn buồn
ngủ tới làm mắt Thụy nặng trĩu. Thụy thiếp ngủ, thân người như có ai
nhấc bổng.
Một lúc, tiếng cô gái làm anh choàng
tỉnh.
-Ông đừng có
cố ý lợi dụng, giả vờ ngủ say.
Thụy kịp đưa tay che miệng ngáp và
quay mặt thở nhẹ ra ngoài.
-Xin lỗi.
-Ông ngồi thẳng
người lại đi.
Giọng mệt mỏi, Thụy nói :
-Hôm qua,
tôi mất ngủ.
Nói xong, Thụy tựa đầu lên ghế tìm lại
giấc ngủ. Thụy ngủ ngon giấc không mộng mị. Và rồi, một cảm giác mềm
mại, dịu
êm thấm vào tâm hồn anh. Khi anh thức giấc, cô gái nhìn anh mỉm cười,
và nụ cười
cô gái khiến anh thèm tựa đầu mình lên
chiếc vai nhỏ bé của cô lâu hơn nữa.
-Tới đâu rồi
cô ?
-Một cây số
nữa, xe lên đèo.
Thụy ngẩng đầu dậy. Để rửa mặt, anh
thò đầu ra ngoài hứng gió. Gió mát đến lạnh và Thụy tỉnh người hoàn
toàn.
-Cô đi Đà Lạt
mấy ngày ?
-Tôi nghỉ
phép hai tuần .
-Nhà cô ở
ngay phố.
-Nhà tôi ở gần
Bưu Điện.
-Tôi cũng đi
phép, lên Đà Lạt thăm lại trường cũ.
-Ông cũng
lãng mạn nhỉ.
-Tôi cảm thấy
nhẹ nhõm sau giấc ngủ ngon.
-Ông tựa đầu
lên vai tôi nặng quá.
-Nhưng tôi
chẳng cố ý, phải không ?
-Sao, không.
Thụy nhìn nàng thật đằm thắm, và mắt
anh đọc được một hàng chữ nhỏ trên cặp mắt
của nàng. Cô gái thật có chút từ tâm, dễ mến. Và, Thụy vừa qua một giấc
ngủ mềm
mại trên vai cô.
Xe đang chạy trên từng khúc quanh
qua đèo Ngoạn Mục. Bên dưới đèo là nhà ga Dran. Sương mù buông trôi,
tiếng dòng
suối chảy như xa vắng. Từ mỗi quãng dốc, Thụy trông thấy những đám khói
từ ống
khói ở nhà ga dâng lên. Vừa đón cái lạnh, vừa ngửi hương thơm từ những
bông
hoa, từ những cây lá quanh núi rừng, Thụy có cảm tưởng mình như là
người lữ
khách.
Rồi ánh nắng bừng lên trải rộng một
màu vàng lụa bên dưới lưng đèo. Lúc này, xe gần tới Đà Lạt, đang chạy
qua đèo
Prenn. Bên đây, đường đèo chạy men theo
vách tường núi, bên dưới kia dòng suối là rừng thông. Ai cũng lắng im
nghe tiếng
hòa nhạc của thiên nhiên qua khung cảnh nắng chiều. Sương mù giăng mắc,
và bạn
nghe ra được hơi thở của những người từ đâu xa đến đây, hay là kẻ trở
về lại
nơi miền cao nguyên vẫn là một chốn cũ.
Bỗng dưng, trong mắt Thụy hiện lên
hình bóng Thiên Nga. Nàng thầm hẹn với anh, một ngày đó anh sẽ gặp nàng
như ước
nguyện.
XI
Thụy ở chơi Đà Lạt đúng một tuần lễ.
Khi trở lại thành phố này, trong niềm nhớ và sự xúc động anh tìm thấy
lại bóng
dáng mình và những kỷ niệm cũ thật là đẹp, dễ thương. Thùy đưa anh trở
lại khu
phố cũ có căn nhà của nàng. Rồi hôm ấy, một buổi chiều thứ năm học sinh
chia
nhau đi bán vé coi cuốn phim Toute la ville dance để gây quĩ cho
trường. Trên
đường Hai Bà Trưng dài và xa lên tới tu viện
Domaine de Marie, từng nhóm học sinh mỗi lớp cùng đi
con đường này, vừa
chuyện trò, đùa giỡn rất là ồn vui. Bỗng nhiên, nhìn tới phía trước có
đám đông
nữ sinh, Thụy bỗng nhận ra Thùy qua chiếc áo dài tím. Nàng đi giữa, và
cùng các
cô bạn của nàng nắm tay dang rộng choán hết cả mặt đường. Trời mưa bụi,
áo tím
của Thùy trong mưa mỗi lúc nhòa mờ đi, nhưng đó cũng là một nỗi nhớ
ngây dại
như tiếng khóc thầm, lúc ấy, Thụy nhận
ra dáng đẹp của Thùy. Về đây, Thụy cũng tìm trở lại căn gác học sinh
nằm ở tầng
gác ba, nơi này, anh ở cùng với nhiều bạn lưu học sinh từ
các nơi xa đến. Mỗi một thứ có trong kỷ niệm
thuở ấy, giờ gợi nhắc, bỗng dưng Thụy có chút se lòng, bao dung lấy một
niềm an
ủi.
Lăng và Thụy vượt ra mối
liên hệ anh em bạn
dì, còn là đôi bạn thân. Anh Nguyên, Lăng và Thụy ba anh em chỉ chênh
lệch nhau
một tuổi. Nhưng vì đã sống cùng chung những ngày thơ ấu ở quê ngoại nên
ba người
có sự gắn bó rất lâu dài. Lăng chăm học, trầm lặng, ít biểu lộ tình cảm, nhưng sẽ có một ngày, Lăng nói ra
hết
những chuyện riêng tư của mình. Về phần Thụy đôi lúc có sự bồng bột,
vụng về,
nhưng bản tính chân thật, nên anh luôn có sự tự tin về con người của
mình. Thụy
đã kể nhiều chuyện cho Lăng
nghe, và
Lăng rất hiểu bạn qua mỗi câu chuyện riêng của người đó kể.
Trên đường Duy Tân, hai người bạn đi
phía bên trái vỉa hè đang vượt quãng dốc.
Và, con đường này lại nhắc nhở Thụy nhớ đến Thùy. Buổi sáng, vào những
giờ học
muộn từ trường Thụy đi bộ lên tới khu thương xá chợ Hòa Bình, đứng đó
đợi không
lâu thấy Thùy xuất hiện, rồi cùng nhau đến trường. Thật là ân tình
trong nắng ấm,
trong màu cây lá xanh tươi, ảnh hình đó đã giúp cho đôi lứa tìm ra được
những
câu chuyện vui, những lời tỏ tình thật ý nhị, dễ thương.
-Ở xứ người
có trồng cây phượng tím, Thùy biết không ?
-Không.
-Ngày nào
đó, ở một nơi xa của xứ người, nhìn thấy cây này Thùy sẽ nhớ đến người
bạn cũ.
-Không chắc
đâu, nàng cười nhẹ và đôi mắt nhìn xa hơn.
Mỗi ngày luôn có hai buổi học, và
trước khi đến giờ học chiều một tiếng, từ trường Thụy lại đi bộ lên chỗ
hẹn đón
Thùy, rồi đôi bạn vẫn bên nhau, cho đến khi cảm thấy sự yêu thương và
thân thiết
đã thấm vào lòng , thì giọng nói bỗng nghe như đang bước chập chững,
ngập ngừng,
còn trong âm thầm là tiếng đập của từng nhịp tim nghe qua hơi thở thật
nặng nề
.
Bên dưới con dốc, Thụy ngoái nhìn lại
ngôi trường vẫn còn thấy một dãy nhà dài và sân chơi rất rộng. Xa hơn
nữa, bên
kia chiếc cầu là sân vận động của trường, khu sân này nằm bên cạnh
đường Hai Bà
Trưng vừa trông ra con đường Calmette đi
lên khu đồi bệnh viện, nơi ấy, nổi bật sáng lên một tòa nhà màu ngói
đỏ.
Thụy vui chuyện kể lại cho Lăng
nghe, người bạn cười hiền hậu. Một lúc sau, với những suy nghĩ về cuộc
đời, Thụy
nói:
-Tôi chưa viết
ra được những kinh nghiệm của con người về cuộc đời. Tôi chỉ mới viết
những
rung động của mình trong cuộc sống từ thời niên thiếu đến lúc này,
nhưng đây là
sự rung động chân thật, với những mầm hạt này một ngày kia tôi tin rằng
nó sẽ
mau lớn. Đường đời hay dòng đời tự nó sẽ chuyển biến, thay đổi cuộc
sống ngay từ
khi mình khởi sự cất bước. Qua ý nghĩ đó, tôi nhận ra sự hiện hữu về
đời lính của
mình.
Rồi, anh lại tiếp lời:
-Ít ra, tôi
cũng ở trong quân đội đến mười năm.
-Anh không
xin đi học Sĩ quan.
-Cũng có ý định
đó. Tôi vẫn mong đậu được bằng toàn phần rồi xin đi học ngành kỹ thuật.
-Năm tới,
anh có thi không ?
-Có. Thời
gian học của tôi ít quá, và không ổn định.
Bến xe nằm bên trên thương xá Hòa
Bình, từ chỗ này, nhìn bao quát thấy cảnh sinh hoạt chợ, các khu phố xa
gần, và
nhìn về phía cánh rừng trông thấy mặt hồ nước và những hàng cây trồng
quanh hồ.
Mỗi đầu năm, có những ngày lễ hội và tổ chức cuộc đua xe đạp.
Bến xe còn vắng, chưa mấy khách tới
bến. Quán ăn bình dân bày
những bàn ghế
thấp. Ngồi ở chiếc bàn ngoài gần lối đường đi, trong một vài giây im
lặng, Thụy
cảm thấy một nỗi buồn vô cớ cho mình. Với nỗi buồn ấy, Thụy chợt nghĩ đến một bóng hình thiếu nữ.
Người chạy bàn mang bánh cuốn và cà
phê ra cùng một lúc đặt trên chiếc khay và bỏ xuống bàn.
Khi cầm đũa ăn, Thụy hỏi:
-Lăng dạy
bao nhiêu giờ một tuần ?
-Mười sáu giờ
?
-Mấy môn.
-Hai môn. Việt
Văn và Công dân.
-Năm tới,
xong Cử nhân có đi học tiếp không ?
-Tôi chưa biết.
Có thể tôi qua thi bên hành chánh.
-Chọn ngành
này là đúng. Làm luật sư, có tiếng nhưng cũng khó khăn.
-Tôi không
ra Luật sư. Tập sư ba năm, lâu dài lắm.
Bữa ăn sáng ngon miệng, một dĩa bánh
vừa đủ no. Thụy ăn nhanh, cầm thìa khuấy
sữa trong cà phê và uống một hớp trước khi đốt điếu thuốc. Một giọng
vui, Thụy nói:
-Hồi đi học,
tôi bị một trận đòn vì hút thuốc.
-Ở trường,
bây giờ trường vẫn cấm học sinh hút thuốc.
-Tại sao
Lăng không tập hút thuốc.
-Tôi có thử
một lần, bị sặc khói, sợ quá nên thôi. Với lại, tôi yếu phổi.
Khói thuốc nhẹ nhàng tan. Nhìn Lăng,
Thụy có một ý tưởng thầm kín. Giọng thân tình, anh hỏi:
-Cô Mai Lê tặng
sách là bạn học cũ ?
Lăng nhìn lại Thụy dò xét, rồi nói:
-Mai Lê
dạy học ở đây, trường Bùi Thị Xuân.
-Tôi có đọc
cuốn thơ Tâm Tình Hiến Dâng.
-Cô tặng cho
tôi.
Vừa gợi nhớ, Lăng vừa kể cho Thụy
nghe lần đầu tiên gặp Mai Lê ở thành phố này.
-Quà kỷ niệm
của tuổi trẻ, lúc nào cũng là những cuốn sách, tập nhạc.
-Mai Lê hát
rất hay, giọng hát ngọt như Hà Thanh.
-Cô cũng người
Huế.
Lăng gật đầu. Ít nhiều trong câu
chuyện Lăng kể, Thụy hiểu. Ngồi không lâu, hai bạn rời quán, đi xuống
bậc cấp
con đường dốc tới bến xe. Bến xe đông người, và có nhiều tuyến đường.
Khi Thụy
lên xe, Lăng còn đứng ở dưới nói chuyện với anh. Bỗng nhiên, cả hai
cùng hẹn một
kỳ nghỉ hè về thăm gia đình. Và, qua ý tưởng đó, Thụy nhớ nghĩ nhiều
đến anh
Nguyên, và cũng vừa cách đây chừng tuần lễ anh đã gởi một lá thư cùng
cuốn sách
cho Thiên Nga.
Với những giây phút còn lại dành cho
mình hạnh phúc về thành phố có một thời mình đã sống, Thụy bỗng nhận ra
rằng, mỗi
thành phố là một câu chuyện tình . Thế nhưng, anh không hề mang tâm
trạng của một
nhân vật tiểu thuyết.
Có tiếng còi xe của người tài xế và
thằng lơ xe vừa cất tiếng báo cho hành khách.
-Anh Thụy đi
nghe.
-Ờ, đến hè gặp
lại ở Sài Gòn.
Xe vừa lăn bánh. Sau cái bắt tay,
hai bạn còn đưa tay vẫy chào tạm biệt. Từ bến, xe chạy xuống phía bờ hồ
rồi đổi
đường chính đi ra ngoại ô.
Đến quá trưa, xe về tới Nha Trang.
Thụy ghé quán ở trong khu chợ
Đầm ăn cơm trưa, xong
đi bộ về quân trường.
Khi Thụy trở lại , số khóa sinh đến
học đã khá đông nhưng chưa đủ. Vừa gặp lại các bạn tân binh cũ, lòng
Thụy rất
vui, anh em ngồi tụm năm tụm ba chuyện trò, kể lại những ngày những
tháng đi ra
đơn vị làm việc. Mỗi đứa mỗi chuyện, chuyện nào cũng thú vị. Và, nếu
như đem
góp lại những chuyện này mà viết nên hồi ký, bạn đọc sẽ nhận ra đó là
cuộc sống
thật tầm thường, nhưng vui và chân thực của những người lính trong thời
kỳ chiến
tranh.
Thượng sĩ Trạch là người phụ trách nội
vụ khóa sinh. Mỗi ngày, ông đều đến để điểm danh và kiểm tra vệ sinh
doanh trại.
Ông rất hài lòng vì anh em giữ gìn sạch sẽ trong và ngoài. Tối đến, có
thể bừa
bộn chỗ ăn ở, nhưng buổi sáng và trưa, nơi mỗi giường các chăn màn đều
gấp nếp
để ngay hàng thẳng lối. Thường khi đến,
viên Thượng sĩ trò chuyện với anh em, cho họ biết về lịch sử của quân
trường, của
binh chủng Không quân qua mỗi đời Tư lệnh, và những ngành nghề kỹ thuật
ở Không
quân. Một vài anh em hỏi về chỉ số ngành trong khóa học của mình, ông
trả lời vắn
tắt đây là ngành điều không ngoài mặt trận, và cho biết thêm, học xong
ở đây,
anh em sẽ về hết Sài Gòn và học thêm một khóa hai tuần nữa về các loại
máy truyền
tin. Như vậy, thời gian hoàn tất khóa học chuyên môn sẽ là bốn tháng.
-Bằng chuyên
môn, phụ cấp được bao nhiêu Thượng Sĩ ?
-Bằng các
anh, phụ cấp 400.
-Sure không
Thượng Sĩ.
-Tôi nói mà
các anh không tin à?
-Hoàn toàn
tin tưởng.
-Chúng mày
có biết lính không quân còn sướng hơn là quan nữa. Chữ thọ 100%.
-Nhưng mà
nghèo, chẳng khá gì.
-Đừng có ham
nghe các con.
Với cái tuổi đi lính còn non choẹt,
đám trẻ ăn nói văng mạng, nhưng vẫn còn là hình ảnh của những ngày
tháng thơ
ngây. Thượng Sĩ Trạch cũng đã có con trai lớn học ở trường trung học ,
nên chi
trò chuyện với lính ông hay gọi thân mật là mày tao, có khi gọi chúng
là các
con của bố, và những lúc vui chuyện hả hê ông cười hết sức thoải mái.
Ngày nào
ông cũng đến, nên tình thân anh em khóa
[Còn tiếp]