Mùa
hè còn mãi
Nguyễn
Chí
Kham
Phần Thứ Nhất
I
Chỉ còn ít hôm nữa là Thụy hết thời gian nghỉ phép.
Sáng
nay, lúc sắp xếp quần áo và các thứ quà bánh vào túi vải nhà binh, chặt
gọn,
căng đầy, bỗng dưng lòng anh thấy nôn nao, lạ thường,
tưởng như đang mang mang một nỗi nhớ về người
mình yêu. Thực sự, Thụy đang yêu và ước mơ về Ninh Hà. Nàng đã đi lấy
chồng,
nhưng trong tình yêu, nàng vẫn còn để lại cho anh với rất nhiều lá thư.
Huế, thành phố và con người có chung một dòng sông.
Mới
cách đây một tuần , không khí của mùa thi rộn rã , hoa phượng đỏ rực
trời, trên
đường Lê Lợi bao nhiêu tà áo trắng làm sáng đẹp một ngày mai như đó là
sự xuất
hiện những đàn chim thiên thần. Nhưng rồi, vang âm ấy chợt bơ vơ sau
hồi trống
im bặt, vắng lặng, có chút gì tựa áng mây phiêu bạt bên trời làm bạn cảm thấy nó muộn màng, chẳng còn nữa
sự đợi mong.
-Anh
không đi đâu chơi ?
Nhi xuất hiện ở thềm cửa, trên bàn tay nắm đầy một
chùm
quả mận vừa mới hái ngoài vườn. Thụy nhìn cô em gái và thấy cả một nụ
cười dịu
sáng nơi cặp mắt vui của thiếu nữ.
-Anh
còn bao nhiêu ngày phép
nữa ?
-Sắp
hết rồi.
Nhi để những quả mận vào dĩa, xong kéo chiếc ghế
ngồi
xuống. Một cơn gió vừa làm dịu đi sức nóng và trong tiếng lào xào bên ngoài vườn, Thụy ngửi được cả mùi vị
thơm của lá và trái cây.
Nhi ăn ngon làm Thụy thèm, anh lấy một quả nhỏ, vừa
cắn
đã thấy có vị chát.
-Anh
Nguyên lúc này, sao ?
-Anh ít
khi về nhà.
Rồi một giọng thân tình, Nhi nói:
-Anh ấy
đã có chị Vân Oanh.
-Bạn
gái của anh ?
Cô em gật đầu, mắt nhìn Thụy như thể dò ý. Thụy hỏi:
-Hai
anh chị quen nhau lâu
chưa ?
-Em
không rõ, chắc là mới đây
thôi.
-Em đã gặp chưa ?
-Có
chứ. Anh Nguyên đưa chị
Oanh về nhà chơi mấy lần.
-Chị
Vân Oanh cũng người Huế.
-Không,
ở Đà Nẵng.
-Lạ
nhỉ, sao anh Nguyên không
nói gì hết.
-Anh về
phép sớm hơn là gặp
chị rồi.
-Anh
đâu hay biết gì mà có ý
định về thời gian nghỉ phép.
Sau câu nói, bỗng dưng Thụy băn khoăn. Gia đình ở Đà
Nẵng, cô gái ra Huế học trường Mỹ Thuật năm tới là năm thứ hai. Từ ít nét qua trí tưởng, hình ảnh Vân Oanh tỏa
rộng trên khung vải một bức tranh thiếu nữ có một gương mặt đẹp, phảng
phất nỗi
buồn. Và với chiếc áo dài tím, cô gái cũng cho anh lắng nghe ra tiếng
nói, hình
dung từng dáng cô bước đi thật dịu dàng như
những bông hoa vừa mới nở.
Thụy hỏi Nhi:
-Mẹ có
hay biết gì không ?
-Có.
-Mẹ nói
sao ?
-Mẹ rất
vui. Cả nhà, ai cũng
mến chị.
-Ờ nhỉ,
anh đã hình dung thấy
rồi. Mong là, hình ảnh chị ấy như anh đang nghĩ tới.
Một giọng vui, Nhi nói:
-Chị
Oanh có đọc truyện
anh viết.
-Vậy à.
Anh Nguyên đưa cho
chị.
-Không
phải, em đưa.
-Chị có
nhận xét gì không ?
-Chị
nói, anh thật lãng mạn.
Lòng vui Thụy mơ nghĩ đến người con gái, và nàng còn
đây,
đang hiện diện trong tâm trí anh.
Ngày hôm sau, buổi sáng trời mưa Thụy đi Phú Bài để
ghi
chuyến bay. Viên Trung úy nhận giấy phép xong, quay lại xem bảng phi
trình,
nói:
-Ngày
mai có hai chuyến Sài
Gòn. Anh muốn đi sáng hay trưa ?
-Tôi
muốn đi chuyến sáng.
-OK. 8
giờ có mặt.
Xong việc, Thụy ra về. Trời đã tạnh. Thật may, Thụy
xin
quá giang được chuyến xe nhà binh về phố. Xe chạy không nhanh, trên
đường, Thụy
nhìn ngắm quang cảnh đồng quê hiện ra trong vẻ ẩm ướt sau cơn mưa. Lạ
nhỉ, một
niềm bâng khuâng trong anh như thể cơn gió lạnh trở mùa. Thụy đang nghĩ
đến câu
chuyện của Nhi nói về một cô gái mà anh chưa được gặp. Cô đã đến Huế,
rồi xa
nơi này đã lâu chưa thấy trở lại.
Thụy cứ lan man mơ mộng bóng dáng cô gái, rồi sực
tỉnh
khi xe về tới thành phố. Huế vẫn đông vui, rộn ràng. Xe ngừng lại phía
bên đây
cầu Trường Tiền. Thụy nhảy xuống xe, đưa cao tay vẫy chào tạm biệt anh
tài xế và
hai người lính ngồi phía trước. Họ gửi lại anh một nụ cười. Từ dốc cầu,
Thụy
thong thả đi bộ đến sạp báo nằm ngoài khuôn viên Đài Phát Thanh. Phong
nhận ra
Thụy, vội la lớn tiếng làm nhiều người nhìn anh chú ý. Ngày trước, Thụy
khá
thân với Phong. Nhớ một thời đi học, những buổi chiều hè Thụy thường có
mặt ở đây say mê đọc báo và hết sức vui
được nghe những lời bàn luận thể thao của các cổ động viên cùng tâm ý
như mình.
Thế nhưng, nay thời gian đã đổi khác Thụy rất nhiều, anh
không còn say mê môn bóng tròn như trước nữa,
mà từ ngày đi lính, trong lòng anh mang nặng nhiều ý nghĩ
về chiến tranh, về cuộc đời, vừa hoài nghi từ
những mối mặc cảm.
Vừa chuyện trò với bạn , Phong vẫn tiếp khách mua
báo.
Một lúc sau, câu chuyện ngừng hẳn vì khách đến khá đông.
Thụy mua tờ báo Nghệ Thuật số cũ. Từ ngày sáng tác
được
vài truyện ngắn đăng báo, Thụy bắt đầu chú tâm đến các sinh hoạt văn
nghệ, và
ngày càng trở nên yêu thích việc đọc sách, kể cả cái thú đến phòng
triển lãm
xem tranh.
Thụy không đứng lâu, trả tiền báo xong anh và Phong
bắt
tay. Phong hỏi:
-Hôm
nào đi ?
-Ngày
mai, Thụy đáp.
Đứng ở trong quầy, cái dáng người cao, hơi gầy của
Phong
vẫn như ngày nào. Có chuyến xe buýt vừa đến, đang ngừng,
Thụy vội chạy nhanh. Lên xe, Thụy ngồi cạnh
một cô gái. Tờ báo cầm trên tay, Thụy mở ra đọc lướt. Cô gái cũng ghé
mắt nhìn
vào trang báo của anh. Hai người không hỏi nhau một câu. Những hàng cây
lùi rất
xa trên đường xe đang chạy. Bên kia công viên, dòng sông đang chảy vào
thành
phố, Thụy chợt nghĩ đến ngày mai lên đường.
Xe ngừng ở nhà ga, Thụy và cô gái cùng bước xuống.
Mỗi
người đi một ngả. Thụy vẫn nhớ được về cô gái qua cặp mắt nâu và cánh
tay áo
dài trắng.
Về đến nhà, Thụy vui lây trong tiếng mấy đứa em reo
mừng.
Anh Nguyên cũng có về nhưng đã vào lại đơn vị.
Sau bữa ăn, Thụy mở ví lấy tiền đưa cho mẹ một ít
rồi còn
lại là cho mấy em. Thụy đi lính, đồng lương không nhiều, nhưng anh vẫn
luôn cố
gắng dành dụm cho những kỳ được về phép thăm gia đình. Trong một thoáng
lặng
im, Thụy lại nhớ anh Nguyên , và nhớ rất
nhiều trong sự hình dung qua từng nét về một cô gái.
-Sang
năm anh về phép nữa
không ?
-Chưa
biết. Nếu xin được kỳ
nghỉ, anh về thăm.
Có tiền của Thụy cho, em anh, đứa nào cũng cất dành.
Những ngày qua anh sống thật nhẹ nhàng yên vui với mỗi bữa ăn, mỗi câu
chuyện
của người mẹ và các đứa em, trong tâm tình đó,
những dòng thơ Huy Cận anh yêu thích bỗng dội lên
những cơn sóng nước
giạt dào, tỏa ánh một miền quê , miền ấy, là quê ngoại mà trong tâm tư
anh
thường hay mơ tưởng đến.
Thụy trải chiếu lên tấm phản, đặt chiếc gối xong ,
lăn
người nằm. Anh ngủ ngon giấc, lúc thức dậy, đã nửa buổi chiều. Rửa mặt
xong,
anh rời nhà đi bộ qua thăm dì Quyên. Nhà dì anh ở gần, đầu ngã ba trông
xuống
bến sông. Trời vẫn còn hanh nóng, chưa dịu hẳn.
Vừa thấy Thụy trước cửa, Phương lên tiếng, cô gái
nhìn
người anh họ qua ánh mắt vui. Rồi một cô gái mặc áo trắng chợt quay đầu
nhìn
làm Thụy ngạc nhiên, liền nhớ ra ngay là mới gặp cô lúc trưa trên
chuyến xe
ngừng đỗ ở trạm nhà ga.
Bà dì ở nhà sau đi lên, với nụ cười thật điềm đạm.
-Ngày
nào con đi ?
-Dạ
ngày mai.
Nhìn gương mặt dì Quyên, Thụy cố gắng tìm một lời để
nói.
Và, lúc đó Phương giới thiệu anh
với cô bạn học. Thụy và
cô gái
nhìn nhau hơi bỡ ngỡ. Nhưng rồi, lướt qua bằng giọng tự nhiên , thật
vui Thụy
nói:
-Anh có
linh cảm là tới đây
để tìm em.
-Thực
không ?
-Cô hỏi
bạn của cô đi.
Phương nhìn hai người, tỏ ra ngạc nhiên. Chỉ qua ít
giây
bối rối thôi, câu chuyện trở nên rõ ràng, và Thụy hơi dài dòng khi
thuật lại sự
tình cờ gặp cô bạn của Phương trên chuyến xe buýt đi từ dưới phố lên ga.
Thụy kéo ghế ngồi. Vừa lúc ấy, có tiếng rao quà của
người
bán hàng rong. Dì Quyên vội đứng lên đi ra cửa, rồi cất tiếng gọi. Một
lúc sau,
chị bán quà xuất hiện đặt chiếc gánh xuống thềm hiên.
Cả ba người ngừng chuyện để chờ bữa quà chiều. Rất
nhanh
gọn, mỗi người một dĩa bánh với nước mắm dằm ớt cay.
Ngồi bên ngoài, chị bán hàng cầm chiếc nón đưa lên
quạt.
Trên vầng trán của chị ít giọt mồ hôi còn đọng. Người nào ăn cũng thấy
ngon. Cô
gái hay ngừng đũa nhìn qua Thụy. Cô gái có nước da ngăm, cặp mắt nâu,
và trên
áo trắng thêu tên của cô. Một giọng nhỏ nhẹ, cô hỏi:
-Anh
làm việc ở Sài Gòn ?
-Anh đi
lính, đóng ở căn cứ
Tân Sơn Nhất.
Chỉ có mình Thụy ăn thêm. Bà dì, Phương và cô bạn ăn
xong
một dĩa lớn là quá no. Nhìn ra ngoài hiên, Thụy thấy chị bán hàng đang
rửa chén
bát ở cái thau nhôm. Vội vàng anh ăn nhanh, xong đứng lên mang dĩa ra
trả cho
người bán. Bà dì và chị bán hàng cùng tính tiền, sau đó, dì vào nhà lấy
một cái
dĩa ra mua thêm, dĩa này để phần cho Trinh, em kế Lăng và cũng là chị
của
Phương.
Bóng chị bán hàng đi khuất ra cổng. Thụy hỏi Phương:
-Lúc
nào em mới tựu trường ?
-Đầu
tháng 9.
-Cũng
gần đến rồi, hai tuần
lễ nữa thôi.
-Mỗi
năm anh đều về nghỉ
phép.
Cô gái nhìn Thụy khi hỏi. Lòng Thụy cảm thấy có được
sự
an ủi của cô qua một giọng nói chân tình. Vậy mà anh cứ băn khoăn tìm
cách giải
thích cho cô hiểu về tình cảnh người lính không dễ sống yên bình, phẳng
lặng
như cuộc đời người công chức.
-Anh về
phép lần này là lần
đầu kể từ khi vào lính, Thụy nói.
Cô gái tên Liên An.
Thụy nhìn tên cô thêu trên áo, và đọc trong cặp mắt cô một điều thầm
lặng.
Phương quay lưng rút một cuốn sách ở kệ. Cô đem cuốn
sách
để lên bàn và mở ra trang đầu. Bỗng nhiên cô ngừng đọc hỏi:
-Anh
Nguyên đi đâu không thấy
ghé.
-Anh
còn ở đơn vị.
Phương ngả người dựa lưng ghế, cười nói:
-Không
chắc đâu. Anh đi Đà
Nẵng thăm chị Oanh rồi.
-Sao
Phương biết ?
-Cả
nhà, đều biết.
-Phương
gặp chị ấy rồi.
-Chị
Oanh thân với em lắm.
Thụy ngẩn người, lạ lùng. Cô gái nhìn qua anh. Buổi
chiều, có một chuyến xe lửa vừa về đến ga.
-Ngày
mai anh đi buổi sáng,
hay chiều ?
-Buổi
sáng. Sài Gòn lúc này
đang bắt đầu mùa mưa.
Sau điều vừa nghĩ, bỗng dưng Thụy có cảm giác bàn
tay cô
gái đặt lên vai mình. Hai người nhìn nhau, đôi mắt cô gái hết sức ngại
ngùng.
Và rồi, buổi chiều xuống nhanh. Cô gái đứng lên kiếu
từ,
trên tay cầm hai cuốn vở và một tập giấy. Thụy cũng muốn về nhà, rồi
cùng cô
gái đi ra phía cổng.
Giọng thân tình, cô gái nói:
-Em
mong sang năm anh về
phép.
-Anh
cũng mong như em.
Hai người đi bộ trên con đường ven sông. Dừng bước
lại,
Thụy hỏi:
-Nhà
Liên An gần đây không ?
-Dạ gần.
-Bên
kia cầu ?
-Em ở
gần nhà ga .
-Em
thích về một mình hay
muốn có anh theo.
-Anh
tiễn em một đoạn qua cầu
thôi.
-Anh sẽ
cùng đi với em.
Trong câu chuyện, cô gái cho Thụy biết qua về gia
đình
cô. Và, cùng với sự thân tình ấy, cô nói về mẹ anh, các em anh, và rất
là thích
thú khi cô tả qua cho Thụy nghe về nàng Vân Oanh. Thụy hỏi:
-Em
thấy anh Nguyên ra sao ?
-Anh ấy
rất đẹp .
-Còn
nàng Vân Oanh?
-Em
chưa tìm ra được ai để so
sánh với nàng.
-Nhi đã vẽ hình ảnh Vân Oanh và kể hết chuyện cho
anh nghe. Ở thành phố này, vẻ đẹp của áo trắng rất là thuần khiết.
-Anh
thích em mặc áo trắng
không ?
-Anh
rất mong, mỗi cô thiếu
nữ, ai cũng đều có riêng cho mình một màu áo yêu thương.
-Anh
thật có tâm hồn lãng
mạn.
-Anh
rất vui được nghe tiếng
nói của em.
-Anh có
mong gặp lại em không
?
-Anh
đang đi bên em. Những
ngày tới đây, anh xa khỏi thành phố này. Áo trắng, tên Liên An của em,
tên Vân
Oanh người con gái xứ Quảng chúng ta vừa nhắc đến là kỷ niệm thật đẹp
mà Huế đã
cho anh sự rung động của tiếng nói trong ngày về.
-Em có
cảm tưởng, anh luôn đi
xa, nhưng lúc nào cũng mãi nhớ thương ngày tháng cũ.
-Em nói
được những ý tưởng
của anh. Những ý tưởng ấy nhắc anh nhớ đến một bài hát rất quen thuộc.
-Anh
hát đi.
-Anh
không biết hát.
Sau vài giây, Thụy bỗng nói:
-Anh
nhớ được một đôi câu ...
nhà tôi bên chiếc cầu soi nước, em vắng tôi một chiều...
Bóng nắng chiếu nghiêng nghiêng, dòng sông không lớn
nhưng nó tạo ra được cái dáng vẻ đẹp riêng cho thành phố. Hình ảnh
chiếc cầu
trắng sáng màu vôi, theo ánh nắng, bóng hai người đi qua con sông ,
bỗng nhiên
nghe tiếng động cơ nổ dội lên vang thật xa. Và lúc đó, một chiếc thuyền
máy
xuất hiện lênh đênh trên sóng nước, khi ra khỏi dòng sông nhỏ này chiếc
thuyền
sẽ gặp dòng sông lớn.
Nơi đây, trở lại sự
yên bình. Nhà ở hai bên nằm ven theo bờ sông, mỗi
căn nhà đều có khoảnh sân ở phía trước và
căn vườn nhỏ
sau lưng.
Bỗng nhiên Liên An dừng bước lại, cô nói với Thụy:
-Đã đi
qua hết cây cầu, anh
có nhớ lời em nói không ?
-Nhớ
chứ. Nhưng sao em không
nghĩ anh muốn tiễn em lên nhà ga để đợi một chuyến tàu.
-Anh
muốn em làm kẻ lữ hành
đơn độc.
-Hãy
cùng anh đến đó.
Thụy nói với cô gái vừa
hình dung về khung cảnh nhà ga, trong buổi chiều
muộn màng biết bao
nhiêu hành khách mong đợi có chuyến tàu đến, riêng một mình cô gái đứng
lẻ loi
bên cạnh tháp nước, đôi mắt đăm đăm nhìn về ngôi nhà trống bỏ hoang.
Hình ảnh
Liên An áo trắng, tấm lòng buổi chiều là gió thổi tung bay mái tóc.
-Anh có
ra Quảng Trị thăm quê không ?
-Có,
anh về được ít ngày.
Thời trước, nhà anh ở ngay ga Quảng trị. Nhà ở, nhìn sang bên kia con
đường ray
thấy bóng cái tháp nước.
-Em có
linh cảm, anh hay đi
xa nhà, nhưng luôn ước mong có được ngày trở về.
-Có
được ngày trở về là cả sự
bao dung.
Nhà ga yên lặng, trống vắng. Hai người đã dừng bước,
họ
đứng bên nhau nhìn qua bãi đất trống. Bên cạnh hàng rào kẽm gai có một
hồ nước.
Căn nhà lợp mái tôn, sân trước rộng, ở đằng sau, có một con đường nhỏ
dẫn ra
tới bến đò.
-Em ở
căn nhà đó đã mười năm.
-Ngày
anh mong gặp lại em,
thời gian có đổi khác đi nhiều không ?
-Không,
em không biết.
Thụy cầm bàn tay Liên An, rồi nói:
-Ngày
mai anh xa thành phố,
xa em nữa. Cám ơn em cho anh một ngày gặp gỡ.
-Em về
một mình, nghe.
-Em về
một mình.
Liên An bước đi không ngoái đầu nhìn lại. Thụy bỗng
nghĩ,
mình mới là người lữ khách đang trông đợi một chuyến tàu
II
Lúc nghe tiếng động rất khẽ của chiếc ghế, người mẹ
thức
giấc. Giọng bình thường, bà hỏi:
-Đi sớm
vậy con ?
Thụy không đáp lời, anh chợt ngửi mùi vị sương muối
từ
ngoài vườn tan vào, rồi lặng yên ngồi xuống bên giường mẹ. Trên chiếc
gối, mái
tóc đã bạc của mẹ anh xõa rộng, lúc này, anh vẫn không biết mình muốn
nói điều
gì.
-Sang
năm, con về thăm nhà ?
-Dạ,
chưa biết.
-Sao
con không xin về ngoài
này cho gần nhà ?
Thụy nắm lấy bàn tay của mẹ. Vừa đủ để cho mẹ nghe
tiếng,
Thụy nói:
-Ở
trong đó con có điều kiện
tìm kiếm thêm việc làm.
-Con ở
nhà thuê ?
-Không,
ở trại lính.
-Thằng
Nguyên có đem cô bạn
gái về.
-Con
biết.
-Con đã
gặp chưa ?
-Dạ
chưa.
-Cô
Oanh dễ thương lắm, ở Đà
Nẵng.
-Dạ.
-Với
con, thì sao . Đã quen
ai chưa ?
-Chưa.
-Ba mẹ
rất mong các con có
gia đình.
-Nhưng
vẫn còn lâu, mẹ ạ.
Trong bóng tối, tiếng chuyện trò vẫn gây một cảm
giác xa
vắng lẫn vào trong sương muối. Thụy chợt nghĩ đến người cha. Hình như trong
đời mình, ba anh luôn sống xa gia đình nhưng mỗi khi có được dịp trở
về, lòng
ông thấy rất vui, rồi bao nhiêu hạnh phúc của mình lại chỉ muốn được để
dành
hết cho người vợ.
-Thôi,
mẹ nằm nghỉ đi.
Thụy nhấc bổng chiếc ghế đem cất. Với túi xách nhỏ
trên
tay cùng vai đeo ba lô, anh bước ra ngoài và cẩn thận đóng cánh cửa.
Có tiếng Nhi cất lên gọi. Vừa mới dời bước, Thụy
ngoái
đầu nhìn lại rồi vẫy tay tạm biệt cô em
gái.
Nhà gia đình Thụy thuê ở nằm khuất sau lưng vườn, có
lối
đi riêng bằng đường nhỏ, và trong lúc trời hẳn còn tối Thụy đi bộ ra
phía cổng
để gặp con đường chính. Thụy dừng bước ít giây vì mắt
anh bị chói lóa bởi ánh đèn điện hắt
xuống. Từ con đường ngang trước mặt, anh lại đi bộ lên phía nhà ga nơi
có trạm
ngừng xe buýt. Một mình, khí lạnh ban mai làm anh cảm thấy thật dễ
chịu. Mùa hè
như đã xa, và mùa thu là một nơi nào đó.
Bên ngoài sân ga, đèn mở sáng suốt đêm. Chỉ có một
chiếc
xe buýt đậu chờ khách. Khi vượt qua khỏi cây cầu Thụy trông thấy hai
quán hàng
mở cửa bán cà phê. Đèn trong quán hắt ra một vũng nhỏ, và anh đến vừa kịp lúc xe sắp chạy.
Người tài xế dụi tắt điếu thuốc, tiếng máy xe nổ khô
khan, rồi nặng nề lăn bánh. Ra khỏi ga, chiếc xe vượt cây cầu nằm trên
con
đường về trung tâm thành phố. Những hàng cây phượng đẫm ướt qua sương sớm, ánh
đèn điện cứ lùi dần khi xe đang chạy.
Thụy nhìn qua công viên thấy sương mù trên sông, thấy những chấm đèn
sáng của
mấy con thuyền neo đậu, còn bên xa kia kinh thành vẫn đang mờ tối, chập
chùng
những cái bóng di chuyển trên bức tường gạch.
Chỉ hơn mười phút từ bến nhà ga, xe đến cầu Mới rồi
rẽ
xuống phố Trần Hưng Đạo để vào bến chính nằm bên trái khu chợ.
Xe ngừng, hành khách xuống. Không khí buổi sáng sớm
ở bến
xe yên lặng, ấm áp. Những người đạp xích lô đang chuyện trò, mấy người
buôn bán
còn đứng bên cạnh những gánh hàng để chờ xe đổi chuyến. Quán cà phê mở
cửa sớm,
trong quán, đông khách ngồi. Thụy ghé vào quán, ngồi bàn trống ở ngoài
gọi một
ly cà phê và thêm chiếc bánh pâté chaud.
Cà phê đã pha sẵn, rất nóng, Thụy uống một hớp nhỏ rồi đốt điếu thuốc.
Thụy sẽ
ăn chiếc bánh, và uống cà phê sau khi hút xong điếu thuốc. Buổi sáng
sớm, trời
thấm lạnh, lúc này sắp sang thu. Mùa hè mong muốn đi xa, còn lại thành
phố này,
bóng dáng con tàu, những chiếc ghế trống và người lính đang ngồi đây
với bao
nỗi niềm riêng của mình, Thụy chợt nghĩ đến hai hình ảnh thiếu nữ, một
cô gái
nhỏ bé áo trắng, và một cô mang hình bóng áo tím như đang lớn dậy giữa
cuộc đời,
hai hình ảnh đó anh có thể mang theo với sự trìu mến ân cần, hay tốt
hơn, hãy
nên cứ gởi lại cho thành phố để nhớ ngày về.
-Con đã
quen ai chưa ?
-Dạ
chưa.
Ly cà phê đậm bỗng làm Thụy nhớ đến Huê. Chiều hôm
ấy
trời đổ xuống trận mưa lớn. Căn phòng ở tầng lầu hai bật đèn sáng. Trên
chiếu
bạc, mọi người hồi hộp theo dõi cô Năm làm cái đang bắt bài. Rút cây
thứ tư, cô
nhẩm cộng số nút trên từng lá, ra vẻ
ngập ngừng, suy nghĩ. Ngân cười nói:
-Còn
bài non đó cô Năm.
Cô Năm không đáp lời mà chỉ nhìn
qua mỗi tụ bài của các nhà con đang để úp. Trong lúc chờ , Thụy đếm
tiền sắp
lại ngay ngắn. Trời mưa lớn, anh nghe tiếng mưa và cứ tưởng mình đang
ngóng
đợi, trông chờ ai.
-Nhà
nào bù, bỏ ra.
Cô Năm đã rút thêm cây
bài nữa mà Thụy chẳng hay.
Huê reo lên:
-Em hên
quá.
Rồi tiếp theo là Ngân nở nụ
cười mãn nguyện. Cô Năm
bắt lá 6 chót, dư một nút, nếu là 5 hay 4, là
cô ngũ linh, ăn toàn làng. Từ trái sang phải, theo thứ tự, cô Năm lật
bài xem
xét lại và chung tiền. Bài của Thụy hai con tây, quá chắc ăn. Từ trưa
đến giờ
anh thật đỏ, trúng luôn nhưng vì không đặt lớn
nên ăn không nhiều lắm.
Hết cái, cô Năm đưa bộ bài qua
cho anh Thái. Với bàn tay mau lẹ anh Thái xóc bài, rồi chẻ bài, trước
khi mở
hội đã lên tiếng :
-Cho
đặt líp.
Thụy nghỉ chơi, đứng dậy
nhường cho Phụng vào chiếu. Ra lối cầu thang, Thụy bước nhanh chân
xuống nhà.
Nhà dưới vắng lặng, mọi người đang ở trên lầu chơi bài thành hai hội,
một hội
xì dách, một hội tứ sắc. Ở hội tứ sắc , người lớn chơi và luôn có tay
dì Hồng
mẹ của Thúy. Thúy cũng đang ngồi bên chiếu bạc, say mê.
Thụy đi xuống bếp, mở chạn tủ
lấy gói cà phê và chiếc phin ra. Thụy cho cà phê vào phin vừa đúng hai
muỗng
đầy. Xong, Thụy để phin lên cái ly nhỏ
rồi xách chiếc ấm ra bể lấy nước. Thụy đổ nước đầy ấm đem trở vào đặt
lên lò ,
tay sắp những thanh củi gác chồng lên
nhau xong bật diêm mồi que đóm cho lèn vào dưới lớp củi. Đóm bằng gỗ
thông có
chất dầu nên bắt lửa, cháy bùng thật nhanh.
Gian
bếp nằm riêng biệt, không rộng
nhưng ngăn nắp. Trên cái bàn gỗ cũ kỹ, phía đầu để một rổ chén bát, và
ngay bên
trên là ống tròn bằng nhôm móc vào sợi thép cứng để bỏ đũa. Chiếc bàn
dựa sát
tường phên với nhà bên cạnh, có ô cửa lưới ăn thông. Vào giờ đứng bếp,
hai nhà
cùng nấu nướng, vừa chuyện trò với nhau. Nhà dì
Hồng và cô Tư rất thân thiện. Bên cô Tư đông con cái
đến mười người. Cô
chỉ có hai cậu con trai, còn tất cả là gái, từ mấy chị lớn đến các cô
nhỏ người
nào cũng thùy mị, dễ mến trong cách trò chuyện hay vui đùa. Cô Tư ở nhà
nội
trợ, còn thầy đang làm Hiệu trưởng trường tiểu học Cầu Kho.
Thụy đứng cạnh bếp lò nhìn những ngọn lửa cháy sáng
đều.
Trời mưa lớn, bỗng anh thích thú với ý nghĩ mình sẽ được thưởng thức
một ly cà
phê thơm, vừa đậm ngon. Mọi thứ, đều đã có sẵn.
Thụy để tay lên túi áo sờ nhẹ gói thuốc, thấy nó còn
đầy. Chút nữa, pha
xong cà phê, anh uống một ngụm cho ngon miệng rồi sẽ đốt điếu thuốc.
Bất giác Thụy mỉm cười một mình,
liền ngay đó Huê xuất hiện. Thụy hỏi:
-Sao em
nghỉ, không chơi nữa
?
-Em
thua, hết tiền rồi.
-Có
cần, anh cho mượn.
-Không,
em cũng không thích
ngồi lâu.
Thụy ngước mắt nhìn khuôn mặt Huê.
Thụy thấy cái dáng vẻ Huê đúng là một thiếu nữ đẹp. Huê mặc bộ quần áo
thường
có chấm bông đỏ, khuôn mặt trái soan rất hợp với mái tóc cắt ngắn. Và
nét đẹp
của Huê rất là Tây phương. Thúy, con dì
Hồng cũng dịu dàng
nhưng không
đẹp bằng Huê. Trong ngõ hẻm này, từ dãy nhà đầu đến cuối rất đông các
cô gái
còn đi học, nhưng không cô nào đẹp sánh bằng Huê cả.
Ba mẹ cô gái người Bắc, nhưng mấy anh em
đều nói theo tiếng Nam. Huê có hai anh chị học Đại Học. Vào ngày
thường, Huê
hay mang gạo qua gởi nhà dì Hồng quen gọi là cô Ba để nhờ nấu cơm. Thụy
đã để ý
đến Huê , và bắt chuyện làm quen sớm hơn ai hết, ngay sau tuần lễ đầu
anh đến ở
nhà dì Hồng. Huê cũng mến anh, cô rất thường hay qua nhà Thúy và lúc
gặp Thụy
cô gái chuyện trò rất tự nhiên. Huê học trường Gia Long, cô học khá, là
một
thiếu nữ rất ghiền xem phim. Thụy cũng mê phim ảnh, các nam nữ tài tử
anh đều
nhớ hết tên, và những phim kể chuyện tình, lúc xem, anh còn nhớ rõ từng
chi
tiết. Thế nhưng, Thụy không có được sự kiên nhẫn, chăm chỉ với sách
đèn. Thụy
đã bỏ học, và rồi đây anh sẽ xa cách với
bao nhiêu kỷ niệm buồn câm nín trong lòng mình.
-Anh
đun nước pha cà phê ?
Chỉ trong ít giây, hình ảnh Huê
kéo Thụy trở về gần gũi bên nàng. Thụy
mỉm cười, nói giọng tự nhiên:
-Trời
lạnh, không có gì thú
bằng uống cà phê.
-Anh có
tâm hồn nghệ sĩ.
-Một
chút thôi. Em uống cà
phê nghe, uống với anh cho vui.
-Không,
em không uống được cà
phê.
Thụy nấu một ấm đầy cho cả nhà
dùng luôn nên đứng chờ lâu. Giờ thì nước sôi đã reo, vừa bốc hơi. Cả
hai người
cùng lặng im để nghe tiếng nước reo, bên ngoài mưa càng lớn.
Thụy nhấc ấm nước, lửa trong bếp
dần tàn ngọn. Huê bước tới gần nhìn anh pha cà phê. Sau khi rưới cho
thấm ướt
cà phê một chút, Thụy đổ nước sôi đầy phin, xong đậy nắp. Cà phê rớt
xuống
chiếc ly trong từng giọt đậm, thật đẹp mắt làm Huê
thích thú. Huê đứng ngắm những giọt cà phê
chảy, cô chợt nghĩ, nước mưa thì vui như tiếng nói hay tiếng cười, còn
từng
giọt cà phê là màu đen đậm đặc, nó luôn mang mang nỗi
buồn.
-Em lên
chơi bài tiếp đi.
-Bộ anh
đãng trí rồi sao ?
-Không.
Anh sẽ đưa tiền cho
em lên chơi tiếp. Ăn thì mình cưa đôi.
-Còn
thua, sao ?
-Thì
thôi.
-Thôi,
hôm nay em đen lắm.
Anh ăn nhiều phải không ?
-Anh
được hơn sáu trăm.
-Anh ăn
non rồi đứng dậy.
-Anh
chơi cho vui thôi. Ít
ngày nữa, anh xa Sài Gòn .
-Anh đi
đâu vậy ?
Thụy và Huê bỗng đưa mắt nhìn
nhau. Thụy nói, giọng nhỏ đi:
-Ngày
mai anh xa em đó, biết
không ?
Huê hỏi:
-Nhưng
mà anh đi đâu ?
-Anh đi
Nha Trang. Anh vào
lính rồi.
-Anh
không học nữa sao ?
-Không.
Thụy đáp, giọng nói khô vừa tan
trong tiếng hạt mưa lớn rớt xuống mái tôn. Rồi phút giây ấy lặng im,
vừa dửng
dưng, mỗi người chợt theo đuổi một ý nghĩ. Thụy vừa thoáng thấy vẻ buồn
trên
cặp mắt của Huê. Giữa anh và cô gái, không phải hai người có đã có nỗi
rung
động vì yêu nhau, mà đúng ra, rất mến nhau một cách thân tình như anh
em. Lúc
nãy chơi bài ở trên lầu Huê ngồi cạnh Thụy , có lúc nàng hơi nghiêng
đầu dựa
vai Thụy, mắt chăm chú xem những cây bài Thụy bắt lên. Và lúc ấy, Thụy
nhìn
thấy người em dễ thương lạ.
Cà phê ngừng chảy. Thụy nhấc
chiếc phin ra khỏi ly, múc mấy muỗng nhỏ đường cho vào cà phê khuấy
nhẹ. Cà phê
pha xong dậy lên mùi thơm làm Huê thấy thèm, và nàng cũng thấy cái dáng
vẻ nghệ
sĩ của người con trai qua mái tóc quăn dợn sóng, thật tự nhiên.
Thụy
cầm ly cà phê đưa mời :
-Em
uống thử đi.
Rất chậm từng tiếng, Huê
đáp:
-Đã
bảo, em không uống được
mà.
-Em nói
giọng Bắc hay lắm.
-Vâng,
anh.
Hai người nhìn nhau cười.
Trời vẫn mưa, mù mịt. Tiếng mưa lớn, nước dội ào ào xuống mái tôn. Thụy
bỗng
nhớ đến một câu thơ cổ: Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách.
Trong gian bếp, có mấy
chiếc ghế con. Thụy để cà phê lại trên bàn, lấy một chiếc ghế nhỏ đưa
cho Huê
cầm rồi hai người dời ra gần chỗ sáng.
-Mưa
lớn quá.
-Có
mưa, mới giữ được em ngồi
đây, Thụy nói.
Thụy uống vài hớp nhỏ,
xong châm điếu thuốc. Huê
cười trong mắt, nàng nhìn Thụy uống cà phê, hút thuốc tỏ ra thích thú.
Thụy nhắc lại câu nói lúc nãy:
-Có
mưa, mới giữ được em ngồi đây với anh.
-Tại
sao anh bỏ học đi lính ?
Đôi mắt Thụy bỗng trở nên
trơ trọi sau câu nói của Huê. Và, anh bỗng nhớ đến Ninh Hà , người bạn
gái ở
nơi một thành phố xa xôi.
-Tuần
rồi, em có đi xem phim
không ?
-Có.
Phim Les Jeunes loups,
anh coi chưa ?
-Có,
phim hay lắm.
-Em
lặng người đi lúc nghe
tiếng kèn thật não nuột.
-Em
cũng thật lãng mạn.
-Còn
anh, lúc nào cũng ra vẻ
nghệ sĩ.
-Anh
cũng có một vài điểm
giống em.
Thụy nói xong, Huê không
giãi bày gì cả. Cơn mưa bị chiều gió thổi tạt, một giọt mưa lớn rớt
xuống vai
áo của Huê. Thụy bỗng cầm lấy tay Huê lúc cô gái đứng dậy dịch chỗ ngồi
tránh
mưa. Rồi Thụy buông tay ra lúc Huê ngồi
xuống. Nhìn gương mặt đẹp của cô gái, Thụy nói:
-Anh có
một người bạn gái rất
thân.
Huê hỏi:
-Anh sẽ
đi xa bao lâu ?
-Chừng
ba tháng.
-Rồi
anh trở về lại đây.
-Chưa
biết nữa, nhưng anh rất
mong về. Anh rất nhớ Sài Gòn, anh nghĩ đây là thành phố tuổi trẻ của
mình.
- Anh
sẽ làm phi công ?
-Không,
anh đi chuyên viên.
Có thể sau này anh trở thành thợ máy.
-Làm
thợ máy cho phi cơ ?
-Khi
nào phi cơ hư hỏng, trở
ngại đem vào ụ thì chuyên viên coi sóc sửa chữa. Giống như xe hư, mình
sửa vậy.
Thụy giải thích cho Huê bằng
những điều nghe được trong những ngày
qua khi anh làm đơn tình nguyện vào Không quân, và những ngày đi khám
sức khoẻ
anh hay chuyện trò với những người lính cũ, họ đã cho anh biết một số
ngành
nghề trong binh chủng này.
Huê hẳn còn là một cô
gái học sinh. Nàng chưa
quen ai cả, và nàng cũng đã biết anh để ý tới nàng ngay từ những ngày
đầu mới
gặp.
-Anh
học ở quân trường nào ?
-Nha
Trang . Em đến thành phố đó chưa ?
-Chưa.
-Em có
thích những thành phố
ở miền biển ?
-Rất
thích. Nhưng tại sao anh
không làm phi công ?
Thụy bỗng nhìn lâu vào mắt
Huê. Anh thấy Huê đúng là hình ảnh của cô Phượng trong tiểu thuyết Đời
Phi Công
của nhà văn Toàn Phong. Thụy đã đọc cuốn đó một đôi lần, anh thật mến
yêu cô
Phượng trong tập tùy bút đó. Và rồi,
anh cũng nghĩ mình chọn binh chủng Không
Quân vì yêu cuốn sách, vì bóng hình cô gái đó. Giờ đây, Huê chính là cô
Phượng
đang ngồi trước mặt anh. Nàng thật là giống, giống lắm, với mái tóc cắt
ngắn
bao quanh gương mặt đầy đặn, với nỗi buồn nhẹ nhàng luôn làm đẹp cặp
mắt khi
nàng cảm thấy vui, hạnh phúc. Nhưng thật buồn thay, anh không phải là
phi công.
Thụy nói thầm với Huê , anh yêu em.
Những ngày cuối sắp rời Sài Gòn, giây phút nào nỗi
buồn
cũng cứ dờn dợn, chấp chới trong cõi lòng khiến Thụy có cảm giác miệng
lưỡi cứ
đầy ứ những vị chua, vừa đắng. Mỗi ngày, Thụy hầu như ngồi trên các
chuyến xe
buýt. Một hôm ấy, Thụy tìm đến Lăng. Vừa
thấy bóng Thụy xuất hiện lối hiên ngoài, Lăng vội ngừng viết, gấp sách.
Thụy bước
vào, với vẻ mặt ủ rũ . Lăng nhìn Thụy lo ngại, định lên tiếng hỏi nhưng vừa ngồi xuống ghế, Thụy nói ngay.
-Tôi
sắp đi Nha Trang.
-Anh đi
có việc gì ?
-Tôi
nhập ngũ, vào binh chủng
Không Quân.
Lăng hơi ngạc nhiên, và những
ý tưởng Lăng muốn nói bỗng nằm lại trong cặp mắt mình với một nỗi xốn
xang, tuy
nhiên, nếu có nói ra cũng sẽ không phù hợp với những điều Thụy đang
nghĩ. Thụy
tiếp lời:
-Tôi đi
chuyên viên, lính
thường thôi.
-Chừng
nào anh đi ?
-Hai
ngày nữa.
Hai người im lặng. Thụy nhìn
vào chồng sách, cầm một cuốn sách Luật xem qua rồi gấp lại. Lăng hỏi:
-Anh
không đợi đến hè, thi cử
xong đã.
-Thôi,
tự nhiên tôi chán
chuyện học hành.
-Anh
đi, có bạn nào quen
không ?
-Có,
bạn học ở Đà Nẵng. Bạn
thân, nó muốn tôi đi cùng.
Lăng không nói gì, nhưng rất
hiểu tâm trạng của Thụy. Từ ngày vào Sài Gòn, Thụy sống như một kẻ lạc
lõng,
chênh vênh không có điểm tựa. Những ngày đầu háo hức trước một thành
phố có đời
sống xô bồ, sôi nổi, giờ đây đã lắng dịu , buồn bã trong lòng anh. Vào
đây,
Thụy cố gắng tìm kiếm việc làm, nhưng nó không ổn định.
-Anh
đợi thi xong đã.
-Thôi,
tôi không thích học
nữa.
Thụy vẫn muốn giấu, không cho
Lăng biết đơn xin hoãn dịch của anh đã
bị từ chối. Buổi chiều thật yên tĩnh. Lăng xếp sách vở cho vào kệ xong
thay
quần áo, mở hòm rương lấy ít tiền bỏ túi rủ Thụy đi chơi.
Hai người rời nhà đi ra
trạm xe buýt. Vừa đi, Thụy bắt đầu câu chuyện nói với Lăng. Bằng một
giọng cố
gắng giữ niềm tự tin, Thụy nói cho Lăng biết anh đã làm đơn xin nhập
Không Quân
từ một tháng nay. Mỗi ngày, Thụy đều có
mặt ở Bộ Tư Lệnh Không Quân để bổ túc hồ sơ và khám sức khoẻ. Kết quả,
anh đủ
điều kiện để theo học khoá chuyên viên. Bên Không Quân khác với Bộ
Binh, nói là
đi lính, nhưng sau mấy tháng học căn bản quân sự không phải ra ngoài
chiến trận
mà sau đó, được theo học ngành nghề, những ngành như không lưu, kiểm
báo, hoặc
cơ khí , rất dễ có cơ hội được gởi đi nước ngoài học thêm về chuyên môn.
Lúc Thụy ngừng nói, Lăng hỏi:
-Anh đi
học chừng bao lâu ?
-Ba
tháng.
-Rồi
trở về Sài Gòn.
-Không
biết nữa, ra khỏi quân
trường là đi đơn vị.
-Mình
có chắc được đi học
ngành không ?
-Ở đơn
vị một thời gian, sau
đó họ sẽ cho đi học.
Hai người đứng chờ bên trạm xe
buýt. Không biết nói với nhau gì thêm, Thụy nhìn ra con đường, lúc này
trên
gương mặt anh không giấu được cái vẻ còn ngơ ngác của mình. Chuyến xe
buýt tới
trạm ngừng. Xe đông khách, Thụy và
Lăng đứng ở cạnh lối cửa lên xuống. Và,
chuyến xe chạy đi ngay sau ít phút ngừng, rồi cứ ghé vào mỗi trạm là
thả khách
xuống rồi đón khách lên.
Xe vào bến chính ở trước chợ
Bến Thành trong cảnh tượng buổi chiều thật huyên náo giữa đô thị. Xuống
xe,
Thụy hỏi Lăng:
-Mình
đi đâu ?
-Đi
lòng vòng chơi phố một
lúc.
Thụy bước theo Lăng, trong đầu
óc đôi lúc còn nghĩ vẩn vơ. Ngang qua những tiệm tạp hoá, hiệu sách và
các quán
dọc vỉa hè, Thụy và Lăng chỉ đưa mắt nhìn thoáng. Bất chợt Lăng hỏi:
-Anh
cần mua gì không ?
-Không.
-Anh cứ
mua đi, có tiền đây .
-Thôi,
chẳng có gì cần mang
theo.
Thụy và Lăng cứ đi dọc theo
vỉa hè phố Lê Lợi mắt lướt nhìn, và trong ý nghĩ như cố gắng gợi nhớ ra
một
chuyện gì quan trọng. Thụy tự dưng thấy mình xúc động trước hình ảnh
một ngày
cuối ở Sài Gòn. Thụy nhìn quang cảnh phố có cảm giác xa lạ hơn bao giờ
cả, và
dù cho anh đã vào đây ở được sáu tháng, nhưng anh vẫn không thể coi đây
là
thành phố thân thuộc với mình.
Không mua sắm gì, hai người
ghé vào quán Mai Hương ngồi nghỉ chân uống nước, sau đó, sẽ đến rạp hát
Lê Lợi
xem nếu có phim hay thì vào coi, không cả hai xuống nhà dì Hồng.
Rạp Lê Lợi luôn chiếu thường
trực, có nhiều phim hay và giá vé rất rẻ. Thụy thường xem phim ở rạp Lê
Lợi.
Chỉ cần có 10 đồng trong túi là mua được một ly trái cây xay, một lát
bánh mì
nướng và một vé xem phim thường trực.
Rạp đang chiếu phim The Sun
Also Rises. Trong lúc Lăng đến quầy mua vé, Thụy ghé vào quán nước mua
bánh mì
và nước giải khát mang vào rạp để vừa xem vừa ăn.
Xuất hát trước vãn, giờ đang
đón khách cho xuất hát mới. Dòng người theo nhau tiến vào cửa. Aùnh đèn
và hơi
mát của máy lạnh làm cho Thụy cảm thấy dễ chịu khi bước vào. Hai người
ngồi ở
bên bìa hàng ghế giữa. Trong rạp, đang giờ nghỉ, phim chưa chiếu nhưng
có phần
nhạc đệm cho khán giả vừa nghe vừa giải lao.
-Đến
hè, Lăng có về Huế không
?
-Về,
nhưng cũng đợi kết quả
thi xong mới về.
Bỗng dưng trong lòng Thụy khơi dậy một niềm bâng
khuâng.
Và anh đã nhớ ra từ ngày ấy, về lại hôm nay, vào những phút giây sắp
lên đường
Thụy có cảm tưởng đời anh luôn là một kẻ cứ trông ngóng, đợi chờ.
Trên con sông, những lớp sương mù mỏng tan dần. Thụy
chỉ
ngồi ở quán cà phê chừng hai mươi phút.
Khi đứng dậy, anh đeo vai ba lô, tay cầm túi xách đến quầy trả tiền và
mua thêm
một gói thuốc bọc đi đường. Hàng xe buýt đậu gần nhau đối diện với quán
nước.
Một khoảng sân rộng giữa bến dùng để cho
xe ra vào hay trở đầu. Xe đi Phú Bài nằm cuối hết, gần bờ sông. Khi
thằng lơ xe
dắt Thụy đến, có thêm vài người khách
nữa cùng lên. Xe vẫn đợi khách, chưa tới giờ chạy. Thụy không ngồi dãy
ghế
trước mà chọn ở đằng sau, gần lối cửa lên xuống. Ở phía sau, cảnh vật
cho bạn
nhìn thấy rõ và lâu hơn. Khi đặt chiếc ba lô xuống cạnh chân , Thụy cảm
thấy dễ
chịu. Thụy lấy làm vui khi nghĩ đến trưa nay được có mặt ở Sài Gòn. Sài
Gòn,
thành phố của mùa mưa. Rất có thể buổi chiều khi cơn mưa tới, anh đang
ngồi
trong rạp hát. Và, đến tối, anh tìm đến quán cà phê quen thuộc, nơi ấy,
có bóng
dáng người thiếu phụ trẻ đẹp với vẻ nghiêm trang, và
trên gương mặt nàng luôn phác họa những
nét buồn rất dịu dàng, ngây thơ. Nhưng nếu trời không mưa, tôi sẽ làm
gì ? Thụy đặt cho mình một câu hỏi, rồi tự
nghĩ
nếu Sài Gòn không mưa, thì lúc anh về tới, trời đã quá trưa, hoặc bắt
đầu vào
buổi chiều với không khí dịu mát, tươi vui, nhiều sắc màu của nắng và
của những
tà áo tung bay trên đường phố, chừng đó, cũng đủ gây cho anh niềm vui
ngày trở
lại Sài Gòn, với buổi chiều lang thang
trên vỉa hè dọc dãy theo các phố buôn bán sách báo cũ. Anh cũng cầu
mong gặp
Huê, giữa anh và nàng luôn hòa hợp nhau trong một tâm hồn rất mến yêu
văn nghệ
và cuộc sống.
Từ băng
ghế sau, nhìn qua con sông, Thụy trông
thấy cây cầu và dãy phố bên kia với những mái nhà im vắng và những hàng
cây
cao, rất thẳng đều. Thụy nhận ra Huế trong lúc này, nó không thay đổi
gì nhiều
đối với người lính từ nơi xa mới trở về.
Nhưng có Huế , những
điều ấy
anh có thể nói ra được với bạn bè về những ngày khó khăn đầu tiên của tuổi trẻ.
Từ ngày đó, anh luôn cảm thấy mình đơn
độc, sự dừng bước một nơi chốn chẳng bao giờ lâu.
-Ủa, đi
đâu đây ?
Thụy giật mình, nhận ra Hạnh. Ánh lửa que diêm sáng
lên
khi Thụy đang đốt điếu thuốc.
-Tao
mới về nghỉ phép.
Thụy đưa gói thuốc cho Hạnh.
-Mầy
còn nhớ tao không ?
-Nhớ
chứ. Hạnh, B1.
-Đúng
rồi.
Hạnh mặc đồ lính mới toanh, cũng mang ba lô túi xách
như
Thụy. Hạnh ngồi xuống bên cạnh , châm xong điếu thuốc Thụy mời, hắn hỏi:
-Mày đi
đâu ?
-Về lại
Sài Gòn .
-Đơn vị
ở trong đó ?
-Ờ,
Thụy đáp.
Hạnh nhìn qua Thụy trong vài giây.
-Sao
không đeo lon lá gì cả ?
-Lính
thường thôi, không được
Sĩ quan như bạn đâu.
Hạnh chỉ cười, và Thụy thấy cặp lon Hạnh đeo sáng
lên.
-Mầy
làm việc ở Tổng Tham Mưu
?
-Không,
ở căn cứ Tân Sơn
Nhất.
-Không
quân.
-Đúng.
-Mẹ,
anh chọn đi lính cậu để
phè phỡn.
-Vậy
thôi, còn bạn chừng nào
lên Thiếu úy.
-Sáu
tháng nữa.
-Đơn vị
đóng ở đâu ?
-Pleiku.
-Quân
đoàn II.
-Đúng.
-Piston
của bạn cũng mạnh
lắm.
-Ông
anh tao làm Phòng 4 Quân
đoàn.
-Băng
của tướng Toàn.
-Sao
mày hay vậy ?
-Tao là
lính, nhưng dân nhà
báo.
Hạnh cười lớn, bàn tay nắm vai Thụy.
Xe rời bến lúc nào không hay. Hai đứa cùng ngừng câu
chuyện trông ra đường. Trên phố chính Trần Hưng Đạo xe còn chạy chậm,
để rồi
trong ý nghĩ riêng mình, mỗi hình ảnh người lính trở về phép là để ấp ủ
lấy một
vài bóng dáng người thân, sau đó là tâm trạng sắp sửa rời thành phố đi
đến nơi
xa. Nơi nào xa, người lính cũng nghĩ mình sẽ đối diện với chiến tranh.
Xe chạy nhanh khi ra khỏi thành phố. Thụy và Hạnh
trở lại
câu chuyện, và cũng có lúc ngừng, như thể phút giây ấy là sự ràng buộc,
mơ hồ
vừa thân thiết. Trên quốc lộ, gió thổi lướt qua cánh đồng tìm đến các
ngôi
làng, cảnh ruộng vườn, nhà ở, ánh đèn trong sự chuyển động xôn xao và
sẽ trở
nên bình yên khi trời sáng. Có tiếng súng nổ lẻ tẻ, và Thụy chợt trông
thấy vài
bóng dáng người băng qua núi.
Thụy hỏi Hạnh:
-Về
nghỉ phép được bao lâu ?
-Mười
ngày.
Thụy nhớ lại rõ những tháng năm của thời niên thiếu,
trong số bạn học, có Hạnh. Hạnh cũng đã đi lính, nhưng không thay đổi
nhiều,
vóc dáng vẫn nhỏ bé, giọng nói chậm rãi, thân tình.
Trời rạng sáng và có mưa. Xe buýt không vào phi
trường,
đậu ngoài đường lộ và chỉ có mình Thụy và Hạnh xuống xe. Khi hai người
lính đã
xuống, xe chạy tiếp. Trời mưa nhẹ hạt. Từ đường ngoài vào trạm tiếp
liên gần
200 mét, hai người lính bước đi nhanh. Vừa lo mưa nặng hạt, nhưng trong
mắt,
trong lòng anh nào cũng thấy vui, vừa thích làm dáng.
-Ở
Không quân, mầy cấp bậc gì
?
-Lính
trơn.
-Vậy
thôi .
-Ờ, yên
thân ở thành phố.
Nhưng rồi cũng đi học chuyên môn.
-Mầy
cũng phải xin học khóa
chuyên môn.
-Đang
chờ.
Hai người dừng lại ngoài mái hiên lấy khăn lau mặt.
Bên
trong, đã có một số hành khách chờ chuyến bay. Kim đồng hồ trên tường
mới 7 giờ
kém 10. Sau khi coi lại bảng phi trình, Thụy hỏi Hạnh:
-Mầy ăn
uống gì chưa ?
-Chưa.
-Còn
sớm, qua quán cà phê
ngồi.
Tự nhiên, Thụy cảm
thấy mình lớn hơn Hạnh, và trong tình bạn hai đứa rất muốn nói với nhau
một đôi
điều để có sự che chở. Thụy và Hạnh cùng ngồi xuống chiếc bàn ngoài.
Quán cũng
đông khách, có tiếng trò chuyện của lính tráng , nhưng không ai làm ồn.
Cà phê,
khói thuốc lan tỏa.
Hạnh kêu hủ tiếu và cà phê sữa. Thụy không ăn sáng,
chỉ
uống cà phê, và anh vẫn thích cà phê đen bỏ chút bơ hơn là dùng với sữa.
Năm học đó, hai bạn cùng đậu vào Đệâ Thất trường
Nguyễn
Hoàng. Mấy tháng đầu còn học ở trường nhà tranh gần bến Hộ, đến trước
Tết Nguyên
Đán chừng một tuần học sinh dọn về trường mới nằm ở sân vận động. Nơi
đây,
trường ốc, sân chơi rộng rãi, và học sinh có một ngày vui liên hoan tại
lớp với
các thầy cô trước khi được nghỉ mười ngày về ăn Tết với gia đình.
Đứa bé gái bưng chiếc khay ra đặt xuống bàn thấp. Tô
hủ
tiếu và ly cà phê sữa cho Hạnh. Ly cà phê của Thụy đen đậm, anh cầm
thìa
nhỏ lấy đường trong hủ cho thêm vào xong
khuấy nhẹ.
Thụy uống cà phê, nhìn Hạnh đang ăn. Ở ngoài sân,
những
đám bụi mưa bay trong gió sớm, mang cái vẻ buồn vắng rất nhẹ nhàng.
Bỗng Hạnh
hỏi:
-Mầy
lên Pleiku bao giờ chưa
?
-Chưa.
-Đó là
thành phố của lính.
-Đất
của Pleiku màu đỏ.
Thụy thấy người bạn ăn ngon. Trên
gương mặt còn thư sinh, hắn cũng là thứ
lính cậu, an nhàn như Thụy, hai đứa chẳng có gì hơn nhau ngoài cái lon
đeo trên
ve áo, nhưng với Hạnh tương lai có được
sự đợi chờ. Ngày ra quân trường đi đơn vị, Thụy may mắn được ở Sài Gòn,
đây là
thành phố anh dễ tìm kiếm thêm việc làm bằng nghề viết báo, vừa được
vui thích,
tự do.
Thụy cười nhìn bạn cũ, hỏi:
-Sao ?,
vợ con hay có bồ em
nào chưa ?
-Chưa,
nhưng mầy yên chí.
-Em,
Pleiku.
-Ờ, một
em làm cô giáo.
Hạnh tiếp tục ăn. Một lúc hắn hỏi:
-Có coi
phim The quiet
American không ?
-Có.
Thụy được coi phim này ở rạp Châu Tinh ngay trong
tuần
nghỉ phép đầu tiên. Hạnh lấy
trong túi
ba lô cuốn truyện bản tiếng Anh. Thụy cầm cuốn sách lật xem qua vài
trang, nói:
-Tao có
đọc rồi, đọc qua bản
dịch.
-Còn
phim, mấy thấy sao ?
-Xem
cũng được, không hay
bằng truyện.
Trong lúc Hạnh còn ăn, Thụy nhớ nghĩ đến Phượng.
Phượng
rất là thân thiết với tác giả, với Sài Gòn và có anh nữa. Anh yêu thích
nhân
vật Phượng. Anh thấy nàng đẹp khi xõa rộng mái tóc xuống vai áo. Và,
Saigon
thuở ấy, được gói ghém yêu thương trong lời đề tặng ở trang đầu của tác
giả.
Graham Green là một nhà văn người Anh, ông đã có thời gian sống lâu ở
Việt Nam
trong cuộc chiến tranh Pháp-Việt Minh. Nhà văn Jules Roy viết cuốn trận
Điện
Biên Phủ có nhắc đến tên ông. Và, trong cuốn sách ấy, hai người được
nói đến
nhiều nhất là tướng Navarre và tướng Võ nguyên Giáp.
Ăn xong, Hạnh cầm ly cà phê sữa đưa lên miệng uống.
Hắn
uống nhanh, cảm thấy thỏa mãn sau bữa ăn sáng no bụng. Tô hủ tiếu hắn
gọi là tô
lớn. Thụy hẳn còn ít cà phê chưa uống hết. Thụy uống chậm và đã đốt
liền mấy
điếu thuốc trong lúc Hạnh ăn , vừa chuyện trò. Hạnh nghe Thụy nói:
-Tao có
nhiều truyện dịch
hay.
-Mầy
nên tìm nguyên tác mà
đọc.
-Ngoại
ngữ tao không khá.
-Mầy cứ
đọc bừa, tự nó vỡ ra.
-Đọc
truyện Anh, Pháp phải có
nhiều ngữ vựng.
-Nhưng
chịu khó đọc, cứ đọc
đi, rồi nghĩa các câu chữ sẽ bật ra.
-Mầy
xong trên Đại học chưa ?
-Chưa,
mới được hai chứng
chỉ.
-Bên
nào.
-Văn
khoa. Tao cũng có được
một chứng chỉ bên Luật.
-Có
tính học tiếp không ?
-Có
chứ. Phải cố cho xong.
Chỉ hai mươi phút ngồi ở quán mà thời gian tưởng như
lâu.
Khi cả hai đứng lên, vừa lúc có một xe ca chở khách tới và ở văn phòng
trạm
tiếp liên thông báo giờ các chuyến bay cho hành khách. Hầu hết là lính
tráng đi
phép, đi công tác, có một số ít thường dân xin quá giang. Tự dưng, Thụy
và Hạnh
có cảm giác lạc lõng, vì sắp sửa chia tay. Có hai tuần phép, và đây là
kỳ nghỉ
phép đầu tiên từ ngày Thụy đi lính. Liên An nhỏ bé thân thương, nhìn
đôi mắt
An, anh nói với cô gái được một đôi điều về đời lính và hình ảnh người
lính
trong đời anh. Về Huế, thành phố này thật đầy ắp những kỷ niệm. Thụy có
hai
ngày ra Quảng Trị thăm làng quê bên nội. Thụy gặp vài người bạn cũ, bạn
anh
không bị đi lính, đang dạy học. Khu Morin là khu Đại học, ở khu này có
nhiều
quán cà phê đông nam nữ sinh viên tụ tập tạo nên không khí văn nghệ
thật đặc biệt
dành cho lớp trí thức trẻ. Và, mỗi buổi chiều cũng có khá đông lính
tráng đến, họ là lính thành phố và một
thời là sinh
viên. Thực ra, Thụy rất muốn vào Đà Nẵng để thăm gia đình Ninh Hà nhưng
chẳng
hiểu sao anh lại không mong mỏi chuyến đi. Và rồi anh nghĩ, khi trở lại
Sài Gòn
anh sẽ nhận được một hai lá thư của nàng. Hay là, anh đã cảm thấy vương
vấn
hình ảnh của Vân Oanh vì trong chuyện về
cô gái và anh Nguyên nghe Nhi kể thật là vui, dễ thương cho mình.
Bên kia con đường, người lính trông thấy cánh đồng,
phía
xa là ngôi làng và bóng núi. Sương mù làm mờ khuất, trời đang mưa nên
cảnh vật
trở nên hiu quạnh vắng vẻ, nhưng nó cũng đã tạo cho bạn có một vẻ đẹp
xa vắng
của nỗi buồn. Bỗng nghe có tiếng còi tàu vọng, một lúc sau, đoàn tàu
tới gần và
chạy ngang qua với tốc độ bình thường. Thụy nhìn đoàn tàu, chỉ thấy có
hai toa
hành khách. Những toa xe khác nối nhau nhưng cửa đóng kín.
Hai người lính chia nhau điếu thuốc, đốt que diêm
châm
lửa, và bắt tay nhau. Thụy đứng vào hàng đợi nhân viên của trạm hướng
dẫn ra
cổng. Có bốn chuyến bay sáng nay, mỗi chuyến cách nhau một giờ. Sau
chuyến đầu
Thụy đi Sài Gòn là tới chuyến Pleiku của
Hạnh.
-Đi
nghe Hạnh.
-Ờ,
mong gặp lại.
Hành khách di chuyển. Khi ra ngoài sân bay, họ cùng
nhìn
thấy một quang cảnh trống trải, hai chiếc phi cơ đậu hai nơi xa cách
nhau, và
cả đoàn đi theo viên Trung úy hướng dẫn đến chiếc C130 đang chuyển
hàng.
Hành khách dừng lại khi tới gần. Viên Trung úy gặp
trưởng
phi cơ trình danh sách, một nhóm trong phi hành đoàn đứng dưới cánh bay
lớn
đang hút thuốc trò chuyện. Viên Đại úy Trưởng phi cơ người tầm thước,
mặc đồ
bay lam, đội nón lưỡi trai có gắn phù hiệu phi đoàn và ba bông mai.
Sự tình cờ làm
Thụy chú ý nhìn lên phía trước khi thấy bóng một cô
gái xuất hiện với
chiếc áo dài trắng. Anh thấy mái tóc dài của cô phủ trên lưng áo. Cô có
mái tóc
đẹp, nhưng anh chưa trông thấy rõ khuôn mặt cô. Huế-Sàigòn xa cách gần
hai giờ
bay, và anh nghĩ, cô gái đang học ở Sài Gòn, những ngày tháng qua của
mùa hè cô
về thăm gia đình. Ngày về phép của những người lính như anh thì ngắn,
còn cô
gái, những ngày nghỉ được sống với gia đình lâu hơn, luôn luôn được
nghe tiếng
nói là nguồn vui của hạnh phúc. Nhưng chắc gì sang năm, khi mùa hè tới,
cô sẽ
rời xa Sài Gòn để về Huế. Thụy chợt vui, nghĩ rằng, mỗi cô gái thường
chọn các
thành phố thích hợp với thời tiết trong tâm hồn mình. Và riêng anh,
cũng có lúc
thầm nghĩ cuộc đời như một bài hát.
Hành khách bước lên phi cơ sau khi hàng hóa quân nhu
chuyển xong hết. Không đợi lâu, đèn trong phi cơ bật sáng và rồi tiếng
động cơ
nổ. Thụy bắt đầu đếm từng khoảnh khắc thời gian khi phi cơ lăn bánh. Tới đầu phi đạo định hướng, phi cơ dừng,
trong một phút chờ đợi , phi công liên lạc với đài kiểm soát không lưu.
Khi
động cơ rùng lên, thân phi cơ rung chuyển , rồi với vận tốc cất cánh
phi cơ lao
đi bay lên bầu trời.
Sau hơn một tiếng mười lăm phút vượt không gian,
chuyến
bay đưa hành khách tới Sài Gòn. Ngồi bên cửa nhìn xuống
lúc phi cơ hạ thấp cao độ chuẩn bị đáp, dần
dần qua bóng những đám mây tản mác, Thụy nhớ lại những bóng hình ngọn
núi,
sương mù, biển và con đèo Hải Vân bên dưới đôi cánh phi cơ. Và, đó cũng
là lúc,
anh chợt nghĩ đến Vân Oanh, ước mong gặp nàng. Anh cũng không hiểu sao,
với kỳ
phép rộng thời gian mà anh không có được ít ngày vào Đà Nẵng thăm gia
đình Ninh
Hà, để lúc ấy, được gần gũi và nói với nàng những lời yêu thương.
III
Trung úy Nguyên cùng đội dân sự vụ
và y tế đi Phò Trạch. Ở đó một tuần, đoàn làm
công tác khám bệnh, đào giếng, gặt lúa và lợp nhà cho dân. Khi trở lại
đơn vị
Trung đoàn, cả toán được nghỉ xả hơi ít ngày. Nguyên về thăm nhà , tắm
rửa xong
anh vội vàng thay quần áo đón xe đò vào Đà Nẵng.
Tới thành phố giữa buổi chiều, nắng hè đã dịu bớt.
Vân
Oanh có mặt ở nhà lúc Nguyên tới, nàng
hết sức ngạc nhiên nhưng lòng cũng thấy vui khi gặp chàng. Hai người
nhìn nhau
có chút ngại ngùng, vừa cảm thông.
Căn nhà Vân Oanh nằm ở khu phố chính trông ra hai
con
đường Hùng Vương và Triệu Nữ Vương. Những lần trước, Nguyên được cô gái
cho
phép chàng theo chuyến xe khách từ Huế vào Đà Nẵng khi cô về thăm nhà,
và họ
ngồi chuyện trò ở quán nước một giờ khá lâu trước khi chia tay. Có một
đôi lần,
qua nhắn tin, hai người gặp nhau ở nhà người bạn thân. Luôn luôn, cô
gái rất
giữ gìn ý tứ.
Và, đây là lần đầu tiên vì quá nhớ nhung, Nguyên
liều
lĩnh tìm đến nhà Oanh. Với tình yêu, cô gái rất hiểu. Hai người ngồi ở
bàn
khách nhà dưới chuyện trò, giọng nhỏ nhẹ, thân tình. Nguyên nhìn mái
tóc, gương
mặt, và nghe tiếng Vân Oanh nói, anh có cảm giác như thời gian là cánh
cửa thấp
thoáng những hình bóng của anh.
Sau những phút giây băn khoăn, Nguyên mời Oanh đi
chơi
phố. Không chỉ tiếng nói nhỏ, mà trên gương mặt Nguyên lộ ra hết vẻ bỡ
ngỡ
khiến Oanh không giấu được nụ cười trong cặp mắt nhìn lại anh. Một lúc
sau cô
đứng dậy, để Nguyên lại một mình. Nguyên thật lo lắng khi nghe tiếng
Oanh nói
chuyện với bà mẹ. Cũng khá lâu, Oanh mới trở
ra ngoài và bảo Nguyên ngồi chờ.
Chỉ nửa tiếng, Oanh thay quần áo xong . Phố đông vui
ngày
cuối tuần, ra khỏi nhà một quãng xa nàng mới để cho Nguyên nắm tay
mình. Bên
nhau, hai người dạo bước, giọng nói Oanh rất hồn nhiên và tự tin. Trên
đường
đi, Nguyên kể cho người yêu về mấy ngày đi công tác vừa qua, và anh tả
lại ngôi
làng Phượng Liễu bằng những nét phác họa
sống động như làm một bài luận văn.
Bên kia đồi cát là ranh giới hai tỉnh. Hải Lăng là
một
quận lỵ ở gần ngay đó, từ quận về quê nội của Nguyên khoảng mười cây
số. Quê
nội anh ở gần biển và trước khi đến biển con đường xuyên qua một khu
nghĩa địa
là những đồi cát trắng trải dài trông hình dáng như đàn voi. Biển rất
vắng, rất xanh, tràn
ngập bầy chim bay rộng cả một vùng trời.
Tiệm giải khát đối diện với rạp hát. Hai người ngồi
dưới
mái dù che gần mái hiên. Bên ngoài rạp hát, lảng vảng một hai bóng
người còn đứng
xem những tấm biển quảng cáo chiếu phim kỳ tới. Lúc này, trong rạp phim
đang
chiếu, chừng bốn lăm phút nữa mới vãn xuất.
Nguyên ngoắc tay gọi đứa gái nhỏ đến gần.
-Cà phê
đá.
-Nước
cam tươi.
Đứa bé gái bỏ đi ngay vào quầy. Nguyên lặng nhìn
Oanh với
một nụ cười trong đôi mắt. Nàng cũng rất yêu đôi mắt đẹp của Nguyên.
Nàng rất
thích cái dáng trẻ thơ của anh, và những câu chuyện anh kể về đời lính.
Những
cô gái trước đây Nguyên quen, anh cũng kể ra cho nàng biết, có những
chuyện vui
ngộ nghĩnh làm nàng bật cười. Và, sau này, anh tỏ lòng tha thiết nói
lời tâm
sự, giờ đây chỉ có nàng là hơn hết.
Nguyên uống cà phê, nhưng không hút thuốc. Anh không
biết
hút thuốc lá, nhưng cà phê thì phải có. Những năm ở Sài Gòn làm báo,
mỗi buổi
sáng, Nguyên thường viết bài ở quán cà phê ngay trước mặt tòa soạn. Anh
viết
nhanh, và cà phê là chất xúc tác gợi nhiều cảm hứng cho anh viết.
Thỉnh thoảng mắt Nguyên lơ đãng nhìn ra đường ngắm
phố và
chú ý những người đi qua lại.
Vân Oanh uống từng ngụm nước, trên cặp môi mỏng ướt
của
nàng đẹp như cánh hoa. Nàng rất vui tính, những ngày qua về nghỉ hè
nàng cũng
biết mình nhớ Nguyên rất nhiều. Nhưng với tâm hồn thiếu nữ, nàng có sự
ấp ủ,
vừa e thẹn để giữ gìn nỗi nhớ nhung luôn thật dịu mềm như là một thứ tơ
lụa.
-Oanh định hôm nào ra Huế ?
-Ngày
mốt.
-Anh ở
đây chờ Oanh ra luôn.
-Anh
không sợ bị phạt à ?
Nguyên cười bảo:
-Có
Oanh , anh chẳng sợ ai
cả.
Nàng cười. Anh tiếp lời:
-Anh
được nghỉ phép ít ngày
sau chuyến công tác.
-Tối
nay, anh ở đâu ?
-Ở nhà
người bạn.
Ánh mắt nàng nhìn qua người yêu có vẻ bối rối, vừa
ngại
ngùng. Nhưng rồi, lấy một giọng bình thản, Oanh nói.
-Về nhà
em mà nghỉ.
-Má có
la không ?
-Em sẽ
xin phép cho anh.
-Cám ơn
em.
-Cám ơn
suông thôi sao ?
-Anh
bao em một vé ciné được
không ?
-Quá
đúng ý em.
Nguyên nắm tay người yêu. Bàn tay cô gái rất mềm
mại, nhan sắc nàng cũng tỏa ra hương
thơm làm anh thật sung sướng với tình yêu mình đang có.
-Em có
vẽ tranh không ?
-Có, em
vẽ được khá nhiều.
Trong khoảnh khắc này đã làm Nguyên nghĩ nhiều đến
cô
gái. Anh nghĩ về cô trong năm học tới. Anh nghĩ tới những màu sắc cô
yêu thích,
những khung vải hình thành bức tranh cô đã vẽ. Cô gái yêu thích hội họa
và tài
năng của cô sẽ phát triển. Cô là một họa sĩ lãng mạn có tâm hồn thật
phong phú,
rồi đây những bức tranh sáng tác sẽ làm cô nổi tiếng.
Hai người nhìn nhau trong sự
yên lặng của niềm cảm thông. Trên bàn, ly
nước cam và ly cà phê đã vơi một nửa. Trong màu vàng của ly nước cam,
ánh lên
âm thanh hay đó là bao nhiêu tiếng nói cô gái đã ghi nhận được từ những
tấm ảnh
của cô sắp xếp trong cuốn album. Cô gái có một cuốn album nhỏ, trong
cuốn này,
những tấm ảnh của cô được sắp xếp theo thứ tự thời gian.
Mỗi lúc, trên đường phố ngang qua rạp hát người đi
và xe
cộ qua lại rất đông. Mùa hạ sắp hết nhưng trời còn nóng. Và khi nghe
gió rung
động những cây lá, bạn sẽ có cảm giác ánh nắng cũng bị gió cuốn trôi,
bập bềnh,
lan rộng ra tới bờ sông. Thành phố nằm bên con sông. Con sông chảy qua
bến Cảng
rồi theo dòng chính trôi giạt tới biển. Miền Trung đất hẹp rất dài dựa
lưng núi
Trường Sơn và hướng ra biển Đông. Thành phố này cách xa biển 6 cây số.
Có nhiều
bãi biển rất đẹp. Ở thành phố này có phi trường lớn, ngoài quân đội
Việt Nam
Cộng Hòa còn có những đơn vị Đồng Minh Mỹ, Đại Hàn, Tân Tây Lan, Úc.
Và, về đêm
trong thành phố không khí chiến tranh vẫn có lúc đe dọa.
Hai người chuyện trò với nhau cho đến lúc bên kia
rạp hát
đèn sáng lên ở ngoài và xuất hát vừa vãn. Từ cửa chính, khán giả ra
đông còn
vọng tiếng ồn ào từ những câu chuyện về cuốn phim.
Nàng cười nhìn chàng, nói:
-Anh
phải giữ lời hứa với em.
Chàng gật đầu, lúc ấy mắt nàng nhìn chàng một cách
trìu
mến. Chàng còn dáng vẻ thanh tú của một sinh viên. Chàng có đôi mắt
đẹp. Nàng
cũng rất thích cái dáng điệu ngập ngừng của chàng khi nhìn nàng và muốn
nói một
câu tỏ tình. Từ buổi đầu gặp, hai người
rất ăn ý với nhau.
Năm ngoái, nàng trông thấy chàng ở một quán cà phê.
Tối
hôm đó có buổi trình diễn nhạc của một nhóm sinh viên. Trong đám đông
người
trẻ nổi bật một chàng trai mặc đồ lính,
dáng vẻ linh động, anh ta đang chuyện trò với các sinh viên thuộc thế
hệ cùng
lứa ngày xưa. Anh chàng này ham vui chuyện mà không trông thấy cô gái
để ý đến
mình. Buổi ca nhạc nhiều tiết mục thật sôi động, vui nhộn, hào hứng với
nhiều
người thay nhau lên bục sân khấu. Có những bản nhạc, mọi người cùng vỗ
tay và
hát. Trong một lúc bất chợt quay hướng nhìn, chàng trông thấy nàng.
Thực sự đó
lá phút kỳ diệu, nhớ đời. Chàng đã cảm ngay hình ảnh cô gái ngồi ở phía
bên bên
kia với gương mặt dịu hiền và mái tóc xõa rộng thật là quyến rũ. Nhưng
chàng
không dám nhìn lâu, sau ít giây trầm lắng, thiết tha với nàng, chàng
quay trở
lại nói chuyện với người bạn bên cạnh.
Mười hai giờ đêm chương trình nhạc kết thúc, quán cà
phê
đóng cửa. Khi về đến nhà, cả hai người bỗng hết sức ngạc nhiên gặp nhau
ở lối
cổng vào. Và, người nào cũng thấy vui, có sự thân tình ngay lúc đó như thể đã quen từ trước.
-Cô ở
đây mà tôi không hề
hay.
-Em mới
dọn đến tuần trước.
-Vậy à.
Nhưng trước đây,
thì ở đâu ?
-Em ở
trong thành nội.
-Tôi ở
đơn vị ít khi về nhà .
-Em
cũng không thấy anh từ
hôm dọn đến bây giờ.
Nguyên nhìn cô gái với đôi mắt thiện cảm, nghĩ cô
như là
em gái của mình. Cô gái nói:
-Lúc
nãy trong buổi nghe
nhạc, chỉ có mình anh mặc đồ lính.
-Lạ quá
phải không ?
-Ờ,
cũng thấy lạ.
Hai người dừng lại bên cổng, ngập ngừng, nửa muốn
chia
tay về nhà, nửa muốn chuyện vui. Trăng sáng bất ngờ. Bên lối cổng vào
là con
đường đi ra bờ sông. Khi trăng dậy sáng, quang cảnh khu phố ánh lên một
màu
vàng tuyệt đẹp. Từ chỗ hai người đứng, họ trông thấy chiếc cầu, và cũng
trông thấy
mặt nước trên dòng sông, tự dưng mỗi người nghe lòng mình có một cảm
giác nôn
nao kỳ lạ. Nguyên nhìn thấy cô gái đẹp lạ lùng. Và, lúc ấy, cô gái cũng
thật là
bối rối, vì quá lo sợ lời tỏ tình của chàng sẽ nói với mình. Thế nhưng,
nàng cứ
chôn chân một chỗ, không thể dời bước nổi.
-Em cho
anh biết tên được
không ?
Nàng đáp:
-Em tên
Oanh.
-Anh
tên là Nguyên.
Họ vẫn còn bên nhau, và lúc này, cùng nghe thấy rõ
tiếng
nước dòng sông chảy.
-Trăng
sáng đẹp quá, phải
không Oanh?
Một giọng vui, Oanh nói đùa:
-Vâng,
nó cũng đẹp như anh
đang mơ mộng.
-Tên em
cũng có vầng trăng.
-Có
phải anh liên tưởng đến
một câu trong Kiều.
-Em nói
đúng.
Với nụ cười vừa dịu sáng trên đôi mắt đẹp, bao nhiêu
ý
tưởng trong đầu chàng, nàng biết hết.
Rồi một giọng thân tình, nàng hỏi:
-Anh ít
khi về nhà lắm phải
không ?
-Anh
thường ở trên đơn vị.
-Sao
anh ít về nhà ?
-Anh sẽ
về, đểâ luôn được gặp
em. Em đang học ngành nào ?
-Em học
trường Mỹ Thuật.
-Hay
quá. Hôm nào cho anh xem
những bức tranh em vẽ.
-Em mới
học năm thứ nhất.
-Anh có
nhiều người bạn dạy
bên đó.
-Chắc
là thân với anh.
-Những
năm anh chưa đi lính,
những bạn ấy học chung với anh ở trường Văn Khoa.
-Anh
học xong rồi.
-Chưa.
Anh học dang dở, rồi
đi lính.
Giọng Nguyên nói nghe khô khan. Cô gái nhìn anh,
nàng
hiểu được lời thành thực của anh khi nói ra điều ấy với nàng. Với sự
cảm thông
ấy, cả hai người dời gót lúc nào không hay. Bên nhau, cùng đôi mắt và ý
nghĩ về
cuộc đời, họ theo con đường hướng đến bờ sông.
Trên chiếc cầu, độc nhất có một bóng người đi xe đạp.
-Em
không có gia đình ngoài
này ?
-Gia
đình em ở Đà nẵng.
Trên bờ sông đầy cỏ , những hàng cây trồng rất đều ở
bên
này cũng như bên kia. Ở cạnh lối đi xuống bến nước có băng ghế đá, hai
người
ngồi xuống. Đêm bắt đầu trôi giạt khi sương mù giăng trên sông.
-Em
thấy lạnh không ?
-Lạnh.
-Ngồi
đây một chút rồi mình
về.
-Tùy
anh.
Khi Nguyên rời ghế đứng dậy đi tới quầy trả tiền
nước,
Oanh ngồi một mình, nàng vừa nhớ lại cuộc gặp gỡ đầu tiên của hai người
cách
đây hơn một năm.
Trên bàn, chàng để lại tiền lẻ cho người phục vụ
nước
uống. Hai người đi bộ tới ngã tư, họ dừng chờ đèn dành cho bộ hành. Rồi
tay nắm
tay, cả hai băng qua đường cùng với nhiều người khác. Từ ngã tư, họ đi
ngược
trở lại đến rạp hát đối diện với quán nước. Bỗng dưng cô gái hỏi:
-Người
em của anh đang ở đâu
?
-Ở Sài
Gòn. Nó vừa trở về
phép thăm nhà, giờ đi lại rồi.
-Em anh
cũng đi lính.
-Ờ, nó
đi lính thường thôi,
không phải Sĩ quan.
-Sao
không phải là Sĩ quan ?
-Nó học
hành dang dở, không
được hoãn dịch đành đi lính. Tuy nhiên, hắn có được bằng Tú Tài bán,
hai năm
nay, hắn thi toàn phần, keo nào cũng trượt.
-Người
nào học hành dang dở
cũng đều thất bại.
-Trên
nguyên tắc là như vậy.
-Người
em đi lính gì ?
-Không
quân.
-Chà,
đó là lính hào hoa.
-Văn vẻ
vậy thôi, nó cũng
rách lắm.
-Ít có
tiền tiêu xài.
-Đúng
vậy.
-Có
viết văn nữa, phải không
?
-Ờ, nó
đang tập tễnh viết
văn. Cũng có năng khiếu, triển vọng.
-Em có
đọc một truyện ngắn.
-Em
thấy nó viết được không ?
-Cũng
được. Lãng mạn, có
triển vọng như anh nhận xét. Lấy bút hiệu Thiên Lan là sao? Chắc là quen cô nào đó.
-Ờ, nó
được quen cô nào là
đưa người đó vào truyện.
-Bao
nhiêu phần sự thực ?
-Anh
chịu.
-Còn
anh, đến bao giờ sẽ viết
về em ?
-Đã hẳn
rồi, một ngày sắp
tới.
-Anh
phải nhớ đưa em đọc.
Với sự dừng bước nhẹ nhàng, chàng gởi vào đôi mắt
nàng
cái nhìn thật trìu mến. Chàng yêu nàng, hạnh phúc trong tình yêu dành
hết cho
người em gái .
Rồi, nàng đi theo chàng. Nàng có ý tưởng, từ nay,
chàng
là điểm tựa của nàng. Tới rạp hát đông người, nàng đợi chàng mua vé.
Nàng nhìn
lên đồng hồ trước rạp ước tính thời gian cho buổi đi chơi bên nhau. Khi
thấy
chàng từ quầy vé trở ra, nàng rất vui
với nụ cười trên đôi mắt.
Khán giả đi vào cửa chính. Đây là rạp hát lớn nhất
của
thành phố rất lịch sự, sạch sẽ. Những hàng ghế trống trước mặt lần lần
có khán
giả vào lấp chỗ, hai người ngồi ở hàng ghế xa bên dưới mái hiên của
tầng lầu
trên.
Đèn trong rạp hát sáng, một bản nhạc dạo nghe êm ái,
thân
tình. Bàn tay nàng trong tay chàng, những ngón tay đan vào nhau, ấm áp
như bao
giờ cũng có mùa đông và những sợi len đan cho cuộc đời.
-Anh ở
đơn vị lúc này ra sao
?
-Anh đi
công tác luôn. Đôi
khi, sau chuyến công tác phải viết bài phóng sự gởi báo Tiền Tuyến ở
Sài Gòn.
-Ở đây,
mình cũng làm việc
cho báo Sài Gòn.
-Việc
này anh làm thêm, khi
đăng bài, tòa báo trả tiền nhuận bút.
-Em rất
hãnh diện về anh.
-Còn em
của anh là một cô họa
sĩ trẻ đẹp.
-Em sẽ
vẽ bức chân dung tặng
anh.
Bỗng nhiên, tiếng nhạc ngừng, rạp hát lắng im vừa
đúng
lúc đèn tắt. Trong bóng tối, chàng thấy từ gương mặt nàng ánh sáng tỏa
rất dịu
hiền. Nhìn gương mặt nàng, một giọng thầm, chàng nói:
-Em đẹp
quá.
Chàng nghiêng mình qua,
trải rộng cánh tay lên thành ghế và chàng thấy hạnh
phúc vô cùng khi
nàng ngả xuống cả mái tóc mềm dịu rồi tựa đầu lên cánh tay chàng. Chàng
hôn
xuống vầng trán, xuống bên đôi má hồng của nàng, rồi hai người im hơi,
dấu yêu
với từng nụ hôn ngọt ngào trên cặp môi mềm ướt, thơm tho. Khi chàng
hôn, đôi
mắt nàng khép lại, run rẩy, và nàng thấy lại hình ảnh nhỏ bé thời thơ
ấu, nàng
cũng nhớ đến cô em gái có gương mặt thiên thần, và luôn luôn những bóng
dáng ấy
hiện về trong trí tưởng khi nàng nghĩ đến ngày mai đây của đời mình.
-Em và
anh, chúng ta có nhau.
-Em yêu
anh, nàng nói.
-Cám ơn
em.
Hai cánh tay nhẹ nhàng buông. Hai người đã qua phút
mê
đắm, giờ họ trở lại với cuốn phim dạo đang chiếu trên màn ảnh. Một lúc
khá lâu,
phim chính bắt đầu.
Khi trên màn bạc hiện ra một quang cảnh những đoàn
quân
đang di chuyển Nguyên bỗng nhớ ngay đến những giòng đầu tiên ở cuốn
tiểu thuyết
mình đã đọc và liên tưởng đến một miền đất nước Ý trong thời kỳ chiến
tranh.
Đây là cuốn phim dựa vào tác phẩm cùng tên L’adieu aux armes của nhà
văn nổi
tiếng Mỹ đoạt giải văn chương Nobel, Ernest Hemingway.
Bỗng nghe tiếng khán giả, và tiếng cô gái nữa cũng kêu lên:
-Trời ,
cô ta dữ không.
Rồi cô gái nắm giữ chặt cánh tay chàng. Cảnh trên
phim
vừa diễn ra là cái tát mạnh của cô gái vào mặt chàng trai khi anh chàng
cố ý
liều lĩnh ôm hôn cô. Rồi cô ta xin lỗi, và hai người trở lại với câu
chuyện
lòng của mình. Sau đó, cô để cho chàng ôm siết lấy và hôn mình.
Khi xem phim, Nguyên luôn gợi nhớ từng đoạn văn mình
đã
đọc, và khung cảnh chiến tranh đã cho anh nghĩ nhiều đến số phận những
người
lính. Bên cạnh anh , người yêu cũng cuốn hút say mê xem phim. Jennifer
Jones nữ
tài tử nổi tiếng trong vai cô y tá Cathérine , Rock Hudson nam diễn
viên, đóng
vai chàng Trung úy Henry. Henry là người Mỹ phuc vụ trong đội cứu
thương bên
quân Ý.
Một ngày hôm đó, đơn vị anh đóng quân bị địch tấn
công
bằng trọng pháo, và anh bị thương. Từ mặt trận, Henry được đưa về bệnh
viện, ở
đây anh gặp lại người mình yêu . Và, từ
đó mối tình nẩy nở.
..Nghe
mưa kìa.
-Mưa
đang nặng hạt.
-Và anh
sẽ luôn yêu em phải
không ?
-Sẽ
luôn luôn yêu.
-Và mưa
cũng sẽ chẳng gây nên
điều gì khác biệt ?
-Chẳng
làm khác biệt.
-Dễ
chịu quá. Bởi em sợ mưa.
-Sao
vậy ?.....
-Em
không biết, anh yêu.
Nhưng em luôn sợ mưa.
-Anh
thích mưa.
-Em
thích đi dầm mưa. Nhưng
chẳng thể nào yêu được.
-Còn
anh thì luôn yêu em.
-Em sẽ
yêu anh trong mưa,
trong tuyết, trong cả mưa đá và.. có còn loại gì khác nữa ?
-Anh
không biết. Anh thấy
buồn ngủ quá.
-Ngủ
đi, anh yêu và dẫu thế
nào đi nữa thì em cũng mãi yêu anh.
-Em
chẳng sợ mưa lắm phải
không ?
-Chỉ
trừ lúc được ở bên anh.
-Sao em
lại sợ mưa ?
-Em
không biết.
-Nói đi.
-Đừng
buộc em.
-Nói
cho anh biết đi.
-Không
mà.
-Hãy
nói đi.
-Thôi
được. Em sợ mưa bởi đôi
lúc em thấy mình chết trong mưa.
-Em
chẳng chết đâu.
-Và
thỉnh thoảng, em cũng
thấy anh chết trong mưa.
Vân Oanh bỗng thốt lên sung sướng, cảm kích với đoạn
đối
thoại rất hay sau khi lắng nghe, vừa đọc hết dòng phụ đề Việt ngữ. Và
cũng mang
tâm trạng lo âu như cô gái trong cuốn phim, nàng nắm giữ chặt lấy cánh
tay của
chàng.
Sau thời gian dưỡng bệnh, Henry trở lại chiến
trường. Anh
trở lại vào mùa thu năm sau đó. Trên đường đi, anh nhìn thấy quang cảnh
những
hàng cây trơ trụi lá và đường sá đầy bùn lầy. Từ Udine,
anh đến Gorizia trên một chiếc xe nhà
binh, xuống đây, anh tìm đến chỗ đóng quân của đơn vị cũ. Không khí
chiến tranh
nay hoàn toàn thay đổi. Vào giai đoạn này, quân đội Ý bị nguy khốn và
quân Áo
đang thắng thế đã chiếm được nhiều ngọn đồi, nhiều ngọn núi và một số
điểm
chiến lược trọng yếu trên toàn mặt trận. Người ta bắt đầu thấy chán
ghét chiến
tranh. Rồi đến lúc, nhiều đơn vị của quân Ý phải di tản. Một cuộc rút
quân diễn
ra dưới cảnh trời mưa tầm tã. Henry cũng có mặt cùng với đồng đội là
những
người lính cứu thương trong đoàn quân triệt thoái. Nhưng khi vượt vòng
kiểm
soát của địch quân Áo đến vùng do quân Ý canh gác, Henry lại bị bắt giữ
cùng
với nhiều Sĩ quan khác. Những viên Sĩ quan này bị kết tội đầu hàng làm
nhục
nước Ý. Rất nhanh trí, thừa cơ lúc lộn xộn với
quân số đông, Henry đào thoát lao ra bờ sông, sau
đó, anh leo lên trốn ở
mái toa của đoàn xe lửa, và nhảy xuống trước khi tàu tiến vào ga Milan.
Đối với Henry, anh đào thoát và coi như cuộc chiến
tranh
không còn nghĩa lý gì nữa với anh. Sau những gian nan, bất ngờ, Henry
tìm gặp
lại được yêu của mình. Do có lệnh truy nã vì tội đào ngũ, một lần nữa
Henry
phải trốn khỏi đất Ý. Lần này, anh cùng
với người yêu ra đi, trong đêm tối trên
một chiếc thuyền hai người cố sức chèo vượt sóng nước trên hồ, mưa tầm
tã suốt
đêm, nhưng rồi họ cũng đến được đất Thụy Sĩ. Nơi mảnh đất này là chốn
yên bình,
họ được sống bên nhau những tháng ngày rất hạnh phúc.
Rồi Cathérine báo tin cho Henry biết, nàng có thai.
Nhưng
đến ngày hạnh phúc ấy, trong khi sinh nở khó, Cathérine kiệt sức do bị
băng
huyết, và cái chết của nàng như đã có trước sự ám ảnh: nàng chết dưới
cơn mưa.
Cuốn phim dài đúng hai tiếng đồng hồ, rất hay và xúc
động. Khi đèn sáng, khán giả trong rạp cùng đứng lên và nối theo hàng
trên các
lối đi ra cửa chính.
Bên ngoài, màn đêm vừa buông xuống phủ dài trên
đường phố
nhộn nhịp. Rạp hát vẫn còn chiếu một
xuất cuối nữa.
Nguyên hỏi cô gái:
-Em
nghĩ là mình nên ăn ở đâu
?
-Về nhà
em.
Anh chiều ý nàng, tay nắm tay, hai người đi bộ và
rất thú
vị khi trở lại với cuốn phim vừa xem. Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng được
dựng
thành phim Nguyên đã đọc, lúc này, anh phân tích cho cô gái nghe những
nét,
những chi tiết gây được ấn tượng trong tác phẩm. Và, qua đề tài mưa,
mưa trong
tình yêu, mưa trong một cuộc chiến, mưa trong hạnh phúc tìm đến một nơi
chốn
riêng biệt thanh bình, với giọng nói của một tâm hồn trung thực, anh
làm cho cô
gái lắng im trong dòng tư tưởng.
Rồi anh hỏi nàng:
-Em
thích mưa không ?
-Rất
thích, nhưng em cũng sợ
mình chết trong mưa.
-Không
đâu, chúng mình sẽ
được yêu nhau trong mưa.
-Đó là
tiểu thuyết mà anh.
-Không
hẳn đâu. Ngoài đời,
biết bao nhiêu đôi tình nhân đi dưới mưa. Mưa cũng là cảnh của nghệ
thuật, mưa
với dòng nhạc, với tiếng đàn, và mưa trong tiếng nói nữa.
-Em rất
muốn vẽ một bức tranh
mưa .
-Hay
lắm. Em nên vẽ, hãy nói
cho anh biết ý nghĩa.
Vân Oanh nhớ lại buổi sáng ấy của ngày nhập học trời
mưa
lớn, vừa lúc cô đến cửa lớp thì chiếc guốc cô mang bị đứt. Và, lúc cô
cầm chiếc
guốc trên tay, nửa muốn cười, nửa như đang khóc, cảnh tượng lạ lùng đó
đã làm
cô ghi nhớ một hình ảnh thiếu nữ, và luôn luôn cô tự nhủ hãy đợi một
ngày hoàn
thành nên bức tranh.
-Hãy vẽ
bức tranh quí giá đó.
Em sẽ thấy mình đẹp, vẻ đẹp chính là cái bóng của em trong cuộc đời.
Cô gái chợt hỏi:
-Anh có
ý tưởng trời đang mưa
không ?
-Em
thật lãng mạn. Em đang
nghĩ đến mưa, phải không ?
-Hãy
cùng em nhớ cảnh mưa
trong phim.
Và rồi, chắp nối từng lời, hai người cùng ghi lại
đoạn
đối thoại rất hay, rất đầy ý nghĩa.
Vân Oanh bỗng nói:
-Em
phải tìm đọc cuốn này.
-Anh sẽ
tìm cho em.
-Nhưng
có bản dịch tiếng Việt
không ?
-Có.
-Em đọc
được tiếng Việt thôi,
tiếng Pháp, tiếng Anh em còn yếu.
-Em nên
học thêm.
-Anh
dạy em đi.
-Em sẽ
học với anh lúc anh có
thì giờ rảnh.
-Trước
khi đi lính, anh có
dạy học không ?
-Thời
sinh viên, anh có dạy
lớp đêm trong tổ chức của Tổng hội.
Về đến nhà, thay áo quần áo nhẹ xong Oanh đi đến
phòng
người mẹ. Bà mẹ hiểu được lòng cô con gái, và bảo cô chu đáo dọn chỗ
nghỉ cho
Nguyên ở căn phòng dành cho khách. Oanh thấy trong lòng vui, nàng xuống
bếp làm
bữa ăn tối. Bữa ăn chỉ cho hai người thôi. Rất đơn giản, mỗi người một
tô mì
lớn đặt trên chiếc khay. Vừa ăn, chuyện trò, lúc này cô gái kể cho
Nguyên chuyện về gia đình, về người cha,
người mẹ,
và các cô em gái. Cô không có anh hay em trai, và cô tâm sự, đó là một
tình cảm
dường như làm cô thấy thiếu vắng.
Nguyên nói:
-Hãy
nghĩ là có anh trong đó.
Cô gái gật đầu, và nói:
-Em
cũng rất mong, đôi khi,
em tìm được anh qua những ý nghĩ về gia đình. Em rất cần có một người
anh.
-Còn
một người em thì sao ?
-Cũng
được, nhưng em thích có
anh hơn.
Một lúc ngập ngừng, Nguyên nói:
-Năm
sau, nó được về phép,
anh sẽ đưa nó tới thăm em.
-Người
em có giống anh không
?
-Nó
giống mẹ anh nhiều hơn.
Bề ngoài với khuôn mặt khô, cứng cỏi, nhưng đời sống nội tâm của nó rất
là sâu
lắng, đam mê. Nó thích viết văn, đang muốn mình có sự nghiệp.
-Anh
thì sao ?
-Anh
chỉ theo nghề báo, về
sau này, hết chiến tranh anh cũng sẽ làm báo.
-Anh
không thích dạy học.
-Không.
Những năm ở Sài Gòn,
anh sống bằng nghề viết báo.
-Từ Huế ra quê anh xa không ?
-Bằng
nửa đường Huế- Đà Nẵng.
Bữa ăn xong. Vừa đứng lên dọn dep, cô gái nói.
-Lúc
nào có dịp, anh đưa em
ra ngoài đó thăm.
-Cám ơn
em.
IV
Bên cạnh lối cầu thang có một căn phòng dành cho
khách.
Khi mở cánh cửa đi vào, Oanh bật sáng thêm một ngọn đèn nữa, xong nàng
sửa soạn
chăn màn cho Nguyên nằm nghỉ. Rồi trước khi rời phòng, nàng đứng lại
giây lát
để cho Nguyên đặt môi hôn lên trán nàng.
-Chúc
em ngủ ngon.
-Anh
ngủ ngon.
Nguyên nghe bước chân của Oanh đi trở xuống cầu
thang,
rồi xa dần. Nguyên có cảm giác thật dễ chịu, êm ái khi lên giường nằm,
và trong
cảm giác ấy anh nhận ra Oanh còn bên anh.
Bỗng nhiên Mỵ Châu ngước mắt khi nhìn thấy người chị
xuất
hiện.
-Em
chưa ngủ ?
Cô bé mỉm cười. Cô bé có gương mặt của thiên thần,
đôi
mắt đen mở to đẹp lạ thường.
Oanh kéo chiếc ghế ngồi xuống bên cạnh em. Và nàng
cầm
lấy cuốn sách, lật xem qua vài trang.
Giọng cô em gái hỏi:
-Nhà
mình có khách ?
-Anh
Nguyên, bạn của chị.
-Học
cùng trường ?
-Không,
anh ở trong quân đội.
Trước đây là sinh viên.
Hai chị em lặng yên nhìn nhau. Không nói gì thêm cho
đến
lúc nghe chuông đồng hồ thong thả đánh lên từng tiếng nhạc trước khi
báo giờ.
-Em
nghỉ đi.
-Dạ.
Chỉ để lại ánh sáng ngọn đèn nhỏ trong phòng, hai
ngọn
đèn lớn đều tắt. Khi trở ra, Oanh cũng tắt đèn cầu thang rồi lặng bước
về phòng
mình nằm nghỉ.
Nắng sớm dâng lên lan tỏa rất nhanh và tràn vào hết
các
căn phòng. Nguyên đã thức dậy, mặc xong quần áo, ngồi một mình anh mở
tờ báo ra
đọc. Oanh xuất hiện với một gương mặt sáng đẹp, dịu hiền:
-Anh
ngủ ngon không ?
Nguyên ngước mắt với nụ cười nhìn người yêu. Oanh
đến
gần, ngồi xuống cạnh anh và mở rộng bàn tay.
Một chốc lát sau, nàng đứng lên nói:
-Em làm
cà phê và dọn bữa ăn
sáng cho anh.
Nguyên lại ngồi đọc báo và chờ nàng trở lại. Sau khi
dọn
bữa ăn sáng xong, nàng trở lại tìm Nguyên. Hai người ngồi xuống ở bàn
ăn tối
hôm qua. Bữa ăn sáng có trứng ớp la, bánh mì cắt từng lát, và còn có
bơ, pâté,
cà phê sữa.
-Sáng
nay mình đi biển chơi.
-Anh
thích ra biển hay là
chơi phố.
-Thôi,
chơi phố, để nhớ phố
trong những ngày hè. Ngày mai, em trở ra Huế và bắt đầu năm học mới.
-Anh
nghĩ, em nên chọn ngành
gì ?
-Em
phải chọn ngành trong năm
nay ?
Vân Oanh gật đầu. Nguyên uống cà phê sữa, khen ngon.
Cũng
đã lâu, Nguyên mới có được ít ngày nghỉ thoải mái bên cạnh người mình
yêu. Rồi
những ngày tới đây, đời lính của anh, không chỉ có trách nhiệm cá nhân,
còn là
của cả đơn vị.
Nhìn đôi mắt Oanh , anh nói:
-Em ra
ngoài đó học, có gì
cần cho anh biết.
-Em
muốn anh gìn giữ sức
khỏe, luôn về với gia đình.
Nguyên đột nhiên đứng dậy, lên tiếng chào , Oanh vừa
quay
đầu thấy bà mẹ xuất hiện. Nàng hỏi:
-Má đã
ăn sáng chưa ?
-Chưa,
má chưa ăn.
Một giọng tự nhiên, cô gái nói:
-Anh
Nguyên mới ở Huế vào hôm
qua. Có má đây anh được gặp, chút nữa con đưa anh đi thăm cả nhà luôn.
Bà mẹ nhìn Nguyên và cô con gái. Bà hỏi Nguyên:
-Cậu
quen Oanh đã lâu chưa ?
-Dạ,
cháu biết Oanh từ năm
ngoái.
-Cậu ở
Huế một mình, hay có
gia đình nữa.
-Dạ,
gia đình cháu ở Huế đã
lâu.
Xong bữa ăn, cô gái không phải dọn dẹp mà nhân thể
gặp bà
mẹ, cô đưa Nguyên đi thăm và giới thiệu cả gia đình bên mình. Nguyên
chỉ đáp
lời khi nghe câu hỏi từng người.
Và sau cùng, Oanh đưa Nguyên vào một căn phòng riêng
để
thăm cô gái út trong gia đình.
Nguyên rất ngạc nhiên trước vẻ sáng đẹp như thiên
thần
của Mỵ Châu và anh cũng rất là ái
ngại, cảm thấy chạnh lòng. Mỵ Châu nhìn
anh với cặp mắt thơ ngây. Nguyên chưa tìm được lời nói, bà mẹ ngồi đó
lên tiếng
giải thích.
Có được không khí thân thiện trong gia đình, Nguyên
hỏi:
-Em
thích đọc truyện không ?
Cô gái chỉ cười. Nguyên tiếp lời:
-Anh sẽ
tìm những truyện hay
cho em đọc.
Một cuốn sách cô gái đang đọc dở, Nguyên mượn xem.
Đó là
cuốn truyện dịch: Con Chim Trốn Tuyết (Snow goose) của nhà văn Mỹ Paul
Gallico.
-Những
tiểu thuyết tiền chiến
em thích đọc không ?
Bà mẹ cười nói:
-Ngày
nào, em nó cũng đọc
sách.
Nguyên gây được sự thiện cảm với người mẹ của hai cô
gái,
không bằng những câu khách sáo, mà sự chân thực biểu lộ rõ nét trên vẻ
mặt của
mình. Khi có được một con người thân tình như thế, bà mẹ hài lòng. Ngồi
với con
gái không lâu, bà đứng lên. Oanh hỏi:
-Má
thích ăn gì con đi mua.
-Khỏi,
chút nữa má đi với ba.
Oanh cười, giọng dí dỏm nói với Nguyên:
-Má
không lúc nào để riêng ba
một mình.
Người mẹ đáp ngay:
-Không,
ba một mình không
được đâu.
Căn phòng tuy hơi tối nhưng ấm cúng nhờ ánh sáng
những
ngọn đèn néon. Nguyên ngồi xuống bên cạnh Mỵ Châu, nắm giữ bàn tay nhỏ
bé của
cô em gái. Anh nói:
-Em sẽ
có nhiều sách hay đọc.
Và, rồi đây, em sẽ làm một công việc viết văn để đi tìm ánh sáng đẹp
cuộc đời.
-Anh
nghĩ, là em có thể viết
văn không ?
Một giọng nhấn mạnh rất thân tình, Nguyên nói:
-Em sẽ
phải có một cuốn sách
của mình.
-Em
viết nhật ký.
-Đã có
ai đọc nhật ký của em
chưa ?
-Chị
Vân Oanh.
Oanh đưa mắt nhìn hai người, gật đầu nhẹ. Nguyên và
Mỵ
Châu ngồi bên nhau chuyện trò, và lần đầu tiên cô bé rất cảm kích về
người anh
của mình.
Oanh rời ghế đứng lên, sau vài bước đi, nàng kéo nhẹ
bức
màn làm cho ánh nắng tràn vào khung cửa sổ rực sáng lên. Bên kia bức
màn là
phòng vẽ tranh của Oanh. Bên ngoài khung cửa, một cây bàng có những
chiếc lá
khô nhẹ nhàng rung động. Gió đang bay, qua cửa sổ nhìn xa hơn bạn có
thể trông
thấy một dãy phố bên kia. Ở phía đó, có một con đường đất dẫn tới một
khu nghĩa
địa bên ngã ba, từ đó, lại trông thấy một con đường nhựa khá rộng, rất
dài ra
đến vùng biển.
Trong khi Oanh đứng ngắm những bức tranh trên giá vẽ
của
mình, Nguyên nhìn Mỵ Châu với tình thương vô bờ đối với cô em gái. Anh
nắm bàn
tay Mỵ Châu, dìu bước cô em qua phòng tranh.
Oanh nói:
-Đây là
những bức em đã vẽ
xong.
Nguyên ở bên cạnh Mỵ Châu, hai anh em nhìn tranh vẽ
của
Oanh.
Oanh lên tiếng hỏi:
-Anh
thấy em vẽ được không ?
-Anh
muốn chọn một bức, em
nghĩ thế nào ?
-Được
chứ. Anh chọn hay là em
?
-Để cho
em Mỵ Châu chọn, phải
không nào ?
Cô bé nở nụ cười, gương mặt hiện lên cái bóng của
thiên
thần. Lúc này, không khí trong phòng tranh thật là ấm cúng, trong đó,
bạn chợt
hiểu ra ý nghĩa về sự đi tìm tha nhân của mùa hè.
Mỵ Châu nói:
-Chị
Vân Oanh là nguồn ánh
sáng của em.
Oanh đưa mắt nhìn Nguyên. Nàng nói:
-Khi em
ngồi vẽ tranh, luôn
có Mỵ Châu bên em.
Nói xong một câu ngắn, Vân Oanh dừng để tìm ý tiếp
cho
lời. Nguyên bỗng nhắc:
-Và cây
bàng ngoài kia, những
chiếc lá khi còn xanh.
-Em
cũng nghĩ như thế. Anh đã
tìm được ý đó cho em.
Tiếng Mỵ Châu nói:
-Về cây
bàng, em có được đọc
truyện Chiếc lá cuối cùng.
Bỗng dưng, cả ba người ngơ ngẩn khi nghe tiếng
chuông nhà
thờ vang vọng.
-Anh
Nguyên và chị Oanh dạo
phố đi.
Oanh đi lên phòng riêng của mình thay quần áo.
Nguyên đưa
Mỵ Châu về lại chỗ nằm. Bức màn khi kéo ra, đã làm cho cả căn phòng
rộng rãi ,
ánh sáng đầy ắp, và có chút hương vị thơm.
Oanh xuất hiện với chiếc áo dài tím, mái tóc xõa
vai.
Nguyên nói với Mỵ Châu:
-Anh sẽ
tìm một cuốn truyện
hay cho em đọc.
-Cám ơn
anh.
Rồi trước mắt hai người, khu phố mở ra một ngày sinh
hoạt
náo nhiệt như thường lệ. Nguyên đã cho nổ máy, nhưng xe chưa lăn bánh.
Oanh
ngồi sau, cẩn thận kéo vạt áo và xê dịch một chút vị thế chỗ ngồi.
Ông bà Tri đứng ở trên balcon nhìn xuống, cả Nguyên
và
Oanh không trông thấy. Khi ra đầu đường, Nguyên cho xe rẽ phải lên phố
Độc Lập.
Rồi từ ngã tư đầu phố này, anh chạy xe hướng về phía bến Cảng. Trên
đường Độc
Lập, hai bên lối đi là vỉa hè lát đá ca rô nhỏ, những hàng cây vươn
cao, thẳng
đều. Thành phố Đà Nẵng, thời Pháp có tên là Tourane, nay vẫn còn quen
dùng ở
những người thuộc thế hệ yêu thích nói tiếng Pháp. Nơi thành phố này
cũng ghi
nhận hai sự kiện lịch sử, ngày 1-9-1858 Hải quân Pháp đánh chiếm hải
cảng này
mở đầu cuộc xâm lăng thuộc địa, ngày 8 tháng 3 năm 1965, có hai tiểu
đoàn Thủy
quân lục chiến Mỹ đổ bộ một dấu hiệu cho thấy cuộc chiến tranh Việt Nam
bắt đầu
leo thang.
Vân Oanh , nàng là một thiếu nữ có vẻ đẹp tựa như
mặt
trời và mặt trăng trên trái đất. Nguyên thật sung sướng, anh sẽ giữ mãi
trong
tim anh một lời cám ơn nàng. Và, nàng đang nói với anh những lời của
ánh nắng
mùa hè, rồi lời của gió, cơn gió nghe rung động bỗng ùa tràn tới thổi
tung bay
mái tóc của nàng.
-Em
phải trả lại căn nhà
ngoài đó ?
-Sao
vậy ?
-Nhà
người anh họ của em, anh
ấy học ở Sài Gòn nay trở về.
-Rồi em
định sẽ ở đâu ?
-Ở nhà
người bạn trên đường
Huyền Trân, cũng không xa nhà anh lắm.
-Anh sẽ
về nhà luôn như lời
em dặn.
-Nhớ
đó, lời nói của em tuy
nhẹ, nhưng cũng cứng như thép.
-Ngày
mai, em tính đi bằng
cách nào ?
-Thì ra
bằng xe đò.
-Anh
nghĩ, đi xe lửa ngắm
cảnh vui hơn.
-Cũng
được. Đi xe lửa cũng
thích.
Ngôi trường Sao Mai ló dạng phía trước. Khi đi ngang
qua
một cửa hiệu nước hoa, vừa trông thấy tên bảng hiệu, Nguyên nói:
-Cô gái
ngồi trong cửa hiệu
là bạn học của Thụy đó.
-Anh
cũng biết.
-Anh
biết. Thụy đã dẫn cô ấy
lên quân trường Thủ Đức thăm chồng, anh ta học sau anh một khóa.
-Cô
Ninh Hà phải không ?
-Hình
như vậy.
-Cậu
Duy có bà con bên gia
đình mẹ em.
-Thụy cũng học ở trường Sao Mai.
Ngôi trường đối diện với bến Cảng. Vân Oanh nói:
-Mới đó
mà đã hai năm em xa
trường cũ.
-Em
cũng nên dành thì giờ học
thi ?
-Chương
trình Tú Tài nhiều
môn quá, em học không hết.
-Em
gắng học ngoại ngữ để thi
ban văn chương .
-Em chỉ
biết tạm tiếng Anh,
tiếng Pháp quá yếu.
-Anh sẽ
giúp em.
-Hoàn
tất nhiệm vụ không ?
-Có em,
anh rất hết lòng.
-Người
con trai nào khi được
yêu, lời nói nghe thật dịu dàng.
-Nước
trái cây là chất xúc
tác của tiếng nói, em đồng ý không ?
-Anh
nhớ hoa hồng nào cũng có
gai, nhé.
-Tên em
là tên của loài chim,
không phải của những bông hoa.
-Vậy
mà, em rất thích hoa, vẽ
tranh về hoa.
-Em là
đôi cánh của thiên
thần. Một ngày nào đó, anh nhìn thấy em trên bầu trời, và cũng có thể
trên mặt
biển.
-Em rất
thương Mỵ Châu ?
-Anh
biết. Nhưng tại sao em
Mỵ Châu chịu cảnh tật nguyền.
Với giọng xúc động của người chị yêu thương em, Vân
Oanh
kể câu chuyện cô bé em mình cho Nguyên nghe.
-Con bé
giúp việc ham chơi
quá.
Nguyên cố nói ra giọng hờ hững để che dấu xúc động.
Oanh
đang khóc, nàng nói thêm:
-Nếu em
Châu chịu khó, có thể
thương tích sẽ lành lặn.
Vào năm đó, Mỵ Châu được đưa lên Đà Lạt để trị bệnh
và
điều dưỡng. Nhưng ở một nơi cao nguyên lạnh lẽo, vắng lặng, cô bé rất
buồn vì
xa gia đình, vậy đó mà đành chịu không chữa được nữa.
Từ bến Cảng, Nguyên phóng
xe chạy trên con đường hướng ra biển. Hai người nghĩ
đến nhau qua câu
chuyện về gia đình, về cuộc sống đã có trong quá khứ.
Khi đến biển, Nguyên gởi xe và cùng với Oanh đến chỗ
nhà
nghỉ ngồi uống nước nhìn ngắm cảnh biển. Ngoài biển, nhiều người đang
tắm. Trên
bãi, đông người đi dạo, chơi bóng tròn, bóng chuyền. Nhìn lên phía xa
một chút,
có một nhóm du khách phụ nữ nước ngoài, họ ngồi trên ghế
vải dưới mái những chiếc dù màu hồng, màu
xanh dương, và hướng tầm mắt nhìn tới một nơi xa đang có sương mù bao
phủ bóng
núi.
Nguyên nói:
-Năm
đầu tiên lên trung học,
anh và Thụy được đi dự trại hè ở Cửa Đại.
-Em có
ý tưởng, anh và người
em rất giống nhau.
-Khi
được hay biết em học về
ngành mỹ thuật, nó sẽ hỏi em nhiều lắm.
-Thụy
cũng biết vẽ chứ ?
-Không.
Nhưng nó rất thích về
họa. Tâm hồn của hắn là ly cà phê, chiếc áo mặc màu thuốc lá, và những
bức
tranh vẽ ngựa uống nước bên dòng suối. Bên dòng suối, không chỉ có
khung cảnh
thanh bình của bầy ngựa, mà còn có những cô gái nữa.
-Chắc
là người em, chưa biết
gì về chuyện quen nhau của anh và em.
-Chưa
đâu.
-Anh
không hề nói.
-Không.
Năm tới, em nán ở lại
ở Huế những ngày hè, rất có thể nó được một kỳ nghỉ phép trở về thăm.
Oanh cười nhìn sang Nguyên đang nói. Trên tay, nàng
luôn
trở nhẹ hai thanh gọng chiếc kính mát .
-Anh
nghĩ, em có nên chuẩn bị
một câu chuyện hay về hội họa để nói với Thụy khi gặp nhau không ?
-Không
nên, em cứ nói ra bằng
cảm xúc trong sự sáng tạo của mình.
Nguyên gọi người hầu bàn đến trả tiền. Hai người rời
nhà
nghỉ đến chỗ gửi xe, và từ phía biển cách xa thành phố Nguyên chạy xe
nhanh trở
về, lúc tới bến Cảng anh men theo con đường bờ sông. Một giọng vui, anh
nói:
-Trên
sông đang đầy nắng, đợi
có gió lớn em nhớ thả cho mái tóc bay
qua sông.
-Em
không lãng mạn như anh
nghĩ đâu .
-Nhưng
em cũng đừng để cho
sợi tóc nào cứa đứt môi.
-Sao
vậy ?
-Linh
hồn của tình yêu nằm
trong sợi tóc. Khi một sợi tóc cứa đứt môi, đó là dấu hiệu của sự chết
chóc.
-Nhưng
đó cảnh bi thảm về chiến tranh.
-Em có
nhớ không ?, Cathérine
ám ảnh cái chết của mình trong cơn mưa.
-Vâng,
em hiểu.
-Mưa,
tác giả nói về chiến
tranh, nói về tình yêu chỉ tìm thấy ở một nơi riêng biệt thanh bình.
-Em có
cảm giác mình run sợ.
-Không
đâu em, anh chỉ nói về
lãng mạn của tình yêu đấy thôi. Em đang còn một thời thiếu nữ đỏ rực
như hoa
phương nở trong mùa hè.
-Anh
thích màu tím không ?
-Anh
thấy đó là màu buồn. Còn
hoa hồng, em thích chứ.
-Đôi
lúc, anh cứ gọi tên em
là Rose.
-Anh
nhớ.
Dòng sông trải dài với nhiều đợt sóng nước lớn và
nắng
tỏa rộng hết quang cảnh hai bên bờ.
Tới một ngả ba, có lối rẽ lên phố chính Nguyên theo
con
đường này trở lại khu trung tâm của
thành phố. Nguyên cho xe chạy quanh một vòng ngắm phố rồi đến ngừng
trước hiệu
sách Lam Sơn.
Xe dừng bên lề đường. Oanh bước xuống, nàng sửa lại
thân
áo và mái tóc hơi bị xổ rối bởi gió ngoài sông.
Buổi trưa, cửa hiệu sách còn đông khách ra vào, và
giờ
này cũng là giờ cao điểm phát hành các nhật báo Sài Gòn.
Hai người đi sâu vào bên trong, dừng lại trước dãy
kệ
dành cho sách truyện. Nguyên lướt nhanh mắt nhìn qua mỗi tầng kệ để tìm
mấy
cuốn sách, trước hết cho Mỵ Châu, sau đó là của Vân Oanh. Nguyên thực
vui, hài
lòng khi tìm thấy. Rồi đến lượt, Oanh dắt Nguyên qua chỗ trưng bày sách
về họa
và nhạc. Oanh chọn được mấy tập nhạc tiền chiến, và tập nàng thích nhất
là
Những Tình Khúc Bất Tử, nhạc ngoại quốc, Phạm Duy soạn lời Việt.
Khi ra quầy trả tiền, cô bán hàng cho tất cả sách
hai
người mua vào cái túi nylon nhiều màu có tên của hiệu sách in ở ngoài
trông rất
đẹp. Oanh cầm túi xách theo Nguyên ra đường, rồi hai người lên xe về
nhà không
đi đâu nữa.
Buổi chiều ấy, Nguyên ở nhà với Vân Oanh và trò
chuyện
với mọi người trong nhà. Ông bà Tri có bốn cô con gái, sự hiện diện của
Nguyên
mang một tình cảm đặc biệt với gia đình Oanh.
Suốt buổi chiều, đôi tình nhân không rời nhau.
Nguyên
cũng biết đánh đàn, anh đánh một số ca khúc, còn Oanh rất thích những
bài hát
trong tuyển tập Những tình khúc bất tử. Nàng đã hát theo nhịp đàn lúc
Nguyên
phụ họa. Ở tập này, có cả lời tiếng Pháp nữa, những bài nào Oanh thích,
Nguyên
vừa đọc lời tiếng Pháp và giảng nghĩa cho Oanh hiểu.
Tối hôm ấy, cũng là tối đầu tiên Nguyên hướng dẫn
cho
Oanh học môn tiếng Pháp.
Ngày hôm sau, hai người đi chuyến tàu sớm. Nguyên
tới
quầy mua hai vé ở toa đặc biệt. Khi ra khỏi cửa ga, hai người đi về
phía toa
cuối hết. Nguyên xách chiếc vali của Oanh, còn Oanh đeo túi xách, và
một tập
giấy vẽ cùng cọ, bút màu. Nàng mặc quần jean,
áo sơ mi kẽ sọc tím, dáng bước thật nhanh nhẹn.
Khung cảnh nhà ga có
những nét lạ làm Nguyên chú ý, sinh hoạt buổi sáng ở đây rất ồn ào
nhưng không
diễn ra cảnh hỗn độn, chen lấn.
Cửa sổ toa xe mở cả hai phía. Nguyên sắp xếp hành lý
lên
giá xong xuống ngồi cạnh Oanh. Tàu chạy đúng giờ đã ghi trên bảng thông
báo
hành khách, những vòng bánh lăn chậm lướt qua, bên dưới một vài người
đưa tay
vẫy chào, rồi con tàu cứ thế dần xa, khuất dạng thành phố.
Bữa ăn sáng trên toa đặc biệt có nhiều món , hai
người
gọi hủ tiếu và cà phê sữa.
-Khi
nào có Thụy về phép,
chúng mình ra thăm quê ngoại một chuyến.
-Xa
không anh ?
-Xa hơn
quê nội chừng ba mươi
cây số.
-Em
thấy bác trai hay đi
nhiều, ít khi ở nhà.
-Ba anh
làm việc ở ngành xã
hội nên đi công tác luôn.
-Anh và
Dung có nét mặt giống
bác trai.
-Ba anh
tuy nhỏ người nhưng
cũng hay. Ông có má lúm đồng tiền đó.
Oanh cười:
-Anh
cũng có nữa.
Nguyên ăn xong, cầm ly cà phê sữa uống. Trong lúc
Oanh
còn ăn, anh cầm thìa khuấy sữa cho ly cà phê của Oanh. Nàng nhìn anh,
luôn cảm
thấy hạnh phúc từ cặp mắt anh gửi lại, trẻ thơ, đằm thắm. Hai người,
anh cũng
như cô gái luôn có một ý nghĩ giống nhau từ những nụ cười tỏa sáng ra
nơi cặp
mắt.
Hai bên đường, ánh sáng rõ dần lan rộng trên từng
cảnh
vật. Và rồi, chỉ ra khỏi thành phố nửa giờ đường, đoàn tàu đã dừng lại
một nhà
ga nằm gần quốc lộ, nơi đây bạn sẽ nhìn thấy biển và con đèo bên dưới
núi.
-Em
chọn học về lụa, anh nghĩ
sao ?
-Anh
không mấy rành về hội
họa, nhưng chọn học vẽ lụa, thích hợp với em hơn.
-Em
chọn con đường nào anh
cũng thấy đúng phải không ?
Nguyên gật đầu. Oanh ngả người trong vòng tay ôm ấp
của
anh. Nguyên vẫn lặng im như thể tìm một câu chuyện, một khoảng thời
gian nào đó
đã xa, trước khi anh có cơ duyên được gặp cô gái đang hạnh phúc trong
vòng tay
của anh. Tàu chuyển bánh rời ga, từ cửa toa tàu, hai người nhìn thấy
một không
gian rộng sáng đẹp, hài hòa những màu sắc êm dịu và nổi vật như là cảnh
trong
bức tranh.
-Cô họa
sĩ của anh !
-Anh
nhớ cô nào đó mà gọi tên
đấy.
-Anh
không nhớ ai hết, nhưng
anh biết em yêu anh ?
-Thực
không ?
-Đó là
tình yêu của thiên
nhiên.
-Em rất
là vui khi được anh
dạy em học.
-Anh
mong mỗi ngày đều có em.
Đoàn tàu vừa đến bên dưới chân đèo, rồi dừng lại.
Không
gian đã phối hợp và sắp đặt từng vị trí cảnh vật hai bên đường trước
khi con
tàu chuyển bánh. Biển lòa sáng dưới nắng. Những cánh rừng bên triền núi
xanh
thẳm và có những khe suối khi ẩn, khi hiện. Nước suối chảy gập ghềnh
qua những
mô đá. Và, chim rừng cất tiếng vừa ca hát, vừa gọi nhau.
Bây giờ con tàu chuyển bánh trở lại. Trong tình yêu
dấu,
Nguyên ôm giữ lấy Oanh và cả hai cùng yên lặng ngồi trên chiếc ghế sát
cửa sổ
toa xe, vừa nhìn và cố ghi nhận từng nét cảnh vật. Đoàn tàu trườn lên
vượt qua
từng đoạn dốc với hai đầu máy, trước kéo, đằng sau đẩy. Sau cái nhìn
luyến nhớ
từ đôi mắt, Oanh hé môi để cho Nguyên đặt môi hôn.
Chẳng bao lâu, đoàn tàu qua khỏi Hải Vân con đường
đèo
dài đến 12 cây số.
Bên
dưới đèo là vùng đồng
bằng, cảnh trí là ruộng đồng, làng mạc, những con sông, những cây cầu.
Khi Vân
Oanh nhìn cảnh vừa vẽ tranh, Nguyên lục tìm trong túi xách tờ báo, hoặc
cuốn
sách để đọc. Buổi chiều qua, ở hiệu sách, Nguyên mua được mấy cuốn để
dành cô
em gái Mỵ Châu và người yêu của mình.
Khi lấy cuốn sách, Nguyên chưa mở ra đọc ngay, anh
nhìn
ngắm Oanh đang buông thả tâm hồn với cảnh vật và qua những nét trên bức
vẽ.
Nắng sáng, in dấu trên mái tóc nàng. Và, cả trên thân áo của nàng nữa
cũng điểm
lấm tấm những bông hoa của ánh nắng. Rồi, cùng với bút vẽ những nét tài
hoa của
nàng bay lượn trên giấy , mỗi nét tạo được ngay ấn tượng không cho bạn
nhận ra
từ cảnh ở ngoài mà chỉ thấy trên tranh nàng đang vẽ. Bên dòng suối chảy
có bóng
cây, trên mái nhà có ánh nắng, một dòng sông bên dưới cây cầu, rất xa
khung
cảnh đó là một làng quê vắng lặng yên bình.
Nguyên mở sách đọc. Thung lũng Salinas
ở về phía Bắc tiểu bang California là
một dãy đất dài và hẹp nằm giữa hai dãy núi và con sông Salinas ngoằn
ngoèo uốn
khúc ở chính giữa cho đến khi đổ thẳng ra vịnh Monterey.
Nguyên đọc nhanh và từng trang dịch của câu chuyện
rất
cuốn hút anh. Cuốn sách anh đang cầm đọc là cuốn Phía đông vườn địa
đàng (East
of Eden), tác giả là nhà văn Mỹ John Steinbeck.
Lúc này, đoàn tàu đang chạy chậm sắp sửa đến ga xép.
Qua
bóng im của lá rừng, Nguyên trông thấy người bẻ ghi cầm cờ đứng đợi
đoàn tàu
tới.
-Em vẽ
xong chưa ?
-Chưa
đâu.
-Anh
muốn ngưng đọc sách để ở
bên em.
-Khoan
đã. Anh cứ đọc sách
đi. Em đang sửa lại bức vẽ.
-Em là
một cô họa sĩ rất dễ
thương.
-Anh
khen em nhiều lắm rồi,
từ hôm qua đến hôm nay.
-Không
có ai thật lãng mạn
như em cả. Vừa là hành khách trên tàu, vừa là họa sĩ vẽ tranh.
-Em cảm
thấy thật dễ chịu.
-Anh
đọc sách tiếp đây.
-Anh
đọc đi. Rồi kể cho em
nghe.
Khi đoàn tàu dừng, những người bán hàng rong cất
tiếng
rao. Và, có một đứa nhỏ đứng bên dưới nhìn cô họa sĩ vẽ tranh. Bất chợt
gặp nó,
cô gái mỉm cười rất là thú vị.
Sau mười phút ngừng, đoàn tàu chuyển bánh. Cô gái đã
vẽ
xong bức tranh. Người yêu của cô ngừng đọc sách, rất hài lòng với bức
tranh cô
vẽ. Trên quãng đường đi, đoàn tàu lúc nhanh, lúc chậm và đến mỗi ga xép
lại
ngừng khoảng chừng trong năm, hoặc mười phút.
V
Sài Gòn vẫn đang trong mùa mưa. Thụy mới viết thư về
thăm
gia đình. Trong lá thư này, anh nhắc đến Vân Oanh với cô em gái và nhờ
Nhi cho
anh gởi đôi lời thăm nàng. Trong sự thầm kín không phải vì đã yêu,
nhưng thực
lòng rất mong nhớ, anh rất muốn viết lá thư gởi nàng, những dòng thư
của anh sẽ
trang trải hết mọi niềm hân hoan từ buổi chiều nghe câu chuyện em gái
anh nói
về nàng, thế là anh có gặp nàng trong trí tưởng, hay là trong giấc mộng.
Sau thư gia đình, cùng hôm đó Thụy viết thư gởi Ninh
Hà.
Vừa áy náy, vừa cân nhắc, rốt cùng anh phải bỏ qua không nói với nàng
về kỳ
nghỉ phép về Huế mới đây. Nhưng ích gì
không, người bạn gái dường như vẫn còn ở trong tim anh một sự chờ đợi,
vẫn có
một mối tình mà dù ở hoàn cảnh nào cũng không ngăn cách nổi. Đã có lúc,
anh tự
nhủ mình quên, nhưng rồi, bóng dáng nàng từ đâu trở lại đứng bên anh
rất lâu
trong thời gian của giấc mơ.
Thụy rất thường hay đến nhà dì Hồng, có bữa ở lại
chơi ăn
cơm và đánh bài xì dách. Thụy thường được bạc nhờ đỏ, nhưng không nhiều
lắm.
Suốt cả tuần nay bên nhà Huê đóng cửa. Thụy không hỏi Thúy, nhưng mỗi lần đi ngang không
thấy bóng nàng, anh băn khoăn.
Rồi cũng không vắng lâu, nàng đã trở lại. Vừa trông
thấy
nhau, cả hai cùng vui mừng. Huê mặc bộ quần áo thường có chấm bông đỏ
đứng ở
hiên ngoài. Gió thổi nhẹ mát, lay động những ngọn lá trên chậu hoa nơi
Huê đang
đứng. Thụy tới gần, dừng lại trên bậc thềm.
-Anh
mới đi đâu về ?
-Đi
chơi với người bạn.
Huê mời Thụy vào
nhà chơi. Đèn căn phòng trước sáng, thật dễ chịu trong không gian rộng
vì chỉ
bày biện đơn giản. Cô gái nói:
-Em ở
Long Xuyên mới về.
-Vậy à.
-Em về
thăm ba mẹ.
Huê bỏ đi ngay sau đó, cô vào nhà trong, chốc lát
sau trở
ra với chiếc khay rộng có trái cây và nước uống. Thụy đang ngắm nhìn
bức ảnh
của Huê đóng khung treo trên tường. Bức ảnh đen trắng, thật đẹp, càng
nhìn anh
càng thấy những nét đẹp duyên dáng của nàng trên gương mặt thật tươi
trẻ trong
một nụ cười ánh hiện trên đôi mắt .
-Trái
cây đầu mùa phải không
em ?
-Vâng.
-Em thi
cử ra sao ?
-Trượt
rồi.
-Em
không nói đùa.
-Không.
-Em
không thể nào rớt được.
-Anh
không tin à ?
-Hoàn
toàn không .
-Tùy ý
anh.
Hai người ngồi xuống gần nhau.
-Trông
anh khỏe mạnh.
-Anh
trông tin em. Đi ngang
qua nhà mấy lần vẫn thấy đóng cửa.
-Thúy
không nói gì với anh ?
-Anh
không hỏi.
-Em mới
về chiều nay.
Mỗi thứ trái cây có vị ngọt, hương thơm riêng. Hạnh
phúc
đến với Thụy hơn hết là lúc này được ngồi bên Huê trong nhà nàng. Nhà
vắng,
Thụy hơi bâng khuâng và có chút do dự, ngỡ ngàng.
Huê nói:
-Em sắp
đi ở nơi khác.
Thụy bỗng ngồi im, bất động. Một lát sau, anh hỏi
nàng:
-Sao em
muốn đi khỏi đây?
-Nhà
này gia đình muốn cho
thuê.
-Cho
thuê hả.
-Ờ. Huê
cười tiếp lời, anh
muốn thuê không ?
Thụy bỗng có ý tưởng như đây là căn nhà của anh. Cô
gái
để nguyên vẹn khuôn mặt cho anh ngắm nàng. Thụy nhớ lại buổi chiều hôm
ấy trời
mưa, canh bạc nhỏ trên căn gác, tiếng nói của Huê, rồi ly cà phê mang ý
nghĩa
cuộc đời của kẻ thất chí, nỗi buồn nhớ ấy anh vẫn còn ray rứt trong
ngày ra đi.
Rồi một buổi sáng ấy trên bến Cảng có hình ảnh một thiếu nữ mặc áo
trắng. Con
tàu cất tiếng còi nghe vắng xa. Tàu vừa tách bến, Huê ở trong lòng anh,
nàng
theo anh qua một quãng đời.
-Anh về
nghỉ phép vui không ?
-Không
vui, buồn.
-Sao
vậy ? Chắc cô bồ ngoài
đó quên anh.
-Không,
anh không có bồ.
-Thực
vậy sao ?
-Về Sài
Gòn, gặp lại em anh
vui.
-Thực
hả.
Rồi một giọng điềm nhiên , Huê nói:
-Hết
tháng này người thuê nhà
dọn đến ở.
- Nhưng
em đi đâu, xa hay gần
Sài Gòn.
- Cóù
nhà bên khu Bàn Cờ, em
về ở với gia đình chị Yến.
-Còn
anh Chương ?
-Anh đi
du học, qua Mỹ rồi.
-Ở nơi
này sẽ vắng bóng em.
-Em
nghĩ là không sao cả.
Thực tình, chỉ thi lại loạt hai nên em dễ đậu.
-Mừng
cho em.
Huê không nói gì, nhưng đôi mắt nàng muốn gợi nhớ ra
nhiều kỷ niệm cũ. Từ ngày ấy không xa lắm khi người lính trở về.
Ngày hôm đó nhập ngũ, Thụy lên đường ra Nha Trang
bằng
tàu thủy. Lênh đênh giữa sóng biển một ngày đêm, sáng hôm sau tàu ra
tới thành
phố Nha Trang, và đây là một thành phố biển đẹp nhất miền Trung.
Rồi sau ba tháng học căn bản quân sự, ngày mãn khóa
Thụy
được cấp bằng hẳn hoi. Thụy rời quân trường trễ hơn các bạn một tuần,
vì ở lại
dự kỳ thi Tú Tài I. Thực may mắn, mấy hôm thi anh làm bài được, nhưng
cũng có
nhờ hai thí sinh ngồi gần bàn nữa. Buổi chiều ngày chủ nhật, Thụy đi ra
phố
chơi, ghé quán nước giải khát rồi vào rạp xem phim Le temps d’aimer et
le temps
de mourrir. Cuốn phim dựa theo tiểu thuyết của nhà văn người Đức Erich
Maria
Remarque. Thụy đã đọc cuốn truyện dịch,
nên lúc coi phim, có nhiều câu đối thoại bằng tiếng Pháp anh hiểu được,
không
cần nhìn xuống dòng phụ đề.
Khi đèn rạp hát sáng lên, anh vẫn ngồi trên ghế. Ý
nghĩa
về cái chết của người lính trong chiến tranh thật là buồn. Tình yêu của
nàng và
người lính, nương tựa vào lá thư, vậy mà lá thư anh ta cầm trên tay chỉ
đọc
được ít giòng, rồi anh ngã gục, lá thư buông trôi trên dòng nước.
Phố chính đường Độc Lập bừng dậy trong không khí
nhộn
nhịp, rất đông người ngày cuối tuần. Hai bên, những cửa hiệu buôn bán
nối nhau,
nhiều quán hàng ăn, quán giải khát chỗ nào cũng đông khách ra vào, và
rạp hát
đang vọng ra ngoài những điệu nhạc êm dịu.
Thụy ghé tiệm phở, lúc bước vào thấy đông khách ăn
nhưng
anh không đợi lâu. Tiệm ăn sạch sẽ, mùi phở thơm ngào ngạt làm anh cảm
thấy
đói. Thụy gọi tô lớn, lúc người chạy bàn mang ra, có bao nhiêu thứ gia
vị để
sẵn trên bàn, anh cho mỗi thứ một chút, và rồi một mình thưởng thức bữa
ăn
ngoại lệ của mình. Và, thực sự anh muốn quên đi cảnh đời khó khăn của
gia đình
ba mẹ, các em anh đang ở Huế, quên đi số phận mình là người lính dù
không bị
súng đạn đe dọa, nhưng cuộc sống không cách nào nhìn thấy ngày mai đây
sẽ trở
nên tốt đẹp.
Thụy ăn hết tô phở, vừa đủ no và ngon. Bên kia đường
là
một hiệu sách có bày nhiều tranh ảnh đẹp treo ra phía ngoài. Trên phố
nãy giờ
luôn nhộn nhịp, đông vui, và những gương mặt người tân binh hay SVSQ
các quân
trường trông rất tươi trẻ. Hạnh phúc cho các thiếu nữ và các chàng trai
người
đang có người yêu đi bên cạnh mình. Thụy dừng lại giây lát trên bờ
đường nhìn
ngắm mái tóc, những tà áo duyên dáng, mơ mộng của các cô gái trong
thành phố
này. Và, mai đây như thế nào thì đó là chuyện của thời gian trả lời.
Ở trên chiếc bàn dài thấp gần quầy tính tiền là nơi
đặt báo. Tất cả đều mới, tạp chí, tuần
báo đến nhật báo. Báo Văn, số này là tuyển tập thơ văn. Lúc báo này ra
mắt số
đầu tiên, Thụy rất thích, khi mượn được của người bạn trong tuần đầu
anh đã đọc
hết. Và, báo này đã gợi lên trong anh niềm ước ao sự có mặt tên tuổi
của mình.
Thời gian qua, anh không dám gởi bài vì lượng sức mình chưa đủ. Những
truyện
ngắn anh sáng tác, chỉ vừa trong trình độ của nhật báo, tuần báo thôi.
Nhìn báo
Văn, truyện muốn được đăng phải có cách viết mới, ngôn ngữ mới, ý tưởng
mới.
Một lần thất bại của Thụy là truyện ngắn viết về Ninh Hà, người bạn gái
anh vô
cùng yêu thương. Khi nhận được thư tòa
soạn, anh hiểu ra cái non nớt, yếu kém của mình không là nội dung câu
chuyện,
mà ở cách viết. Tuy nhiên, anh rất hài lòng với chi tiết tả buổi sáng ở
lớp học
cùng với nàng đánh cờ ca rô , bất giác, trong phút giây xúc động của
tình yêu,
nàng để cho anh mở rộng bàn tay nâng mái tóc nàng lên để được nhìn
gương mặt
nàng qua một vẻ đẹp tỏa sáng.
Buổi chiều đang xuống, nắng dần trôi xa. Khi ra khỏi
hiệu
sách, bên tay Thụy là một cái túi nylon đựng một cuốn truyện dịch và
mấy tờ
báo.
Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày
Thụy bước đi thanh thản, vừa sống với những giờ khắc
hạnh
phúc. Mỗi nơi chốn mang đến, từng thứ một là niềm nhớ thật nhẹ nhàng.
Buổi chiều thân tình như người bạn. Thụy chưa muốn trở về trại, vì hôm nay là ngày
cuối ở Nha Trang, và sáng mai, với túi sac marin, với chiếc ba lô đeo
vai, Thụy
sẽ giã từ quân trường.
Bỗng nhiên, Thụy dừng bước đưa tay dụi mắt. Một bóng
người đàn bà áo trắng vụt hiện, đứng ngay trước mặt anh thật lạ lùng.
Thụy hết
sức bối rối, ít giây sau mới nhận ra. Và, anh thấy nàng thay đổi rất
nhiều.
Nàng đứng yên đó, cặp mắt bất động nhìn anh.
Anh thấy nàng (có hơi mờ đi), và anh cũng thấy e
thẹn,
ngập ngừng.
-Ông
Thụy, nàng khẽ nói.
Người lính mỉm cười, vẻ mặt bỡ ngỡ.
-Ông
không nhận ra tôi ?
Một vài giây sau.
-Có,
anh nói vừa gật đầu.
-Ông
biết tên tôi không ?
-Cô
Thùy.
Nàng cười, đưa tay cho Thụy bắt.
Nhìn quanh, anh nhận ra đây là khu Phước
Hải ngày xưa, không thay đổi nhiều. Phía bên đường là nhà thờ Chánh tòa
xây
bằng đá. Thụy nhớ lại những buổi tối anh và Nhuận ra nhà thờ ngồi chơi,
hóng
mát, gió nhẹ rung lên khi buổi chiều vừa tới giờ chuông đổ, sau một
lúc, có
tiếng còi tàu từ nhà ga vọng tới.
-Cô
Thùy vẫn còn ở Đà Lạt ?
Nàng cười bảo:
-Tôi
đâu còn là học sinh nữa.
-Tôi
cũng vậy, mới đi lính
mấy tháng.
-Ông có
nhà ở đây ?
-Không,
tôi đang ở quân
trường.
Quán nước mía bên đường có căng tấm bạt rộng. Thụy
và
nàng đến đó, ngồi xuống ghế nhỏ bên chiếc bàn vuông thấp. Nước mía mang
ra, mỗi
ly có ống hút.
-Cô
Thùy được mấy cháu rồi ?
-Chưa.
-Sao
vậy ?
-Đừng
hỏi lôi thôi, ông bạn.
-Không
lẽ, cuộc sống gia đình
không có gì vui ?
-Bộ ông
muốn nhảy vô hả.
-Không
dám.
Nàng cười nhìn lại người bạn cũ.
-Anh
Thụy vẫn trẻ con như
ngày đó.
-Tôi
vẫn nhớ buổi đầu tiên
gặp Thùy . Những kỷ niệm về Đà Lạt của tôi nằm trong ngày đó.
Nàng chỉ mỉm cười không nói.
-Nước
mía uống thật ngon.
-Anh có
viết thư thăm thầy
Phiên không ?
-Có.
Cậu tôi đã được giải
ngũ.
-Rồi
đến lúc nào anh ra
trường ?
-Tôi
vừa mãn khóa học. Ngày
mai, tôi trở về Sài Gòn.
Ly nước mía bên nàng đã vơi một nửa. Nàng nói:
-Gia
đình Thùy vẫn ở Đà Lạt.
-Đường
Phan Bội Châu ?
-Sao mà
nhớ ghê vậy ?
-Có cây
si trồng ở đó, chặt
đứt không ?
Nàng cười, ánh mắt dịu lên một vùng sáng. Bên cạnh
người
lính, còn một chiếc ghế trống. Và, nàng vừa mở rộng bàn tay cho chàng
được nắm
lấy.
-Đà
Lạt, kỷ niệm đẹp trong
thời đi học.
-Rồi
sương mù, rồi cỏ, những
đồi thông, rồi.. nhiều nữa.
-Thùy sinh ở Đà Lạt hay ngoài miền Bắc.
-Ở
đường Phan Bội Châu.
-Con
đường có đồi khế, màu
đất đỏ.
-Cám ơn
anh Thụy đã nhớ.
-Tại
sao Thùy không mặc áo
tím ?
Thời gian đã làm cho kỷ niệm lắng xuống rất sâu. Và,
nếu
tôi nhớ lại rõ nét, nói ra tên con đường, vẽ lại từng màu sắc chiếc áo,
vẽ lại
được cả từng hạt mưa, thì những hình bóng cũ ấy cũng đã là một sự mất
mát, muộn
màng thật cảm động. Vì thế, tôi đã ngăn được ý nghĩ của mình khi muốn
gợi ra
một câu hỏi về những lá thư tôi trao tận tay nàng, về những điều nàng
đã biết
tại sao tôi yêu nàng, và trong đó nữa có một tấm lòng của nàng đối với
ba mẹ
tôi ở xa, khi đã có những lần nàng giúp tôi ghé qua trạm bưu điện bỏ
giúp những
lá thư tôi gởi về nhà.
Ngồi chuyện trò cũng khá lâu, trời đã tối, đường phố
sáng
đèn. Thụy cùng đi bên cạnh nàng một đoạn đường, tới ngã tư gần đó hai
người
dừng bước.
Thùy ngước mắt, nàng nói:
-Bao
giờ cũng vậy, gặp lại
nhau là biết kỷ niệm vẫn còn nhớ.
Và lúc này đây, Huê còn nhắc Thụy nhớ đến khuôn mặt
viên
Trung úy trưởng trại và chữ ký của ông nằm trong khuôn dấu đỏ. Thụy vẫn
nhớ cái
bắt tay rất chân tình cùng lời từ giã ông nói, trong đó, ngày mai anh
sẽ đi xa
không hy vọng gặp lại ông nữa. Ông rất quí mến Thụy, và riêng anh đã có
sự đóng
góp làm tờ Đặc San cho một khóa học, tuy gấp gáp vì
thời gian quá ngắn nhưng thể hiện được điều
ông mong muốn.
-Anh có
món quà dành cho em.
-Đâu
nào ?
-Anh để
bên nhà.
-Anh
cho em món quà gì ?
-Một tờ
Đặc San anh và các
bạn làm ở quân trường.
-Hay
qúa, chịu khó về mang
qua cho em.
-Sáng
mai, anh đem qua cho.
-Không.
Về lấy đi anh.
Thụy biến mất như cái bóng. Thúy ra mở cửa khi nghe
có
tiếng chuông.
-Anh đi
đâu về ?
-Đi với
người bạn.
Thụy đi nhanh lên gác, vội vàng mở túi xách lấy tờ
báo.
Rồi anh vụt chạy xuống cầu thang lúc ấy,
tiếng chuyện trò của mấy người ngồi ở nhà sau.
Huê vẫn ngồi một mình trong phòng khách trống vắng.
Khi
thấy Thụy trở lại, nhìn vẻ mặt anh nàng không thể nhịn cười. Thụy đặt
tay lên
vai nàng, giữ lâu trong chốc lát.
Hai người ngồi xuống bên nhau trên chiếc ghế xô pha
rộng.
Thụy cầm chén nước trà đưa lên miệng uống từng hớp. Ý nghĩ về ly cà phê
dậy
chút men, anh ngồi im mắt không rời khỏi những ngón tay Huê đang giữ
lấy từng
trang báo. Khi thấy bài Thụy ký tên nàng ngừng lâu. Nàng chợt mỉm cười,
Thụy
nói:
-Có em
trong đó.
Huê đọc thêm một đoạn, rồi lật trang. Tờ giấy vàng
đục,
chữ đánh máy đen đậm trong đó mang dấu vết ngày tháng in sâu nỗi buồn
nhân thế.
Thụy chẳng hề tâm sự với ai, nhưng anh đã viết. Anh viết về Huê , trong
bóng
dáng và tên gọi của nàng anh đã lẫn lộn biết bao nhiêu điều chỉ muốn
nói về một
người bạn gái của mình. Và, ngồi đây bên cạnh một cô gái không phải là
người yêu,
Thụy nghĩ rằng mình đang trốn khỏi một cuộc chiến. Thụy rất ngạc nhiên,
vì nó
đã vây hãm cuộc sống của anh những ngày trước đây đến đỗi sống ở Sài
Gòn anh
vẫn lo sợ, nhất là, nhận diện rõ ràng qua quần áo mặc của mình.
Huê gấp tờ báo lại, cô nói:
-Hay
quá, anh đã thực hiện
được tờ báo này.
-Chỉ
trong vòng mười ngày.
-Anh kể
chuyện mấy tháng ở
quân trường cho em nghe.
-Ngày
nào anh cũng tắm nắng
và đổ mồ hôi.
-Anh
quá lãng mạn.
Thụy rót thêm đầy tách nước, rồi đưa qua cho Huê.
-Cám ơn
anh.
Thụy cầm tờ báo lên xem qua. Đồng hồ trên tường đổ
chuông. Rồi sau đó, anh và Huê hai người giúp nhau chuẩn bị bữa ăn tối.
Khi ở
trong căn nhà trống vắng, ánh đèn điện sáng lên đó là sự ấm cúng, điềm
đạm, vừa
chừng mực, đó cũng là một dấu hiệu về lương tri. Chúng tôi đây là hai
anh em
ruột thịt sống bên nhau trong những ngày ở xa gia đình. Cách đây hơn
một giờ,
tôi ngồi với Minh ở quán ăn bên khu chợ Thái Bình. Minh và tôi, hai đứa
gặp lại
nhau sau một năm. Ở Đà Nẵng vào Sài Gòn, không phải mong học tiếp mà
tìm kiếm việc
làm. Rồi người bạn đổi ý, hắn đợi chờ mười ngày nữa đi chuyến bay quân
sự lên
Đà Lạt. Minh sắp vào trường Võ Bị.
Dứt một giây hồi tưởng, Thụy hỏi Huê:
-Em có
nghĩ tới hạnh phúc cho
mình trong tương lai.
-Em vẫn
sống bình thường, tự
nhiên.
-Anh
luôn luôn nghĩ đến hạnh
phúc của em.
-Bây
giờ không có gì cả là
hay nhất.
-Thật
vậy sao ?
-Anh có
chọn nghiệp văn cho
đời mình không ?
-Em hãy
chọn cho anh.
-Em
không biết .
-Anh
cảm thấy vui khi em còn
ở Sài Gòn.
Có bóng người đi qua bên ngoài. Thụy cảm thấy nôn
nao
muốn nói với Huê:
-Không,
sự ràng buộc đời tôi
là Ninh Hà. Tôi yêu nàng, vì tôi nghĩ nàng đã sống với tôi trong bao
nhiêu tình
cảnh người vợ qua những kiếp luân hồi. Trên miệng lưỡi, hễ gọi tên nàng
là tôi
nhận ra dư vị cay đắng lẫn ngọt ngào.
Thụy để lộ ra một bộ mặt si dại, ngớ ngẩn. Huê buông
đũa,
cười lớn tiếng, tiếng cười dồn đổ nghe như là một trận mưa. Trong người
Thụy
nóng ran lên như cơn sốt, ngay lúc đó, anh để ngửa lòng bàn tay.
Vậy rồi, buổi tối đó qua đi mà chàng cũng đã che
giấu hết
sức vội vàng. Chàng được ở bên cô gái đến nửa đêm. Hai người chơi đánh
bài.
Chàng luôn chú ý những con bài cơ hồng đỏ hình trái tim, nó rạo rực
trên mấy
ngón tay của Huê.
Bỗng tiếng cô gái nói:
-Thôi,
anh về đi. Đã khuya
rồi.
Chàng không muốn nghe giọng ái ngại ấy làm gì. Rồi
không
thể nào cô tránh kịp, chàng đã ôm gọn lấy thân cô gái, rồi thật yên lặng cô để cho chàng đặt môi hôn, nhưng một lúc
sau chàng nghe tiếng cô khóc. Cô gái khóc,
chàng nói những lời dỗ dành, vừa nghe tiếng hạt mưa
và tiếng mình nói
xúc động hòa tan vào hương vị thơm của mùi tóc.
Về nhà, Thụy thao thức không ngủ được. Anh cảm thấy
mình
hối hận và nghĩ đến Ninh Hà. Sau đó, anh gặp nàng trong giấc mơ. Bên
cánh cửa,
nàng bồng đứa con trai nhỏ. Anh đứng yên lặng sau lưng nàng một lúc rất
lâu,
bỗng nhiên, trên tường vôi trắng anh
trông thấy nàng ngồi một mình xõa tóc. Không biết
nàng tìm thấy ai đó
trong dĩ vãng.
Sáng hôm sau thức dậy, Thụy vẫn còn nuối tiếc giấc
mơ.
Anh không lo âu, sợ hãi, nhưng nghĩ rằng Huê vẫn còn khóc. Nàng khóc vì
ức chế,
chứ không có gì giận dỗi ai cả. Thụy lại rời nhà, cùng đi với Lăng suốt
ngày.
Hai đứa đi xe đạp, đến thăm gia đình họ hàng. Ai cũng thấy anh thay
đổi, trông
vẻ mặt đầy nghị lực, tin tưởng vào cuộc sống. Và, những lời khuyên chân
tình
của bà con làm anh xúc động, tự hứa với mình cố gắng trở lại với sách
đèn.
Qua tuần lễ sau, Thụy trở lại nhà dì Hồng và đi qua
nhà
Huê. Anh mạnh dạn bước lên bậc thềm, vừa gọi tên, vừa bấm chuông.
Huê ra mở cửa, thấy anh nàng hỏi:
-Đi đâu cả ngày nay ?
Thụy nhìn đồ đạc
đang bỏ lung tung trên bàn ghế.
-Em
đang làm gì ?
-Ngày
mai em dọn nhà.
Thụy cầm lấy tay Huê.
-Anh
còn muốn gì nữa ?
-Anh
rất nhớ em.
-Bày vẽ
ra.
-Em cần anh giúp em một tay không ?
-Thích
làm giúp thì nhảy vô.
Thụy để Huê sắp xếp quần áo, còn sách vở, mấy thứ
linh
tinh anh dọn giúp nàng. Cô gái nói:
-Em
cũng thật bê bối với
những thứ đồ đạc của mình.
-Ngày
mai thì sao ?
-Giúp
cho tôi một tay.
-Em
không dịu ngọt chút nào
cả ?
-Người
em hay nổi nóng, lên
cơn lắm.
-Còn
anh lúc nào cũng thèm đi
xa. Có em, anh thấy lòng mình vui.
-Anh
liều với em, không chỉ
một lần đâu.
Giọng Huê rất giản
dị, lắng sâu. Thụy không đáp lời, chỉ
thu xếp những thứ còn lại vào túi xách.
Trước khi rời nhà, buổi sáng Huê mời Thụy uống cà
phê.
Khi Huê hỏi chuyện về sự liên hệ của anh với dì Hồng, anh nói rõ hơn.
-Em là
bạn thân của Thúy.
-Anh
biết.
Một giờ sau, Huê và Thụy cùng đi chuyến xe lam đến
nhà
người chị. Người mẹ đi vắng, hai đứa nhỏ vòng tay chào đón khách. Huê
có căn
phòng riêng ở nhà dưới. Thụy giúp nàng dọn dẹp căn phòng.
-Công
việc này làm anh luôn
nhớ đến em.
Thụy vừa nói, vừa đặt khung ảnh của nàng treo ngay
ngắn
trên tường chỗ có đặt bàn học. Khi đã có được chút nồng nàn với cô gái,
lúc nào
trong tôi cũng đầy ắp hương vị của tình yêu. Treo bức ảnh xong, tôi lùi
lại một
bước nhìn đăm đăm bóng dáng người đẹp. Trong tôi, nắng ấm chan hòa, ánh
sáng
của ngày vừa đổi mới.
Xong việc dọn nhà, Huê mời Thụy đi ăn cơm trưa. Thụy
không đói lắm, nhưng từng giây phút được ở bên cạnh nàng là một dịp anh
được
sống với cuộc đời hạnh phúc khi có được tình yêu. Yêu một người con
gái, và
được gần gũi bên nhau để chuyện trò, dù cho chưa có gì với nhau cả,
cũng đã cảm
giác được tình yêu. Huống gì, vào buổi tối ấy, sự đâm liều của anh nó
may mắn
như một người trúng vé số.
Nhà Huê ở trong khu bàn cờ, gần đấy là khu chợ, và
đi ra
đầu đường là gặp phố chính. Dọc con phố, nhà nào cũng là cửa hiệu buôn
bán,
quán ăn, quán giải khát. Quán ăn của người Hoa luôn đông khách. Hai
người ngồi
phía dãy ngoài mái hiên, Huê cầm menu gọi món ăn, và anh có hơi ngạc
nhiên khi
cô gọi cả bia nữa.
Thụy lên tiếng:
-Ông
cho một chai bia lớn,
hai ly.
Không đợi lâu, bữa ăn dọn ra ngay sau đó ít phút. Cả
cơm
và thức ăn nóng tràn hơi khói. Thụy cầm chai bia rót vào ly Huê trước
xong đến
bên mình.
Thụy bảo Huê cầm ly lên, cụng một cái trước khi
uống. Và,
anh nói:
-Rượu
bia này uống chơi.
Nàng nhìn lại anh hỏi:
-Khi
nào mới uống thiệt ?
-Đâu
biết. Chuyện của em mà.
Huê nói:
-Em
không cám dỗ anh đâu.
-Không
, thì thôi.
Bữa ăn trong sự yên lặng. Nhưng không có gì đáng
tiếc xảy
ra cho hai người. Sau bữa ăn, Thụy đưa Huê về nhà rồi chia tay.
Không biết đi đâu, và cũng chưa muốn về nhà, ra tới
trạm
xe buýt gặp xe anh bước lên và theo chuyến xe về tới bến.
Sài Gòn luôn đông vui. Một mình lang thang trên phố,
hai
mắt người lính trẻ luôn nhìn xa gần, chung quanh, và trong ý nghĩ luôn
ước mong
gặp một ai quen để nói ra những lời tâm sự.
Trên vỉa hè Lê Lợi có rất nhiều bán sách báo cũ. Qua
mỗi
sạp, Thụy dừng lại trong chốc lát. Anh mua được mấy cuốn sách , và một
số tạp
chí Sáng Tạo cũ. Thụy cứ đi hết con đường lên tới nhà hát thành phố. Và
rồi,
anh vòng qua bên đường đi ngược trở lại dọc theo hè phố, đến quán Mai
Hương ghé
vào gọi một ly cà phê đá
Người
ngồi trong quán hút
thuốc nhiều làm anh bị sặc khói. Nhưng, anh vẫn đốt thuốc để uống cà
phê. Ngồi
trong quán ai cũng nhìn ra con đường rất đông người đi dạo trên phố
chính.
Những tà áo dài của các cô gái đi ngang qua làm dịu mát buổi chiều.
Những tà áo
thật đẹp, đem cho mỗi người một niềm vui, và có cả sự buồn nhớ nữa.
Trời sắp
tối, Thụy ra về. Quán vẫn đông khách, và bắt đầu ồn lên cùng với tiếng
nhạc,
lời ca, vọng từ dĩa hát.
Về nhà dì Hồng, Thụy gặp Lăng. Hôm nay là ngày giỗ
của mẹ
dì Hồng. Thụy nói lời xin lỗi dì rồi đi dốt hương. Khi anh trở vào, cô
Thúy nhìn
anh với cặp mắt dò xét. Ngồi quanh chiếc bàn tròn có Lăng, dì Hồng, và
Thúy,
Thụy nói chuyện về những ngày nghỉ phép đã qua.
Sau đó, bữa cỗ dọn lên. Chuyện trò vui, anh hăng hái
nói
chuyện về đời lính, về tương lai của một chuyên viên Không Quân mà anh
tin
tưởng là sẽ đem lại nguồn lớn trong cuộc sống của mình.
Thúy nói:
-Anh đi
lính rồi trông trẻ
hẳn ra.
Thụy cảm thấy nhẹ nhõm vì có được sự dịu bớt những
mối
nghi ngờ trong mắt Thúy.
-Anh
khỏi lo chuyện quân dịch
nữa.
-Rồi
anh có đi học lại không
?
-Thong
thả, qua năm tới.
Thụy hỏi qua Lăng:
-Tết
này có về nhà không ?
-Không.
Tuần đến tôi đi Đà
Lạt.
-Đi
chơi.
-Không.
Tôi đi dạy
Không hiểu sao, Thụy chợt có cảm giác mình đang bị
thành
phố bỏ rơi.
-Lên
trên đó ở luôn.
-Không,
sang năm tôi về.
VI
Trước khi bắt đầu vào năm học, Oanh dành hai ngày đi
theo
Nguyên ra Quảng Trị thăm làng quê bên nội và bên ngoại của chàng. Hai
người chỉ
đem chung cái túi xách với vài bộ quần áo để thay, khăn mặt, bàn chải
đánh
răng, một ít thức ăn khô và trái cây trong hộp, đây là phần lương khô
hàng
tháng của Nguyên. Oanh cũng đem theo cọ, mực màu, giấy vẽ, đặc biệt là
chiếc
máy ảnh hiệu Canon. Nguyên vẫn thích mặc đồ lính cho tiện. Oanh không
mặc áo dài,
nàng chọn chiếc sơ mi sọc xanh, quần jean, đội nón vải và đeo kính mát.
Nàng
thật đẹp trong dáng dấp áo dài tím thướt tha, và cũng thật trẻ trung,
nhanh
nhẹn trong lối mặc áo quần của lớp thanh niên.
Xe lửa rời ga lúc 8 giờ sáng. Trời dịu mát với quang
cảnh
đầu thu lãng đãng những bóng cây, ánh sáng buồn dịu dàng, và trên bầu
trời có
những cánh chim một mình bay xa.
Với tốc độ rất đều, đoàn tàu chạy qua cầu, qua sông,
rồi
những cánh đồng ven miền quê. Oanh rất thích thú nhìn quang cảnh, nàng
đang ở
trong vòng tay ôm ấp của người yêu. Nguyên thích trò chuyện, anh có
nhiều câu
chuyện kể thật là thú vị.
Oanh chợt hỏi:
-Tại
sao anh bỏ Sài Gòn về
ngoài này ?
-Anh ở
trong đó lâu năm rồi.
-Thì ở
Huế, không là nơi anh
ở lâu à.
-Ở
thành phố này rất là dễ
chịu. Hơn nữa, giờ đây anh có em.
-Hôm
chúng mình gặp nhau ở
quán cà phê, tình tứ quá phải không.
Nguyên hỏi:
-Trong
hai người, theo em, ai
biết mình được để ý trước.
Oanh đáp lời ngay không suy nghĩ:
-Anh.
-Thật
vậy sao ?
-Anh
không tin.
-Ờ…
-Anh
không tin em yêu anh sao
?
-Tin
chứ. Nhưng em nói thật
không ?
-Vậy
chứ theo anh là ai được
người ta chú ý.
-Em.
-Thật
là cảm động.
-Anh
ghi lại được ngay phút
giây đó gương mặt em dịu hiền, mái tóc đẹp, và nụ cười thật dễ thương.
-Chết
em mất.
Nguyên tìm lời chỉ trong vài giây, anh lên tiếng:
-Bây
giờ em cho anh nói thật
không ?
-Anh
nói đi.
-Anh
cám ơn em, nhiều vô kể.
-Ít
thôi, nhiều quá cất không
hết.
-Để anh
nói rõ thêm.
-Anh cứ
nói.
-Vừa
tan buổi văn nghệ, anh
mong gặp em nhưng vì gặp người bạn có chuyện trao đổi lâu, lúc ra đến
ngoài,
anh tìm không thấy em đâu cả.
-Cuối
cùng, ai cũng ngạc
nhiên.
-Đêm
hôm đó, trăng sáng lạ
lùng.
-Đến
khuya, trên con đường
vắng chỉ có tiếng bước chân chúng mình.
-Anh
nhớ mãi tên em, và mong
được gọi đó là tên của thành phố.
-Lớn
quá, gọi bằng tên của
dòng sông nghe gần gũi hơn.
-Em đã
bảo anh, em có tên
Rose nữa, đúng không ?
-Em rất
thích hoa hồng. Khi
hoa tàn, em không nở vứt đi mà hái cánh hoa ngâm vào trong chậu nước.
-Em
thực là con người nhân
hậu.
-Anh
nói sai rồi, phụ nữ có
lúc rất cần phải dữ, rất cần la lối om sòm để cho kẻ khác sợ.
-Em
nghĩ, nếu anh có làm điều
gì lỗi với em, thì làm sao ?
-Anh
đứng trước mặt em, vòng
hai tay xin lỗi.
Nguyên chợt dụi mắt vì bụi than. Những đám khói tàu
ngược
chiều gió cuồn cuộn bắn bụi than tung tóe bay vào các toa xe. Lúc ấy,
Oanh rút
chiếc khăn trong ví ra và Nguyên nhắm lại để nàng lau bụi bên khóe mắt.
Sau ít giây, Nguyên mở mắt hơi khó chịu một chút.
Bụi
tan, Oanh lấy chai nước lọc rót vào cái ly nhựa đưa cho Nguyên uống.
Nguyên uống
thong thả từng ngụm đầy.
Phía ngoài cánh đồng, một đàn bò đi dưới nắng. Oanh
hỏi:
-Hồi
xưa, ông ngoại anh làm
quan lớn không ?
-Ông
ngoại làm tri phủ. Anh
là con trai đầu của mẹ, và cũng là đứa cháu được ông ngoại thương nhất.
-Thực
không ?
-Ông
ngoại làm tri huyện Nga
Sơn.
-Hay
nhỉ. Nghe như có tên em
trong đó nữa.
Nguyên bắt đầu kể rành mạch chuyện được theo mẹ lên
tàu
từ Đông Hà ra Thanh Hóa, được ở chơi cả tháng trời.
-Ngày
anh về, ông ngoại nhớ
lắm.
-Ông
ngoại có đến hai bà vợ
phải không anh ?
-Ai kể
cho em nghe, chắc là
mẹ.
Oanh gật đầu. Nguyên nói:
-Bà
ngoại đầu, tên Nga.
- Tên
nghe hay. Hai bà của
ông ngoại thương nhau không ?
-Hai
chị em ruột.
-Lạ
không .
-Ngày
xưa, có chị thì phải có
em. Ở đời ông cố anh cũng vậy.
-Vậy
nữa sao .
-Anh
rất thích cái tích xưa
trong chuyện Trầu Cau.
-Em rất
thích bài hát đó.
Ngày xưa có hai anh em nhà kia cùng yêu thương một
người. Oanh cất tiếng hát, nàng vừa hát,
đầu vừa ngả xuống cánh tay Nguyên với cả mái tóc mềm mại. Nguyên lắng
nghe
những câu cô gái đang hát.
Khi cô ngưng lời ca, Nguyên hỏi:
-Bên
trường Mỹ Thuật cũng
phải học năm dự bị.
-Có chứ
anh. Sinh viên phải
học đủ bốn năm mới tốt nghiệp.
-Em có
mơ cuộc triển lãm về
những tác phẩm của mình.
-Đó là
giấc mơ của em.
-Anh
cũng có giấc mơ giống
em.
-Không
giống đâu.
Nàng mỉm cười, và khi Nguyên có ý định cúi xuống
hôn,
nàng hé môi. Nguyên hôn xuống khuôn mặt, và trên cặp môi mọng ướt của
nàng thật
lâu. Một giọng đậm đà, còn thơm ướt nụ hôn, Nguyên nói:
-Hôm
nay là một ngày vui.
Ngày vui này còn mãi.
-Mùa hè
đã qua nhanh, Vân
Oanh nói.
Tàu vừa ngừng. Nguyên không nhớ đây là ga nào. Nhà
ga nằm
bên kia đường, phía dưới cây cầu. Ngước mắt nhìn lên, hai người cùng
trông thấy
vài ngôi làng và con sông. Bên ngoài trời nắng đầy, nhưng ở phía ngôi
làng hiện
ra vẻ êm ả của những hàng tre xanh.
Làng tôi xanh bóng tre, có tiếng chuông nhà thờ
rung, Vân
Oanh hát lên một câu rồi hỏi Nguyên:
-Anh
nhớ tên bài hát không ?
-Không,
nhạc của Văn Cao.
-Anh
nhớ đúng.
Chỉ ngừng năm phút, tàu chuyển bánh. Khi trông thấy
bảng
tên nhà ga, Nguyên nói:
-Còn
một ga nữa thôi, mình
xuống.
Tàu bắt đầu chạy nhanh. Cánh đồng vẫn trống trải,
như
đang cố vươn mình theo. Luôn luôn, những cảnh vật không muốn dừng. Ở
cảnh vật,
người ta thích quan sát để nghe riêng niềm tâm sự. Đó là một thoáng
buồn Oanh
chợt nghĩ tới.
Oanh vẫn ở trong vòng cánh tay êm dịu của Nguyên.
Nàng có
cảm giác tiếng Nguyên nói, ý tưởng trong đầu Nguyên, mỗi thứ ấy là
những nét
mới mẻ của mùa màng, thời tiết. Và, trong trí tưởng nàng, cả một bức
tranh có
thể vẽ ra được đang hình thành.
Tàu chạy nhanh, nhưng không đến mười lăm phút, lại trở về tốc độ chậm rồi từ từ tiến vào ga.
-Mình
xuống ở đây.
Hai người cùng đứng lên và lấy hành lý để trên kệ.
Không
có gì để quên sau khi kiểm soát, hai người rời khỏi toa.
Hành khách xuống không đông. Nhưng ở ga này, tàu
ngừng
lâu đến mười lăm phút.
Bóng nắng vạch một đường rất thẳng dọc theo lối đi
bên
đoàn tàu. Hành khách còn phải đi bộ một quãng xa mới đến cổng kiểm vé.
Khi ra bên ngoài, hai người dừng bước nghỉ dưới mái
hiên.
Vân Oanh điều chỉnh máy ảnh xong, bảo Nguyên:
-Anh
đứng bên này đi, em chụp
cho anh một tấm ảnh.
Nguyên đứng gần cửa sổ. Bên trong cánh cửa là căn
phòng
làm việc của trưởng ga.
-Nhìn
đây, cười lên nhé.
Hết phiên mình, Nguyên bảo Oanh chọn chỗ đứng để anh
chụp
ảnh cho nàng. Oanh rất là vui, luôn luôn cười. Nguyên chụp cho nàng ba
tấm ảnh.
Đoàn tàu đã rời ga. Hồi còi vang vọng, tiếng bánh
sắt
nặng nề , gió cuộng vòng những đám khói dâng lên cao.
-Mình
phải kiếm một quán nào
nghỉ chân.
Nguyên nhìn tới phía xa, anh tiếp lời:
-Em
nhìn phía đó thấy gì
không ?
Ít giây, rồi Oanh mới nói:
-Thì
cũng là nhà ở, đường sá,
có gì lạ đâu.
-Chỗ
ngã ba, bên trong là
chợ.
Hai người xuống khỏi thêm tam cấp, vội băng nhanh
qua bên
kia đường. Phía bên trên, nhiều con đường đất băng qua các đồng ruộng.
Ở một
khu đất vắng, mọc lên một ngôi trường tiểu học. Ngôi trường, phía đầu
hồi là
lợp ngói, tiếp nối theo là những dãy phòng lợp tôn.
Nguyên bỗng nói:
-Con bé
Nhi rất là nhiều
chuyện, nghe em.
-Con bé
vui tính.
-Thụy viết thư về có hỏi thăm em.
-Thụy viết thư cho anh.
-Không,
nó viết về cho mẹ và
con Nhi.
-Không
chừng, Nhi đã kể
chuyện về em.
-Con bé
nó thích ai rồi, tha
hồ thêu dệt. Bây giờ cả nhà ai cũng mến em.
-Riêng
anh, hơn hết phải
không ?
-Vẫn
nhiều lúc, anh băn khoăn.
Sau một lúc suy nghĩ, giọng ngập ngừng Oanh nói:
-Má cứ
lo cho em.
-Anh
hiểu. Anh cũng chưa dám
nghĩ quá xa. Nhưng mà thôi, thấy em vui là anh vui.
-Cứ
nghĩ đến má, em thấy lo.
-Anh
biết má rất là quan
trọng.
-Ba em
có vẻ thích anh.
-Anh
cũng rất quí mến ba. Con
người ba rất vô tư.
-Nói
vậy là làm rể được rồi,
phải không ?
-Hy
vọng thôi. Với ba, anh
chỉ thi viết, còn má là vào vấn đáp.
-Có một
thời má đi dạy, nhưng
rồi ít năm sau, xin nghỉ.
-Em
thích dạy học không ?
-Thích
lắm chứ.
-Tốt
nghiệp xong, em xin đi
dạy.
-Em
cũng có ý nghĩ đó.
-Em dạy
ở Đà Nẵng thì gần
nhà, nhưng nếu ra ngoài đất Quảng trị này thì cả thành phố là dành hết
cho em.
-Hân
hạnh.
Hai người vui chuyện và cùng tâm ý. Tới ngã ba,
đường rẽ
vào khu chợ chừng khoảng trăm mét. Không khí xôn xao, tiếng ồn trỗi dậy
từ phía
chợ và ngang qua các dãy quán hàng, cùng lúc, mùi vị thức ăn pha trộn
bay ra từ
các quán, nhưng cũng dễ phân biệt. Cô gái bắt đầu nhận ra tiếng nói
nghe nặng
của người vùng quê. Giọng có khác đôi chút với giọng của Nguyên. Nguyên
sinh
trưởng ở đây, nhưng anh đã theo gia đình ra thành phố, rồi đi vào Nam,
rồi trở
về Huế, bao nhiêu cuộc sống trong nhiều năm tháng ấy đã thay đổi tiếng
nói và
cả con người anh nữa.
Giữa chợ đang buôn bán nhộn nhịp. Lối đi trở nên hẹp
vì
người đông và các quán hàng không chỉ cố định bên trong mà còn tràn lấn
cả ra
ngoài. Thế nhưng, bạn vẫn thấy có cảm giác dễ chịu đối sinh hoạt chợ
vùng quê.
Thực ra, đây còn là quận lỵ khá đông dân, có trường học, chùa chiền,
nhà thờ,
và đời sống rất gần với một thị trấn.
Quán hàng ăn khá nhiều, và hai người cùng cảm thấy
đói.
Nguyên đưa mắt tìm, chỗ nào cũng đông chật, sau cùng hai người đi tới
cuối chợ,
ở đó có một quán ăn rộng rãi. Bên kia quán, một căn nhà mở rộng mái
hiên để hai
bàn bi da cho thuê. Có cả bàn bóng bàn, đang trống, chưa có người chơi.
Có một
đám thanh niên đang chơi bi da. Không khí lặng im, hồi hộp.
Vừa thấy khách vào , chị bán quán cất tiếng mời
chào. Hai
người ngồi xuống ghế thấp trước cái bàn dài bày chén, tô và đũa muỗng,
bên cạnh
hai nồi cháo và bún đang nóng lên khói.
-Có gì
ăn đây ?
-Dạ
thưa nhiều thứ, cháo bánh
canh, bún rêu, bánh lá, bánh ướt.
-Em ăn
gì ?
-Ăn
bánh trước đi.
-Rồi ăn
thêm cháo hoặc bún
nữa..
Oanh gật đầu. Ơû phía trên có một quán cà phê mở
nhạc,
giọng ca sĩ Hoàng Oanh đang hát.
Chị bán quán làm hai dĩa đầy vun, trông ngon mắt.
Bánh
ướt vùng quê với nước mắm ớt, với chả, và có thịt heo xắt lát mỏng. Vị
cay rất
dịu làm cho nước mắm pha thật ngon. Oanh rất vui ngay lúc
cầm đũa gắp miếng bánh đầu tiên. Bánh ướt ở
vùng quê ngoài này hơi dày, nhưng thật dẽo. Loại bánh này có thể dùng
làm bánh
phở, hoặc pha màu thành mì Quảng. Có chả và thịt ăn ghém, mỗi thứ, Oanh
gắp một
ít. Hai người vui với bữa ăn, không nói chuyện nhiều, nhưng rất hiểu ý
khi đưa
mắt nhìn nhau. Nguyên và cô gái, ai cũng có nét đẹp riêng trên cặp mắt.
Ở
Nguyên, đôi mắt đẹp của anh gợi cho các thiếu nữ nghe
ra được tiếng hát của chim, và những
tiếng nói trong tình bạn. Ở đôi mắt cô gái, nụ cười là ánh sáng tỏa
niềm vui,
và khi cô có một nỗi buồn xa xôi, bạn sẽ thấy một màu nhung xanh của
chiếc áo
hiện về trên cặp mắt của cô. Và đôi mắt ấy, mang mang hoài nỗi nhớ của
thời
gian.
Hai người ăn hết dĩa bánh, đã thấy no. Nhưng rồi,
thấy
chị bán hàng mời mọc món cháo bánh canh cá, mỗi người ăn thêm tô nhỏ.
Nguyên nhìn
sang quán bên cạnh gọi nước giải khát.
Bên ngoài, buổi họp chợ vẫn đông. Tiếng nói của
người
vùng quê, Oanh chỉ nghe lõm bõm, cô không hiểu được hết ý nghĩa của
tiếng nói.
Ngồi trong quán đã lâu, nhưng hai người chưa đứng
dậy.
Phải đợi, lúc cô gái nhìn đồng hồ đeo tay mới biết là lúc này trời đã
trưa.
Bến xe lam nằm phía đầu ngã ba, có sáu chiếc ở đó
đậu
dưới bóng im đang chờ khách.
Cô gái mở ngăn ví lấy tiền trả. Khi hai người dời
bước
đi, có mấy người trong quán đưa mắt nhìn theo, ai cũng khen đôi lứa
tình nhân
xứng hợp.
Vừa tới bến xe, Nguyên bỗng nghe có tiếng gọi:
-Chú
Nguyên.
Ngay lúc đó Nguyên nhận ra anh Quang, con người o
ruột ở
dưới làng. Nguyên giới thiệu cô gái với người anh. Anh Quang lấy làm
vui, cười
nói hả hê với mấy người bạn tài xế. Đột nhiên anh quay lại hỏi Nguyên:
-Chú và
cô đi đâu đây ?
-Về
thăm làng.
-Xe tôi
sắp chạy.
Anh Quang nhìn đồng hồ tay, xong ra phía sau đếm
hành
khách. Có một người nửa tới với hàng hóa, anh vội leo lên trần xe để
chất hàng.
Cô gái chú ý đến dáng vẻ bề ngoài của anh, chiếc quần tây đen, áo kaki
nhà binh
có cầu vai và hai túi, đầu đội nón lưỡi trai.
Anh Quang cột hàng xong, từ trần xe bước xuống và
dành
hai ghế trước cho Nguyên và cô gái ngồi.
Khi xe mới nổ máy, Nguyên hỏi:
-Mỗi
ngày anh chạy mấy chuyến
?
-Bốn.
-Cũng
được chứ anh.
-Ờ, tàm
tạm thôi. Thường
chuyến lên chợ buổi sớm, và chuyến cuối buổi chiều về đông khách hơn.
Ngồi bên Nguyên cô gái vừa cảm thấy xa lạ, vừa thân
quen
với nơi mình đến. Từ lâu nay, cô quen với cuộc sống ở thành phố, và đây
là lần
đầu tiên cô đi về một làng quê của chàng. Tự dưng cô yêu mến, không hề
có ý do
dự, đòi hỏi.
Xe lăn bánh bánh chạy một vòng cua quanh bến, ra đầu
ngã
ba, rẽ trái chạy trên con đường trồng cây thông , vượt lên dốc cầu, đổ
xuống
quận lỵ sau đó bắt đầu là con đường làng đất cứng, nhưng bằng phẳng,
rộng rãi.
Khung cảnh làng quê hiện ra thật yên bình, nắng mênh
mông
trải rộng qua những đồng lúa, bờ đê, và một con kinh đào rất sâu, rất
dài, dẫn
nước từ phía dòng sông đưa vào ruộng. Những nguồn nước dẫn ở sông vào
chảy
mạnh, dào dạt như dòng suối, và hình ảnh làm cô gái thấy lạ lùng, quan
sát là
những chiếc xe đạp nước. Lúc này là giờ
nghỉ trưa, nhiều chiếc ngừng hoạt động nhưng vẫn còn một vài chiếc có
người
đang đạp.
-Chú
Nguyên còn viết báo
không ?
-Cũng
còn, nhưng không chuyên
lắm. Tôi ra ngoài này rồi, không ở Sài Gòn nữa.
-Chú có
gặp chị Số không ?
-Chị ở
Biên Hòa. Tôi có đi
thăm, lúc sau này, chị buôn bán cũng khá.
-Ở làng
mình, người ta lần đi
vào Nam hết.
-Đã lâu
quá, nay tôi mới về.
-Bà vẫn
còn mạnh.
-Tôi
đưa cô bạn về thăm bà,
thăm quê, ở một hôm nay ngày mai đi ra
Đông Hà về quê ngoại.
-Sao
chú đi ít ngày vậy ?
-Không
được nhiều ngày, cô
còn trở vào đi học nữa.
-Cô
người ở đâu ?
-Người
Đà Nẵng.
-Hồi đi
lính, tôi ở đơn vị
tiếp vận trong đó.
-Anh
được giải ngũ.
-Ờ,
giải ngũ loại hai.
Ruộng lúa hai bên nối nhau trải dài. Nhà ở các ngôi
làng
nằm sâu bên trong, có ít nhà ngói, nhiều nhà tranh, nhà nào cũng có sân
phơi
lúa, có vườn, và dọc con đường làng nơi nào cũng có trồng cây lấy bóng
mát.
Những ngôi làng kế cận nhau, nhưng cách vài cây số là có tên khác. Và
mỗi nơi,
cảnh vật cũng có chút đổi thay.
Từ quận, con đường quan rộng chạy thẳng ra tới vùng
biển
Mỹ Thủy xa12 cây số. Nãy giờ, cô gái chẳng lên tiếng chuyện trò với
Nguyên và
ông anh họ tài xế, nhưng cô rất vui thích được nhìn cảnh đồng quê. Hàng
cau,
bụi chuối, giếng nước, những lớp màu ngói đỏ, ngói nâu, những ngôi nhà
tranh,
từng sự vật tưởng như đang sắp xếp thật
gọn một chuyến đi đường dù là ngắn, nhưng cô sẽ nhớ
mãi về sau này.
Hai chặng anh Quang ngừng xe cho khách hàng xuống.
Con
đường xe chạy cũng qua ba khúc quanh, hai đoạn dốc và bốn cây cầu gỗ.
Xe dừng đầu chợ, Nguyên và cô gái xuống. Anh Quang
xua
tay khi Nguyên trả tiền nhưng Nguyên bắt anh lấy và tiền Nguyên đưa
cũng rộng
rãi.
Anh Quang cám ơn và cho xe trở đầu. Thực sự, lộ
trình xe
chỉ dừng khách đầu ngã tư, nhưng vì là người trong gia đình anh đưa
người em
đến chợ để đi con đường vào làng cho gần.
Nguyên nói với người yêu:
-Làng anh ở đây.
-Mới là
con đường thôi.
-Em nói
đúng. Nhưng về tới
làng, chỉ xa chừng trăm mét.
Ngồi trong quán, một chị bán quán nhìn ra. Chị ta
lên
tiếng:
-Mua
quà bánh đi anh.
Nguyên liền đi vào quán mua hai ốp hương. Khi trở ra
ngoài, vừa đi ít bước Nguyên nói:
-Làng
quê anh rất nghèo.
-Anh
làm em cảm động.
-Có em
về thăm, bà nội chắc
mừng lắm.
-Không
phải đâu, anh đừng
tưởng em không hiểu ý anh.
Một giọng vui, Nguyên nói:
-Nhưng
cảnh làng quê nghèo,
nó được thi vị hóa cái đẹp, phải không Oanh?
-Vậy
nên, đám nghệ sĩ, anh
nào cũng nghèo.
-Họ là
những người rất có tâm
hồn.
-Bài
hát nào về làng quê anh
thích nhất ?
-Bài
Quê nghèo.
-Cảnh
quê giống như làng anh,
đúng không ?
-Không,
mà giống miền quê
ngoại.
-Quê
ngoại nghèo lắm sao ?
-Không,
nhưng hồn bài nhạc
làm anh nhớ đến quê ngoại nhiều hơn.
-Anh
nhớ bài nhạc không ?
-Anh
không nhớ hết.
Con đường nhỏ hẹp, có bóng im, thật mịn màng khi
bước
chân đi trên lớp cát. Và, cô gái có được ngay cảm giác này khi cô tháo
đôi dép
xách tay để được bàn chân êm đi trên cát. Bên cạnh đường, dưới hàng nứa
thấp là
con mương nhỏ, nước rất trong.
-Oanh ơi, tiếng Nguyên nghe lạ tai.
-Trời
đất, em đây mà, anh sợ em đi mất sao ?
-Không,
anh muốn nói với em.
Ngày Tết, ở miền quê ngoại rất vui.
-Ngày
Tết, đâu mà không vui .
-Nhưng
quê ngoại mới là niềm
vui cho em. Anh vừa nhớ ra câu hát trong bài nhạc: Nằm mơ, mơ thấy trăm
họ tốt
tươi, mơ thấy bên lề cuộc đời áo dài đùa trong tiếng cười.
Oanh reo lên:
-Em
hiểu ý anh. Đó là câu hát
ca ngợi cảnh ngày xuân, không ở nơi đâu
hay bằng.
Rồi một giọng xa vắng, nàng tiếp lời:
-Hồn
quê như nắng mùa xuân.
Hồn quê cũng đẹp như một tấm áo dài.
VII
Với túi xách nhẹ đeo vai và chiếc va li nhỏ đựng áo
quần
sách vở, Lăng từ giã Sài Gòn. Khi xe buýt ghé trạm ngừng ở lề đường bên
ngoài
bến xe Pétrus Ký, chỉ có mình Thụy và Lăng xuống.
Thời gian còn sớm, hai bạn ghé vào quán ăn sáng nằm
trong
khu vực bến xe. Trời đã sang thu, buổi sáng dịu mát.
Hai tô hủ tiếu lớn, ăn no. Rồi gọi tiếp hai ly cà
phê sữa
nóng. Đốt xong điếu thuốc, Thụy nói:
-Tôi
sắp đi Nha Trang.
-Anh
đổi ra làm việc ngoài đó
?
-Không,
tôi đi học khóa
chuyên môn.
-Lâu
không ?
-Ba
tháng. Tôi lại được về
Sài Gòn .
Nhìn lại Thụy qua một nụ cười, Lăng nói:
-Anh đi
lính mà sướng hơn làm
quan.
-Tôi
học chuyên môn để lấy
bằng ăn phụ cấp, xong tôi cũng không đi ngành này mà sẽ biệt phái trở
lại làm
cho báo Lý tưởng.
Cà phê nóng ấm, ngon miệng. Nghĩ về chuyến đi, Thụy
thấy
Lăng không vui. Một giọng dè dặt, Thụy hỏi:
-Năm
sau thi lại, chỉ vấn đáp
thôi hay cả viết nữa.
-Tôi
thi vấn đáp hai thôi.
-Rồi
cũng nhanh, năm sau về
lại Sài Gòn.
Ngồi không lâu, xong bữa ăn sáng Thụy trả tiền và đi
cùng
Lăng tới chỗ xe đậu. Trên đường đi, Thụy nhắc tới anh Nguyên, và cũng
tiện cho
Lăng biết về cô bạn gái của anh Nguyên tên
là Vân Oanh ở Đà Nẵng.
-Anh đã
có gặp rồi ?
-Chưa.
Nhân kỳ nghỉ phép tôi
nghe Nhi nói.
-Anh và
cô Huê, hai người tới
đâu rồi ?
-Không
có gì cả.
Nói xong, Thụy lại tiếp lời giải thích là Huê chưa
thực
sự có người yêu như nàng muốn. Thế nhưng, anh được ở bên nàng như một
người bạn
hiểu nàng, và nghe nàng nói những lời tâm sự. Vừa rồi, Huê thi đậu khóa
hai, ý
định sẽ ghi danh học ở Văn Khoa. Từ hôm Huê dọn nhà đến nay, thỉnh
thoảng anh
tới thăm, lúc trò chuyện ở nhà, lúc ra quán cà phê ngồi. Kể ra, vì chưa
có gì
với nhau cả, nên hai người rất thân mật một cách tự nhiên.
Dừng lại bên dưới xe, Lăng lên trước xong nhận chiếc
va
li Thụy chuyền qua ô cửa. Sắp xếp chỗ để hành lý trên ngăn giá xong,
Lăng ngồi
xuống, trong lúc chờ xe khởi hành hai bạn tiếp nối câu chuyện cho qua
giờ.
-Chừng
nào anh ra Nha Trang ?
-Cuối
tháng này.
-Lâu
nay, anh có truyện nào
đăng báo không ?
-Có.
Tôi hay gởi truyện đăng
ở báo ngày và tuần báo.
-Nhuận
bút khá không ?
-Ít
thôi, nhưng đăng ở mấy
báo đó dễ dàng.
Không đợi đến mười phút xe chạy. Thụy đọc thấy một
nỗi
buồn trên cặp mắt của Lăng, bỗng dưng cảm thấy đó là người bạn thân
thiết nhất
của mình.
Nắng đã lên cao, và trải rộng dần trên khắp các khu
phố.
Hôm nay là thứ bảy. Sài Gòn cách Đà Lạt 300 cây số,
xe đò
hay rước khách dọc đường, thời gian cũng phải chạy mất hơn bảy tiếng
đồng hồ
mới đến nơi. Và dù vậy, Lăng cũng có được một tuần lễ nghỉ trước khi
vào năm
học mới.
Xe buýt đỗ khách tại bến chính ở khu chợ Bến Thành.
Giữa
cảnh tượng ồn ào, huyên náo trên các ngả đường, Thụy chẳng biết mình đi
đâu, và
làm gì đây cho qua hết một ngày.
Những quầy sách cũ, rạp hát, quán cà phê đã vội vàng
biến
mất khi anh vừa nghĩ đến. Nơi thành phố cũ ấy, áo trắng là hương thơm
tinh
khiết của mùa hoa lan. Vừa bước đi, Thụy muốn vẽ lại trong trí nhớ mình
thành
phố đó. Với những dòng sông, bao nhiêu cây cầu, và mùa thu đã trở lại.
Thụy
nghĩ đến giọng nói, đôi mắt của Liên An. Bây giờ đây, anh thật hết sức
cố gắng
tìm sao cho thấy được một bóng dáng Vân Oanh nguyên mẫu ngoài đời. Ký
ức về
nàng, dù là qua sự mường tượng nhưng vẫn có thể xây dựng nên một câu
chuyện
tình. Trong năm học ấy, nàng mới 17 tuổi. Trước khi tôi đến thành phố
nàng ở và
gặp nàng, tôi đã trải qua một mùa thi đầy ân hận, cay đắng. Về thời
gian sau
này, tôi học hành có tiến bộ, trở thành học sinh khá trong lớp. Vậy mà,
không
được cái vận may trong mấy ngày thi cử nên tôi bị rớt hai khóa liền.
Thật chết
người ở lần thi khóa nhì, tôi qua được loạt I, nhưng rớt loạt II, vì
thiếu một
điểm. Chiều hôm ấy, trời xứ Huế buồn dưới cơn mưa nặng hạt. Dưới mái
hiên văn
phòng trường Quốc Học, tôi và ba tôi đứng đợi thầy giám thị xem điểm
giúp. Một
lúc khá lâu, thầy trở ra, và lúc nhìn dáng thầy đi chậm bước mắt nhìn
xuống tờ
giấy, tôi linh cảm chuyện không may cho mình. Quả thực, tôi hỏng thi.
Trên tờ
giấy xanh, những môn thi của tôi được ghi điểm, rồi một giọng bình thản
thầy
hỏi tôi có điểm thi thể dục không ?, tôi đáp không, lặng người đứng
chôn chân
một chỗ. Sự hối tiếc và ân hận, đã muộn rồi. Tại sao tôi không nghĩ
rằng, ở môn
nhiệm ý này, chỉ cần có dự thi, dù không đạt tiêu chuẩn về nhảy rào,
nhảy cao,
nhảy dài, leo dây các huấn luyện viên cũng châm chước cho các thí sinh
một vài
điểm dư để cộng thêm vào kỳ thi. Hôm đó, thực sự tôi có đi theo các bạn
cùng
lớp từ trường Bình Linh xuống sân vận động trường Quốc Học, nhưng lúc
sắp vào
cuộc thi, tôi chợt nghĩ lại một lần chơi đá bóng bị té ngã gãy xương
vai, nếu
lần này, thi nhảy qua rào, nhảy cao và nhảy dài, lỡ té ngã, xương cũ
tôi bị nứt
khó chữa lành. Tôi có nỗi lo sợ, do dự một lúc, và không biết chuyện gì
đã xui
khiến tôi rời khỏi sân vận động ra về. Trên đường đi, tôi tự nhủ, không
có điểm
thêm của môn thể dục tôi cũng đủ khả năng thi đậu.
Nhưng sự coi thường này, tôi đã trả một giá đắt,
nặng nề,
không chỉ mất một năm học lại mà còn nhìn thấy tương lai bấp bênh, còn
nữa, một
chuyện phải lo thêm giấy tờ xin hoãn dịch. Và, có một lối thoát dạo đó
tôi
không nghĩ ra, đó là việc đổi tên và làm giấy khai sinh sụt tuổi.
Chuyện này
không khó, vì ba tôi chỉ việc ra ngoài quê nói bác tôi là thôn trưởng
làm cho một
giấy khai sinh mới, rồi đem trình tòa án tỉnh xác nhận là xong, và qua
được
chuyện này, tôi sẽ cảm thấy yên tâm học hành.
Thật tình tôi không nghĩ ra được cách giải quyết bài
toán, là vấn đề quan trọng cho đời mình. Nhưng rồi, tôi vẫn tiếc rẻ cho
cái bằng
Thành Chung mình thi đậu, nhờ đó, tôi lên tinh thần và trở nên ham học.
Tôi
nghĩ tiếp, với bằng Thành Chung tôi có thể thi Sư phạm cấp tốc, sau một
năm ra
làm giáo viên tiểu học, đồng lương cũng không đến nổi quá kém, thiếu
hụt. Rồi,
nương cái nghề giáo làm chỗ dựa, lần hồi, tôi học thêm, trễ tràng lắm
từ một
đến ba năm tôi cũng lấy xong được bằng Tú Tài.
Mùa thi ấy đã qua. Những cây phượng trên các ngả
đường
trong thành phố, hoa vẫn còn đỏ. Những ngày đợi mùa thu sắp về, tâm
trạng những
người học sinh rộn rã lắm, nhưng tôi cảm thấy mình chán nản gần như
tuyệt vọng.
Tôi muốn rời xa Huế, đi Sài Gòn. Tôi thèm trở lại thành phố này, và nếu
được,
tôi sẽ tìm kiếm một công việc làm có đồng lương rồi đi học lớp buổi
tối. Tôi
ngỏ lời tâm sự với ba tôi, nhưng ba tôi im lặng, không quyết đoán. Một
ngày ấy,
dì Bích Vân ở Đà Nẵng ra làng quê nhân tiện ghé thăm, nhân lúc đó mẹ
tôi hỏi
xin ý kiến dì, được dì bằng lòng chấp thuận.
Dì Bích Vân về thăm quê một tuần mới trở lại. Rồi,
tôi đi
theo dì vào Đà Nẵng, đến nhà dì ở đường Trưng Nữ Vương. Một tuần lễ
sau, tôi
mới làm đơn xin nhập học trường Sao Mai.
Trường Sao Mai là trường tư thục công giáo lớn nhất
thành
phố. Ngôi trường tọa lạc trên một diện tích đất khá lớn, các phòng học
đều
rộng, thoáng đãng, phần đằng sau gồm nhiều dãy nhà dành cho các lớp
tiểu học và
đệ nhất cấp. Nơi phần sau này, còn có sân chơi bóng chuyến, vũ cầu, và
một trạm
phát thanh. Ở phần trước, một tòa nhà lầu ba tầng, có hội trường, sân
thượng,
nơi này, cổng chính nhìn ra công viên và bến Cảng. Và toàn thể của tòa
nhà được
dành cho các lớp đệ nhị cấp.
Trường Sao Mai bậc đệ nhị cấp có đủ các lớp Đệ Tam,
Đệ
Nhị và Đệ Nhất. Tôi nhập học trễ, thầy giám thị ghi tên tôi vào lớp Đệ
Nhị B1,
đây là lớp vào giờ ngoại ngữ được tách ra, nhập chung với lớp của ban A.
Tôi không hay biết , đến buổi sáng thứ sáu sau hai
giờ
đầu, vừa nghe chuông ra chơi hơn một nửa lớp bên tôi đã vội ôm tập rời
phòng.
Tôi hỏi ra, mới hiểu, và ngồi lại yên chỗ để chờ giờ học môn tiếng Pháp.
Giờ chơi mới bắt đầu. Sự đổi lớp ồn ào, lộn xông,
nhưng
tôi không bị chia trí. Tôi lấy tờ báo Tiếng Chuông mở ra đọc. Tôi đọc
một
truyện ngắn dự thi đăng ở trang tư. Bỗng dưng có sự linh cảm, tôi ngẩng
đầu
nhìn ra cửa thấy một cô gái xuất hiện. Hai người cùng ngạc nhiên, nhìn
thấy tôi
chú ý, cô liền dừng bước. Tôi có được một hình ảnh toàn diện về cô,
trước tiên
là dáng người thanh nhã qua chiếc áo dài nâu, mái tóc xõa xuống kín
vai, sau
đó, là vẻ đẹp của một đôi mắt nhỏ như hai vị sao dừng rất lâu trên một
gương
mặt tỏa ra ánh sáng. Lúc ấy, cô gái tỏ ra nghiêm trang, nhưng mắt cô
vẫn nhìn
tôi. Tôi thầm nói với cô về sự bối rối, nỗi ngại ngùng của mình. Ít
giây thôi
mà tưởng thật lâu, cô gái dời bước rẽ lối trái, đến dãy bàn thứ nhì,
xong cô
đặt chiếc cặp xuống. Sau đó, tôi không còn nghe rõ được tiếng cô nói
với một
người bạn ngồi cạnh bên cô.
Tôi đang bâng khuâng, cố gắng trở lại sự bình
thường. Tôi
lại cúi xuống đọc báo, đến đoạn gần cuối truyện lúc đoàn tàu vừa chuyển
bánh
rời ga thì hồi chuông báo hết giờ ra chơi vang lên.
Thầy giáo vào lớp, đặt chiếc cặp da lên bàn. Tôi
nhìn
người thầy, hỏi nhỏ anh bạn, được biết là thầy Huynh. Vị thầy có mái
tóc muối
tiêu, chải rẽ gọn gàng. Trên gương mặt sạm đen, hằn đọng nhiều dấu vết
suy tư,
và cặp mắt nhỏ của thầy ẩn bên trong chiếc kính trắng lớn.
Hôm nay, chúng ta học bài mới. Thầy Huynh nói xong,
mở
rộng cuốn sách bìa xanh của tác giả Mauger, giới thiệu một đoạn trích
giảng văn
rút từ trong tiểu thuyết Courrier Sud của nhà văn Pháp, Antoine de
Saint
Exupéry.
Phòng học của lớp khá rộng, có một bức tranh và
chiếc
đồng hồ treo tường. Từ phía những cửa sổ bên trái, không cần phải đứng
lên,
ngồi ở bàn học phía ngoài có thể trông thấy rõ hết quang cảnh đường
phố, khu
công viên và mọi sinh hoạt trên bến Cảng.
Thầy Huynh đứng trên bục giảng đọc đoạn văn, tiếng
đọc
chậm, lời nghe du dương, cảm khái. Vừa đọc, thầy vừa dùng động tác bằng
tay lúc
đưa ra, lúc kéo vào để biểu thị những sắc nét hùng hồn hay êm ái của
đoạn văn.
Và chừng sau mười lăm phút, thầy đọc xong.
Trước khi giảng, thầy nói qua về tiểu sử tác giả.
Saint
Exupéry là một nhà văn phi công. Bước vào nghiệp bay, ông làm phi công
chở thư
cho những chuyến bay đường dài, tới các xứ vùng Nam Mỹ. Có chiến tranh,
ông
nhập ngũ, là Đại úy phục vụ trong một phi đoàn tác chiến. Trong thế
chiến thứ
nhì, ông bay loại phi cơ thám thính,
trước một năm cuộc đại chiến kết thúc, ông bị mất tích trong một phi vụ
tình
báo trên vùng lãnh thổ nước Đức chiếm đóng. Có tin là ông bị địch bắn
hạ, nhưng
cũng có tin máy bay của ông bị hỏng máy rơi xuống biển. Người ta chỉ
ghi nhận
là ông bị mất tích, do máy bay lâm nạn.
Ngoài nghiệp bay mà ông gắn bó, ông còn là một tiểu
thuyết gia nổi tiếng. Những tác phẩm quan trọng của ông gồm có: Bay đêm
(Vol de
nuit), Chuyến thư miền Nam (Courrier Sud), Terre des homes (Cõi người
ta) Pilote
de guerre (Phi công thời chiến) Citadelle (Thành Trì) Le petit prince
(Cậu
hoàng con)
Người thầy đã nói về cuộc đời một nhà văn phi công
bằng
một giọng thật cảm khái, hùng hồn. Riêng tôi, tôi cũng đã có một lần
ước được
trở thành phi công. Năm học vừa qua, nếu tôi lấy được bằng Tú Tài I,
tôi đã
tính chuyện gia nhập vào Không quân đi theo ngành phi hành. Nhưng, ước mơ này đã vuột khỏi tầm tay, rồi
nó cũng không còn làm tôi mong đợi nữa. Nhà văn Saint Exupéry làm tôi
nhớ đến
tác giả cuốn Đời Phi Công. Đây là một
tập tiểu thuyết gói ghém những lá thư bốn phương
trời của một chàng sinh viên nước Việt gởi
về cho một cô em gái
nơi quê nhà. Cô gái, tên Phượng, tên của một loài chim hiếm quý. Tôi đã
đọc
xong cuốn sách này trong một ngày chủ nhật trên căn gác. Đọc xong, tôi
thật mến
yêu và cảm động về tình đất nước của chàng trai. Còn với cô Phượng,
không chỉ
bao nhiêu hương sắc và nét đẹp của cô dành cho chàng trai thôi, mà có
cả tôi
trong đó nữa. Rồi như đâu, một lần ấy tương tư, cô hỏi tôi, đã tìm thấy
được ai
ngoài đời chưa. Tôi khẽ lắc đầu, chợt mỉm cười nghĩ đến một lứa đôi
hạnh phúc
đó là chàng trai của tác giả và cô gái đây thôi. Từ dạo đó, tôi thích
đọc nhiều
tiểu thuyết. Khi một nhân vật nữ xuất hiện cho mình một tình cảm rung
động, tôi
thường hay đem hình ảnh đó trong tiểu thuyết ra hiện diện trước cuộc
đời. Nhà
văn Nhất Linh viết cuốn Đôi Bạn thật là hay. Những chiếc lá bàng lay
động, phất
phơ trong ký ức của một người Hà Nội đang nhớ nghĩ về thành phố xưa của
mình.
Tôi rất thật lòng đối với cô Loan. Tôi cũng đã biết Dũng Nhất Linh rất
yêu cô.
Khi xa cô, Dũng chỉ gói ghém một mình cô trong tấm lòng áo trắng. Nhà
văn Nhất
Linh luôn gắn bó cuộc đời mình với những nhân vật ông đã sáng tạo ra
tiểu
thuyết. Tôi còn thích một cuốn truyện khác nữa của ông, đó là Bướm
trắng. Khi
đọc xong cuốn truyện, không một chút ngại ngần tôi nói ngay với tác giả
rằng,
tôi đã yêu cô Thu. Nhất Linh suy nghĩ, đôi mắt đen sâu, ông ngồi im như
pho
tượng. Ôi, cô ấy thật tuyệt vời. Nhìn cô trong dáng vẻ một thiếu nữ mặc
áo xô tang,
thật là đẹp buồn rất não nùng. Rồi lúc được gần bên nhau, cô để cho tôi
say đám
nhìn cô, và rất tự nhiên cô ngồi nghe tôi nói những lời tỏ tình.
Tiếng giảng bài của thầy Huynh chậm đều, rất rõ, và
lôi
cuốn từ mỗi tác động hai bàn tay và trên đôi mắt. Tiếng Pháp thầy đọc,
vang âm
như nước dòng suối. Tôi vừa lắng nghe những lời giảng bài của thầy,
nhưng vẫn
chưa muốn rời khỏi tên các cô gái Geneviève, Phương, Loan, Thu, là
những bóng
hình rất đáng yêu trong tâm tưởng.
Trên tấm bảng sơn xanh, người thầy khởi sự viết
những
dòng đầu tiên của đoạn văn trích giảng. Cả lớp yên lặng, ghi chép. Đoạn
văn khá
dài, dòng cuối kết thúc là lúc phi cơ cất cánh rời khỏi phi trường.
Với dáng người cao, bước đi trầm lặng, cái bóng áo
trắng
của người thầy qua lại trong lúc học sinh chép bài.
Không đợi lâu, chúng tôi chép bài xong, người thầy
khởi
sự ngay bài giảng, lúc này, phần chính yếu về văn phạm, rồi nghĩa chữ
khó và
các thành ngữ. Hết giờ đầu, có tiếng chuông ngắn đổi giờ, nhưng lớp học
vẫn
tiếp tục buổi học. Khi kết thúc xong bài giảng, thầy cho chúng tôi mười
phút
chuẩn bị phần bài dịch. Rồi, lần lượt thầy gọi một vài học sinh đứng
lên dịch
từng đoạn ngắn. Mỗi khi thầy gọi người nào, tôi đều chú ý, lắng nghe
tên. Bỗng
nhiên, tôi thấy tim mình đập mạnh lúc thầy gọi tên cô gái. Hướng mắt
nhìn vê
cô, tôi chờ đợi trong cảm giác nôn nao. Cô cất tiếng đọc đoạn văn, rồi
bắt đầu
dịch. Tôi nghe được tiếng cô rất trong trẻo, và đoạn dịch văn của cô
thật suông
sẻ. Tôi cũng thấy thầy Huynh lắng tai chú ý nghe những lời dịch của cô.
Thầy
gật đầu nhẹ, lúc cô vừa dịch xong, thầy quay về phía bảng gạch bên dưới
những
thành ngữ và giải thích thêm một số nghĩa mới.
Từ bên này, mắt tôi không rời bóng dáng cô. Tôi tự
nhiên
cảm thấy vui trong lòng. Và thực sự, tôi yêu mến cô gái rất nhiều với
những
hình ảnh đầu tiên của cô mà tôi đang cố tìm cách lưu giữ. Vì rằng, cô
đã xâm
chiếm hồn tôi bằng màu nâu nhạt của chiếc áo dài, bằng
đôi mắt nhỏ bé, bằng tất cả sự duyên
dáng của bước đi qua mái tóc mượt mà kín xõa hết xuống hai vai. Bao
nhiêu nét
ấy, còn gợi ra cho tôi mường tưởng một bức tranh vẽ chân dung rộng lớn,
nó mang
ấn tượng về cuộc đời bằng một sự trầm lặng, xưa cũ. Nhìn thật lâu, bạn
sẽ còn
thấy ở cô thêm nhiều nét lạ lùng , nổi bật là một khuôn mặt dịu dàng
tỏa sáng,
rồi trong cặp mắt nhỏ đẹp như hai vị sao những nụ cười xanh lấm tấm
tưởng đấy
là tiếng chân chim vui đang nhảy nhót . Sự yêu thương
dành cho cô gái biết bao nhiêu mới đủ, khi mà
cô thực sự mong rằng, luôn luôn cô là nỗi nhớ trong lòng của bạn và
tôi. Nỗi
nhớ , không chỉ thoáng trong một phút, một giây, hoặc một ngày giờ gần
như đáng
kể, mà đấy là cả tháng năm ưu phiền, mỏi mệt, suốt đời như con nước
trầm lặng
chảy theo dòng sông.
Thời gian còn chừng mười lăm phút nữa, tan buổi học.
Thầy
Huynh có một vài câu chuyện nói với cả lớp. Tôi nghe, nhưng không thể
rời mắt
khỏi cô gái, và rồi cô bắt gặp cái nhìn của tôi. Hiểu được lòng tôi
nhỉ, nên cô
đã nguyên vẹn cả một gương mặt cho tôi có được một sự yêu thương hết
đời mình.
Bất chợt, thầy Huynh gọi tôi đứng dậy. Cả lớp nhìn
tôi,
và có đôi mắt cô gái nữa.
-Em là
học sinh mới ?
-Dạ.
-Em tên
gì ?
-Em tên
Thụy.
-Trước
đây, em học ở đâu ?
-Dạ, ở
Quảng Trị.
-Gia
đình em từ ngoài đó, vào
trong này ?
-Dạ,
không. Em vào đây một
mình.
Tôi bắt đầu ái ngại, không dám nhìn đâu cả. Thầy
Huynh
nói:
-Tôi có
một thời gian dạy học
ngoài đó.
Tôi đứng im. Lúc này, lòng tôi dịu lại và được đón
nhận
đôi mắt cô gái nhìn sang tôi, vừa giữ ý. Một giọng thân tình, thầy
Huynh nói
với lớp học về những kỷ niệm trong năm đất nước mới chia đôi, và ngôi
trường
đầu tiên thầy dạy học ở tỉnh Quảng Trị.
Hồi chuông reo lên, kéo dài đã cắt
đứt hết câu chuyện và những kỷ niệm thân
thiết của thầy đối với tỉnh Quảng Trị, nơi ấy là quê hương tôi. Sau
này, tôi ít
khi trở về thăm lại chốn củ.
Thầy Huynh vừa ra khỏi lớp, chúng tôi cùng ra theo.
Tiếng
cười nói, đùa nghịch vang ồn bên ngoài cửa lớp. Nhưng một mình tôi vừa
yên
lặng, vừa bước nhanh xuống cầu thang, đến hội trường rẽ trái, rồi đi ra
cổng
chính. Và, tôi chỉ dừng trên vỉa hè một phút rồi băng qua đường, đứng
lại dưới
bóng cây im nắng trong khu công viên rộng rãi, mát mẻ, rải rác trên các
ghế đá
có người ngồi nghỉ chân, chuyện trò. Phía ngoài con sông mặt nước mênh
mông,
tràn ngập nắng, và đây là bến cảng trong thành phố. Có nhiều tàu lớn
nhỏ đang
neo đậu và rất đông thủy thủ đứng trên boong tàu.
Trưa, nắng bắt đầu gắt. Từ nơi này, tôi có được cái
nhìn
bao quát các con đường mà học sinh đi ra phía cổng hay cổng trước đều
trông
thấy. Tôi mong tìm được cảm giác nhẹ nhõm, buông thả hết những mơ mộng
về tình
yêu gởi nàng. Tôi có hai năm học ở Đà Lạt, thành phố ấy là ánh nắng
hồng của
mùa hoa anh đào. Cũng ở đó, những ngày mưa, buồn rất da diết. Tôi đến
nơi thành
phố để đi học, rồi có cơ duyên, ở nơi đây tôi khởi sự viết câu chuyện
tình của
tôi và một cô bạn gái cùng trường. Nhưng mà thôi, đừng có chia trí, lan
man,
hãy ngóng đợi một hạnh phúc đẹp sắp mang đến cho mình.
Bây giờ học sinh đang dồn ra đông. Trên cặp mắt, tôi
chỉ
ngóng tìm một bóng dáng áo nâu. Buổi học chung hai giờ cuối để lại
trong lòng
tôi hình ảnh cô gái, vừa xa lạ, nhưng cũng thân thiết vô cùng. Bỗng
nhiên, tôi
chợt buồn khi nghĩ đến số phận mình. Nhưng thôi, nàng cũng đã biết tên
tôi, vậy
tôi hãy cố thu hết sự can đảm nghĩ về một tình yêu có nàng, rồi một
ngày của
bao nhiêu năm sau, hai người trở thành bạn đời.
Cơn gió hất nhẹ thân chiếc áo dài nâu bay lên. Từ
cổng
trước đi ra, bên cạnh nàng có ba cô bạn
nữa, hai cô mặc áo trắng, một cô mặc áo màu lam. Bốn thiếu nữ thong thả
bước.
Nàng đi phía ngoài, lúc này, tôi để mắt theo dõi bóng nàng, lòng vừa
nôn nao
sợ, vừa thầm mong nàng bắt gặp mình đang đứng đợi chờ. Tới ngã ba bốn cô cùng dừng bước, rồi ít phút sau chia tay.
Lòng tôi thực sự vui khi thấy bóng chiếc áo nâu về một mình. Tôi bỗng
muốn cất
tiếng gọi Ninh Hà hoặc liều lĩnh chạy về phía nàng trong cảm tưởng như
mình là
một cậu bé đang xúc động được gặp lại người chị đã xa cách lâu ngày.
Bên đây con đường, yên lặng tôi bước theo. Tôi nghĩ
nàng
đi bộ chắc nhà ở gần trường. Tôi hẳn còn ghi nhớ đôi mắt ngạc nhiên của
nàng
khi nhìn thấy tôi là học sinh mới, hôm nay là buổi đầu tiên biết nàng.
Ở đây
cũng như nhiều tỉnh khác, các trường học
khai giảng đã qua hai, hoặc ba tuần nay. Tôi xin
nhập trường cũng như
vào lớp muộn, vì nỗi buồn hỏng thi của tôi trong mùa hè qua vẫn chưa
khỏa lấp
nổi. Tôi đành học lại một năm để thi, và thay vì, chọn trường ngoài Huế
tôi lẩn
vào đây và đang ở trọ nhà dì Vân , chị em họ với mẹ tôi.
Khi tới căn nhà sơn cửa xanh, đây vừa là cửa hiệu
bán
nước hoa nàng đi vào. Tôi chợt dừng bước, không đi nữa. Qua khỏi bức
màn sáo,
nàng khuất dạng. Nỗi buồn làm nóng ấm trên cặp mắt tôi. Tôi nhìn con
đường Độc
Lập trải dài qua những hàng cây bên đường. Tôi vẫn đứng yên chỗ, nhìn
lại căn
nhà của nàng bên kia có những cánh cửa sơn xanh, bức màn sáo nhiều màu,
trong
tủ kính những chai nước hoa lớn nhỏ sắp thành hàng, sau đó khi thấy một
bóng
người đi lên căn gác làm tôi mường tưởng không biết bao nhiêu kỷ niệm
quyến
luyến tôi về sau này, nếu rồi đây tôi sẽ được quen biết nàng.
Sau một hồi còi ngắn, con tàu tách bến. Gió ngoài
sông
lùa qua mặt nước, tràn vào những con
đường trên khu phố một thứ hương vị muối ngây ngất, mát mẻ.
Khi buổi trưa đã bắt đầu xuống thật yên tĩnh, tôi
mới theo cái bóng đơn độc của mình về
nhà. Sự cô đơn khiến tôi nghĩ ngợi nhiều. Tôi cảm thấy
nỗi đau nhức chuyện hỏng thi chỉ vì thiếu một
điểm. Tôi đâm ra giận mình, sao mà buổi sáng đó không chịu khó ở lại
thi thể
dục, nếu mà tôi có thi thì một điểm thiếu của tôi sẽ được đền bù thật
may mắn.
Nhưng không, số phận xui khiến tôi không dự thi thể dục buổi sáng đó.
Hôm ấy vì
lo ngại cánh tay trái đã một lần nhảy cao bị té gãy nên tôi bỏ cuộc thi
trở về
nhà, nhưng rồi chẳng biết đi đâu, sau đó nghĩ lại tôi đâm ra hối tiếc,
lo lắng.
Hình như, tôi linh cảm
bóng dáng chiếc áo nâu chợt thoáng hiện. Tôi lại
nhớ, vừa cố gợi ra sự
dịu dàng, bao dung đầy thương yêu trên cặp mắt nhỏ bé của nàng. Ngày
xưa ấy,
nơi tận chân trời quê cũ tôi đã trông
thấy buổi chiều in bóng áo nâu của mẹ
tôi trên con đường đê khi về tới đầu làng. Tôi đứng trước cổng nhà bà
ngoại tôi
chăm chú nhìn cái bóng dáng xa gần lay động
hình ảnh mẹ tôi. Và, lòng thương dào dạt xiết bao nhiêu khi nhìn thấy chiếc đòn gánh trên
vai mẹ tôi trĩu nặng xuống. Tôi muốn
mình chạy, muốn mình bay tới phía con đê để được đón mẹ về, và lúc gặp
mẹ câu
hỏi trước tiên là quà bánh mẹ mua có nhiều không ?...như thế đó, giấc
mơ nghĩ
đến mẹ trên cánh đồng ruộng ở vùng quê
giờ đây đã cho tôi được nhớ thương một cô gái, được
trông thấy cô mà
liên tưởng đến hình ảnh một người mẹ lúc còn trẻ. Chiếc đòn gánh nặng
trĩu
xuống vai, vì mẹ tôi mua nhiều hàng trên chợ tỉnh. Gió chiều thổi qua
đồng
ruộng, qua con sông, thời xưa ấy thật là yên bình. Bỗng dưng, tôi nghe
ra một
giọng nhỏ nhẻ với tiếng mừng vui, cô gái bảo tôi cứ rán chút nữa, đã
sắp về gần
tới nhà rồi.
Mùa hè năm ấy, lần đầu tiên tôi đi xa khỏi tỉnh
Quảng
Trị. Tôi đi với Huân, bạn thân học cùng
lớp và ở cùng xóm quanh khu vực nhà ga. Nhà chúng tôi gần
ngay ga, nhưng đôi bạn thiếu niên thích đi
bằng xe đò khởi hành lúc trưa, tới Huế
đầu buổi chiều. Tại bến ở đây, hai đứa mới mua vé xe suốt . Tôi vào tới
Nha
Trang, còn Huân sẽ xuống quận Ninh Hòa.
Sau hai giờ đợi,
lúc số ghế bán hết xe ca mới khởi hành. Huế-Đà Nẵng cách nhau khoảng
100 cây
số, xe chạy nhanh, nhưng lên tới đỉnh đèo Hải Vân phải ngừng chờ nửa
giờ để
chuẩn bị đổ đèo. Tới Đà Nẵng, xe vào đậu bến chính và lúc đó trời đã
bắt đầu
tối. Xe vừa ngừng, trước khi hành khách xuống tìm quán ăn, quán giải
khát, cả người chủ xe và tài xế cùng loan
báo cho
mọi người biết là vì đường mất an ninh nên ở lại tối,
sáng mai xe sẽ rời bến sớm. Nhân dịp
này, tôi và Huân rủ nhau dạo phố.
Từ bến xe hai đứa
đi bộ, mỗi quãng lại hỏi đường vào phố chính. Rồi chúng tôi dừng bước bên một ngã tư , mắt vui
lên vì được nhìn thấy dãy phố nào cũng
trưng đèn sáng,
các cửa hiệu buôn và tiệm ăn đều mở cửa đông người ra vào. Trên vỉa hè,
tiếng
giày dép, tiếng guốc khua dậy, và tiếng nói những người đi qua lại nghe
khác
hẳn với tiếng ngoài miền chúng tôi.
Tôi và Huân rảo
loanh quanh một vòng xong ghé vào tiệm cơm, mỗi đứa gọi một dĩa cơm gà,
một
chai bia 33 khổ lớn rót đầy hai ly. Ở trong một thành phố lạ, cùng với
chuyến
đi xa lần đầu hai đứa tôi trò chuyện với
nhau một cách thích thú như người lớn. Quảng Trị, tỉnh nhỏ bé thân
thương giờ
đây hãy để chúng tôi quên, hãy cho mỗi
đứa tôi một chút ước ao về chuyến ra đi, về một ngày mai đẹp của thời
niên
thiếu ắp đầy cả giấc mộng phiêu lưu.
Sau bữa ăn hai đứa
góp chung tiền trả, rồi tiếp tục dạo phố và lúc
trông thấy có tiệm bi da
vắng khách, chúng tôi vào đánh chơi ba cơ vừa đúng một giờ. Tôi đánh
thắng
Huân cơ chung kết, hơn cách biệt bốn
điểm, tuy vậy lúc trả tiền hai đứa lại cùng góp chung.
Trời đêm mát dịu
nên chúng tôi còn đi chơi. Khi qua rạp hát Tân Tân
chúng tôi ghé vào xem biển quảng cáo, rồi mua
vé để coi cuốn phim Le bal des maudits . Rạp hát rộng rãi, đông khán
giả. Hai
đứa tôi ngồi dãy ghế giữa hạng nhì, vừa tầm mắt. Niềm vui dậy dàng lên
buổi
sáng sớm với chuyến đi xa, tưởng như vang âm qua giọng nói của mình. Cả
Huân
nữa, nó cũng mang niềm hãnh diện như tôi. Ngày nào đó trở về, mỗi đứa
sẽ kể lại
bao nhiêu kỷ niệm vui thích trong chuyến đi xa này cho bạn bè nghe.
Ánh đèn chìm tắt, một điệu nhạc trỗi lên dìu dặt và
khi
nghe âm điệu vang ngân, trải dài tôi chợt thoáng nghĩ đến một dòng sông
đang
trôi chảy miên man.
Le bal
des maudits, tên
cuốn phim chạy hàng chữ lớn rồi dừng
lại ít giây trên màn ảnh rộng. Sau đó,
tôi nghe tiếng nhạc nhỏ dần, mắt chú ý đọc tên các tài tử đóng phim.
Vào phim, nhạc đệm cùng những tiếng động nghe dồn
dập.
Khi đoàn xe quân đội Đức Quốc Xã dừng
lại giữa con đường đèo bên trên là cánh
rừng, một viên Sĩ quan rời ghế bước xuống, gương mặt
trẻ trung của tài
tử Marlon Brando gây cho tôi một ấn tượng khó quên. Nơi ánh mắt, gương
mặt và
những nếp nhăn trên vầng trán anh ta như muốn biểu lộ một sự phi lý về
chiến
tranh. Ngay sau đó, có tiếng súng đạn nổ, những tốp lính
Đức cao lớn, nhanh nhẹn nhảy ào ra khỏi xe
chạy băng vào khu rừng thực hiện cuộc
truy lùng, càn quét địch quân. Bỗng dưng, trong rạp hát mọi người cùng
lo sợ,
nín lặng theo dõi từng bước chân rình rập, từng gót giày đe dọa của
chiến
tranh.
Khoảng nửa giờ sau, tôi mới nhận ra một cách lờ mờ
về ý
nghĩa cuộc chiến, nhưng có rất nhiều cảnh tượng mang những suy tưởng
triết lý
tôi không hiểu mấy. Chỉ còn hình ảnh Hope Lange, nữ tài tử trẻ đẹp là
muốn dành
riêng cho tôi một kỷ niệm thân thiết, hay đó là nỗi nhớ tưởng , tựa
giấc mơ.
Tôi bị rung động bởi tiếng nói của nàng với người yêu, và trong lặng
yên cùng
với bóng đêm trên đường phố mắt tôi cứ nhìn theo đôi
tình nhân đang chậm bước bên nhau lúc đến
quảng trường có xe buýt đậu, họ mới rời nhau.
Sau cùng, mọi
người chợt nghe hai tiếng súng nổ, Marlon Brando, viên Sĩ quan kiêu
dũng xuất
hiện khi cuốn phim vừa mới bắt đầu, giờ anh ta bị trúng đạn do hai
người lính
Mỹ nhắm bắn, cái chết của anh trong tuyệt vọng, nhưng mà đẹp, vì khi
ngã gục
anh được ôm ấp lấy bờ đất, lấy cát và sỏi đá bên dòng suối. Thế rồi,
chiến
tranh kết thúc với tiếng chim hót ca bên rừng. Và, người lính Mỹ đi
chinh chiến
được trở về, nguyên vẹn trở về hạnh phúc bên người yêu.
Cuốn phim dài đến
hai tiếng đồng hồ . Khi ra khỏi rạp hát, đường phố
về đêm khuya vắng vẻ,
tôi và người bạn có vẻ lạc lõng, ngơ ngác. Tôi còn cảm thấy nỗi buồn
vẫn đọng
lại, không muốn loãng tan. Và, tôi cũng đang
gom góp những hình ảnh
còn nhớ
trong vài đoạn phim, đó là gương mặt của cô gái, đó là vẻ cuồng si của
người thiếu phụ khi yêu người bạn của
chồng mình. Chúng tôi lẳng lặng đi bên nhau với bóng đêm của mình tợ
như trong
cảnh phim. Vào lúc này, thành phố lạ bỗng làm tôi nghĩ rằng cũng sẽ có
một cuộc
chiến tranh đe dọa chúng tôi, thảng hoặc
sẽ báo trước một điều gì đó về sau này, nhưng rồi, tôi chỉ đơn giản
nghĩ rằng
cuốn phim đã xem là sự ghi nhớ một kỷ niệm cho buổi đầu của thời niên
thiếu.
Không biết, bạn tôi nghĩ gì ?, một
chuyến xe sẽ khởi hành sáng sớm mai, hay niềm ước ao nơi Huân chỉ mong
gặp lại
chị Huyên là người thân duy nhất kể từ
ngày hai chị em rời bỏ miền Bắc di cư vào Nam.
Ba giờ sáng, xe lên đường. Hành khách còn dật dờ,
thấp
thỏm nhưng rồi khi xe chạy họ lại ngủ tiếp. Trong lúc Huân ngủ say, tôi
ngồi
ghế ngoài mắt chăm chú soi rọi qua bóng đêm để nhìn quang cảnh dọc quốc
lộ I .
Từng đoạn đường xe lướt qua, cảnh vật đều cho tôi một cảm giác mới lạ,
nao nức
với chuyến đi của mình, và đến mỗi nơi
xe ngừng tôi cũng có ý nghĩ đây cũng là một chốn quê hương thân thiết
giữa cuộc
đời.
Xe đò chạy rất mau
trên đường còn vắng, chốc chốc ánh đèn lóa sáng mở một tầm nhìn xa, rồi
thu
ngắn lại, và lúc này ngoài tài xế cùng lơ xe ra, có thêm tôi nữa là
không ngủ.
Mỗi thứ sắc màu nổi chìm nơi những chớp sáng, tôi đều thu nhận hết. Xe
qua thị
xã Tam Kỳ trời còn mờ, đến Quãng
Ngãi mới sáng hẳn. Tới đây, tài xế dừng
xe ở trạm xăng đầu thị xã cho hành khách nghỉ mệt để rửa mặt, ăn điểm
tâm. Tôi
và Huân lúc xuống đi đến ngay chỗ xe bán
bánh mì mua mỗi đứa một ổ. Ăn xong còn thèm, hai đứa
mua thêm một ổ cưa
đôi, ăn vừa no bụng.
Xe ngừng trong nửa tiếng. Sau khi hành khách lên đủ,
tài
xế cho xe lăn bánh và lúc ra khỏi thị xã là phóng nhanh tốc độ, vun vút
lao
đi đến Qui Nhơn gần trưa. Không vào
thành phố, xe ngừng trước một quán ăn bên ngã ba Diêu Trì. Hành khách
lục tục
xuống xe tìm chỗ tiểu tiện, rửa mặt, rồi cũng lo chuyện ăn uống cho
xong bữa để
tiếp tục lên đường. Tôi và Huân không thấy đói nên hai đứa chỉ mua nước
uống,
ngồi chơi dưới bóng cây trò chuyện với nhau.
Bỗng dưng, từ nơi
xa này tôi đâm ra nhớ nhà, hình ảnh ba mẹ và các em tôi cùng hiện lên
một lúc
trước mắt khiến cho lòng tôi chợt vui
lên nhưng rồi sau đó cảm thấy buồn trở lại.
Đầu năm 48, khi trở về vùng quốc gia ba tôi lên dạy ở Cam Lộ. Một năm sau, ông được
thuyên chuyển về thị xã Đông Hà. Đông Hà nằm bên cạnh ngã ba đường số 1
và số
9. Ở đây, thị xã vừa mới xây dựng, không khí nhộn nhịp trong công việc
làm ăn,
buôn bán.
Nhà ga xe lửa và phi trường quân sự nằm về phía Tây,
còn
phía Đông là sông Hiếu Giang. Quê làng mẹ tôi ở Xuân Thành, ngôi làng
này nằm
giữa đoạn sông Hiếu Giang. Từ quê mẹ tôi đến biển Cửa Việt xa chừng ba
cây số
đường sông.
Khi gia đình tôi rời khỏi Cam Lộ dọn về Đông Hà,
cuộc
sống ổn định và trở nên khá giả nhờ vào
công việc buôn bán hàng vải của mẹ tôi. Nhưng rồi, hình ảnh thị xã mới
xây dựng
xong, thời gian giúp cho công việc làm ăn của người dân cũng chỉ đến
trong vài
năm sung túc. Giữa mùa hè 1953, một trận lửa cháy kinh hoàng đã thiêu
rụi thị xã Đông Hà đốt tất cả nhà cửa hàng
trăm
gia đình thành tro than. Trước cảnh tượng này, người dân trong thị xã
cũng như
gia đình tôi thực sự sống trong cơn ác
mộng .Về sau, lớn lên cùng với sự hiểu biết,
hình ảnh trận cháy ở Moscou trong tiểu thuyết lịch
sử Chiến Tranh và Hòa
Bình và trận cháy lửa rực trời ở Rome trong cuốn phim Quo Vadis làm tôi
nhớ lại
hết tuổi thơ của tôi và hình ảnh những người thân thuộc
trong gia đình đứng chết lặng trên
bờ sông, những cặp mắt đau đớn của biết bao nhiêu
người dân nhìn vào khu
trung tâm thị xã đang ngùn ngụt cháy trong biển lửa.
Vậy mà chưa hết, trận hỏa họan chưa hoàn hồn thì ba
tôi
lại có giấy thuyên chuyển đến nhiệm sở khác trong tỉnh Quảng Trị. Một
lần nữa,
gia đình tôi lại dọn đi.
Tôi đã được 9 tuổi, mới học xong lớp Nhì. Buổi sáng
ấy,
một chiếc xe hàng ngừng đậu trước mặt nhà tôi. Khi thấy xe đến, anh em chúng tôi chạy ra ngoài nhìn
chiếc xe
sơn màu xanh biển lấy làm vui vì sắp được lên xe đi. Người tài xế xuống
xe đi
vào nhà tôi qua lối cửa hông. Trong nhà, có ba mẹ tôi, cậu mợ Tuyên và
người
phụ giúp khuân vác đang uống trà nói chuyện.
Một lúc sau, người tài xế trở ra xe. Ông ta nhanh
nhẹn
nhảy lên trần , đứng trên đó tay mở các cuộn dây thừng để cột đồ đạc và
hành
lý. Từ trong nhà, đồ đạc di chuyển chuẩn bị xong tối qua, lúc này lần
lượt đưa
lên xe.
Buổi sáng sinh họat trong khu phố và khu chợ trước
nhà
tôi đã bắt đầu ồn ào như mọi ngày. Khi thấy gia đình tôi dọn đi, bên
kia đường
có nhiều người đứng trông sang, chăm chú
với vẻ mặt yên lặng. Ở đây, rất nhiều người kính mến ba tôi, vì ông là
thầy
giáo dạy học, và cả thị xã chỉ có mỗi một trường tiểu học duy nhất ở
gần nhà
ga.
Người tài xế bước lui tới trên trần xe với cuộn dây
thừng
to dùng cột hàng hóa. Ông ta sắp xếp gọn gàng, sau khi chất đồ đạc
xong, ông
phủ trùm một tấm bạt rồi kéo hai vòng dây ở hai đầu móc trần xe.
Nắng sáng lên làm rạng rỡ cả khu phố. Tiếng chuyện
trò,
cảnh tiễn đưa bỗng rơi vào yên lặng. Tôi nghe
tiếng nói thật trầm của cậu Tuyên với ba tôi, còn mợ
Tuyên nắm tay mẹ
tôi.
Anh em tôi bước lên xe với mấy cái túi
nhỏ. Mẹ tôi, chị Lài ngồi sau với chúng tôi,
còn ba tôi lên ghế trước với tài xế.
Khi xe lăn bánh, anh em chúng tôi cười nhìn nhau.
Chỉ có
hai người trong lòng đang buồn bã đó là chị Lài và mẹ tôi. Nhưng rồi
bỗng chốc,
tôi có cảm giác mình sắp sửa khóc. Về sau này, hình ảnh thị xã Đông Hà
tôi giữ
lại trong ký ức như là một cuộn phim.
Quảng Trị nằm về phía Nam, cách Đông Hà bằng đọan
đường
mười hai cây số từ tỉnh lỵ đến quê nội tôi. Thành phố này đẹp hơn, có
nhiều nhà
ở, nhiều con đường im bóng mát, thơ mộng nhất là con đường ven theo
dòng sông
hai bên có trồng những hàng cây phượng,
cây bồ đề, cây sao nối nhau đến khu Cổ Thành Đinh Công Tráng.
Nhà tôi ở nằm bên dưới ga đối diện với tháp nước,
nơi chỗ
đó những chuyến tàu đi hay về cũng đều ngừng lại trong mười phút để lấy
nước
trước khi tiếp tục cuộc hành trình. Vì quanh chốn này còn là vùng đất
hoang ,
tràn đầy cỏ mọc nên nhà ở của gia đình tôi mới có được một diện tích
đất khá
rộng rãi, phía trước nhìn ra con đường từ cổng ga đổ về phố Trần Hưng
Đạo, phía
sau là vườn trồng cải, trồng hoa, cây lưu niên và đào hồ nuôi cá. Bên
dãy nhà
phụ, một mái hiên lợp tôn rộng mẹ tôi mở quán hàng hàng ăn, buổi sáng
bán bún,
cháo, trưa chiều là cơm.
Nhà ga gần trại
lính, mỗi ngày có đến bốn chuyến tàu ghé dừng nên quán hàng mẹ tôi mở
luôn có
khách vào ăn uống. Năm 1954, đồng bào miền Bắc di cư vào Nam khi hiệp
định
Genève ký kết. Khởi sự từ năm này, dân số trong tỉnh chúng tôi tăng lên
và kế
hoạch định cư được mở rộng ra các vùng ngọai ô. Với đồng lương giáo
viên tiểu
học của ba tôi, công việc bán quán của mẹ tôi, lợi tức hàng tháng góp
lại cũng
ổn định, bình yên cho cuộc sống gia đình. Ngoài những buổi học ở
trường, tôi
còn phụ giúp mẹ tôi trong việc chạy bàn mang bữa ăn, thức uống phục vụ
cho
khách.
Vì học kém và chậm, đến năm 1956, tôi mới vô được
trường
công lập trung học. Nhưng tôi chỉ lên
lớp sau năm đầu Đệ Thất, đến hết năm Đệ Lục tôi không đủ điểm trong hai
kỳ thi
lục cá nguyệt phải ở lại, và trong năm học mới này tôi và Huân quen
nhau, trở
thành bạn thân và chúng tôi đã cùng đi xa trong mùa hè này.
Bỗng tôi lên tiếng hỏi Huân:
-Mày ở
với bà chị bao lâu ?
Huân chợt cười bảo tôi:
-Sao
mày hỏi ngớ ngẩn. Tao đi
với mày, đến hết kỳ nghỉ hè thì về.
Tôi ngập ngừng một chút, rồi nói:
-Tao
nghĩ mày ở không lâu, ra
lại sớm nên mới hỏi.
Hiểu được ý tôi, Huân nói:
-Bác có
nhờ tao khi nào về,
thì đón mày.
-Nhớ
nghe, không có mày tao
phải đi một mình không có ai quen.
Hết giờ nghỉ, tài xế gọi hành khách lên xe đi. Từ đây, tài xế bắt đầu mở radio có chương
trình nhạc vui cho hành khách nghe. Hai đứa tôi vẫn luôn cảm thấy nao
nức với
chuyến đi đường trường. Trong phút im lặng, hẳn Huân sẽ nghĩ đến căn
nhà của
chị Huyên, nó cũng có đứa cháu nay lên bốn tuổi rồi, còn tôi, thành phố
biển
Nha Trang đẹp như thế nào, lớn như thế nào, tôi đang hình dung vừa
tưởng tượng
nhìn thấy từng khung cảnh hiện ra trước mắt.
Bất chợt, tiếng thằng lơ xe ở đằng sau hỏi vọng hành
khách.
-Ninh
Hòa đây, có ai xuống không
?
Huân giật mình, tôi liền hỏi:
-Có
xuống đây không ?
Huân ngần ngừ, rồi đáp nhanh:
-Thôi,
tao đi Nha Trang với
mày. Bác đã nhờ, tao đưa mày đến nơi đến chốn.
Tôi cảm thấy tin tưởng khi có người bạn bên mình. Xe
tới
Nha Trang đầu buổi chiều. Bến xe nằm trong thành phố. Những con đường
rộng mở,
vui trong ánh nắng hè và cảnh sinh hoạt thành phố thật là nhộn nhịp.
Xuống bến,
cùng với hành lý, Huân và tôi đón xích lô
đến nhà bác Định. Bác Định là bạn thân với ba tôi .
Năm 1954, gia đình
bác di cư vào Nam ở lại tỉnh Quảng Trị, bốn
năm sau mới vào Nha Trang. Ở xa, ba tôi và bác thư
từ nhau luôn.Với tình
thân còn gắn bó, nên ba tôi cho tôi đi nghỉ hè Nha Trang đến ở với gia
đình
bác. Chừng độ một tháng rưởi thôi, tôi lại trở về Quảng Trị, bắt đầu
bước vào năm
học mới cũng là năm chuẩn bị thi cử.
Nhà bác Định ở khu Phước Hải, đầu đường Huỳnh Thúc
Kháng.
Ngoài phía ngã ba là đường Nguyễn Hoàng, dọc con đường dài này có nhiều
dãy phố
buôn bán, ngôi nhà thờ lớn ở trung tâm, từ nhà ga những chuyến tàu đi
cũng như
đến đều cũng phải chạy theo đường ray nằm sau lưng nhà thờ. Về tới nơi, thực may hai đứa tôi gặp cả gia đình bác Định
và được đón tiếp niềm nở. Tôi giới thiệu Huân với hai bác, còn Luân con bác là bạn học cùng lớp với hai đứa tôi. Luân
gặp lại hai đứa tôi thực vui, nhưng chỉ chuyện trò hơn nửa tiếng Huân
vội xin
kiếu từ để ra Ninh Hòa. Tôi cùng với Luân tiễn Huân ra bến xe, vì còn
ham vui,
cả ba đứa tôi vào quán chơi bi da hết một tiếng đồng hồ mới chia tay.
Những ngày tháng hè đó thật là hạnh phúc. Tuần lễ
đầu,
tôi chưa vội ghi tên lớp hè để học mà cứ hưởng cái thú đi chơi. Hai
chiếc xe
đạp không rời tôi và Luân. Buổi sáng sớm, hai đứa đạp xe ra biển, tới
bãi gởi
xe xong là ào xuống tắm. Mùa hè, từ sáng sớm đến chiều tối, bãi biển
lúc nào
cũng đông vui, ấm áp với ánh nắng và mặc sức vẫy vùng, vượt sóng. Biển
Nha
Trang thật đẹp, bãi cát trắng, màu nước biển xanh vời vợi tạo một niềm
hưng
phấn làm chúng tôi càng muốn bơi ra xa. Sau hơn một giờ tắm biển , chúng tôi lại đạp xe đi nơi khác. Tôi
được Luân dẫn đi thăm các thắng cảnh Tháp Bà, Hòn Chồng, Hòn Vợ, Xóm
Bóng, và
còn ra tới những vùng ngoại ô xa đến lúc mặt trời lặn mới trở về nhà.
Luân sành sỏi chơi đàn, tôi cũng
học đàn với Luân. Khi đánh đàn, chúng tôi cùng hát những bản nhạc vui
học ở
trường, những bài hát về sinh hoạt hướng đạo hay trong những kỳ cắm
trại. Nhưng
mỗi tối, bác Định luôn bảo tôi và Luân vào bàn học lo luyện hai môn
Toán, Lý
Hóa. Sau tuần lễ đầu vui chơi thoải mái, cả tôi và Luân mới cùng ghi
tên lớp hè
ở trường Tương Lai. Hai đứa tôi, trình độ học ngang nhau, về môn Toán
tôi trội
hơn Luân nhưng Lý Hóa, Luân lại khá hơn, vào giờ học chúng tôi giúp
nhau nên
tiến bộ khá nhanh.
Ra Ninh Hòa ở với bà chị được hai tuần, nhớ bọn tôi,
Huân
lại vào từ sáng thứ sáu đến chiều chủ nhật mới trở ra lại. Hội ngộ,
chúng tôi
kéo nhau đi phố, vào rạp hát coi phim cao bồi, sau khi vãn hát, lại đi
lòng
vòng quanh các phố, hay vào Câu lạc bộ thể thao chơi bóng bàn, bi da.
Ba đứa
tôi thi đấu đều ngang ngửa, luôn tạo nhiều pha bóng tấn công gay cấn
hay những
đường cơ bi da so kè, suýt soát từng điểm.
Những ngày hè của tôi, thật là hạnh phúc và quí giá
như
mỗi điểm có được ở bài thi. Căn nhà bác Định, ngoài nơi chốn ở bình
thường nó
còn cho tôi hiểu cái đức hạnh chân chính về giá trị con người. Bác Định
trai
thương tôi là đứa học trò cũ của bác. Bác gái, luôn gọi tôi là thằng cu
như Luân và các anh con trai lớn của
bác.
Khi đã quen thuộc với một thành phố mình đến, với
một gia
đình người thân mình được ở, đó cũng là lúc (mùa hè sắp hết rồi) mình
lại hồi
nhớ về chính mình. Ngoài Luân và Huân ra,
tôi cũng còn có những gương mặt bạn bè ở quê nhà
nữa. Ngày mai đây, hẳn
rằng, tôi sẽ biết trân quí, biết cất
giấu và sống hạnh phúc với kỷ niệm như
tưởng mình đã có người yêu.
Nha Trang cũng là thành phố lớn. Ga chính ở đây, mỗi ngày có đến sáu chuyến tàu chạy đường
ngắn, đường suốt. Những chuyến tàu đến hay đi, ngồi ở nhà vào lúc chiều hay tối, tôi đều nghe rõ tiếng còi tàu.
Và, nghe qua từng hồi còi dài ngắn, tôi biết chuyến tàu nào về, chuyến
tàu nào
sắp sửa ra đi. Tối hôm ấy, những ngọn đèn sáng, những tiếng bước chân
người xa
lạ và vui, rạp hát chiếu cuốn phim chiến tranh, hình ảnh một cô gái và
chàng
trai đi bên cạnh nhau nói những lời tâm tình, những lời từ biệt, thành
phố Đà
Nẵng bỗng dưng làm tôi xao động, dấu yêu một nỗi niềm. Và rồi, tôi
mường tượng
nhớ đến một buổi trưa hè khác có một người đàn ông và một cô bé trạc
tuổi bằng
em gái tôi vào quán hàng cơm của mẹ tôi. Tôi biết hai người này là
khách đi tàu
ở xa về, vì chuyến tàu về đến vừa mới đi, và lúc này ngoài con đường có
nhiều
chiếc xích lô đang chở khách xuống phố.
Cô bé khuôn mặt dễ thương, nước da trắng, còn người
đàn
ông chắc là ba của cô có mái tóc chải tóc bóng láng, mắt đeo cặp kính
trắng.
Lúc ấy đã quá trưa, khách ăn giờ đầu xong đi gần hết nên ghế bàn còn
lại để
trống nhiều.
Khi tôi mang cơm ra, đặt cái khay nhôm xuống bàn tôi
thấy
mắt cô bé nhìn tôi, nụ cười trên cặp mắt.
Tôi trở vào đứng ở cửa bên quán, cầm ly nước trà đá
uống.
Tiếng còi ngắn cất lên, chiếc máng xối hứng nước được kéo ra sau đầu
máy, rồi
con tàu lăn bánh. Tôi hướng mắt nhìn con tàu với nhiều toa xe lần lượt
chạy
qua. Bỗng tôi chú ý lắng nghe giọng nói
của cô bé và người đàn ông. Khi nghe được, tôi biết là
cả hai không phải là người Quảng Trị ở đây mà
là người miền Bắc. Thời kỳ đó, thời hạn cuộc di cư trong 300 ngày chưa
chấm
dứt. Ngang qua nhà ga nhỏ này, trước đây chỉ có hai chuyến tàu đi, về giờ mỗi ngày có đến sáu chuyến, chưa kể là
có tăng cường thêm xe nhà binh, xe chở hàng nhận công tác cứu trợ đi ra
phía
Bắc đến tỉnh Thanh Hóa chở đồng bào di cư vào miền Nam.
Tôi bỗng có cảm tình với cô bé nên đưa mắt nhìn chú
ý. Cô
bé mặc chiếc quần tây xanh, áo sơ mi hồng, và có cặp mắt nhỏ thật đẹp.
Hai
người khách ăn cơm xong gọi tính tiền, tôi nghe vậy vội bước chân đến.
Vì phải
thối lại nên tôi trở vào quán lấy tiền lẻ nơi ngăn hộc , xong trở ra.
Người khách cầm
lấy tiền thối, nói với tôi:
-Cám ơn
cháu.
Tôi cũng đáp lời cám ơn với ông khách.
Cô gái nghe được tiếng tôi nói, ngước cặp mắt vui
lên
nhìn.
Hai cha con
đứng dậy rời quán, trở ra đường chờ xe.
Người đàn ông xách
cái túi lớn, da nâu, còn cô bé quàng dây đeo chiếc túi nhỏ màu vàng bên vai.
VIII
Hình ảnh Vân Oanh đã tạo ra trong trí Thụy một sự
liên
tưởng phối hợp, và bây giờ, nàng như là
một cô giáo đang dẫn đường, vừa dìu bước anh, dù rằng, đã có lúc nỗi
tuyệt vọng
khiến anh phải vươn dài cánh tay níu giữ nàng lại. Nàng chỉ mỉm cười,
cho anh
chút hạnh phúc thật êm ái, tâm hồn mát dịu như bóng cây, đó là hình ảnh
nàng
qua dáng áo tím, qua đôi mắt dịu hiền và qua bàn tay êm mát thế rồi,
nàng nắm
lấy tay anh bảo anh hãy gắng bước theo nàng. Anh cũng đã trở nên một
cậu bé
ngoan ngoãn, cảm thấy có nàng là sự an ủi, và lúc này, hơn ai hết nàng
không hề
có chút chi phiền muộn khi lắng nghe anh nói về tuổi trẻ bất hạnh của
mình.
Buổi sáng hôm ấy, ngồi trên chiếc xe khách đang chạy
mà
đầu óc tôi như là kẻ vô hồn, không có
một ý tưởng nào khác ngòai sự bơ vơ đối với con đường học vấn đã chấm
dứt. Làm
gì cho tương lai, điều này, tôi không dám có một chút tự tin nơi sức
mình mà
chỉ còn một nguyện cầu khao khát là mong ông Trời bù lại cho tôi một
chút may
cuộc đời trong ánh sáng thế gian.
Khi xe hàng đỗ bến, xuống xe tôi đi bộ về nhà. Trên
đường
đi nhìn hoa phượng nở đỏ, nhìn những dòng xe đạp của nam nữ học sinh
dạo chơi
cười nói rất vui, tự dưng tôi cảm thấy mình lạc lõng như thể là kẻ lạ
đâu từ
miền xa nơi một vùng biệt xứ nào về đây không có ai quen nhận ra mình.
Hoa
phượng đối với tôi trong giây phút đó là nỗi buồn của nước mắt. Huế,
tuổi trẻ
luôn ôm ấp cả một bầu trời thân thương có dòng sông xanh và những hàng
cây
phượng mỗi mùa hè đều mang đến nét thắm tươi, rực rỡ cho thành phố này.
Về đến nhà, tôi dừng bước trên bực cửa. Nhìn vẻ mặt
buồn
bã của tôi, ba mẹ tôi không hỏi han gì nữa. Các em tôi cũng vậy. Rồi
tôi bước
vào nhà, lặng yên ngồi xuống như một người vừa mới ngã bệnh.
Tiếng mẹ tôi nói rất nhỏ:
-Con
cái mình không có được
chút ân huệ khoa bảng.
Tôi nhìn ra cửa, buổi chiều đang xuống bên ngoài .
Trên
đường, một chiếc xe búyt đi lên Long Thọ vừa chạy ngang qua. Tôi trông
thấy con
sông, ngôi trường Bình Linh bên kia nơi tôi vào học ở đó năm trước nữa,
và sự
yên lặng buổi chiều như muốn nói cho tôi biết rõ về chuyện gia đình của
chúng
tôi.
Sau tuần lễ về nhà với bao nhiêu nỗi buồn chán không
nguôi được, vào một buổi tối trong bữa cơm gia đình, tôi nói với ba tôi
cho tôi
vào Sài Gòn tìm kiếm việc làm.
-Con
làm được công việc gì ?,
ba tôi hỏi.
-Con
chưa biết. Nhưng vào trong
đó, tìm kiếm công việc làm cũng dễ hơn.
-Con có
bạn bè thân trong đó
không ?
-Có.
-Con
viết thư cho bạn con đi.
Sau ít giây suy ngẫm, ba tôi tiếp lời:
-Ba
biết con nản chí chuyện
học hành. Thôi, thì cũng là cái số phận của mỗi người. Con kiếm việc
làm để ra
đời sớm. Rồi về sau, nếu được trời giúp cho con chút cơ may.
Các em tôi khóc đưa mắt nhìn tôi. Tôi đọc được trên
từng
giọt nước mắt mỗi đứa em tôi hình ảnh sự đơn độc về cuộc đời của mình
khi giã
biệt gia đình ra đi. Vào Sài Gòn, đó là nơi đến dứt khóat rồi. Nhưng
đến đây
tôi làm công việc gì và sẽ nương tựa nơi đâu. Khi nghĩ đến chỗ nương
tựa, tôi
không dám tìm gia đình các cậu và các dì em ruột của mẹ tôi. Chẳng như,
tôi thi
cử đỗ đạt nghĩ đến chuyện nương nhờ còn may, chứ một thân xơ xác vào
Sài Gòn mà
tìm đến chỗ người thân là không được rồi.
Sau cùng, đến lượt anh tôi cùng ra đi. Anh tôi cũng
vừa
mới rớt vấn đáp năm Dự bị Văn Khoa, thực cái số của gia đình tôi mạt
đến như
vậy đó. Nhưng anh tôi còn may là có được bằng Tú Tài II, và thêm khả
năng viết
báo. Từ quyết định của anh tôi, ba tôi cho hai anh em đi Sài Gòn.
Một lời dứt khóat, tôi nói:
-Ba mẹ
đừng lo. Con còn độc
thân, kiếm được đồng lương con giúp ba mẹ và các em đi học.
Chỉ còn ba tuần nữa là bắt đầu niên học mới. Kể từ
nay,
gia đình tôi lại một cảnh hai quê. Tôi và anh tôi đi xa mưu tìm cuộc
sống. Tuổi
trẻ của chúng tôi không còn có mộng ước ở ngưỡng cửa Đại Học như bao
nhiêu bạn
bè khác. Từ nay, hai anh em tôi dấn bước vào đời với chuyến đi xa khởi
sự vào
những ngày sắp tới.
Về Huế không lâu, tôi trở vào lại Đà Nẵng. Tôi đi
nội
trong ba ngày. Tôi vào để thăm dì tôi, nói lời cảm tạ. Sau đó, tôi đến
với gia
đình Ninh Hà. Tôi nghĩ tới thành phố ấy với hình ảnh một người thân là
dì tôi
đã có sự bao dung, cho tôi được sống những ngày có ý nghĩa về cuộc đời
và nơi
ấy tôi còn có người bạn gái thực lòng là Ninh Hà.
Chuyến xe hàng không đông khách nhưng ngừng nhiều
trạm,
mỗi nơi có khách xuống và khách lên, lên tới đỉnh đèo đã gần trưa. Xe
nghỉ
thường lệ nửa tiếng để chờ xuống đèo hai phía Nam Bắc, nhưng hôm nay,
phía Nam,
một quãng đường gần cây số đang được Công binh sửa chữa. Tôi thèm ly cà
phê nên
đi tìm quán. Đang đi, bỗng nghe có tiếng gọi tôi giật mình và thật bất
ngờ khi
trông thấy chú Hoàng của Lăng. Ông chú đang ngồi ở bàn phía ngòai hiên,
uống
bia một mình.
-Cháu
uống gì ?
-Thưa
chú, cà phê.
-Gọi đi.
Tôi gọi một ly cà phê đá. Trong lúc chờ, tiếng chú
Hoàng
hỏi:
-Đi Đà
Nẵng có việc gì vậy ?
-Cháu
vào thăm dì Vân. Chú
còn nhớ dì Vân con ông bác Huyện không ?
-Có.
Bên ngoại con, chú biết
hết.
Nhìn lại chú, tôi nói:
-Con
sắp đi Sài Gòn rồi chú.
-Học
trong đó ?
-Dạ
không. Con đi tìm kiếm
việc làm.
Cô gái mang ly cà phê ra. Tôi mở hủ đường cho thêm
vài
muỗng rồi khuấy uống. Cà phê không được ngon. Tôi cầm gói thuốc của chú
Hoàng
rút một điếu và xin phép hút. Một giọng khàn đục, tôi nói:
-Số
phận con đen đủi quá.
-Nhưng
sao mà cháu bỏ học ?
-Không
thi đậu, làm sao học
tiếp được nữa chú. Cái số của cháu không sáng dạ trong sách đèn, thôi
cháu vào
đời kiếm lấy cuộc sống mà lo cho bản thân.
-Vào
trong đó cháu làm công
việc gì ?
-Cháu
chưa biết. Nhưng ở đô
thành việc làm công nhân cũng dễ kiếm.
-Cháu
đi một mình.
-Có anh
Nguyên đi nữa chú.
Anh theo nghề viết báo.
-Được
lắm. Thằng Nguyên theo
nghề báo là hay, chọn đúng đường đi.
Tôi uống cà phê chậm từng hớp như cố lấy bình tĩnh.
Một
dòng đời trôi nhẹ qua ký ức tôi. Tưởng rằng bao nhiêu kỷ niệm cũ ở miền
quê
thời ấy, tôi đem ra bộc bạch với người chú, nhưng mà không, một giọng
buồn tôi
đã nói:
-Gia
đình con không có nếp
khoa cử, buồn quá chú.
-Chú
rất hiểu.
Chú Hoàng đặt ly bia xuống bàn. Như thể cố nén giọng
buồn
bực và chia xẻ với người khác, chú nói:
-Chú
hiểu từ lâu rồi.
-Cháu
biết, ba mẹ cháu buồn
lắm nhưng số phận từng đứa con và cả gia đình luôn lận đận.
-Cháu
đến tuổi quân dịch chưa
?
-Dạ rồi.
Đã mười một giờ trưa, xe vẫn còn đợi sửa đường. Nắng
lan
rộng trên đỉnh đèo, sương mù đã tan hết nhưng khí lạnh từ núi, vang âm
dòng
suối tuôn chảy và sóng vỗ trên mặt biển dần dần tràn ra xa. Bỗng nhiên,
thấy
bóng dáng con tàu, tôi chợt nhớ một buổi sáng mùa đông trên bến Cảng,
vào giờ
đó, trước khi vào lớp học, bọn học trò chúng tôi đứng ở công viên vẫy
tay chào
một đòan thủy thủ mặc áo trắng đứng trên boong, họ cũng cười vui la hét
vẫy tay
chào lại chúng tôi khi con tàu từ từ tách bến.
Hai người trở lại chuyện cũ về gia đình. Tôi bỗng
hỏi:
-Ngày
trước, chú ở Hội An
phải không chú ?
-Chú
làm việc ở đó ba năm mới
ra ngòai này.
-Chú có
mặt ngay lúc đầu Đại
Học Huế mở.
Chú Hoàng gật đầu. Tôi đốt thêm điếu thuốc. Những
sợi
khói mỏng trườn lên làm tôi nhớ đến Lăng. Lăng đang học Luật ở Sài Gòn,
ở nhà
cậu Nghiêm. Hội An, thành phố nhỏ ấy tôi đã đến thăm, đi chơi cùng với
mấy
người bạn. Nơi thành phố ấy, tôi nhớ biển Cửa Đại, nhớ một mùa hè thanh
bình,
và vào năm đậu xong Trung học Đệ Nhất Cấp, từ Quảng Trị
Lăng đi một mình vào Hội An thăm gia đình
người chú. Lăng với tôi là anh em bạn dì. Lăng mồ côi năm lên ba tuổi.
Dì Quyên
mẹ Lăng lấy chồng có ba mặt con, ở góa bụa từ thời còn trẻ . Mẹ tôi, dì
Quyên,
cậu Nghiêm là chị em cùng một cha, một mẹ. Thực ra, ông bà ngọai tôi có
sáu
người con nhưng đã mất đi ba. Năm đó, cảnh tản cư chạy lọan những gia
đình
người thân trôi giạt về tạm trú ở quê ngọai tôi rồi tản mát. Hình ảnh
chú Vinh
ba của Lăng và chú Hoàng đây tìm lại trong
trí nhớ thuở đó, tôi chỉ nhớ ra được dáng người. Và, tôi gặp lại chú
Hoàng sau
này khi đã lớn, đó lần đầu tiên đến nhà chú vào mùa hè cách đây ba năm
ở khi
tôi rời Đà Lạt về Huế học. Ở Sài Gòn, thỉnh thỏang Lăng có viết thư cho
tôi.
Dịp Tết, có một năm Lăng gởi cho tôi ít sách truyện và báo Xuân để đọc.
Luôn
luôn chúng tôi sống có tình nghĩa với nhau. Trong các đứa cháu, Lăng
được các
cậu, các dì cả bà con xa gần bên ngọai nữa biểu lộ nhiều tình cảm vừa
hãnh diện
về sự học hành, đỗ đạt của Lăng hơn mấy anh em chúng tôi. Người ở bên
ngòai nhìn
thấy vậy nghĩ rằng, Lăng mồ côi cha tự thuở bé nên được nhiều tình
thương của
người thân. Có đúng một phần, nhưng không phải vậy đâu. Bên ngọai tôi
rất bề
thế về sự vinh hiển qua nhiều đời làm quan và khoa bảng, nhưng riêng mẹ
tôi rất
ít học, và ba tôi làm rể gia đình ông ngoại tôi, vốn học chỉ là giáo
viên với
mảnh bằng Tiểu học. Vào thời gian gia
đình tôi gặp họan nạn, sống nương nhờ người thân, cứ đến bữa ăn ngồi
yên lặng
tôi không dám chuyện trò, tôi luôn có cảm giác nôn nao trong cổ họng
khi cố gắng
ăn thật chậm rãi, khẽ khàng để nuốt từng miếng cơm vào cổ họng. Và ngồi
ở đây,
chốn này, đem những lời tâm sự ra nói với người chú của Lăng, mới hai
mươi tuổi
đầu, tôi biết mình nên đi tìm đến một vùng đất hứa. Và, tôi rất tin cậy
ánh
sáng, con người, cùng thiên nhiên ở miền Nam.
-Cháu
có muốn xin việc làm ở
Huế không ?
-Dạ
không. Cháu không thể ở
ngòai này được. Và bước đường cùng, cháu nhảy vào lính là xong chuyện.
-Cháu
đi học Sĩ quan được
không ?
-Không
được, vì cháu không có
bằng Tú Tài.
-Nếu
cháu ở lại Huế, chú sẽ
xin cho cháu một chân giáo viên dạy ở trường Tiểu học.
-Cháu
không nghĩ tới trường
học nữa. Cháu muốn làm công nhân, hoặc là đi lính thôi.
Chú Hoàng rót phần bia còn lại trong chai vào ly.
Tôi
thấy chú uống từng ngụm trong sự cố gắng mà có lẽ bởi những điều thất
vọng của
đứa cháu vừa bày tỏ làm chú băn khoăn, suy nghĩ.
Một giọng thản nhiên, chú nói:
-Con
cháu, đứa nào chú cũng
thương.
-Dạ,
cháu biết.
Nắng ấm áp, sáng sủa, tự dưng lòng tôi cởi mở.
-Bây
giờ, chị Nguyệt sao rồi
chú?
-Nó thi
đậu vào trường Sư
phạm Qui Nhơn.
-Chị
Nguyệt đi dạy, cũng hay
đó.
-Nó thi
rớt lọat nhì, hai kỳ
luôn.
-Cháu
cũng bị hỏng lọat nhì.
Có tiếng kẻng của người lính gác trên đèo đánh vang
lên
nghe giòn giã. Hành khách cười nói, vui chuyện, và họ trở lại những xe
khách
trong vội vàng.
Chú Hoàng đi traction An Lợi, tôi đi xe Tiến Lực.
Những
tiếng còi hiệu vang lên. Rồi từng chiếc một, đoàn xe chuyển bánh rời
trạm nghỉ
trên đèo. Lúc này, lòng tôi tự nhiên hoang mang vương vấn một nỗi buồn.
Tôi
thoáng nghĩ đến Hân một mối tình thơ dại như hương gió thỏang qua.
Bến xe Đà Nẵng nằm trên đường Hùng Vương. Khi rời
đèo Hải
Vân để về thành phố, các xe nhỏ chạy nhanh hơn nên tới bến trước. Tuy
nhiên,
các xe lớn cũng về đến nơi chỉ chậm sau chừng mươi, mười lăm phút.
Vừa ra khỏi xe, tôi bỗng thấy chú Hoàng còn đứng chờ
ai ở
bến chưa vội đi. Thấy vậy tôi bước nhanh đến chào và hỏi:
-Chú
đợi xe cơ quan ?
-À. Chú
đợi cháu.
-Dạ.
Tôi theo chú Hoàng vào quán ăn trưa ở bến xe. Tôi
không
biết chú nói gì với tôi nhưng tôi cứ đi theo chú. Ngồi trong quán nắng
trưa
hừng hực nên cần phải có nước giải khát. Tôi uống nước đá chanh, còn
chú uống
bia. Bữa cơm phần được gọi chờ mang ra. Tôi và chú đốt điếu thuốc trong
lúc chờ
bữa ăn.
-Chừng
nào cháu đi ?
-Dạ
tuần tới.
Chú nhìn lại vẻ mặt tôi và tôi ước tưởng, trên gương
mặt
mình đã lộ thấy cả một đọan trường đầy chông gai, trắc trở.
Khi bữa ăn mang ra, tôi cảm thấy đói vì cơm và thức
ăn
nóng hổi, lên khói.
- Ăn đi
cháu.
-Dạ,
mời chú.
Hai người ăn thong thả. Chú Hoàng chắc đã nghĩ kỹ ,
rồi
hỏi:
-Cháu
muốn nghe lời chú không
?
-Dạ.
Lúc nào cháu cũng coi
chú như ruột thịt.
-Cháu ở
lại Huế đi. Chú sẽ
xin việc cho cháu. Tốt nhất, cháu xin dạy một trường tiểu học ngọai ô.
Đi dạy
còn có thì giờ cháu học thi lấy bằng Tú Tài.
Tôi đang nuốt miếng cơm, nghe chú nói bỗng dưng có
cảm
giác trong cổ bị nghẹn. Lòng tốt của chú Hoàng, biết tôi sẽ nói ra sao
để chú
hiểu được tâm trạng của mình. Lặng im trong chốc lát, tôi mới mở lời:
-Gia
đình cháu không có ai
sáng dạ học hành. Anh cháu là người khai khoa cho cả họ hàng bên nội
cháu với
mảnh bằng Tú Tài. Về phía bên ngoại , anh em của cháu chẳng dám tơ
tưởng để
thừa một chút danh thơm của một dòng họ. Vậy nên, cháu không thiết nghĩ
đến
chuyện học làm chi. Đến chuyện nghề giáo cũng vậy, ba cháu cũng đã nhận
ra nghề
bạc bẻo này trong đời mình. Cháu muốn đi
xa, vào miền Nam kiếm sống giống như phu đồn điền thời trước bỏ xứ
ngòai mà vào
Nam tìm cuộc mưu sinh. Thà đi như vậy, cháu có đủ can đảm hơn, vươn
mình hơn là
an phận cuộc đời như ba của cháu. Cháu rất biết ở đây, với uy tín của
chú việc
gì chú giúp cũng thành. Chú rất tốt, cháu biết và cháu hiểu.
Bữa cơm dọn ra nhiều món và tôi ăn thực tình. Khi đã
hiểu
tấm lòng tôi trống trải, chú Hoàng lặng im , suy nghĩ
về hòan cảnh của tôi như là con của chú
phải đi xa vậy.
Xong bữa ăn, chú và tôi tiếp tục câu chuyện đời. Sau
đó,
rời quán tôi nói lời chào chú rồi từ bến xe đi bộ về nhà người dì tôi.
Một câu chân tình, dì hỏi:
-Vào
Sài Gòn, cháu vẫn tiếp
tục học ?
-Dạ
không, cháu tìm việc làm.
Trên gương mặt dì tôi, lộ vẻ buồn lo lắng. Tôi nói
chuyện
với hai người thân khá lâu, sau đó, qua phòng khách lớn nghe đàn dương
cầm. Chị
Bích Ái đang chơi dương cầm, tôi có nhớ một vài bản cổ điển và yêu cầu
chị đánh
cho nghe. Tiếng đàn ngân vang, trong sáng, tôi nghe mà như ôm giữ cả dòng nhạc trong tâm hồn một nỗi buồn nhớ
lạ lùng.
-Ít
ngày nữa, con đi.
Tôi đáp lời dì tôi hỏi lúc chào từ biệt. Và từ nhà
người
dì, tôi ra đường đón xe lam xuống phố,
ghé vào hiệu sách đọc báo, rồi về nhà Ninh Hà.
Vừa thấy tôi xuất hiện, nàng rời ghế đứng dậy tay
cầm một
tập giấy. Nàng nói:
-Rất
tiếc truyện không được
đăng.
Tôi chợt nghĩ đến một hạnh phúc. Nàng đã đem lại cho
tôi
hạnh phúc về một lá thư của tôi mà chính
tay nàng đã mở ra xem. Tôi rất vui với sự chân tình của nàng.
-Cả nhà
đi vắng ?
-Cả nhà
qua thăm bác Phúc.
Tôi và nàng cùng ngồi xuống chỗ bàn khách.
-Tiếc
quá, tôi nói.
-Sao mà
tiếc ?
Nàng hỏi tôi, không đưa mắt nhìn. Tôi nói:
-Nếu
truyện được đăng là cả
một niềm vui. Lúc gởi đi, cứ ước ao truyện được đăng để anh làm món quà
tặng
Ninh Hà.
-Bày vẽ
ra.
-Thực
lòng đó.
-Không
được đăng thì mình
viết truyện người khác.
Nàng đáp lời tôi, rồi cúi mắt chăm chú đọc. Tôi hỏi:
-Mà
truyện viết được không ?
-Không
được. Bịa đặt và tưởng
tượng nhiều quá.
-Thì
truyện viết phải tưởng
tượng.
-Đồng
ý, nhưng phải tôn trọng
sự thật.
-Có
nhiều sự thật trong đó,
biết không ?
-Đâu,
sự thật nào đâu ?
-Ninh Hà đã đọc qua hết truyện rồi sẽ thấy.
-Có
thấy, nhưng hôm đó chỉ
chơi cờ ca rô thôi mà, làm gì có tóc nàng xõa kín gương mặt rồi để
chàng vén mái
tóc nàng lên cho hai người đưa mắt nhìn nhau.
Ninh Hà có giọng nói thật hay. Nhớ lại một buổi trưa
hôm
đó trong giấc ngủ tôi thấy cảnh hai đứa tôi chơi cờ ca rô trong lớp
học. Người
ta thường nói chiêm bao là do ức chế, nhưng thực ra, hình ảnh nào đã
gặp thì
được nhìn thấy trở lại trong giấc mơ. Trong truyện, tôi thêm thắt đôi
chút để
hai người hiểu nhau. Trong giấc mơ, hình ảnh đó đã bày tỏ tình cảm thân
mật của
hai người.
Truyện ngắn tôi viết 10 trang , Ninh Hà đọc hết
không bỏ
sót dòng nào. Đọc xong, nàng đưa qua cho tôi. Tôi cầm lấy, hơi bối rối
không
biết làm gì với một món quà tặng không còn dùng được nữa.
Lặng lẽ, Ninh Hà
rót trà vào tách cho tôi.
-Anh
uống nước đi.
-Còn ba
tuần nữa thôi,
Ninh Hà đi học lại rồi.
-Em chưa chuẩn bị gì cả.
-Năm
cuối, các môn học đều
khó. Mong làm sao, năm tới em vào Đại Học.
Nàng mỉm cười nhìn lại tôi. Hai đứa tôi cùng vui
chuyện,
nhờ vậy, tôi quên được nỗi buồn về sự hỏng thi. Rồi, có những câu nói
gần như
vô nghĩa. Với nàng, cuộc sống rất là vô tư. Còn tôi, tôi cứ nhìn ngắm
mãi vẻ
đẹp trên gương mặt nàng. Trên ánh mắt nàng, tôi nhận ra tình yêu của
thời gian
có nhiều màu sắc ánh sáng. Và, tôi lại tự nhủ hạnh phúc cho Duy đã có
được
nàng. Tôi luôn nhận ra vẻ đẹp của nàng qua gương mặt và mái tóc. Nàng
để lộ ánh
sáng trắng sữa trên làn da và gương mặt, ở hai cánh tay và hình dáng
cân đối
của nàng.
Đâu đó, mùa thu đang trở về. Và, thành phố này cây
lá sẽ
xanh tươi. Tôi biết lòng nàng không buồn nhưng cũng không vui.
-Ngày
mai, anh trở ra lại Huế.
-Anh đi
Sài Gòn không ?
-Có.
Đi, nhưng không bao giờ
quên Ninh Hà đâu.
Giọng tôi nói thật chân tình, cảm động. Ninh Hà
ngước mắt
nhìn tôi. Lúc ấy, hạnh phúc dành cho tôi là nụï cười trong cặp mắt sáng
của
nàng.
Buổi trưa qua mau. Cả nhà về tới. Ông
Kha thấy tôi vào lại hỏi thăm sức khỏe ba mẹ
tôi ngoài nhà và ông bắt tay tôi thật là nồng ấm.
-Cháu
đã nhận được thư của
một người bạn ở Sài Gòn.
-Chừng
nào cậu đi ?
-Dạ,
đầu tuần tới. Cháu vào
đây thăm hai bác, ngày mai cháu trở ra Huế.
-Không
ở chơi thêm ít ngày.
-Cháu
ra, chuẩn bị chuyến đi
để sớm gặp người bạn.
Lúc nói chuyện với gia đình, tôi quên mất sự vắng
mặt của
Ninh Hà. Một lúc sau, nàng xuất hiện ở
lối cầu thang đi xuống. Lúc tôi ngước mắt nhìn thấy, nàng mỉm cười.
Nàng có một
vẻ đẹp khiến cho tôi cứ nhiều lần bối rối, bỡ ngỡ. Hơn một giờ qua,
trong lúc
nhà vắng vẻ chỉ có hai người chuyện trò với nhau mà những ý tưởng thực
sự muốn
bày tỏ còn ngập ngừng, lơ lửng, dù trong thâm tâm là có sự thương gọi
của tình
yêu mà với hai người, ai nói ra trước cũng được. Tôi cảm thấy sự thua
kém này
vì bản tính rụt rè, cộng sự không may mắn của tôi sau một năm học.
Nhưng nàng
chẳng bao giờ quan tâm đến chuyện đó. Nàng rất tự nhiên, vẫn nghĩ về
tôi là một
người bạn thân, vẫn biết rõ hơn ai hết trong gia đình là tôi yêu nàng,
dù một
chút mong manh trong hy vọng nhưng nàng vẫn chấp nhận, và tự nói với
chính mình
là nàng cũng yêu tôi.
Đến trưa, trong bữa ăn tôi có mặt với gia đình nàng. Tôi dè dặt, nhưng với vẻ mặt thân thiện của
các em nàng làm tôi hài lòng. Sau bữa ăn, ông bà nghỉ trưa còn tôi cùng
mấy đứa
em và nàng lên gác chơi bài. Vừa chơi bài, vừa trò chuyện. Huyền nói:
-Rạp
Lido có chiếu phim hay
lắm.
Tôi đưa mắt nhìn qua Ninh Hà . Trong cái nhìn của
tôi,
Thủy bắt gặp là hiểu. Cô nói:
-Chị Hà
bao ciné nghe ?
Hà nhìn qua tôi, gật đầu. Rồi mấy anh em chơi bài
tiếp.
Lúc này, Hà là người chủ động dẫn dắt câu chuyện từ phim ảnh, đến bạn
bè, và
nói đến ngày hội Festival có tổ chức cuộc thi nữ sinh duyên dáng.
Rất
vui, tôi lên tiếng:
-Thu
Huyền nên dự thi.
-Em
cũng đồng ý như vậy, Hà
tiếp lời.
-Không,
em không đi đâu.
-Anh
nghĩ là em sẽ đoạt giải.
Hà nói:
-Xong
chưa, khui bài nhé.
Tất cả chờ đợi. Khi Hà lật hai cây bài tôi lên, nàng
cười
nói:
-Cái
tội dằn non.
Lòng tôi quá vui trong giọng nói của nàng. Từ dạo
tôi
biết nàng cho tới nay, mỗi cử chỉ nhỏ nhặt trong ánh mắt, nụ cười của
nàng đều
có liên hệï đến tình yêu.
Buổi chiều, chúng tôi cùng xuống phố chơi và coi
chiếu
phim. Sau khi vãn hát, Thu Huyền bước tới gần tôi, nói:
-Em có
việc phải đi.
-Em đi
đâu ?
-Em để
anh lại một mình. Một
mình để cho anh nói lời từ giã với chị Hà.
Sáng hôm sau, tôi thức dậy sớm vì thường ngủ ít.
Khoảng
mười giờ, nhà dọn bữa ăn sáng, cà phê, nói chuyện với gia đình một lúc
lâu tôi
đứng lên xin kiếu từ. Giọng tôi hơi run khi nói lời từ giã. Ông bà Kha
và các
em chúc tôi đi đường bình an. Riêng Ninh Hà, nàng tặng cho tôi gói quà
nhỏ bọc
trong giấy hoa. Tôi nói rất nhiều lời từ biệt với nàng bằng đôi mắt của
tôi.
-Anh
nhớ viết thư cho em.
Nói xong, nàng đưa tay cho tôi bắt. Đêm qua, nàng
thức
khuya. Tôi biết nàng thức khuya, vì thấy trên căn gác còn để sáng đèn
đến một
giờ khuya. Khi thấy tôi bối rối, nàng mỉm cười, như thế, chúng tôi sẽ
còn nhớ
đến nhau khi ở xa nhau. Thế rồi, ra đi. Tôi tới bến xe vừa kịp chuyến
sắp khởi
hành. Xe chạy nhanh, sau hai giờ đường là đến Huế. Về đến nhà đã quá
trưa, tôi
mệt đi nằm nghỉ. Trong giấc ngủ, hình bóng người yêu tôi đến, và rồi,
một áng
mây trắng bồng bềnh biến thành chiếc áo trắng nàng mặc. Nàng cũng đã
theo tôi
về Huế với áo trắng, như thể cho tôi nghe được tiếng nàng gợi nhắc đến
một tấm
lòng quê hương cũ.
Khi tôi thức dậy, nhà vắng vẻ. Tôi thở nhẹ cho nỗi
buồn
tan đi, rồi mở túi xách lấy ra gói quà Ninh Hà tặng cho tôi. Một cuốn
sách
truyện bọc ngòai, ghép ở trong là một phong bì dày với lá thư, mấy tấm
ảnh của
nàng và có số tiền một ngàn.
Lá thư, nàng viết:
Anh ra
đi bình yên. Em rất
thương anh, luôn nhớ đến anh. Những tấm ảnh này em gởi anh làm kỷ niệm.
Em
không ghi lời đề tặng gì cả. Em cũng rất biết hòan cảnh anh, đi xa như
vậy sẽ
thiếu thốn lúc ban đầu. Tiền Ba Mợ cho để dành, em cho anh để anh dùng
đến lúc
cần.
Em,
Ninh Hà
IX
Vân Oanh đã dọn đến chỗ mới ở khu phố nhà ga. Một
dãy nhà
ngang gồm bốn căn có diện tích bằng nhau, căn đầu tiên gần lối cổng vào
là của
gia chủ, một cặp vợ chồng đã hưu trí, hai căn kế bên cửa đóng kín, bên
trong là
nơi thờ tự có chưng các món đồ cổ và đồ gia bảo, căn cuối hết vừa mới
được mở
cửa cho người thuê.
Oanh thuê nơi chỗ ở này giá rẻ, nhà rộng rãi, thoáng
mát,
có vườn sau, sân trước nhìn ra thấy con đường lên vùng ngoại ô, thấy
con sông
nhỏ hẹp nước trong xanh, và bên kia sông là ngôi trường nhà dòng cổ
giống như
một tu viện.
Oanh đã có năng khiếu vẽ trước khi thi đậu vào
trường Mỹ
Thuật. Những năm học ở trường Sao Mai, mỗi kỳ triển lãm Oanh luôn nhận
được
phần thưởng qua mấy bức tranh vẽ rất đẹp, sắc nét, giàu nghệ thuật sáng
tạo.
Với căn nhà thuê thật vừa ý, Oanh đã trang trí từ phòng
sinh hoạt ra phòng khách bằng các
thứ lọ hoa, tranh vẽ, tượng điêu khắc
bằng gỗ, thạch cao, trông giản dị, nhưng
đầy ấn tượng.
Bên trong phòng sinh hoạt, lớn nhất là chiếc giường
ngủ
trải nệm. Ở cạnh bàn học trông ra cửa sổ có một chiếc kệ ba ngăn, ngăn
trên là
sách hội họa, ngăn giữa để các loại thuyết, và ngăn dưới là sách giáo
khoa
chương trình thi Tú Tài phần hai. Nếu năm tới thi đậu, thì nàng sẽ theo
học
Luật, còn ở trường Mỹ Thuật là năm thi tốt nghiệp ra trường.
Trường Mỹ Thuật nằm trong khu Đại Nội, nơi đó, trước
đây
là khuê phòng cung nữ của nhiều đời vua
triều
nhà Nguyễn.
Năm học mới đã bắt đầu được ba tuần lễ. Lớp của Oanh
chỉ
có hai nữ sinh viên, còn lại là nam, khoảng mười người. Chương trình
học năm
thứ hai khá nặng, rất nhiều môn về văn hóa, lịch sử , kịch liên quan
đến hội
họa và thẩm mỹ , những môn này được các giáo sư
ở bên Viện Hán Học và trường Văn Khoa, trường Kiến
Trúc qua dạy.
Thiên nhiên là người thầy nghệ thuật. Vì vậy, các
sinh
viên bạn nào cũng tìm kiếm những cảnh trí độc đáo ở bên ngoài để làm đề
tài cho
tranh vẽ. Vào những ngày đi dã ngoại, sinh viên lớp của Oanh theo các
thầy
hướng dẫn đi tới những nơi tụ hội nhiều thắng cảnh đẹp, trữ tình của
sông nước,
núi rừng. Vào những buổi học bình thường, khi tan lớp, Oanh đạp xe về
nhà. Trên
đường về, bóng dáng nàng qua phố lúc với hình ảnh áo dài trắng, lúc là
áo dài
tím, vàng hoặc màu thiên thanh. Vân Oanh là một thiếu nữ đẹp dịu dàng
và đức
hạnh. Nàng dành cho cuộc đời một khuôn mặt rất hạnh phúc, một đôi mắt
mãi mãi
sáng nụ cười, một giọng nói rất hồn nhiên và đầy tự tin. Khi cơn gió vô
tình
làm rơi rớt xuống trên vai áo nàng những bông hoa đỏ thắm của phượng,
lúc ấy,
hình ảnh nàng là cả một bức tranh. Oanh, tên nàng còn là tên thành phố
của con
tim. Oanh, tên ấy của nàng cũng dễ gây cho bạn sự liên tưởng về các thứ
bông
hoa và màu sắc mỗi bông hoa ấy luôn được
nhìn như là biểu tượng. Và một ngày kia, thành phố sẽ mang nhiều bông
hoa khác
nữa từ cái tên và tâm hồn của cô gái để
xây dựng nên thành một khu vườn, một công viên.
Tối qua, gần tới giờ Oanh đi nghỉ thì Nguyên đến,
trông
anh có vẻ mỏi mệt vì làm việc căng thẳng. Nhưng, anh cảm thấy rất là
vui khi
được về bên người yêu. Oanh hỏi:
-Sao
anh tới trễ vậy ?
Nguyên chưa đáp lời, anh cầm bàn tay Oanh rồi hai
người
ngồi xuống ở bàn học.
-Em làm
anh ly trà đá nghe ?
Nguyên gật đầu. Oanh đứng lên, nàng đi xuống nhà
dưới.
Nguyên lật cuốn vở học của Oanh ghi chép những bài luận mẫu Pháp Văn
nàng chọn
trong sách viết ra, đây có thể là những đề thi. Khi Nguyên cầm cây bút
sửa lại
mấy lỗi viết sai, Oanh lên tới. Nàng đặt ly nước mát xuống bàn, xong
ngồi bên
cạnh Nguyên.
-Anh ăn
uống gì chưa ?
-Có,
anh ăn ở trại rồi.
-Anh
ghé bên nhà chưa ?
-Anh về
thẳng đây luôn, một
tiếng nữa anh vào trại.
Nguyên uống một hớp đầy xong đưa qua cho Oanh.
-Tuần
tới, em vào nhà không ?
-Không,
đến cuối tháng.
-Năm
nay bài vở nhiều không ?
-Chắc
chắn là nhiều hơn năm
ngoái. Năm nay, học thêm môn họa hình và cơ thể học.
-Ngày
mốt anh lên căn cứ hành
quân.
-Đi lâu
không ?
-Chừng
một tuần, có thể hơn.
-Lâu
nhỉ.
-Em
biết chuyến đi lần này
như thế nào không ?
-Thì
vẫn là công tác dân sự
vụ.
-Không,
em đoán sai rồi.
Oanh ngước mắt nhìn qua Nguyên, và lúc nào cũng vậy,
trong mắt nàng luôn sáng dịu lên một nụ cười. Nguyên nói:
-Có
đoàn văn nghệ Sài gòn ra
hát cho lính ở tiền đồn. Anh phải hướng dẫn đi, buổi đầu tiên diễn ở
trung đoàn
sau đó đến các tiểu đoàn.
-Có
diễn cho dân chúng coi
không ?
-Tùy ý
trưởng đoàn. Nhưng anh
sẽ cố sắp xếp một đêm cho dân làng được xem.
-Anh
cần để cho dân chúng
được xem. Ở những vùng xa hẻo lánh, ít khi họ có được dịp như vậy.
-Em của
anh lúc nào cũng đầy
lòng nhân hậu.
-Những người khác, em rất là dễ dãi, nhưng với anh
phải khó và nghiêm khắc như cô giáo.
-Sao
vậy ?
-Anh
không hiểu ra tính tình
của anh à.
-Anh
vui tính, luôn biết chìu
em.
-Không
đúng. Anh rất là lông
bông, liệu hồn đấy.
Nguyên cầm bình trà rót thêm vào ly còn nước đá. Anh
uống
và cảm thấy đã khát.
-Anh ăn
gì đi, không thì đói.
-Có gì
ăn ?
-Mì gói.
-Chút
nữa, ngồi bên em anh
cảm thấy rất dễ chịu.
-Dễ
chịu thực không ?
Im lặng, Oanh hé môi để cho Nguyên hôn. Nguyên hôn
thật
lâu làm thân người nàng run rẫy.
Bên ngoài trăng sáng. Hai người đứng dậy đi lên nhà
trên
mở cửa trước ngồi xuống thềm hiên. Ở thành phố Huế, bạn luôn có cảm
giác yên
lặng và xa xôi. Về đêm, vào mùa trăng sáng, cảnh vật trở nên huyền
nhiệm, mỗi
cảnh lồng vào trong đó một thứ tiếng nói, rồi tất cả hòa vang thành
nhạc khúc
trên dòng sông đang chảy.
Oanh khoác ngoài chiếc áo len hồng, nàng dựa đầu lên
vai
chiếc áo jacket dày của Nguyên. Bàn tay nàng trong tay người yêu.
-Đúng
là cảnh trăng mùa thu.
Oanh mỉm cười sau câu nói của Nguyên. Rồi nàng bảo:
-Anh có
tâm hồn thi sĩ.
-Mỗi
bài thơ anh sáng tác,
luôn mang bóng hình em.
-Nhưng
anh đâu có làm thơ
nhiều.
-Anh sẽ
viết riêng một tập
thơ đề tên em.
-Ông
Nguyên Sa, với tên người
yêu ông chỉ làm thơ một chữ thôi.
-Em là
hình ảnh Lara, anh sẽ
viết riêng một tập thơ mang tên em.
-Có một
tập thơ của anh, em
sẽ vẽ bìa.
Trên đường, có bóng một người đàn ông đạp xe đi
ngang
qua. Ông ta đội chiếc mũ nỉ, vừa đạp chậm rãi, vừa đưa mắt nhìn xuống
dòng
sông.
Những cánh cửa sổ trên tầng ba của ngôi trường dòng
bên
kia đang mở. Ánh đèn từ căn phòng đó hắt ra bên ngoài yếu ớt rơi xuống
dòng
sông. Và, nhờ ánh trăng sáng, hai người nhìn thấy rõ nước dòng sông và
cả hai
phía bờ.
Nguyên chợt hỏi:
-Em còn
nhớ những ngày về
thăm quê không ?
-Nhớ
chứ.
-Mỗi
nơi, cho em một tình cảm
riêng phải không ?
-Quê
nội nghèo, như anh nói.
-Ở đó
thật hoang sơ, chỉ có
biển và cát.
-Còn
dòng sông thì về miền
quê ngoại.
-Mẹ rất
thương em.
-Em
hiểu ý anh muốn nói.
Rồi nàng tiếp lời:
-Quảng
Trị, thành phố tuy nhỏ
nhưng đẹp. Về các làng quê, nơi nào cũng có dòng sông chảy qua.
-Anh
rất nhớ quê ngoại, qua
ngôi nhà thờ, cảnh đồng ruộng và con đường đê.
-Ngày
đó, mẹ anh đi chợ phiên
cũng xa nhỉ.
-Con
đường đê rất dài đó,
buổi chiều là hình ảnh của mẹ.
-Chắc
lúc nào anh cũng gần
bên mẹ.
-Và,
bên em nữa.
Oanh vuốt mái tóc. Trăng mùa thu sáng dịu, sương đêm
xuống lặng lẽ in bóng dáng những đám mây mỏng manh, lửng lơ bên kia bờ.
Oanh
ngước mắt nhìn lên trăng, hai tay để ra đằng sau vuốt sửa lại mái tóc.
Bỗng nhiên,
nàng có cảm giác như một ai đó gọi tên
nàng.
Oanh chợt mỉm cười qua giấc mơ. Nguyên nhìn đồng hồ,
anh
hỏi:
-Em
buồn ngủ chưa ?
-Chưa.
-Anh
vào trại bây giờ .
-Anh
lái xe một mình ?
-Không
sao, đêm có trăng.
Oanh đi bên Nguyên, bàn tay nhỏ bé của nàng trong
tay
anh. Xe đậu bên lề đường gần bờ sông ngoài cổng. Dừng bước bên xe, Oanh
nói:
-Anh
lái xe cẩn thận.
Nguyên không đáp lời, anh nhìn đồng hồ tay, bỗng nói:
-Anh
đưa em đi ăn.
-Khuya
rồi.
-Em vào
nhà đóng cửa, xong đi
ăn với anh.
Oanh quay trở vào. Không lâu lắm nàng trở ra và
Nguyên đã
cho xe nổ máy. Khi Oanh lên ghế ngồi, Nguyên cho xe chạy một đoạn tới
bến cát
rồi trở đầu đi về phía nhà ga. Anh chạy vòng quanh nhà ga tìm quán ăn,
xong đổ
về khu phố Morin và rẽ đường tới nhà Bưu Điện. Một quán ăn khuya vẫn
còn mở và
có khách ăn.
Xe dừng ở bờ đường gần quán. Đêm thành phố lặng yên
với
bóng sáng của ánh trăng thật dịu dàng. Nguyên nhìn qua mái tóc Oanh,
anh nói:
-Khi
nào Mỵ Châu cần sách
đọc, nhớ cho anh biết.
-Sách
còn nhiều, Mỵ Châu chưa
đọc hết.
-Anh
bỗng nghĩ, có một tu
viện, Mỵ Châu ở đó với các xơ, vừa làm việc vừa đọc sách.
Oanh cười hơi lớn tiếng. Nàng hơi dừng bước hỏi
Nguyên:
-Anh
nghe em kể về Mỵ Châu
lần nào chưa ?
Nguyên nhắc lại một vài chuyện, nhưng Oanh cho là
chưa
đúng.
-Khi về
nhà, em sẽ kể cho anh
nghe.
Hai người vào quán, ngồi bàn thấp ở phía ngoài. Có
bún,
cháo và cà phê.
-Ăn bún
nghe.
Oanh gật đầu. Khi đứa nhỏ chạy bàn đi vào, Nguyên
nói với
Oanh:
-Thụy
mới viết thư về nhà, có
gởi lời thăm em.
-Anh
gởi thư, em có lời thăm.
-Thụy
rất mong được gặp em.
Nó bảo, anh gởi cho nó xem ảnh của em.
-Anh
đừng gởi.
-Không
gởi nó cứ nôn nao mong
có kỳ nghỉ phép.
-Đến
lúc về, sẽ gặp. Nếu em
không ở đây, anh đưa Thụy vào Đà Nẵng chơi.
Hai tô bún nóng để trên chiếc khay, đứa nhỏ mang ra
cẩn
thận đặt xuống bàn. Mỗi người, trước khi ăn lấy những lọn chả bỏ thêm
vào tô
bún.
-Tối
mai anh về nhà không ?
-Chắc
là không ?
-Được
dẫn các cô ca sĩ đi hát
tiền đồn, chắc là anh vui, trông đợi nữa phải không ?
-Những
ca sĩ Sài Gòn anh quen
hết ?
-Có cô
nào anh bắt bồ không ?
-Không.
-Em
không tin.
Hai người bắt đầu ăn. Nguyên nói:
-Trước
khi đi lính, anh làm
nghề báo. Không chỉ viết tin, làm phóng sự, anh còn phụ trách trang tân
nhạc
hàng tuần. Có trang này, anh dễ làm quen với các cô ca sĩ, và cô nào
cũng muốn
nhờ anh viết giới thiệu để có cơ hội nổi tiếng. Khi làm trang này, anh
cũng đã
thực hiện một thiên phóng sự Sài Gòn về
đêm qua các phòng trà.
-Các nữ
ca sĩ, cô nào cũng
đẹp ?
-Không
hẳn.
-Anh
tình nguyện đi lính hay
bị động viên.
Nguyên kể chuyện về một vị Thiếu Tá anh quen làm
việc ở
Cục Tâm Lý Chiến. Và đúng như lời hứa hẹn của ông, Nguyên vào Thủ Đức
khóa 21,
mãn khóa học xong anh được về làm việc tại phòng truyền hình ở Cục Tâm
Lý
Chiến. Năm 1965, truyền hình bắt đầu có và rất mới mẻ. Nhiệm vụ của
Nguyên là
hướng dẫn người quay phim quay những cảnh thực ngoài chiến trường, phần
anh,
dựa vào mỗi cảnh phim quay viết lời bình và dẫn giải. Với công việc
này, Nguyên
còn tạo được tên tuổi cho mình qua những cuộc phỏng vấn trực tiếp với
các vị Tướng
Tư Lệnh Sư đoàn, các vị Tỉnh trưởng, và anh cũng hay có mặt trong những
cuộc
họp báo đặc biệt của các giới chức cao cấp cả về dân sự và quân sự.
-Nhưng
sao anh bỏ Sài Gòn ra
ngoài này ?
Nhìn Oanh, Nguyên nói:
-Để
được gặp em.
-Không
đúng. Gặp nhau là sự
tình cờ, không nói là chủ đích được.
Quán ăn tới giờ đóng cửa. Khách ăn đứng dậy ra về.
Nguyên
vào quán trả tiền, bất ngờ gặp Lập là bạn trong nhóm sinh viên tranh
đấu ngày
xưa. Khi Nguyên làm Ủy viên báo chí Tổng hội anh kiêm luôn chủ bút tờ
Sinh Viên
Huế, còn Lập là Tổng Thư Ký. Tờ báo khởi
đầu từ sau biến cố đảo chánh 1/11/63 và kết thúc khi sứ mạng của Sinh
viên đối
với hiến chương Vũng Tàu hoàn thành. Thời sinh viên, Nguyên có được
những tháng
ngày hào hùng, lãng mạn. Oanh rất thích một bức ảnh anh mặc áo sơ mi
màu
rêu, hai túi xẻ, đứng trên bậc thêm ở
trường Đại Học Văn Khoa. Bức ảnh, rất ăn từng nét đẹp của Nguyên qua
dáng người
và cặp mắt.
Khi Lập theo Nguyên ra ngoài, gặp Oanh anh bạn chào
hỏi
rất thân thiện. Và, khi được biết Oanh học ở trường Mỹ Thuật, anh ta
rất mong
được xem những tranh vẽ của nàng. Hai tuần lễ tới, Huế sẽ có một cuộc
triễn lãm
dành cho các họa sĩ trẻ.
Nguyên lái xe chậm tốc độ trên đường. Oanh vào câu
chuyện
kể về Mỵ Châu, về một ý tưởng ngộ nghỉnh muốn bỏ nhà đi tu, ở chùa, hay
nhà
thờ cũng được, miễn là được sống xa lánh
cuộc đời. Ở cái tuổi còn nhỏ, nhưng được chọn đi tu cũng là niềm vui.
Nguyên
cười lớn tiếng hòa nhịp cùng tiếng cười của Oanh , anh ngả người dựa
lưng ghế
buông tay lái, sau đó, anh cầm bàn tay Oanh đưa qua bên
mình và đặt lên phía trái tim.
Nguyên thật sung sướng, rồi anh nói với Oanh rằng,
sự rời
bỏ đô thành Sài Gòn để ra ngoài này đó là sự lựa chọn của một người
lính, nhờ
đó, tạo ra cơ duyên cho anh được gặp một người mình yêu thật sự trong
ước mong.
Sương mù đang trôi bao kín dòng sông. Ánh trăng thu
lan
tỏa ra hơi lạnh trong đêm vắng. Về đến nhà, Nguyên dừng xe lại trước
cổng, anh
nói:
-Chúc
em ngủ ngon.
X
Trước ngày đi ra Nha Trang để dự khóa học chuyên môn
ba
tháng, buổi chiều Thụy đến nhà dì Hồng nhận được cùng lúc ba lá thư. Đó
là thư
anh Nguyên, thư Ninh Hà , thư còn lại
của một người bạn hiện nay đang dạy học dưới Vĩnh Long.
Thư anh Nguyên nhờ Thụy mua giúp anh cuốn Tìm Hiểu
Hội
Họa của tác giả Đoàn Thêm và nếu có sách thì gởi về địa chỉ ở bên nhà
hoặc cho
cô gái bạn anh. Thư Ninh Hà có hai tấm ảnh kèm theo thư, đó là ảnh nàng
và ảnh
đứa con trai. Ảnh đứa con trai mới sáu tháng tuổi có ghi lời tặng, còn
của
nàng, thì không. Từ ngày xa cách, Thụy có nhiều tấm ảnh của nàng mang
theo,
nhưng không một tấm nào có những dòng chữ của nàng ghi lời tặng.
Sau khi đọc thư xong, Thụy đón xe buýt lên chợ Bến
Thành.
Sài Gòn, ngày nào cũng huyên náo, xô bồ, nhưng thật là dễ sống. Xuống
bến xe,
Thụy đi qua khu bùng binh Quách Thị Trang đến nhà sách Khai Trí, và đi
sâu vào
phía bên trong cùng để tìm kiếm các loại sách chuyên môn. Thật may mắn,
Thụy
tìm ra cuốn sách anh Nguyên nhờ, chỉ còn
một bản duy nhất bày trên kệ. Thụy vói người lấy cuốn sách xuống, giũ
bụi, xong
xem lại cẩn thận những trang in có bị sót không. Thụy không thể đọc
được nhiều,
nhưng với tác giả anh đã có biết, và nhìn qua cách viết anh thấy người
biên
soạn rất là cẩn trọng, công phu. Trong
sách còn có một số phụ bản tranh in màu của các họa sĩ danh tiếng
Picasso,
Gaughin, Renoir, Van Gogh, Claude Monet . Bức tranh Người gieo hạt của
Van Gogh
rất là ấn tượng, sống động, và lúc này, Thụy cảm thấy dễ chịu, yêu
thích hơn
hết là được xem bức tranh của người họa sĩ Pháp gốc Hòa Lan, Claude
Monet. Bức
tranh vẽ ở một công viên trông ra biển. Trên công viên bày ra những bàn
ghế
mây, có một người đàn ông đội nón nỉ phớt mắt nhìn ra biển xa, ngoài
mặt biển
xanh đẹp những làn sóng nước, có rất nhiều tàu và thuyền bè đang di
chuyển. Bên
lối hàng rào, có một người phụ nữ trông dáng vẻ quí phái đang chuyện
trò với
một người đàn ông đứng tuổi thật lịch lãm. Người phụ nữ dáng mảnh mai,
che đầu
chiếc dù trắng, còn người đàn ông mặc áo veste, một tay cầm cây can.
Thụy cảm
thấy ngay sức tưởng tưởng tượng của mình trong khi họa sĩ
phối hợp các màu tươi sáng trên bức tranh,
đáng yêu nhất là màu của các bông hoa thắm nở bao quanh công viên. Khi
ra đến
quầy tính tiền, Thụy đưa cuốn sách cho cô bán hàng, cô coi giá bìa xong
bớt giá
15%. Cô bỏ sách vào túi nylon đưa cho anh rồi thối tiền lẻ.
Ra khỏi hiệu sách,
Thụy đến quán Mai Hương ngồi uống một ly cà phê đá. Buổi chiều Sài Gòn
thật ồn
vui, dọc phố chính những tiếng động luôn khua dậy rất đều nhịp, dòng
người,
dòng xe qua lại không ngớt, và bóng dáng các cô gái thướt tha trong
chiếc áo
dài thật là đẹp. Thụy uống cà phê, vừa hút thuốc, và bây giờ đây anh
chẳng có
ai quen ngoài Huê ra. Huê rất mến anh, nên khi ở bên nàng anh cũng rất
tự
nhiên.
Về nhà, Thụy viết một lá thư ngắn gởi cho cô Vân Oanh nói chuyện về cuốn sách anh Nguyên gởi
nhờ mua. Và, để có sự tin cậy, Thụy còn nói thêm một đôi điều để cô yên
tâm khi
cần đến những sách học ở trường Mỹ Thuật.
Thụy hài lòng với lá thư mình viết ngắn gọn, suôn
sẻ.
Ngày hôm sau, Thụy lên đường đi học. Buổi sáng sớm,
anh
vào trạm tiếp liên, và lúc ra phi cơ, thật bất ngờ Thụy gặp lại anh
Khanh. Anh
đang trò chuyện với một người bạn cũng là phi công, thấy Thụy, anh vội
ngừng
chuyện tới gần bắt tay.
-Anh có
đọc truyện ngắn em
viết ở báo Lý Tưởng.
-Anh
thấy được không ?
-Được
lắm. Nhưng ai kể chuyện
này cho em.
-Nhân
vật trong truyện là
Trung úy N. ở bên phi đoàn 217.
-Đúng
rồi, N. là bạn anh. N.
bay rực thăng bị trúng đạn, máy bay cháy và anh bị thương tích rất
nặng. Nhưng,
dù cho anh bị thương tích, cô Ngọc Hiền bạn gái vẫn yêu thương và hai
người đã
lấy nhau.
-Em
biết câu chuyện thật hay,
cảm động nên viết ra.
-Hôm
nay em đi đâu ?
-Em ra
Nha Trang học khóa
chuyên môn.
-Về
ngành gì ?
-Ngành
điều không.
-Không
phải em làm ở báo Lý
Tưởng đi công tác.
-Không,
em có chỉ số ngành
điều không. Báo Lý tưởng kéo em về vì thấy em có khả năng viết báo.
-Rồi
học xong, thì sao ?
-Chắc
là về lại Lý
Tưởng. Đại úy Hùng sẽ kéo em về, vì
tờ báo cũng cần người. Em đi học chuyên
môn là để lấy bằng hưởng lương phụ cấp.
Anh Khanh gật đầu nghe Thụy giải thích. Khi đến giờ
đến
giờ lên máy bay, Thụy cùng hành khách vào chiếc C47, chiếc này anh
Khanh là
trưởng phi cơ.
Sau một tiếng bốn lăm phút bay, phi cơ ra tới Nha
Trang.
Từ trạm tiếp liên Thụy đi bộ tới khu huấn luyện và sau khi làm xong thủ
tục,
anh về phòng khóa sinh sắp xếp đồ đạc và
dọn chỗ nằm.
Ngày hôm sau, Thụy ra phố tới nhà Bưu điện gởi thư
về
Huế, địa chỉ nhà cô Oanh ở. Khi mua sách ở Sài gòn, anh không gởi ngay,
mà muốn
lấy địa chỉ KBC ngoài quân trường để trường hợp thất lạc, sách sẽ trả
lại cho
địa chỉ người gởi. Từ câu chuyện của Nhi kể về nàng, thật lạ lùng,
trong trí
tưởng anh luôn hình dung về nàng một khuôn mặt hiền hậu, một đôi mắt
đẹp, và
qua dáng bước đi trong chiếc áo dài tím thật nhẹ nhàng như
mỗi cánh hoa vừa hé nở. Thụy thật hạnh phúc
khi biết anh Nguyên của mình có người yêu là nàng.
Buổi chiều ấy, với sự mộng mơ, với lòng tơ tưởng,
Thụy đi
lang thang qua các phố , sau đó thả bộ
dọc con đường ven biển trở về trường. Tối đến, nằm
trong phòng Thụy đọc
truyện, vẫn cuốn truyện cũ Người Mỹ trầm lặng. Khi đọc cuốn này, Thụy
bỗng nhớ
đến Hạnh.
Với tờ SVL cầm tay Thụy
đã ra dự khóa học đúng ngày, nhưng anh em khóa sinh
cùng chỉ số là bốn
mươi người chưa tới đủ, mới trình diện
được mười lăm người. Còn thiếu khá nhiều, nhưng thực
sự, có đủ quân số,
khóa học cũng chưa bắt đầu vì còn thiếu giảng viên.
Tới kỳ lương lãnh tiền xong, Thụy chuồn đi Đà Lạt.
Thụy
phải đi hai chuyến xe lam mới đến bến xe. Hầu hết xe đi các tỉnh xa là
của hãng
Trung Việt. Có hai loại, xe dài, và xe cỡ trung. Xe dài được 80 chỗ
ngồi, còn
cỡ trung chỉ bốn mươi chỗ.
Khi lên xe, Thụy thấy bên chỗ cô gái đang ngồi còn
ghế
trống. Thụy xin phép lấy chỗ ngồi, cô gái không nói gì. Đợi hai mươi
phút nữa,
xe mới khởi hành. Thụy đưa mắt nhìn ra ngoài vừa thoáng ngắm vẻ mặt cô
gái.
Thụy hơi cảm thấy mệt nhưng không buồn ngủ nhờ có uống cà phê. Tối hôm
qua,
trong ảo mộng cuộc đời Thụy nghe ra tiếng nói và thấy hình ảnh người
yêu của
anh đi lấy chồng. Ngày hôm ấy nàng đi, hiển hiện trong giấc mơ của anh
cả một
cuốn phim đen trắng, và có vẻ như anh nối kết lại những bông hoa ấy
thành một
bó hoa trông đợi nàng. Giờ đây, một ngày đã khác.
-Cô học
ở Đà Lạt ?
Cô gái mỉm cười lắc đầu.
-Không.
Thụy nhìn giờ qua chiếc đồng hồ đeo ở tay cô. Bỗng
Thụy
hỏi ý cô gái muốn đươc đổi chỗ ngồi phía ngoài cho thuận tiện. Không
đáp lời,
cô gái đứng lên và hai người đổi chỗ. Thụy nhận ra một cảm giác êm ái
khi chiếc
áo dài của cô chạm nhẹ tay anh.
Với một giọng thân tình, Thụy nói:
-Ngày
trước, tôi học ở Đà
Lạt.
Cô gái mỉm cười biết chàng gợi chuyện làm quen. Bỗng
cô
gái lên tiếng:
-Tôi
không phải là Sinh viên.
Thụy đáp lời:
-Bây
giờ đợi xe đi lên thành
phố đó, tôi cảm thấy nhớ thời đi học của mình.
-Gia
đình ông ở trên đó ?
-Không.
Tới phiên xe rời bến, người tài xế vừa cất tiếng gọi
hành
khách còn đứng dưới, vừa mở cửa ghế phòng lái bước lên. Trong xe, ở
hàng ghế
sau có hai người đàn bà hơi lớn tiếng cãi vã nhau. Thằng lơ xe liền lên
tiếng
giải hòa, vừa vui với giọng đùa nghịch. Có người cười, bảo thằng nhỏ
lém lỉnh.
Khói thuốc lan tỏa trong xe. Người tài xế ngồi trước tay lái vẫn còn
chờ ai đó,
và rồi, có một người mang đến cho ông ta giấy tờ để xuất bến. Xe nổ
máy, tự
dưng lòng Thụy nôn nao. Nha Trang- Đà Lạt quãng đường dài hơn 200 cây
số.
Xe lăn bánh. Khi ra khỏi bến, xe còn chạy trên con
phố
chính đang ồn ào trong cảnh sinh hoạt đầu ngày.
-Gia
đình cô ở Đà Lạt ?
-Không,
ở đây. Tôi làm việc ở
Ty Bưu Điện.
-Tôi có
đến đó hai lần nhưng
không gặp cô.
-Tôi
làm hành chánh bên
trong, không ngồi ở guichet.
Không hỏi gì thêm, Thụy nhìn gương mặt cô gái. Cô
không
đẹp, nhưng nhìn kỹ thấy rất có duyên. Có vẻ cái nhìn trong mắt Thụy làm
cô sợ,
vội lên tiếng:
-Tôi có
gia đình rồi.
-Tôi
vẫn còn độc thân.
Cô gái im lặng. Nắng lên cao, xe đã ra vùng ngoại ô
thành
phố. Ngồi ở bên ngoài Thụy đưa mắt nhìn đồng ruộng, quang cảnh vùng
quê, tự
dưng anh ước ao có một ngày đất nước thanh bình.
Xe tới một trạm kiểm soát ngừng lại. Người Cảnh Sát
đi
dọc theo thành xe, mắt nhìn lên. Trên xe, ngoài Thụy ra có một vài
thanh niên
khác nữa. Viên Cảnh sát hỏi giấy tờ một người, anh ta rút trong ví ra
một tấm
thẻ và giấy tờ tùy thân. Người Cảnh Sát coi xong trả lại rồi cho xe đi.
Đây là
chuyến xe khách bình thường không có người đi buôn vì trên trần không
có hàng
hóa.
Có những lúc trên đoạn đường xấu xe tránh ổ ga, nhồi
xóc, lắc lư, vai Thụy và cô gái chạm
nhau.
-Ông
học ở Đà Lạt bao nhiêu
năm ?
-Hai
năm. Tôi không sinh
trưởng ở đó.
-Nghe
giọng nói của ông là
biết ?
-Cô nói
tôi người ở đâu ?
-Huế.
-Không
phải. Tôi ở ngoài
Quảng Trị, cách Huế gần 60 cây số.
-Ba tôi
là người Huế.
-Mẹ cô
người Bắc.
-Ông
thật tài.
Hai người chuyện trò, và trong lúc xe chạy, những
hành
khách quen hay lạ nhau cũng có chuyện nói với nhau cho đỡ buồn.
Xe tới Phan Rang gần trưa, ghé vào bến cho khách
nghỉ
uống nước nửa tiếng. Nhiều người xuống, và cũng có người ngồi một chỗ.
Thụy và
cô gái vẫn ngồi lại trên xe. Cô gái hỏi:
-Ông
làm việc ở đâu ?
-Tôi
đang ở trong quân đội.
-Tôi
cũng nghĩ như thế.
-Tôi ở
binh chủng Không Quân,
ra ngoài này học khóa chuyên môn. Ít tháng nữa, hết khóa học tôi về Sài
Gòn.
-Ồ, ông
ở Sài Gòn.
-Vâng.
Hai đứa nhỏ bán quà rong mời mua nước và trái cây.
Thụy hỏi ý cô gái, xong mua hai ly nước mía.
Giọng thân tình, Thụy hỏi:
-Cô
được mấy cháu nhỏ rồi ?
Cô gái cười, hai tay vội vàng đưa lên che miệng để
dằn
lại sợ cất lớn tiếng.
-Sao ?
-Lúc
nãy, tôi nói đùa với
ông.
-Tôi
ngắm nét duyên của cô mà
cô cũng sợ.
-Ông
đừng tưởng các cô gái đi
một mình là dễ dãi.
Một cách thân mật tự nhiên Thụy nắm tay nàng rồi
buông ra
ngay.
-Cô có
mang áo ấm theo không
?
-Không.
-Lên
đèo trời lạnh lắm.
-Mùa
này Đà Lạt mưa.
Thụy bật que diêm đốt điếu thuốc. Tới giờ xe chạy,
hành
khách trở lại chỗ ngồi. Tỉnh lỵ Phan rang nằm sát ngay bên quốc lộ.
Chừng năm
cây số nữa là tới đường rẽ đi Đà Lạt. Lúc này, hành khách trong xe
không mấy
nghe tiếng ồn chuyện trò. Thụy cố gắng hồi tưởng lại những ngày tháng
tuổi trẻ
của thời đi học, trong sự gợi nhớ này, anh nhắc thầm tên và tìm đến
những hình
ảnh thân thương của các cô gái anh đã gặp, và tưởng như lúc này, người
nào cũng
dịu dàng mở rộng hai cánh tay đón chào anh.
Thụy vẫn chưa nhìn thấy cuộc chiến tranh. Tin tức
trên
báo chí qua những bài phóng sự, tường thuật, những sự kiện đó chỉ làm
nóng lên
trong con người anh sự bồng bột của trí tưởng tượng, xong rồi dịu hẳn.
Bây giờ
đây, trên đường trở lại Đà Lạt, anh mong được thấy thành phố cao nguyên
với hoa
đào, đồi thông, sương mù, thành phố thời đi học trước khi
đến một ngày tận mắt anh nhìn ra thấy cuộc
chiến.
Xe đang hướng con đướng đi lên Đà Lạt. Ngồi ở ngoài
với
từng đợt gió thổi qua, lúc mát, lúc lạnh, bỗng dưng cơn buồn ngủ tới
làm mắt
Thụy nặng trĩu. Thụy thiếp ngủ, thân người như có ai nhấc bổng.
Một lúc, tiếng cô gái làm anh choàng tỉnh.
-Ông
đừng có cố ý lợi dụng,
giả vờ ngủ quên.
Thụy kịp đưa tay che miệng ngáp và quay mặt thở nhẹ
ra
ngoài.
-Xin
lỗi.
-Ông
ngồi thẳng người lại đi.
Giọng mệt mỏi, Thụy nói :
-Hôm
qua, tôi mất ngủ.
Nói xong, Thụy tựa đầu lên ghế tìm lại giấc ngủ.
Thụy ngủ
ngon giấc không mộng mị. Và rồi, một cảm giác mềm mại, dịu êm thấm vào
tâm hồn
anh. Khi anh thức giấc, cô gái nhìn anh mỉm cười, và nụ cười cô gái
khiến anh
thèm tựa đầu mình lên chiếc vai nhỏ bé
của cô lâu hơn nữa.
-Tới
đâu rồi cô ?
-Một
cây số nữa, xe lên đèo.
Thụy ngẩng đầu dậy. Để rửa mặt, anh thò đầu ra ngoài
hứng
gió. Gió mát đến lạnh và Thụy tỉnh người hoàn toàn.
-Cô đi
Đà Lạt mấy ngày ?
-Tôi
nghỉ phép hai tuần .
-Nhà cô
ở ngay phố.
-Nhà
tôi ở gần Bưu Điện.
-Tôi
cũng đi phép, lên Đà Lạt
thăm lại trường cũ.
-Ông
cũng lãng mạn nhỉ.
-Tôi
cảm thấy nhẹ nhõm sau
giấc ngủ ngon.
-Ông
tựa đầu lên vai tôi nặng
quá.
-Nhưng
tôi chẳng cố ý, phải
không ?
-Sao,
không.
Thụy nhìn nàng thật đằm thắm, và mắt anh đọc được một hàng chữ nhỏ trên cặp mắt của
nàng. Cô gái thật có chút từ tâm, dễ mến. Và, Thụy vừa qua một giấc ngủ
mềm mại
trên vai cô.
Xe đang chạy trên từng khúc quanh qua đèo Ngoạn Mục.
Bên
dưới đèo là nhà ga Dran. Sương mù buông trôi, tiếng dòng suối chảy như
xa vắng.
Từ mỗi quãng dốc, Thụy trông thấy những đám khói từ ống khói ở nhà ga
dâng lên.
Vừa đón cái lạnh, vừa ngửi hương thơm từ những bông hoa, từ những cây
lá quanh
núi rừng, Thụy có cảm tưởng mình như là người lữ khách.
Rồi ánh nắng bừng lên trải rộng một màu vàng lụa bên
dưới
lưng đèo. Lúc này, xe gần tới Đà Lạt, đang chạy qua đèo Prenn. Bên đây, đường đèo chạy men theo vách tường
núi, bên dưới kia dòng suối là rừng thông. Ai cũng lắng im nghe tiếng
hòa nhạc
của thiên nhiên qua khung cảnh nắng chiều. Sương mù giăng mắc, và bạn
nghe ra
được hơi thở của những người từ đâu xa đến đây, hay là kẻ trở về lại
nơi miền
cao nguyên vẫn là một chốn cũ.
Bỗng dưng, trong mắt Thụy hiện lên hình bóng Vân
Oanh.
Nàng thầm hẹn với anh, một ngày đó anh sẽ gặp nàng như ước nguyện.
XI
Những ngày vắng Nguyên, buổi tối Oanh chăm chỉ học
bài
thi với hai môn quan trọng là Pháp Văn và Triết. Ở môn tiếng Pháp, nàng
học rất
kỹ các bài luận mẫu trong sách, và cứ mỗi tuần, lấy theo đề hướng dẫn
nàng làm
riêng một bài luận theo cách viết của mình. Mỗi câu, nàng sử dụng văn
phạm bằng
các thì thông thường để diễn đạt ý tưởng rõ ràng, không sợ nhầm lẫn. Về
Triết,
ban C học đủ các môn Tâm Lý, Đạo Đức, Luận Lý, Siêu Hình, Triết Đông,
nhưng
chính yếu vẫn là môn Tâm Lý cho cả hai phần giáo khoa và luận. Oanh có
đi học
thêm lớp tối hai buổi ở trường Bán Công, và khi có Nguyên,
đến giờ học nàng chăm chú nghe anh giảng
những phần khó trong sách giáo khoa và hướng dẫn nàng làm bài luận. Có
nhiều
tác giả soạn sách Triết, nhưng Oanh chỉ học sách của hai giáo sư Vĩnh
Đễ và
Trần Bích Lan. Giáo sư Trần Bích Lan học ở Pháp, về nước năm 1955, ông
là nhà
giáo vừa là nhà thơ. Nguyên có tặng cho Oanh tập thơ của Nguyên Sa. Đọc
hết tập
này, bài nào nàng cũng thích, và thích
hơn hết là bài thơ có tên Nga. Khi nghe Nguyên kể bài thơ này được tác
giả in
trong thiệp đám cưới gởi cho bạn bè, Oanh reo lên tiếng cười nói rộn
ràng như
đó cũng là ngày vui của nàng.
Tuy sống một mình trong căn nhà thuê rộng rãi, nhưng
Oanh
luôn cảm thấy thật dễ chịu. Sau hai giờ học thường lệ như là ở lớp,
Oanh để
sách lại trên bàn lặng lẽ đứng lên đến mở chiếc tủ lạnh nhỏ tìm một quả
chuối
và lấy ra chai nước uống.
Nàng ngồi ăn, trong tâm trí cũng nghĩ ngợi nhiều.
Khi nhớ
về cô em gái, nàng có cảm giác hai bàn tay nàng mở rộng như một chiếc
khăn lớn,
và lúc đó, nàng tìm thấy từng món đồ chơi bày biện đấy là những kỷ niệm
quí giá
trong thời bé dại của Mỵ Châu. Ngồi bên
cạnh cô em gái trong hồi tưởng, hai chị em chuyện trò, và thời gian bên
nhau
này, hai người cùng nghe tiếng quả lắc đồng hồ treo tường đếm nhịp.
Rồi, từ hơn một năm qua, hình ảnh của Nguyên tràn
ngập
tâm hồn nàng. Khi nào có gặp nhau, bên nhau, là hai người cùng mừng
vui. Tình
yêu làm cho những tiếng nói và niềm vui sáng lên bằng những nụ cười. Có
Nguyên,
Oanh được thêm một người anh giúp sức che chở Mỵ Châu. Có Oanh, Nguyên
tìm ra
được ý tưởng thành phố này là nơi chốn thanh bình riêng biệt của hai
người.
Tình yêu, mình đem ra cho và rồi nhận lấy là hạnh phúc thật tốt đẹp của
thời
gian. Nguyên luôn nhận ra mình đến với Oanh bằng ánh mắt của nàng. Oanh
có đôi
mắt rất đẹp, rất buồn, như là màu ánh sáng êm dịu nhất trong buổi
chiều. Và, sự
xuất hiện của Nguyên, anh thường đến tìm người yêu với bóng dáng một
người ở xa
trở về dưới cơn mưa tầm tã. Về đêm, mối tình trở nên huyền nhiệm, bao
la. Buổi
đầu tiên gặp gỡ, hai người ngồi trên ghế đá nhìn ánh trăng đêm tỏa
xuống dòng
sông. Từ đó, mỗi mùa trăng, hai người luôn có một câu chuyện tình thật
là thơ
mộng. Và, từ hôm Oanh dọn đến chỗ mới này, những đêm có trăng, Nguyên
và người
yêu thường đi bộ chuyện trò bằng những tiếng và những lời của ánh trăng
sáng,
đến tối khuya về nhà, họ ngồi bên nhau một lúc nơi bậc thềm tam cấp
trước cửa
nhà trước khi rời nhau.
Ngày lễ trong tháng mười một này rơi vào thứ sáu,
như
vậy, cộng thêm hai ngày cuối tuần học sinh các trường có được ba ngày
nghỉ
thoải mái. Vào dịp này, học sinh, sinh viên ở các tỉnh xa thường về
thăm nhà.
Buổi sáng, Kim đến tìm Oanh với tin buồn là cô sẽ từ giã Huế theo gia đình vào Sài Gòn. Kim sẽ bắt đầu
nghỉ học sau kỳ lễ này, cô hứa với Oanh , sẽ có thư từ liên lạc với
nhau.
Oanh mời bạn đi uống cà phê. Hai người lên xe buýt
xuống
phố. Có một quán cà phê nhạc gần bờ sông. Cà phê ở quán này rất ngon,
không khí
thân tình, và giá một ly cà phê rất vừa túi tiền cho học sinh, sinh
viên.
Bên dưới dòng sông, thuyền bè qua lại thong thả. Ở
một
góc bàn phía ngoài, chỉ có hai cô gái ngồi. Ly cà phê, dĩa bánh bày
trên bàn.
Oanh lấy một chiếc bánh mời bạn, xong đến nàng. Oanh ân cần hỏi cô bạn
về
chuyến đi, về nơi chốn ở sẽ đến. Kể ra, đôi bạn cũng khá thân khi gặp
nhau từ
năm đầu tiên ở trường Mỹ Thuật. Lớp học chỉ có hai mươi sinh viên, và
chỉ có
hai cô gái, nên chi, họ cần đến sự thân thiện để giúp đỡ nhau. Năm dự
bị , môn
học chính là vẽ tượng, giờ học môn này mỗi sinh viên lần lượt thay nhau
lên
đứng làm người mẫu trong nửa giờø để cho các bạn khác được nhìn, quan
sát, và
vẽ lên giấy. Ít ngày sau trong tuần lễ nhập học, Oanh đã là tên gọi
thân
thương, và trở nên một bức tranh quí hiếm của trường Mỹ Thuật mà từ
trước cũng
như về sau này, nơi đây, vẫn chỉ có nàng thôi.
Ngôi trường và kinh thành cũ quanh đây, khi nàng
xuất
hiện đã làm thay đổi hẳn. Nàng in dấu lên từng viên gạch những bước
chân của
nàng. Và, bạn cũng thấy, nàng cho bạn những ý tưởng mới mẻ về sự hòa
hợp giữa
quá khứ và cuộc sống hiện tại. Những buổi ở lớp học, dáng bước đi của
nàng luôn
tạo nên một sự yên bình. Vẫn gương mặt đẹp ấy, nhưng mỗi mùa bạn sẽ
nhìn thấy
khác đi. Trên đôi mắt nhung lụa của nàng, bạn nhớ ra từng chiếc áo dài
nàng đã
mặc, màu hoa cúc mùa xuân, lan trắng mùa hạ, mây tím mùa thu, và xanh
rêu là
vào lúc mùa đông về.
Kim cũng có một đôi nhận xét về Nguyên làm Oanh hài
lòng.
Và, cô bạn cho rằng, đối với Oanh tình yêu nàng tìm kiếm phải đẹp hoàn
hảo như
nghệ thuật trong hội họa. Vân Oanh cũng có nói với cô bạn thân về
Nguyên, những
đặc điểm ở chàng mà nàng yêu thích.
Ngồi chuyện trò một lúc, hai người rời quán đi dạo
phố.
Thành phố thật vui vào ngày lễ, dọc phố Trần Hưng Đạo, đông người đi bộ
và
người ta dựng xe đạp, xe gắn máy sát bên bờ đường. Dọc phố, những cửa
hiệu buôn
bán nằm sát liền nhau. Kim đề nghị Oanh tới tiệm ảnh để chụp vài tấm
hình làm
kỷ niệm. Oanh đồng ý đi theo Kim vào trong sudio, hai nàng chụp chung
bốn kiểu
ảnh.
Khoảng gần trưa, hai người chia tay. Về nhà, sau bữa
ăn
qua loa với gói mì nấu Oanh lên giường nằm nghỉ đọc tờ báo Kịch Ảnh.
Trên tờ
báo này, có rất nhiều bài điểm phim, và phim ảnh là một món giải trí
của nghệ
thuật Oanh yêu thích nhất. Năm đầu tiên ra Huế, hai cuốn phim để lại
cho nàng
một nỗi nhớ khó quên, đó là phim Valse dans
l’ombre và Autant en emporte le vent, cả hai phim
cùng một nữ tài tử nổi
tiếng người Anh Vivian Leidge. Và, bạn biết không nàng tiểu thư Vân
Oanh không
chỉ có năng khiếu về vẽ, mà còn ở môn Kịch. Nàng diễn rất thành công
vai nàng
Tây Thi, trong vở kịch Tây Thi gái nước Việt.
Oanh buông tờ báo thiếp ngủ đi lúc nào không hay.
Khi
thức dậy, đã hơn một giờ, Oanh thong thả rời giường đi ra nhà sau ngồi
xuống bể
nước rửa mặt, xong trở lên nhà thu xếp quần áo bỏ vào túi xách. Đi xa,
Oanh rất
ít mặc áo dài, nàng thường mặc áo sơ mi, quần tây cho tiện việc di
chuyển trên
xe tàu.
Mới đó, đã hai tháng Oanh vắng nhà. Huế –Đà Nẵng, xa
cách
hơn một trăm cây số, chỉ mất ba giờ xe nên đi về trong ngày rất dễ
dàng. Nhưng
bạn sẽ luôn có cảm tưởng là hai nơi thật xa nhau, khác biệt nhau khi
nhìn thấy
biển và những con đèo xuôi về phía Nam.
Oanh đến Huế một mình. Và, dù biết nàng không sinh
trưởng
ở đây, nhưng thành phố này đã là người bạn rất thân thương của nàng.
Huế, dành
cho Oanh mỗi ngày một phong cảnh. Ở từng phong cảnh đó, bạn luôn tìm
thấy nàng
nổi bật qua bóng dáng chiếc áo dài. Với nàng qua áo tím, mái tóc mượt
mà yêu
thương ôm ấp trên lưng áo là hình ảnh của những đám mây trở về trong
mùa gió.
Khi hình ảnh nàng hiện lên trong chiếc áo trắng, bạn như trông thấy rõ
trên con đường nàng đi một mình lung linh
bông hoa
phượng nở đỏ rợp khung trời. Vân Oanh là tình khúc Hạ trắng của nhạc sĩ
Trịnh
Công Sơn, và nàng cũng là của mùa thu
với hương vị mùi hoa lan thơm ngào ngạt. Oanh đã góp lại những hình ảnh
đẹp của
mình rất nhiều. Những hình ảnh này mãi mãi là thời thiếu nữ hạnh phúc
của nàng.
Bên cạnh mỗi tấm ảnh xếp trong cuốn album , nàng ép một cánh hoa
pensée. Nàng
mong đợi, tìm ai, yêu ai, bạn chưa hề rõ. Nhưng với Huế, bất cứ là dòng sông, chiếc cầu, mái nhà, trường học,
từng sự vật ấy luôn nhận ra có sự hiện nhữu của nàng.
Oanh chỉnh lại sợi dây đồng hồ đeo tay rồi đứng lên.
Nàng
đóng cửa sau, một thoáng nhìn lướt qua phòng sinh hoạt của mình, nàng
đến
giường kéo sửa lại chiếc gối để ngay ngắn xong đi ra phòng khách. Vừa
mở cánh
cửa, nàng trông thấy cả dòng sông đang ngập nắng, phía bên kia ngôi
trường,
những cửa sổ các lớp đều mở, nhưng bên trên tầng lầu hai các phòng học
đều
trống vắng. Hôm nay là ngày nghỉ lễ của học sinh.
Với cái túi nhỏ đeo vai, túi xách cầm bên tay trái,
Oanh
chậm bước đi ra phía cổng. Nàng dừng lại dưới bóng cây chờ xe. Vừa lúc
ấy, từ
dưới bến sông có một người đàn bà trẻ ôm thau quần áo giặt đi lên. Nàng
biết
người đàn bà đó là ai, nhưng không quen thân nên không cất tiếng hỏi
chào. Tuy
vậy, trong một thoáng, mắt hai người nhìn nhau.
Có một lần gặp người đàn bà này, Nguyên nói với Oanh
:
-Chị ấy
là xướng ngôn viên.
-Giọng
Bắc hay Huế.
-Giọng
Bắc. Những bài anh
viết hồi đó, đều là giọng đọc của chị ấy.
Oanh cười hỏi:
-Khi
nghe giọng cô xướng ngôn
viên này đọc, anh cảm động không ?
-Anh
rất cảm động khi được
nghe bài viết đầu tiên của mình.
-Thời
anh làm việc cho Đài
lâu không ?
-Năm
anh còn học ở đây. Thời
đó thi tuyển phóng viên, chỉ mình anh đậu.
-Giỏi
quá hả.
Nguyên kể lại hôm dự thi tuyển có mười bạn, đề thi
là tin thời sự về biến cố cuộc đảo chánh
1/11/63 được đọc trong 5 phút, anh là
người viết đầy đủ, vừa các sự kiện cho bản tin, vừa sống động như một
bài phóng
sự.
Từ xa, người xích lô thấy một cô gái đứng dưới bóng
cây,
anh biết nàng đợi xe nên đã tắp vào bên đường khi tới gần. Anh hỏi ngay:
-Đi bến
xe nào cô ?
-Bến
Đông Ba.
Khi yên chỗ ngồi, Oanh để túi xách ngay dưới chân.
Anh
xích lô chợt hỏi:
-Cô về
thăm nhà ?
Oanh cũng hỏi lại khi nghe giọng nói:
-Anh
cũng người Quảng ?
-Dạ
phải.
-Gia
đình anh ở ngoài này ?
-Dạ
phải.
Lên phía cầu, xe rẽ trái và anh xích lô bắt đầu đạp
nhanh. Oanh vẫn thong thả để mắt nhìn quang cảnh hai bên đường, bên
phải là các
công sở, trường học, bên trái là công viên và dòng sông. Trên con
đường, những
hàng cây nối dài , thẳng tắp. Những lúc sau này, nghĩ nhiều đến Nguyên
nên mỗi
chuyến về thăm nhà rồi trở ra lại mùa học, Oanh không còn có một ý
tưởng của
một người biết mình sắp đi xa hay đang trở về nữa. Nguyên đang là một
khung
cảnh trong ký ức nàng.
Vừa tới bến, Oanh là hành khách chót lên xe. Và chỉ
ít
phút sau, xe rời bến. Ngồi bên cửa, Oanh lại nhìn thành phố qua những
con đường
bên này và bên kia sông Hương. Với hai năm học vừa qua, Oanh đã quen
Huế và rất
yêu Huế. Nhưng lúc này, Oanh chợt mang nỗi buồn xa cách một người bạn.
Lớp học
năm thứ hai mười bốn người, chỉ có Oanh và Kim là con gái. Bây giờ Kim
đi, chỉ
còn mình Oanh và sự thiếu vắng làm Oanh lo ngại. Nàng luôn có cảm giác
sợ, dù
rằng, trong lớp anh em nam sinh viên tỏ ra rất thiện cảm với nàng.
Người nào
cũng nhìn nàng với cặp mắt trìu mến, và rất muốn được có sự săn sóc ,
giúp đỡ
nàng. Những buổi học trong lớp, cũng như các buổi học vẽ ngoài trời,
khi đi xa,
đám coi trai hết sức là lăng xăng ai cũng thích xách giá vẽ và cầm hộ
cho nàng
các thứ dụng cụ khác để nàng được đi thảnh thơi, được chuyện trò một
cách thoải
mái. Cố nhiên, vẻ đẹp của nàng, anh nào cũng mong có một chỗ ẩn núp
trong cặp
mắt, trong con tim của nàng. Và bạn đừng có tưởng cô Vân Oanh chỉ là
một cô gái
dịu dàng, e thẹn đâu, cô cũng có sự đùa giỡn , chuyện trò rất thông
minh, và
thật dí dỏm trong những câu trả lời với bọn con trai yêu thích, tán
tỉnh mình.
Đến các ông thầy trẻ, cũng yêu mến nàng, và khi vẽ tranh chân dung, các
vị này
luôn vay mượn người mẫu là nàng để vẽ. Nhưng ai cũng biết, người yêu
của nàng
là Nguyên. Những người thầy dạy vẽ ở trường Mỹ Thuật đều là những người
bạn
thân của Nguyên. Và, họ cũng nhận ra rằng, cặp tình nhân Oanh và Nguyên
rất đẹp
đôi. Huế, thành phố của giới trí thức khoa bảng, nhưng
không hẳn rằng các cô gái của thế hệ
mới ở đây, dễ bằng lòng đón nhận cuộc hôn nhân với những người có bằng
cấp, hay
giàu có của cải, vật chất. Nguyên không có bằng cấp Đại Học, nhưng
trong quân
đội anh là Sĩ quan trẻ rất xông xáo, nhanh nhẹn, trước khi nhập ngũ anh
tạo
được tên tuổi mình là một ký giả có tài năng và nhiều kinh nghiệm.
Trên chuyến xe đang chạy, ngồi bên cửa nhìn ra mỗi
cảnh
vật hai bên đường, Oanh cảm thấy như qua từng phút giây cuộc đời của
nàng có
những đổi thay lạ lùng, lúc nó đến như một phép thần tiên, lúc nó chợt
hiện lên
một bóng đen kỳ lạ gây cho nàng nỗi lo âu về ngày mai.
Oanh vẫn lo âu khi nghĩ về Nguyên. Nỗi lo ấy, đầu
tiên là
về mẹ nàng. Người mẹ nào cũng hết lòng lo lắng cho con, muốn rằng, con
mình
được chỗ nương nhờ tốt đẹp. Người mẹ nàng từ lâu nay, đã gặp nhiều
người đến
mai mối, dạm hỏi con gái của bà cho những người con hoặc bà con của họ.
Những
người trẻ này về học vấn và công danh thực sự thành đạt , đó là Bác sĩ,
Kỹ sư,
Dược sĩ, Giám đốc ngân hàng, không có ai
trong đó là quân nhân cả. Nhưng đấy là
về danh vọng và vật chất, về tình yêu, hẳn quan niệm của bà khác hẳn cô
con
gái. Oanh biết mình có nhan sắc, nàng có thể lấy chồng giàu sang và
được sống,
được chiều chuộng như bà hoàng, nhưng
nàng không mong, cũng chẳng màng một hạnh phúc quá dễ dàng như vậy.
Nàng và
Nguyên quen nhau trong một sự tình cờ ngộ nghĩnh ở quán cà phê, và anh
đã yêu
nàng, bằng tình yêu thật đơn sơ , chân thật. Và, những ngày tháng đã
qua rồi,
Nguyên dành cho Oanh được một tình cảm vừa là của một người tình, vừa
là sự gói
ghém một quê hương trong đó nữa.
Oanh chợt có cảm giác khí lạnh thấm vào người nàng
khi xe
lên đèo. Và chuyến xe nàng đi là qua cổng trạm dưới đèo sau cùng nên
khi lên
tới đỉnh đèo, chỉ sau 5 phút ngừng đơi, các chuyến xe lên chót theo
đoàn xe lên
trước cùng lúc khởi sự đổ đèo.
Xe đổ xuống từng đoạn dốc đèo thật êm và ngon trớn.
Trong
xe, hành khách quen lạ cùng lúc nổi lên tiếng chuyện trò râm ran. Và,
ngước
nhìn qua vùng sáng của mây và nắng giữa bầu trời, phía nơi đó, mọi
người đều
biết đó là thành phố Đà Nẵng. Rồi tiếng nhạc trong radio vang dậy nghe
thúc
dục, rộn rã niềm hân hoan, riêng với Oanh, lúc này lòng nàng vui và
tưởng như
bao nhiêu người thân của gia đình đang ngồi ở quanh nàng.
Rồi con đường chính của thành phố hiện ra, xe bắt
đầu
giảm bớt tốc độ. Xe ngừng hẳn ở bến đậu. Bên ngoài bến xe, nắng chiều
đang lan
rộng, tiếng ồn ào trên bến, tiếng máy xe nổ va chạm nhau, lúc vang xa,
lúc nhỏ
lại.
Sự tình cờ Oanh gặp anh Kiêm. Anh
lái xe nhà binh đưa một người bạn đi
chuyến xe về Sài Gòn. Gặp Oanh, anh rất ngạc nhiên, và rồi sau khi chia
tay với
người bạn, anh bảo Oanh lên xe đưa về
nhà. Anh Kiêm là người con bà dì Thuận, chị đầu của mẹ nàng.
Từ bến xe về nhà Oanh nằm trên phố chính đường Hùng
Vương
không đến mười phút. Khi xuống xe, Oanh mời ông anh họ vào nhà chơi,
nhưng anh
Kiêm có việc phải trở lại đơn vị.
Bên trong nhà, Mỵ Châu đang nghe bản nhạc tình cổ
điển
bỗng vui lên khi nghe tiếng chịVân Oanh , cô biết ngay, người chị yêu
dấu của
cô đã về thăm nhà. Bà mẹ nói:
-Má
tưởng mai con mới vào ?
-Hôm
nay là ngày lễ nên con
vào sớm.
Vân Oanh đi với mẹ vào thăm Mỵ Châu. Vừa trông thấy
chị
và mẹ, đôi mắt Mỵ Châu mở tròn xoe. Mời bạn tới đây gặp Mỵ Châu, nhìn
cô gái
đôi mắt mở to, gương mặt dịu hiền, bạn cứ ngỡ cô bé là thiên thần.
Vui và cảm động khi gặp lại cô em gái, Oanh khóc. Mỵ
Châu
cười:
-Chị
Vân Oanh về nhà là em
vui. Chị đừng khóc.
Với nụ cười còn thấm ướt nước mắt, Oanh tới gần ngồi
xuống bên Mỵ Châu.
-Em
nghe nhạc ?
-Em mới
nghe được bản Chiều
tà thật hay.
-Chị
rất thích bản này.
Rồi Oanh mở túi xách, lấy ra những thứ quà mua ở Huế.
-Ngày
mai chị có đi đâu không
?
-Không,
chị luôn ở bên em .
-Ngày
mai em ngồi xem chị vẽ
tranh.
Oanh gật đầu, nàng vội đứng lên kéo bức màn nhìn qua
phòng vẽ của nàng. Tất cả đều được giữ nguyên. Căn phòng này dành riêng
cho Mỵ
Châu vàVân Oanh . Hai chị em bên nhau để có những lời tâm tình. Và, mỗi
ngày,
Mỵ Châu đều có mẹ vào thăm.
Ngồi với em một lúc, Oanh lên nhà trên gặp ba nàng
đang
chơi cờ tướng với một người bạn. Nàng lên tiếng chào, sau đó đi về
phòng mình.
Bữa ăn tối, có Oanh về cả nhà rất vui, trò chuyện
râm
ran. Rồi tiếng bà mẹ hỏi:
-Cậu
Nguyên lúc này ra sao ?
-Dạ,
anh đi công tác. Có đoàn
văn nghệ ở Sài Gòn ra trình diễn cho lính tiền đồn.
-Cậu có hay về thăm con không ?
-Dạ có,
anh về luôn, đang
giúp con học luyện thi.
-Học cả
hai bên có thì giờ
không ?
-Có.
Những tối không trực,
anh Nguyên về giúp con học bài.
Ngừng một lát, Oanh tiếp lời:
-Anh
rất muốn con lên Đại Học
để lấy chứng chỉ. Khi ra trường đi dạy, ngoài môn vẽ ra, con có thể dạy
thêm
những môn khác nữa.
Bên kia bàn, hai cô em của Oanh đang chuyện trò sôi
nổi
về một cuốn phim vừa xem ở rạp Thanh Hoa. Đó là phim chưởng Tiếu Ngạc
Giang Hồ
phỏng theo tiểu thuyết Kim Dung. Loại tiểu thuyết này, Oanh và Nguyên
đều không
đọc. Vốn yêu thích tiểu thuyết nhẹ nhàng, Oanh là độc giả trung thành
của nhóm
Tự Lực Văn Đoàn. Hai nhân vật Oanh yêu thích là Loan ở cuốn Đôi Bạn và
Thu
trong BướmTrắng. Nhưng hay nhất, với Oanh, vẫn là cuốn Hồn Mướm Mơ Tiên.
Sau bữa ăn tối , trong nhà đi nghỉ, chỉ mình Oanh
ngồi nói
chuyện riêng với bà mẹ. Một cách nhẹ nhàng, bà mẹ thông báo :
-Ông bà
Hiếu tới đây chiều
hôm qua.
Oanh đáp lời ngay:
-Ông bà
Hiếu đến thăm gia
đình là hảo ý của họ. Nhưng chuyện của con, má đừng để họ bàn tới.
-Đó là
gia đình bề thế mà
con.
Oanh nói:
-Con
biết. Anh Nghĩa con trai
của ông bà Hiếu là Bác sĩ. Rồi bà Châu, lại cho người mai mối với mẹ
xin con
cho ông Dược Sĩ. Đâu phải có địa vị và bằng cấp đem lại hạnh phúc cho
con.
-Nhưng
cuộc sống con sẽ được
đảm bảo, bà mẹ nói.
-Rồi
đây, con cũng phải đi
làm để sống chứ đâu nhờ vả ai được.
-Oanh,
má rất muốn con nghe
lời má.
-Không
bao giờ con dám cãi
lời má. Nhưng cho cùng, con vẫn thấy anh Nguyên và con rất hợp tính
tình với
nhau. Với lại, con đang học, đến năm sau mới ra trường.
Người mẹ nhìn con gái của mình. Hình ảnh cô con gái
yêu
đã làm bà nhớ lại nhiều, rất nhiều kỷ niệm giữa bà và người chồng bây
giờ. Ngày
xa ấy, ở một ngôi trường trung học thành phố Hội An, ông Tri, từ miền
Nam ra
đến trường bà đang dạy nhận nhiệm sở. Và, trong buổi đầu tiên gặp ở văn
phòng
giáo sư, ông Tri đã bị tiếng sé tình ái trước một vẻ đẹp duyên dáng của
bà Thu.
Ngồi ở bàn khách trò chuyện, ông Tri uống chén nước trà của bà Thu mời. Cử chỉ lịch thiệp và vẻ đoan trang của
bà làm ông Tri cảm mến. Ly nước trà, lúc đưa lên miệng uống mắt nhìn
qua bà
Thu, ông cảm thấy hương vị trà thật thơm.
Đã khuya, hai mẹ con chia tay về phòng nghỉ. Oanh
còn đọc
sách trong đêm khuya đến hai giờ sáng.
Về với gia đình, không khí thật ấm cúng, nhất là
những gì
Oanh làm em Mỵ Châu vui bên mình. Nhưng ngày nghỉ rồi cũng qua nhanh.
Trưa chủ nhật, sau bữa ăn Quỳnh lấy xe gắn máy đưa
chị
Vân Oanh ra bến xe đi Huế.
Nàng trở lại căn nhà trọ của mình, xa lạ một chút,
nhưng
rồi trở nên quen như mọi ngày.
Nguyên rất nhớ đến Oanh, anh đang mong ngày về. Năm
đêm
trình diễn của đoàn hát Sài Gòn rất thành công, tạo được ấn tượng tốt.
Mỗi Tiểu
đoàn được xem một đêm trình diễn đủ các thể loại ca nhạc kịch, rất vui,
sống
động, và anh em văn nghệ rất sung sướng cảm động trước tình nghĩa của
vị Tiểu
đoàn trưởng và binh lính. Những cái bắt tay ấm áp, những bức ảnh chụp
với của
một vài người lính với các ca sĩ mến mộ, những câu chuyện về chiến
trường,
những bài nhạc và tiếng đàn cùng hòa nhịp, bao nhiêu đó, đoàn hát chất
đầy kỷ
niệm tình yêu thương của những người lính ngoài chiến trường. Sau các
buổi dành
cho lính, đoàn cũng dành một buổi hát cho dân làng, và tập trung ở một
địa điểm
sân vận động nằm trung tâm các làng Hải Phượng, Phong Hoa, và Yên Hồ.
Từ trẻ em
đến các cô gái, những người mẹ, cả những người già đều cảm thấy vui,
hạnh phúc
được một đêm nghe hát. Mỗi bài hát kết thúc, tiếng vỗ tay vang dội cả
góc trời,
và rồi từ rừng núi bao quanh, gió thổi những âm vang ấy trôi giạt về
gây một
nỗi nhớ thật thương yêu, đậm đà. Và, đến những màn kịch vui, ai cũng
cười chết
bỏ.
Nguyên luôn là người ra đứng trước máy vi âm nói lời
giới
thiệu trước khi đoàn hát khởi sự cho chương trình với đề tài Hát cho
những
người lính và những người dân vùng hỏa tuyến. Những lời mở và khép của
Nguyên
rất là cảm khái, tất cả khán giả đều
lắng nghe. Ở đêm chót hát cho dân làng nghe, đứng ở bên ngoài, nhìn
bóng dáng,
những khuôn mặt người dân hạnh phúc với đêm vui trong giá rét, Nguyên
chợt nghĩ
đến Oanh và cảm thấy yêu nàng, nhớ nàng hơn lúc nào hết. Oanh là hình
ảnh của
một tiểu thư, đã quen sống với thành phố, nhưng Oanh là một cô gái có
tấm lòng
rất là nhân hậu. Nguyên không những yêu thích vẻ đẹp duyên dáng của
Oanh qua
hình ảnh dịu dàng của một thiếu nữ, mà anh yêu thích hơn hết là cái vẻ
buồn vui
hòa dịu thật đẹp trên cặp mắt của Oanh. Oanh cũng có một giọng nói nhẹ,
rất êm
ái, và qua cách diễn tả một câu chuyện, giọng nói của nàng nghe như đó
là sự dỗ
dành, sự ràng buộc các mối liên hệ trong cuộc sống. Và rồi Nguyên tự
nhủ, ngày
về, Nguyên sẽ kể lại hết cho người yêu mình nghe về một chuyến đi theo
đoàn
hát.
Từ tiền đồn, có bốn chuyến bay trực thăng đón phái
đoàn
nhưng hầu hết anh em nam nữ nghệ sĩ muốn
được đi bằng xe nhà binh trở về Huế theo đường bộ. Anh em cùng nói, họ
muốn
được nhìn thấy quang cảnh những đường đèo, những núi đồi nơi các đơn vị
đóng
quân lính, và các làng mạc nằm ven những
vùng chiến trận.
Vì là đi xe, thời gian mất khá lâu kể cả có những
lúc
dừng lại cho đoàn ngắm cảnh và chụp hình lưu niệm. Về đến Huế đã chiều,
Nguyên
thay mặt đơn vị mời cả đoàn đi ăn cơm Huế, giải trí một đêm vui, rốt cùng, thật nặng lòng với Huế , và nhớ Huế
đau thương trong cuộc chiến tết Mậu Thân, nên đoàn đồng ý ở lại thành
phố lưu
diễn một đêm ca kịch ở nhà hát Hưng Đạo, sau buổi diễn này, đoàn thực
sự kết
thúc chuyến đi.
Khi nhận được hảo ý của đoàn, đài phát thanh Huế cho
loan
tin, rồi những biển quảng cáo treo đầy
trên các đường phố và giá vé vào cửa được bán chia làm ba hạng, hạng
danh dự,
hạng nhất, và hạng bình dân.
Nguyên đã trở về nhà. Anh trích số tiền lương đưa
cho mẹ,
và cho mấy đứa em vé đi coi hát.
Tối hôm ấy, Oanh trang điểm thật kỹ, trong lúc ngồi
đợi,
Nguyên mở những tập vở và sách học của Oanh ra xem. Vừa trang điểm, vừa
nhìn
khuôn mặt mình hiện bên trong tấm gương Oanh mỉm cười thích thú. Nàng
biết mình
đẹp, và nàng cũng đã có một người yêu xứng đôi với mình. Những bức ảnh
chụp hai
người bên nhau, bạn bè xem, ai cũng khen là rất hạnh phúc. Nguyên chợt
lên
tiếng:
-Anh có
nhờ Thụy mua cho em
cuốn Tìm hiểu hội họa.
-Em mới
nhận được sách sáng
nay.
-Vậy à.
Cuốn sách để trên kệ, Nguyên với tay lấy xem và anh
thấy
có lá thư của Thụy gởi cho Oanh nữa.
-Để em
gởi tiền lại cho Thụy
.
-Em
đừng gởi. Coi như nó mua tặng cho em.
-Có thư Thụy gởi đó, anh đọc đi.
Thư viết ngắn, chỉ vài dòng. Nguyên đọc xong thư ,
nói:
-Em
anh, bề ngoài tuy khô
khan nhưng rất có tâm hồn.
Oanh quay lại nhìn Nguyên. Trong thoáng ấy, nàng
mường
tượng người em cũng giống Nguyên, cùng lúc, nàng đang muốn chọn lựa màu
áo nào
thích hợp với đêm nay đi dự buổi ca nhạc.
Oanh trang điểm xong rồi đi thay quần áo. Nàng mặc
áo dài
tím, khoác ngoài chiếc áo vareuse nhung màu hạt dẻ.
Nguyên ngắm nhìn khuôn mặt kiều diễm của Oanh, trong
lặng
yên, đôi mắt anh như là ánh sáng buổi chiều trên dòng sông.
XII
Thụy ở chơi Đà Lạt đúng một tuần lễ. Anh trở lại
thành
phố này, trong niềm nhớ và sự xúc động anh tìm thấy lại bóng dáng mình
và những
kỷ niệm cũ thật là đẹp, dễ thương. Trong tháng ngày lãng mạn ấy, anh
nhớ đến
Thùy, nàng đưa anh trở lại khu phố cũ có căn nhà của nàng. Rồi hôm ấy,
một buổi
chiều thứ năm học sinh chia nhau vé đi bán coi xuất phim Toute la ville
dance
để gây quĩ cho trường. Trên đường Hai Bà Trưng dài và xa lên tới tu viện Domaine de Marie, từng nhóm học sinh mỗi lớp
cùng đi trên đường này, vừa chuyện trò, đùa giỡn rất là ồn vui. Bỗng
nhiên,
nhìn tới phía trước xa có đám nữ sinh đang đi, Thụy bỗng nhận ra Thùy
qua chiếc
áo dài tím. Nàng đi giữa, và cùng các cô bạn của nàng nắm tay dang rộng
choán
hết cả mặt đường. Trời mưa bụi, áo tím của Thùy trong mưa mỗi lúc nhòa
mờ đi,
nhưng đó cũng là lúc Thụynhận ra dáng đẹp của Thùy. Về đây, Thụy cũng
tìm trở
lại căn gác học sinh nằm ở tầng gác ba, nơi đó, anh ở cùng với nhiều
bạn lưu
học sinh từ các nơi xa đến. Mỗi một thứ
có trong kỷ niệm thuở ấy, giờ gợi nhắc, bỗng dưng Thụy có chút se lòng,
nhớ
thương cho một niềm an ủi.
Lăng và Thụy vượt
ra mối liên hệ anh em bạn dì, còn là đôi bạn thân. Anh Nguyên, Lăng và
Thụy ba
anh em chỉ chênh lệch nhau một tuổi. Nhưng vì đã sống cùng chung những
ngày thơ
ấu ở quê ngoại nên ba người có sự gắn bó rất lâu dài. Lăng chăm học,
trầm lặng,
ít biểu lộ tình cảm, nhưng sẽ có một
ngày, Lăng nói ra hết những chuyện riêng tư của mình. Về phần Thụy đôi
lúc có sự
bồng bột, vụng về, nhưng bản tính chân thật, nên anh luôn có sự tự tin
về con
người của mình. Thụy đã kể nhiều chuyện
cho Lăng nghe, và Lăng rất hiểu bạn qua mỗi câu chuyệnriêng của mình.
Trên đường Duy Tân, hai người đi bên trái vỉa hè
đang
vượt quãng dốc. Và, con đường này lại nhắc nhở Thụy nhớ đến Thùy. Buổi
sáng,
vào những giờ học muộn từ trường Thụy đi bộ lên tới khu thương xá chợ
Hòa Bình,
đứng đó đợi không lâu thấy Thùy xuất hiện, rồi hai người bên nhau cùng
đến
trường. Thật là ân tình trong nắng ấm, trong màu cây lá xanh tươi, ảnh
hình đó
đã giúp cho đôi lứa tìm ra được những câu chuyện vui, những lời tỏ tình
thật ý
nhị, dễ thương.
-Ở xứ
người có trồng cây
phượng tím, Thùy biết không ?
-Không.
-Ngày
nào đó, ở một nơi xa
của xứ người, nhìn thấy cây này Thùy sẽ nhớ đến người bạn cũ.
-Không
chắc đâu, nàng cười
nhẹ và đôi mắt nhìn xa hơn.
Mỗi ngày luôn có hai buổi học, và trước khi đến giờ
học
chiều một tiếng, từ trường Thụy lại đi bộ lên chỗ hẹn đón Thùy, rồi đôi
bạn vẫn
bên nhau, cho đến khi cảm thấy sự yêu thương và thân thiết đã thấm vào
lòng ,
thì giọng nói như đang bước chập chững, ngập ngừng, tưởng chỉ còn nghe
nhịp tim
đang qua trong hơi thở.
Bên dưới con dốc, nhìn về phía bên trái là ngôi
trường có
một dãy nhà dài và sân chơi rất rộng. Xa hơn nữa, bên kia chiếc cầu là
sân vận
động của trường, khu sân này nằm bên cạnh đường Hai Bà Trưng vừa trông ra con đường Calmette đi lên khu đồi
bệnh viện, nơi ấy, nổi bật sáng lên một tòa nhà màu ngói đỏ.
Thụy vui chuyện kể lại cho Lăng nghe, người bạn cười
hiền
hậu. Một lúc sau, với những suy nghĩ về cuộc đời, Thụy nói:
-Tôi
chưa viết ra được những
kinh nghiệm của con người về cuộc đời. Tôi chỉ mới viết những rung động
của
mình trong cuộc sống từ thời niên thiếu đến lúc này, nhưng đây là sự
rung động
chân thật, với những mầm hạt này một ngày kia tôi tin rằng nó sẽ mau
lớn. Đường
đời hay dòng đời tự nó sẽ chuyển biến, thay đổi cuộc sống ngay từ khi
mình khởi
sự cất bước. Qua ý nghĩ đó, tôi nhận ra sự hiện hữu về đời lính của
mình.
Rồi, anh lại tiếp lời:
-Ít ra,
tôi cũng ở trong quân
đội đến mười năm.
-Anh
không xin đi học Sĩ
quan.
-Cũng
có ý định đó. Tôi vẫn
mong đậu được bằng toàn phần rồi xin đi học ngành kỹ thuật.
-Năm
tới, anh có thi không ?
-Có.
Thời gian học của tôi ít
quá, và không ổn định.
Bến xe nằm bên trên thương xá Hòa Bình, từ chỗ đó,
nhìn
bao quát thấy cảnh sinh hoạt chợ, các khu phố xa gần, và nhìn về phía
rừng
trông thấy mặt hồ nước và những hàng cây trồng quanh hồ. Hai năm ấy Thụy ở Đà Lạt, năm nào, ở quanh hồ cũng có những
ngày lễ hội và tổ chức cuộc đua xe đạp.
Bến xe còn trống vắng, chưa đông khách tới bến. Nhìn
lướt
qua rồi cả Thụy và Lăng tìm quán ăn sáng gần đó. Hai bạn vào quán, gọi
bánh
cuốn và cà phê.
Quán ăn bình dân bày những bàn ghế thấp. Ngồi ở
chiếc bàn
ngoài gần lối đường đi, trong một vài giây im lặng, Thụy cảm thấy một
nỗi buồn
vô cớ cho mình. Với nỗi buồn ấy, Thụy
chợt nghĩ đến một bóng hình thiếu nữ.
Người chạy bàn mang bánh cuốn và cà phê ra cùng một
lúc
đặt trên chiếc khay và bỏ xuống bàn.
Khi cầm đũa ăn, Thụy hỏi:
-Lăng
dạy bao nhiêu giờ một
tuần ?
-Mười
sáu giờ ?
-Mấy
môn.
-Hai
môn. Việt Văn và Công
dân.
-Năm
tới, xong Cử nhân có đi
học tiếp không ?
-Tôi
chưa biết. Có thể tôi
qua thi bên hành chánh.
-Chọn
ngành này là đúng. Làm
luật sư, có tiếng nhưng cũng khó khăn.
-Tôi
không ra Luật sư. Tập sư
ba năm, lâu dài lắm.
Bữa ăn sáng ngon miệng, một dĩa bánh vừa đủ no. Thụy ăn nhanh, cầm thìa khuấy sữa trong cà phê và
uống một hớp trước khi đốt điếu thuốc. Một giọng vui, Thụy
nói:
-Hồi đi
học, tôi bị một trận
đòn vì hút thuốc.
-Ở
trường, bây giờ vẫn cấm học
sinh hút thuốc.
-Tại
sao Lăng không tập hút
thuốc.
-Tôi có
thử một lần, bị sặc
khói, sợ quá nên thôi. Với lại, tôi yếu phổi.
Khói thuốc nhẹ nhàng tan. Nhìn Lăng, Thụy có một ý
tưởng
thầm kín. Giọng thân tình, anh hỏi:
-Cô
Bạch Lê tặng sách là bạn
học cũ ?
Lăng nhìn lại Thụy dò xét, rồi nói:
-Bạch
Lê dạy học ở đây,
trường Bùi Thị Xuân.
-Tôi có
đọc cuốn thơ Tâm Tình
Hiến Dâng.
-Cô
tặng cho tôi. Bạch Lê bạn
học cùng lớp ở Quốc Học.
Vừa gợi nhớ, Lăng vừa kể cho Thụy nghe lần đầu tiên
gặp
cô bạn học cũ ở thành phố này.
-Quà kỷ
niệm của tuổi trẻ,
lúc nào cũng là những cuốn sách, tập nhạc.
-Bạch
Lê hát rất hay, giọng
hát ngọt như Hà Thanh.
-Cô
cũng người Huế.
Lăng gật đầu. Ít nhiều trong câu chuyện Lăng kể,
Thụy
hiểu. Ngồi không lâu, hai bạn rời quán, đi xuống bậc cấp con đường dốc
tới bến
xe. Bến xe đông người, và có nhiều tuyến đường. Khi Thụy lên xe, Lăng
còn đứng
ở dưới nói chuyện với anh. Bỗng nhiên, cả hai cùng hẹn một kỳ nghỉ hè
về thăm
gia đình. Và, qua ý tưởng đó, Thụy nhớ nghĩ nhiều đến anh Nguyên, và
cũng vừa
cách đây chừng tuần lễ anh đã gởi một lá thư cùng cuốn sách cho Vân
Oanh.
Với những giây phút còn lại dành cho mình hạnh phúc
về
thành phố có một thời mình đã sống, Thụy bỗng nhận ra rằng, mỗi thành
phố là
một câu chuyện tình . Thế nhưng, anh không hề mang tâm trạng của một
nhân vật
tiểu thuyết.
Có tiếng còi xe của người tài xế và thằng lơ xe vừa
cất
tiếng báo cho hành khách.
-Anh
Thụy đi nghe.
-Ờ, đến
hè gặp lại ở Sài Gòn.
Xe vừa lăn bánh. Sau cái bắt tay, hai bạn còn đưa
tay vẫy
chào tạm biệt. Từ bến, xe chạy xuống phía bờ hồ rồi đổi đường chính đi
ra ngoại
ô.
Đến quá trưa, xe về tới Nha Trang. Thụy
ghé quán ở trong khu chợ Đầm
ăn cơm trưa, xong đi bộ về quân trường.
Khi Thụy trở lại , số khóa sinh đến học đã khá đông
nhưng
chưa đủ. Vừa gặp lại các bạn tân binh cũ, lòng Thụy rất vui, anh em
ngồi tụm
năm tụm ba chuyện trò, kể lại những ngày những tháng đi ra đơn vị làm
việc. Mỗi
đứa mỗi chuyện, chuyện nào cũng thú vị. Và, nếu như đem góp lại những
chuyện
này mà viết nên hồi ký, bạn đọc sẽ nhận ra đó là cuộc sống thật tầm
thường,
nhưng vui và chân thực của những người lính trong thời kỳ chiến tranh.
Thượng sĩ Trạch là người phụ trách nội vụ khóa sinh.
Mỗi
ngày, ông đều đến để điểm danh và kiểm tra vệ sinh doanh trại. Ông rất
hài lòng
vì anh em giữ gìn sạch sẽ trong và ngoài. Tối đến, có thể bừa bộn chỗ
ăn ở,
nhưng buổi sáng và trưa, nơi mỗi giường các chăn màn đều gấp nếp để
ngay hàng
thẳng lối. Thường khi đến, viên Thượng
sĩ trò chuyện với anh em, cho họ biết về lịch sử của quân trường, của
binh
chủng Không quân qua mỗi đời Tư lệnh, và những ngành nghề kỹ thuật ở
Không
quân. Một vài anh em hỏi về chỉ số ngành trong khóa học của mình, ông
trả lời
vắn tắt đây là ngành điều không ngoài mặt trận, và cho biết thêm, học
xong ở
đây, anh em sẽ về hết Sài Gòn và học thêm một khóa hai tuần nữa về các
loại máy
truyền tin. Như vậy, thời gian hoàn tất khóa học chuyên môn sẽ là bốn
tháng.
-Bằng
chuyên môn, phụ cấp
được bao nhiêu Thượng Sĩ ?
-Bằng
các anh, phụ cấp 400.
-Sure
không Thượng Sĩ.
-Tôi
nói mà các anh không tin
à?
-Hoàn
toàn tin tưởng.
-Chúng
mày có biết lính không
quân còn sướng hơn là quan nữa. Chữ thọ 100%.
-Nhưng
mà nghèo, chẳng khá
gì.
-Đừng
có ham nghe các con.
Với cái tuổi đi lính còn non choẹt, đám trẻ ăn nói
văng
mạng, nhưng vẫn còn là hình ảnh của những ngày tháng thơ ngây. Thượng
Sĩ Trạch
cũng đã có con trai lớn học ở trường trung học , nên chi trò chuyện với
lính
ông hay gọi thân mật là mày tao, có khi gọi chúng là các con của bố, và
những
lúc vui chuyện hả hê ông cười hết sức thoải mái. Ngày nào ông cũng đến,
nên
tình thân anh em khóa sinh với ông, bao gồm nhiều ý nghĩa. Khi ông đến,
tụi trẻ
mời thuốc ông hút, có lúc ông mời lại anh em, và khi có báo Lý tưởng
về, ông
mang tới chừng chục cuốn tha hồ chia nhau đọc.
Một hôm, đem báo đến, ông Trạch tìm Thụy hỏi:
-Truyện
ngắn đăng trong này
có phải là mày không ?
-Đúng,
thượng sĩ.
-Mày có viết văn ?
Thụy kể lược qua
thời gian được cộng tác và làm việc ở báo Lý tưởng. Thụy nhắc đến anh
em trong
tòa soạn, và cho ông Thượng sĩ hay, hết khóa học ở đây, rất có thể Tòa
Soạn kéo
anh về làm việc như cũ.
Nhìn Thụy, ông nói:
-Hôm
nào, tao kể chuyện về đời quân ngũ của tao rồi mày viết lại nghe.
-Vâng.
Có dịp, Thượng sĩ kề
chuyện cho nghe.
-Hay
hơn hết là một buổi
chiều vắng vẻ ngồi trong quán cà phê.
-Bên
ngoài trời có mưa không
?
-Có
mưa, chuyện càng hay.
-Vậy
thì đợi một ngày mưa,
buổi chiều bắt đầu với vẻ buồn nhớ và đẹp.
-Mày
thật có tâm hồn nghệ sĩ
.
Một giọng vui, Thụy hỏi:
-Thượng
sĩ có con gái không ?
-Có,
nhưng còn nhỏ.
-Cô bé
học lớp mấy ?
-Đệ
Thất .
-Xinh
không ?
-Mày
thấy tao được trai không
?
-Rất là
phong độ.
-Mày
không biết, tao có dính
một em đầm bên tây.
-Thượng
sĩ đã qua Pháp học ?
-Mày
tưởng tao là ổ mì hả. Bố
đi qua Tây hồi năm 51, con ạ.
-Bố học
ngành gì ?
-Cơ khí.
-Ở
trường nào ?
-Trường
Rochefort.
-Tôi
nghe tiếng trường Salon.
-Trường
đó là của Sĩ quan.
-Ờ, ờ
của Sĩ quan. Nhưng đã
nhảy chuyện hơi lung tung, hỏi thăm cô bé .
-Sao,
mày muốn sao ?
-Ra nhà
Thượng sĩ thăm.
-Dễ
dàng con ơi. Nhưng mày
cũng nên gắng lấy cái bằng Tú tài.
-Em có
Tú Tài I rồi, được
không ?
-Cố lên.
-Vậy là
chờ cô bé lớn là được
phải không ?
-Ông
già mày đây.
Thụy cất tiếng cười thật lớn. Ngày hôm sau, có niềm
vui
khôn tả đến với anh, đó là lá thư của nàng Vân Oanh gởi đến
Huế , những ngày thu
Thụy thân mến,
Có ngạc nhiên lắm không khi nhận được thư này? Chắc là không, vì khi Thụy đã gởi cuốn sách
Tìm Hiểu Hội Họa đến cho tôi, thì hẳn nghĩ rằng, thế nào tôi cũng phúc
đáp thư
củaThụy .
Cám ơn Thụy đã tìm ra được cuốn sách mà mình vẫn
mong.
Theo gói bưu kiện sách tới tuần trước, nhưng bận chuyện học nên đến hôm
nay mới
có được buổi rảnh viết thư này để cám ơn người bạn rất dễ mến ở xa.
Anh Nguyên nhắc đến Thụy luôn. Anh ấy thật là yêu
thương,
nồng ấm khi nói cho mình nghe về người em trai của anh. Anh tả Thụy qua
hình
dáng và nói đến tính tình, nói về tâm hồn
làm mình cảm thấy mến, có thể hình dung ra Thụy ,
một người lính Không
quân hào hoa, luôn có được nhiều thì giờ nhàn rỗi để đi dạo phố buổi
chiều sau
giờ làm việc, và một người cũng đào hoa, quen rất nhiều cô gái. Và, hễ
quen
được cô nào, thì cô ấy trở thành nhận vật trong truyện của Thụy. Anh
Nguyên có
vẻ rất hãnh diện về Thụy.
Ngày đó Thụy về phép hai tuần lễ, thật là tiếc mình
không
ở Huế vào thời gian đó để được anh Nguyên giới thiệu cho gặp một văn sĩ
trẻ,
bút hiệu TL.
Dù chưa gặp Thụy, nhưng một số truyện ngắn Thụy viết
ra,
mình có đọc. Truyện Thụy viết thật nhẹ nhàng mình rất thích, và qua lối
kết cấu
cùng văn phong mình nhận thấy truyện Thụy viết có sức truyền cảm người
đọc. Lời
khen thực tình đó nghe, không phải vì bạn tặng cho cuốn sách mà mình
đáp lễ
bằng lá thư hân hoan này để làm quà đâu.
Hẳn chẳng cần nên
phải giải thích nhiều, nhưng chắc Thụy cũng biết
mình và anh Nguyên quen
nhau và hai người đã có một thứ tình cảm
đặc biệt trong sự cho và nhận một cách rất chân thành.
Hôm ấy mình trở ra Huế, nghe anh Nguyên cho hay Thụy
có
về thăm nhà. Kỳ nghỉ phép vừa qua chắc vui lắm phải
khôngThụy, rất tiếc mình và bạn không gặp
nhau, nhưng ở phong cách người lính hào hoa trong binh chủng Không quân
thì thế
nào Thụy cũng gặp các cô gái Huế, mà chỉ cần gặp bằng mắt, nói bằng mắt
thôi là
nhà văn yêu mến của tôi dựng nên thành truyện rồi. Đó chính là cuộc
sống lãng
mạn của người nghệ sĩ.
Mùa thu đang làm cho cảnh vật trở nên buồn, nhưng
rất
đẹp. Huế trong mùa thu, những buổi sáng sớm trời lành lạnh và có sương
mù bao
phủ trên sông. Với địa chỉ anh Nguyên cho mà Thụy gởi sách, đó là căn
nhà mình
mới thuê ở trong năm nay, năm trước chỗ ở
của mình rất gần nhà của gia đìnhThụy . Tình cờ, một
buổi tối đi xem văn
nghệ sinh viên, trong buổi hát ai cũng mặc đồ dân sự chỉ có anh Nguyên
mặc đồ
lính, trông là lạ, hay hay. Vậy rồi, tan buổi diễn về đến nhà, thì
không ngờ
nhà của anh Nguyên lại cạnh ngay bên nhà mình và cùng một lối cổng vào
nữa mới
chết chứ. Vậy rồi, ngay tối đó chàng và nàng quen nhau, hợp ý nhau, gắn
bó với
nhau. Và, nói cho Thụy biết, nhờ có mình nên anh Nguyên hay về nhà, chứ
không ở
lì trong trại lính như thể là lúc nào cũng nghe anh nói chuyện cắm trại
100%
cả. Kể ra, mình làm một người bạn gái
được anh nghe theo những lời khuyên nhủ và những lời tâm sự.
Trong lá thư của Thụy, nơi gởi là một địa chỉ KBC ở thành
phố Nha Trang. Như vậy, Thụy không ở Sài Gòn mà đổi ra ngoài đó hay là
sao ?
Anh Nguyên cũng ngạc nhiên, và ở nhà ngoài này, chưa có ai nhận thư
Thụy cả.
Nên viết thư nói rõ cuộc sống hiện tại của Thụy để gia đình yên tâm.
Lúc này, Thụy có viết thêm được nhiều truyện không ?
Ở
ngoài này, các tuần báo chỉ có ít không nhiều. Hàng tuần, mình có mua
báo Kịch
Ảnh để xem những bài điểm phim, vì mình rất là ghiền nghe nhạc và xem
phim. Sở
thích của mình, đã lôi cuốn anh Nguyên theo luôn.
Nói qua cho Thụy biết một chút về mình nghe. Tên
mình thì
Thụy đã biết rồi khỏi giới thiệu, gia đình mình ở Đà Nẵng, trên khu phố
chính
đường Hùng Vương, nhà ở gần chợ Cồn trông qua bên kia là rạp hát Thanh
Hoa. Rạp
hát này, một nửa cổ phần trong đó là của gia đình.
Những năm ở Đà Nẵng mình học ờ trường Sao Mai, rồi
hết
trung học mình ra Huế vào trường Mỹ Thuật, năm nay là năm thứ hai. Vậy
là mình
đã có hai năm học ở Huế, năm đầu lớp dự bị, năm kế năm thứ nhất và giờ
là năm
thứ hai.
Huế, thành phố thật dễ thương và hiếu khách. Những
năm
học ở Huế của Thụy chắc cũng thấy là Huế đẹp, thơ mộng, và biết bao
nhiêu tà áo
trắng thành phố này hẳn cũng làm Thụy ghi nhớ nhiều.
Thời gian Thụy về thăm nhà, lúc ấy, mình cũng vào Đà Nẵng sống với gia đình vui mấy tháng hè.
Những ngày hè thật rộng rãi nên mình để nhiều thời gian vẽ tranh sáng
tác. Kể
ra mình chưa phải là họa sĩ, nhưng mình rất đam mê hội họa, cũng như
Thụy yêu
thích thú viết văn vậy mà.
Một hôm đó, nhân được nghỉ ít ngày sau chuyến công
tác
dân sự vụ, anh Nguyên vào Đà Nẵng tìm đến nhà mình. Anh vào đúng lúc
mình chuẩn
bị ra Huế học, nên anh ở lại chơi và đợi mình cùng đi luôn. Ngày đi,
thay vì
bằng phương tiện xe đò cho nhanh, anh Nguyên lại đề nghị với mình là đi
xe lửa
để thong thả ngắm quang cảnh, và những cảnh vật gợi cảm hứng, ngồi trên
con tàu
đang chạy mình đã vẽ tranh. Thật là lý thú quá Thụy ạ.
Ra Huế được ít hôm, vì trường chưa khai giảng nên
anh
Nguyên và mình hai người đi ra thăm làng quê bên nội cùng bên ngoại
củaThụy.
Quê nội của Thụy tuy nghèo nhưng có cảnh đẹp của biển vắng, của những
đồi cát
mênh mông trải dài, xa, rất xa về phía biển.
Ở quê nội một ngày, mình lại theo anh Nguyên thăm
quê
ngoại. Quê ngoại xa hơn, từ Diên Sanh lên xe lửa ra Đông Hà, lúc xuống
ga đón
xe lam về thị xã xa chừng hai cây số.
Đông Hà là nơi anh Nguyên và Thụy trải qua nhiều năm
thời thơ ấu. Anh
Nguyên dẫn mình đến thăm lại căn nhà cũ của gia đình, ở căn nhà này,
trong một
truyện ngắn Thụy có nói đến và mình có đọc. Nhà cũ vẫn còn, người thuê
nhà là
người cậu bà con bên ngoại củaThụy . Anh Nguyên vào thăm cậu mợ Tuyên
giới
thiệu mình với hai ông bà, rồi anh xin phép người cậu cho anh đưa mình
đi thăm
lại ở bên trong và ngoài căn nhà cũ.
Khi hai người trên con đường ra bến đò dọc, anh
Nguyên kể
cho mình nghe về trận cháy kinh hoàng
thiêu đốt hết cả thị xã vào năm 1953, trước một năm đất nước bị chia
cắt. Giọng
nói xúc động làm anh khóc khiến mình thấy chạnh lòng. Anh nói căn nhà
khi chưa
bị cháy đẹp lắm, ngói mới đỏ rực, và
trong nhà có nhiều phòng, có căn gác phía trước và ở đằng sau nữa. Thời
kỳ đó,
mẹ anh buôn bán hàng vải, gia đình thực sự có
cuộc sống sung túc hơn gấp mấy lần bây giờ.
Từ nhà ra bến đò không xa lắm.. Vừa đúng lúc tan
phiên
chợ, đò dọc nhổ sào rời bến. Đây là lần đầu tiên mình đi đường sông và
đi đò.
Thật là vui Thụy ạ. Đúng là mình cô tiểu thư thành thị về thăm quê nên
nhìn
quang cảnh những làng quê qua dáng màu khói lam, và ẩn đằng sau lũy tre
xanh, thật là êm đềm như bài hát. Ngồi
bên anh Nguyên trên mạn thuyền, tay đặt lên vai anh làm điểm tựa, bên
dưới dòng
nước con đò lướt trôi, sao mình có cảm giác cuộc đời quá nhẹ nhàng Và
trong cảm
giác ấy,khiến mình bỗng nhớ đến những câu thơ hay của nhà thơ Huy Cận.
Nơi đây,
cảnh làng quê hai bên sông, có những bãi cát, những cánh chim trời, có
không
khí ồn ào buổi họp chợ, rất là tương hợp
với từng câu trong bài thơ Tràng giang của thi sĩ.
Thỉnh thoảng, sóng nước vỗ mạnh làm con đò chòng
chành,
nhưng mình không sợ đâu, vì mình bơi rất giỏi, những ngày hè đi tắm
biển mình
bơi rất xa, không chắc bạn bơi đuổi kịp mình đâu.
Cũng hơn một giờ đồng hồ thì đò cập đến bến làng
quê. Khi
theo hành khách xuống đò, chỉ có mình và anh Nguyên là dân ở tỉnh còn
những
khách khác là người trong các làng quê lân cận. Từ bến, những người
khách kia
vượt qua bãi dứa lên làng trên, còn mình
và anh Nguyên theo con đường mòn đi qua đình làng, qua cánh đồng ruộng,
và khi
thấy ngôi nhà ngói đầu tiên xuất hiện, Nguyên nói đó là căn nhà của ông
bà
ngoại. Tự dưng, mình thấy nôn nao lạ thường. Tới gần cổng nhà, bàn tay
mình ở
trong tay anh Nguyên. Rồi bất ngờ quay đầu lại, đứng trước cổng hai
người hướng
mắt nhìn qua những đồng ruộng và nhìn về phê con đê, trên con đê ấy,
anh Nguyên
nhớ tới những ngày xưa của người mẹ,
những ngày ấy vào mỗi buổi chiều anh trông thấy mẹ
xuất hiện trên đường
đê với gánh hàng nặng trĩu trên vai đang trở về nhà. Về quê nội, cũng
như là
quê ngooại, mình thấy trong truyện Thụy viết luôn có
nhắc đến , giờ đã tìm đến nơi đây, lòng
thật quá đỗi yêu thương.
Xuân Thành là tên làng ngoại. Quê ngoại của Thụy
thực sự
giàu có, không chỉ nhà ông bà ngoại thôi mà ở các nhà bà con và nhà dân
cư
trong làng nữa. Cậu Bính là con nuôi của
ông ngoại. Khi anh Nguyên giới thiệu mình, cậu khen quá làm mình cũng
thẹn
thùng, thế nhưng mình nhận ra đó tình thân quí mến rất thực.
Nhà ông ngoại quá lớn và còn để lại nhiều thứ quí
giá,
trong đó, có bàn ghế xưa, tủ chè đựng chén bát, trướng liễn và những kỷ
niệm,
bút tích của ông ngoại thời đi làm quan. Có một tấm ảnh nhỏ chụp mấy
anh em có
anh Nguyên, Thụy, Lăng và các con cô Quyên.
Bữa ăn với gia đình cậu Bính làm
mình cảm động. Sau bữa ăn, anh Nguyên đưa
mình ra giếng nước rửa mặt, rồi đi thăm vườn, anh đã hái cho mình đủ
thứ trái
cây thơm ngọt, đầy cả một túi.
Ngồi nghỉ ở nhà ông bà ngoại cũng đến hai tiếng ,
sau đó,
anh Nguyên dẫn mình đi thăm những người bà con trong làng.
Khi mắt trời sắp lặn, anh Nguyên và mình về lại nhà
chào
gia đình cậu Bính xong đi bộ qua làng Giáo Liêm, ở đó có bến xe lam
rước khách,
và đưa thẳng vào đến tỉnh Quảng Trị. Vì quãng đường không xa, nên từ
ngoài đó
vào tới Huế chỉ mất gần hai giờ đường.
Tối hôm đó, anh Nguyên và mình không ăn cơm nhà, tìm
đến
tiệm phở ăn một bữa rối rất ngon.
Thư viết cho Thụy đọc, mình kể nhiều chuyện linh
tinh quá
phải không ? Với tình thân, mình viết dài để Thụy đọc cho vui. Chưa gặp
gỡ,
nhưng có thấy trong ảnh chụp gia đình, mình đã hình dung được và hiểu
rằng Thụy
là một con người thật dễ mến. Hơn vậy nữa, bạn là một nhà văn, trong đó
truyện
bạn viết mình rất thích.
Khi nào đến kỳ nghỉ phép về thăm nhà, tin cho mình
hay.
Thân
mến,
Vân Oanh
XIII
Thời gian học bắt đầu qua nhanh , vừa mới xong ba
tuần
lễ. Giống như quân nhân cơ hữu, hai ngày cuối tuần anh em khóa sinh đều
được
nghỉ, và có giấy phép xuất trại của Đại úy Giám đốc đã ký sẵn cho từng
người.
Nhưng, cũng không mấy ai muốn đi ra
ngoài nhiều. Một lý do dễ hiểu nhất là đồng lương lính mỗi tháng hơn
hai ngàn
rưỡi thực là quá ít. Khóa học sẽ kéo dài ba tháng, có kỳ thi mãn khóa
và sẽ
được chấm đậu rớt hẳn hoi. Ai đậu được cấp chứng chỉ, giấy này đem nạp
phòng
tài chính để ăn thêm phụ cấp.
Khu trại khóa sinh gồm là hai căn nhà tôn dài , mỗi
căn
đặt 50 cái giường sắt. Trong thời gian này, chỉ có một khóa duy nhất là
khóa
của Thụy đang học nên sinh hoạt trở nên yên vắng, bình lặng. Vào buổi
chiều
trên sân bóng chuyền, thường có hai đội bóng giao đấu, ở ngoài khán giả
đứng xem
những pha bóng hay được cổ vũ gây sự huyên náo trong quân trường. Bên
kia tượng
đài Thần Ưng là khu Sinh viên Sĩ quan, có bốn khóa đang thụ huấn vừa
học Anh
ngữ, vừa quân sự. Bên đó quân số đông
hơn , khoảng gần hai trăm người.
Thượng sĩ Trạch
vẫn trông coi phần nội vụ cho khóa sinh. Vào hai giờ ăn trưa và chiều ở
phạn
xá, ông thường có mặt để xem cách nhà thầu cho ăn uống, và luôn ghi
nhận những
lời khiếu nại của anh em. Những lúc khóa sinh về trại, thỉnh thoảng vào
buổi
tối ông đến chuyện trò cùng anh em, có thuốc lá mời nhau hút, và những
nhật báo
cũ ông còn giữ cũng đem vào cho anh em mượn đọc. Những giờ nghỉ ở doanh
trại,
anh em thường tụ năm, tụ ba chuyện vãn, hoặc chơi domino, cờ tướng, cờ
ca rô,
và đến cả kể chuyện chưởng của Kim Dung rất lý thú. Thỉnh thoảng cũng
có vài cá
nhân xích mích, gây gổ, nhưng rồi anh em can gián, hòa nhau trở lại.
Trong túi xách của Thụy có mang theo một ít cuốn
tiểu
thuyết và sách học. Mỗi tối, anh dành thì giờ học bài các môn Vạn Vật,
Sử địa,
và Triết là môn chính yếu vì anh chọn thi ban C. Những cuốn tiểu thuyết
Thụy có
hầu hết là truyện dịch, vì không chỉ đọc thôi, mà anh còn học thêm qua
những
cuốn này về kỹ thuật viết văn. Vào hai ngày cuối tuần, lúc cảm thấy
trống vắng,
Thụy mới đi ra phố chơi. Thụy đi một mình, ra phố có phim hay thì mua
vé vào
xem, không có , đi qua các nhà sách đứng ở hiên ngoài đọc báo cọp, sau
đó ghé
quán cà phê làm một ly, hút ít điếu thuốc lẻ xong quay về trại. Trên
đường về,
Thụy hay đi dọc theo con đường bờ biển. Biển Nha Trang rất đẹp, ở đây,
cảnh
buổi sáng và cảnh buổi chiều trông rất là thơ mộng, trữ tình. Ngày chủ
nhật
biển đông vui, trên bờ cát có nhiều cặp tình nhân ngồi bên nhau chuyện
trò.
Những cô gái ở thành phố này cũng rất yêu thích các chàng SVSQ. Ở đây
có ba
quân trường, một quân trường Hạ sĩ quan Đồng Đề, hai quân trường đào
tạo Sĩ
quan là Không Quân và Hải Quân. Khóa sinh như anh là đám lính trơn, ít khi được mấy cô em nữ sinh con nhà
lành quan tâm. Thụy đang cố gắng học nốt cho xong cái nợ mảnh bằng Tú
Tài II,
để đi Sĩ quan Kỹ thuật, và chẳng hề mong là cầm mảnh bằng đó để đi cặp
bồ với
một em gái nào trong thành phố này cả.
Lá thư cô Vân Oanh nhận đã lâu, Thụy đang cất giữ,
đọc
lại đã mấy lần, vậy mà, chưa biết cách làm sao để viết một lá thư thăm
hỏi, vừa
có ý bày tỏ những mối đồng cảm của mình. Và, cứ mỗi lần đọc thư, anh
lại hình
dung, nghĩ nhiều đến nàng, rồi ước mong một ngày được gặp. Ở Nha Trang,
có một
gian hàng chuyên bán những mặt hàng lưu niệm, nhưng Thụy
không tìm ra được một một món quà tặng vừa ý
để gởi cho người bạn gái của anh mình. Và rồi, Thụy nghĩ thêm, hết khóa
học về
Sài Gòn, anh sẽ tìm những tranh vẽ , những thắng cảnh chụp in trong
carte
postale gởi làm quà, vừa có ý hay, vừa gây được tình thân cho nàng và
anh trong
mối liên hệ gia đình.
Lúc này, thêm biết bao nhiêu giây phút mộng mơ nên
Thụy
đang mong tìm những ý tưởng lạ, vừa chân tình để viết ra một cảm xúc
thực lòng
của anh trong lá thư gởi thăm cô Vân Oanh. Rồi buổi chiều, trong vang
âm tiếng
sóng biển anh nghe nỗi nhớ trôi giạt, xa dần.
Về tới trại, vừa đúng giờ ăn nên Thụy cùng theo
những bạn
ở lại đến phạn xá ăn cơm.
Hôm nay nhà bếp cho ăn món thịt hem và món đậu hầm rất ngon. Nhưng món canh cải quá nhạt thếch.
Những đồ ăn dành cho lính ăn thường ít khi có đồ tươi mà toàn đồ hộp
được lấy
từ các khẩu phần dã chiến. Theo đúng quyền lợi, mỗi tháng binh lính đều
có nhu
yếu phẩm gồm gạo sấy, thuốc lá, đồ hộp. Những thứ này về tay ai, họ
không biết
nơi khiếu nại rõ ràng nên đành thua thiệt.
Thụy đói nên ăn nhiều cơm. Ăn xong, anh còn dằn một
cà
mên đầy mang về phòng, trù bị cho buổi tối đói. Cơm này, anh ăn với
nước tương.
Về phòng nghỉ, giờ này lại có một số bạn ưa đi ra
phố
chơi đêm. Cũng gần thôi, xóm chị em ta ở đường Hàm Nghi cách cổng trại
của căn
cứ chừng non cây số. Khi anh em đi khỏi, căn phòng trở nên trống trải
vì ít
người.
Thụy đem để cà mên cơm trên giá đựng đồ xong trở ra
ngoài
sân, tản bộ hóng mát. Từ hôm ra ngoài này, Thụy chưa đến thăm hai bà dì
bên họ
ngoại. Nhưng luôn luôn anh nhớ nghĩ về
người thân của mình. Ngày mãn khóa học tân binh về Sài Gòn, Thụy có
viết thư
thăm dì Kiều và Hường Chi. Hai tuần sau, anh nhận được thư dì Kiều. Dì
Kiều còn
trẻ chưa có gia đình. Một tối hôm đó hai
dì cháu chuyện trò như hai người bạn. Người đầu tiên được nói tới là
ông ngoại
bác. Sau đó, là chuyện những người trong gia đình di vào khoảng thời
gian bốn
năm lưu lạc sống nhiều nơi. Thế rồi, bằng một sự sắp xếp chuyện của
mình, dì
Kiều kể cho Thụy nghe những tháng năm dì
ở nhà dòng, trong bóng tối trầm lặng, lòng thành kính, khuôn mặt các bà
xơ còn
trẻ là những người bạn quí của dì. Ai cũng nghĩ rằng, những cô gái bỏ
đời vào
nhà tu thường có những nguyên nhân thầm kín liên hệ đến bản thân trong
đó hầu
hết là tâm sự gia đình hay chuyện tình ái. Ở dì Kiều, không có nguyên
cớ đó.
Riêng tư của dì, đó là ý nghĩ cao đẹp muốn được dâng mình lên Đức Chúa
Kito.
Có một chiếc phi cơ vừa cất cánh, sau đó, bay vượt
qua
triền núi. Và, đâu đây nghe tiếng chim kêu, một lúc sau, Thụy chợt
tưởng vang
âm vọng đến là từ phía phi trường, nhưng không phải, đó là tiếng dội
của sóng
biển.
Trời bắt đầu tối dần, Thụy đi bộ đã xa nên quay bước
trở
lại nhưng không về phòng. Có ánh đèn sáng trong hội quán,
Thụy đến đó, rồi đẩy cửa vào.
Bốn bàn bi da đang có người chơi, những trái bi chạm
nhau
chạy trên bàn. Thụy vào bàn trong cùng coi hai người đang chơi. Đây là
cơ chung
kết. Người đánh bi trắng có chấm đang dẫn trước 5 điểm. Cách đánh anh
ta nhẹ
nhàng, điêu luyện. Trên tường chiếc đồng hồ quả lắc chao động nhẹ nhàng.
Thụy đứng yên chỗ coi hai người chơi cho đến khi kết
thúc. Có vẻ hai người là bạn thân với nhau. Sau khi để cơ lại trên bàn,
người
đánh thắng gọi chủ bàn tính tiền giờ và tiền nước. Rồi cả hai cùng ra
về.
Thấy Thụy một mình, anh chủ hỏi:
-Bạn không có tay chơi ?
-Không.
-Chơi
với tôi đi.
Thụy ngần ngừ rồi hỏi:
-Nếu
thua, ông cho ghi sổ
không ?
Với cái khoác tay bất cần, anh chủ bàn nói:
-Khỏi.
Anh chơi với tôi cho
đỡ buồn. Anh thức khuya được không ?
-Dễ
dàng.
-Anh
gọi nước uống đi.
-Cho
tôi ly trà đá.
Hai người chưa bắt đầu còn hỏi chuyện nhau. Anh chủ
bàn
người Qui Nhơn vào Nha Trang đã lâu, nhưng giọng nói vẫn nguyên âm sắc.
Cô con
gái mang khay nước ra, hai người cầm ly uống một hớp rồi bắt đầu.
-Anh đi
trước, chủ bàn nói.
Thụy chọn bi không có chấm. Cú départ của anh rất
đẹp, ba
trái bi chạy tán loạn trên mặt bàn xong nằm thế giò gà lúc đứng yên.
Thụy tiếp
tục đánh cố gom ba bi về lỗ giậu. Khi Thụy đánh, anh chủ chú ý từng
đường cơ
của anh. Anh ta gật đầu, vừa cho rằng Thụy đánh hay. Và khi buông cơ,
Thụy được
8 điểm. Đến lượt anh chủ đi, Thụy cũng nhận ra đường cơ của anh ta rất
sắc nét.
Hai người thay phiên nhau đánh. Số điểm mức là 50.
Khi
biết cách đánh của nhau, hai người không còn lấy điểm dễ dàng như trước
nữa.
-Anh là
khóa sinh phải không
?
-Đúng
rồi anh .
-Học
ngành gì ?
-ALO/FAC
Anh chủ vừa đi một đường cơ rất đẹp, Thụy khen hay.
Hai
bên hơn kém nhau một điểm. Và rồi cú xổ gom bi lợi hại giúp Thụy dẫn
điểm và
tới đích. Qua cơ thứ nhì, Thụy rất muốn nhường anh chủ, nhưng anh ái
ngại sợ
thua cơ thứ ba khó mà từ chối chuyện trả tiền giờ, nên
Thụy đánh rất kỹ, tuy rất khó nhưng rồi cũng
giành được thêm ván thắng nữa.
Cuộc chơi ngừng vì đã khuya Hai người uống nước,
chuyện
trò mấy câu xong chia tay. Vừa về tới phòng, Thụy chợt dừng bước lại
khi thấy
anh em đang tụ tập chơi bài.
Một
người bảo:
-Nhảy
vào mầy.
-Thôi,
không có tiền.
-Tao
cho mượn.
-Khỏi.
Thụy về chỗ mình, giăng màn xong lấy một cuốn sách ra đọc để dỗ giấc ngủ. Rồi anh buông màn,
lặng im . Thụy bỗng cảm thấy bồn chồn một chuyện gì đó không rõ. Khoảnh
khắc ấy
rơi vào lãng quên, Thụy biết mình đang ngủ say và nằm mơ thấy lại thành
phố
thời thơ dại của mình.
Nửa đêm, mưa rớt xuống mái tôn. Tiếng mưa làm Thụy
thức
giấc. Căn phòng tối hẳn, Thụy ngồi dậy chốc lát sau lại nằm. Tiếng mưa
nghe rõ,
tự dưng gây nỗi nhớ muộn màng. Thụy mở to cặp mắt tìm kiếm hình ảnh
Ninh Hà.
Một lúc rất lâu, nàng mới xuất hiện. Và từ lúc đó, anh nghe rõ hết rõ
một câu
chuyện kể của nàng.
Ở tuổi hai mươi, dù thất bại một đôi lần trong thi
cử
nhưng nó chưa hẳn muốn bạn ngừng để sớm ra đời. Thụy cũng đã có viết
thư khuyên
nàng nên học lại, cố gắng hoàn tất năm cuối cùng để lên Đại Học.
Thời gian nghỉ học, giúp việc trong nhà chỉ là tạm
thời
khuây khỏa, sự mong đợi của nàng ở nơi Duy là hơn hết. Thế nhưng,
chuyện thi cử
của Duy cũng hỏng. Hai năm liền, Duy vẫn không lấy nổi chứng chỉ dự bị
khoa
học. Mỗi tuần Duy lên nhà người yêu hai lần, còn nàng không mấy thích
xuống nhà
Duy, vì ở đó, không khí trong nhà ngột ngạt với tiếng cãi vã ăn thua nhau trong bài bạc. Từ nhà ngoài vào
đến nhà trong, ngày nào cũng có mở hội. Người trong nhà đánh ăn thua
với nhau,
và Duy cũng ngồi đánh bạc khi vắng Ninh Hà.
Căn nhà Duy khá lớn, rộng rãi. Ở Đà Nẵng trước đây
ba của
chàng là một trong những doanh gia giàu có nhất thành phố. Một dãy nhà
phố năm
căn trên đường Hùng Vương cho thuê ba căn, còn hai căn làm đại lý xuất
nhập
cảng. Một rạp hát ở đường Hùng Vương, ông cũng có hùn vốn với người
bạn. Gia
đình Duy gốc gác người Triều châu. Nhưng bốn năm trở lại đây công việc
làm ăn
thất bại, và trong năm qua, ông lâm trọng bệnh. Ông vào bệnh viện rồi
về nhà,
rồi trở lại bệnh viện. Mọi việc, vợ và các con ông quản lý. Duy là con
út trong
nhà nên rất được nuông chiều. Chàng được gởi vào học ở Sài Gòn rồi trở
ra lại
ngoài này.
Thực ra, Duy học hành không đến nổi tệ., nhưng vì
yêu
sớm, từ khi quen Ninh Hà, anh chỉ ước mơ được lấy nàng làm vợ. Ninh Hà
cũng yêu
Duy, nhưng nàng chưa muốn lập gia đình. Nàng sống với tình yêu bằng sự
cởi mở,
không nhất thiết nàng chỉ có một mình Duy mà hai năm qua, gặp lại những
người
xưa cũ nàng vẫn vui đón tiếp, chuyện trò, có lúc đi chơi phố. Đôi khi,
giữa Duy
và nàng có sự xích mích, nhưng với Ninh Hà cho rằng đó là sự bồng bột
của tuổi
trẻ. Tuổi trẻ không thích ràng buộc. Nàng muốn mình sống theo ý muốn,
dù biết
rằng, trong các chàng trai thì Duy là người nàng vừa ý hơn hết. Luôn
luôn nàng
vui, thoải mái, vì thế Duy nghĩ rằng nàng là một cô gái sống cởi mở,
không muốn
khép kín, không bày vẽ sự thủy chung.
Một ngày hôm đó nàng ra Huế thăm Mai, người bạn thuở
nhỏ.
Nhà Mai ở đầu vùng ngoại ô, quay mặt với con lộ chính.
Khi tới lối rẽ vào sân, con sông trước mặt
nhà xuất hiện. Ở dưới, cạnh bến đá có trồng cây du thật cao phủ xanh
bóng im
xuống mặt nước. Và, từ khoảng sân cũng
nhìn thấy những bậc thềm tam cấp xây bằng gạch dưới một mái hiên ngói
trải dài.
Hôm ấy chủ nhật, Ninh Hà được cả gia đình Mai đón tiếp, coi cô như
ngườiù con
thân yêu đi xa về. Tiếng trò chuyện thật vui, nồng ấm, rất tự nhiên
khiến cho
Ninh Hà cứ tưởng như đây chính là nhà của mình. Một giờ sau, bữa ăn
được dọn ra
với tất cả các món Huế do mẹ của Mai làm lấy. Món nào Ninh Hà ăn cũng
ngon, cảm
thấy mê người, nhất là vị ớt trong nước mắm dậy lên thứ chất cay khiến
cô cảm
giác như mình đã để lộ vẻ đẹp trên gương mặt quá rõ. Vừa ăn, các em của
Mai
luôn tươi cười nhìn ngắm Ninh Hà nghe giọng cô nói tiếng Bắc thật mềm
ngọt,
trong vui như tiếng mưa vào buổi sáng sớm.
Đến tối, hai cậu con trai chơi
cờ, còn mấy cô gái cùng ra vườn ngồi trên những chiếc ghế thấp trò
chuyện, vừa
ngắm trăng. Đêm, vùng ngoại ô thật thanh vắng. Mỗi lần nghe tiếng nói,
hay
tiếng động những chiếc xe đi qua ngoài con đường, bạn có cảm tưởng như
bao
nhiêu vang âm đều trở thành cơn gió làm lung lay ánh sáng những ngọn
đèn đường.
Câu chuyện thật gần gũi, giọng trầm ấm, vừa vui, Ninh Hà làm mấy chị em
Mai bị
lôi cuốn, rất thích nghe. Ngày hôm sau, có Liên Khuê lên nhà chơi. Tuy
mới gặp
lần đầu nhưng Khuê tỏ ra thân thiện, mến Ninh Hà ngay. Nàng khen Ninh
Hà đẹp,
duyên dáng nhất là cặp mắt nhỏ bé sáng như hai vị sao. Liên Khuê với
dáng người
cao lớn, mái tóc dài phủ kín vai. Hôm sau, buổi sáng Mai, Liên Khuê và
Ninh Hà
đi chơi phố, ghé tiệm phở ăn trưa, xong vào rạp hát Châu Tinh xem cuốn
phim
Mirage de la vie. Tan buổi hát, ba người tản bộ dạo chơi một quãng trên
con
đường dọc theo bờ sông, sau đó đón xe
buýt về nhà. Buổi chiều tới, nắng thật ấm, vừa nồng dậy mùi thơm cây
trái chín
nơi khu vườn tỏa ra. Ba người nghỉ mệt chốc lát, rồi đi tắm. Con sông
bắt đầu
vui nhộn, tiếng bọn trẻ vừa bơi vừa la hét. Hai cô em của Mai cùng ba
chị bạn
tắm ở quãng trên, nước trong, năm người cùng bơi ra xa một cách thư
thả, tận
hưởng tất cả hương vị nước mát trên dòng sông.
Những ngày ấy rất vui, nên mùa hè còn mãi. Nhưng chỉ
ở
với bạn một tuần vừa đủ hạnh phúc của chuyến đi, Ninh Hà trở về nhà.
Nàng đi
chuyến xe lửa khởi hành vào lúc buổi trưa. Đoàn tàu chạy không nhanh,
ngồi bên
cửa toa tàu cô gái có sự an nhàn thưởng thức những cảnh trí, nhà ở, đồi
núi,
sông biển xuất hiện hai bên đường. Trong mỗi cảnh đó, có những cảnh gây
nên sự
liên tưởng về quá khứ, về những nơi chốn mà tưởng chừng nàng đã đến đó
qua giấc
mơ.
Tàu ngừng lại khi tới ga Đà Nẵng. Tàu sẽ đỗ lâu để thay đầu máy lớn, đồng thời đón thêm khách đi vào những ga phía Nam.
Những tiếng rao hàng quà, cảnh những người đi buôn đưa hàng hoá lên tàu
gây
sự huyên náo trên sân ga ngay lúc tàu
vừa mới ngừng , giờ đã lặng yên. Len lỏi trên lối đi, Ninh Hà đeo túi
xách bên
vai, cô mặc chiếc áo sơ mi trắng, quần tây xanh trông thật dễ thương.
Vừa đi,
cô đưa mắt nhìn con tàu đang đậu, ngửi mùi vị ẩm khô trong khung cảnh
chật hẹp
của nhà ga, và cô như vẫn còn lưu luyến, ước mong có ngày trở lại Huế.
Bỗng
nhiên cô gái giật mình dừng
bước. Tiếng ai cất lên gọi cô, rồi mất hút. Sau đó, tiếng ấy lại cất
lên, nghe
quen thuộc. Cô gái đưa mắt nhìn quanh, nhưng cô chẳng nhận ra ai cả.
Ngay phút
đó, cái bóng người lính bước rất mau tiến lại gần làm cô gái chú ý. Và,
người
lính ngừng bước nhìn cô hỏi:
-Ninh
Hà phải không ?
-Vâng.
Người
lính mỉm cười, nói:
-Anh
Thụ đây, em nhớ không ?
Cô
gái nhìn lại người kia, ít giây
sau mới gật đầu, nói:
-Vâng,
anh Thụ. Ngày trước
anh ở Quảng Trị phải không ?
Người
lính xuất hiện trước mắt cô
gái là SVSQ trường Võ Bị Đà Lạt. Thụ đi mười lăm ngày phép về thăm gia
đình.
Hôm nay, đã hết hạn phép, anh trở lại trường và không ngờ đi trên
chuyến tàu
này anh gặp lại người xưa.
Thụ
mời Ninh Hà vào quán nước ở trong
ga. Cô gái không từ chối, và cô cũng rất muốn được nghe chuyện của
chàng trai
trước đây đã quen mình.
Lúc
kéo ghế ngồi, cả Thụ và cô gái
đều rất tự nhiên. Người chạy bàn đến, Thụ hỏi:
-Em
uống gì ?
-Cho em
ly nước chanh.
-Còn
tôi, một ly cà phê.
Thụ
đưa mắt nhìn Ninh Hà thật trầm
lặng. Anh có ý muốn kể lại cuộc đời của anh nhưng chưa
biết mở lời bằng cách nào.
-Em rời
xa Quảng Trị lâu chưa
?
Cô gái đáp:
-Gia
đình em vào đây đã bốn
năm rồi.
Người chạy bàn mang nước ra, đặt
chiếc khay nhôm xuống bàn tròn. Thụ đẩy
nhẹ ly nước về phía cô gái. Còn cà phê, anh cho mấy muỗng đường vào
xong khuấy
nhẹ. Cô gái bỗng cười nói:
-Anh
còn nhận ra được em hay
thật.
Không nhìn lại cô gái, vừa để chiếc
muỗng xuống dĩa nhỏ, Thụ nói:
-Lúc
thấy bóng em xuất hiện,
ngồi trên toa anh nhận ra ngay.
Cô gái uống hớp nước, hỏi:
-Lúc
này anh ra sao ?
-Anh đã
đi lính. Anh đang học
ở Võ Bị Đà Lạt, năm tới đây ra trường.
Cô gái cố giữ vẻ mặt nghiêm trang
khi nhìn lại người quen ngày xưa. Lúc này, cả hai đều cùng hiểu buổi
gặp nhau
nó muốn cho mỗi người mong nói ra được những điều mình muốn nói.
-Gia
đình anh vẫn ở Quảng Trị
?
Thụ gật đầu, rồi nói thêm:
-Anh
vừa đi phép về thăm nhà.
Không cần hỏi ý cô gái, Thụ bật
diêm đốt điếu thuốc. Những sợi khói dâng lên in ra hình bóng trước
gương mặt
người lính. Cô gái cũng đang chờ đợi điều anh ta sẽ nói. Và rồi, anh ta
lên
tiếng:
-Không
ngờ, xa nhiều năm nay
chúng ta gặp lại.
Ninh Hà không đáp lời. Nàng vẫn
đưa mắt nhìn anh một cách nghiêm trang, thẳng thắn. Và dù rằng, nàng đã
thấy
trên ve áo của anh có gắn alpha nhưng đối với nàng không quan trọng.
Anh ta hỏi
nàng:
-Em
thấy, anh đã thay đổi
nhiều phải không ?
-Vâng.
Ninh Hà cảm thấy không tiện nói gì
thêm, nên nàng im lặng. Từ trong nhà ga, tiếng người nữ nhân viên phát
thanh
báo hiệu giờ tàu khởi hành. Thụ có vẻ bối rối, không kịp uống nốt phần
cà phê
vội đứng dậy đi vào quầy trả tiền .
Ninh Hà đứng yên chỗ chờ anh. Lúc
trở ra, Thụ nhìn vào mắt cô gái rất lâu. Thế mà, anh chỉ nói:
-Cho
anh gởi lời thăm gia
đình em.
-Cám ơn
anh. Chúc anh đi mạnh
khoẻ.
Ninh Hà đưa tay cho anh bắt. Không
vội, Thụ nói:
-Anh
mong nhận được thư của
em .
Ninh Hà nhìn Thụ, lặng im. Rồi có
tiếng còi tàu báo hiệu.
-Thôi.
Anh đi mạnh khoẻ.
Thụ quay gót chạy nhanh. Ninh Hà
nhìn theo Thụ bước lên toa, và lúc tàu lăn bánh quay đầu nhìn lại, anh
vẫn thấy
Ninh Hà còn đứng đó. Anh vẫy tay chào, cô gái đáp lại.
Nhà xa, Ninh Hà đón
xích lô về. Người đạp xích lô còn
trẻ, anh ta không hỏi han, chuyện trò với cô gái. Mới đi có mấy ngày,
nhưng trở
về, Ninh Hà tự dưng thấy lạ, trên đường xe chạy mắt nàng nhìn thấy phố
xá với
vẻ rụt rè, bỡ ngỡ.
Vào lúc trưa, mẹ của Duy và cô Thi đến. Vừa bước
chân vào
nhà, hai người tỏ vẻ nôn nóng. Không khí
lặng đi trong giây lát. Trên chiếc bàn bốn cái tách đã bày sẵn, ông Kha
ngồi
yên, còn bà Uyên rót nước trà mời khách.
-Mời bà
và cô xơi nước.
Bà Uyên vừa ngồi xuống, mẹ Duy mở
lời ngay:
-Ông
nhà tôi mới ở bệnh viện
về. Bác sĩ đã bó tay, cho biết nhà tôi chỉ còn sống ít ngày nữa thôi.
Tôi và
cháu Thi vội vàng lên đây để thưa với ông bà về chuyện hai cháu. Nhà
tôi, rất
ước mong được thấy ngày vui của hai cháu trước khi nhắm mắt.
Bà mẹ Duy nói những câu sau
cùng, nước mắt ứa ra. Bà lấy khăn mùi xoa trong ví ra lau. Cô Thi ngồi
bất
động. Cô để mắt chú ý đến màu nước đậm trong tách trà. Rồi cô cầm tách
lên uống
một hớp.
Bà Uyên đã hiểu ý định của mẹ
Duy, trong ít giây cố tìm một đôi lời an ủi, vừa có ý giải thích, nhưng
rồi bà
không thể nói ngay được. Bỗng bà cất tiếng gọi Huyền. Nghe tiếng gọi,
Huyền đáp
dạ và đi từ nhà dưới lên. Có mặt Huyền, người mẹ hỏi:
-Chị Hà
nói hôm nào vào con ?
-Hình
như hôm nay chị vào,
mợ.
Quay sang mẹ Duy và cô Thi, bà
Uyên nói:
-Cháu
Hà ra Huế thăm người
bạn.
Mẹ Duy nói:
-Sự
việc bất ngờ quá. Theo
mong ước của chồng, tôi lên đây xin ý của ông bà chấp thuận cho hai
cháu được
phép làm đám cưới để chạy tang.
Lúc này, ông Kha lên
tiếng:
-Hai
cháu mới làm lễ hỏi chưa
đầy hai tháng. Tôi nghĩ, nếu phải tổ chức đám cưới ngay thì hơi vội
vàng, dù
hiểu rằng, đó là ước mong của ông bà. Bên gia đình chúng tôi, các bác ở
Sài Gòn
vừa viết thư cho hay là khi nào có đám cưới của cháu Hà các bác sẽ ra
dự, vì
thế, xin bà và cô đây hiểu cho rằng chuyện một đời của hai cháu rất là
quan
trọng và ngày đó chính là ngày vui cho cả hai gia đình. Thế nên, chúng
tôi rất
sẵn lòng đợi sau một hay hai năm, mãn kỳ tang của ông, sẽ chọn ngày
tháng tốt
để làm hôn lễ cho hai cháu.
-Thưa
ông bà, tôi rất hiểu
chuyện một đời riêng của hai cháu hết sức quan trọng. Nhưng với cháu Hà
nhà tôi
rất thương quí, đặt niềm tin về cháu rất nhiều, vậy nên, ông rất ước ao
được
nhìn thấy cháu Hà là con dâu của gia đình mình để nhắm mắt cho toại
nguyện.
Mẹ của Duy lại khóc. Ông Kha và
bà Uyên trước tình cảnh này không muốn làm cho không khí trong nhà trở
nên ngột
ngạt, nghĩ ngợi ít giây, hai ông bà cùng nói:
-Hôm
nay cháu Hà đi Huế chưa
vào.
Rồi bà Uyên tiếp lời:
-Thôi.
Có gì, tôi hỏi lại
cháu rồi thưa chuyện với ông bà sau.
-Vâng,
dù sao cũng có ý kiến
của cháu. Được như thế nào, xin ông bà thông báo cho biết.
Hai người khách đến gặp trong
nửa giờ, vội ra về ngay. Xuống xe, trả tiền xong Ninh Hà bước nhẹ băng
qua
đường, lúc vào nhà nàng chợt có cảm giác hụt hẫng vì một sự trống vắng
lạ lùng.
Ông bà Kha ngồi bên chiếc giường đang lặng im, suy nghĩ. Hai người đã
ngừng nói
chuyện khi thấy bóng cô con gái trở về.
-Có
chuyện gì không mợ ?
Người mẹ bảo:
-Con về
mệt, nghỉ đi, đến tối
mợ nói chuyện.
-Nhà có
khách phải không mợ.
-Có.
-Các em
đi đâu mợ ?
-Đi
biển từ lúc sáng. Mình
Huyền ở nhà.
Ninh Hà bước qua lối hẹp đi lên
gác. Đây là căn gác dành riêng cho nàng. Trở về đây, không khí căn gác
đã bao
trùm lấy ngay gương mặt của nàng và cho nàng nhận ra cái tình cảm thân
thiện
của riêng mình. Nàng dừng chân ở chỗ bậc thang, đưa mắt ngắm khung ảnh.
Bên
cạnh tấm ảnh của nàng là ảnh của Duy. Duy đang là Sinh viên Đại Học
Khoa Học
Huế. Duy còn rất trẻ, gương mặt đẹp, dáng vẻ tao nhã, là con người mà
Ninh Hà yêu
nhất. Với nàng, nàng cũng biết mình đẹp, và trước khi Duy quen nàng,
đính hôn
với nàng, nàng đã gặp rất nhiều chàng trai say mê, ngưỡng mộ nàng, từ
những năm
nàng ở Nha Trang, rồi Quảng Trị, rồi Huế, và ở thành phố này nữa. Nàng
đang ở
tuổi mười chín, đẹp, nét quyến rũ của nàng có từ đôi mắt nhỏ, giọng nói
thật
dịu, vừa trong sáng.
Huyền ngừng đọc sách, lên
tiếng:
-Chị
mới về.
Ninh Hà hỏi:
-Khách
là ai vậy ?
-Bà
Lương.
-Có
chuyện gì không ?
-Em
không rõ lắm.
Ninh
Hà mở túi xách lấy ra một ít thứ
quà để trên bàn. Huyền mỉm cười rời khỏi giường, đứng dậy đi tới bàn
cầm gói mè
xửng mở ra lấy một miếng.
-Đi vui
không chị ?
-Vui.
-Bao
giờ chị Mai xuất ngoại ?
-Tháng
tới.
Ninh Hà đi vào bên trong
bức màn kéo kín lại. Nàng thay quần áo, mặc vào người bộ đồ thường ở
nhà. Trên
cổ áo vuông rộng để hở, khuôn ngực nàng trắng nõn. Nàng trở ra ngồi
xuống
giường trò chuyện với Huyền. Huyền nói những chuyện vui trong mấy ngày
nàng đi
vắng, và ăn kẹo, cô cảm thấy rất ngon.
Ba anh em Vũ, Hằng và Huy đi
biển về. Trong lúc ba anh em lên tiếng
ồn ào về buổi đi chơi biển, trên gác, hai chị em Hà vẫn thì thầm kể
tiếp câu
chuyện. Huyền nghe chị Hà nói về anh Thụ, người con trai ngày xưa ở
Quảng Trị
đã hết sức yêu nàng. Khác với vẻ thư sinh của Duy, trên gương mặt Thụ
khắc rõ
những nét lạnh lùng, cương quyết. Lúc hai người gặp lại nhau, Ninh Hà
nhận ra
sự xúc động lẫn vẻ bối rối của Thụ trong giọng nói, nhưng không vì thế
mà chàng
tỏ ra yếu đuối vì tình yêu khi chàng đã trở thành một người lính. Cái
bóng của
Thụ chạy nhanh về phiá con tàu vụt qua trí nhớ Ninh Hà. Giây phút đó,
nàng muốn
cho anh ta biết, nàng và anh đã phải xa cách thêm một lần này nữa.
Bữa cơm tối, cả nhà ngồi ăn
chung trên chiếc bàn khách dài dưới ánh sáng ngọn đèn néon. Bữa ăn vẫn
mang
không khí thân mật của gia đình như mọi ngày. Nhưng, trong bữa ăn, Ninh
Hà đã
không kể lại chuyến đi vui của mình, vì nàng nhận ra nó sẽ không xoá
tan nỗi
buồn lo của ba mẹ nàng.
Sau bữa ăn, vào lúc 9 giờ
tối, ở bàn khách Ninh Hà ngồi hầu chuyện với ba mẹ. Nước trà tuy nguội,
nhưng
vẫn còn đậm. Ninh Hà cầm tách nước xoay nhẹ, dáng nghĩ ngợi. Người mẹ
mở lời:
-Bà
Lương và cô Thi đến đây
lúc con chưa về.
-Có
chuyện gì không mợ ?
-Ông
Lương đang hấp hối, mới
đưa từ bệnh viện về nhà lúc trưa. Bên đó, muốn xin làm đám cưới chạy
tang.
-Ba mợ
trả lời sao ?
Bằng một giọng thân
thiết, ông Kha lên tiếng:
-Con và
Duy đã yêu nhau, điều
đó ba mợ rất bằng lòng. Nhưng chuyện cưới hỏi ngay lúc này không có sự
chuẩn bị
là không tốt cho con, cả gia đình nữa. Ở Sài Gòn, các bác rất mong ra
dự đám
cưới của con, còn ở đây, gia đình mình bà con cũng đông đều muốn được
thấy ngày
đám cưới của con là ngày vui thực sự, chứ không thể là một ngày vui,
sau đó
phải buồn vì chuyện tang chế trong gia đình. Ba nghĩ, dù ông Lương mất,
đợi một
hoặc hai năm mãn tang để tổ chức lễ cưới, cũng không mất lâu thời gian.
Nhiều
lứa đôi thương yêu nhau, đợi nhau đến năm sáu năm, mười năm mới lấy nhau cũng là thường, và riêng con hẳn
còn quá trẻ, còn đang tuổi đi học, chuyện này con nghĩ sao ?
Không do dự, Ninh Hà
đáp:
-Con
tuỳ theo ý của ba mợ.
-Không,
ba mợ để tùy con. Nếu
con nghĩ, khoảng thời gian hai năm đợi là lâu, thì con có quyết định
của con.
Ba mợ rất thương con, muốn theo ý mong muốn của con.
-Vâng,
con hiểu lòng của ba
mợ.
Nàng đáp, tự nhiên trong
câu nói khiến nàng bật khóc.
XIV
Giảng viên dạy khóa học điều không gồm sáu người,
bốn là
Hạ sĩ quan cùng cấp bậc Trung sĩ nhất, hai Sĩ quan có Đại úy Thuận Giám
đốc và
Thiếu úy Huỳnh, phi công lái máy bay khu trục. Không như
lúc mới tân binh chỉ học về căn bản quân sự,
bây giờ qua chuyên môn, các khóa sinh đều cùng thấy những môn mình học
như Khí
tượng, Không lưu, Truyền tin, Quân báo, Chiến tranh tâm lý đòi hỏi đến
kiến
thức ở bậc trung học đệ nhị cấp.
Năm ngày trong tuần, hai buổi học mỗi ngày, mỗi buổi
bốn
tiếng. Trường hợp có giảng viên đau ốm, bận họp, hay công tác giờ học
đó anh em
được nghỉ tại lớp tự động chia các nhóm sinh hoạt học tập. Nhờ các buổi
này,
anh em cùng ôn bài, giúp ý kiến đỡ thời gian buổi tối phải học bài vở.
Thụy rất
thích hai môn Không lưu và Khí tượng. Hai môn này, giúp anh hiểu thêm
về không
gian và phi cơ. Ở trên trời, nhìn thấy mây bay là mình chỉ biết mây,
học về khí
tượng, mới phân biệt ra được có 9 loại mây khác nhau. Những người phi
công khi
bay nhìn qua những hình dáng đám mây họ biết được ngay tên gọi của từng
loại
mây. Về môn Không lưu, học môn này khá thú vị, viên Thiếu úy phi công
giảng cho
khóa sinh hiểu về cách sử dụng địa bàn, về cơ khí, và về những đường
bay của
phi cơ trong không gian. Bao giờ trên đường bay, phi cơ cũng bay theo
góc độ
của hướng gió. Khi phi cơ cất cánh, hay đáp, đều ở trong tình thế gió
ngược.
Và, cắt nghĩa sự kiện này, ông giảng cho khóa sinh biết về môn cơ học.
Mỗi
tuần, cũng có hai giờ học tiếng Anh. Nhưng môn này, không học theo cách
nhà trường,
mà chỉ cần biết những từ chuyên môn cộng với một số câu được diễn giải
qua
phương tiện truyền tin. Vì rồi đây, khi trở ra đơn vị, các khóa sinh
trở thành
hiệu thính viên, qua máy truyền tin không chỉ liên lạc với quân bạn bằng tiếng Việt mà còn với quân đồng minh
bằng tiếng Anh. Riêng Thụy, học Anh ngữ anh có được thêm cái lợi dành
cho môn
thi tiếng Anh ở kỳ thi Tú Tài. Viên
Trung sĩ dạy môn tiếng Anh, anh ta cũng đã tốt nghiệp một khóa Anh ngữ
ở trường
Không quân Lackland bên tiểu bang Texas. Tới giờ học, Thụy có mang theo
sách
học cuốn Khảo sát Anh ngữ, lâu lâu, nhờ anh giảng bài giúp, nhờ vậy,
Thụy dần
hiểu khá thêm về cách dùng văn phạm và các thành ngữ.
Ngày hôm đó ở Đà Lạt, một buổi sáng đi ngang qua căn
nhà
cũ của Thùy ở trên đường đất đỏ Phan Bội Châu Thụy cố mong tìm gặp lại
Thùy,
nhưng không thấy. Sự tình cờ, buổi sáng chủ nhật tuần rồi đi phố chơi,
anh lại
gặp nàng. Và, khác hẳn lần trước, lần này nàng đưa anh về đến nhà, giữ
lại ăn
cơm, chuyện trò, và đặc biệt được xem cuốn album của nàng thời còn đi
học. Có
những tấm ảnh chụp ngày đi cắm trại ở Suối tiên, và trong số các bạn
cùng chụp
chung trước căn lều vải bên dòng suối, có Thụy nữa. Hai người bạn ngồi
gần nhau
ở phòng khách, và cùng phá lên cười khi xem chung mấy tấm ảnh thời đi
học. Thụy
mở lời xin tấm ảnh, nàng gật đầu lấy trong cuốn album ra và để vào
phong bì
thư.
Nhà Thùy ở khu Phước Hải, trên đường Huỳnh Thúc
Kháng, và
chỉ cách căn nhà bác Định ngày xưa bốn căn. Nhà làm nền cao, có bốn bậc
cấp đi
lên, đằng sau có sân rộng và căn vườn trồng cây ăn trái. Với tình bạn
cũ thân
thiết, Thùy đưa Thụy đi xem bên trong và ngoài nhà. Thụy rất là muốn
hỏi chuyện
riêng của Thùy, nhưng rồi cứ ái ngại.
Sau bữa ăn, không nghỉ trưa hai người vẫn ngồi ở
phòng
khách chuyện trò. Những cô bạn học của Thùy, có một số du học, và hầu
hết đều
đi lấy chồng. Những bạn của Thùy có Linh là Thụy biết
rõ hơn cả, vì dạo đó, Thùy và Linh rất
thân nhau. Khác ngày xưa là học trò, giờ hai người đã lớn, và nàng đã
có gia
đình, dù rằng cuộc sống có lẽ không mấy vui. Thụy lặng im ngước mắt
nhìn lên
chiếc đồng hồ treo tường. Lúc ấy, Thụy cũng bắt gặp cái nhìn của Thùy
hướng về
mình.
Khi đã đến giờ , Thụy đứng dậy xin kiếu từ. Ngay lúc
ấy,
Thùy bảo anh đợi, rồi nàng quay bước đi
vào nhà trong. Cũng khá lâu, nàng trở ra và đưa cho Thụy một chiếc
phong bì dày
cộm màu vàng được dán kín.
Nàng nói:
-Đây là
kỷ niệm năm xưa của
anh, em gởi lại để anh cất giữ.
Thụy nhìn Thùy, cảm thấy bâng khuâng. Rồi, anh nói:
-Cám ơn
Thùy.
Trên tay Thụy, giờ là một kỷ niệm trở về, và anh
biết
mình đang nắm giữ một vật gì. Thụy chợt hỏi:
-Em vẫn
còn buồn lắm ...,
phải không ?
-Không,
không có gì cả
-Tại
sao ?, em nói cho anh
hiểu đi.
-Không,
không có gì cả.
-Em
không hiểu anh sao ?
-Hiểu
chứ. Không hiểu, sao mà
em còn cất giữ được kỷ niệm của tập lưu bút này.
Về trại, Thụy nôn nao mở chiếc phong bì và lật từng
trang
của xấp truyện ngắn cũ chăm chú đọc. Miền sương mù, trong từng giòng
nắn nót
Thụy đã viết, hình ảnh Thùy hiện ra và biết bao nhiêu kỷ niệm của nàng
rất là
thân thiết, cảm động. Anh chợt nhớ câu nàng nói, không, không có gì cả,
em hiểu
anh.
Ít ngày sau, Thụy lấy truyện ngắn này chép sang một
bản
mới, xong qua hộp thư KBC 4721 của Trung
tâm huấn luyện, anh gởi bài về cho Tòa Soạn Tiểu thuyết Thứ Năm.
Khi rời xa Huế vào Sài Gòn, lòng Thụy nặng trĩu biết
bao
nhiêu nỗi lo buồn, về nỗi khó khăn gia đình, về tình yêu đơn độc, về
tuổi trẻ
không tìm thấy tương lai vì học hành dang dở, và đến nơi thành phố này
tìm kiếm
việc làm cũng thật khó khăn. Sự thể chọn con đường nhập ngũ đi lính, nó
như đã
là một hồ sơ làm sẵn cả rồi tùy thuộc thời gian đến nhanh hay chậm mà
thôi. Nỗi
buồn thường hay khiến tuổi trẻ muốn nói ra lời tâm sự, viết mấy câu
thơ, vài
dòng nhật ký, hoặc viết nên được một câu chuyện bày tỏ cuộc đời mình.
Đó, hầu
như là tâm trạng chung của những kẻ bất hạnh, thất
chí, và anh cũng là một trong bao nhiêu con
người đó, nên chi, đã nghĩ tới một lối thoát mặc cảm, và bắt đầu bước
chập
chững, cố gắng theo con đường này. Tối hôm ấy, Thụy thức khuya lấy tập
giấy ra
ngồi viết, và không ngờ anh viết xong được một truyện ngắn đầu tay.
Sau bữa ăn sáng, Thụy rời khỏi nhà đi bộ trên đường
Phạm
Ngũ Lão. Ở khu chợ Thái Bình, bên này trông sang anh thấy tòa soạn báo
Văn,
nhưng không dám nghĩ đến. Nơi tờ báo này, nhắc Thụy nhớ đến một lá thư,
nghĩ
đến một món nợ với người yêu thương của mình mà chưa làm sao mua được
một món
quà kỷ niệm quí giá dành cho nàng. Nhưng thế nào, anh cũng cố gắng một
ngày kia
sẽ có truyện ngắn đăng ở đây để tặng nàng. Và, bỏ lại đằng sau những mơ
ước có
vẻ lớn ấy, một mình, Thụy lại bước đi. Buổi sáng ở Sài Gòn, luôn luôn
những
tiếng động xe cộ vang lên khắp thành phố tạo sự
huyên náo, cảnh xô bồ, lúc làm bạn trở nên vui vẻ,
phấn khích, lúc bỗng
cảm thấy xa lạ, bâng khuâng. Ai đó, đã vén màn trong tâm tưởng, một
mình đứng
nhìn Thụy rất lâu.
Cách đây hai ngày, tôi nhận được thư của Ninh Hà. Lá
thư nàng đọc thật cảm cảm động, tôi hết
sức vui sướng như có được những phút giây bên cạnh
nàng. Gói sách tôi gởi đi qua Bưu điện nàng
đã nhận được, và bây giờ trong những cuốn sách đó ắt cũng thấy bóng
hình của
tôi in lên trang giấy vào mỗi đêm dưới ánh sáng ngọn đèn khi nàng ngồi
học. Tôi
muốn quên tất cả, trừ nàng ra. Sau đó, tôi cũng nhận thức dù rằng nàng
đã có
người yêu, nàng sẽ lấy Duy làm chồng, nhưng riêng một góc con tim, nàng
cũng là
người yêu của tôi, để từ nay, tôi luôn
luôn nhận được thư nàng. Từ buổi xa cách, bao nhiêu lần tôi thấu hiểu
được lòng
nàng thương mến tôi qua tấm ảnh nhỏ bé
mang theo bên mình. Trong gói sách gởi theo Bưu
điện, tôi có kèm lá thư.
Nhữnggiòng thư đầu tôi nói cho nàng biết về Sài Gòn, thành phố tôi mới
đến và
một vài ý định của tôi về cuộc sống. Sau đó, là những giòng tâm tình.
Tôi nói
cho nàng biết, lúc rời Đà Nẵng trở ra Huế để chuẩn bị chuyến đi, ngồi
trên
chuyến xe khách, lòng tôi cứ mãi nghĩ đến nàng, nhớ khôn nguôi gương
mặt của
nàng, và khi cố gắng tìm lại những kỷ niệm trong một năm học qua, tự
dưng tôi
khóc và nước mắt ấm hẳn lên như có được sự hòa lẫn giọng nói của nàng
trong đó.
Tôi khóc một mình, nhớ bóng nàng yên
lặng cúi đầu dưới mái tóc bao phủ, nàng cũng buồn khi xa tôi, và cũng
hiểu rằng
mối tình của tôi và nàng thật lẻ loi. Và, tôi đã cứ ngồi im như vậy khi
xe ra
đến Huế, thành phố của nơi chốn mình trở về mới giải khuây.
Buổi sáng hôm ấy, Thụy cũng có ý định đi Quang Trung
thăm
anh Quý, con trai thứ nhì của bác anh bị gọi quân dịch. Thụy mới nhận
được thư
của anh hôm thứ hai đầu tuần. Mới đó, anh vào Sài Gòn gần hai tháng, và
những
thư từ ở địa chỉ mới đều nhận được. Thường lệ, vào giờ trưa người phát
thư đi
ngang, và rất dễ biết ông đến bằng tiếng chuông xe đạp rung leng keng
trước
nhà.
Hết đường Phạm Ngũ Lão, Thụy tới bến xe đi ngoại
thành.
Xe đi Quang Trung còn đậu ở bến, mới có vài người khách, nên anh chưa
lên xe mà
đứng chờ.
Một lúc sau, Thụy vào
quán cà phê kế bên tòa soạn tuần báo Tiểu
Thuyết Thứ Năm. Trong quán chỉ vài người khách, bàn trống để nhiều, anh
bỗng
chú ý một người đàn ông đeo kính trắng, dáng vẻ hiền từ, đang chăm chú
đọc bài
báo, trên tay cầm bút nguyên tử đỏ. Khi bắt gặp anh nhìn ông, ông nở
một nụ
cười chào như thể muốn gặp. Thụy liền bạo dạn bước tới gần, lúc ấy, ông
ngừng
đọc, vừa lấy tay kéo tập giấy và bỏ ly
cà phê uống dở qua một bên.
-Em đi
đâu đó ?
-Em chờ
xe đi Quang Trung ?
-Thăm
người bà con ?
-Dạ. Em
có người anh đi quân
dịch.
Thụy gọi ly cà phê. Bây giờ, anh thấy rõ hơn tập
giấy ông
để trong kẹp và bài báo ông đang đọc. Thụy ngần ngại hỏi:
-Ông
làm nhà báo ?
-Tôi là
nhà văn, ông nói. Tôi
làm Chủ bút tờ tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Năm.
Thụy nhìn ông với sự ngưỡng mộ muốn bày tỏ. Cà phê
mang
ra, anh cầm thià nhỏ khuấy nhẹ xong uống một hớp đầy.
-Em rất
thích đọc tiểu
thuyết.
-Em có
viết văn không ?
Thụy cười nhìn ông. Một chút sau, anh cảm nhận được
tình
thân giữa hai người nên nói:
-Em mới
viết được một truyện
ngắn.
-Vậy à.
-Em có
mang theo đây.
-Đâu,
cho tôi xem.
Thụy mở tuí xách lấy tập giấy viết đêm qua đưa cho
ông.
Ông nhìn lướt, nói với tôi:
-Chà,
viết chữ đẹp ghê.
Thụy cảm thấy hồi hộp, bối rối. Rồi anh yên lặng
nhìn ông
bắt đầu đọc truyện anh viết. Khi ông đọc, Thụy
theo dõi dáng điệu, cử chỉ, nhất là đôi mắt dò xét
suy nghĩ của ông. Rồi
anh thấy, ông cầm bút sửa lỗi hỏi ngã anh viết sai, và bỏ bớt đi một
đôi chữ
thừa, hoặc thay bằng một từ khác. Truyện Thụy viết tối qua dài tám trang, anh cứ nhìn ông đọc, lòng mừng thầm
mỗi khi tay ông lật qua trang khác. Thụy vẫn lặng im không hỏi han gì, ngồi bên ông cho đến khi ông đọc hết truyện.
-Em
viết được lắm, ông nói.
-Em cám
ơn ông, tôi đáp lời.
-Tôi sẽ
cho đăng truyện này
vào số tới.
-Em
mừng lắm, thưa ông.
-Tôi
hiểu, em viết được lắm.
Hãy viết thêm một vài truyện nữa đưa tôi.
Tiếng nói của Thụy trong xúc động trở nên vấp váp.
Nhưng,
thực sự anh rất mừng buổi sáng nay được gặp một con
người tốt bụng, một nhà văn với cái dáng vẻ
hiền từ, hồn hậu như một thầy giáo. Thụy cũng thấy từ trên vẻ mặt ông
đến những
lời nói đều điềm đạm, không kiểu cách.
Thế là truyện ngắn đầu tay củaThụy sẽ được đăng. Kim
đồng
hồ treo tường đã chỉ mười giờ. Thụy nửa muốn đứng dậy, nửa muốn được
ngồi lâu
bên nhà văn để trò chuyện. Sau bản thảo của anh, ông Thanh Thủy lại đọc
tiếp
bản thảo đã đọc dở lúc nãy.
Rồi Thụy đứng dậy, nói:
-Em xin
phép ông đi thăm
người anh.
Và lúc anh gọi trả tiền cà phê, ông ngăn lại.
-Em để
tôi trả cho.
Thụy nhìn ông, nói nhỏ tiếng cám ơn. Ông bắt tay làm
Thụy
thêm vững tin.
-Lúc
nào rảnh, em ghé Toà
soạn chơi.
Thụy đáp dạ, rồi rời bước. Bến xe nằm trước mặt, và
chiếc
xe đi Quang Trung vẫn còn đang chờ khách cho đủ chuyến. Thụy vào ngồi
băng ghế
ngoài chờ đợi, mắt nhìn lại quán cà phê nơi anh vừa ngồi với một nhà
văn tên
tuổi. Thụy cảm thấy mình có chút hãnh diện. Một lúc sau, có người khách
bước
vào quán và anh thấy ông nhà văn đứng dậy xong hai người rời bước. Thụy
chú ý
theo dõi thấy ông và người khách đi qua tòa nhà kế bên, đó là toà soạn
báo Tiểu
Thuyết Thứ Năm.
Tự dưng, anh có ý muốn mua tờ báo để đọc đi đường,
rồi
đến Quang Trung, anh sẽ đưa cho anh Qúy đọc. Lòng vui lên, Thụy xuống
xe bước
nhanh chân vào toà soạn. Vừa thấy Thụy, ông Thanh Thủy hỏi:
-Em
chưa đi ?
-Em
muốn mua tờ báo.
-Được,
để tôi biếu em ít tờ.
Ngay lúc đó, ông gọi qua cô thư ký bảo cô lấy cho
Thụy
vài số báo ra gần nhất. Không khí toà soạn đông vui làm Thụy thêm nôn
nao. Nhận
được ba số báo biếu, Thụy nói lời cám ơn cô thư ký, rồi vội vàng bước
trở ra xe
khi nghe có tiếng người tài xế nhấn còi báo giờ chạy.
Hạnh phúc văn chương
cho Thụy trong một buổi sáng nay đã hoà nhịp cùng
với không khí sinh
hoạt của thành phố Sài Gòn. Xe lăn bánh, thong thả chạy qua từng dãy
phố. Ngồi
trong xe, Thụy để mắt đọc tên những con đường. Không lâu, xe bỏ thành
phố đi ra
vùng ngọai ô và tốc độ bắt đầu chạy nhanh. Thụy nghĩ nhiều đến anh Quý.
Thụy
còn nhớ rõ gương mặt anh, trong hình ảnh đó, anh vẫn còn nhớ khung cảnh
vùng
quê nội của mình. Đó là một ngôi làng cát trắng, nằm ven biển, xa tỉnh
lỵ Quảng
Trị đến mười hai cây số. Những năm tháng ấy còn nhỏ, mùa hè trở về quê
Thụy có
được sống vui của thời bình yên. Đến lúc này, tuổi đã lớn, dù chưa đi
lính
nhưng đôi lúc, anh có cảm giác bị chiến tranh đe dọa, sẽ thay đổi cuộc
đời
mình.
Ra ngọai ô là nhìn thấy nhiều khung cảnh giống vùng
quê.
Thụy chưa đi qua con đường này, chưa hề nhìn thấy mọi cảnh vật, sinh
họat ở nơi
đây, rồi tất cả lùi lại, xa dần để anh đừng bận tâm nghĩ nhiều nữa.
Xe đang chạy vào bến, rồi ngừng. Thụy xuống xe, ngơ
ngác
nhìn khung cảnh thị trấn. Sau đó, anh hỏi mấy người quanh đó đường đi
vào quân
trường. Thụy lên xe lam, ngồi đợi chừng
mười lăm phút xe mới chạy.
Lúc
xuống xe, người tài xế
chỉ cho Thụy hướng đi tới cổng gác. Thụy cảm thấy yên tâm, và đến đó
anh được
gặp người hạ sĩ quan trực liền đưa tờ
giấy ghi địa chỉ anh Quý nhờ ông tìm . Trong lúc ông ta lật cuốn sổ ,
Thụy đọc
bảng tên ông viết trên áo.
Liên
lạc qua điện thọai xong,
ông Thạnh bảo Thụy:
-Anh
qua ngồi bên kia chờ.
Thụy ngồi đợi ở nhà tiếp tân. Anh bỗng có ý nghĩ,
chắc
rồi mình cũng phải vào đây, bắt đầu cuộc đời quân ngũ không một chút gì
sáng
sủa. Không đợi lâu lắm, Thụy chợt trông thấy một người lính đội nón
lưỡi trai
đang bước nhanh như chạy. Khi anh ta đến gần, Thụy nhận ra anh Quý và
gọi tên
anh. Anh cười, mừng vui vì có người thân đến thăm. Anh Quý đặt bàn tay
nắm vai Thụy thật chặt, Thụy rất mừng nhìn
thấy
người anh khoẻ mạnh trong bộ quần áo
lính. Rồi anh dẫn Thụy đi tới một quán ăn ở gần Câu lạc bộ.
Thụy mở túi xách lấy gói quà và mấy tờ báo biếu đưa
anh
trước khi vào chuyện. Anh cầm lấy và nhìn Thụy. Thụy hỏi:
-Anh
còn bao lâu nữa mới ra
trường ?
-Chừng
hai tháng nữa.
-Rồi
anh có ra Nha Trang
không ?
-Không.
Anh ra đơn vị luôn.
-Anh đã
viết thư về ngoài nhà
chưa ?
-Có,
anh viết rồi. Còn em vào
đây học à ?
-Không,
em kiếm việc làm.
-Em làm
ở đâu ?
-Em mới
vào được ít tuần, tìm
việc chưa có.
-Sao em
không học nữa ?
-Em thi
rớt, chắc học không
được nữa vì không có giấy hoãn dịch. Chẳng biết sao, chắc em cũng vào
đây như
anh hoặc ra Nha Trang.
Anh Qúy đưa mắt nhìn Thụy, aí ngại. Có lẽ trong cái
nhìn
của anh, Thụy đọc được những ý tưởng về liên hệ đến gia đình, giòng họ,
về một
nỗi bất hạnh luôn đè nặng xuống những người thân họ hàng bên nội anh. Thụy tự hỏi, trong khi bên ngoại anh
là giòng khoa bảng, sao bên nội tôi từ đời ông cố, ông nội, đời cha và
các chú
các bác, đến anh em nhà mình không một ai học hành đỗ đạt. Có một nỗi
oan khiên
nào đó chăng ?
Hai anh em uống nước, trò chuyện về người thân, và
có lúc
im lặng. Bất chợt nghe mùi thức ăn đang nấu dậy lên, anh Quý hỏi Thụy:
-Em ăn
gì chưa ?
-Em có
ăn rồi.
-Đây có
món bò kho, anh gọi
em ăn nghe.
Thụy ngần ngại, cũng muốn ăn nhưng sợ bắt anh trả
tiền.
-Aên
nghe, anh gọi.
-Anh ăn
đi, em không đói.
-Aên
đi, anh gọi.
Anh Quý cất tiếng gọi hai phần, nhưngThụy nhìn chị
chủ
quán ra dấu là một thôi. Người kia hỏi lại:
-Hai
hay một.
-Chị
cho một phần, hai bánh
mì.
Trong lúc này đợi, Thụy muốn nói cho người anh họ
biết về
tương lai của mình khi đặt chân về đến Sài Gòn. Trong những điều Thụy
nói ra,
nó vừa uất nghẹn, vừa cố ngoi lên một hy vọng. Anh Quý ngồi im, một lúc
cũng
với tiếng thở dài nhẹ, anh nói:
-Không
biết con cháu mình ra
sao ?
Bữa ăn mang ra. Hai anh em ăn chung một phần và cảm
thấy
bao nhiêu năm vắng xa giờ gần gũi hơn lúc nào hết.
-Anh có
được đi phép cuối
tuần không ?
-Có.
Thụy cầm viết ghi địa chỉ và mảnh giấy, đưa anh nói.
-Em
đang ở trọ nhà dì em.
-Tuần
tới đi phép, anh ghé
thăm.
Bữa ăn xong rất mau, anh Quý rót trà vào hai cái ly.
Vẫn
những chuyện người thân trong họ hàng hỏi đi, nói lại, mỗi lần vậy, hai
anh em
Thụy như cùng theo trí nhớ trở lại với quang cảnh đồng quê thật là tươi
sáng,
ấm áp. Nắng hè làm cho nỗi bâng khuâng
trong lòng anh trở thành một thứ màu sắc rất dịu dàng khi hòa vào cảnh
vật. Anh
có cảm giác ngửi được mùi đất, mùi gió, cặp mắt vui với đồng lúa trải
dài hai
bên, và cùng lúc nghe rào rạt tiếng nước
chảy dưới bờ kênh. Dọc bờ kênh, thỉnh thỏang anh gặp những chiếc xe đạp
nước.
Có xe còn trống không. Có xe hai người
đang đạp nước dẫn vào ruộng.
Thụy đang hình
dung mình chạy xe trên con đường này, đến quê nội không xa lắm nhưng mà
quê ngọai thì xa đến gấp ba lần. Ngày trước, lúc gia
đình còn ở Đông Hà anh thường về thăm quê
ngọai
trong mỗi kỳ hè. Người hay đem anh về là me của Lăng. Khi về ( thường
vào lúc
buổi chiều tan chợ ) Lăng, Thụy, anh Nguyên đi theo dì ra bến đò. Bến
đò đông
vui, với nhiều chuyến chở khách hàng buôn xuôi ngược. Khi đò tách bến
ra giữa
dòng, mái chèo bắt đầu nhẹ lướt và rồi, mỗi lúc con đò trôi nhanh hơn.
Thị xã
mờ dần khi chúng tôi nhìn trở lại thấy bóng chiếc cầu bắc qua con sông
gần bến
chợ đã khuất dạng, và khi đến ngã ba sông là thấp thóang hình ảnh quen
thuộc
làng quê của mình.
Bãi Sa, quanh bến này có bãi đất trồng dưa nhưng
thưa
vắng nhà ở. Đò ghé bến nhưng không neo đậu, chỉ có mấy khách buôn và
chúng tôi
xuống. Mặt trời chiều vừa lặn. Từ đầu bến, chúng tôi đi theo con đường
đất rộng
dẫn vào làng khỏang chừng gần hai cây số. Con đường đi qua một ngôi
đình, khu
nghĩa địa có cây ngô đồng, và khi đến gặp trạm thông tin là tới nhà.
Ngôi nhà
của ông bà ngọai tôi nằm về phía đầu làng. Ngôi nhà lợp ngói xưa, xây
trên một
nền cao có nhiều bậc cấp bằng gạch, sân trước rộng có thể chơi đá bóng,
nhìn ra
con đường bên dưới là đồng ruộng, và xa chừng vài trăm thước là con
sông nhỏ
chảy qua làng, còn phía bên trái và đằng sau nhà là vườn tược rộng rãi
trồng
nhiều thư cây lưu niên, mỗi mùa, hoa trái sum suê. Bên trong nhà ở,
những lọai
bàn ghế, đồ vật xưa lưu giữ nay vẫn còn.
Quê ngọai Thụy giàu
và có nhiều họ hàng đỗ đạt, làm quan. Ông cố ngọai
anh đỗ Tiến Sĩ đời
Thành Thái. Bà cố anh người làng An Cư, là
em gái ông Nguyễn Văn
Tường. Sau đời ông cố đậu Tiến Sĩ, đến ông
bác ngọai
anh đậu Phó Bảng và ông ngọai anh đậu Cử Nhân, làm quan tri phủ Nga
Sơn, tỉnh
Thanh Hóa. Ông ngọai anh có hai bà vợ là hai chị em ruột và 5 người con. Các cậu, các dì em mẹ anh ai
cũng học hành, đỗ đạt, chỉ trừ mẹ anh chỉ biết đọc, biết viết. Khi các
cậu, các
dì rời khỏi làng quê đi học xa, mẹ anh ở nhà trong coi công việc ruộng
nương
cho ông bà ngọai . Mẹ anh ít học, nhưng giỏi buôn bán. Buổi chiều, là hình ảnh của người mẹ. Ngày xưa ấy, Thụy
trông thấy hình bóng mẹ mình trong chiếc áo dài nâu đang gánh hàng buôn
ở chợ
phiên trở về trên con đường đê. Chỉ qua hình ảnh đó, về sau này lớn lên, Thụy tin chắc rằng anh sẽ viết được
cho mình những câu văn chân thật.
Nhân duyên ba mẹ
anh me của Lăng là dì Quyên kể lại. Vì còn nặng tình thương mẹ nên ba
anh rời
khỏi chùa Huyền Vân, sau ba năm tu học tại đó về lại
đời. Ba anh có được bằng Tiểu học, khi
lớn tuổi xin đi dạy. Trường ba anh dạy
đầu tiên là Gia Độ. Đây là ngôi trường làng có đủ 5 lớp. Làng Gia Độ
đông dân,
rộng gần bằng một quận. Xuân Thành, quê
mẹ anh ở phía dưới cách xa đấy chừng bốn cây số. Từ vùng ngoài này đi
vào quê
nội anh rất xa, mỗi năm dịp Tết hay hè ba anh mới về thăm gia đình. Còn
độc
thân, ba anh sống chung với các bạn đồng
nghiệp ở một căn nhà thuê gần trường. Ngôi trường nằm ven sông, quanh
đó có một
đồn lính gác giữ an ninh.
Bác Hai anh và ông Xuân người chú họ của mẹ anh là
anh em
cột chèo. Qua tình thông gia, ba anh thường ghé thăm ông Xuân, nhiều
lúc ở lại
chơi cờ tướng hoặc vui vài hội tài bàn. Ông Xuân thấy ba anh người lanh
lợi,
họat bát, nên giới thiệu với ông bà ngọai anh. Ngày trước cũng như sau
này,
nhân duyên vợ chồng thường là có mai mối, quen biết.
Khi ba mẹ anh lấy nhau, ông bà ngọai anh cho một
chút của
cải và một khoảnh đất rộng bên vườn để làm nhà. Ông ngọai rất thương
con gái
đầu là mẹ anh. Ông ngọai cũng rất quí ba anh. Khi mẹ sinh anh Nguyên đầu lòng, hết cả nhà cưng chiều. Lúc bấy giờ,
đang làm tri phủ Nga Sơn được hay tin ông
gởi thư về bảo mẹ anh mang cháu ra thăm. Vậy là mẹ
anh được đi một
chuyến xe lửa từ Đông Hà ra Thanh Hóa ở chơi mấy tuần sau đó đi Hà Nội.
Khi trở về tìm lại, nhớ lại những ngày tháng của
tuổi
thơ, Thụy nhớ đến mẹ và quê ngọai nhiều hơn hết. Thụy và anh Nguyên
sinh ra ở
nơi đó. Ngày xa xưa, tôi có được tình cảm bao dung của mẹ và nỗi mừng
vui hơn
hết trong tôi là mỗi buổi chiều ra đứng trước ngõ cổng nhìn về phía con
đê
trông đợi bóng dáng mẹ về. Và, đúng vào
lúc mặt trời sắp lặn là hình ảnh mẹ tôi xuất hiện. Ngày nào cũng vậy,
đi chợ
buổi sáng sớm, buôn hàng rồi lên thị xã mua hàng đến chiều về, dưới rổ
mẹ tôi
bao giờ cũng có hàng quà cho anh em tôi và mấy cháu. Những xâu bánh
vòng, bánh
ram, kẹo đậu, kẹo gừng đó là những thứ quà chúng tôi được mẹ phân phát.
Bây giờ
đây với bóng dáng thân thuộc của làng quê, tôi có cảm tưởng đang làm
một bài
luận văn với những kỷ niệm về gia đình tôi đang chất đầy lên tâm trí.
Chiếc xe đạp mang hình bóng của tôi cứ chạy đều tốc
độ.
Rồi, quê nội dần dần hiện rõ. Tôi sắp sửa về tới rồi, chỉ còn hơn một
cây
số nữa thôi. Có tiếng động xa gần của
những chiếc xe lam, xe gắn máy chạy. Những người đàn bà, những cô gái
buôn hàng
hay đi chợ mới về họ kéo nhau từng tốp,
và trên đường lúc gặp là vang tiếng ồn ào chào hỏi.
Tôi nghe được những
câu chuyện họ nói khi đạp xe vượt
qua.
Tới trạm cưa bên ngã tư, tôi rẽ trái. Nếu đi thẳng,
từ
nơi này đến biển còn cách xa khỏang bảy cây số.
Làng Đông Nghi nằm kế làng tôi, chỉ cách nhau chiếc
cầu
bắc qua con suối cạn. Tôi vào con đường có bóng im trải dài. Khu chợ nằm đối diện với ngôi trường tiểu học. Tôi
ngửi được mùi vị cát quen thuộc của chính làng quê mình. Tới chiếc cầu
nhỏ,
nước dưới con mương chảy róc rách. Căn nhà bà nội tôi lợp ngói, phía
trước là sân
gạch, gần lối cổng vào có giếng nước. Quê tôi là vùng cát, giếng chỉ
đào độ
chừng hai thước là có nước dùng. Tôi bỗng cảm thấy trong sự mừng vui
thầm lặng,
có bóng dáng người yêu đang bước đi bên mình, hay ở một nơi xa nhớ đến
mình.
Nơi đây, xa rất xa.
Nơi đây, tôi thoáng nghĩ đến mình vào những ngày đầu tiên đặt chân đến
Đà Lạt.
Ngày đầu tiên ấy là một ngày mưa, một ngày buồn lặng khi tôi đứng ở bến
xe lam
nhìn những cơn mưa chìm nổi trong bầu trời sương mù bao phủ kín hết các
ngọn
đồi.
Hôm ấy, Thụy đến thăm anh Quý, ngồi được hai tiếng
đồng
hồ rồi đứng dậy từ giã.
Năm ấy, Thụy chưa hề gặp Liên An. Năm ấy, nếu
trong lòng Thụy có hình ảnh Liên An, thì bao nhiêu nhung nhớ sẽ nhắc nhở anh luôn viết
thư cho nàng.
XVI
Chỉ còn một tuần lễ nữa là Tết. Sau mùa đông giá
lạnh và
mưa kéo dài suốt tháng, thời tiết đã trở lại với những ngày ráo khô và
tràn
ngập nắng. Trong lúc này, Nguyên rất là bận rộn. Buổi sáng, ngày nào
anh cũng
có hướng dẫn các đoàn thể trong tổ chức tôn giáo, từ thiện , sinh viên
học sinh
đi thăm binh lính ngoài tiền đồn, đến chiều lại đưa họ trở về thành phố
và đến
quân y viện thăm và ủy lạo các thương bệnh binh. Nơi tiền đồn hay hậu
phương,
lính tráng, thương binh đều được các đoàn thể tặng quà và tiền để trong
phong
bì thư.
Khoảng tám giờ đêm từ đơn vị Nguyên lái xe về, ghé
nhà
hỏi thăm sức khỏe của mẹ, chuyện học hành mấy em, sau đó anh đi qua nhà
người
yêu. Khi thấy Nguyên về, mọi việc riêng tư, kể cả chuyện học Vân Oanh
đều ngừng
ngay lúc đó. Và, niềm vui cho thấy, trên đôi mắt hai người luôn sáng
dịu một nụ
cười như thể đó là mấy nét bút phác họa đầu tiên trên bức tranh vẽ.
Dưới ánh đèn ấm cúng trong căn phòng riêng, hai
người trò
chuyện, nay thì đâu còn những phút ngập ngừng để nói ra ít lời tỏ tình
thương
yêu, cuộc sống tự nhiên hơn, và câu chuyện chỉ là những sinh hoạt
thường ngày.
Nguyên luôn thích kể chuyện về đơn vị, về những người lính, và thành
tích của
Trung đoàn vừa mới gặt hái được, trong đó bao giờ cũng có sự góp công
của
anh. Vân Oanh rất là vui, nàng cũng
thích những chuyện kể ấy, chân thực, sống động, đầy tình người.
Ngồi không lâu, hai người rời nhà. Những ngày hè,
những
ngày thu , đôi tình nhân đi dạo chơi, trời có trăng, kỷ niệm lãng mạn
để ghi
nhớ là một hình bóng chung đôi đang khua
nhẹ tiếng bước chân trên những con đường của thành phố nằm ven theo
dòng sông.
Những ngày mùa đông, giá lạnh như đêm
nay, hai người đi bộ bên nhau, chuyện trò thích thú, hơi lửa ấm nằm
trong tiếng
nói, chiếu sáng từ nụ cười, họ tìm đến những quán cà phê ít khách,
nhưng cũng
hay có nhiều đêm bỏ trống cuộc tự tình lang thang giữa đường phố vắng,
Nguyên
lái xe đưa người yêu đi ra các vùng
ngoại ô hẻo lánh tìm một quán ăn khuya rất bình dân, nhưng thật ngon.
Ăn xong,
còn trò chuyện khá lâu mới lên xe trở về, đến nhà, hai người vẫn chưa
thể rời
nhau, và Nguyên luôn luôn dành cho người yêu những nụ hôn âu yếm trước
khi nàng
đi ngủ. Một mình trong đêm, từ thành phố
Nguyên lái xe vượt qua những con đường chạy dài theo cánh đồng, theo
triền núi
để trở lại đơn vị.
Huế cũng đang tổ chức lễ hội chào đón mừng Xuân mới
tại
hai nơi, khu Morin và khu Đại Nội. Ở hai nơi này, ban văn hóa tỉnh sẽ
có tổ
chức nhiều đêm ca nhạc tân cổ và hai cuộc triễn lãm về nghệ thuật. Khu Đại Nội, phòng triển lãm trưng bày những
ấn tích cổ xưa của các đời chúa, đời vua
triều nhà Nguyễn. Khu Morin, dành cho hội họa, đó là
những tranh sáng
tác của nhiều họa sĩ trong thành phố và
sinh viên trường Mỹ Thuật. Vân Oanh hoàn
tất được bốn bức sơn dầu và lụa rất ấn tượng, nàng sẽ dành bốn bức này
tham dự
cuộc triển lãm. Khởi từ đầu tháng chạp
và chấm dứt tuần rồi, những tranh thiệp của Vân Oanh vẽ cho mùa Giáng
Sinh và
lễ Tết bán rất chạy ở các hiệu sách, và nàng đã thu được một số tiền
rất khá.
Đây, đúng là món tiền đầu tiên tưởng
thưởng cho công trình nghệ thuật của nàng. Ít ngày nữa, với số tiền này
Vân
Oanh sẽ đi mua sắm quà Tết, cho Nguyên, gia đình Nguyên và gia đình
mình. Vân
Oanh sẽ vào Đà Nẳng sáng ngày ba mươi. Trưa 28 , nàng buổi dự liên hoan
ở
lớp, đến chiều Nguyên sẽ đón nàng đưa
lên Trung đoàn tham dự một tiệc tất niên với các gia đình anh em binh
sĩ. Sau
Tết, Nguyên sẽ vào Đà Nẳng thăm Oanh và chúc Tết ba mẹ nàng cùng mấy cô
em
trong gia đình. Chắc chắn, Nguyên ở lại bên Oanh một ngày để chơi xuân
và thăm
bạn bè.
Những ngày còn lại đến trường lớp, học sinh, sinh
viên
không học hành nhiều. Ai cũng vui, chờ Tết. Và, nắng xuân đã làm cho
cuộc sống
manh nha, nẩy mầm. Lớp của Oanh hai giờ đầu có vẻ nghiêm túc, sau đó
trở nên
hoạt náo, cả đám đùa giỡn, phá phách, rồi kéo nhau ra quán cà phê ông
Tôn bên
ngoài cổng Thọ Nhơn, vào đây, cả đám cũng quậy phá , làm ồn ào, nhưng
thực sự
vui.
Oanh ngồi bình thản với ly cà phê , nàng rất cảm
thấy
vui, dễ chịu trước cảnh vui nhộn của các bạn cùng lớp.
Có một người từ bàn bên kia, đứng dậy, giọng chững
chạc
nói:
-Chúng
ta hãy đề nghị với các
thầy cùng ban Giám đốc trường xin dành
riêng một cuộc triễn lãm cho Vân Oanh.
-Đồng ý.
Nhiều bạn vừa đáp lời, vừa đứng dậy hoan hô, tay anh nào cầm ly cà phê đưa lên cao. Rồi một
lát sau, một bạn ngồi chung bàn với Oanh, nói:
-Năm
tới nữa tốt nghiệp, Oanh
ra trường rời xa Huế, ngôi trường này, thành phố này không còn bóng
dáng của
Oanh nữa.
Cô gái chỉ mím môi cười. Với một cử chỉ đó thôi mà
nàng
làm cả bọn ngẩn ngơ nhìn ngắm. Giọng người kia, lại tiếp:
-Rồi
những năm sau, ngôi
trường này, kỷ niệm đáng ghi nhớ là hình ảnh Vân Oanh thôi. Vâng, không còn một bóng hồng nào thay thế nữa.
Lập tức, Oanh lên tiếng:
-Bộ
sinh viên học vẽ không có
con gái sao ?
Câu chuyện ồn lên, người bàn bên kia nói:
-Đồng ý
là sẽ có, nhưng chỉ
một Dương Quý Phi là Vân Oanh, là của trường Mỹ Thuật thôi. Không, sẽ
không còn
một ai, mà nếu có, cũng không một ai thay thế được nàng tiên Vân Oanh
hết. Vân
Oanh xa Huế, rồi thành phố này cũng sẽ buồn vì thiếu vắng người đẹp,
thiếu vắng
bóng thiên thần.
-Thôi
đi , đừng có ca cải
lương nữa.
Oanh cố chống chế, nhưng nàng cười, lòng cũng rất
vui. Cả
bọn lại ồn lên, ngay lúc ấy, anh chàng vừa đưa ra những lời tán tụng,
bỗng bắt
chước giọng người miền Nam cất lên một bài hát cải lương . Dứt bài hát,
Oanh
cùng các bạn vỗ tay tán thưởng thật giòn giã.
Trưa hôm nay, sau buổi học về Oanh ghé vào chợ Đông
Ba
mua thức ăn. Khi nàng đi ngang các gian hàng chợ, ai cũng chú ý, cười
vui nói
ra lời ngợi khen sắc đẹp của nàng. Họ không thể biết, nàng đã có người
yêu.
Nhưng với khuôn mặt trái soan, mái tóc trên vai áo như một khúc sông
hiền hòa,
nàng đã thể hiện những nét đặc sắc của một thiếu nữ, mà các cô gái ở
thành phố
này hầu như xa lạ hẳn. Vân Oanh không chỉ có năng khiếu về họa, mà đan
áo, nấu
ăn cũng là sở trường của nàng. Vân Oanh rất rành nấu món mì Quảng, và
đó cũng
là món Nguyên rất thích. Nguyên thích ăn
món này, không phải để chiều ý người yêu, nhưng đó là món bình dân anh
ăn rất
ngon hơn cả phở và bún nữa.
Cách đây đúng một năm, cây cầu Mới khánh thành.
Chiếc xà
lan qua sông Hương, dấu tích của chiến tranh đã dẹp cất. Tuy nhiên,
công trình
xây lại cầu Trường Tiền vẫn được xúc tiến, nhưng còn chờ , còn cần thời
gian để
thực hiện nguyên hình dạng như trong bản vẽ cũ.
Người phát thư xuất hiện đầu lối cổng vào, anh ta
xuống
xe đạp dắt bộ hướng về căn nhà cuối dãy. Vừa lúc ấy, Oanh tới nhà. Nàng
từ đằng
sau lên tiếng:
-Có thư
phải không anh ?
Người phát thư quay đầu lại, thấy nàng liền đáp lời:
-Dạ có.
Anh
ta cầm gói ấn phẩm và thư đưa liền cho Oanh. Nhìn anh ta, nàng nói:
-Cám ơn
anh nhiều.
-Dạ,
không có chi.
Oanh nhìn xuống tên người gởi nơi gói ấn phẩm, bỗng
ngạc
nhiên, vừa cảm thấy vui. Còn lá thư là
của Kim, bạn học cũ ở trường Mỹ Thuật.
-Cám ơn
anh nhiều lắm.
-Không
có gì đâu cô, ngày nào cũng đi đưa thư mà.
-Dạ,
chào anh.
Người phát thư ra cổng rồi lên xe đạp đi về hướng
cây
cầu.
Oanh dựng xe đạp dưới bóng im cây trứng gà bên hông
nhà,
nàng quay trở bước, rồi đi lên bậc thềm, dừng lại một chút
tra chìa khóa mở cửa. Vào nhà trong, Oanh để
ấn phẩm và thư ở bàn khách còn túi thức ăn thì đem vào nhà trong đưa
xuống bếp
đặt lên mặt bàn có để rổ chén bát.
Oanh thay quần áo nhẹ màu cam xong trở lên nhà. Nàng
ngồi
xuống phòng khách, mở thư cô bạn ra đọc
trước. Kim và gia đình đang ở Sài Gòn. Sài Gòn quá ồn ào, Kim rất là
nhớ
Huế. Rồi, qua những lời tâm sự, Kim nói
tới người bạn trai là Trình một Sinh viên Luật đang theo đuổi nàng.
Nàng chưa
quyết định, nhưng đã có những lúc phân vân, bối rối. Thư Kim
viết hai trang giấy pelure, đọc xong Oanh
gấp lại. Thong thả, Oanh cẩn thận mở gói ấn phẩm , nàng cũng đang nghĩ
nhiều
đến người em của Nguyên.
Số tiền nhuận bút 700 đồng và thêm hai tờ báo Xuân
Tòa
soạn gởi Thụy đã nhận được qua thư bảo đảm. Thụy nghĩ ngay lúc ấy đến
hai người
mình sẽ tặng quà là Ninh Hà và Vân Oanh. Đây cũng là dịp, Thụy tìm ra
được một
số ý để viết vào lá thư gởi cho người bạn gái của anh mình.
Còn đến ba tuần lễ nữa mới Tết Nguyên Đán. Năm nay,
kẹt
trong thời gian còn khóa học nên Thụy cùng các bạn đang học phải đón
Tết ở quân
trường. Nhưng dù vậy, việc tổ chức Tết dành cho tân binh, khóa sinh,
SVSQ cũng
sẽ được vị Chỉ huy trưởng lưu tâm. Vào tuần lễ rồi, bên đoàn SVSQ có
hai mươi
người được gọi về Bộ Tư Lệnh để làm thủ
tục xuất ngoại. Tối hôm ấy, ở hội quán Câu lạc bộ Sinh viên rất ồn ào,
náo
nhiệt. Thành, một bạn học cùng lớp với Thụy đang ở đây, chờ ngày đi Mỹ.
Buổi chiều, đến năm giờ lớp học tan, Thụy ghé phạn
xá ăn
cơm xong liền trở về phòng nghỉ. Ngày
nào, Thụy cũng có lấy cơm không để ăn thêm buổi tối vì anh rất mau đói.
Khi đến
kỳ lãnh lương, anh hay mua một ít kẹo bánh, đồ khô, và cơ bản là một
chai nước
tương để ăn với cơm. Ở phạn xá, thức ăn ít, nhưng cơm nấu nhiều, dư dả,
thường
chỉ có Thụy và vài ba khóa sinh hay lấy thêm mang về ăn tối. Đây là cơm
loại
gạo hạt tròn có bỏ thuốc vitamin nên ăn
ngon, nhờ vậy, Thụy rất là khỏe.
Sau khi cất sách vở, cà men cơm ở trên giá chỗ
giường
nằm, Thụy trở ra ngoài sân, làm một vòng
đi bộ cho dễ tiêu cơm, vừa một hình thức
đi thể dục. Hôm nay là thứ sáu, ngày mai cuối tuần được phép ra phố. Đó
là
nguyên tắc, kỷ luật quân trường, chứ thực ra bọn anh coi như là lính cơ
hữu,
sau giờ làm việc ra vào cổng lúc nào cũng được. Ở trạm gác trong, SVSQ
chỉ chú
ý đến các khóa trong đoàn Sinh viên, không mấy ai quan tâm về khóa sinh
và cũng
chẳng khi nào gây khó dễ. Ở cổng gác
ngoài cũng vậy, lính gác đều biết rõ lớp của Thụy là khóa sinh. Tối
nào, trong
đám bọn anh cũng có người đi, nhất là vào mùa trăng, ra biển ngồi ngắm
cảnh
sóng nước, núi non cũng thích thú, lãng mạn. Nói chung, đám binh sĩ như
anh,
người nào cũng có bằng Thành Chung, cũng học đến chương trình Tú Tài,
thi không
đậu đạt thôi, chứ kiến thức so với SVSQ không quá chênh lệch.
Khoảng tám giờ tối, Thụy lên phòng đọc sách báo ngồi
viết
thư. Đúng là với món quà tặng là tờ báo Xuân giúp anh
dễ dàng viết nên được lá thư tự nhiên để gởi
cho chị Vân Oanh. Thụy nghe rõ trong lòng mình, gọi Vân Oanh bằng chị
thật là
chân tình, quyến luyến. Mới lúc đầu, Thụy có sự đắn đo, nhưng nghĩ nàng
là bạn
gái anh mình, anh xin gọi là chị, vừa tiện, vừa thân. Thụy viết khá
nhanh, dồi
dào ý, xong lá thư một cách thật nhẹ nhàng. Thụy muốn viết thư viết cho Ninh Hà vào những ngày sau, có thể
là gần Tết, lúc đó kể cho nàng nghe những vui buồn của anh trong thời
gian ăn
Tết ở một nơi xa. Ninh Hà , tên nàng có lúc nhớ, Thụy bỗng gọi tên Nha
Trang là
thành phố dấu yêu của anh và nàng. Còn Vân Oanh, trong cái tên ấy, Thụy
đang
mong tìm kiếm một xứ sở, một thành phố làm thủ đô, và thành phố ấy nằm trong trái tim hồng đỏ của xứ sở nước
Nga, nơi đất nước ấy, anh mến yêu biết bao chừng khi nhớ nghĩ đến nhà
văn
Antoine Tchékhov, và ông, cũng như bây giờ có cả Vân Oanh nữa cho anh
cả một
giấc mơ trên những cánh đồng cỏ, những khu vườn anh đào, và những mùa
chim hải
âu thiên di. Xong một buổi tối, Thụy ôm tập giấy đứng lên, rời phòng
đọc sách.
Khi về đến phòng, có cuộc đấu cờ tướng của hai bạn
cao
thủ, cả hai đánh rất hay, đông anh em xúm xít đứng coi, Thụy cũng ghé mắt vào, được thấy mỗi con cờ có những
nước đi thật sắc sảo, thông minh.
Về đêm, đến giờ kẻng báo ngủ Thụy lên giường nằm yên
lặng. Một lúc, trời có mưa. Thụy kéo tấm chăn đắp lên ngực nằm nghe
mưa. Trong
cơn mưa, anh vừa hình dung và nghe ra được những tiếng nói thân thiết,
cảm
động. Ở Nha Trang, tuy cũng đang thời tiết của mùa đông nhưng không có
những
ngày lạnh giá, và trời mưa dai dẳng như là ở miền Trung phía Bắc, nhất
là ở Huế
và Quảng Trị quê của anh.
Ngày hôm sau, Thụy chưng bộ quần áo vàng đi phố.
Không có
lon lá đeo lên cầu vai, nhưng bộ quần áo vải kaki trông đẹp, khỏe mạnh,
và đội
chiếc nón cát kết xanh dây viền đen, nhận thấy mình trẻ hẳn ra, nào
thua kém
ai. Rồi đây, Thụy lấy xong bằng Tú Tài đôi, đi SVSQ kỹ thuật, rồi tìm ra một em xinh đẹp ở thành phố này, đấy
là nguồn vui, phải không bạn.
Trên đường phố chính hẳn còn vắng, một số cửa hiệu
buôn
bán chưa mở cửa. Thụy ghé vào tiệm ăn sáng làm một tô phở lớn, rồi ly
cà phê
sữa. Ngồi trong quán, sau bữa ăn, Thụy đốt thuốc hút, nhấm nháp từng
hớp cà
phê, mắt vừa nhìn ra đường, còn tâm trí cố thể hiện một nhận thức về
cuộc sống,
Thụy thấy rằng, mình được như thế này là đủ. Tôi sẽ ở lính Không quân
đến khi
đất nước thanh bình, thống nhất, rồi được giải ngũ. Tôi sẽ viết văn, và
tin
rằng ngòi bút mình ngày càng vững vàng, và tôi sẽ viết khá, sẽ trở
thành nhà
văn, và sẽ lần lượt cho in nhiều tác phẩm truyện dài, truyện ngắn, rồi
sẽ nổi
tiếng, độc giả hoan nghênh, rồi sẽ hái
được nhiều tiền nhờ vào những cuốn sách in ra bán được. Nhưng mà thôi,
hãy để
bao nhiêu giấc mộng ấy qua mau, và nãy giờ, cứ miên man vậy mà tôi
không ước mơ
chuyện mình sẽ lấy vợ. Đó là vì, tuổi tôi còn trẻ, tôi vẫn phải sống
thật lãng
mạn để viết văn.
Một giờ sau, khu phố chính thức dậy, ồn ào với người
và
xe cộ đi qua lại trên vỉa hè, trên mặt đường, rồi đâu vào đấy, mọi thứ
sẽ bắt
đầu theo sinh hoạt thường lệ rất sống động vào hai ngày cuối tuần. Các
cửa hiệu
buôn bán đã mở cửa. Rạp hát chính cũng khởi sự buổi chiếu phim đầu ngày.
Thụy trả tiền tô phở, ly cà phê sữa, mua thêm gói
thuốc
xong rời quán. Từ quán ăn, anh đi bộ tới hiệu sách xa chừng lối trăm
mét. Vào
trong cửa hiệu, anh tìm mua ngay mấy tờ báo Xuân, ảnh chụp thắng cảnh,
và một
tờ giấy màu để gói, một bao thư lớn để gởi, xong trở ra quầy tính tiền.
Hôm nay thứ bảy, nhà Bưu điện mở cửa đến ba giờ
chiều.
Khi tới đó, Thụy qua chỗ bục đá có sẵn bàn dành cho khách cần viết thư.
Thụy
chiếm lấy một ô, rồi bắt đầu gói quà tặng xong bỏ vào bao thư lớn màu
vàng. Chỉ
mất thời gian nửa tiếng là xong, sau đó, anh đứng sắp hàng chờ đến
phiên.
Từ nãy giờ, Vân Oanh im lặng với những cảm giác của
nàng
như hương sắc trong cây lá mùa xuân được chan hòa, cất giấu. Nàng coi
đây là
những giây phút hạnh phúc quí giá, và để nhớ tới người em của Nguyên
nàng muốn
có thời gian lúc này, từng thứ một trong gói quà như thể là tiếng nói,
khuôn
mặt người đó đang ở bên nàng.
Báo Xuân in rất đẹp, nhiều phụ bản. Mỗi tờ cầm trên
tay,
Oanh lật nhẹ từng trang, đọc qua tựa bài, tên tác giả, và luôn luôn
nàng gật
đầu cho rằng em của Nguyên đã chọn mua những tờ báo có bài vở rất hay,
gây
thích thú người đọc. Tờ báo Xuân sau hết là Tiểu Thuyết Thứ Năm. Vừa mở
ra,
thấy có chữ Kính biếu son đỏ, Oanh đoán biết ngay là có truyện của Thụy viết đăng trong số báo này. Nàng vội lật qua
trang, đọc phần mục lục, và khi tìm thấy có tên của Thụy lòng nàng hết
sức vui.
Lập tức, Oanh tìm ngay đến trang có đăng truyện, thấy dòng chữ in, thấy
tên tác
giả và bên cạnh truyện có tranh vẽ, nàng thật hãnh diện muốn nhắn gởi
niềm vui
chia sẻ với em của Nguyên.
Thật chăm chú, Oanh đọc. Nàng không bỏ sót một câu,
một
dòng. Và sau khi đọc xong, lòng Oanh cảm thấy rất vui.
Nàng vẫn ngồi đó xem những bức ảnh thắng cảnh
ở Nha Trang, những bức ảnh màu có nền vàng và xanh biển rất là đẹp.
Sau cùng, Oanh mở lá thư
của Thụy.
Chị Vân Oanh thân mến,
Nhân dịp đón Xuân về, Thụy gởi tặng chị món quà Tết
và
cùng với lá thư này viết ít lời gởi thăm sức khỏe chị cùng gia đình hai
bác.
Thụy đang ở Nha Trang, học lớp chuyên môn ngành điều
không, còn chừng hơn tháng nữa là mãn khóa học, sau đó về đơn vị ở Sài
Gòn làm
việc như trước kia.
Như mấy năm trước, Thụy vẫn ăn Tết xa nhà, nhưng bao
giờ
mỗi cái Tết cũng làm mình nhớ đến những người thân rất nhiều, năm nay
trong
những người thân quen thuộc ấy, có thêm hình ảnh của chị nữa.
Những tờ báo Xuân gởi chị làm quà Tết, trong đó có
một
truyện ngắn của Thụy được đăng ở tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Năm. Khi viết
xong
truyện gởi đi, Thụy cũng chỉ mong đăng số báo thường thôi là vui rồi,
đâu ngờ
được tòa soạn chọn vào số báo Xuân. Một mầm non văn nghệ mới tập tễnh
viết, mà
truyện được lên báo Xuân thì le lắm chị Vân Oanh ạ. Không chỉ cho đăng
thôi,
Tòa soạn còn gởi một mandat tiền nhuận bút thật hậu hĩnh, 700 đồng,
bằng một
phần ba tháng lương lính của Thụy đó.
Rất hy vọng món quà Tết với ít tờ báo Xuân và ảnh
thắng
cảnh làm chị vui, và rồi thế nào cũng có một ngày về phép thăm nhà,
Thụy sẽ
được gặp chị. Vào ngày hôm đó, nhận được thư anh Nguyên, anh có nhờ
Thụy mua
cuốn sách Tìm hiểu hội họa của tác giả Đoàn Thêm gời cho chị, Thụy đã
tìm mua
được, nhưng không gởi ngay từ Sài gòn mà phải ra Nha Trang vì ngày đi
học đã
cận kề , với lại có địa chỉ Nha Trang, nếu chị đáp thư cho biết tin
nhận được
thấy an tâm hơn, phòng thêm nữa, bưu kiện có bị trả lại mình vẫn nhận
được.
Thật là rất vui, cảm động khi đọc thư của chị. Những
chuyện nho nhỏ trong gia đình, trong cuộc sống,
chị kể lại cho nghe qua thư thật là thân tình, và
rất ghi nhớ. Buổi tối
ấy, anh Nguyên gặp chị ở quán cà phê, rồi quen nhau khi về đến nhà, đó
là một
mối tình thật dễ thương và đẹp. Rồi hai người hiểu nhau, anh Nguyên đã
vào Đà
Nẵng thăm chị và gia đình hai bác, rồi ít ngày sau, hai người cùng lên
một
chuyến tàu trở raHuế cho kịp mùa học, rồi cũng có một hôm,
anh Nguyên và chị rất là vui vẻ với chuyến đi
ra Quảng Trị, Đông Hà để thăm hai làng quê nội và ngoại của anh. Một
chuyến đi
như vậy thực là cả một tấm lòng, hạnh phúc dành cho chị , mang đến cho
chị là
nguồn cảm hứng về quê hương, và chị đã sáng tác được những bức tranh
quí giá,
còn về Thụy thì những
hình ảnh làng quê cũ được sống lại
trong một nỗi nhớ quá dịu dàng, thật thân thiết, qua những dòng thư rất chân tình chị đã viết và gởi cho đọc.
Rất mong đến kỳ hè năm tới đây, Thụy lại được hưởng
kỳ
nghỉ phép thường niên, lúc ấy, thu xếp một chuyến đi về Huế thăm nhà để gặp chị ở thành phố này, và nếu chị về nghỉ
hè ở Đà Nẵng, Thụy cũng sẽ đi theo anh Nguyên hoặc một mình vào đó thăm
chị. Ở
Đà Nẵng, mấy năm trước, Thụy có ở trọ nhà dì Vân và học ở trường Sao
Mai. Năm
học đó, Thụy cũng có quen một người bạn gái khá thân, giờ thì nàng vẫn
ở nơi
chốn cũ ấy, nhưng đã có chồng con rồi.
Chắc chị Vân Oanh còn đợi thêm một năm cuối nữa sẽ
ra
trường, phải không. Sau này, tốt nghiệp chị sẽ chuyên sáng tác để triển
lãm
tranh, hay ra trường chị sẽ chọn làm cô giáo dạy môn Vẽ. Chà, cô giáo
Vân Oanh
với bóng dáng chiếc áo dài mà đứng trên bục gỗ ở lớp, thì đã là bức
tranh thể
hiện cuộc sống thực ngoài đời, đâu còn tưởng tượng ra gì thêm những nét
vẽ khác
nữa, phải không ?
Rất là mến chị, dù chưa gặp. Và, một ngày nào đó qua
hình
ảnh cô giáo, bỗng dưng với cả tấm lòng mến yêu, anh Nguyên hay là Thụy
sẽ đem
được chị tới một nơi nghèo khó, và chị sẽ ờ
nơi chốn này với tất cả những tháng năm trong cuộc
đời làm cô giáo của
mình.
Đó là một ngôi trường ở tỉnh Quảng
trị. Hình dung lại thành phố nhỏ ngày
xưa, có một ngôi trường anh Nguyên, Lăng và Thụy đã học, và hình dung
vào ngày
đầu thu chị Vân Oanh xuất hiện làm cô giáo của trường, chừng bao nhiêu sự cảm nhận ấy kết hợp lại, mãi mãi thành phố
Quảng Trị sẽ là quê hương yêu dấu , và sẽ thuộc về tất cả chúng ta.
Sự đi thăm một lần đầu của chị ra thành phố Quảng
Trị, ra
thị trấn Đông Hà, với anh Nguyên, với
khung cảng làng quê nội, quê ngoại có
phải đó là một hạnh phúc được báo trước
và chúng ta đang đợi chờ không nhỉ. Với Thụy, thì chị Vân Oanh người
mẫu, là
khung trời xanh, lúc nào cũng trải rộng cuộc sống của mình khắp nơi
trong thiên
nhiên, và rồi, đời của chị là ký ức một thành phố nằm bên những con
sông êm đềm
. Ở Quảng Trị có nhiều con sông và hai cửa biển. Rồi đây, có một ngày
đưa chị
đến dạy học ở nơi này, sông và biển, cả hai đều thủy chung một tấm lòng
đối với
chị.
Cám ơn nhiều lắm lá thư của chị gởi cho Thụy đọc. Không biết, thư và bưu kiện gởi quà cho chị
sẽ đến với vào dịp trước Tết hay là sau đó.
Trước hay sau, đối với Thụy, từ đây luôn giữ lâu hình ảnh chị trong tâm trí để mong có một
ngày về thăm gia đình và được gặp chị.
Nhớ đến
anh chị rất nhiều khi
ở xa,
Thụy.
Mãi đến quá trưa, Vân Oanh vẫn ngồi một mình rất lâu
ở
phòng khách, sau khi đọc xong lá thư.
Phần
Thứ Hai
I
Khi chuyến xe ca rời khỏi trạm một lúc khá lâu, Thụy
mới
đi ra lối cổng đón xe buýt về nhà. Buổi sáng nắng lên cao, và lúc nhìn
cảnh
sinh hoạt vào giờ này trong thành phố, bạn luôn có cảm tưởng như mình từ đâu xa vừa mới trở về. Về lại Sài Gòn
sau mấy tháng ra Nha Trang học, nay Thụy
mới thực sự ổn định về công việc, về một
đơn vị có tính cách lâu dài, và anh cũng
sẽ không còn vướng bận thêm chuyện gì nữa. Vào hôm thứ sáu
trình diện ở Bộ Tư Lệnh, sau
khi bốc thăm, Thụy trúng tỉnh Cần Thơ,
nhưng ước muốn được gần Sài Gòn nên Thụy đổi chỗ Biên
Hòa với Sang, cả hai bạn cùng đồng ý
không mặc cả hay bù trừ thêm một khoản nhỏ nào hết. Sang xuống Cần Thơ
là được
ở gần gia đình, còn Thụy, lên Biên Hòa, nơi này chỉ cách Sài Gòn 30 cây
số, đi
về trong ngày hay trong tuần thực dễ dàng.
Lăng vừa mới thi đậu vào trường Hành chánh, ban Cao
học.
Trước kỳ nhập học, Lăng về Huế thăm gia đình, bà dì Quyên me Lăng vẫn ở
căn nhà
trên đường Phan đình Phùng trông xuống bờ sông. Căn nhà này có vẻ bình
dị,
nhưng mát mẻ, sân trước khá rộng để có thể đặt một bàn bóng bàn hoặc
chơi vũ
cầu. Cũng còn hai năm nữa, dì Quyên đến tuổi nghỉ hưu. Hồi nhớ lại bao
nhiêu
năm tháng cũ, hình ảnh dì một góa phụ còn trẻ đã để lại trong tâm trí
những đứa
cháu gần gũi như Thụy và anh Nguyên cả
một tấm lòng nhân hậu với nhiều kỷ niệm rất là nhớ, thương yêu. Một năm
đó, về
quê ngoại không đi đò dọc mà bằng đường bộ, dì Quyên dắt Lăng và hai
đứa cháu
là anh Nguyên và Thụy vượt cạn qua một con sông khá rộng. Thụy cũng còn
nhớ
nữa, những năm đầu ở lớp tiểu học, anh lắng tai nghe tiếng dì đọc bài
tập đọc
để viết chính tả, và mỗi bài tập làm văn anh được dì hướng dẫn cho cách
đặt
câu. Mẹ anh và người dì, tính tình khác nhau, học vấn cách biệt nhau,
nhưng hai
chị em rất thương nhau và ngoài đó, lui tới cũng chỉ còn hai chị em. Ở
xa, các
cậu và các dì em do công việc làm, do sinh kế, đã lâu rồi chưa có dịp
trở về
Quảng Trị để thăm làng quê.
Bây giờ đây, có thể nói dì Quyên đã nhẹ gánh. Trinh
tốt
nghiệp Sư phạm Qui Nhơn ra trường, dạy học được hai năm. Kim vừa thi
đậu Tú Tài
II, còn Lăng cũng đã xong Cử nhân Luật. Sau hai năm bên ban Cao học
hành chánh,
ra trường Lăng sẽ có chức vụ từ Trưởng ty trở lên. Vài hôm trước khi về
Huế,
Lăng tâm tình với Thụy là ít năm nữa ổn định việc làm Lăng sẽ đưa cả
gia đình
vào Nam xuống miền Tây định cư. Thụy hết sức đồng ý với dự định của
Lăng. Thụy
cũng rất yêu thích miền Nam, anh cảm nhận nơi quê hương này luôn có sự
bao dung
đối với những người tha phương, lưu lạc và ước mong họ lập nghiệp với
cuộc sống
yên bình. Tuy nhiên, không chắc lắm dì
Quyên muốn xa khung cảnh trầm lặng ở Huế, nhất là đi quá xa Quảng Trị,
quê
hương ruột thịt của đời mình.
Mười giờ sáng rời Sài Gòn, sau gần hai giờ bay phi
cơ hạ
cánh xuống Phú Bài. Từ phi trường, luôn có nhiều chuyến xe ca đưa khách
về
thành phố.
Mùa hè đã tới, Huế lại rộn ràng trong không khí giữa
mùa
thi. Thụy chợt nhớ Liên An, nhớ một đôi nét tin yêu trên gương mặt của
nàng.
Trong buổi chiều ấy từ biệt, đứng ở bậc thềm sân nhà ga anh nhìn theo
bóng dáng
một cô gái áo trắng trên đường về nhà. Và ý tưởng ấy, từ một thành phố
không
cần đem cho tên gọi nhưng anh vẫn gói ghém được sự dịu dàng của tình
yêu trong
tiếng nói.
Trưa, nắng gắt. Lăng xuống xe xách va li bước qua
sân, cả
nhà vừa trông thấy cùng ùa reo lên nỗi
mừng vui. Dì Quyên đứng một mình bên cửa, cặp mắt
lặng nhìn, bóng dáng đứa con trai đã trở
về rất thân
thuộc. Lăng mặc chiếc áo sơ mi kẽ sọc xanh, chiếc quần tergal, nơi cổ
tay đeo
cái đồng hồ Movado.
Bên ngoài con đường vắng bóng người, nhưng gió từ
dưới
sông thổi dậy lùa bay bụi đường trông như thể thấy mái tóc quấn dày của
một cô
gái đang bị xổ tung.
Phương hỏi:
-Anh về
nghỉ được lâu không ?
-Một
tháng.
Một lát sau, vợ chồng Tri và Trinh về tới nhà, bữa
ăn
được dọn lên. Rồi bỗng dưng vội vàng, Tri quay trở ra ngoài, ngồi lên
xe Honda
nổ máy xong vèo đi ngay , chừng mười lăm phút sau trở lại với một két
bia Hòa
Lan.
Phương ngạc nhiên hỏi:
-Ở quán
, có ai núp mưa không
anh Tri ?
Tri đáp lời ngay:
-Anh
Lăng ở xa về, cả nhà
phải chào mừng anh.
Gia đình họp mặt đông đủ. Bữa ăn dọn lên nhiều món,
bày
biện đẹp mắt. Tri ngồi cạnh Lăng, vừa cười, vừa nói rằng món bánh tráng
cuốn
với các thứ rau, thịt heo, cá, tôm quá hấp dẫn, thiếu ly bia là không
thể được.
Hai anh em cụng ly,
rồi nốc cạn. Khi Tri rót thêm bia, Lăng hỏi:
-Tri có
xin cải ngạch không ?
-Không,
em dạy ở Tiểu học cho
khỏe, ham chi chức giáo sư.
Bữa ăn bắt đầu, cả nhà cùng vui tiếng chuyện trò.
Nắng hè
thoang thoảng hương vị thơm, và dòng sông thật êm ả.
Tri có học thêm trên trường Văn Khoa, đã xong hai
chứng
chỉ. Tri không bị đi lính vì là con trai độc nhất trong
gia đình. Tri và Trinh học cùng khóa Sư
phạm Qui Nhơn, hai bạn quen nhau ở trường ngay năm đầu mới nhập học. Ra
trường,
được ít tháng thì xin lễ hỏi, rồi một năm sau là đám cưới. Nhưng hai vợ
chồng
còn thư thả , vì chưa có nhóc tì nào cả.
Bữa ăn rất ngon miệng. Có ly bia, Lăng uống từ từ ,
và
trên mặt đã thấy hừng đỏ. Nãy giờ, dì Quyên rất vui trong lòng nhưng
không nói
gì cả, mỗi khi ngừng đũa, dì đưa mắt nhìn đứa con trai. Lòng dì dễ bị
xúc động,
trên ánh mắt thật muốn nói rất nhiều.
Bỗng Lăng nghe tiếng của Phương:
-Em
muốn vào Sài Gòn.
-Sao
không học ở đây ?
Phương cười:
-Em
chán ở Huế rồi.
Lăng hỏi:
-Nhưng
vào Sài Gòn, Phương
tính ở đâu ?
-Thì ở nơi nhà cậu với anh .
Một giọng dè dặt, cân nhắc, Lăng đáp lời:
-Anh
nghĩ Phương nên học ở
đây ít năm đầu. Anh ra trường rồi, sẽ cố gắng đưa me và các em vào miền
Nam.
Rồi với chút băn khoăn, Lăng nói thêm:
-Anh
Thụy ở Sài Gòn, mà cũng về trong trại lính.
Tri khui một chai bia nữa, rót đầy thêm vào ly của
Lăng.
Dì Quyên nói:
-Thôi,
uống chi nhiều vậy.
Tri cười nói:
-Anh
Lăng ở xa về, me cho anh
say sưa một bữa.
Với gương mặt dễ thương, nụ cười rất hảo cảm Tri
muốn làm
dịu đi sự lo lắng của người anh, và tuy là em rể, nhưng trong nhà, cảnh
huống
mỗi người Tri hiểu rõ hơn ai hết.
Lăng nói:
-Anh
Thụy đi lính rồi, cũng
thấy khỏe.
Trinh hỏi:
-Anh
Thụy được chức chi rồi ?
-Không
chức chi hết. Lính
trơn thôi, nhưng anh sống tà tà.
-Anh có
bằng Tú Tài mà lính
thôi sao ?
-Ờ, anh
thích vậy. Ở lính
nhàn hạ, có thì giờ học thêm.
-Em rất
đồng ý với anh Thụy.
Rồi đây, có lấy được bằng Đại học, em vẫn cứ dạy ở dưới này cho khỏe
thân. Và,
rảnh thì giờ, mình dạy trường tư.
Trinh hỏi:
-Bên
hành chánh, anh học bao
nhiêu năm mới xong ?
-Hai
năm thôi. Ra trường, anh
được bổ nhiệm ngay. Anh cũng rất muốn đưa cả gia đình vào miền Nam sinh
sống.
Bữa ăn trưa thư thả, kéo dài trong sự ấm áp của
tiếng
chuyện trò. Khi mọi người ăn xong, cơm
và thức ăn còn dư nhiều. Tri hỏi Lăng:
-Anh
Lăng uống cà phê không ?
Lăng gật đầu. Dì Quyên và Trinh dọn dẹp gom thức ăn
dư
vào dĩa, và đem chén bát xuống nhà. Tri đi đun nước sôi để pha cà phê.
Phương
và Lăng ngồi lại bàn.
Phương hỏi:
-Anh ở
nhà cậu mợ , khó khăn
không ?
-Không,
nhưng đến lúc mình
phải tự lập.
-Me rất
muốn anh đi làm việc
sớm.
-Anh
cần phải đi làm nên học
ngành này. Anh đã tính rồi, có muốn ra Luật sư thời gian tập sự đã lâu
mà tìm
việc cũng khó. Với lại , anh không thích việc Tòa án.
-Em rất
muốn vào Sài Gòn.
-Trường
Đại học đây cũng tốt.
-Không,
em chỉ muốn xa Huế.
-Anh
muốn em hiểu về me và
gia đình những người thân.
-Em
hiểu chứ.
-Sao em
không xin đi du học.
Phương cười:
-Em hỏi
rồi. Phải đậu hạng Bình
trở lên.
Tri đem nước đá và cà phê lên. Phương cười bảo:
-Hôm
nay anh Tri quá giỏi.
-Đừng
có khen anh.
Cà phê được pha trong một cái phin lớn, sau đó sớt
làm ba
ly. Mỗi người nhận lấy phần mình, tùy theo lượng đường, nước đá tự động
bỏ lấy.
-Chiều
nay có tới trường
không ?
-Không,
em chỉ có mặt buổi
sáng.
-Anh
Tri đang làm Hiệu
trưởng.
-Vậy à.
Đã có giấy bổ nhiệm ?
-Em làm
bốn tháng nay rồi.
-Vậy là
ngày nào em cũng phải
đeo cà vạt, ngồi bureau ký giấy tờ.
Tri cười đắc ý.
-Trinh
dạy trường nào ?
-Vỹ Dạ.
-Me dạy
gần hay xa ?
-Trên
Nguyệt Biều.
Ba anh em uống cà phê, chuyện trò thân mật. Chỉ có
mình
Tri hút thuốc. Tri hỏi:
-Anh
Thụy còn viết văn không
?
-Còn.
Ông là thứ lính hạng
nhất.
-Anh có
bồ bịch gì chưa ?
-Ông
thì lung tung.
-Anh
viết truyện tình ra rít
lắm. Không biết ngoài đời ra sao ?
-Ông
đâu có người thật. Nhân
vật các cô là tưởng tượng thôi.
-Vậy mà
có truyện anh viết
tưởng như là thật.
Buổi chiều, Tri chở Lăng xuống phố chơi. Xe đưa vào
bãi
gởi, sau đó, hai anh em lang thang trên phố Trần Hưng Đạo. Huế không
thay đổi
nhiều, nhưng mỗi lần trở lại, Lăng vẫn cảm thấy ngỡ ngàng. Lăng đã quen
cuộc
sống miền Nam, và Sài gòn là thành phố Lăng đã có sự gắn bó về cuộc
sống, về
tuổi trẻ của mình hơn đâu hết.
Ngày hôm sau, giỗ chú Vinh chồng dì Quyên. Ông Hoàng
em
chú Vinh cùng vợ đến dự mang theo một mâm trái cây. Khách mời đông, cỗ
dọn cả
nhà trong và ở ngoài dưới mái hiên.
Đến chiều vãn khách, giờ đó anh Nguyên mới đưa Vân
Oanh
tới. Cà nhà vui, hạnh phúc lúc thấy lên
khi đôi tình nhân xuất hiện, và ai cũng khen Vân Oanh quá đẹp. Đợi anh
Nguyên
giới thiệu xong, Oanh mới hỏi chuyện Lăng. Giọng nói nhẹ nhàng của
thiếu nữ đem
lại một ý nghĩa một sự giao tiếp thân tình, mà nàng cũng đã thể hiện
bản tính
của mình tươi sáng như bông hoa.
Trong lúc chờ ăn cỗ, mấy anh em ngồi quanh chiếc bàn
tròn
với nước trà, bánh ngọt.
-Anh
Lăng mới gặp chị Oanh
lần đầu phải không ?
Phương hỏi, Lăng gật đầu. Với nụ cười luôn có trên
đôi
mắt, Vân Oanh nhìn qua Lăng và nàng cố gợi nhớ đến những chuyện Nguyên
đã kể về
giòng họ bên ngoại anh cho nàng nghe. Không cần hỏi nhiều thêm, Oanh
cũng đã
biết Lăng là em bạn dì với
Nguyên.
Và, nàng lại rất thân
với Phương, lại còn được dì Quyên quí
mến coi nàng như là cô cháu thân thương nhất trong nhà.
-Anh
Lăng có hay gặp Thụy không ?
Phương bật cười, nhắc:
-Hai
người sắp lễ hỏi rồi,
đổi cách gọi trước đi.
Vân Oanh chỉ mỉm cười nghe Lăng nói:
-Có gặp
luôn, chị. Anh Thụy
đi Nha Trang học xong nay về Sài Gòn.
-Hôm
gần Tết, Thụy có gởi cho
tôi mấy tờ báo Xuân.
-Lúc
này, anh viết truyện
cũng khá nhiều.
-Được
nổi tiếng chưa ?
-Chưa.
Nhưng cũng kiếm ra
chút ít tiền.
Bữa cỗ dọn lên. Ngồi quanh mâm cỗ hết là những người
thân
trong gia đình nên Vân Oanh rất tự nhiên, với lại, nàng sắp là cô dâu
mới trong
gia đình Nguyên. Nguyên ngồi bên cạnh dì Quyên, hai dì cháu vui chuyện
về những
tháng năm thanh bình cũng như chiến tranh ở làng quê.
Mọi người đang cùng nghe tiếng Nguyên chuyện trò với
bà
dì,Trinh bỗng cắt lời:
-Anh
Nguyên có trí nhớ hay
thật. Sau này, anh phải viết nên cuốn
gia phả.
Phương hỏi:
-Năm
nay chị Oanh ra trường
phải không ?
-Không,
năm tới.
-Không
phải bên Mỹ Thuật học
ba năm.
-Bốn
năm chứ. Có năm dự bị
nữa.
-Năm
nay chị có thi không ?
-Có,
nhưng rớt loạt nhì.
-Vậy
thì coi như đậu khóa
hai.
Lăng ít nói, nhìn Vân
Oanh với một cái nhìn thiện cảm, trong ý tưởng đó,
sự hiện diện hôm nay
của cô là hạnh phúc cho bao nhiêu người.
Bỗng Oanh hỏi:
-Liên
An, bạn của Phương đâu
?
-Đi Sài
Gòn rồi.
-Liên
An đậu không ?
-Đậu
cao nữa. Vào Sài Gòn nạp
đơn xin du học.
-Liên
An học giỏi nhỉ.
Nguyên vẫn hứng thú trong câu chuyện nói về những
người
bà con, làng nước. Hai dì cháu thật tâm đắc. Với dì Quyên, không chỉ có
Lăng
thôi, mà đến cả hai thằng cháu trai cưng của dì nữa được coi như là con
đẻ vậy.
Nguyên có khoa ăn nói, kể chuyện về cuộc sống, tính cách từng người. Ở
trong
quân đội, Nguyên làm việc xông xáo, đạt nhanh kết quả được Trung đoàn
trưởng
tin cậy, nhờ thế, anh rời đơn vị đi đâu cũng là một chuyến công tác.
Những
chuyến công tác từ đơn vị về thành phố, Nguyên dành được chút ít thì
giờ rảnh
để đến thăm Oanh. Và, nếu Nguyên theo con đường viết văn, anh sẽ viết
nên được
nhiều tác phẩm hay, gây ấn tượng với độc giả.
Chiều nay, buổi họp mặt anh em trong gia đình làm ai
cũng
vui và Lăng thực sự đã về nhà, quen lại không khí ở Huế như ngày nào.
Lễ hỏi
của Nguyên và Oanh sẽ tổ chức vào ngày 24 tháng 10 ở Đà Nẵng. Tuần lễ trước sau khi thi xong, Oanh đã về
thăm nhà, bây giờ, nàng sẽ ở ngoài này học thi khóa hai. Trong khóa I,
những
buổi Oanh thi Nguyên đều về nhà, xem bài vở của Oanh làm qua giấy nháp.
Anh ước
tính điểm từng môn dựa qua bài làm của Oanh , và anh tin Oanh sẽ qua
được loạt
đầu. Trong bài thi loạt II chỉ có môn Vạn Vật Oanh được điểm khá, Sử
Địa trung
bình, Anh văn, Toán và Lý Hóa còn yếu nên rớt. Từ đây đến ngày thi lại,
còn hơn
ba tuần, Nguyên sẽ kèm cho Oanh hai môn Toán và Lý Hóa.
Trời đêm có trăng. Sau bữa ăn, cả nhà đem bàn ghế ra
sân
ngồi hóng mát, chuyện trò vui vẻ. Rồi Nguyên khởi xướng chương trình ca
nhạc
sống, anh cầm đàn đánh nhạc đệm để mọi
người cùng vui hát những bài nhạc dân ca.
Phương lên tiếng bảo Nguyên đệm bài Tà áo xanh của
Đoàn
Chuẩn cho Phương hát. Nguyên cố nhớ nhạc điệu, xong anh vào bài nhạc
qua một
nhịp đàn dạo, rồi Phương liền cất giọng. Tiếng Phương hát ngân vang,
nhẹ nhàng,
lúc thật lắng đọng, lúc nghe mơ hồ tản mác bay nhẹ như
những làn sương mỏng. Phương hát xong, mọi
người vỗ tay, hứng thú. Rồi Phương hát
thêm bản Giọt mưa trên lá. Khi Phương hát lên bài này, Oanh cũng hát
theo.
Sài Gòn đang trở lại mùa mưa. Thụy xuống ca lúc sáu
giờ
sáng, về đến nhà trọ ở Thị Nghè đánh một giấc xong xuống phố chơi. Thụy
tìm đến
nhà Huê, không gặp nàng. Nhưng lúc ra khỏi con ngõ, bất ngờ nghe tiếng
ai gọi,
quay đầu nhìn anh bỗng thấy nàng ngồi trong quán nước.
Với bước đi nhanh, Thụy vào quán. Vừa kéo ghế ngồi,
Thụy
nói:
-Anh
mới ở nhà em ra .
-Tìm em
có chuyện chi không ?
-Không,
ghé chơi thôi.
-Anh
uống gì, gọi đi.
Thụy gọi cà phê đá.
-Em
ngồi một mình ?
-Không,
với bạn trai.
-Anh ta
đâu ?
-Đi học
rồi.
-Bạn em
bên Văn Khoa ?
-Không,
anh ta học ngành Dược.
-Em có
bạn mới mà anh không
hay.
Huê nhìn lại Thụy. Đứa nhỏ mang cà phê đá ra. Thụy
uống
một ngụm xong đốt điếu thuốc.
-Anh ta
có trở lại không ?
-Không,
đi học rồi.
-Em
quen lâu chưa ?
-Mới ít
tháng.
Cà phê làm Thụy tỉnh táo. Thụy uống thêm hớp đầy và
ngậm
cục đá nhỏ cho mát cổ họng.
-Chiều
nay em không có giờ
học?
-Không.
Công việc anh lúc này
sao ?
-Bình
thường. Anh làm ở Biên
Hòa, làm ca, một ngày 24 tiếng, hai ngày sau nghỉ. Anh mới xuống ca
sáng nay.
-Sao
anh không ở dưới đó luôn
?
-Biên
Hòa đâu xa Sài Gòn. Có
xe đơn vị đưa đón.
-Em
thấy anh thật là vô tư.
-Anh
đang buồn đây em .
-Sao mà
buồn ?
-Nghe
em có bạn trai, anh
buồn.
-Thì em
cũng phải có bạn trai
chứ.
-Đã
hẳn, em cần có. Nhưng em
có, thì anh và em không còn vui như xưa.
-Bình
thường thôi anh ạ.
-Không
bình thường đâu.
-Anh và
em là bạn, vui chuyện với nhau thôi.
-Không
có vui chuyện nhẹ
nhàng được.
-Anh
hiểu lầm rồi. Em khác
anh nhiều lắm.
Thụy đốt thêm điếu thuốc.
-Anh
Chương có gởi thư về
không ?
-Có.
Anh gởi cho chị Yến chứ
không cho em.
-Tuần
rồi em có coi phim
không ?
-Không.
Em đi chơi với bạn
trai. Hôm chủ nhật, hai đứa đi ra ngoại thành ăn chim mía.
Thụy mỉm cười.
-Anh
cười gì ?
-Em lúc
nào cũng làm anh cảm
thấy vui.
-Em nói
thực không xạo đâu.
Ngày nghỉ đi chơi với bồ , em thấy thích thú.
-Bạn em
sắp ra trường chưa ?
-Học
tới năm thư tư rồi.
-Hai
năm nữa thôi, phải không
?
-Anh có
hay ghé nhà cô Hồng
không ?
-Có.
-Lâu
quá, em không gặp Thúy.
-Rồi
lần hồi em quên hết, trừ
bạn trai của em.
-Anh
nói rất đúng. Người bạn
vừa đi, ngồi đây em nhớ nên không về nhà.
-Và,
anh xuất hiện thật đúng
lúc em cần có một người để nói lời tâm sự.
-Em rất
là ghét những lời tâm
sự.
-Anh
cũng như em. Với anh,
tìm cảm cũng như cuộc sống, luôn nhanh gọn, điều ước mong là sự may mắn.
Huê cầm gói thuốc lá Thụy để trên bàn đưa lên xem,
nàng
lật quanh và đọc những hàng chữ.
-Anh
hút một ngày mấy gói ?
-Hai
ngày, ba gói.
-Hút
nhiều quá vậy. Ít thôi.
-Em
muốn anh hút mỗi ngày bao
nhiêu điếu.
-Năm
điếu. Không nên hút
nhiều, hút thuốc nhiều sẽ bị ung thư.
-Anh
không sợ chết. Em biết
không, thuốc Bastos xanh này nặng nhưng hút rất là ngon.
Huê rút một điếu thuốc ra ngoài bao. Nàng nhìn lâu
điếu
thuốc rồi nói:
-Em mà
hít một khói, chắc
chết quá.
-Không.
Em nhớ đàn bà tây
phương, họ hút thuốc ghê lắm.
-Em là
người Việt Nam.
-Người
Việt, hay người gì,
các cô, các bà đều hút thuốc được.
-Nhưng
mà em, không.
-Má anh
ngoài nhà, hút cẩm
lệ, răng nhuộm đen.
-Ủa, má
anh có nhuộm răng đen hả.
-Má anh
nhuộm răng thời con
gái. Răng được nhuộm thuốc rồi, chắc lắm không sợ gì đến sâu ăn cả.
-Em mà
nhuộm răng chắc kỳ lắm hả.
-Em
nhuộm răng, có cách đẹp
khác.
-Rồi
sao nữa ông ?
-Không
nhuộm răng , em đẹp
rất là dễ thương.
-Ngày
mai anh đi làm ?
-Ngày
mốt.
-Từ hôm
đi lính đến giờ, anh
chỉ ở trong thành phố thôi.
-Anh
không ra ngoài tiền
tuyến được.
-Sao
vậy?
-Vì anh
là lính thành phố.
-Anh đi
làm, công việc bận
rộn không ?
-Ghê
gớm lắm.
-Vậy
hả. Bộ lên ca là lu bu
lắm hả.
Huê giương tròn cặp mắt nhìn một người lính ngồi đối
diện. Trông vẻ ngây thơ của cô thật dễ thương. Người lính vui chuyện,
vừa mong
trời có mưa buổi chiều, và bắt đầu kể cho Huê nghe việc anh đang làm ở
Trung
tâm không trợ đặt cạnh Bộ Tư Lệnh Quân đoàn III. Thụy là hiệu thính
viên, mỗi
ngày ngồi ở cái bàn trong phòng làm việc với hai chiếc máy PRC 25 và
PRC 47. Ở
máy PRC 47, anh theo dõi những phi vụ
đánh bom của các phi công khu trục. Khi lên vùng,
phi công khu trục và
quan sát viên (ngồi trong chiếc L 19)
liên lạc hành quân với nhau để cùng vào mục tiêu.
Khi đến mục tiêu, xác
định lại đúng tọa độ, quan sát viên bắn khói màu, sau đó, các phi tuần
khu trục
bắt đầu đánh bom. Với từng đợt đánh bom,
quan sát viên sẽ điều chỉnh và cho biết kết quả. Khi ở trên vùng trời,
khu trục
theo hướng dẫn của quan sát viên để oanh kích, thì ở bên dưới, quân bạn
đang
hành quân cũng liên lạc và báo cáo thêm kết quả. Thời gian của trận
chiến diễn
ra trên vùng hành quân thật vừa hiểm nghèo, vừa lãng mạn, và bạn nghe
những
cuộc đối thoại của các phi công thật sôi nổi, hào hứng như
một trận túc cầu. Thông thường, các trận đánh
bom diễn ra chớp nhoáng, thời gian chỉ trong vòng nửa giờ.
Ở máy PRC 25, hiệu thính viên thường xuyên
liên lạc với phi cơ quan sát, theo dõi phi cơ này khi lên vùng và khi
trở về,
ngoài cuộc hành quân với khu trục phi cơ quan sát còn hướng dẫn đoàn
xe, bay bao
vùng, và an ninh thiết lộ.
Khi đến ngày làm, Thụy lên đổi ca lúc sáu giờ sáng.
Nhận
ca xong, anh đi kiếm bánh ngọt ăn sáng và
cà phê để uống. Quầy căng tin phục vụ là của đơn vị
biệt phái Mỹ, nhưng
phía lính VN được ăn theo thoải mái. Cũng nhờ làm việc ở đây, ngày nào
Thụy
cũng học nói tiếng Anh với các lính Mỹ. Tối đến, ít có phi vụ bay đêm
anh đọc
sách, viết truyện, học bài. Vậy mà, hai năm rồi, mỗi cái bằng Tú Tài
đôi, anh
thi không đậu nổi.
Huê ngạc nhiên hỏi:
-Ủa, anh chỉ làm dưới đất chứ không đi theo máy
bay.
-Không.
Nhưng công tác, hay
hành quân với bộ binh thì mình đi máy bay lên tiền đồn.
-Tiền
đồn xa thành phố không
anh ?
-Xa
lắm. Nằm trên rừng, trên
núi.
-Anh
thường đi công tác ngoài
tiền đồn lâu không ?
-Cũng
lâu, khi một tuần, khi
nửa tháng.
-Anh đi
một mình ?
-Không.
Anh đi với ông Sĩ
quan. Anh mang máy, còn ông đi tay không . À, có. Ông có đeo súng colt
cho le.
Huê nhìn Thụy. Thấy cô gái im lặng,
anh hỏi:
-Sao,
em thấy công việc anh
như vậy là phục vụ đất nước hẳn hoi, phải không ?
-Ờ anh
làm được như thế là
tốt. Em cứ tưởng lính thành phố chỉ đi dạo lòng vòng thôi.
-Trời,
em nghĩ sao mà lãng
mạn quá vậy. Bộ quân đội phát lương mình
chỉ dạo phố chơi thôi sao ?
-Em
thấy anh quá lè phè.
-Nghĩ
vậy là tội anh. Xếp anh
mà biết là cho anh cả mười củ.
-Mười
củ là sao ?
-Là
mười ngày bị phạt đó.
-Vậy
hả. Anh đã bị phạt bao
giờ chưa ?
-Chưa,
nhưng em nên dè dặt
trong những nhận xét về người lính.
Huê gật đầu. Và rồi, bây giờ người lính và cô gái có
muốn
rời quán để về nhà cũng chưa được, vì trời đang bắt đầu mưa.
II
Về
đến nhà, bị ướt mưa nên Thụy vội lấy áo quần đi tắm. Tắm xong, anh giặt
đồ
luôn. Bà chủ thấy anh giặt đồ ngoài bể nước có vẻ chăm chú theo dõi làm
anh khó
chịu. Không thể nín nhịn, Thụy nói:
-Tháng
tới, tôi không thuê ở
nữa ?
-Sao
vậy cậu ?
-Bà khó
quá.
-Tôi
khó gì đâu ?
-Tại
sao mỗi lần tôi giặt
quần áo bà cứ đứng canh bên bể nước.
-Tôi
thấy cậu xài nhiều nước
quá.
-Thật
vậy sao ?
-Đúng
là sự thật.
-Vậy
thì báo với bà hết tháng
này, tôi dọn đi.
-Ờ, cậu
muốn đi thì đi.
-Tốt,
bây giờ bà lên nhà đi.
Để cho tôi giặt đồ.
Bà chủ vẫn không dời bước. Thụy rất bực mình nhưng
không
muốn gây gổ, đang cố giặt nhanh cho
xong. Thực sự bà chủ quá keo kiệt về điện nước, chứ từ ngày đến đây
thuê ở,
Thụy dùng nước không nhiều. Mỗi tháng, anh đi làm ca trực tại đơn vị là
mười hai
ngày rồi. Đến hai ngày cuối tuần anh cũng ít khi về nhà. Tối đến, mười
một giờ
anh không đọc báo, đọc sách gì nữa mà lên giường, đi ngủ sớm. Cũng may,
thói
quen dễ ngủ nên anh ngủ rất mau.
Buổi chiều qua thật lẹ. Khi Thụy
đem quần áo ra dây kẽm ở sân sau để phơi thì
bà chủ bỏ lên nhà. Thụy nghĩ là bà thấy có sự vô lý, và đã suy đi nghĩ
lại đôi
chút.
Thụy đi lên gác thay quần áo, rồi xuống nhà. Bà ta
bảo
anh dừng lại và nói đôi lời phân trần. Ngay lúc đó, Thụy giải thích cho
bà ta
biết, anh là người đàng hoàng, ở đây, anh cũng hay đi luôn, nơi làm
việc ở đơn
vị xa, rồi thường hay tìm đến nhà người quen, bạn bè.
Bà chủ rót nước mời Thụy uống. Nước trà nóng, anh
uống
một ly cho ấm bụng rồi đi.
Khu phố Thụy thuê ở nằm gần chợ Thị Nghè. Thụy kiểm
lại
tiền trong ví và túi trên. Tối hôm qua, chơi đánh phé Thụy ăn được hai
ngàn. Về
nhà, anh ngủ li bì, tới quán cà phê ngồi với Huê , khi đứng dậy nàng
trả tiền.
Đèn điện thắp sáng, cảnh sinh hoạt đêm ồn ào. Thụy
đi bộ
ra phía chợ và tìm một quán cơm bình dân để ăn. Vào quán, Thụy ngồi
phía bàn
ngoài nhưng từ đó trông rõ các thức ăn bày hàng. Thụy gọi cơm phần ba
món và
một chai bia cao.
Sau khi tắm xong, Thụy cảm thấy nhẹ người. Bữa ăn
mang
ra, Thụy lau đũa muỗng, chén rồi xới cơm
ăn. Từ ngày rời xa gia đình, Thụy có cuộc sống bất thường. Thụy quen
được với
mùi vị mồ hôi và sự nghèo khó, hai năm qua anh đã thấm vào cổ họng mùi
vị cơm
thuốc ở quân trường , ở phạn xá của trại lính. Anh cũng thấm vị thuốc
đó khi
đến quán cơm xã hội ngồi ăn, tuy nhiên, anh chẳng hề muốn ray rứt nỗi
buồn khổ
của mình. Thụy luôn cảm thấy tự do, bao nhiêu cái tốt, cái xấu, sự may,
điều
rủi là lẽ thường giữa cuộc đời nên anh chẳng phiền muộn, hoặc mong được
sung
sướng. Nhưng Thụy cũng không an phận, làm người ấy là nhận lãnh trách
nhiệm như
câu nói của một nhà văn Pháp anh rất tâm ý. Tuy là lính, anh làm việc
đúng đắn
và thật đàng hoàng, tư cách. Thụy hưởng thời gian nghỉ và quyền lợi
người lính
một cách bình thường. Và, anh vẫn xây đắp ước vọng của người viết văn,
sẽ đến
một ngày, anh có được những tác phẩm xứng đáng để người đọc tin cậy.
Thụy viết
văn, không hề mong trở nên hoặc được làm nhà văn để hãnh tiến, khoa
trương. Anh
viết văn, nỗi đam mê viết như là máu và thức ăn nuôi dưỡng sự sống con
người.
Vào kỳ lãnh lương tháng, hoặc có chút tiền dư kiếm thêm được bằng tiền
nhuận
bút với những truyện ngắn đăng báo, hay canh bạc đỏ được ăn, thì anh
cũng chè
chén một đôi ngày cho đã bữa.
Vào lúc chiều trời mưa, anh và Huê ngồi trong quán
cũng
khá lâu. Khi nàng hỏi một câu đùa, anh yêu em thực không, Thụy đáp tỉnh
bơ là
không. Nhưng anh đã không làm nàng ngạc nhiên. Rồi, nàng nói:
-Có
anh, em vui. Vắng anh, em
nhớ, thực sự là nhớ.
Thụy nói:
-Em
biết uống ly cà phê là
anh vui rồi.
-Em bắt
đầu ghiền rồi anh.
-Anh là
người khô khan, nhưng
lại có mùi vị của cà phê.
-Anh là
người đem lại cho em
cái thú uống cà phê.
-Còn
em, đẹp, ửng đỏ như trái
chín trên cây.
Nàng cười rất nhẹ, lộ những nét duyên tuyệt vời.
Lúc này, Thụy đang nhớ nghĩ đến Huê , anh ăn chậm,
vừa
cảm thấy đói và ngon. Thụy sẽ ăn hết cả cơm và thức ăn không để thừa.
Rượu bia
ngấm dần làm mặt anh hừng đỏ. Nhưng đó
là thói quen về máu, chứ anh không hề say. Phần cơm để trong tô khoảng
ba chén,
thức ăn không nhiều lắm bày trên dĩa nhỏ. Thụy ăn xong sạch, bắt đầu
thấy no.
Ly bia còn một nửa, anh uống chậm. Khu phố chợ càng
đông,
giờ này, thêm một vài gánh hàng quà dọn bán trên vỉa hè. Thụy uống bia,
rồi đầu
óc suy nghĩ. Anh đang muốn tìm một câu chuyện để gợi hứng tối nay về
viết. Thụy
viết đã quen, nhưng chưa thể là nhà văn. Những truyện ngắn của anh
chẳng qua
như chiếc cần câu hạng nhẹ để ghé vào các tiệm ăn bình dân. Anh biết có
rất
nhiều nhà văn, nhà báo ở Sài Gòn họ sống bằng ngòi bút. Vào buổi sáng
sớm, lúc
thợ sắp chữ làm trang nhất, thì ở ngoài
quán cà phê những nhà văn này vừa uống cà phê, đốt thuốc hút, vừa viết
feuilleton. Họ không chỉ viết cho một tờ, mà hai ba tờ, cứ mỗi kỳ chừng
ba
trang viết tay. Ngồi trong buổi sáng chừng vài tiếng đồng hồ họ viết
mỗi đoạn
truyện dài chạy trong ngày trên các báo. Xong việc, họ rời quán cà phê
bình dân
đến cà phê tiệm hoặc đi ăn sáng. Bây giờ anh Nguyên đã ra ngoài Huế,
chứ thời
Sài Gòn, một mình, anh cũng chạy show mấy tờ báo, cuộc sống tương đối
thoải
mái, lúc có tiền dư, anh cho Thụy một ít tiêu thêm. Nói vậy thôi, tiền
anh cho,
Thụy hay để dành gởi về cho mấy đứa em ngoài nhà.
Bên kia đường, một dãy quầy bán vé số đối diện với
khu
chợ. Thụy cố nhớ mình còn tấm vé cũ nào chưa dò không. Thụy vẫn luôn
mong chờ
tới vận may. Vào kỳ lương hàng tháng, anh hay mua chừng năm đến mười
tấm vé số.
Thụy thường lựa hai con số cuối, tính số
nút, thấy số nào chẵn, vừa đẹp ý là mua. Thụy trúng được mấy lần, nhưng
không
nhiều. Số trúng chỉ bốn con. Thụy vẫn ước mơ trúng lớn để được thoải
mái với
đồng tiền, và bây giờ anh không mong chuyện gặp cuộc tình duyên vừa ý,
mà làm
sao có được một căn nhà để ở. Có nhà, anh sẽ đưa hết mẹ và các em vào
đây sinh
sống, xa lánh hẳn những khung cảnh quá quen thuộc với sự nghèo khó ở
miền
Trung. Về miền Trung, để yêu thương và cảm động như một khúc hát tình
ca, thì
hãy về với kỷ niệm và nỗi buồn nhớ cho đầy trọn tình cảm, nhưng sống ở
ngoài
đó, thực là khó khăn không dễ chịu như là đất miền Nam.
Thụy uống hết ly bia, gọi người chạy bàn đến tính
tiền.
Rời quán, anh băng qua đường đến dãy bán vé số, qua mỗi nơi, anh chọn
một hai
tấm, mua xong hết mười tấm anh cẩn thận cho vào ví.
Trước khi về nhà, Thụy còn ghé hiệu sách mua tờ báo
mới
hôm nay. Hồi ở trọ nhà dì Hồng, Thụy hay đọc báo thuê cả hàng ngày và
hàng
tuần.
Thụy cảm thấy thật là dễ chịu trong ngày được nghỉ
làm việc.
Khi anh về đến nhà, bà chủ nhà đang nói chuyện với một bà khách trong
xóm. Anh
không để ý nghe chuyện và đi thẳng ra phía sau lên gác. Ngọn đèn dậy
sáng khi
Thụy bật núm công tắc, và mất ít giây anh mới nhìn lại căn phòng bình
thường.
Căn phòng này rộng rãi, vừa ý anh một phần nó khuất
vắng,
yên tĩnh dễ làm việc. Một hôm bạn Hoài
cho Thụy quá giang từ phố về nhà bằng xe Honda, nhân
tiện anh mời Hoài
lên gác chơi, Hoài nhìn nơi Thụy ở quá
thích liền ngỏ ý muốn đến ở chung, sẽ chia đôi tiền thuê nhưng Thụy nói
không
vì anh muốn một mình. Hoài nhìn lại Thụy dò xét, khiến Thụy phải giải
thích với
Hoài anh không thích ở chung vì sợ dễ
mất lòng nhau khi có chuyện không vừa ý, bạn bè lui tới thăm, có lỡ qua đêm một vài hôm dễ dàng, chứ ở lâu, rất
là bất tiện. Với lại Thụy đi làm ca, luôn phải dậy sớm trong những ngày
đi làm.
Thụy cầm chai nước lọc rót một ly đầy. Căn phòng bày
biện
ngăn nắp, sạch sẽ, nhưng cũng mấy tuần qua rồi, Thụy chẳng hề cầm lấy
một cuốn
sách để đọc hay là học. Thật là quá sức mỏi mệt về chuyện thi cử, học
hành,
nhiều lần Thụy quyết định thôi hẳn, nhưng rồi cứ dây dưa, đến bây giờ
là qua
năm thi thứ ba rồi, mà anh vẫn còn lận đận.
Lên giường, Thụy nằm đọc báo. Khi mở qua trang tin
tức
thể thao, anh đọc, rồi dừng lại nhẩm đếm xem vào ngày chủ nhật hai tuần
tới nữa
anh có được xuống ca nghỉ để coi trận đá bóng giữa đội tuyển Sài Gòn và
đội Nam
Hoa. Có thể ngày hôm đó, Thụy có được ngày nghỉ.
Tình hình chính trị miền Nam vẫn chưa ổn định. Sau
cuộc
cách mạng đảo chánh, không khí tự do đem lại cho người dân, nhưng rồi, trong thành phần lãnh đạo luôn có
nhiều sự đố kỵ, bè phái, và chỉ mới trong vòng ba năm mà liên tiếp với
nhiều
biến cố chỉnh lý, đảo chánh.
Chỉ là anh lính trơn, nhưngThụy
còn có nhận thức, suy xét về cảnh xáo trộn
đất nước, nói gì đến, những cấp sĩ quan, những người trí thức, chính
trị gia.
Mưa đêm. Thụy nghe mưa bất thình lình đổ ào xuống
mái
tôn. Từ chỗ nằm nhìn qua cửa sổ anh thấy một vùng đèn sáng đang lênh
đênh qua
những vùng bóng tối trên các con đường dẫn ra ngoại ô. Trời mưa đều hạt
. Thụy
tắt đèn, đi ngủ. Thụy có cảm giác ngủ ngon, bên ngoài
lắng sâu, rồi trời tạnh mưa.
Bỗng nhiên Thụy giật mình hoàn hồn với tiếng sấm
sét, sau
đó mưa lớn đổ ập xuống. Thụy vùng dậy bật đèn nhìn quanh phòng, nhìn
lên trần
và nhìn ra ngoài cửa thấy trời mưa mù mịt. Thụy chợt nghĩ, đã qua giấc
ngủ rồi,
không ngủ trở lại nữa nên vừa nằm nghe mưa, anh
cố gợi nhớ những ngày tháng đã qua về cuộc sống của
chính mình.
Hôm ấy, lúc xuống trạm xe buýt bên đường Cô Giang
anh đi
tìm nhà Khánh. Phượng đứng ở cửa, cô mặc bộ quần áo nhẹ có chấm bông
màu đỏ
đậm. Phượng nở nụ cười trên gương mặt trái soan đầy đặn.
-Anh
vào nhà chơi.
Phòng khách đặt ngay lối cửa vào, bày biện rất ngăn
nắp
dưới hai ngọn néon sáng dịu. Thụy ngồi xuống ghế, một mình với cảm giác
nhẹ
nhõm, vừa để mắt nhìn theo dáng bước của Phượng đi vào nhà trong. Không
lâu,
Phượng trở ra với hai ly nước đầy để trên chiếc khay nhôm.
Đốt xong điếu thuốc, Thụy hỏi:
-Em còn
đi học không ?
-Không,
anh. Em đã đi làm.
-Em làm
cô giáo ?
-Anh
đoán sai rồi.
Thụy mỉm cười nhìn Phượng. Nụ cười trìu mến trên cặp
mắt
anh nói thêm sự chân thật của anh đối với cô em gái. Phượng nhắc:
-Anh
uống nước đi.
Thụy nghe lời Phượng cầm ly nước lên uống. Nước ngọt
dịu,
mát cổ họng. Thụy hỏi:
-Anh
Khánh có nói chừng nào
về không ?
-Không.
Thụy nhìn lại Phượng. Thụy đang ngắm một cô gái Sài
Gòn
qua hình ảnh Phượng. Khi được ở bên cô, anh như thể có ý tưởng mình
đang sống
trong một thành phố tuổi trẻ. Thụy bắt đầu chú tâm nghe một giọng nói
Sài Gòn,
khuôn mặt đầy đặn của cô gái khiến anh cảm nhận được một thứ hạnh phúc
cây trái
trong cái hồn nhân hậu miền Nam.
-Trời,
anh không biết sao,
anh Khánh có nhiều cô bồ lắm.
-Còn em?
Phượng nhún vai. Những cái nhỏ nhặt của Phượng qua
dáng
điệu làm Thụy nghĩ mình nên ngồi lâu thêm chút nữa.
-Anh
Khánh về.
Thụy vụt đứng lên, nhưng vẫn đợi. Một lúc sau Khánh
mới
vào nhà sau khi chia tay với ai đó ở bên ngoài.
-Ủa,
mầy vào hồi nào ?
Sau cái bắt tay, Khánh thả túi xách xuống cạnh chân.
Phượng vẫn ngồi yên chỗ nghe hai người anh chuyện trò. Mới đầu, Khánh
nghĩ là
Thụy vào Sài Gòn học Đại Học. Nhưng rồi, với sự lặng yên, cảm thông,
Khánh lắng
nghe những lời Thụy tâm sự về duyên phận thi cử và cả nỗi khó khăn
trong cuộc
sống hiện tại của mình.
-Mầy
đang ở đâu ?
-Tao ở
trọ nhà người dì.
Một lúc lâu suy nghĩ, với giọng chân tình Khánh hỏi:
-Tao có
thằng em học Đệ Tứ.
Mày dạy kèm nó được không ?
-Sẵn
sàng.
-Ông
già tao đã nghỉ hưu.
Nhưng để coi, tao sẽ hỏi giúp công việc cho mầy.
Tối hôm đó, Thụy ở lại nhà Khánh ăn cơm. Sau bữa ăn,
Khánh đưa Thụy ra quán nước gần nhà. Không có Phượng, vui miệng Thụy
khen cô em
gái của bạn mình. Khánh bảo:
-Mầy
thương nó thì cứ nhảy
vô.
-Không
dám.
Trời đêm dịu mát. Ngồi trong quán nước, hai người
nhắc
tới những bạn lưu học sinh, gợi nhớ bao kỷ niệm thân thương của thời
gian ba
năm trước ở Đà Lạt. Và, trong số các bạn cũ, chỉ mình Thụy là mang số
phận hẩm
hiu.
Hai người rời quán đi bộ rồi dừng bước dưới ánh đèn
đường
bên trạm ngừng xe buýt. Gió đêm chợt làm Thụy nhớ nghĩ đến sự đợi chờ
và nghe những
tiếng bước chân. Thụy lên xe sau cái bắt tay từ giã người bạn. Khánh
chắc cũng
nghĩ rằng, Thụy sẽ trở lại, nhưng không, ít ngày sau đọc thông báo
tuyển mộ
chuyên viên Không quân, Thụy nghĩ ngay, tốt hơn hết nên đăng lính như
một cách
tìm kiếm ra việc làm.
Thụy lên cổng Phi Long, hỏi anh hạ sĩ quân cảnh gác
cổng,
anh ta chỉ vào văn phòng có người đang phát đơn tuyển mộ, Thụy liền vào
đó xin
đơn làm ngay và cùng với giấy tờ mang theo sẵn, anh nạp luôn. Nhận đơn
Thụy
xong, anh phụ trách cho Thụy giấy biên nhận và chỉ sau có hai tuần lễ
Thụy được
giấy của Phòng tuyển mộ gọi đi khám sức khỏe liên tục trong ba ngày.
Sức khỏe
tốt, những thanh niên đăng lính được tuyển Ban Tuyển Mộ cấp cho giấy
chứng
nhận, vậy là Thụy yên tâm, cảm thấy nhẹ nhõm. Ngày lên đường không xa,
thời
gian còn lại, Thụy hì hục sáng tác truyện, mỗi truyện viết chừng năm
sáu trang
viết tay, viết xong, anh đến các tòa soạn nhật báo, tuần báo gởi bài và
truyện
nào được đăng là ngày hôm sau anh có nhuận
bút. Số tiền nhuận bút Thụy tiêu dè xẻn, cốt
giữ cất cho ngày đi.
Ngày thứ bảy, Thụy ở nhà đợi Lăng. Vào lúc trưa,
Thụy ngủ
một giấc ngon. Khi thức dậy cảnh vắng im trong nhà làm anh nghĩ mọi
người đã đi
hết. Không nghe tiếng cười đùa và những trò chơi ồn vui của đám trẻ
trong nhà.
Nhưng không, còn có dì Hồng đang ở dưới nhà.
Lối cầu thang hẹp, xuống nhà rửa mặt xong Thụy qua
chiếc
bàn tròn ngồi nói chuyện với dì. Lâu lắm, hai dì cháu mới có được những
lời tâm
sự. Bây giờ, ngoài quê ở Quảng Trị, bên nội cũng như ngoại, người thân
không
còn mấy, ai cũng đi phương xa tìm cuộc mưu sinh. Dì Hồng và mẹ Thụy là
chị em
cô cậu ruột, hai người rất thân như Thụy và Lăng sau này. Hai người đàn
bà lớn
tuổi có cùng cảnh ngộ, rất hiểu nhau. Vào năm đó một chuyến đi Sài Gòn,
mẹ Thụy
và dì có dịp chuyện trò gợi lại bao nhiêu kỷ niệm đẹp của thời con gái.
Ngày xa
đó, ở tuổi mười ba, mười bốn, quê ngoại
là một khúc hát thanh bình.
Năm 1945, VM cướp chính quyền. Qua năm sau, chiến
tranh
Pháp Việt bùng nổ, từ đó làng quê trở nên điêu tàn, vắng bóng, lần lượt
những
người thân trong gia đình cả hai bên nội ngoại của Thụy đều rời bỏ quê
nhà ra
đi. Nơi đến, Đông Hà, Quảng Trị, Huế, rồi lần lượt về phía Nam. Những
người ra
đi không còn ai ước mong trở về lại quê nhà nữa. Tất cả, như nối gót theo tổ tiên của mình. Vào thời chúa
Nguyễn có rất nhiều dòng họ ngoài miền Bắc theo Chúa vào Nam. Họ Lê,
gốc Hải
Dương, họ Đặng từ Thanh Hóa. Vào miền Nam, cuộc di dân theo đường biển,
họ Đặng
trôi giạt đến Mỹ Thủy, họ Lê đến Thuận An. Đời thứ nhất của họ Đặng giữ
nguyên,
qua đời nhì đổi là Nguyễn khi lập nghiệp, xây dựng ở làng Cổ Lũy, quận
Hải
Lăng. Phía họ Lê, từ đời thứ nhất đến thứ ba định cư tại Tiên Thành. Bà
Trần
Thị Khánh, vợ ngài Lê Hữu Thành của đời thứ ba, sau khi chồng mất, một
mẹ, một
con lênh đênh trên thuyền nhỏ làm nghề kéo ngao trôi nổi đến sông Việt
Yên,
quận Triệu Phong tỉnh Quảng Trị. Trên vùng đất Việt Yên, bà cụ Khánh
chính là
tổ mẫu gầy dựng họ Lê. Khi bà Khánh qua đời, con bà Lê Hữu Diệu lập gia
thất,
sinh hạ đông con, người con đầu tìm đến Xuân Thành, Triệu Phong lập nên
phái
nhất của đời thứ năm. Từ đời thứ năm đến
ngày nay, họ Lê chính thống là ở làng Xuân Thành. Ông nội của mẹ Thụy
tên Lê
Hữu Phát, đậu Tiến Sĩ khoa Ất Mùi, năm thứ bảy Thành Thái, ông có hai
bà vợ
sinh hạ bốn người con, ba trai một gái. Dì Hồng, con
bà cô út sớm mồ côi mẹ được mấy người cậu
thương yêu, đùm bọc từ thuở bé.
Bỗng dưng, một giây khắc vô cớ làm cho câu chuyện
ngừng
trong yên lặng. Thụy cảm thấy nước bọt đang ứa ra trong cổ họng. Thụy
nhìn dì
Hồng têm trầu, và đợi dì ăn xong miếng trầu ngon mới thốt lời:
-Chú dì
đã cho cháu được sống
nhờ trong thời gian qua. Cháu luôn nhớ ơn chú dì.
Với nụ cười bao dung, dì Hồng nói:
-Ít ai
hiểu được chú. Chú ít
nói, nhưng rất là tốt bụng.
-Cháu
biết.
-Ở xa,
cháu nên viết thư gởi
thăm chú.
-Dạ.
Sự yên lặng đang ngừng như thể quả lắc chiếc đồng hồ
sau
một lúc đun đưa theo nhịp nhạc chuông đánh lên. Thụy bâng khuâng đưa
mắt nhìn
gương mặt dì Hồng. Dì lấy chiếc khăn tay thấm nước mắt.
Có người bấm chuông ngoài cửa. Thụy vội đứng lên
nhanh
chân bước. Cô Năm bạn dì Hồng ở nhà kế bên qua chơi, Thụy đứng lên
chào, giọng
vui cô Năm hỏi:
-Cô
nghe mầy đi lính phải
không ?
-Dạ
phải.
-Chừng
nào mầy đi ?
-Ngày
mai.
-Tốt đó
mầy. Đi lính như mầy
là sướng hơn người ta.
Thụy hiểu lời cô Năm nói. Cô coi bói bài rất hay,
cách
đây ba tuần, cô coi cho Thụy một quẻ bài và nói anh sắp đi xa, nhưng mà
tốt.
Thú vị nhất là con đầm cơ, cô cho hay là có người ở xa đang nhớ nghĩ
đến anh.
Thụy đưa cô Năm vào gặp dì Hồng xong qua lối cầu
thang đi
lên gác. Những bước chân vang nhẹ trên bậc cầu thang nghe như là nỗi
trăn trở
về cuộc đời. Căn gác nhận ra Thụy qua ánh nắng buổi chiều còn chiếu dọi
và
những sự vật vẫn quen thuộc. Thụy có cảm giác như vừa mới bắt tay một
người bạn
và nói đến chuyện ra đi.
Thụy ngồi xuống
sàn cạnh chiếc kệ để sách. Những cuốn sách xếp hàng ngay ngắn trên hai
tầng kệ.
Lúc này, Thụy chuẩn bị một ít đồ cần thiết bỏ vào túi xách. Thụy soạn
quần áo
và đem theo sách học, nếu ra quân trường có thì giờ rảnh thì anh ôn
bài. Có mấy
cuốn truyện dịch anh cũng đem theo, nghĩ rằng, tiểu thuyết có thể đọc
dễ dàng.
Sự ra đi, có định hướng với cuộc đời hay không, lúc nào cũng là một cảm
xúc
thật phấn chấn, nhưng cũng có sự nuối tiếc cái gì đó làm cho bạn cảm
nhận được
qua nỗi buồn. Ai ?, muốn nhắn gửi đến
Thụy một lời. Thụy nghĩ ngay đến Ninh Hà, anh tìm cuốn album đặt ở một
góc tầng
kệ trên. Thụy mở cuốn album, tìm những tấm ảnh nàng gởi tặng. Thời gian
làm rõ
nét cho anh nhớ ra những kỷ niệm của mình, của người bạn gái.
-Em
không xa anh đâu, nàng
nói.
-Anh
luôn mong có những ngày
trở về. Tới một ngày đó , cũng sẽ cho anh hạnh phúc khi gặp lại em.
-Em
không sao, chúng ta tuy
không có được duyên nợ sống với nhau , nhưng vẫn luôn nhớ đến nhau.
-Em là
một đối tượng, một
hình ảnh.
-Hãy
nhớ rằng, hình ảnh anh
trong tim em.
-Anh đi
đến nơi đâu cũng có
em hết. Em là tên gọi của mỗi thành phố.
Có tiếng chuông vang lên, tiếp đó là tiếng dì Hồng
gọi
Thụy. Vội vàng đứng lên, Thụy đi nhanh xuống nhà và ra mở cửa.
Lăng đưacho Thụy cái túi quà nhỏ. Cài chốt cửa xong,
hai
người đi lên gác.
-Tháng
sau, tôi ra Huế.
-Về
nghỉ hè.
-Cũng
dịp này, nhưng đi chừng
một tháng.
Vừa chuyện trò thêm mấy câu, Thụy để Lăng một mình
đi
xuống nhà để pha cà phê. Nước sôi luôn có sẵn trong bình thủy. Thụy cho
đường
vào hai cái ly nhỏ, xong đặt hai chiếc phin lên ly, mỗi phin đầy bốn
muỗng cà
phê nhỏ. Sau đó, Thụy đổ nước sôi đầy mỗi phin, xong đậy nắp. Không
đứng chờ,
Thụy đem hai ly cà phê đang pha lên gác. Nước sôi còn bốc hơi từ mỗi
chiếc
phin.
Lên tới cửa, Thụy thấy Lăng đang coi ảnh trong cuốn
album.
Câu chuyện sẽ hứng thú khi có cà phê. Buổi chiều
trên căn
gác thật nhẹ nhàng. Nếu trời mưa, căn gác sẽ trở nên tối. Nhưng cách
đây hai
ngày, Thụy nhớ trời mưa lớn buổi chiều, có một canh bạc, có Huê ngồi
nhìn mưa
chuyện trò với anh về sự thú vị của cách uống cà phê và mùi cà phê.
Bây giờ ngồi với Lăng, Thụy nghĩ thêm:
-Trong
giọt cà phê luôn có sự
thân tình dù là chỉ uống một mình. Vắng người bạn, nhưng nhờ có cà phê
nên mình
sẽ gợi nhớ.
Lăng nói:
-Anh
còn một lô ảnh ở ngoài
nhà me tôi.
-Những
tấm ảnh ở đây là thời
ở Đà Lạt. Cũng có một ít chụp sau này.
Cà phê đã đầy hai ly cùng một lúc. Thụy và Lăng cất
chiếc
phin qua một bên rồi cầm chiếc muỗng nhựa trắng khuấy đường.
-Ngày
mai anh đi buổi sáng
hay trưa?
-Sáng
sớm. Tám giờ có mặt ở
điểm tập trung.
-Đông
không ?
-Đông.
Có cả số SVSQ phi hành
đi nữa.
Cà phê uống ngon. Rồi, Thụy hút điếu thuốc. Bên
ngoài,
trời nắng ấm. Nếu trời mưa, căn gác sẽ tối, sẽ có những kỷ niệm muốn
xuất hiện
để chúng ta cùng nhau chuyện trò. Thụy đặt điếu thuốc xuống gạt tàn rồi
cầm
cuốn album. Thụy lật qua mấy trang nhìn lại những tấm ảnh của người
yêu. Rồi ,
anh đưa qua cho Lăng.
Sự yên lặng rất cần thiết giúp Thụy nghĩ đến nàng.
Lăng
nhìn từng bức ảnh, bỗng hỏi:
-Anh đã
cho cô ta biết anh đi
lính chưa ?
-Chưa.
Ra ngoài đó, có địa
chỉ tôi sẽ viết thư.
-Cô
đang ở đâu ?
-Đà
Nẵng.
Thụy tiếp lời:
-Cô đã
có người đi hỏi rồi.
Nhưng với tôi, cô vẫn còn thương.
Buổi chiều xuống vội vàng, nắng tắt nhanh ngoài cửa
sổ.
Mây trôi xa, ánh sáng cuối ngày chùng xuống, buông rũ. Vừa lúc đó, mấy
đứa cháu
và con của dì Hồng về tới nhà. Cửa được mở sẵn, Thụy nghe tiếng dì Hồng
chào cô
Năm khi tiễn ra cửa. Cùng lúc, tiếng ồn vui của đám nhỏ, chúng vẫn còn
ồn ào
sau buổi đi chơi trong ngày cuối tuần.
Bữa ăn tối đông vui với mọi người trong nhà. Sau bữa ăn, Thụy và Lăng chơi cờ tướng. Đám
nhỏ chơi domino. Có chuyện gì đó cần bàn bạc, chú dì Hồng ở nhà trong.
Khi nghe tiếng chuông, Thúy đứng dậy mở cửa. Thúy
vừa lên
tiếng chào, nhìn ra, vừa trông thấy cậu Nghiêm và bà ngoại cả Thụy và
Lăng cùng
lên tiếng chào. Chỉ đáp ờ một tiếng, bà và cậu đi vào nhà trong.
Một lúc sau, cậu Nghiêm gọi Thụy vào. Thụy và Lăng
cùng
bỏ dở ván cờ đi vào nhà trong.
Thụy lên tiếng
chào, ông cậu hỏi:
-Mầy đi
học bao lâu ?
-Dạ ba
tháng.
-Rồi có
được đi học ngành
nghề gì không ?
-Dạ có.
Nhìn lại Thụy, vẻ mặt nghiêm ông cậu nói:
-Tụi
bay không chịu học hành
gì cả. Đứa nào cũng lông bông.
Thụy hơi cúi đầu, vẻ mặt ủ dột. Ông hiểu, chẳng
trách
mắng gì thêm rồi tiếp lời.
-Ra
ngoài đó, cần gì viết thư
cho tao.
-Dạ.
Bà ngoại nói điều gì với cậu Nghiêm, Thụy không nghe
rõ.
Ông cậu hơi lớn tiếng:
-Nó
không chịu học hành, con
làm sao bây giờ .
Thụy định rút lui. Bà ngoại đã cầm sẵn tiền đưa cho
Thụy.
Thụy cầm lấy, nói nhỏ hai tiếng cám ơn. Một giọng dịu hiền, ông cậu nói:
-Rồi cố
gắng chịu khó học, đi
thi lại.
-Dạ.
Chuông đổ mười giờø, cậu Nghiêm và bà ngoại ra về.
Thụy
đi theo hai người ra đến cửa. Thụy lên tiếng chào lần nữa rồi cài chốt.
Mấy đứa
nhỏ vẫn tiếp tục chơi domino, còn Thụy và Lăng trở lên gác.
Đèn sáng, hai bạn trải chiếu. Chốc lát, hình như có
âm
thanh của cơn mưa nhỏ hạt. Rồi cơn mưa cũng đến. Hai bạn nằm nghe mưa,
nói
chuyện. Trong mưa, lòng Thụy rất buồn, mỗi một chút suy nghĩ đắn đo, dè
dặt đều
mang một cảm giác nặng nề như thể có lời ai ngăn cản anh đừng ra đi.
Huế, với
một lời từ biệt quá khô khan. Anh Nguyên đã vào Sài Gòn trước ba ngày.
Vào buổi
sáng thứ sáu là ngày tôi đi. Tôi chỉ có cái túi xách nhỏ và chiếc va li
đựng
quần áo, cùng một ít sách vở học đã cũ. Khanh, em thứ năm theo tôi
xuống con
đường trước mặt nhà đợi xe buýt. Hai anh em đứng ở trên bờ dốc. Em tôi
quá nhỏ
trong bộ quần áo kaki. Tôi rất thương em tôi, nhưng không biết nói thế
nào. Sự
ra đi của tôi, đành phải vậy. Nếu vào trong đó, tôi kiếm được việc làm,
ba mẹ
tôi sẽ đỡ khổ hơn. Tôi biết gia đình tôi rất khó khăn. Ba tôi làm công
chức,
đồng lương eo hẹp mà phải nuôi đến bảy người con nhỏ đến lớn. Nếu như,
hai anh
em tôi học hành đỗ đạt, thì đấy là nguồn vui gia đình, dù khó khăn mấy,
ba mẹ
tôi cũng cố gắng. Đã mười năm rồi, từ trận cháy khủng khiếp ở thị xã
Đông Hà,
gia đình tôi gặp quá nhiều rủi ro, không làm sao khá lên được.
Tôi vào
Sài Gòn với một nỗi
lo âu mà chỉ có tôi, và ba mẹ tôi hiểu. Ở Sài Gòn, có cậu tôi và hai
người dì
tôi. Tôi có thể ở nhờ được, nhưng tôi vốn biết, bên gia đình tôi không
mấy được
lòng của các cậu, các dì
. Chỉ có me của Lăng ở gần, mới hiểu nhau
thôi. Từ ngày ba tôi lấy mẹ tôi, trở thành con rể ông ngoại tôi, ba tôi
đã hiểu
tình cảnh của các cậu, các dì đối với ông như thế nào. Ngày trước khi
mới hồi
cư, lúc các cậu các dì chưa vào Sài Gòn thời gian ấy có sự gần gũi,
nhưng về
sau đi xa , ý nghĩa một cuộc đời đã khác đi nhiều.
Chiếc xe buýt vừa ghé vào trạm, ngừng lại. Tôi đợi
hai
người khách xuống trước, xong nói với em tôi câu từ giã. Tôi hôn nhẹ
bên má nó,
nó mỉm cười vô tư làm tôi khóc. Xe chỉ dừng trong ít phút, rồi chạy.
Tôi thấy
em tôi còn đứng lại trên bờ dốc chưa trở lên nhà.
Xe chạy chậm qua chiếc cầu nhỏ, sau đó, bắt đầu tăng
tốc
độ chạy nhanh hơn. Con đường Lê Lợi là con đường đẹp nhất bên khu hữu
ngạn.
Trên con đường này, những hàng cây phượng và cây sao trồng thẳng tắp,
trên vỉa
hè lát đá, hai bên là những nhà các công sở, trường học. Khi xe chạy
ngang qua
trường Quốc Học, Đồng Khánh, tôi thấy bóng nhiều học sinh trước cổng
trường. Mùa
thi đã qua, nhưng bảng niêm yết kết quả còn treo trong khung lưới, và
lúc này
vẫn còn học sinh lảng vảng chờ đợi ngày tựu trường.
Xe buýt qua chợ, vào bến chính. Tôi quàng túi xách
nhỏ
đeo vai và xách tay chiếc va li đi bộ tới trạm hàng không. Hành khách
hầu như
có đông đủ và đang chờ đợi xe ca lên phi trường. Tôi đi một mình, và
tôi cũng
nghĩ rằng những hành khách cùng chuyến đi này không có ai quen tôi. Vì
dễ hiểu,
họ toàn là người lớn cả.
Không đợi lâu, chừng mười phút sau xe ca đến và lần
lượt
hành khách trật tự vào xe để lên phi trường. Nắng đã tràn ngập cả khu
phố
chính. Xe lăn bánh rời trạm, ngồi bên cửa, tôi cảm thấy nôn nao nhìn
lại thành
phố Huế lần cuối cùng. Phố Trần Hưng Đạo nhộn nhịp trong sinh hoạt ngày
thường
đông đúc người qua lại, bóng dáng những chiếc xe đò chạy trên đường,
những chuyến xe buýt vào bến và cùng lúc
rời bến,
dọc hai bên đường những cửa hiệu buôn bán sát liền nhau. Chiếc cầu
Trường Tiền
biểu tượng của thành phố Huế ánh lên một màu sáng bạc in dưới nắng. Xe
đang
chạy chậm trên đường nên tôi để mắt nhìn thong thả. Tôi có ý nghĩ, tôi
đã ra đi
lần này sẽ không bao giờ trở về lại thành phố này nữa. Tôi có thể về
đây để
thăm gia đình tôi, gặp lại bạn bè cũ, nhưng sau đó, lại ra đi. Hình
như, tôi
chẳng bao giờ có sự hiện diện ở nơi đây, mà ở một phương trời khác.
Huế, thành
phố này không phải của tôi, một lẽ dễ hiểu, tôi không sinh trưởng ở nơi
này.
Tôi có thể ở Huế một năm, hai năm, hay mười năm đi nữa, nhưng thành phố
này
không phải là của tôi, thế nên giữa tôi và thành phố không một ai cho
ai sự
ràng buộc để luyến nhớ. Nhưng, trong giờ phút này đây ra đi, lòng tôi
bỗng ngậm
ngùi.
Khi xe chạy qua cầu, nhìn xuống con sông màu nước
xanh
dịu mát đột nhiên nó làm tôi mơ nghĩ đến gương mặt các cô thiếu nữ
trong thành
phố này. Ngày hôm qua, tôi ở nhà vui chơi trò chuyện với mấy em tôi.
Từng câu
chuyện và nghe qua tiếng nói, hạnh phúc vô chừng. Đôi khi, nỗi bất hạnh
khổ đau
làm cho mình có cảm giác nước mắt đầy vị ngọt. Tôi nói với các em tôi,
anh đi
xa tìm kiếm việc làm, có tiền anh sẽ dành dụm gởi cho ba mẹ và các em.
Anh và
anh Nguyên rất nhớ các em, các em cố gắng học để khá lên sau này. Sau
bữa ăn
tối, tôi lấy xe đạp thong thả dạo chơi. Trời có trăng, tôi đi thăm
những con
đường quen thuộc trong thành phố. Mỗi con đường làm tôi nhớ tới những
người bạn
gần cũng như xa. Tôi đi ngang qua những căn nhà có ánh đèn sáng, với
mỗi ánh
đèn làm tôi nghĩ rằng, nỗi nhớ đến từ hư vô.
Con
đường Nguyễn Hòang dẫn ra
ngọai ô và xe ca bắt đầu chạy nhanh. Tôi mở túi xách lấy gói thuốc đốt
một
điếu. Khói thuốc loãng tan và lòng tôi thực sự thanh thản. Sư ra đi của
tôi
không có điều chi đáng trách cả. Ra đi, nỗi buồn lúc đầy quá, nó sẽ vơi
cho
lòng thấy nhẹ nhõm. Những đồng ruộng, nhà ở, cảnh làng quê, bóng dáng
người
trong nắng tất cả lùi lại rất nhanh, rồi hầu như biến mất.
Khi xe ca đỗ hành khách xuống phi trường Phú Bài, tự
dưng
tôi có chút bỡ ngỡ lạ lùng. Lần đầu tiên tôi được đi máy bay. Không
gian và
cảnh trí phi trường như thể dẫn dắt tôi đặt chân đến thành phố khác
trong một
ngày đầu tiên.
Vì xe tới sớm, nên hành khách vào phòng đợi ngồi yên
đó
để chờ. Ở đây có cả quán ăn và giải khát. Tôi mua ly cà phê đá đem ra
bàn ngồi
uống và hút thuốc. Dần dần trong thóang nhìn bao quát, tôi có cảm giác
quen
thuộc với mọi người. Ly cà phê làm tôi tỉnh táo. Trong lúc chờ, tôi lấy
một
cuốn truyện dịch mở ra đọc. Tuy chẳng thể nào bị lôi cuốn, nhưng mỗi
trang sách
vẫn hiện lên trong trí tưởng tôi về những ý nghĩa của tiếng nói. Người
ta có
thể bắt đầu cuộc đời mình bằng một sự tình cờ trong lúc đang có mặt ở
một nơi
chốn nào đó. Về sau này, tôi dấn mình vào công việc viết văn mỗi giai
đọan tôi
có một nhận thức rằng con người phải hiểu thấu hòan cảnh của mình.
Bỗng một hồi chuông dài nghe lạ tai tưởng chừng như
giờ
ra chơi ở trường học. Sau đó, vừa nghe thông báo của nhân viên phi
trường hành
khách, tôi vừa rời ghế đứng lên rồi sắp hàng hướng về lối cửa ra phi cơ.
Chiếc phi cơ đậu cách đó khoảng trăm mét. Trên chiếc
cầu
thang, bên cửa phi cơ có hai cô tiếp viên mặc áo dài thiên thanh. Tôi
đã gởi
hành lý túi xách lớn, còn túi nhỏ cầm tay. Vé máy bay còn kiểm sóat nên
người
nào cũng cầm sẵn vé trên tay.
Tôi bước chậm lên thang máy bay theo những người đi
trước. Hai cô tiếp viên người miền Nam đón hành khách với nụ cười và
những lời
chào niềm nở. Khi vào bên trong, tôi nhờ một cô tiếp viên chỉ cho chỗ
ghế ngồi.
Tôi đi theo cô đến dãy ghế giữa và ngồi ở phía ô cửa kính tròn. Những
tiếng
chân bước hành khách đi vào các hàng ghế như được khép kín lại, điều
chỉnh bằng
sự yên lặng.
Phi cơ sắp sửa khởi sự chuyến bay. Cánh cửa ở cầu
thang
đã đóng. Đèn trong phi cơ bật sáng. Một giọng nói thanh thóat vang lên
từ trong
phòng vi âm, tôi lắng nghe, sau đó giọng nói trở nên nhanh khi chuyển
ngữ bằng
tiếng Anh và tiếng Pháp. Chuyến đi này có bốn hành khách nước ngòai.
Trên cặp mắt tôi có sự máy động làm tôi vui với niềm
vui
của mình. Và, hết sức chú ý đến chuyến đi , ngồi trên phi cơ tôi nhìn
qua cửa
kính xuống sân bay ghi nhận từng sự vật, quang cảnh, và cố gắng hình
dung nó
như vẽ lên một tấm bản đồ.
Tiếng động máy phi cơ đang nổ, rồi bắt đầu lăn bánh
di
chuyển. Bên ngòai cảnh trí lướt qua như là một khái niệm về không gian.
Rồi,
trong chốc lát cảnh vật lùi lại đằng sau.
Phi cơ vào phi đạo chính chạy một quãng rồi dừng
lại. Nơi
xa là ngôi làng trong bóng nắng. Nơi gần , chỉ thấy cánh đồng bỏ hoang.
Sự chú
ý của tôi làm tăng mạnh thêm cảm giác khi thân phi cơ càng lúc càng
rung mạnh.
Rồi từ cuối đường băng, chiếc phi cơ lao đi cất cánh.
Tôi đo được bằng mắt khi tìm thấy một vùng không
gian
quanh chiếc phi cơ như thể vừa vẽ xong một bài tóan hình học. Ngồi bên
cửa nhìn
ra, những giây phút đầu tiên này tôi có sự thu nhận từ ý nghĩa bên
ngòai không
gian và dưới mặt đất. Khi mà sự vật bên dưới lại mất đi, thì vùng không
gian
bao quanh phi cơ trở nên rộng lớn, mênh mông. Mây trắng xóa, phi cơ
đang bay
bình yên.
Sau ít phút bay, các cô tiếp viên phụ vụ bữa ăn nhẹ
có
thức uống, trái cây, bánh ngọt và cà phê. Tôi xin cô tiếp viên một ly
cà phê
sữa và chiếc bánh croissante.
Huế-Sài Gòn xa cách khỏang trên ngàn cây số. Đi xe
đò, xe
lửa chạy suốt đêm cũng hơn một ngày, nhưng máy bay chỉ mất gần hai
tiếng đồng
hồ.
Chừng độ qua nửa giờ bay, bữa ăn trưa dọn lên. Tôi
không
cảm thấy đói, nhưng cố ăn xong bữa. Ăn xong, tôi không dùng trái cây
tráng
miệng mà uống hết phần cà phê của mình, xong xin thêm một ly nữa.
Cà phê thơm ngon. Tôi cảm thấy thỏai mái sau bữa ăn
được
ngồi dựa lưng ghế hút thuốc. Lúc này, tôi không muốn mình lo lắng bi
quan về
chuyến đi. Tới Sài Gòn, mình sẽ có một cuộc đời khác, tôi nghĩ vậy.
Thời
gian tựa giấc mơ. Bỗng
nhiên, tiếng cô nữ tiếp viên phi hành thông báo cho hành khách biết còn mười lăm phút nữa phi cơ về đến Sài Gòn
hạ cánh xuống
phi
trường Tân Sơn Nhất. Ngay
lúc bắt đầu nghe tiếng nói của cô tiếp viên , tôi đã cảm nhận được
những gì
trong hồi tưởng vừa nhẹ nhàng rơi xuống trong một khoảng không rồi tan
biến.
Tôi không còn muốn trở lại nơi chốn cũ, cũng như không mơ mộng gì đến
tương lai
cả. Tôi lặng im chờ đợi chuyến đi đến
một thành phố xa lạ, và tôi cũng phải nghĩ đến những ngày tới đây trong
nỗi lo
âu.
Sau những dòng hồi tưởng, trong đêm sâu, Thụy đang
nghe
mình khóc.
III
Kim đồng hồ báo thức đã chỉ 5 giờ sáng. Vừa lúc
tiếng
chuông reo lên, Thụy vùng dậy bấm nút tắt, sau đó, chuẩn bị cho buổi đi
làm.
Thật nhanh gọn, Thụy gấp tấm chăn, sửa lại chiếc gối và tấm nệm giường
nằm xong
xuống nhà dưới ra ngồi chỗ bể nước đánh răng, rửa mặt. Chỗ này Thụy
thuê ở là
căn phòng của phía nhà sau, thuận tiện nhờ có lối đi riêng. Thường
ngày, lúc về
anh hay qua lối cửa trước nhà bà chủ, còn vào buổi sớm đi làm, anh dùng
lối đi
riêng để tránh gây tiếng động.
Trời vẫn còn tối , chưa sáng rõ. Nhìn qua vùng đất
trống,
Thụy trông thấy xa lộ, và giờ này, đèn
sáng khi có xe di chuyển trên đường. Thụy hơi cảm thấy mệt vì ít ngủ,
nhưng lúc
này đã tỉnh táo hẳn.
Mưa trở lại. Cái bóng Thụy mất
trong vùng tối, sau đó, từ lối cầu thang
anh trở lên phòng, rồi vội vàng thay
quần áo đi làm.
Lúc nào Thụy cũng khóa phòng cẩn thận trước khi đi.
Con
hẻm phía sau trơn ướt, Thụy đi nhanh ra đường cái, tới gặp ngả ba rẽ
trái, anh
theo con đường qua chợ Thị Nghè và tới đứng chờ ở trạm đón xe trước khu
nhà
thờ.
Đường Hồng Thập Tự vắng vẻ. Thụy hướng mắt nhìn về
phía
cây cầu, lúc này, trời cứ mưa đều hạt. Một chập sau, có hai người lính
nữa đến
chờ, rồi thêm hai người nữa. Vừa lúc ấy, một chiếc xe GMC xuất hiện ở
phía cầu,
rồi đổ dốc với tốc độ chậm sau đó ghé vào trạm.
Năm người lặng lẽ leo lên xe. Trên xe có khá đông
người
ngồi và xe có bạt trùm kín nên không bị
ướt. Trong khoang xe tối không nhìn rõ mặt nhau, nhưng nghe ra tiếng
nói. Một
bàn tay đập mạnh lên thành xe báo cho tài xế biết mọi người đã lên đủ.
Xe lăn bánh. Trong xe, có ánh lửa điếu thuốc. Tới
ngã tư
xa lộ, xe rẽ phải, rồi phóng nhanh tốc độ. Thụy lặng im nghe những
người lính
nói chuyện. Và rồi, Thụy bỗng nhớ ra điều họ nói liên quan đến bản tin
trên tờ
báo Tiền Tuyến về việc cải tổ lương bổng cho quân nhân. Trên bản tin
này, có
hai điều Thụy nhớ là rõ tiền thâm niên công vụ sẽ tăng, và từ nay, tiền
gạo và
nhu yếu phẩm của quân nhân được tính luôn vào đồng lương thay vì cấp
phát bằng
hiện vật.
Trời sáng hẳn khi xe lên tới thị trấn Tam Hiệp. Xe
không
còn chạy nhanh trên con đường vào thị trấn. Nhưng rồi không lâu, xe tới Quân đoàn đi vào cổng và ngừng đỗ bên bãi đậu
gần khu gia binh.
Khi xe ngừng hẳn tài xế tắt máy, mọi người xuống. Từ
bãi
đậu, Thụy đi tới chỗ làm việc. Ngay lối vào hầm, Thụy gặp hai người
lính Mỹ
mang súng M16, họ cùng tốp làm với Thụy, hôm nay cũng lên đổi ca.
Vào bên trong, không khí ấm hẳn , đèn sáng trưng các
phòng làm việc. Thụy tới quầy phục vụ
kiếm cái bánh ngọt xong lấy ly giấy rót cà phê. Thụy tập thói quen uống
cà phê
Mỹ với crème không bỏ đường, vì đã có cái bánh ngọt kèm theo. Thụy ăn
và uống
tại chỗ, xong một chiếc bánh, xong một ly cà phê Thụy lại rót đầy ly
nữa đế
uống thêm. Từ quầy, Thụy đến
phòng làm việc của ban ALO nằm ở cuối dãy.
Phước đang trực nghe máy khi Thụy vào.
-Sao,
có gì lạ không ?
-Vô sự.
-Hồi
đêm không có phi vụ nào
cả.
-Có phi
vụ tản thương.
Ở phòng làm việc này, Sĩ quan trực ca ít khi có mặt.
Với
hai máy truyền tin, hiệu thính viên ngồi nghe, có chuyện gì quan trọng
mới báo
cho ông ta biết. Thường Sĩ quan trực có mặt ở phòng hành quân.
-Thôi,
chuẩn bị về đi.
-Ờ.
Phước nhường ghế cho Thụy, đứng dậy đốt điếu thuốc.
Thụy
coi lại sổ trực ngày hôm trước để biết các sự kiện, sau đó, anh ghi
ngày , tên
Sĩ quan trực và hiệu thính viên nghe máy. Trên sổ trực này, khi có sự kiện, hiệu thính viên phải ghi vào với
ngày giờ bên lề. Cứ từng giờ, không có sự kiện nào, ghi là vô sự.
Bỗng nhiên Phước hỏi Thụy:
-Sao,
mày có tính đi Sĩ quan
không ?
-Đi Thủ
Đức hả.
-Không,
bên Không quân.
-Đâu có
đủû điều kiện đi Kỹ
thuật.
-Đang
tuyển ngành phi hành.
-Khó
lắm. Tao không đủ sức
khỏe.
-Bên
văn thư mới có thông báo
của Phòng tuyển mộ gởi.
-Ờ, để
tao coi lại.
Hút xong điếu thuốc, Phước chưa về còn chuyện vãn
với
Thụy.
-Mày đi
đi. Có cơ hội nên đi.
-Tao
muốn đi Kỹ thuật, dễ ra
trường hơn.
-Đi
Pilot qua Mỹ học mày.
Thụy mỉm cười, một lúc sau nói:
-Mấy
ông Sĩ quan ALO ở đây,
ông nào cũng bị gãy cánh hết.
-Sao
mày biết.
-Mày có
thấy ông nào có đeo
cánh bay có ngôi sao ở giữa không ?
Phước có vẻ trầm ngâm . Lúc này trong máy vô tuyến
đang
hoạt động giữa quân bạn và một phi cơ trực thăng với phi vụ tiếp tế
đang
trên đường bay.
-Sao
hôm nay có đi Mỹ Tho
không ?
-Không,
tuần tới.
-Mầy đi
xe đò hay Honda.
-Honda.
-Sao
mày không chịu học lại.
-Học
không zôâ mầy ơi.
-Tao
cũng vậy. Không có hứng
thú gì chuyện học.
-Nhưng
mày ngon rồi. Trong
anh em, mầy có được bằng Tú Tài.
-Ở
Không quân này, lính, Hạ
Sĩ quan, bằng cấp Tú Tài, Đại Học thiếu gì người. Ở tòa soạn Lý tương,
có đến
ba ông Đại học mày biết không ?
Trung úy Thái đến, ông luôn mặc đồ bay mặc dù không
phải
là phi công. Với Thụy, ông khá thân thiện, vì anh cũng có máu văn nghệ
như ông.
Khi Trung úy Thái đến, Phước mới ra về. Viên Trung
úy kéo
ghế lấy gói thuốc mời Thụy một điếu hút và trên tay ông cũng có ly cà
phê.
-Sao
mầy thi cử sao ?
-Thôi,
em thi kỳ nhì.
-Kỳ đầu
rớt.
-Không,
em chưa thi. Mà, học
không vô Trung úy ơi.
-Ráng
đi chứ mày. Có được cái
Tú Tài đôi, đi kỹ thuật.
-Em
biết. Nhưng khó quá. Em
thi hai năm năm rồi, không đậu nổi.
-Hay là
mày đi phi hành.
-Khỏe
như Trung úy mà không
thành Pilot nổi, gì đến em.
-Mày
phải tự tin. Biết đâu,
rồi mày thành tài.
-Em
thấy mình thiếu tự tin.
Vậy nên, em chỉ thích cái nhàn hạ. Khi con người mình
thiếu ý chí, thiếu cương quyết thì tương
lai sẽ không thành.
Có chuông điện thoại reo, ông Thái cầm máy. Sau cuộc
điện
thoại, ông lên Phòng Hành Quân. Thụy vừa uống cà phê vừa nghe máy. Trên
máy,
chỉ là quân bạn và phi cơ trực thăng. Lúc này, phi cơ đã ở vùng hành
quân:
Trung úy Thái trở lại, ông nói với
Thụy:
-Có L19
hộ tống đoàn xe. Ông
đưa manifeste cho Thụy ghi vào sổ và bắt đầu từ giờ này theo dõi đoàn
xe.
Thụy nhận giấy, ghi chép cẩn thận, và lúc này mới
thực sự
vào giờ làm việc. Nhỏm người đứng dậy, kéo sửa lại chiếc ghế xong Thụy
ngồi
xuống, thay đổi tần số trên máy PRC 25, rồi tai lắng nghe những thông
tin liên
lạc của phi cơ và đoàn xe.
Đoàn xe đã chuyển bánh. Bên máy PRC 47, có một phi
tuần A
37 vừa tới vùng hành quân. Thụy nghe các phi công nói chuyện qua máy.
Thụy để
tai lắng nghe, làm việc ở ban ALO, giờ phút sôi động hào hùng nhất là
được nghe
tiếng các phi công đang cho phi cơ nhào lộn với các trận đánh bom.
Nhữngtrận ném bom
trên mục tiêu ngoài chiến trường đã làm anh nghĩ đến
một trận bóng tròn
quốc tế đang diễn ra nhiều pha bóng tấn công hồi hộp, sôi nổi vào khung
thành
đối phương để ghi bàn thắng.
Thụy vừa ngồi nghe máy, ghi chép các sự kiện hành
quân
vào sổ, và bên cạnh có tờ báo, thỉnh thoảng anh cầm lên đọc. Tới trưa,
Trung úy
Thái đến ngồi trực máy thay cho Thụy đi ăn. Trước khi Thụy đi, ông móc
ví lấy
tiền nhờ Thụy mua gói thuốc Pall Mall. Đây là thuốc Mỹ loại nặng, Thụy
rất
thích, nhưng đến mỗi tháng có lương mới hào phóng mua một gói hút cho
thơm râu.
Ngoài cổng quân đoàn, dọc theo con đường dẫn vào thị
trấn
có rất nhiều quán ăn, giải khát. Thụy
đến quán cơm chị Hòa, giờ này đã đông khách. Trong
quán, lính có , Sĩ
quan cũng có, họ ngồi riêng từng nhóm. Thụy
gọi một dĩa cơm trứng và ly trà đá. Đây là phần ăn
rẻ tiền nhất. Thường
ăn một dĩa là còn thiếu, Thụy phải gọi thêm cơm không, ăn dặm với nước
tương.
Nắng trưa, bụi, khói, tiếng xe cùng lúc nổi trôi
trên con
đường. Bên ngoài này là khung cảnh thị trấn,
từ đây vào thị xã Biên Hòa còn khoảng bốn cây số
nữa. Và, phía bên trái
hàng rào doanh trại của quân đoàn là phi trường. Tại phi trường này, có
đơn vị
Không đoàn 23 trú đóng.
Dọc theo con đường chính của thị trấn, nhà ở hầu hết
là
của lính. Những quán ăn và giải khát hầu hết cũng là của gia đình họ
nằm ngay
bên đường, luôn nhộn nhịp từ sáng đến nhiều. Buổi chiều, sau giờ còi hụ những quán nhậu mọc lên bằng những tấm bạt,
tấm dù, quán nào cũng có rượu đế, có
bia, thịt rừng, và đồ biển.
Hai quả trứng chiên, dĩa cơm nóng thật hấp dẫn. Khi
ngồi
vào bữa ăn, Thụy luôn cảm thấy đói nên ăn ngon. Thụy ăn nhiều cơm, nên
vừa sắp
hết một dĩa là gọi thêm cơm không mang ra ăn tiếp với nước mắm mỡ, hay
xì dầu.
Nhờ ăn nhiều nên Thụy lúc nào trông cũng khỏe mạnh, dềnh dàng. Thời đi
hocï, sự
thiếu thốn làm Thụy luôn khắc khổ, luôn ám ảnh sự không may gắn liền
cùng số
phận, đến giờ đi lính, dù tuổi mới hơn hai mươi, nhưng trông anh cũng
đã gió
sương, dạn dày. Thực sự, anh vẫn còn ngây ngô, non dạ, non tình, vụng
về nhiều
mặt. Nhưng đôi lúc, ngồi cười thú một mình anh hay có những ý nghĩ lẩm
cẩm về
chuyện vụn vặt riêng của mình, của người khác, rồi lan ra tới chuyện
đời.
Thụy cho rằng cuộc đời là không thể nào
đơn giản, bình thường. Người ta hay ví dòng sông như dòng đời nhưng bạn
có bao
giờ thấy một con sông phát xuất từ đầu nguồn chảy nguyên một dòng ra
đến biển
hay không. Tôi cũng có sự phân biệt về cuộc đời và cuộc sống. Cuộc đời
thì dài,
liên tục, còn cuộc sống nó đặt ra sự hạn định con người trước thời
gian. Có một
phụ nữ trí thức người Mỹ nói, chúng ta sinh ra một mình, chết một mình,
còn lại
với cuộc đời chúng ta sống làm sao cho có được một ý nghĩa đích thực.
Có một
ông nhà văn người Pháp, thì bảo, cuộc đời này có đáng sống hay không
đáng sống.
Và, cụ Khổng Tử nhà hiền triết bậc nhất Trung hoa đã nói một câu thật ý
nhị,
nhưng buồn quá. Một hôm ấy, đứng trên bờ nhìn sông chảy, cụ than thở,
sông ơi
sao mà cứ chảy hoài không ngưng nghỉ.
Giờ này đúng giờ ăn trưa nên các quán đều đông
khách,
đúng hơn là đông lính tráng, và cũng có Sĩ quan vào ăn. Thụy có một
người chị
con ông bác ngay trong thị trấn này, nhưng chỉ mới đến thăm nhà chị có
một lần.
Hôm ấy, dì Hồng hỏi Thụy:
-Lâu
nay, thằng Nguyên đi đâu
không ghé con ?
-Chắc
là anh đi công tác.
-Nó ở
đâu, con biết không ?
-Anh
không có nhà ở. Anh làm
việc ở tòa báo, rồi ở luôn đó.
-Sao
không về ở dưới này với
dì.
Có người bấm chuông ở ngoài, Thụy vội ngừng giặt
đứng dậy
đi nhanh bước. Anh Nguyên đến, thực là hay khi cả dì Hồng va anh vừa mới nhắc tên. Khi thấy anh Nguyên xuất
hiện,
dì Hồng cười lên tiếng:
-Đã
không ? Lâu nay đi đâu
con ?
-Con
mới đi công tác về.
-Công
tác ở đâu con ?
-Dạ,
xuống dưới miền Tây.
Anh Nguyên để túi trái cây lên bàn, nói:
-Con
mua trái cây biếu chú
dì.
-Chà ,
thảo không ?
Thụy tiếp tục giặt. Sau khi vò xong cái áo mai ô,
Thụy
bắt đầu xả. Quần áo Thụy mặc không dơ lắm, chỉ xả đến nước thứ ba là
mặc được.
Nơi chiếc bàn tròn, anh Nguyên và dì Hồng nói chuyện.
Dì lắng nghe anh Nguyên kể chuyến đi công tác về
miền
tây, và bỗng nhiên dì cười vui khi nghe anh nói, bây giờ anh là đệ tử
cưng của
Thầy Thích Tâm Châu.
Tiếng chuông đồng hồ trưa đổ. Ngừng chuyện, anh
Nguyên
đứng dậy bảo Thụy:
-Đi với
anh thăm chị Số một
chút.
-Uûa ,
chị Số ở đâu ?
-Chị ở
Biên Hòa .
-Sao
anh biết ?
-Anh
gặp chị về Sài Gòn mua
hàng.
Thụy để anh Nguyên nói chuyện tiếp với dì Hồng rồi
đi lên
gác thay quần áo. Xuống nhà, hai anh em Thụy chào người dì để đi.
Bến xe Nguyễn Cư Trinh gần nhà dì Hồng . Hai anh em
Thụy
vừa đi bộ, vừa nói chuyện nhà.
Khi tới nơi, hai người hỏi xe đi Hố Nai. Chiếc xe
búyt
dài đang chờ khách nên hai anh em Thụy vào quán ăn cơm trưa cho chắc
bụng .
Trong lúc ăn, anh Nguyên nói:
-Ra
Tết, anh em mình dọn tới
khu Bàn Cờ ở.
-Anh
thuê nhà ở đó.
-Nhớ
anh Công học lớp anh
không ?
-Nhớ.
-Hai
anh em mình về ở chung
nhà anh Công.
-Anh
Công ở một mình.
-Anh
Công ở nhà người anh
rể. Bây giờ, gia đình người anh xuống Mỹ
Tho để lại nhà nhờ anh Công chăm sóc.
-Hay
quá.
Hai anh em Thụy ăn cơm xong, vừa lúc xe sắp chạy.
Hai
người lên ngồi băng ghế cuối. Ra khỏi bến, xe chạy trên đường Trần Hưng
Đạo,
rồi vào Hồng Thập Tự, đến ngã tư Hàng
Xanh xe rẽ phải vào xa lộ Biên Hòa. Từ
đấy, xe chạy nhanh và chỉ sau một tiếng đến Tam Hiệp
ngừng đỗ khách .
-Hôm
nay chị có biết anh
xuống không ?
-Có.
Từ bến đỗ, hai anh em Thụy đi bộ đến nhà chị Số xa
chừng
khỏang nửa cây số. Thụy hỏi anh Nguyên:
-Chị Số
là con của bác gái
hai hay ba.
-Bác
hai.
-Bác
lớn có mấy người ?
-Bốn
người.
Trên đường đi, Thụy hình dung lại bóng dáng của chị
thuở
nào. Tuy ít học, nhưng chị có nhan sắc. Thụy còn nhớ hình ảnh chị lúc
gia đình
anh vào ở Quảng Trị. Và, Thụy nhớ rõ hơn hết là một buổi sáng sớm ba
anh, anh
Nguyên, Lăng và anh cùng đến nhà bác sau một đêm đi ngủ nhờ vì căn nhà
ở trọ là
nhà bác Biền bị cháy. Đêm ấy lạnh, ngủ ngoài hiên không có chăn đắp.
Khi thức
giấc, Thụy nghe tiếng ba anh khóc. Có lẽ ông nghĩ nhiều đến sự đời.
Sáng sớm hôm ấy, bốn người vội đi lúc chủ nhà vừa
thức
giấc. Ba anh nói lời cám ơn, vừa trả lại tấm chiếu cho chủ nhà. Trên
đường, một
người cha dắt hai con và đứa cháu từ ngòai con đường tỉnh đi sâu vào
làng qua
một con đường dài , hai bên là một hàng tre dày kín. Rất may, ba Thụy
tìm ra
được nhà bác Hai gái, rồi ở nhà bác ăn cơm, trò chuyện đến trưa đón xe
ra Đông
Hà , xong ba anh thu xếp đem cả gia đình vào Quảng Trị ở.
Hai anh em Thụy đi bộ trên con đường đất có bóng cây
im
mát. Cũng khá xa, từ bến xe đậu đi tìm nhà người chị. Khi tới cổng và
thấy số
nhà, hai người dừng bước, do dự. Căn nhà chính lợp ngói, nhà phụ lợp
tranh, sân
trước khá rộng, và Thụy trông thấy phía góc sân
một người đàn bà mặc áo trắng cũ đứng quay lưng đang
phơi quần áo. Có
tiếng chó sủa, người đàn bà quay lại nhìn về phía hai người lạ. Anh
Nguyên nói:
-Chị Số
đó.
Chị Số nhận ra anh Nguyên liền chạy ào tới. Thụy
cười hỏi
chị:
-Chị
nhớ ra em không ?
-Trời,
cậu.
Chị Số đã nhận ra Thụy, rồi vừa nắm tay, chị nghẹn
ngào
nói, vừa khóc.
Năm đầu tiên Thụy lên trung học, chị Số con bác hai
lấy
chồng vào Huế ở, sau hai năm thì vào miền Nam. Tuy chị đi xa, ít có dịp
trở về
thăm làng quê nhưng Thụy vẫn còn nhớ rõ hình ảnh chị thời con gái với
nét mặt
dịu hiền, cặp mắt to đen, và chị thật đảm đang việc nhà.
Anh Nguyên và Thụy chỉ có em gái thôi, vì vậy, mỗi
lần
gặp chị, qua hình ảnh chị Thụy cứ nghĩ, ước gì mình có một người chị
như thế để
được gần gũi mỗi ngày trong cuộc sống bình thường, bằng tiếng nói, câu
chuyện,
bữa ăn, hay có một việc gì đó cần được giúp đỡ.
Sự liên hệ gia đình thân thuộc, dòng dõi bên nội
Thụy
không có khoa bảng, nhưng anh chị em rất là thương kính nhau. Và, sau
khi một
người chú của Thụy mất, ba anh là người tương đối có chút học vấn, vừa
làm nghề
dạy học nên trở thành cái nôi cho cả gia đình, con cháu. Sớm hiểu về
cuộc đời,
nên ba anh đã cố gắng cho con cái đi học, đồng thời, cũng tìm cách giúp
đỡ
những đứa cháu ở làng quê cố ra tỉnh để theo học, may có tương lai về
sau.
Trong các bác, các chú, ba Thụy là người được các cháu kính trọng, nghe
lời,
trong đó riêng chị Số dành cho ba anh địa vị giống như một người cha.
Thuở đó,
ở làng quê ra, vì nghèo khó chị phải giúp mẹ buôn bán để nuôi em đi
học. Bù lại
sự thiếu thốn đó, trời cho chị chút nhan sắc để gặp người chồng tốt và
sống
cuộc đời hạnh phúc.
Quảng Trị là một tỉnh tuy nhỏ, nhưng có nhiều tài
nguyên
ở trên rừng và dưới biển. Rừng núi ở phía Bắc, còn biển
trải rộng về phía Đông. Và, không chỉ có con
sông Thạch Hãn chảy qua thành phố, mà ở mỗi quận, thị trấn, nơi nào
cũng có
sông và nơi nào cũng có những con đường đi ra biển, làng Thụy ở gần
nhất. Ngôi
làng này nay vẫn còn nguyên vẹn sau chiến tranh. Ngôi làng dân cư thưa
thớt, có
khỏang chừng 100 nóc nhà ở trải rộng trên những con đường đất xa gần.
Có những
căn nhà đơn độc, hẻo lánh hướng về phía mặt biển trông qua những đồi
cát. Những
con đường nhỏ chính yếu của ngôi làng luôn mát dịu dưới bóng tre, ở
trên mấy
con đường này tương đối nhà ở tụ tập gần nhau hơn những nơi khác. Quanh
ngôi
làng , xa cũng như gần ở đâu cũng nhìn thấy những đồi cát trắng trông
tựa như
những đàn voi. Vào mỗi buổi sáng, những đàn chim thiên di từ hướng núi
bay ra
biển. Vào buổi chiều, trước khi mặt trời lặn, sóng biển dội lúc nổi,
lúc chìm
trong tiếng rào rạt trôi xa, rồi mất hút. Và, đó là tiếng động báo hiệu
trước
mùa đang tới sẽ yên bình hay gặp cơn giông bão.
Từ Sài Gòn lên Tam Hiệp thăm chị Số, hai anh em Thụy
được
một buổi chiều tối hưởng trọn hương vị đồng quê. Qua trưa hôm sau, hai
anh em
còn ăn bữa cơm với gia đình chị để sau
đó trở về lại Sài Gòn. Trong bữa ăn,
chỉ vắng anh Quy chồng của chị, anh làm ngành kiểm
lâm và đang công tác
ở Di Linh. Từ hôm qua đến giờ , Thụy vẫn luôn trông trông theo bóng
dáng chị
như để tìm kiếm bóng quê nhà xa lắc. Khi
nghe giọng nói của chị, Thụy chợt nghĩ đến thời con gái của chị, rồi
bỗng thấy
vui được nhớ đầy đủ mái nhà chị ở trong khu làng Thạch Hãn thật mát rợi
với cây
cối trong một khu vườn xanh kín lá cây.
Thụy đưa tay đỡ lấy chén cơm chị vừa xới, rồi nở một
nụ
cười sung sướng như vừa bắt gặp, vừa mới
nhận ra cái đời sống sung túc của chị, để lúc này, gặp lại đứa em nhỏ
ngày xưa
chị có thừa cơm gạo, thức ăn, để em nó ăn no đủ.
Thụy lên tiếng hỏi:
-Chị có
được tin tức gì của
chị Thú và anh Kiêm không ?
-Bác có
được tin. Chị Thú ở
Nghệ An, làm công nhân xưởng dệt. Còn anh Quân ở Hải Phòng.
Hai anh chị con người bác mà Thụy vừa hỏi đến đều
tập kết
ra Bắc sau hiệp định Genève năm 1954. Thụy chưa hề được gặp chị Thú,
anh Kiêm
nhưng được nghe nói nhiều qua lời ba anh kể lại. Trong giòng họ Nguyễn
Đặng,
ông bà nội rất đông con, 8 ông con trai hai bà con gái, và hiện tại ở
ngòai
làng quê chỉ có bác Hai, bác Oanh và hai người o. Còn
lại, đi ra tỉnh kiếm việc làm sinh sống,
ba anh dạy học, bác Hoàn làm y tá, chú Luyện làm thợ nề. Và, có lẽ do
gen chung
trong giòng họ, từ bác Hai đến o Uùt trong nhà, gia đình nào cũng đông
con mà
lại nghèo. Tuy nhiên, sự hòa thuận thương nhau từ ruột thịt đến bà con
là đặc
điểm mà Thụy biết được, không cần bộc lộ hay nói ra nhiều lời.
Những năm tháng gia đình Thụy còn
ở Đông Hà, Quảng Trị, lúc đó hình ảnh
cuộc chiến tranh Thụy thấy là nghe tiếng súng trên núi vọng xuống, cảnh
hỏa
họan do Việt Minh đốt trại lính lửa cháy tràn xuống vùng dân cư sinh
sống tại
thị xã, hay trong một lần anh được nhìn thấy những đòan xe chở lính
tráng trên
con đường qua vùng thị xã để đi lên mặt trận. Đó là những hình ảnh, ý
niệm sơ
sài về chiến tranh qua tuổi nhỏ, còn giờ đây lớn lên, Thụy ý thức được
cuộc
chiến tranh trước nhất là mình thấy sự đe dọa rồi sẽ phải đi lính, và
dù chưa
mặc áo nhà binh, nhưng mỗi ngày những biến động xáo trộn trong thành
phố, những
tin tức báo chí tường thuật các trận đánh của các đơn vị miền Nam với
Việt
Cộng, Thụy có nhiều nỗi băn khoăn, vẫn chưa bao giờ mình gạt được những
lo âu
thường ngày.
Hình ảnh làng quê nơi chốn xa vẫn đem cho anh sự dịu
hiền, quyến luyến. Và mỗi lần được nhớ, nhiều hơn hết trong tôi là
gương mặt
những người thân và tiếng nói. Thụy bỗng nghĩ đến sự lìa bỏ quê nhà đi
theo lý
tưởng của hai anh chị con bác Hai , nhưng anh không cần phải đạt câu
hỏi hai
người có nhận ra sự phi lý đối với một dân tộc, anh chỉ tự hỏi mình
trong lúc
này, anh có mang tâm trạng của anh Quân,
ra đi là từ bỏ chốn quê nhà và không mong nghĩ đến một ngày trở về .
IV
Hai ngày xuống ca nghỉ luôn làm Thụy cảm thấy dễ
chịu,
thoải mái. Khi về tới Sài Gòn, không khí sinh hoạt của thành phố luôn
luôn làm
anh phấn khích và nhận ra thành phố này đích thực là dành cho con người
luôn
thúc đẩy những chuyển động của mình hăng hái tham dự vào cuộc sống.
Về nhà trọ, lên căn phòng vắng lặng, Thụy chỉ cởi
đôi
giày trận xong lăn lên giường đánh một giấc. Trên đường xe chạy Thụy đã
ngủ,
giờ vẫn thèm ngủ. Trong giấc ngủ, đôi lúc anh nằm mơ. Và, giấc mơ hạnh
phúc
nhất cho anh là được thấy bóng hình Ninh Hà. Khi nàng đến tìm anh trong
giấc
mơ, luôn luôn nàng mặc áo dài nâu. Đó là một chiếc áo, một bóng dáng
riêng biệt
của nàng. Cũng đã có một đôi lần, nghĩ về chiếc áo dài nâu nàng mặc,
Thụy có
nhiều ý tưởng so sánh, một cảm giác về thời tiết trong mùa, một bức
tranh được
treo trong góc căn phòng, thảng hoạc nơi xa đó là một thành phố mình
hằng mong
tìm đến. Những tháng năm của thời đi học, Huế quen thuộc với Thụy hơn
hết. Và,
thành phố này đã cho anh những hình ảnh áo trắng rất là quen thuộc. Áo
trắng ở
thành phố này là hương sắc của thời gian, ngày với hương vị của nắng ấm
và gió
của dòng sông, đêm là hương thơm của hoa. Nhưng lạ thay, xa Huế là Thụy
không
nhớ nghĩ đến thời gian và bao nhiêu khung cảnh quen thuộc ấy nữa. Và
rồi, một
buổi sáng ấy Ninh Hà đến lớp với chiếc áo dài trắng, hình ảnh đó mãi
mãi với
tâm hồn Thụy là một nơi chốn riêng biệt giữa bốn phương trời.
Khoảng đầu giờ buổi chiều Thụy thức dậy. Sự thức
giấc sau
giấc ngủ ngon làm anh tỉnh táo và mới mẻ, và thèm một ly cà phê. Với cà
phê, đã
có một thời gian kéo dài đến mấy tháng, uống vào buổi chiều làm anh mất
ngủ,
nhưng giờ thì rất là quen. Và, đã một lần anh bỗng nhận ra, ly cà phê
vào đầu
buổi chiều là thời gian ngon nhất. Những buổi sáng thức dậy có bữa ăn
sáng có
ly cà phê, chẳng qua đó là thói quen, chứ uống cà phê vào không khí đầu
buổi
chiều bên goài trời mưa hay nắng, đều có một cảm giác rất ngon và rất
thú vị.
Huê bắt đầu ghiền cà phê, nàng nói, Thụy là người đem lại cho nàng thú
uống cà
phê. Không chỉ đôi ba lần mà nhiều lần, khi ngồi trong quán nước gọi cà
phê
uống, Thụy và Huê luôn cảm thấy lòng mình vui, yêu thích cuộc sống và
trò
chuyện rất ăn ý , vừa được cơ duyên. Vậy
là hai người trẻ , chàng và nàng đích thực có một mối tình cà phê. Khi
Thụy nói
ra ý nghĩ này, Huê gật đầu.
Khi xuống nhà rửa mặt, hoặc tắm xong, lên thay bộ
quần áo
xin vin, Thụy có cảm giác nhẹ hẩng, nhưng sự quan tâm mỗi ngày của anh
là coi
tiền cất trong ví có được bao nhiêu. Nếu ít quá, anh phải đến quán cơm
xã hội,
hoặc bánh mì. Anh không thể mua bánh mì nhân thịt ổ lớn, mà mua một ổ
vừa thêm
ổ mì không cho nước tương. Còn như tiền được kha khá, thì đến quán cơm
bình dân
anh ăn no bữa. Vào mỗi kỳ đầu tháng, bữa cơm anh đi ăn khá là ngon và
có thêm
chai bia nhấm nháp nữa. Kể từ ngày đi
lính đến nay, Thụy luôn cố gắng sống với những sự khó khăn hàng ngày
qua đồng
lương. Thế nhưng, anh vẫn cố ngăn mình đừng quá mặc cảm và khổ sở vì sự
thiếu
thốn. Có thể nói, không khí thành phố Sài Gòn làm anh luôn cảm thấy dễ
chịu và
tự tin.
Căn phòng Thụy đang thuê ở luôn bỏ trống trong thời
gian
còn lại của buổi chiều. Và cơn mưa có khi tới, thế nào căn phòng cũng
có một
đôi chỗ ướt dột. Nhưng sau đó, mùi vị của nó vẫn như là đã quen thường
ngày.
Khoản tiền nhà đầu tháng, Thụy đã trả tuần trước. Bà
chủ
nhà rất vui vẻ lúc lấy tiền và bà đã nhận ra rằng, bà quá cẩn thận về
điện
nước, thấy rằng Thụy đàng hoàng và từ nay bà rất muốn anh cứ tự nhiên,
thoải
mái.
Vừa ra khỏi nhà, Thụy
chợt nghĩ đến Lăng. Từ Thị Nghè, Thụy đón xe buýt
xuống Sài Gòn, rồi từ
bến chính lại đi chuyến xe khác xuống chợ Thái Bình. Xuống đâyThụy đi bộ đến nhà dì Hồng. Lối hẻm vào rộng rãi,
nơi đây Thụy nhớ nhiều đến bóng dáng người thiếu phụ, và nơi đây vẫn
nhắc Thụy
nhớ đến Huê.
Tiếng chuông cửa
dội lên, vang sâu vào bên trong. Một lúc sau, có
người ra mở cửa.
-Ủa,
hôm nay anh không đi làm
?
-Không,
anh vừa xuống ca lúc
sáng.
-Anh
mới ngủ dậy phải không ?
-Ờ. Mấy
hôm nay có thư từ gì
không ?
-Anh có
điện tín.
Thụy bỗng càm thấy bất an, lo nghĩ. Thụy cầm bức
điện tín
Thúy đưa, rồi theo cô em họ xuống nhà dưới ngồi ở chiếc bàn tròn, một
mình dì
Hồng đang têm trầu ăn.
-Công
việc con lúc này sao ?
-Dạ
bình thường, dì.
Thúy mở tủ lạnh đem ra cho Thụy một ly chè đậu. Thụy
đọc
bức điện tín:
-Thứ
sáu 24/8 em vào Sài Gòn.
Ninh Hà.
Nỗi mừng vui lộ ra mặt.
-Điện
tín ai đó con.
-Cô bạn
học.
Thúy ngồi xuống, cười nói:
-Em
biết là ai rồi.
-Em
đoán coi.
-Chị
Ninh Hà phải không ? Từ
ngày xa cách, anh chỉ nhớ nàng thôi.
-Si
tình dữ không ? Rồi bây
giờ , sao ?
-Dạ có
gì đâu. Cô là bạn, có
chồng rồi.
-Vậy à.
Thụy cầm muỗng ăn ly chè.
-Anh
Lăng vào chưa ?
-Em
không biết. Chắc là chưa
vào.
Thụy đọc lại bức điện tín lần nữa, lòng tự dưng bâng
khuâng. Ngồi đây, anh bỗng nhớ đến buổi sáng ấy thức dậy sớm cùng với
Lăng đi
ra bến tàu, nhớ đến khung cảnh buổi sáng ấy rất đông người đưa tiễn.
Nắng hừng
lên, con tàu tách bến, dần xa Sài Gòn. Ở trên bong tàu khi tàu rời bến
Cảng,
Thụy đưa mắt nhìn lại thành phố , nhìn quang cảnh thiên nhiên và nhà ở
ven dòng
sông. Rồi, tàu ra đến cửa biển. Nắng, gió lộng, bờ cát, nỗi nhớ nhung,
nỗi buồn
sự xa cách và nghĩ đến số phận. Lênh đênh trên biển hết ngày, rồi đêm
xuống,
Trong đêm đèn sáng phía xa bờ, và trong đêm tối hình ảnh những người
lính ngồi
dưới ánh đèn pin ngồi đọc thư và viết
thư cho gia đình, cho người yêu trong đêm tối mịt mùng với con tàu vẫn
lênh
đênh trên biển.
Khi nghe tiếng chuông ngoài cửa, Thụy giật mình. Và
rồi
hết sức ngạc nhiên, khi nghe tiếng cười của Thúy và giọng nói của Lăng.
Dì Hồng lên tiếng:
-Chà,
xa Sài Gòn lâu dữ. Về
Huế , vui không con ?
-Dạ vui.
Lăng đặt gói quá xuống bàn, nói:
-Me con
gởi biếu dì.
-Dì cám
ơn me con. Sao me ngoài
nhà khỏe không ?
-Dạ
khỏe.
-Me đã
nghỉ hưu chưa ?
-Chưa,
dì ạ.
Thúy nói:
-Anh
Lăng mới về một tháng,
coi mập ra.
Thụy vẫn còn để những giây phút riêng tư nhớ đến
Ninh Hà.
Còn mấy ngày nữa thôi, anh sẽ gặp lại nàng. Xa nhau đã hai năm, gặp lại
nhau chắc
trong mỗi tâm hồn đổi khác nhiều.
Buổi chiều nghe vang lên hồi còi hụ báo giờ tan sở.
Luôn
luôn trong câu chuyện về người thân là gợi nhắc dì Hồng nhớ đến cảnh
làng quê
cũ. Và, thực sự dì ước mong có được dịp đi xa, về tận ngoài đó thăm
quê. Người
rời làng quê đi xa sớm nhất là dì, từ thuở mới lên mười.
Khi nghe tiếng xe ở ngoài, Thúy biết ba mình đã về
tôi cô
đi ra mở cửa.
-Chào
chú.
-Ờ,
chào hai cháu.
Không vội thay quần áo, chú Minh ngồi vào bàn chuyện
trò
với cả gia đình.
-Trông
cháu mập ra nghe Lăng.
Thúy cười:
-Con
mới khen anh.
-Ngoài
nhà ra sao ?
-Dạ
bình thường.
-Me
cháu vẫn con dạy học.
-Dạ
còn.
-Me con
ở nhà, kém dì một
tuổi.
Chú Minh uống hớp trà nóng Thúy pha, vừa cầm một
miếng mè
xửng lên ăn.
-Ngon
quá.
Thúy lại đi ra ngoài khi nghe tiếng chuông gọi cửa.
Chị
Lành đi chợ về. Đi qua chỗ chúng tôi chị lên tiếng chào và xuống làm
bếp.
Thụy nói với Thúy:
-Huê hỏi thăm em.
-Anh
gặp chị ở đâu.
-Ở quán
nước gần nhà.
-Lâu
nay không thấy chị ghé.
Thụy cười:
-Có bồ
mới rồi. Vui vẻ lắm.
-Thật
hả.
-Thật
chứ. Huê khoe với anh.
-Anh
gặp bồ chị chưa ?
-Có.
Thụy và Lăng ngồi ở nhà dì Hồng chuyện trò đến giờ
ăn.
Trời âm u, gió nhẹ. Trong nhà đén sáng. Sau bữa ăn, khi cả nhà dùng
trà, Lăng
nói:
-Anh
Nguyên sắp làm lễ hõi.
-Chà,
giỏi không, dì Hồng khen.
-Anh
Nguyên và chị Vân Oanh
rất là đẹp đôi.
-Tên
hay quá, anh.
-Tên
hay, người cũng đẹp.
Thụy cảm thấy vui. Dì Hồng hỏi:
-Chừng
nào con ?
-Hình
như là cuối tháng mười.
Lăng đáp lời, xong quay sang Thụy:
-Anh có
nhận được thư ngoài
nhà không ?
-Không.
Thụy rất muốn được nói chuyện riêng với Lăng về chị
Vân
Oanh nên mong một ngày khác. Bức điện tín Ninh Hà ở trên túi áo của
Thụy. Nãy
giờ, những ý tưởng về bức điện tín làm anh bâng khuâng. Anh vẫn chờ
đợi, nhưng
chẳng biết tự nguyên do nào.
Khoảng chín giờ đêm, Thụy và Lăng cùng ra về. Hai
người
đi xe Honda. Đây là chiếc xe cũ Lăng mới
mua lại của người bạn, với giá thân hữu. Anh bạn cũng học trường Luật,
thân
nhất với Lăng, không chỉ bán thôi mà còn cho trả góp.
Chiếc xe Honda nước sơn màu xanh lá cây. Tiếng máy
nổ êm.
Gió đêm thật mát rợi, trên đường xe chạy, Thụy kể lại cho Lăng nghe về
công
việc làm hiện giờ của mình, sôi nổi nhất là những ngày đi lên mặt trận
vùng
biên giới, sau hết, Thụy cho Lăng biết anh đang chuẩn
bị hồ sơ gởi Ban tuyển mộ để xin đi học khóa
SVSQ hoa tiêu. Với quyết định này, ước mong chuyện học của Thụy tạm
thời ngừng.
Bến tàu đông vui. Lăng cho xe chạy dọc con đường bến
tàu
để nhớ những ngày trở lại Sài Gòn sau hơn một tháng đi vắng, để hóng
mát gió
đêm trong thành phố, rồi sau đó, dừng xe lại bên bờ đường cạnh một quán
nước.
Người chạy bàn ra ngay khi hai người vừa kéo ghế.
-Hai ly
nước mía.
-Không
bia bọt gì anh ?
-Không.
Ngồi đợi không lâu, hai ly nước mía mang ra. Thụy
uống
một ngụm đầy.
-Mát
quá.
-Chừng
nào anh mới đi học ?
-Hy
vọng tháng tới, nhưng còn
phải khám sức khỏe. Đi ngành hoa tiêu,
sức khỏe khám rất kỹ.
-Cần
nhất là mắt tốt.
-Mắt
tôi, tốt độ 8/10 thôi.
Lăng uống chậm rãi. Thụy nhìn Lăng, một lúc hỏi:
-Ngoài
nhà ra sao ?
-Cũng
thường.
-Vợ
chồng Tri Trinh khá không
?
-Cũng
khá hơn mấy năm trước.
Tri đã lên chức Hiệu trưởng.
-Le vậy
hả.
Lăng cười vui.
-Anh
Nguyên có về nhà thường
xuyên không ?
-Có chị
Oanh , anh về luôn.
-Sao,
Lăng thấy chị Vân Oanh
sao?
-Rất là
xinh đẹp. Hoa khôi
Đồng Khánh cũng không sánh bằng.
-Chị
Vân Oanh học bên Mỹ
Thuật.
-Chị
cũng đang thi Tú Tài
khóa II.
-Có kết
quả chưa ?
-Mới
thi xong loạt II.
Trong thoáng giây nghĩ ngợi, Thụy nói:
-Tôi có
nhận được thư của
chị.
-Chị có
nói lễ hỏi không ?
-Không,
thư này lâu rồi. Lá
thư chị viết cám ơn về cuốn sách. Nhưng tôi cũng hay biết về hai anh
chị từ hôm
về phép cuối hè năm ngoái. Nhi kể chuyện cho tôi nghe về chị, nói chị
rất dễ
mến.
-Anh
Nguyên nhà mình là hay
lắm.
Rồi, Thụy hỏi Lăng về dự đinh học hành. Lăng nói với
Thụy
ở xã hội của mình, cần cuộc sống vững vàng. Học Luật, rất dễ dấn mình
vào con
đường chính trị và con đường này dẫn đến lợi danh, dễ hư hỏng, tôi
không muốn.
Với Lăng, làm sao đáp lại tấm lòng yêu thương của người mẹ.
Hai người đứng dậy rời quán, Lăng đưa Thụy về nhà,
lên xem
căn gác Thụy ở , và ngồi tiếp chuyện trò một lúc lâu xong ra về. Thụy theo Lăng xuống nhà tiễn chân.
-Ngày
mai anh đi làm không?
-Ngày
mốt.
Thụy trở lên nhà, tự nhiên lạ lùng với ánh đèn điện
trong
phòng. Ngồi xuống giường, anh mở bức điện tín ra đọc. Nội dung bức điện
tín rất
đơn giản, nhưng sao, anh vẫn cứ mang
trong mình nỗi bâng khuâng từ chiều đến giờ.
Khi đi nằm, anh đọc tiếp mấy trang truyện dịch cuốn
Kẻ Xa
Lạ. Những ý nghĩ về hình ảnh một người mẹ lúc còn sống, lúc đã qua đời,
làm anh
nhận ra rằng, trong đôi mắt của chàng Meursault là ánh nắng mặt biển .
Và dù
cho rằng, người mẹ đau yếu, nhỏ nhoi, nhưng tình của mẹ vẫn là biển.
Khi Thụy thức dậy sáng hôm sau, trên mặt bàn còn
nguyên
bức điện tín của Ninh Hà. Và trong lúc đứng im, Thụy hình dung lại
những ngày
tháng của một thời đã qua tưởng chừng lâu lắm, trong ảnh tượng của nàng.
Ngày trở lại ca làm việc, vào giờ ăn trưa Thụy gặp
vị
Giám đốc. Thụy xin được một tuần phép. Sự chấp thuận dễ dàng này của vị
Trung
Tá là anh có sự khéo léo và chân tình trình bày câu chuyện của mình và
người
bạn gái, mà nói tằng, nàng là em của anh. Trung tá B. làm Giám đốc
trung tâm
Không trợ III là người điềm đạm, mực thước, có sự chín chắn trong cách
điều
hành và phân phối các phòng ban của trung tâm. Ông là vị Chỉ huy có
nhiều kinh
nghiệm, Xuất thân Khóa I Thủ Đức và đã học trường Không Quân Salon bên
Pháp.
Thụy tuy cấp nhỏ, nhưng được sự thương mến của ông, ngòai khả năng làm
việc, anh còn có chút năng khiếu văn
nghệ, và những bài anh viết luôn được đăng trên báo Lý Tưởng. Chính ông
là
người khuyến khích anh theo con đường văn học. Đôi lúc có dịp chuyện
trò trong
giờ nghỉ, Thụy và ông nói chuyện văn chương. Văn học thế giới, ông hiểu
rất sâu
và rộng về văn chương Pháp và Mỹ. Thụy trò chuyện với ông qua những suy
nghĩ
độc lập của mình. Thời đi học, môn tiếng Pháp Sinh ngữ chính anh được
học các
tác giả cổ điển Racine, Corneille, Chateaubriand, còn những tác giả mới
về sau
này anh được đọc qua các bản dịch, và
tạp chí Văn giúp anh mở rộng kiến thức với những số báo giới thiệu các
nhà văn
quốc tế. Mỗi tháng, Thụy dành tiền mua hai số báo này và lưu giữ để học
viết
văn. Khi đọc xong, Thụy hay đưa cho ông đọc. Số đặc biệt về Saint
Exuypéry có
những bài nhận định, có tiểu sử, và những đọan trích văn ông rất thích.
Ngày thứ sáu Ninh Hà lên đường. Chuyến bay cất cánh
rời
Đà nẵng lúc 9 giờ sáng và tới Sài Gòn sau gần hai tiếng đồng hồ.
Ở phòng đợi, rất đông hành khách đón thân nhân. Giữa
khung cảnh sang trọng, lịch sự, Thụy cảm thấy một niềm vui được dự phần
với mọi
người, và đây là lần đầu tiên anh đi đến phi trường để đón một người mà
người
này đặc biệt hơn hết trong cuộc đời mình. Giữa anh và nàng là bạn học.
Giữa anh
và nàng, hiểu rằng sự xa cách là tình yêu, sự gần gũi là tiếng nói. Sau
một
thời gian biết nhau, nàng coi Thụy như người anh và những lá thư hai
người viết
cho nhau đọc đều cất giấu một nỗi niềm trong sự rung động của ngôn ngữ.
Hôm nay
Thụy có thể nhận ra tuổi trẻ của mình trong ánh sáng với quần áo mặc
sạch sẽ,
tươm tất, tóc chải gọn và anh đến đây tâm hồn vẫn còn chút dư vị của ly
cà phê
sữa vừa mới uống trước lúc đi. Và, khi gặp Ninh Hà ,Thụy
có chuẩn bị mời nàng bữa ăn nhẹ, hoặc bữa ăn
trưa nếu chuyến bay đến trễ.
Hành khách của chuyến bay đang ra lối cửa chính.
Người
nào cũng mang va li, hành lý xách tay bên mình. Ninh Hà vừa xuất hiện,
trông
thấy Thụy cặp mắt nàng vui lên với nụ cười sáng lên giữa khuôn mặt rạng
rỡ.
Thụy bước nhanh tới, nhìn Ninh Hà đẹp lạ lùng. Nàng mặc chiếc áo dài
xanh có
những chấm bông trắng lấm tấm, tóc xõa xuống vai, và trên gương mặt tỏa
ra một
vùng ánh sáng dịu hiền.
Nàng giữ lấy cái túi xách còn đưa chiếc va li cho
Thụy.
Tới giữa phòng đợi, hai người chợt ngừng với đôi mắt còn bỡ ngỡ. Bên
ngòai cửa,
chiếc xe ca đưa hành khách về trạm ở thành phố đang chờ. Ninh Hà nói
với Thụy:
-Em
muốn về nhà bằng taxi.
-Anh
cũng nghĩ là nên vậy.
Theo xe ca về tới trạm, mình lại còn đón xe về nhà bác T. nữa.
Thì giờ còn rộng rãi. Thụy và Ninh Hà đi tới nhà
hàng ăn
ngay chỗ phòng đợi. Các dãy bàn ghế trong và ngòai có khách ngồi ăn
uống chuyện
trò. Thụy và Ninh Hà ra ngồi bên ngòai
hiên có đặt chiếc dù trên những bàn tròn. Nắng ấm áp, dễ chịu. Hai
người cùng
gọi một món ăn nhẹ và dùng cà phê sữa.
Nỗi vui mừng được gặp lại nhau lộ hết ra trên gương
mặt,
Thụy cũng như Ninh Hà đều vui, hạnh phúc.
Nụ cười thật sáng dịu trên đôi mắt nàng. Thụy say sưa ngắm vẻ đẹp trên
gương
mặt Ninh Hà, cặp mắt anh cứ tưởng như là cánh bướm màu xanh nhỏ nhởn
nhơ quanh
nàng. Sự duyên dáng của Ninh Hà rất là tự nhiên và rất quyến rũ. Bên
vai Ninh
Hà , mái tóc thả dài xuống nằm yên như một đứa bé nhỏ còn say ngủ.
Cô gái mang bữa ăn ra đặt trên chiếc khay. Ninh Hà
lặng
im chờ cô dọn xuống bàn. Khi cô ta bỏ đi, Thụy
lấy ra bức điện tín, và giọng vui, anh nói:
-Anh
thật là hồi hộp.
-Có
ngạc nhiên không ?
-Anh
thật mừng được gặp lại
em. Em vào ở lâu không ?
-Chừng
một hai tháng.
-Em có
dự định gì không ?
-Không.
Em vào thăm Duy . Duy
đi Thủ Đức rồi, anh không biết sao ?
-Anh
không hay.
-Vậy à.
Em cứ nghĩ là em đã
có viết thư cho anh.
-Không,
anh không nhận được
thư.
-Ba
cũng không nói gì với anh
sao ?
-Không
-Rất có
thể là em quên không
nói rõ trong thư cho anh.
Thụy cười:
-Không
sao. Gặp em ở đây là
biết tin đầy đủ rồi.
-Hôm
nay là thứ sáu. Ngày mai
em đi thăm hay là ngày mốt.
-Em
chưa chuẩn bị gì cả.
-Anh
nghĩ em nên thăm ngày
chủ nhật. Ngày mai rảnh rỗi, em đi mua sắm quà cho Duy.
Ninh Hà gật đầu đồng ý với Thụy. Bữa ăn bắt đầu, giờ
này
cũng đã gần trưa. Tiếng chuyện trò nho nhỏ, hai người hỏi thăm nhau về
chuyện
gia đình, công việc làm, và anh hết sức chú tâm khi nghe Ninh Hà nói về
dự định
của mình trong thời gian sắp tới. Hiện tại, nàng vẫn chưa có ý định đi
làm,
nhưng rồi cũng sẽ phải lo liệu cho cuộc sống. Duy đi quân trường, sau
chín
tháng là mãn khóa học ra đơn vị. Có thể, nàng đợi Duy ra trường sẽ đi
đơn vị nào
rồi mới quyết định nơi ăn chốn ở. Thụy lặng im, có những phút giây nghĩ
ngợi lo
lắng cho người bạn gái của mình. Mới xa Đà Nẵng, xa Huế, xa đất miền
Trung chưa
đến hai năm mà Thụy cứ ngỡ như là mình đã đi lâu, lâu lắm chưa về.
Ninh Hà có giọng nói rất hay. Ngày trước, tới nhà
nàng
chơi trò chuyện Thụy chỉ muốn ngồi nghe tiếng nàng nói. Không chỉ nghe,
mà còn
say ngắm vẻ đẹp của nàng khi nàng ham vui chuyện để lộ ra những nét đẹp
tự
nhiên qua dáng điệu của nàng. Khi nghe tiếng nói, lúc ngồi cạnh nhau,
trước mặt
nhau, tiếng nói ấy như thể bày ra cho bạn thấy một cô gái vừa cầm con
dao cắt
trái táo dòn cứng thành những khoanh nhỏ. Và nếu như, sau khi từ giã cô
gái ra
về, ngòai nỗi nhớ về một gương mặt xinh đẹp của nàng, tiếng nói của
nàng cũng
muốn gợi cho bạn âm thanh của những giọt rượu, nước trái cây chảy xuống
lòng
một chiếc ly thủy tinh.
Ngồi đây bên Ninh Hà, Thụy gói ghém lại từng chút
một của
bao nhiêu kỷ niệm ngày trước đến một ngày đầu hôm nay gặp lại để cất
giữ, để
một lúc nào đó được cùng nói với nhau, chúng mình suốt đời thương yêu
nhau.
Nhà bác T. ở gần chợ Bà Chiểu, đầu con đường Đỗ
Thành
Nhân. Lên taxi, Thụy ngồi bên cạnh Ninh Hà . Khi xe ra khỏi phi trường,
qua cửa
kính, Ninh Hà đưa mắt nhìn thành phố. Trong cái nhìn của nàng, những cảnh vật hiện ra đều tươi sáng và có sự
vui vẻ, thân thiện đón tiếp nàng. Thụy lặng yên, vì muốn để cho người
bạn gái
của mình bằng sự mới lạ trong cặp mắt nhìn thành phố mới đến, và dù là
lần đầu,
nhưng nàng sẽ không bỡ ngỡ, xa lạ. Bên cạnh nàng, có một người thân
quen là anh
đây. Thụy còn ý nghĩ, thành phố này muốn nói với Ninh Hà nàng là người
tình của
thành phố vừa đi đâu xa nay trở lại.
Chiếc taxi ngừng. Ninh Hà mở ví trả tiền, Thụy mở
cửa ra
trước đem hành lý xuống.
Xe ngừng ngay trước cổng nhà. Căn nhà rộng lớn như
một
biệt thự. Hai người đứng trước cổng chờ, bên trong, tiếng chuông vừa
bấm lên
nghe vang vọng.
Một lúc sau có người xuất hiện, mở cửa. Bác T. cười
reo
lên, mừng vui đón cô cháu gái. Ninh Hà giới thiệu tôi với bác. Bác T.,
Thụy
nhận ra bác ngay, vì ngày trước ở Quảng Trị bác là một trọng tài quốc
tế duy
nhất về bộ môn bóng tròn.
Bác T. đưa Thụy và Ninh Hà lên phòng khách. Căn nhà
bác
rộng, phòng khách có trưng nhiều bức tranh sơn mài rất đẹp. Bác T. tóc
đã bạc,
nhưng rất tự nhiên trong câu chuyện nói với Thụy . Ngày trước, bác làm
việc ở
tiệm thuốc Giơ Neo, tiệm thuốc lớn độc nhất của tỉnh. Bức ảnh chụp bác
và ông
Dược Sĩ Léon Volve, Thụy được trông thấy ở ngòai nhà Ninh Hà.
Ngồi nói chuyện không lâu, Thụy đứng lên xin kiếu
từ. Với
cái bắt tay nồng ấm, bác T. cũng mong gặp lại anh.
Ninh Hà tiễn Thụy ra cổng. Ngày chủ nhật Thụy đến sớm. Trước khi đi, Thụy và Ninh Hà ghé
quán uống cà phê. Sau đó, hai người đi tới bến xe gần chợ. Chiếc giỏ
mây khá
nặng, đầy thức ăn và quà mang cho Duy. Buổi sáng trời mát dịu. Lòng Thụy hết sức vui đi bên cạnh Ninh Hà. Vì yêu thích
tiếng nói của nàng, nên mỗi lần nghe tiếng nàng nói, Thụy có cảm giác
nhận được
một viên kẹo ngọt và thơm. Đôi lúc, Thụy chợt nghĩ tiếng nàng nói kéo
anh trở
lại tuổi thơ, về một nơi chốn thanh bình ở quê ngọai đứng trên con
đường làng
nhìn về phía bờ đê trong gió chiều lồng lộng thấp thóang vạt áo nâu đưa
bóng
dáng mẹ tôi trở về nhà. Như vậy, ở bên Ninh Hà anh có hạnh phúc, anh và
nàng có
thể chia cho nhau một tình bạn để được sống mãi bên nhau với cuộc đời.
Hôm nay, chắc chắn Duy đã sẵn sàng chờ nghe tên gọi.
Sài
Gòn đi Thủ Đức, xe chạy mất gần bốn chục phút. Vừa xuống bến đậu, cùng
với
chúng tôi có rất đông thân nhân đi thăm. Gia đình nào cũng mang quà
cáp, tay
ôm, tay xách. Từ bến, mọi người đi bộ chừng hai trăm mét hướng về phía
cổng
chính quân trường. Từ xa, ai cũng trông thấy các SVSQ trong bộ lễ phục
màu vàng
đeo giây biểu chương, nón béret đen. Bên trong khu tiếp tân, nhiều
chiếc lều
vải được dựng lên. Và nơi xa đó, có bóng cây, màu cỏ còn xanh tốt.
Hôm nay, Ninh Hà mặc lại chiếc áo dài xanh có những
bông
hoa trắng nhỏ lấm tấm như hôm mới đến xuống phi trường Tân Sơn Nhất.
Khi mặc áo
dài, thời đi học cũng như hôm nay đã vào đời, dáng vẻ chiếc áo hay màu
áo luôn
làm cho nàng có một vẻ đẹp quyến rũ, lạ lùng. Hai người bước đi bên
nhau với
tiếng nói chuyện gần gũi, ấm áp. Thỉnh thỏang, cặp mắt Ninh Hà sáng lên
một nụ
cười. Thụy đọc được qua nụ cười ấy một chút vui của hạnh phúc. Và, ý
nghĩa đó
như muốn nói để Thụy hiểu rằng, Ninh Hà tuy đã một mái gia đình, đã đi
lấy
chồng, nhưng anh vẫn là một người bạn thủy chung, luôn luôn nàng nghĩ
đến anh
và anh ở bên nàng. Thụy cũng dự phần trong niềm vui đó qua ý nghĩ của
Ninh Hà.
Bất ngờ, cơn gió hất nhẹ thân trước chiếc áo dài bay lên, vội vàng,
Ninh Hà đưa
tay nắm giữ lấy. Và, thoáng trong giây phút đó, nàng có
một nụ cười mơ mộng, xa xôi.
Khu tiếp tân ồn ào, náo nhiệt. Dọc con đường dốc từ
quân
trường ra khu tiếp tân, lần lượt từng nhóm TKS đều bước đi ra. Ở quanh
các lều,
những anh em ra trước đang vui chuyện với thân nhân và đang ăn uống.
Những SVSQ
khóa đàn anh chia từng nhóm phụ trách liên lạc với các Đại đội để gọi
tên TKS
ra gặp thân nhân. Quang cảnh buổi sáng chủ nhật thật vui, cảm động.
Thụy và
Ninh Hà đứng đợi dưới bóng cây. Khi lắng mình trong câu chuyện, tiếng
nói của
Ninh Hà làm tôi nhớ da diết tuổi học trò, nhớ lại thời hoa mộng của
tuổi trẻ,
nhớ đến một buổi sáng, nhớ bâng quơ một mối tình thuở gặp nàng, và
thành phố cũ
ấy. Không lâu, Duy ra tới. Duy vừa xuất hiện trên đường dốc mắt đang
tìm, cùng
lúc, tất cả ba người mừng vui nhận ra nhau và cao tay vẫy chào.
Không mất công tìm kiếm, đã định chỗ Ninh Hà đứng
Duy
nhanh chân bước tới. Gặp lại vợ sau mấy tháng xa cách, Duy mừng khôn tả.
Chỗ ba người đang gặp nhau là bóng cây im mát tỏa
rộng,
nên không cầm tìm ở nơi khác. Những tờ nhật báo trải rộng, và thức ăn,
quà cáp
từ trong cái giỏ mây được lấy ra hết bày thành một bữa tiệc vui. Hai
chai bia
lớn được rót đầy ba ly. Rót xong, ba người cùng nâng ly chúc mừng buổi
gặp
nhau. Những món ăn bày ra lúc này, tất cả, Ninh Hà tự làm lấy. Một con
gà quay
, bánh mì, cơm chiên, gõi tôm đu đủ, trái cây, mỗi người tự lấy muỗng
nĩa của
mình bỏ thức ăn vào đĩa giấy làm phần ăn. Trong phút giây này, niềm vui
ai cũng
như ai cả. Thỉnh thỏang, Duy và Thụy nói chuyện với nhau về một vài tin
tức
thời sự và chiến tranh.
Xong bữa ăn, Thụy đứng dậy đi ra chỗ căng tin mua cà
phê
về uống. Ba người tiếp tục câu chuyện, Thụy và Duy vừa uống cà phê, hút
thuốc.
Và đến lúc cần thời gian cho hai vợ chồng tâm sự, rất nhanh gọn, Thụy
cuốn
những tờ báo đứng lên mang đến thùng rác. Vừa có ý định, Thụy nói với
hai vợ
chồng tôi ghé tìm mấy người bạn đồng hương ở Quảng trị, đến chiều sẽ
trở lại.
Thụy một mình đi
nhởn nha quanh các lều và những nhà tiếp tân đã làm sẵn. Chỗ nào cũng
đông, và
đúng như anh nghĩ, anh được gặp lại khá nhiều bạn bè quen ở Quảng Trị
bị gọi
nhập ngũ. Gặp nhau, anh cùng họ mừng vui ngồi chuyện trò, tán dóc, nhắc
nhở
những ngày vui đã qua. Bây giờ, tuổi trẻ của chúng ta
đã gắn liền với cuộc chiến. Và những ước
mong, những mơ mộng, rồi cũng sẽ theo con đường chinh chiến để thử
thách sự đối
diện của mình trước chiến tranh .
Buổi chiều xuống, dần dần theo bóng nắng đi xa rời
khỏi
quân trường. Hết giờ tiếp tân, mọi người chia tay. Khi Thụy trở lại,
bỗng dưng
bàng hòang trước sự giận dữ củaNinh Hà. Duy đang bối rối, anh đưa mắt
nhìn Thụy
cầu cứu. Không rõ chuyện gì, nhưng Thụy cũng đóan chừng có thể là
chuyện riêng
tư bên gia đình Duy có liên quan đến nàng.
Rồi một giọng nhỏ nhẹ, Duy nói với Thụy:
-Anh
đưa giúp Ninh Hà về
nghe.
Thụy bắt tay Duy, nói:
-Giữ
gìn sức khỏe. Gặp nhau
sau.
Từ lối cổng tiếp tân, Thụy và Ninh Hà cùng theo
những
thân nhân ra về, đi bộ đến bến đậu xe lam. Buổi chiều trở gió. Trên con
đường
đất, Thụy im lặng đi bên cạnh người bạn gái và đang nghe tiếng nàng
khóc. Một
đôi câu nói dỗ dành của anh tựa như một vệt khói tan rất nhanh giữa
buổi chiều.
Không nói gì với chàng, nàng chỉ khóc.
Tới bến xe, vừa gặp chuyến, hai người cùng lên ngồi
cạnh
nhau. Khách đông, vừa lên đủ là tài xế rồ máy chạy liền. Thụy ngồi im
như là
pho tượng. Tiếng Ninh Hà khóc, nước mắt nàng
của bạn tôi đã làm ướt đẫm chiếc khăn tay.
Sau gần một giờ chạy theo con đường trong của quận
lỵ, xe
về đến Sài Gòn, dừng ở bến chính. Hành khách lặng lẽ xuống. Ninh Hà và
Thụy xuống sau cùng. Buổi chiều tắt hết
nắng. Nhìn quaThụy, Ninh Hà nói:
-Anh
Thụy về nghe.
Thụy ngỡ ngàng
nhìn lại Ninh Hà. Tiếp lời, nàng nói:
-Em về
một mình được.
V
Ngày thứ sáu, thi xong hai môn vấn đáp sinh ngữ Anh, Pháp, lòng Oanh cảm thấy nhẹ nhõm, nét
hớn hở ửng hồng trên gương mặt, và niềm vui theo nhau dâng lên. Ở nhà
một
mình, bây giờ sau bữa ăn nhẹ Oanh bỏ giấc ngủ trưa vội thu xếp quần áo, ít sách
vở và đồ dùng cho vào túi xách rồi rời khỏi nhà trọ, đón xích lô ra bến
xe Huế
đi Đà Nẵng. Oanh sẽ ở chơi với ba má, các em cô trong hai ngày cuối
tuần, đến
sáng thứ hai sẽ trở ra lại ngoài này, và đến ngày thứ ba kết quả thiệt
thọ chắc
chắn là sẽ niêm yết.
Khi nhìn đoàn xe nối nhau vượt đèo, Oanh vừa ngắm phong cảnh bên phía biển, rồi quay
sang nhìn đồi núi chập chùng, lần đầu tiên Oanh chợt mang cảm nghĩ về
cuộc đời
mình có dấu hiệu đổi khác, trong niềm tin thật mới. Bây giờ, hình ảnh
Nguyên
hiện ra càng rõ nét , nhớ anh, cô thật quá thương trong suốt tuần lễ cô
chuẩn
bị bài thi các môn loạt II, tối nào Nguyên cũng ở bên cô lúc giảng bài,
lúc
kiểm tra bài, và chú tâm hơn hết vào hai môn Toán, Lý Hóa. Vào những
đêm ấy,
hai người bên nhau sống trong tình anh em ruột thịt. Và, mối xúc động
này trở
nên có tác động hiệu lực, Oanh lắng nghe giảng bài, và cô thực sự hiểu
bài. Vậy
nên, bài thi hai môn Toán, Lý Hóa, Oanh làm đầy đủ hoàn tất, chắc chắn
là có
điểm dư phòng hờ bù cho môn yếu khác. Buổi chiều thứ tư vừa qua, kết
quả loạt
II niêm yết, Oanh đậu, và nhờ coi điểm, tổng cộng 5 môn, cô dư được 8
điểm. Tới
lúc này, cô đã tự tin , đầy hy vọng lấy được mảnh bằng Tú Tài II. Sáng
nay vào
vấn đáp, cô trả lời được, trong đó, phần đoạn dịch cô dịch suông sẻ,
đúng
nghĩa.
Lòng Mỵ Châu reo vui lên mỗi lần nghe tiếng nói Vân
Oanh
về đến nhà. Như nắng ấm trong ngày cuối
thu, hay đầu hè, gương mặt Mỵ Châu sáng rở lên và
đôi mắt to của cô bé
như thể vừa đang nhìn một con chim nhảy nhót trên cành cây. Không thể
nào quên
được cô em yêu dấu của mình, nên mỗi lần gặp, lòng Vân Oanh rất vui,
vừa tuôn
tràn ra nước mắt, đó là hạnh phúc của bao nhiêu thương yêu nàng dành
hết cho em
gái của mình. Khi nhìn từng giọt nước ấm làm đỏ cặp mắt Vân Oanh, bạn
như có
cảm giác nàng muốn cất giấu những nét vẽ trên một bức tranh về cuộc đời
chính
mình.
Hai ngày cuối tuần, thành phố Đà Nẵng đông vui. Bữa
ăn
sáng ở tiệm phở, cả nhà ngôi chung bàn đông vui. Bữa ăn trưa, ăn tối,
trong nhà
luôn nghe ồn vui tiếng cười nói, hòa nhịp sống với các gia đình quen
biết lâu
năm sống cùng chung khu phố. Về nhà, thời gian nghỉ Oanh nghe nhạc, đọc
sách,
chuyện trò với Mỵ Châu, đôi khi nàng thay thế mẹ tiếp khách mấy người
bà con
hai bên nội ngoại tới nhà thăm. Và, dự tính về lễ hỏi cho Nguyên và
Oanh đang
tới lúc, mỗi ngày một gần. Ngày tới ấy, bông hoa hồng xinh đẹp của cô
bắt đầu
nở.
Oanh lại trở ra Huế, sau hai ngày vui về thăm nhà,
và tới
đây, bỗng dưng sự yên lặng theo bước chân cô gái một mình từ nơi bến xe
đỗ trở
về căn nhà trọ. Oanh cảm thấy buồn nhớ vì vắng Nguyên. Nguyên có chuyến
đi công
tác lên tiền đồn, thời gian cũng phải hơn tuần lễ.
Buổi chiều, Oanh đạp xe qua trường Mỹ Thuật, lúc này
đang
còn nghỉ hè, cô vào văn phòng nạp thêm số giấy tờ liên quan đến năm học
tới, là
năm cuối cùng thi tốt nghiệp. Khi xong việc ra về , vừa tới cổng Oanh
gặp thầy
Văn, hai thầy trò đứng nói chuyện chốc lát, và nhân thể người thầy hỏi
cô đôi
chút chuyện riêng về Nguyên, là người bạn, và cô Oanh học trò là ý trung nhân yêu quí của chàng.
Chừng
khoảng nửa tiếng, thầy
trò chia tay. Thầy Văn vào trường, còn Oanh , một mình thanh thản đạp
xe vào
khu Đại Nội. Qua khỏi vòm cổng, hai bên là vườn trồng đủ các thứ cây ăn
trái,
nhiều nhất là mận, mùa này mận đang sai quả. Lối vào Thái Miếu nhỏ hẹp
lát
gạch, cũng rất nhiều cây phủ bóng mát, và nơi này là nơi thờ những
hương án của
vua từ Thế Tổ Gia Long đến vua Duy Tân. Không khí trong Thái Miếu mang
vẻ âm u,
nhưng có ánh đèn điện rọi sáng, và qua từng bước nhớ tưởng, Oanh lặng
lẽ vừa
đi, vừa nhìn lại từng bức ảnh của từng vị vua qua mỗi thời đại thăng trầm của lịch sử.
Triệu
Miếu, gần cạnh đó, nơi
đây thờ các vị Chúa, từ Chúa Sải Nguyễn
Hoàng là người sáng lập nên triều đại nhà Nguyễn và sự hưng thịnh của
miền đằng
trong từ lúc khởi dựng dần dần đem nước Việt
vào xa đến tận miền Nam, cuối cùng sự hình thành nên
một nướcViệt Nam
ngày nay.
Oanh
dắt xe đạp qua vòm cổng,
ngang Triệu Miếu cô không vào bên trong mà đứng ngoài nhìn quang cảnh.
Từ nơi
này, có một lối đi dẫn tới nơi trưng bày Cửu Đỉnh bằng đồng, ở đó, cũng
là nơi
sinh viên đến đây học vẽ theo lối rập (estampé) in bằng giấy dó những
hình chạm
trỗ trên mổi chiếc lư đồng lớn, rất là uy nghi, và ý nghĩa Cửu Đỉnh
cũng là sức
mạnh cầm quyền của các nhà vua.
Từ chỗ
Oanh vừa dừng bước đưa
tầm mắt nhìn rộng và xa, phía bên phải là Cửu Đỉnh còn bên trái, một
con đường
dài băng qua bãi đất trống, khi tới chiếc cầu hẹp, lại có con đường dẫn
sang
Tàng Kinh Các, một con đường khác nữa đi tới Điện Thái Hòa.
Nắng
chiếu in xuống bóng dáng
Oanh với chiếc áo dài trắng và chiếc xe đạp đang di chuyển. Gió thổi
tung mái
tóc sau lưng nàng bay lên. Cô gái cứ mặc
cho gió ùa ngập đến và bao quanh mình.
Tới sân
ngoài Điện Thái Hòa,
cô gái xuống. Tựa xe bên gốc cây sứ, Oanh chậm bước, và luôn muốn dừng
bước để
chiêm ngưỡng quang cảnh. Bên ngoài Điện Thái Hòa, cảnh vật và quần thể
của kiến trúc thật là hài hòa, uy nghi,
đúng là
chốn cảnh cung đình điện ngọc của thời
các vua chúa ngày xưa.
Sân
đình lát gạch thật rộng,
đi lần ra phía ngoài tới một chiếc cầu
lát đá bắc qua hồ nước, rồi đến cửa Ngọï
môn. Phía trên mái cửa Ngọ Môn là Lầu Ngũ Phụng. Đứng trên dãy lầu này
nhìn
xuống, bên dưới là hồ sen xanh mướt những cánh lá và hoa của mùa sen
cũng đang
nở.
Oanh
nhìn ngắm khung cảnh Đại
Nội , từ mấy năm qua, cảnh đã rất quen thuộc với nàng, nhưng hôm nay
lần đầu
tiên nàng đối diện với cảnh bằng những cảm xúc thật đặc biệt như thể cô
là một
du khách đầu từ xa mới đến. Một lúc sau, cô gái bước từng bước lên chín
bậc
thềm cấp rồi đi vào bên trong cung điện.
Oanh
cảm thấy nhỏ bé, trong
cảm giác ngập ngừng như thể cô vừa nhận ra cái non nớt
về tài năng của mình trước một bức họa
lớn.
Hai bên
cung điện, những hàng
cột tròn bằng đá to lớn, chạm trổ ánh lên từng màu sáng của nghệ thuật
rất nổi
bật, và chỉ cần chạm tay vào mặt đá là
nghe ra âm thanh huyền nhiệm một thời nào đó của lịch sử.
Ngay
giữa chính điện, là ngai
vàng cũa Vua. Nền điện lát bằng đá thanh mát lạnh, càng lúc, cô gái
nhận ra
hương sắc thơm mát của đá hoa bên dưới thấm lạnh lên chân cô, và đến cả
thân
người cô. Vâng, nơi cung điện này chính là sự nghiệp to tát và lâu dài,
từ đới
vua Thế Tổ Gia Long khai lập đến các đời vua khác.
Viện
Bảo tàng nằm gần cạnh
trường Mỹ Thuật của Oanh học, nhưng cô không có ý định thăm viếng nữa.
Một
mình với hạnh phúc đã làm
nên vẻ yêu thương, giờ thì cô gái ra về.
Oanh không về nhà ngay sau khi ra khỏi Đại Nội, cô
đạp xe
xuống phố Trần Hưng Đạo ý định vào các nhà sách, rất có thể cô xem ciné nếu có phim hay. Ngày hôm qua buổi sáng
chủ nhật, cô đi phố chơi, và xem cuốn phim Vacance Romaine ở rạp hát
Lido. Cuốn
phim thật hay, hai tài từ nổi tiếng đóng là Audrey Hepburn và Gregory
Peck.
Huế, những buổi chiều dạo trên phố chính Trần Hưng
Đạo,
bạn luôn thấy cảnh sinh hoạt chuyển động rất nhịp nhàng.
Nắng cuối hè đang cho thành phố ít nhiều mùi
vị thơm và ấm. Và trong nắng chiều, bóng dáng chiếc áo dài trắng của
các cô gái
Huế trông rất tha thướt. Nhưng mà,trong những dáng ấy, một mình Oanh
thật nổi
bật.
Oanh dừng xe đạp trước cửa hiệu sách Gia Long. Đây
là
hiệu sách lớn nhất nằm trên dãy phố chính này. Những ai sách mua ở đây,
thường
được bớt 20% trên giá bìa. Khi thấy Oanh
xuất hiện, nhẹ bước đi vào cửa hiệu, một người khách trông thấy bỗng
đưa mắt
nhìn. Và, chiều nay, trong hiệu sách cũng có đông các chàng trai, học
sinh có,
sinh viên cũng có.
Oanh chậm bước, mắt vừa ngước tìm kiếm sách qua từng
dãy
kệ. Nàng đọc từng tựa sách, và đang có ý chọn. Bên cạnh một cô gái,
Oanh đứng
tìm sách ở hàng kệ dành cho tiểu thuyết.
Oanh với tay lấy cuốn truyện Gìn Vàng Giữ Ngọc
xuống, mới
lật qua bỗng nghe tiếng cô gái đứng bên.
-Chị
Vân Oanh.
-Ủa, Liên An.
-Hay
thật, em và chị gặp
nhau. Anh Nguyên đâu ?
-Anh đi
công tác chưa về.
Hai người nhìn nhau, đôi mắt chan chứa niềm vui, và
thoáng chợt nghĩ những kỷ niễm về một thành phố, sau này gợi nhớ, ai
cũng tin
rằng, tới ngày ấy, mình đã sống một nơi phương trời xa.
Trên tay hai cô gái, cô nào cũng giữ lấy sách mình
đã
chọn Oanh với cuốn Gìn Vàng Giữ Ngọc, Liên An là bộ Khu rừng lau. Những
cuốn
sách này trên tay hai cô gái, tác già là nhà văn Doãn Quốc Sỹ.
Oanh nói:
-Phương cho mình hay, Liên An đi Sài Gòn ?
-Em
cũng vừa mới về.
-Đi Sài
Gòn chơi vui không ?
-Cũng
vui, chị Oanh . Em vào
đó nạp đơn xin du học.
-Liên
An đi Pháp ?
-Không,
em xin học bổng đi
Mỹ.
-Chừng
nào Liên An đi ?
-Em
đang chờ, nhưng hy vọng.
-Phương nói, Liên An đậu hạng Bình.
-Em
cũng may mắn. Bài luận
Triết, em trúng tủ.
-Nhưng
Liên An luôn là học
sinh giỏi.
Liên An ngước mắt, nhìn Vân Oanh , cô nói:
-Chị
Vân Oanh đẹp quá.
-Khen
hoài.
-Thật
đó.
-Vậy
mình đãi bạn đi uống
nước nghe.
Liên An nói:
-Để em
khao chị.
-Hay
quá. Mình rất mừng vui
Liên An được đi du học.
-Cám ơn
chị Oanh.
Hai người dời kệ sách đi ra ngoài, tới dừng chờ ở
quầy
tính tiền. Bên nhau, tiếng trò chuyện nho nhỏ vừa đủ nghe.
Khi ra đường, hai cô gái áo trắng đạp xe đi bên nhau
hướng về phía cầu, vượt qua đó, đổ xuống con dốc rồi đến một quán nước
nhìn ra
bờ sông. Gởi xe ở bãi đất trống phía
trên, rồi hai người đi bộ trở lại quán. Khi hai cô gái đi qua, thanh
niên trong
quán đưa mắt nhìn. Nhưng cả hai cô rất tự nhiên, và chọn ngồi một bàn ngoài cuối mái hiên.
Đứa bé gái con chủ quán đến, Liên An hỏi ý Oanh xong
bảo:
-Hai ly
chè đậu xanh.
Khi đứa bé gái trở gót vào quán, Oanh hỏi:
-Liên
An đi Sài gòn lâu không
?
-Em đi
đúng một tháng. Em có
lên chơi Đà Lạt một tuần.
-Mùa
hè, ở Đà Lạt mưa phải không ?
-Có
mưa, nhưng buổi chiều
nhìn thành phố rất đẹp.
Oanh nói:
-Cảnh
của Đà Lạt là cảnh của
sương mù, rừng thông.
Liên An hỏi:
-Chị
Oanh có ở Đà Lạt rồi.
-Không,
mình có đi chơi.
Nhưng cũng chỉ mới biết phố, một vài thắng cảnh về thác và vườn hoa.
Đứa bé gái trở lại với khay chè, nó đặt ly bên Oanh
trước
rồi đến Liên An. Trên bàn có một thau nhỏ vun đầy nước đá bào.
-Em mời
chị, Liên An nói.
-Cám ơn
Liên An.
Vị chè ngọt thanh, đậu mềm nhuyễn , vừa dẻo thơm.
Hai cô
ăn thật chậm, thưởng thức món chè như thể là chính mình nghĩ ra được
câu chuyện
hay.
-Năm
nay là năm cuối của chị
?
-Không,
năm tới.
-Chị có
dự tính triển lãm
tranh không ?
-Cũng
rất muốn, nhưng chưa
chuẩn bị.
-Bức
tranh lụa chị triển lãm
dịp Tết, em rất thích.
-Hôm
đó, lễ hội thật là vui.
-Những
lệ hội làm thành phố
này như có sự đổi mùa.
-Mình
cũng có ý tường như
Liên An vậy .
Rồi ngừng ít giây, hai người đưa mắt nhìn nhau. Bỗng
Liên
An hỏi:
-Anh
Thụy có biết chị không ?
-Mình
chưa gặp , chỉ nghe anh
Nguyên nhắc.
-Em có
gặp anh ấy.
-Ở Đà Lạt ?
-Không,
ở Sài gòn. Anh ấy rất
là vui tính. Gặp nhau trên phố Catinat, anh mời em vào quán cà phê
Pagode. Ở
quán này, có bà caissière rất đẹp. Anh ấy coi bộ si tình, nói chuyện về
bà này
cho em nghe như một nhân vật tiểu thuyết.
-Liên
An có thấy bà không ?
-Em có
thấy. Quả thực bà ấy
đẹp, một vẻ đẹp buồn trên cặp mắt.
-Thụy, rất có tâm hồn nghệ sĩ.
Một giọng vui, Liên An kể lại buổi gặp Thụy đầu tiên
ở
nhà Phương, và trước đó là một chuyến xe buýt lên tới trạm nhà ga.
Nga nói:
-Lần đó
em anh Nguyên về
phép, mình đang ở Đà Nẵng.
-Anh
Thụy có hỏi thăm chị.
Anh ấy nói, chưa hề gặp chị, nhưng trong trí tưởng hình dung được bóng
dáng của
chị.
-Rồi
anh thấy sao ?, em hỏi.
Anh Thụy nói:
-Cô Vân
Oanh cho anh một hình
ảnh một thiếu nữ như đã gặp đâu từ trước. Và, chỉ có một hình ảnh lần
gặp ấy là
mãi mãi .
Vân Oanh cười, nàng hỏi:
-Anh ấy
có biết Liên An du
học không ?
-Có, em
có nói. Ít ngày sau
đó, anh tìm gặp em ở Nha du học.
-Mình
chưa gặp, nhưng luôn
nghĩ người em của Nguyên có lòng nhân hậu.
Ngồi trong quán khá lâu, Liên An gọi đứa bé đến trả
tiền,
rồi hai người rời quán đến bãi gởi xe đạp.
Khi lấy xe ra đường, Liên An nói:
-Em
phải đến nhà bà cô ?
-Vậy
hả.
Nhưng hai cô gái vẫn còn chuyện trò, đạp xe đi bên
nhau
một quãng tới cây cầu rồi mới chia tay.
Về nhà, sự yên lặng làm Oanh cảm thấy dễ chịu, nhưng
nàng
đâm ra nhớ Nguyên, rất mong đợi tối nay chàng về nhà.
Oanh kéo cửa màn khi thay quần áo. Bên ngoài trời
đang
gió. Oanh thay bộ quần áo nhẹ màu xanh
hạt cải, tự dưng có cảm giác sao mình còn
nhỏ bé quá.
Không cảm thấy đói, nên cô gái ra phòng ngoài mở cửa
sổ
nhìn ra buổi chiều trên dòng sông. Ở Huế, hình ảnh buổi chiều trên các
dòng
sông luôn luôn là một khúc nhạc êm dịu thật đẹp buồn. Ở mỗi cảnh của
khúc nhạc,
bạn như trông thấy hình bóng một cô gái, lúc với đôi mát, lúc với khuôn
mặt, và
hẳn rằng, chúng ta phải đợi chờ những buồi sáng thu, những chiều mùa
đông dài ,
tất cả trong sương mù bao phủ kín , lúc ấy, bạn nghĩ nhiều đến một mái
tóc tha
hương.
Oanh đóng kín các cánh cửa khi trời tối. Dưới đèn
sáng,
nàng bắt đầu bữa ăn. Và rồi, tối nay nàng đi nghỉ sớm. Trong giấc ngủ,
nàng nằm
mơ thấy mình đi lên Đà Lạt bằng một chuyến xe lửa. Nàng có cảm giác như
mình đi
thực, và ngồi bên cửa cửa toa nàng trông thấy cảnh vật rừng núi, dòng
suối của
miền cao nguyên trong buổi chiều. Nàng thức dậy khi biết mình đến thành
phố vào
một ngày mưa nặng hạt, trong cảnh vật dày kín sương mù.
Oanh bỗng nói với Nguyên:
-Hạnh
phúc của đôi ta là mưa.
Nguyên nói:
-Những
ngày mưa dài trên
thành phố, anh và em đi bên nhau.
-Em rất
thích trời mưa.
-Anh
cũng như em. Vậy, nơi
thành phố này, mình hãy đi bên nhau dưới trời mưa.
Buổi sáng thức dậy, Oanh bỗng có cảm giác trống
không.
Trưa tới, nóng bức lạ thường. Và đến buổi chiều, con đường Lê Lợi đông
vui như
lễ hội.
Nhiều lần, Oanh đưa bàn tay áp mạnh lên phía trái
tim để
chặn từng nhịp đập rất hồi hộp.
Oanh đứng ở trường Đồng Khánh rất lâu, và cô vẫn
đứng đó
một mình vì không có ai quen với cô cả. Một lúc, Oanh bỗng nghe tiếng
gọi
hối hả. Oanh thật vui vừa
nhận ra Phương . Bên kia đường, Phương phóng
xe nhanh qua. Chưa kịp xuống, Oanh đã
cầm tay Phương , nói:
-Mình
đậu rồi.
-Em
biết. Đi tìm chị nãy giờ.
-Phương ở dưới phố lên, hay nhà tới.
-Em tới
đây coi bảng có tên
chị, em về nhà chị thấy đóng cửa liền phóng xe xuống phố tìm chị.
-Đông
quá, mình chen nãy giờ.
Phương và Oanh nhìn nhau cười. Một
giọng bình thường, Phương nói:
-Em
biết thế nào chị cũng
dậu.
-Mình
rất mừng.
Niềm vui chưa hết. Nhưng Oanh cũng không còn ước ao
để
quay lại nhìn tên mình bảng vàng lần nữa.
-Về nhà
chơi.
Oanh không đi xe đạp nên hai chị em đi bộ, từ trường về đến nhà cũng gần. Oanh mặc áo hồng,
và hôm nay trước khi đi coi bảng nàng ước mong màu áo hồng là màu của
duyên
may. Với áo tím, Oanh rất yêu thích,
đó là một màu làm tôn vinh một vẻ đẹp
buồn của Oanh, chết được. Nhưng mà tôi chỉ nói thế với bạn thôi, với
nàng qua
bóng dáng những chiếc áo dài, hương sắc áo nào cũng đều làm nàng đẹp.
Nàng xinh
đẹp trong áo vàng của thơ Nguyên Sa khi về yêu hoa cúc, nàng thật duyên
dáng
với áo xanh, nghe cả dòng nhạc đang tuôn tràn gió bay từ muôn phía tới
đây ngập
hồn anh , nhưng hôm nay, Oanh đẹp như hoa hồng của màu áo.
Phương nói lớn:
-Em
thích đi Sài Gòn mà anh
Lăng không muốn.
-Phương không thích học ở Huế sao ?
-Không
phải là nơi học. Nhưng
ở Huế buồn lặng quá, nên em muốn đi Sài Gòn.
-Phương vào trong đó một mình ?
-Em đi
một mình.
-Phương vào đó, anh em bà con cũng đông.
-Em vẫn
muốn độc lập.
Oanh định nói với Phương về người em của Nguyên, mà
thực
lòng, đã lâu nay nàng rất mong gặp. Nàng vẫn
có ý nghĩ, và sự qua hình dung, phần nào người em ấy
cũng giống Nguyên.
Liên An nói, anh Thụy hiền lành trong vẻ khô khan, trầm lắng. Ấy thế,
những câu
chuyện cậu ta là những chuyện tình lãng mạn, và rất hiện sinh nữa.
Khi những ngọn gió làm rung động những chiếc lá,
thân áo
của Oanh bỗng bay lên như tiếng đập nhẹ nhàng của cánh chim. Nàng đưa hai tay ra nắm giữ , miệng mỉm cười.
Nắng cuối hè chói chang trong linh hồn phượng vĩ còn
rực đỏ sắc hoa. Khi gió làm từng cánh phượng đỏ rớt
xuống, nhìn Oanh qua
mái tóc, và dáng bước đi, từ phía đàng sau đã có một đôi lúc tôi nói
với bạn về
nỗi ngẩn ngơ của lòng tôi nhớ tưởng đến nàng.
Về tới nhà, Phương dựng chiếc xe đạp dưới bóng cây
trứng
cá. Vào nhà, hai cô đi thằng vào trong, và Phương đã dừng lại ngay
trước những
bức tranh vẽ .
Một lúc lâu, Phương nói:
-Em
thích những tranh vẽ của
chị. Trong tranh chi, màu xanh và vàng rất là tươi. Nhưng với máu rím
chị dùng,
không thể đem so sánh với nét đẹp của chị khi mặc áo dài.
Oanh nắm bàn tay Phương. Rồi nàng tiếp lời về bức
tranh
vẽ con dang dở.
-Đúng
màu xanh của chị rất
hợp với cảnh trên biển.
-Phương thực là hiểu mình.
-Em
không vẽ được, nhưng hội
họa là nguồn sáng tạo của em trong cuộc sống.
Oanh để lại Phương một mình trước những bức tranh
bên
phòng vẽ. Phòng này nhỏ, không rộng, nhưng vừa đủ chỗ ngồi tâm sự với
tách trà
hay ly cà phê vào những ngày thời tiết
lạnh lẽo, và xa vắng.
Thời tiết vẫn còn những ngày hè chưa hết. Lúc này,
trên
đường Lê Lợi, gió, hoa phượng và những tiếng ồn vui của đám học trò vừa
mới thi
đậu, tạo nên một đời sống đích thực cho riêng Huế. Ở nơi đây, thành phố
vẫn
luôn mong đợi những người đi xa, ngày mai vẫn chưa về .
VI
Nguyên đi công tác lên tiền đồn đúng mưới ngày, vừa
về
kịp hôm nay để nghe tin vui người yêu thi đậu. Oanh đang dọn cho mình
bữa ăn
tối, thì Nguyên tới. Nàng hết sức ngạc nhiên như chưa bao giờ xảy ra
như vậy
cả, rồi đột nhiên hai cánh tay dang rộng nàng lao tới, Nguyên đón sẵn,
hai
người ôm nhau mừng vui, lẫn xúc động.
Tiếng Oanh nói:
-Em quá
nhớ anh.
-Anh
biết, và còn biết cả tin
vui của em nữa.
-Ai cho
anh hay vậy ?
-Không,
không có ai cả. Nhưng
từ hôm em thi đến lúc có kết quả, anh cảm thấy sao trong người mình
thật là dễ
chịu, yêu đời.
-Em cám
ơn anh đã dạy cho em
học.
-Còn
anh, hạnh phúc được nhớ
em.
Hai người nhìn nhau, đôi mắt thật âu yếm. Nguyên nắm
giữ
tay Oanh, giọng vui nói:
-Con
mèo yêu quí của anh.
-Thôi,
đi ăn cơm.
Nguyên giữ tay Oanh lại.
-Mình
xuống phố ăn đi em.
-Cơm
dọn sẵn rồi.
-Đi
xuống phố ăn cho vui, để
mừng em thi đậu mà.
-Ngày
mai, hay mốt đi.
-Anh
muốn anh là người mừng
tin vui của em trước hết.
Oanh hơi lưỡng lự.
Nàng nhìn sang bàn ăn, hai chiếc ghế đối diện và thức ăn đã dọn sẵn.
Nhưng bữa
ăn cũng bình thường, chỉ hai món cá và canh rau.
-Đi ăn
đâu, anh.
-Đi Bao
Vinh.
-Xa
quá. Mấy giờ rồi ?
Nguyên nhìn đồng hồ tay, nói:
-Còn
sớm, chưa đến tám giờ.
Oanh nói:
-Anh ra
phòng khách đi.
Nguyên đi ra, vừa rút tờ báo nhét ở túi dết. Phòng
khách
tương đối rộng, thoáng đãng, ánh đèn néon chiếu xuống sáng dịu. Ở phòng
khách
này, Oanh trang trí rất mỹ thuật, có bình hoa và con gấu bông đặt trên
chiếc tủ
kính, hai bên tường có mấy bức tranh họa đóng khung cỡ nhỏ.
Nguyên ngồi xuống ghế đọc báo. Bên trong, Oanh thay
quần
áo, nàng mặc áo sơ mi trắng, quần tây màu xám đậm. Khi trở ra, Oanh lấy
chiếc
lồng bàn nhỏ đậy lại cơm và thức ăn, rồi nàng kéo chiếc ghế thấp ngồi
xuống
nhìn vào tấm gương soi trang điểm nhẹ trên cặp mắt.
Kim đồng hồ tường chỉ đúng tám giờ. Oanh đứng lên,
vắt
chiếc áo blouson bên cánh tay, rồi quay gót đi ra phòng khách.
-Trông
em lạ quá.
-Lạ
không ?
-Em có
chiếc mũ nỉ hồi nào
vậy?
-Có lâu
rồi, tại em ít đội.
Nguyên gấp tờ báo, xong để lại trên bàn. Oanh mở cửa
nhìn
ra đường, gió đêm lạnh. Trên đường, có hai người đàn ông đang đạp xe
nhanh,
tiếng nói chuyện đứt quãng. Rồi con đường vắng trở lại. Bên kia ngôi
trường, ở
tầng lầu thứ ba, các dãy phòng đều mở đèn sáng, có bóng một vài chủng
sinh đứng
bên cửa nhìn xuống dòng sông và trông qua bên đây con đường.
Gió đêm thổi mơn man, sương mù trải mỏng qua những
hàng
cây. Nguyên cười hỏi:
-Sao,
em tìm ra ý thơ chưa ?
-Đừng
có trêu em nghe.
Oanh khép cửa, xong mở túi xách
lấy chìa khóa vặn theo chiều kim đồng hồ
hai vòng.
Chiếc xe Jeep đậu gần cổng, hướng lên dốc. Bàn tay
Oanh
trong tay Nguyên, hai người bước đi nanh.
Nguyên mở đèn sáng trước khi cho xe nổ máy. Vào giờ
này,
có chuyến tàu về đến ga.
Nguyên đạp côn, gài số hai rồi xe lăn bánh. Lên ngã
tư,
xe rẽ trái qua cầu. Vì không gấp vội, Nguyên cho xe chạy chậm thong thả
chuyện
trò với Oanh. Nàng nói:
-Em
thấy anh đi công tác
luôn.
Nguyên đáp:
-Ở cấp
trung đoàn, gần với
mặt trận nên công việc của anh cũng lưu
động.
-Những
công việc chính của
anh là gì ?
-Không
phân định rõ được. Tùy
theo nhu cầu ỡ hậu phuơng cũng như ngoài chiến trường.
-Anh đi
luôn, em lo quá.
-Không
sao đâu. Em biết, việc
nào ở ban anh cũng giải quyết nhanh gọn để luôn có thì giờ về với em.
-Hôm
nay, anh đãi em ăn món gì ?
Nguyên cười bảo:
-Ăn
fromage
-Sao mà
ăn món này ?
Nguyên hãm thắng cho xe ngừng rất êm.
-Sao
vậy ?
-Em
nghiêng đầu qua đi.
-Thôi,
coi người ta đi đường
trông thấy.
Nhưng rồi, Oanh cũng chìu ý Nguyên. Nàng nghiêng
mình qua
để anh cúi xuống đặt môi hôn. Đôi môi
Oanh mềm ướt, ngọt ngào. Nguyên nuốt thật sâu nụ hôn yêu dấu được người
yêu
dành cho.
Hai người buông tay. Chiếc xe chạy trở lại. Và, lúc
này
cả hai cùng cảm thấy thú vị khi hiểu ra được ý nghĩ của nhau.
Bên trái con đường
Lê Lợi , khu công viên xuất hiện. Sươngmù giăng kín trên dòng sông, bên
kia
kinh thành Huế ánh đèn cũng mờ sáng trong màn sương. Ở quãng này, bắt
đầu nhộn
nhịp xe đạp, xe gắn máy và người đi chơi đêm. Ngôi trường Đồng Khánh
vẫn in cái
bóng màu vôi tím.
Oanh nói:
-Tối
nay quán sinh viên có
trình diễn ca nhạc.
-Em
muốn đi nghe không ?
-Tùy
anh.
-Tính
sau, đi ăn đã.
-Em
cũng đang đói đây.
-Hay là
xuống Bưu Điện.
-Vậy là
em khỏi yêu cầu anh.
Khu Morin đèn sáng trưng, không khí đêm nhộn nhịp,
và
khói thuốc lá bay lên từ những quán cà phê dọc vỉa hè. Quán nào cũng
đầy khách,
đám thanh niên ngồi đông và chuyện trò nghe ồn ào.
-Em đã
ghi danh chưa ?
-Anh
hỏi hay không ? Mới có
kết quả hôm nay, mừng chưa hết lớn mà...
-Ờ nhỉ,
anh lại tưởng như mùa
thi qua lâu rồi.
-Em
cũng có ý nghĩ như anh
vậy.
Xe vẫn chạy chậm. Tới
khu Bưu Điện, Nguyên nhìn quanh tìm chỗ đẫu xe. Hai
người bán quán ra
chào mời, Nguyên không đáp lời mắt đang tìm chỗ đậu xe. Nguyên chạy xe
lên phía
trên rồi trở đầu, chạy một quãng đến đường Trương Định và dừng xe bên
lề đường.
Trời đêm thu thật dễ chịu.
Có tiếng nhạc vọng từ
hội quán sinh viên, Oanh
nắm tay
Nguyên, theo bước anh dìu đi.
Có bốn quán ăn nằm trong khu Bưu Điện. Nguyên đưa
Oanh
trở lại quán ăn lần trước. Khi hai người vào, nhiều người khác đưa mắt
nhìn,
một vài người nói chuyện về nàng. Và, trên mắt người lạ nào cũng ánh
lên một nụ
cười thiện cảm.
Có bàn trống sâu bên trong. Ngồi ở bàn đó tuy hơi
tối,
nhưng có thể trông ra được hai con đường nằm phía sau dưới bóng tối
những hàng
cây.
Huế, thành phố này đôi khi cho bạn một cảm giác lạc
long
như thể bạn là kẻ từ đâu xa mới trở về.
Đứa nhỏ gái chờ Oanh đọc món ăn trên thực đơn. Nàng
gọi
cơm phần bốn món, nước uống làsinh tố.
Nguyên nhìn Oanh, anh mỉm cười. Nàng bảo:
-Anh
nhìn em hoài.
Nguyên vẫn lặng yên nhìn người mình yêu. Đôi mắt anh
thật
trìu mến, và trong thoáng giây ấy anh nhận ra được tình yêu của anh
dành cho
nàng. Anh trở về thành phố, để quên được những ngày vừa mới qua trong
chuyến đi
công tác, trong sức nóng của cuộc chiến, không phải, thế là xong phần
trách
nhiệm của mình, nhưng cứ mỗi lần anh trở về, anh vẫn cảm thấy chỉ có
Oanh làm
cho anh với dịu bớt đi nhiều những nỗi
ưu tư của tuổi trẻ về chiến tranh. Oanh, tên nàng là bóng cây im mát,
là không
gian rộng và đẹp của tình yêu.
-Hôm
nào anh mới đi trở lại ?
-Có thể
tuần tới.
-Tuần
này, anh ở hậu cứ.
Nguyên bỗng nhận ra trong câu hỏi của Oanh, muốn cho
anh
một sự liên đới giữa nàng và đơn vị anh phục vụ. Hai năm qua, từ khi
quen biết
Oanh, không chỉ tình yêu hai người đóng khung trong thành phố mà còn
dành cho
nhau một cuộc sống thật lãng mạn trong không khí chiến tranh. Nguyên
nhiều lần
đưa Oanh lên thăm căn cứ đóng quân của Trung đoàn ở trên một vùng đồi
cao, nơi
này, nàng quan sát thấy khung cảnh hoang vắng, hiểm trở, thấy những
cánh rừng,
những bóng núi, khói lửa từ nơi ấy dâng lên trong cảnh yên lặng của
buổi chiều.
Nhưng, nàng có sự chia sẻ từ tấm lòng chân thật của mình, và khi đến
đơn vị của
Nguyên nàng luôn cảm thấy như mình gặp lại bao người thân. Nàng ngồi
trong
phòng Nguyên làm việc bề bộn giấy tờ, sổ sách, dưới cái nóng của những
ngày hè,
giá lạnh những ngày đông, và nàng cảm thấy không riêng với Nguyên thôi,
nàng
còn hòa mình với nhiệt tình của các chiến hữu bên cạnh Nguyên. Một khi
đưa Oanh
đến, Nguyên cũng luôn để cho nàng thoải
mái quan sát cảnh sinh hoạt của những người lính, chuyện trò thân mật,
hỏi han
từng người trong thân tình của bè bạn, gia đình, chị em. Nguyên cũng
dành cho
Oanh cái thú vui ngồi uống cà phê ở câu lạc bộ trong căn cứ, ăn cơm
trưa, hoặc
chiều tại những hàng quán khu gia binh, và chính những nơi này, nàng
hiểu rõ
hơn về cuộc sống , về cảnh đời của các quân nhân. Và hơn hết, Oanh rất
được sự
quí mến của các Sĩ quan ở Trung đoàn, từ cấp chỉ huy, đến các bạn cùng
ngang
cấp bậc với Nguyên, hay nhỏ thấp hơn. Khi được các chiến hữu Trung đoàn
khen
ngợi phong cách làm việc của Nguyên, Oanh cũng lấy làm vui thích, vừa
hãnh
diện. Biết bao nhiêu người lính chiến ở đây ước ao có được một mối tình
đẹp như
Nguyên và nàng, ao ước có một người yêu thật sự có tình yêu như nàng.
Hầu hết ở
đơn vị của Nguyên, lớp Sĩ quan trẻ khá đông, và cũng có trình độ Đại
Học, với
những lần Nguyên đưa người yêu đến, đã có một số an hem ngoài tình cảm
yêu mến
Nga qua tính tình, qua sắc đẹp, có người con cho rằng nàng là một biểu
tượng
của sáng giá của tình yêu. Cách xa đơn vị không đến mười cây số là
thành phố
Huế, Oanh đang học, đang sống ở đây, và đây là thành phố của những dòng
dõi về
khoa bảng, về địa vị, gia phong , sắc đẹp của nàng đã làm cho biết bao
nhiêu
chàng sinh viên của các trường Đại học, biết bao nhiêu Bác sĩ, sinh
viên Sư
phạm vừa mới ra trường, bất cứ ai gặp nàng cũng để mắt chú ý, cũng rất
muốn làm
quen, muốn cùng nàng xây dựng hạnh phúc, thế nhưng không hề nghĩ đó là
điều
nàng ước mong về cuộc sống thật yên bình nhưng mình không muốn chọn
lựa. Nàng
chỉ là người yêu của Nguyên, vì Nguyên thể hiện được cái tính cách hào
hùng,
độc đáo của người trai, hơn nữa là một
người lính nhận lãnh đúng trách nhiệm của mình. Những lần đi với Nguyên
lên
thăm đơn vị, Oanh luôn mặc áo dài lúc là màu tím, màu vàng nhạt, màu
rêu phong,
để rồi trong dáng đẹp thướt tha, nhung lụa của nàng, mỗi
chiến hữu đồng đội của Nguyên, ai cũng được
hái cho mình nụ hoa từ trên cặp mắt dễ thương, trên gương mặt nhân hậu,
đầm ấm
của nàng.
-Sắp
đến ngày sinh nhật của
em rồi đó.
-Anh
sắp nói, thì em đã cho
biết rồi.
-Nhưng
hôm đó, có anh không ?
-Có chứ.
-Anh
không về, em lên đơn vị
tìm anh.
-Em có
nhớ chuyến đi thăm Đại
đội 3, Tiểu đoàn 1.
-Nhớ
chứ.
-Vừa
rồi, anh trở lại công
tác cùng Đại đội này hai ngày. Ai cũng nhắc đến em hết.
-Em vẫn
nhớ những ngày đi
tiền đồn với anh.
Bữa ăn đến lúc này mới mang đến, vì khách chờ khá
đông.
Nhưng từ nãy giờ, Nguyên và Oanh cùng vui chuyện đã
không để ý thời gian đợi của mình. Cơm nóng,
thức ăn nóng lên khói. Oanh lấy khăn giấy lau chén
xong xới cơm đưa qua cho Nguyên. Và, Nguyên
cũng đợi Oanh lo xong cho mình, anh mới lên tiếng mời nàng ăn. Từ đôi
mắt và cử
chỉ của Nguyên, luôn làm cho Oanh cảm thấy sự hồn nhiên, trẻ thơ, tâm
hồn mới
mẻ.
-Tối
nay, anh có lên trực ở
Trung đoàn không ?
-Không.
Tối nay được ở nhà.
Nguyên tiếp lời:
-Ông
Trung đoàn trưởng rất
quí anh. Những công việc anh làm cho phòng ban, cho đơn vị, ông rất hài
lòng.
-Anh là
quân nhân gương mẫu.
-Em là
bông hồng của Trung
đoàn.
-Không,
em phải là nữ quân
nhân danh dự.
Nhìn lại gương mặt Oanh, suy nghĩ về một lời ý nhị
khá
lâu làm Oanh ngạc nhiên. Nhưng, ngay đó Nguyên nói:
-Em may
một bộ quần áo lính,
anh nói ông Trung đoàn trưởng gắn hoa mai cho em.
Oanh cười, gật đầu.
Một lúc Nguyên nói:
-Anh em
trung đoàn, ai cũng
nhớ những chiếc áo dài tím em mặc.
-Hân
hạnh làm người yêu của
Trung úy Nguyên
-Anh
sắp có hoa mai nở.
-Thật
không ?
-Anh có
giấy thăng cấp, hai
tuần nữa văn thư gởi về.
-Em
thực sự, chỉ mong anh
bình yên.
-Anh
luôn cảm thấy dễ chịu có
được em và ở bên em.
Bữa cơm ngon miệng, Oanh và Nguyên ăn được nhiều,
nhưng
không hết, cơm và thức ăn vẫn còn. Phía
ngoài quán, không khí ồn vui của thực khách, họ trò chuyện sôi nổi và
cười lớn
tiếng. Cũng có một hai bàn, không khí trầm lặng, ai cũng uống nhiều
bia, nhưng
ăn nói thật chừng mực, cân nhắc.
-Lâu
nay, em không thấy bác
trai về nhà ?
-Ba anh
đang đi công tác miền
Tây
-Không
phải bác làm việc ở Bộ
Xã hội.
-Ba anh
ở trong ban Thanh
tra. Ông chỉ về Bộ sau khi xong công
tác, còn hay đi luôn, nhất là những vùng đang xây dựng cơ sở.
-Anh
cũng như bác, cứ đi công
tác hoài.
Rồi một giọng nhẹ nhàng, Nguyên nói:
-Năm
nay là năm cuối em ra
trường.
Oanh nhìn lại Nguyên, một giọng nói trong âu lo:
-Nhưng
em và anh còn phải xa
cách một thời gian mới ổn định.
-Anh
cũng nghĩ vậy.
Nguyên rót thêm trà vào ly đá vừa uống hết. Oanh
chậm rãi
uống từng ngụm nước sinh tố. Trên bàn,
Nguyên cũng rót sẵn một ly trà nóng để Oanh uống tráng miệng. Khu phố
Bưu diện,
vẫn hết sức nhộn nhịp, đông người qua lại. Có tiếng nhạc vang vọng giữa
không
gian, và đêm, trong không khí sinh hoạt nổi nổi, chìm chìm. Từ chỗ bàn
Nguyên
và Oanh ngồi, hai người nhìn về phía thư viện Xavier đã đóng cửa nhưng
đèn sáng
bên goài, cạnh thư viện là một cửa hàng bán bánh ngọt, bánh mì nướng, ở
đó, rất
đông khách đứng sắp hàng chờ mua bánh.
Hầu như, ai cũng cảm thấy, đêm nay trong mùa thu
mang một
vẻ thân tình, ấm áp. Và, có một đôi tình nhân đang ngồi đây trong quán
ăn đông
khách, thấy mình hạnh phúc hơn cả.
-Anh
nhớ đem chiếc máy ảnh về
nghe.
-Anh
nhớ.
Oanh cười hỏi:
-Đi đâu
nữa bây giờ ?
-Tùy em.
Nguyên gọi người chạy bàn đến tính tiền. Oanh dành
phần
trả tiền bữa ăn, nàng cười nhìn sang Nguyên.
Oanh để lại tiền lẻ trên bàn cho người phục vụ. Hai
người
đứng lên, lúc đi ngang qua những bàn phía trước, một số khách nhìn theo
hai
người và họ vẫn muốn nói nhiều điều trong suy nghĩ của họ về lứa đôi
này.
Hương đêm trong những ngày đầu thu ngào ngạt, đôi
lúc bạn
nhận ra vị mặn và mùi cay của lá cây và sương ướt. Rồi hai cái bóng đi
bên
nhau, đến chỗ đậu xe.
Nguyên mở đèn sáng, chú sau xe nổ máy. Trên con
đường nhỏ
xe chạy. Khi ngang hội quán sinh viên, tiếng nhạc ồn, rất khích động.
Đã qua
rồi, buổi gặp đầu tiên của hai người ở nới đây.
Hội quán nằm bên khu Đại học. Ở phía trước là khách
sạn
Thuận Hóa. Khi ra tới con đường chính, Nguyên lái xe rẽ trái, ngang
quan Đài
phát thanh, anh vẫn cho xe chạy thong thả hướng về phía cầu Mới, rẽ
phải qua
cầu, rồi đổ xuống phố chính Trần Hưng Đạo.
Phố vẫn còn đông người, và các cửa hàng mở đèn sáng.
Những tiệm ăn , tiệm cà phê trên phố chính này đông khách ra vào.
Nguyên chạy
xe lên phía cầu đến chỗ bùng binh vòng xe trở lại, và anh cho xe chạy
thật chậm
dọc theo con phố, đến chỗ rạp hát, ngừng lại trong ít phút.
-Em
thích coi ciné không ?
-Vào đi
anh.
Nguyên lùi xe lại khoảng vài mét, rồi tắt máy. Xe
đậu bên
lề đường, giờ này, bên đường cũng không có nhiều xe hơi đậu.
Rạp hát chiếu phim La seconde chance. Oanh lại dành
phần
mình đi mua vé, lúc Oanh đi, Nguyên theo bên cạnh người yêu. Anh cảm
thấy sung
sướng, hạnh phúc hơn bao giờ hết vì có được Oanh .Oanh, đúng là một
nàng tiên.
Oanh rất trẻ thơ, vui tính, và đôi mắt nàng không chỉ tỏ lộ cái đẹp của
dòng
sông, mà trong lắng sâu thật dịu dàng, ần chứa một tâm hồn nhân hậu.
Nàng cũng
luôn cho Nguyên một tiếng nói tự tin, và tiếng nói của nàng cũng là một
điểm
tựa.
Oanh mua vé xong, nhưng cùng với khán giả đang đứng
chờ
bên ngoài, vì xuất hát còn mười lăm phút nữa mới vãn. Trên biển quảng
cáo, vẽ
lớn chân dung hai tài tử Pháp: Robert Hossein và Michèle Mercier. Trong
khung
lưới rộng, là những bức ảnh chụp từng cảnh phim. Nữ tài tử Michèle
Mercier rất
đẹp, trẻ trung.
Không đợi lâu, cửa vào rạp mở rộng và đông khán giả
bên
trong đi ra. Nhạc và đèn sáng gây nên cái cảm giác rung động, phấn
khích, và
khán già xem xuất cuối đã càm thấy vui khi đi vào rạp.
Nguyên và Oanh chọn ngồi dãy ghế giữa. Không khí
trong
rạp hát bình yên trở lại, với ánh đèn vẫn chiếu sáng, và điệu nhạc trở
nên êm
dịu.
Nguyên nói:
-Em
định theo học Luật hay
Văn Khoa.
-Em học
Văn Khoa, và anh còn
phải dạy thêm cho em nhiều.
-Anh
vui từ nhiều ngày nay.
Tin em thi đậu, niềm vui được báo trước.
-Năm dự
bị, học nhiều môn
không ?
-Cũng
nhiều.
-Nói
cho em nghe từng môn học
đi.
Nguyên kể qua vài môn chính yếu, trước đây anh đã
học.
Oanh ngạc nhiên hỏi:
-Có học
cả môn triết nữa.
-Có.
Nhưng Việt Văn là chính.
Em cần phải học thêm cả Hán Văn nữa.
-Em
thấy khó.
-Khi
đến trường ghi danh, em
hỏi thêm các bạn sinh viên năm trước.
Oanh nắm tay Nguyên, nàng nói:
-Anh đi
với em.
Nguyên chợt có một thoáng nghĩ mơ hồ. Anh gợi nhớ
thời đi
học của mình, nhớ những người bạn cũ.
-Hôm
ấy, em mặc áo màu thiên
thanh. Anh muốn chụp em mất pose ảnh em đứng trên thềm ngưỡng cửa Đại
Học.
-Le
quá, phải không anh.
Bỗng nhiên đèn rạp hát tắt. Không lâu, màn ảnh
chuyển
động, và những đoạn phim quảng cáo cho kỳ tới diễn ra, trong mỗi cảnh
phim,
tiếng động và cả tiếng nhạc di chuyển lúc nhanh, lúc chậm.
Nguyên bỗng nói:
-Em cố
gắng nghe tiếng Pháp.
-Em
đang tập trung đây.
Rồi phim chính bắt đầu. Hình ãnh nữ tài tử Michèle
Mercier, mặc chiếc áo blouse trắng trong vai nữ sinh viên y khoa, thật
là đẹp
làm khán giả thốt lên những lời trậm trồ ngợi khen.
-Em có
thích học Y khoa không
?
-Cũng
thích, nhưng em không
học nổi dâu.
Với một giọng thân tình, Nguyên nói:
-Bạn cứ
hình dung Vân Oanh
của tôi mặc áo blouse trắng, đeo kính trắng trên cặp mắt và ống nghe
vắt qua cổ
áo, nàng đứng trong phòng thực tập.., chà chà..
-Đẹp
quá, phải không ?
Nguyên tiếp lời:
-Em học
ở Y Khoa, sinh viên
không có ai học hành gì được cả.
-Làm gì
mà gán chuyện ác cho
em vậy ?
-Không
thực sao. Em quá đẹp,
chàng sinh viên nào cũng ngẩn ngơ.
-Em vào
trường Y khoa, thì
anh sao ?
-Em
nhận được thư của anh gởi
hàng tuần.
-Em
cũng lên tiền đồn nữa,
phải không ?
-Cô là
Bác sĩ đầy lòng nhân
ái cho quân nhân.
-Ai
cũng khen em như anh cả,
em như là mây bay về trời
Robert Hossein trong vai luật sư, ông ta đã có vợ
con,
nhưng ông ta đang yêu say đắm một cô sinh viên Y khoa. Trước khi gặp vị
Luật sư
này, cô gái đã có một người yêu là sinh viên học cùng lớp.
Những đoãn đối thoại trong phim, có lúc đi nhanh,
cũng có
lúc chậm, vừa phải. Khi hiểu được trọn vẹn từng câu, Nga lấy làm thích
thú,
hãnh diện.
-Ở Văn
khoa, có giáo sư Pháp dạy không anh ?
-Anh
không rõ sau này. Trước
đây anh học, có ông thầy Cauro.
-Ông
dạy văn chương Pháp.
-Đúng
rồi.
Một lúc sau, Oanh chợt hỏi:
-Lúc
này Thụy có viết thư về
nhà không ?
-Nó
đang xin đi học ngành phi
hành.
-Học
lái máy bay hay sao ?
-Ờ, nó
xin học lái máy bay.
-Bao
giờ mới được đi.
-Chắc
còn lâu, trước tiên là
đi khám sức khỏe, rồi học Anh Văn ở trường Sinh ngữ quân đội.
-Xong
hai giai đoạn đó là đi
qua Mỹ.
-Đúng
rồi.
-Thời
gian học bên Mỹ lâu
không ?
-Chừng
hơn một năm.
-Vậy là
thế nào Thụy cũng xin
về phép trước khi đi học.
-Anh
cũng nghĩ vậy.
-Chắc
Tết này Thụy về thăm
nhà.
-Không
hy vọng ngày Tết đâu,
có thể trước hoặc sau.
-Em
nghĩ chắc là Tết, Thụy
về.
-Em
anh, nó quý em lắm.
-Em
biết.
Oanh bỗng nhiên thấy hoảng hốt, vừa hết sức ngạc
nhiên.
Trên màn ảnh, cảnh phim đang diễn ra một cuộc cãi vả dữ dội giữa cô gái
và
người bạn trai cùng lớp. Bất ngờ, cô rút súng, bắn liền mấy phát trúng
tim, người bạn cô tử thương, dẫy dụa
trên nền nhà. Và, sau đó, một cảnh phim cuối cùng về cuộc đời cô gái,
trên
chiếc xe FIAT sơn trắng, hun hút trên con đường dài chiếc xe lao đi,
đến khúc
quanh lao vào vách núi, chiếc xe tan nát, và cô gái đã tử nạn.
Khi biến cố tai nạn xảy ra, xe cứu thương và xe Cảnh
sát
bao quanh hiện trường. Người ta đã báo tin và chờ đợi thân nhân đến.
Một lúc
sau, có một chiếc xe Ford đen dừng lại, viên luật sư bước xuống. Ông ta
ngán
ngẫm, bị sốc vì cái chết của tình nhân.
Quay sang một phóng viên vừa đặt câu hỏi, ông trả
lời:
-Le
coupable, c’est moi.
VII
Trưa chủ nhật, Thụy đến thăm Ninh Hà . Hai người
ngồi ở
phòng khách nói chuyện một lúc, sau đó, Ninh Hà lên phòng riêng thay
quần áo.
Khi Ninh Hà xuất hiện ở lối cầu thang xuống nhà, nhìn anh nàng mỉm
cười, anh
thấy nàng mặc chiếc áo dài tím có chấm bông trắng thật là đẹp.
Nhà vắng, nên trước khi đi Ninh Hà phải coi lại các
cánh
cửa. Sau đó, hai người qua phía cửa bên, rồi theo lối đi đầu con hẻm ra
đường
lớn. Có chiếc taxi chạy qua, nàng vẫy tay.
Thụy ngồi bên cạnh Ninh Hà . Người tài xế vặn lại
khóa
đồng hồ rồi mới cho xe chạy. Xe chạy lên hướng Bà Chiểu, rẽ trái qua
cầu Bông
rồi hướng về khu Dakao. Hôm nay là chủ nhật, ngày cuối cùng của Ninh Hà
ở Sài
Gòn. Thụy được ở bên nàng, nhưng không hề có chút gì về sự hứa hẹn.
Thụy cảm
thấy rất tự nhiên ở bên Ninh Hà, vì vậy, anh cũng chẳng có ý sắp sẵn
những
chuyện riêng tư để nói với nàng. Dù sao nữa, nay anh và nàng có bên
nhau trong
tình anh em. Con đường nào cũng đông xe và người đi bộ. Từ Sở Thú, con
đường
Thống Nhất mở rộng , yên vắng.
Xe dừng ở ngay trước cửa chính chợ Bến Thành. Khi ra
khỏi
xe, ánh nắng buổi chiều trong thành phố ấm hẳn như thể cho Thụy một cảm
giác
mình đang ở bên người yêu. Thụy đã quen gương mặt Ninh Hà từ một tháng
gặp lại
nhau ở đây, và cứ mỗi lần, đưa mắt nhìn nàng, trong cái nhìn phác họa
cho anh
thấy những nét riêng nào đó của nàng rất dễ nhớ. Cố nhiên, Ninh Hà biết
Thụy
yêu nàng, thích được nhìn ngắm nàng nên nàng cũng rất muốn dành sự yêu
thích đó
cho anh.
Hai người đứng trong đám đông chờ đèn xanh. Trước
mặt,
con đường tràn ngập những dòng xe và tiếng người ồn ào.
Chỉ đợi hơn một phút, mọi người xuống lối đi bộ qua
đường
khi đèn xanh bật lên. Qua bên kia đường, mọi người tản mác, Ninh Hà và
Thụy
dừng bước. Nàng hỏi Thụy:
-Bây
giờ đi đâu anh ?
-Tùy
em. Trước hết, em phải
đi mua sắm cho mình đã.
-Còn
sớm. Em còn bên anh cả
buổi chiều.
-Vậy
mình ghé quán nước đi.
-Anh
thích xem ciné không ?
Tự dưng Thụy hơi ngần ngại, rồi nói:
-Tùy em.
-Anh
biết rạp nào chiếu phim
hay không ?
-Chung
quanh đây có nhiều rạp.
Thụy và Ninh Hà cùng dời bước. Buổi chiều Sài Gòn
thật
rộn ràng trong khung cảnh náo nhiệt, sầm uất với những con đường đông
người,
những dãy phố chính san sát nhà ở, các hiệu buôn đều trông sáng sủa,
đẹp mắt.
Dọc vỉa hè, tiếng trò chuyện, tiếng cười vui, làm như ai cũng có chuyện
riêng
của mình trong đó nữa. Và, nếu ngày mai bạn đi xa, bạn sẽ nhớ đến thành
phố này
hơn cả sự đợi mong nơi mình sẽ đến nữa. Thụy chợt nhớ đến mấy câu thơ
của
Nguyên Sa trong bài Áo lụa Hà Đông.
Ninh Hà bắt đầu nói chuyện với Thụy về Duy. Giọng
nàng
vui, đùa nghịch. Và, Thụy lại thích nghe tiếng nàng nói, nên đi bên
nàng là
hạnh phúc, anh chỉ nghe thôi, hòa niềm vui theo nàng, và cứ nhẹ bước,
thích thú
nghe tiếng nàng nói, chẳng bận tâm đến câu mình muốn hỏi, thảng hoặc
ngắt lời
nàng.
Hai người đi tới rạp Rex. Cuốn phim En plein soleil
đang
chiếu. Bên ngòai và dưới mái hiên rạp đông người. Thụy
hỏi ý Ninh Hà , rồi sau đó, anh sắp hàng đứng
đợi trước quầy để mua vé. Lúc này, cả anh
và nàng đưa mắt nhìn quanh như để tìm kiếm có ai
quen. Trong một giây
nhỏ, anh chợt nghĩ đến ngày mai dưới cơn mưa nhỏ hạt, qua ánh đèn nhòa
nhạt
trên những con đường, một chiếc xe ca lặng lẽ đưa Ninh Hà và bao nhiêu
người
hành khách nữa rời khỏi thành phố này.
Đến trước quầy, Ninh Hà trả tiền mua vé, và đưa hai
tấm
vé qua cho Thụy cầm. Chưa tới giờ chiếu hai người tới quầy giải khát
gần đó mua
nước sinh tố. Cô bán nước làm xong, Ninh Hà trả tiền và đi vào rạp hát
lên phía
lầu ngay lối cầu thang.
Hàng ghế trước ngay balcon, chỗ Thụy và Ninh Hà ngồi
góc
bên trái. Rạp hát rộng, có máy điều hòa, đèn đang chiếu sáng và có
tiếng nhạc
nghe nhẹ nhàng, êm dịu, thỏai mái. Không gian của rạp hát, ánh đèn,
những hàng
ghế có khán giả, nhưng Thụy vẫn thầm nghĩ rằng, lúc này chỉ có anh và
Ninh Hà
thôi.
-Ngày
mai đi, em nhớ Sài Gòn
không ?
-Nhớ
chứ.
Ninh Hà nhìn qua Thụy, nụ cười thật dễ thương.
-Em
không nhớ, thành phố này
cũng giữ lại em.
-Em
cũng phải về chứ.
-Em về,
hình ảnh của em vẫn
còn ở đây.
-Rồi
cũng có ngày em trở lại.
Trong tiếng nói của nàng, Thụy nhỏ bé quá. Sài gòn,
nơi
thành phố này nàng đến rồi ngày mai sẽ ra đi.
Ngày mai, tôi vẫn được ở bên nàng.
Hai ly nước mía thật ngon. Aùnh đèn trong rạp hát
chợt
tắt, và buổi chiếu phim bắt đầu. Có hai phim chiếu dạo lâu chừng mười
lăm phút,
rồi phim chính bắt đầu. Tên tài tử nổi tiếng Alain Delon in chữ đậm
trên màn
ảnh.
Thụy và Ninh Hà vừa lặng yên xem phim, vừa chuyện
trò.
Hạnh phúc này, như một món quà nhỏ nàngmuốn dành cho anh. Và, anh hãy
giữ lấy
với sự yêu thương, bao dung của nàng. Giọng nói của Ninh Hà nghe trong
âm thanh
như những sợi chỉ màu đang nối kết những niềm vui trong nụ cười của
nàng lại
với nhau. Mỗi nụ cười trên mắt nàng, cho tôi một bóng ánh sáng. Đôi
lúc, tiếng
nói ngừng lại, Thụy chợt nghe nàng qua hơi thở.
Cuốn phim có nhiều đọan thật vui. Nước Pháp, những
thành
phố ở đó trải rộng đem lại cho trí tưởng tượng của Thụy và Ninh Hà như
được
sống trong khung cảnh thơ mộng đó.
Rồi cuốn phim kết thúc, đèn trong rạp sáng lên. Thụy và Ninh Hà cùng đứng dậy rời khỏi ghế .
Buổi chiều xuống mau, trời đang mưa. Bởi cơn mưa
nặng hạt
nên khán giả còn đứng ở rạp chờ đợi. Thụy lật cổ tay nhìn đồng hồ, mới
ba giờ.
Bên ngòai, trời u ám vì mưa. Những cơn mưa ở Sài gòn thường nặng hạt
trong buổi
chiều nhưng cũng mau tạnh.
Nắng chợt bừng sáng ngay lúc mưa vừa tạnh. Tiếng reo
vui ồ dậy , ngay lập tức, mọi người cùng
bước, cùng chạy ùa xuống đường.
Nắng hay mưa, trên các phố chính vẫn luôn nhộn nhịp.
Ninh
Hà và Thụy vẫn bên nhau, không rời nhau. Hai người đi vội, nhanh bước
trên con
đường Lê Lợi. Khi vào chợ Bến Thành, Ninh Hà đưa Thụy đến các sạp hàng
bán quần
áo may sẵn. Nàng chọn lựa, mua nhiều lọai quần áo đủ
cỡ, và cũng mua thêm các lọai áo ấm. Sau khi
mua quần áo xong, Thụy và nàng đến chỗ bán hàng bánh kẹo mua nho khô,
táo, hồng
khô, và nhiều thứ khác nữa.
Chỉ vào chợ mua sắm không đến một tiếng, hai người
trở
ra. Trời lại mưa, và họ băng qua đường núp mưa dưới mái hiên của một
công ty
xuất nhập cảng.
-Ngày
em vào đây cũng vừa
đúng mùa mưa khởi sự.
Ninh Hà không nói gì. Bất chợt, ý nghĩ về ngày mai
nàng
rời khỏi thành phố này mang lại cho Thụy một nỗi buồn.
-Em về,
hành lý nhiều không ?
-Cũng
nhiều. Các thứ này nữa
là đủ hai va li.
Mưa lại tạnh, Ninh Hà nói:
-Em cảm
thấy đói. Aên gì đây
anh ?
-Tùy em.
Ninh Hà không trả lời. Thụy nói:
-Đi ăn
bánh cuốn nghe.
Ninh Hà gật đầu.
Đường phố lại đông người. Thụy đưa
Ninh Hà đến dãy hàng bán bánh cuốn nằm
cạnh nhau trên đường Pasteur. Nơi ghế bàn thấp, Thụy và Ninh Hà ngồi
chờ. Bánh
cuốn nóng, bốc khói lên trông hấp dẫn. Giọng vui, Thụy hỏi:
-Em đã
ăn đủ thứ quà ở Sài
Gòn chưa ?
-Em
cũng ăn nhiều.
Ngừng ăn, nhìn Thụy nàng hỏi:
-Ngày
mai anh có đi làm không
?
-Ngày
mai anh được nghỉ.
-Anh
làm việc ở Biên Hòa cứ
lên về mỗi ngày.
-Có
tuần thôi. Khi nào cần,
anh mới về dưới này.
Thụy quá hạnh phúc
khi được ở bên Ninh Hà. Anh nhìn nàng ăn, nhớ nàng vô cùng.
-Em ăn
ngon không ?
-Ngon
lắm.
-Em ăn
thêm đi.
-Vừa
rồi, anh ăn nữa đi.
-Thôi,
anh đi mua nước em
uống.
Thụy đứng dậy đi
qua quầy nước mía bên cạnh. Không chờ lâu, anh mang hai ly lớn về đặt
xuống
bàn.
-Nước
mía ngon lắm, em uống
đi.
Buổi chiều còn thư thả nên Thụy và Ninh Hà còn trò
chuyện. Thụy đốt điếu thuốc hút, nhìn Ninh Hà nói:
-Tối
nay em phải đi ngủ sớm.
Ninh Hà cười nhìn lại anh.
-Em dễ
ngủ mà cũng dễ thức
dậy sớm.
-Nhưng
cẩn thận, em nên để
đồng hồ báo thức.
-Có chứ.
-Ngày
mai anh đợi em ở trạm.
-Em sẽ
đi taxi đến.
-Về
ngòai đó công việc như
thế nào, viết thư cho anh biết.
-Em sẽ
viết thư cho anh luôn.
-Từ
ngày anh đi xa đến nay,
anh được đọc nhiều thư em.
-Ba mợ
vẫn nhắc anh luôn.
-Anh
hiểu. Anh đã có được tấm
lòng yêu thương của gia đình em.
-Rồi
anh cũng phải lo cho anh
nữa.
-Anh
chưa nghĩ xa chuyện gì
cả.
-Anh
cũng phải nghĩ đến thôi.
Thụy lặng im. Giờ phút này đây, Thụy còn được ngồi
bên
nàng. Giữa hai người, tình yêu đã cất giấu, muốn trốn và đi tìm, và chỉ
còn chỗ ẩn náu trong con tim. Thụy gợi nhớ đến những ngày vừa qua nàng đến đây.
Thụy cũng đang tìm lại những trang giấy màu, những dòng thư nàng đã
viết cho
anh. Thật là đẹp, nhưng rất buồn.
-Mau
quá, mới buổi chiều hôm
đó em tới đây, giờ đã qua một tháng rồi.
-Anh
lúc nào cũng cứ gợi nhắc
đến kỷ niệm. Em cũng không thể ở lâu hơn.
-Em có
tính đi học tiếp nữa
không ?
-Thôi,
em đã lấy chồng rồi,
học gì nữa.
-Anh
đang nghĩ tới một công
việc phù hợp với em.
-Anh
muốn em làm gì ?
-Anh
thích em đi dạy học.
-Anh
vẫn sống với hình ảnh lý
tưởng.
-Hình
ảnh em làm một cô giáo
đẹp biết chừng nào .
-Không
đâu, em sẽ làm công
việc năng động hơn.
Có tiếng còi hụ tan sở từ nơi nào đó vang lên trong
buổi
chiều. Buổi chiều sắp qua hết. Lúc này, Ninh Hà đứng lên đến chỗ người
đứng bán
bánh trả tiền. Thụy hơi ngỡ ngàng, bâng
khuâng.
Thụy và Ninh Hà ra bến xe lam đón xe về nhà. Khi tới
cổng, Ninh Hà đưa tay cho Thụy bắt cùng
nói lời tạm biệt.
Về nhà dì Hồng, ở lại đây buổi tối. Lần nào ở Biên
Hòa
về, anh cũng hay ở lại nhà dì hoặc nhà Thống, bạn anh.
-Anh
nên nghĩ cho mình đi.
Tiếng nói của Ninh Hà ắp đầy trong trí nhớ Thụy. Lúc
này,
chắc Ninh Hà ngồi ở phòng riêng để sọan hành lý. Nỗi ước mong của tôi
được ở
bên nàng để giúp nàng.
Sau bữa ăn tối, Thụy ngồi nói chuyện với gia đình dì
Hồng. Trong đêm, anh nằm mơ thấy Ninh Hà . Hình ảnh nàng trong giấc mơ,
anh
thấy nàng tươi cười từ trên cầu thang phi cơ bước xuống phi trường
thành phố.
Và hai người gặp lại nhau qua nụ cười của tuổi trẻ.
Khi nghe tiếng mưa trên mái tôn, Thụy giật mình thức
giấc. Lúc này là ba giờ sáng. Thụy nằm
nán một chút nghe mưa rồi trở mình dậy. Với sự khẽ khàng, anh đi rửa
mặt, thay
quần áo, rồi lặng lẽ rời nhà dì tôi. Từ con đường hẻm, tôi bước nhanh
ra đường
chính và đứng đợi xe lam lên Sài Gòn.
Tới trạm hàng không, tôi đi thẳng đến quầy cân hành
lý.
Không thấy Thu Hải, tôi đi qua phòng hành khách đợi cũng không trông
thấy nàng.
-Ninh Hà chưa tới.
Thụy nghe tiếng
mình nói một cách tự nhiên. Bỗng anh đâm ra lo ngại, sợ nàng để quên
đồng hồ
reo, hay có khi giờ này chưa có taxi đi qua khu phố đó, thảng hoặc,
người tài
xế cho chạy vòng quanh nhiều chỗ để tăng thêm giờ trên đồng hồ. Thụy liền đến hỏi cô tiếp viên về chuyến bay sớm
nhất
đi Đà Nẵng. Thụy hơi lo ngại, và bây
giờ, hành khách các chuyến bay tới dần dần đông thêm.
Tôi trở ra phía ngòai đứng nhìn ra lối cổng vào sân.
Có
một chiếc taxi đang chạy vào, tôi chú ý ngay khi nó vừa lọt vào cổng,
và nỗi
mừng vui dậy lên trong tôi khi thấy bàn tay Thu Hải thò ra ngòai cửa
gương vừa
lên tiếng gọi tôi. Tôi bổ xuống thềm tam cấp chạy nhanh, lúc xe vừa
ngừng, tôi
vội mở cửa và đỡ lấy hành lý cho Thu Hải. Trong phút giây này, tôi muốn
được ôm
chầm lấy người yêu của mình.
Tôi đợi Thu Hải trả tiền xe, và cố định thần lại nỗi
lo
vừa qua của mình. Khi người tài xế taxi lái xe đi, Thu Hải nắm tay tôi,
giọng
hơi run nói:
-Em sợ
quá, anh ơi.
-Sao
vậy ? Có chuyện gì
không, em nói đi.
-Cha
tài xế này không tốt. Từ
nhà tới đây đâu có gì xa, mà xe ông ta cứ chạy vòng qua nhiều chỗ lạ,
và lúc
nào mắt ông cũng liếc vào tấm gương để nhìn em ngồi sau. Em sợ quá.
-Anh
cũng có ý nghĩ đó trước
khi em thấy em tới. Biết vậy, anh đến nhà em để cùng đi cho em yên tâm.
-Lúc ấy
trên đường đi, em
cũng mong vậy.
Tôi xách hai va li, Thu Hải cùng bước nhanh theo tôi
đi
vào trạm đến quầy cân hành lý. Vào sắp hàng sau hai người, tôi và Thu
Hải đứng
cạnh nhau. Giờ phút này, Thu Hải và tôi như không thể rời xa nhau. Đến
lượt
mình, tôi nhấc hai chiếc va li đưa qua bục gỗ cho người bên trong nhận
để đặt
lên bàn cân. Thực là hên, số cân vừa đủ , khỏi phải đóng thêm tiền. Tôi
nhận ba
thẻ hành lý đưa cho Thu Hải, hai cái để nhận, còn một cái móc vào túi
xách đi
đường.
Xong việc, chúng tôi trở ra ngòai.
-Em ăn
uống gì không ?
-Thôi
lên máy bay, có bữa ăn
sáng.
-Em
uống cà phê nghe.
-Em
không uống nhiều đâu. Anh
mua một ly thôi, em uống với anh.
Tôi cảm thấy lòng vui vô hạn liền đi tới quầy phục
vụ ăn
uống mua một ly cà phê sữa. Cà phê đã nấu sẵn nên có ngay, và tôi cầm
một ly
đầy trở lại. Khi tôi đưa mời Ninh Hà uống trước, mắt nàng cười, đón
nhận. Nàng
uống một hớp nóng rồi đưa lại cho tôi ngay.
-Em
uống thêm nữa đi.
-Ra
ngòai băng ghế ngồi nói
chuyện.
Hai người trở ra ngòai ngồi xuống băng ghế trống.
Tôi
uống hớp cà phê xong đưa qua lại cho nàng. Nàng cầm lấy, giữ hơi ấm nơi
thành
ly, và tôi đốt điếu thuốc. Lúc này, trời hãy còn mờ tối. Ngòai con
đường, đèn
điện chiếu sáng, những dãy phố im lìm, thỉnh thỏang có tiếng động một
vài chiếc
xe hàng, xích lô máy chạy qua, rồi mất hút, tiếng động cũng chìm lặng,
như muốn
tắt.
-Nhớ
viết thư cho anh nghe.
-Em nhớ.
-Em có
nói ai lên đón em
không ?
-Không.
Vì xe ca trên phi
trường về trạm đi qua nhà mà.
-Anh
quên mất.
Tôi tiếp lời:
-Lên
máy bay, em ráng ngủ bù
một giờ.
-Em
không ngủ đâu.
-Ngủ
đi, cho có sức. À..., em
về lại ngòai đó, rồi hai tháng nữa Duy mới ra trường.
-Em cán
ơn anh những ngày em
vào đây.
-Anh
cám ơn em nhiều hơn. Cả
thành phố này nữa, cho anh được gặp lại em.
Sau câu nói, tôi và nàng cùng lặng im. Tôi như không
thể
còn đủ sức để nói thêm gì nữa. Ít giây phút giây nữa thôi, tôi và nàng
rời xa
nhau.
-Ngày
đó, chúng ta không gặp
nhau thì sao nhỉ ?
-Anh
cũng không biết. Từ khi
gặp em, anh luôn nhớ đến em, lúc ở xa, cũng như ngày gặp lại em ở nơi
đây.
-Em
biết, anh không quên được
em.
-Nếu mà
anh quên, cũng vô ích
thôi, phải không ?
-Có lẽ.
-Chúng
ta ngồi đây, mà thấy
rõ sự xa cách hơn bao giờ cả. Anh rất mong em được hạnh phúc, hạnh phúc
trọn
vẹn. Rồi một ngày nào đó, anh cũng sẽ trở về tìm đến em, để thăm em.
-Anh
rất tốt với em.
-Anh
yêu em, em biết phải không
?
Ninh Hà lặng không nói gì. Nhưng rồi, có tiếng của
nàng
bên tôi, rất rõ.
-Em
biết chứ. Dù sao, anh
cũng đã nói với em, chứ không im lặng.
Bên ngoài, ánh đèn thành thành phố vẫn giăng mắc qua những hàng cây. Trong yên lặng, có bàn
tay Thu Hải nằm yên trong tay tôi. Thế nhưng, tôi không chờ đợi gì khác
ngoài
ánh sáng một ngày sớm xuất hiện.
Từ bên trong, tiếng một cô nữ tiếp viên loan báo cho
hành
khách biết đã đến giờ hành khách lên xe ca để đi phi trường.
Hai người đứng dậy. Chiếc xe cậu giữa sân đang nổ
máy.
Tôi và Thu Hải xuống bậc thềm, thong thả bước tới chỗ xe đang đậu. Rồi,
chúng
tôi mở rộng vòng tay ôm nhau, nói với nhau lời từ giã.
Tôi vẫn đứng lại ở dưới sân, khi Thu Hải lên xe.
Nàng
ngồi ở ghế ngoài, gần cửa.
-Chừng
nào anh đi phép ?
-Có thể
vào tháng tới.
-Anh về
Huế, hay Quảng Trị.
-Anh sẽ
về Đà Nẵng, thăm em
ít ngày đã.
-Nhớ
nghe.
-Nhớ
chứ.
-Rồi,
anh ra Huế sau.
-Anh cố
gắng xin cho được hai
tuần, mới chọn ngày đi.
-Anh về
thăm, anh và em đi
chơi phố.
-Em
luôn là một người bạn,
suốt đời anh.
-Em vẫn
muốn dành cho anh, ít
nhiều kỷ niệm đẹp trong tình bạn.
-Mãi
mãi, phải không ?
-Ờ ,
mãi mãi.
-Em đưa
tay cho anh, tô nói.
Thụy nắm
cánh tay Ninh Hà, giữ bàn
tay nàng rất lâu đến lúc xe ca chuyển
bánh rời ga trạm.
-Nhớ
viết thư cho em.
Thụy gật đầu, mắt vẫn
còn cố trông theo.
VIII
Sau buổi họp ban, Thụy được nghỉ ca để về nhà chuẩn
bị
cho chuyến đi hành quân ngày mai lên căn cứ Vên Vên nằm sát biên giới
Miên
Việt, đây là bản doanh của Sư đoàn dù, và anh
sẽ đi cùng với người trưởng toán là Trung úy Ngoạn.
Trung úy Ngoạn cũng có nhà ở Sài Gòn, nên
Thụy xin quá giang
theo ông bằng xe Honda, đi ngang nhà thờ khu Thị Nghè ông thả cho anh
xuống, và
từ đó anh đi bộ về chỗ trọ.
Vừa thấy Thụy bà chủ nhà ngạc nhiên, anh liền cho bà
ta
biết về chuyến đi xa, vắng nhà từ một tuần đến mười ngày, nếu có ai tìm
nhờ bà
hỏi tên và địa chỉ . Trong đôi mắt thoáng lo ngại, bà nhìn anh, và lắng
nghe kỹ
những điều căn dặn.
Lên phòng, Thụy xếp lại chăn màn, ngồi xuống giường
nghĩ
tới chuyến đi lên vùng hành quân .
Một lúc sau, Thụy bắt đầu soạn đồ, đem đi mấy bộ
quần áo,
khăn mặt, kem, bàn chải đánh răng, mùng và chăn đáp. Tất cả, anh cho hết vào cái ba lô vừa lấy ở móc treo
xuống.
Xong việc, Thụy rời khỏi nhà tìm đến quán hủ tiếu
đầu ngõ
. Khách ngồi đông, Thụy gọi tô hủ tiếu, ăn xong, anh đứng dậy trả tiền
và đi
qua quán cạnh bên uống cà phê. Loại cà phê bít tất pha rất nhanh, Thụy
uống cà
phê và lấy bánh tiêu để trên dĩa chấm vào cà phê ăn có mùi vị béo. Coi
như bữa ăn sáng này thế ăn trưa. Thụy ăn no, thở nhẹ hơi và còn ngồi nán lại hút
điếu thuốc.
Khi rời quán cà phê, Thụy đi bộ thong thả có ý định xuống Sài Gòn bằng xe buýt. Đi ngang quầy vé
số, Thụy móc ví lấy mấy tấm vé đã mua
đem ra dò, không có vé nào trúng cả. Thụy xé mấy vé trật vứt xuống
đường, xong
mua hai tấm mới xổ vào ngày mai.
Còn một tuần nữa mới tới kỳ lương. Trong ngăn ví ,
tiền
đã gần cạn nên Thụy đang cảm thấy lo.
Trạm xe buýt đi Sài Gòn nằm bên kia đường, đối diện
nhà
thờ. Thường lệ, xe buýt trên đường này xuống Sài Gòn, mười phút là có
chuyến
đến. Đôi lúc, Thụy bị đãng trí, quên ngày, quên tháng. Và anh như hiểu
ra rằng,
sự kiện này do những mặc cảm bị ức chế từ bao nhiêu thất bại trong
chuyện học
hành củamình. Xe buýt đến rộng rãi nên có ghế ngồi. Thụy xuống phía
dưới, ngồi
ghế bên cạnh lối cửa lên xuống.
Xe chạy, Thụy nhìn đồng hồ tay đã gần mười giờ. Dọc
con
đường này có nhiều trạm, nên xe chỉ chạy vài trăm mét là ngừng lấy khách. Rồi , dần dần khách lên đông. Thụy
trông thấy một người khách có vẻ quen, nhưng không hỏi, vì không nhớ
tên. Bên
ngoài, đường phố nhộn nhịp, đông xe đạp, xe gắn máy, người đi bộ.
Quanh trung tâm Sài Gòn, những con đường ở phía
ngoài
đường nào cũng trồng nhiều hàng cây. Đường Nguyễn Du trồng me, đường
Công Lý,
Nguyễn trung Trực, Pasteur, trồng cây sao, cây bồ đề và có cả cây
phượng.
Bến chính xe buýt nằm đối diện với
chợ Bến Thành, gần nhà ga xe lửa, nay dùng
làm trạm hàng không. Ở Sài Gòn, cũng có đường ray tàu điện như ngoài Hà
Nội
nhưng nay không dùng nữa. Thụy vẫn còn ghi nhớ những cảm giác trong
tuổi thơ
của mình về nhà ga Sài Gòn ngày đầu tiên đặt chân xuống thành phố này
vào một
buổi sáng sớm thành phố vừa thức giấc. Thụy nhớ mình thật thích thú khi
được
thấy thủ đô Sài Gòn. Và, lúc đó, Thụy ước mong được nhìn thấy sân banh
Tao Đàn,
sân banh Cộng Hòa, vào hai ngày cuối tuần sẽ được xem những trận cầu
quốc tế
giữa đội tuyển Sài Gòn và các nước khác trong khu vực Á Châu, hoặc Châu
Âu.
Thụy rất yêu thích môn bóng tròn, anh cũng đã là cầu thủ trong đội bóng
học
sinh lớp nhỏ của trường Nguyễn Hoàng. Trước khi biết Sài Gòn, những
trận đá
bóng quốc tế anh đọc qua các nhật báo, và nghe tường thuật trực tiếp
trên đài
phát thanh của ký giả Huyền Vũ .
Xe vào bến giữa cảnh náo nhiệt, ồn ào. Bọn trẻ bán
báo
dạo, những người bán quà rong, các chuyến xe về bến, các chuyến xe bắt
đầu đi,
và lúc này, vẫn rất đông hành khách ở trạm đứng chờ những chuyến đi ra
vùng
ngoại thành.
Từ bến, Thụy đi bộ, và cũng chưa định rõ mình sẽ đi
đâu.
Lúc này đã là giờ cao điểm sinh hoạt của thành phố. Sai gon ngày nào
cũng náo
nhiệt, xô bồ, nhưng tạo nên sự phấn khích trong cuộc sống. Những người
quen
sống ở Sài Gòn, đi đâu xa vắng chỉ một hai hôm là rất nhớ không khí Sài
Gòn,
ngày cũng như đêm. Thụy không là người miền Nam, người ở Sài Gòn, nhưng
thành
phố này là của tuổi trẻ. Thụy thích không khí buổi sáng ở những quán
bán hàng
rong bên đường. Vào buổi trưa, trong sự lắng yên của tiếng động Thụy
luôn có cảm
giác dễ chịu một mình lang thang qua những cửa hàng bán sách báo cũ
trên vỉa
hè. Anh cũng rất thích buổi chiều trời mưa, ngồi trú mưa trong một quán
cà phê
nhìn ra ngoài, luôn trong tâm hồn anh có những ý nghĩ hay lạ về những
ngưới bạn
từ đâu xa đến thành phố này để tìm mình. Trong mưa, cây lá trên đường
phố lúc
nào xanh tươi, đẹp, gợi cảm sự ướt át trên nên một gương mặt. Về đêm
tối, Sài
Gòn đúng là hòn ngọc, đèn đô thị sáng khắp nơi, và ở đâu cũng nghe vọng
tiếng
nhạc phòng trà khiến bạn không thể ngồi yên ở nhà được.
Ngang qua sạp báo, Thụy ghé vào mua một tờ rồi tiện
thể
đứng ngay đó đọc cọp những báo khác.
Thụy bỗng nhớ có truyện ngắn đã gởi đăng ở tuần báo
Tiểu thuyết thứ năm,
liền vội tìm báo này mở ra xem ở mục hộp thư. Không thấy có, Thụy về
trang đầu
và niềm vui đến với anh thật bất ngờ. Trong mục lục, có truyện ngắn của
anh
được đăng.
Hết sức là mừng, vội vàng Thụy bước nhanh chân. Ýù
nghĩ
đầu tiên là có tiền nhuận bút, từ con
phố anh đang đi đến tòa soạn, không mấy xa. Khi Thụy
đến, phòng ngoài có hai người khách ngồi
chuyện trò với nhà văn Thanh Thủy. Vừa trông thấy Thụy, ông giới thiệu
tên và
Thụy hân hạnh được làm quen với nhà thơ Tường Linh và nhà văn Sơn Nam.
Cả hai
người nào cũng đeo kính trắng.
Thụy kéo ghế ngồi chuyện trò, và để khích lệ người
viết
mới ông Thanh Thủy nói nhiều đến những truyện ngắn
của anh được chọn đăng. Khung cảnh và không
khí làm việc ở tuần báo này rất là quen thân, dễ chịu. Ngày mới đến Sài
Gòn,
Thụy có làm việc ở đây hai tháng trước khi chọn con đường đi lính vào
chuyên
viên Không Quân. Và sự chọn lựa của anh thực sự là điều may, vì ra quân
trường
Nha Trang anh chỉ học ba tháng, xong về làm việc ở Sài Gòn, phục vụ bên phi đoàn 217 trực thăng rồi chuyển qua
báo Lý Tưởng, và nhờ làm việc cho báo này anh tạo được bút hiệu, viết
được
nhiều truyện ngắn, bút ký, đăng ở báo ngoài để lãnh tiền nhuận bút. Có
những
tháng, truyện ngắn được đăng nhiều, anh dành dụm số tiến này cộng với
tiền
lương lính, gởi về Huế cho mấy em anh ăn quà, mua sách học. Thụy thật có tâm hồn nghệ sĩ, lãng mạn, nhưng rất
chừng mực, không bừa bãi để chỉ biết vui cuộc sống hôm nay, chẳng dự tính ngày mai.
Hai ông nhà văn và nhà thơ nói chuyện về những sách
mới
xuất bản trong tháng này, và họ cũng nói đến giải thưởng văn học của
Hội Văn
Bút. Ở hội này, hàng tháng có ra tờ Tin Sách, hàng năm có giải thưởng
văn học,
vị chủ tịch của hội này là Linh mục Thanh Lãng, vừa là giáo sư dạy ở
trường Văn
Khoa.
Khi ông Quản lý tới, hai người khách đứng lên theo
ông
lên phòng làm việc ở cầu thang, còn Thụy ngồi lại với ông Thanh Thủy.
-Công
việc của em lúc này sao
?
-Em ở
Biên Hòa, nhưng cũng có
được thì giờ viết lách.
-Cố
gắng đi, viết được
gì đưa cho tôi.
-Ông in
được bao nhiêu cuốn
sách rồi ?
-Sáu
cuốn.
-Em
cũng ước mơ có tác phẩm
xuất bản.
-Em hãy
viết truyện ngắn thêm
một thời gian, rồi khởi sự viết tiểu thuyết. Tới lúc, bắt đầu tiểu
thuyết, nghề
văn đã tới sự trưởng thành.
Thụy lắng nghe hết những lời nhà văn nói, xong anh
từ tốn
đáp:
-Em vẫn
viết truyện ngắn
thôi. Về tiểu thuyết, em nghĩ là mình cần nhiều đến kinh nghiệm sống và
khả
năng trong nghề văn.
Hai người khách kia xuống, đến lượt ông Thanh Thủy
bảo
Thụy lên lấy tiền nhuận bút.
Thụy đứng lên, và
khi bước qua những bậc cầu thang gỗ anh cảm thấy hồi hộp. Ông Quản lý
thật vui
vẻ , đón tiếp .
-Lâu
nay, thấy vắng anh.
-Tôi
làm việc trên Biên Hòa.
-Công
việc ra sao ?
Thụy cầm điếu thuốc Lucky ông mời, và kể sơ lược cho
ông
nghe về những việc anh làm ở đơn vị. Hết sức chú tâm lắng nghe, Thụy kể
xong,
ông gật đầu.
-Anh
viết những truyện ngắn
hoặc là bút ký, phóng sự trong đời sống quân ngũ đi.
-Ngày
mai tôi lên vùng hành
quân.
-Đi lâu
không ?
-Chừng
một tuần đến mười
ngày.
-Ghi
nhận vào sổ tay, và viết bài cho báo của
tôi.
Thụy quá vui mừng
hớn hở. Ông tiếp lời:
-Anh đã
viết khá. Tiền nhuận
bút lần này được tăng.
Thụy có được năm
trăm cho truyện ngắn vừa đăng. Ngồi trò chuyện với ông chốc lát, Thụy
đứng lên
kiếu từ. Khi xuống nhà, Thụy ghé qua chỗ
cô Thư ký nhận báo biếu. Cô Hoa làm việc cho tòa soạn đã lâu năm, dạo
làm ở đây
Thụy có phụ giúp cô trong việc phân phối phát hành báo. Báo Tiểu thuyết
Thứ Năm
in mội kỳ 5000 số, phát hành riêng Sài gòn là 2000, còn lại đưa đi các
tỉnh.
Ông Thanh Thủy hỏi:
-Lãnh
tiên chưa ?
-Dạ rồi.
Thụy cũng cho ông
hay về chuyến đi công tác ngày mai. Ông nhìn anh, trong cặp mắt tỏ lộ
một niềm
tin cậy về thế hệ mới của những người viết trẻ.
Ra khỏi tòa soạn,
lòng Thụy vui lên với món tiền nhuận bút bất ngờ.
Thoáng có ý định xuống
nhà dì Hồng, nhưng rồi, Thụy lại thôi và từ tòa soạn anh về khu phố Lê
Lợi , và
sẵn dịp, tìm kiếm mua một ít sách báo cũ. Vì nghĩ mình viết văn còn
kém, khả
năng ngoại ngữ còn yếu, nên mỗi khi gặp các tạp chí cũ và những truyện
dịch bán
xôn Thụy đều mua để đọc, để học về cách cấu trúc câu chuyện và lối hành
văn.
Trên đường đi, Thụy nhớ Ninh Hà lạ lùng. Nàng đến
thành
phố này với một khuôn mặt đầy ánh sáng giữa những ngày mưa. Nàng đã cho
có được
mối tình của nàng qua âm thanh trong tiếng nói của nàng với từng câu
chuyện kể.
Và, như thế đó, tình anh yêu nàng, mỗi
sự nhớ nhung là mỗi lần thấy nó hao hụt.
Khi đi ngang rạp hát Vĩnh Lợi, Thụy dừng lại chốc
lát
đứng xem biển quảng cáo. Rạp đang chiếu phim Le repos du guerrier. Hai
tài tử
đóng phim này là Robert Hossein và Brigite Bardot. Thụy nhìn qua khung
lưới,
nhìn thật lâu vào những tấm ảnh của BB trong mỗi cảnh phim. Thụy thích
vẻ đẹp
của BB. Thụy thấy cô ta có vẻ đẹp dễ
thương và ngây thơ.
Bỗng dưng vừa mới quay gót trở ra, Thụy nhìn thấy
thành
phố sáng lên giữa một vùng nắng mênh mông trải rộng từ dãy bên này qua
tới bên
kia. Thụy đã trông thấy màu nắng tràn vào thành phố thành những dòng
sông.
Trong lúc này có một chút lãng mạn bất ngờ , chẳng qua, Thụy mong muốn
được làm
vơi dịu nỗi buồn. Từ hôm nàng từ biệt đến nay đã hơn một tuần. Có nàng,
Duy coi
anh là người bạn. Nhưng nàng đã đi xa, giờ đây, giữa Duy và anh như
không còn
mối liên hệ mật thiết nữa. Tuy nhiên, Duy sẽ hiểu anh là một người bạn
cần
thiết trong mối quan hệ hoặc có sự giúp đỡ nhau. Thụy cũng lạ là giữa
Duy và
Ninh Hà luôn cãi nhau, giận lẫy nhau, rồi làm hòa ngay sau đó. Về phần
mình,
Thụy thật khó nói nên lời. Nàng biết anh yêu nàng, đã khóc thầm với mối
tình ,
vậy mà, rất nhiều lúc nàng muốn nói, bỗng dưng ngừng lại. Không phải do
bản
tính rụt rè, nhưng có lẽ rằng, nàng quá thấu hiểu một mối tình lặng
câm, vừa
chua xót của hai người.
Một quầy sách lớn xuất hiện, nó ở cạnh hiệu thuốc
tây
đang bày ra những sách vừa mới xuất bản trong tuần. Thụy vừa dừng bước
, đã
thấy choáng ngợp. Sách mới, in rất đẹp, nhưng giá tiền đắt. So với các
hiệu
sách bên kia đường, thì ở đây, bạn mua sách được bớt từ 30 đến 40% trên
giá
bìa. Những cuốn tiểu thuyết dịch trưng phía ngoài, hai cánh bên với các
tựa Một thời để yêu, một thời để chết,
Mùa thu lá bay, Về miền đất hứa, Người vợ cô đơn, Dừng cơn gió loạn thật là hấp dẫn, bắt mắt,
thu hút sự tò mò của Thụy. Nhưng rồi, anh đã
có sẵn ý nghĩ, đợi một thời gian vài tháng sau nó sẽ xuất hiện trên
những hàng
sách cũ bán xôn.
Bên kia ngã tư, dọc từ dãy quán đầu đến gần trụ sở
Quốc
Hội, thuộc khu vực những gian hàng buôn bán sách, báo cũ. Hồi mới vào ,
Thụy
mua được những sách giáo khoa về Triết và đã gởi những sách này về cho
Ninh Hà
học.
Thư nàng viết hồi âm cho anh ngay sau khi nhận được
sách.
Lá thư thật dễ thương, cảm động. Và, từ ngày đó quen nhau qua buổi học
đầu
tiên, những kỷ niệm gì của nàng, Thụy đều cất giữ bằng cả tấm lòng một
người
bạn.
Có tiếng còi hụ giờ trưa vang lên. Ngoài đường, xe
qua
lại như mắc cửi. Những quán ăn , quán nước bên đường đông khách tới
ngồi. Tại
gian bán sách đầu tiên, Thụy ngồi xổm xuống, mắt tìm kiếm những sách
được trưng
bày. Nhưng ở đây chỉ có báo Nhân Loại, Tân Phong, và hầu hết là sách
giáo khoa
trung học.
Thụy đứng lên, sang quán bên cạnh. Có hai số báo
Sáng Tạo
cũ, và cuốn truyện dịch Mặt trận miền tây vẫn yên tĩnh. Rồi bất ngờ,
anh tìm ra
tập truyện Mưa của nhà văn người Anh Somerset Maugham.
Khi người bán cho giá, anh kỳ kèo và được bớt
chút ít. Anh bán sách cũng bằng lòng, rồi lấy những sách Thụy đã chọn
cho vào
túi nylon. Khi nhận sách anh ta đưa, Thụy nói lời cám ơn.
-Hút
điếu thuốc cho vui.
Thụy cầm điếu thuốc Mélia vàng anh mời, đứng hút và
chuyện trò với anh ít phút.
-Anh là
người Qui Nhơn hay
Tuy Hòa ?
-Anh
đoán sai. Tôi ở Nha
Trang.
-Tôi
cũng mới ngoài đó về
đây.
-Anh
làm gì ngoài đó ?
-Thì đi
lính. Tôi là lính
Không Quân.
-Vậy
hả. Anh chịu khó đọc
sách.
-Ờ đọc
giải trí cho vui.
-Những
sách báo anh mua rất
là hay.
-Tôi
cũng mê đọc truyện.
-Anh có
mê kiếm hiệp không ?
-Không
mê lắm, nhưng có đọc
vài bộ.
Người đàn bà trẻ mang cơm đến, Thụy lên tiếng chào,
được
anh ta giới thiệu bà xã của anh.
Người vợ nhắc:
-Anh ăn
cơm đi.
Anh ta nhìn Thụy, nói:
-Khi
nào cần mua sách gì, ghé
đây nghe.
Thụy gật đầu. Ở
gian sách kế bên, bán sách báo ngoại ngữ. Thụy lướt mắt nhìn thấy hầu
hết là
sách báo chuyên môn, khảo cứu. Có ở gian hàng này những báo Thế Giới Tự
Do, Đối
Thoại, Triển Vọng và Văn Hóa Á Châu.
Thụy không mua gì
cả. Rồi bất anh chợt nhớ ra một lần trước có mua một ít sách về hội họa
gởi cho
cô Vân Oanh, thì bây giờ, anh thực sự mong đi tìm ra được những loại
sách đó.
-Ủa,
mày đi đâu đây ?
-Anh
Dương.
-Kéo
chiếc ghế con ngồi đi.
Thụy ngồi xuống ghế, đưa mấy cuốn sách vừa mua cho
anh
xem. Anh coi qua từng cuốn, còn người đàn bà đang bán sách cho khách
hàng.
-Chào
chị, Thụy lên tiếng.
Người đàn bà đáp lời ,
nhìn Thụy vẻ dò xét, vừa thân thiện. Anh Dương hỏi:
-Lâu
nay, mày làm ở đâu ?
-Em làm
trên Biên Hòa.
-Không
đoàn 23.
-Không,
em làm bên ASOC.
Thụy cầm điếu thuốc anh mời, tiện hỏi:
-Quán
sách này của anh ?
-Ờ , của bà đây.
-Hôm
nay anh được nghỉ.
-Làm
gì, chút nữa tao tới nhà
in.
-Báo Lý
tưởng in xong chưa ?
-Đang
in, gần xong.
-Lúc
này, anh có viết thêm
cho báo nào không ?
-Có.
Anh đang đi feuilleton cho báo Độc Lập.
-Truyện
dài mới.
-Truyện
mới. Hôm nay , kỳ thứ
mười.
-Em
không hay.
Anh Dương đưa Thụy
tờ báo Độc Lập. Thụy mở trang trong, thấy truyện dài
Người Lính Hào Hoa.
-Cuốn
này đúng đề tài của
anh.
-Mình
phải viết, chứ mấy ông
phi công bận đi bay đâu có thì giờ.
-Em sẽ
theo dõi truyện
dài của anh.
-Ờ, tao viết cũng để kiếm tiền.
Thụy không hỏi thêm, nhưng lúc này dễ dàng nhớ lại
những
buổi đầu làm việc với anh ở phòng báo chí. Khi Thụy vừa đến quân trường, báo Lý tưởng ra mắt. Báo được
phân phối, Thụy đọc thấy hay, sau đó, anh lấy một truyện ngắn viết
trong Đặc
San gởi về Tòa soạn. Truyện ngắn anh được đăng, có sửa chữa một vài chi
tiết kể
cả câu văn. Người sửa là anh Dương đây. Anh Dương là nhà văn tên tuổi
trong
quân đội, trước khi theo nghề báo anh làm việc bên ngành Không lưu.
Thời trước
đi lính, anh qua Pháp học ở trường Cơ khí Rochefort như Thượng Sĩ
Trạch. Về
nước, vừa làm việc, anh vừa viết văn cho các báo Thần Chung, Nhân Loại,
và khi
tờ Lý Tưởng ra mắt, anh là người đầu tiên được vị Tư lệnh để mắt đến.
Về phần
Thụy, mãn khóa tân binh anh về Không đoàn 33, do có chỉ số hành quân
nên sau
khi trình diện bên Liên đoàn tác chiến, anh được đưa đến làm việc ở Phi
doàn
trực thăng 217. Trong giấy tờ, chức vụ của anh là thư ký hành quân,
nhưng thực
sự, công việc chẳng có gì là quan trọng cả. Thụy và Tài, bạn cùng khóa hai đứa làm thay ca, hàng ngày, buổi sáng là
gọi đài khí tượng để ghi tin tức thời tiết, sau đó, làm phần hành ghi
sổ trực
những phi vụ hành quân từ Liên đoàn tác chiến gọi tới, đến mỗi tuần lập danh sách cơ hữu về nhân viên và phi
cơ, cuối tháng là cộng giờ bay cho các phi công.
Không khí làm việc ở phi đoàn thoải mái, dễ chịu.
Các phi
công đều còn trẻ, từ cấp bậc Chuẩn úy đến Trung úy, mỗi ngày, ở phòng
hành quân
thường có đến mười phi công trực, đến đêm tăng cường một số nữa. Ở phi
đoàn
trực thăng, các phi vụ thực hiện là tiếp tế, tản thương, và đổ quân.
Thụy có được
những dịp trò chuyện với các Sĩ quan trẻ nên được hiểu biết thêm về phi
công và
phi cơ, được nghe những câu chuyện các phi công này trong những phi vụ
ngoài
chiến trường, và có hai lần Thụy theo chuyến bay, một chuyến xuống Cần
Thơ đưa
người tăng phái, và một chuyến tản thương đêm ở chiến trường Hậu Nghĩa.
Sau phi
vụ này, Thụy có viết được một truyện
ngắn và một bài phóng sự, cả hai được đăng lên báo Lý Tưởng. Nhớ bài
báo trên,
Thụy được gọi về báo Lý tưởng, và được làm việc chung với anh Dương một
thời
gian, nhưng rồi, lại rời Sài Gòn trở ra Nha Trang học đúng theo ngành
chuyên
môn của chỉ số ấn định.
-Ngày
mai em đi biệt phái .
-Ở đâu.
-Tây
Ninh.
Thụy thèm cà phê, liền đứng lên gọi. Người bán quán
bên
kia nghe Thụy gọi hỏi bao nhiêu ly, Thụy nói ba, nhưng chị Dương không
uống.
Thụy cười nói với anh Dương:
-Em mới
lãnh nhuận bút, mời
anh ly cà phê.
Anh Dương gật đầu. Chị Dương cũng cười, vui mắt nhìn
qua
Thụy. Anh Dương nói:
-Thụy đây có viết văn. Làm việc chung với anh ở báo
Lý Tưởng.
Rồi chị Dương nhớ ra, nói:
-Chị có
đọc bài của Thụy.
Người bán cà phê mang chiếc khay qua, dặt hai ly cà
phê ở
chỗ Thụy và anh Dương ngồi. Anh Dương hỏi Thụy:
-Em có
bằng Tú Tài sao không
xin đi Sĩ quan.
-Em đã
nộp đơn xin đi phi
hành .
-Nộp
rồi hả.
-Dạ rồi.
Thụy uống một hớp cà phê cảm thấy tỉnh táo. Anh
Dương lấy
gói thuốc đưa Thụy một điếu.
-Em
đang chờ gọi khám sức
khỏe.
-Khi
nào có giấy gọi tin cho
anh hay.
-Em hơi
yếu về mắt.
Anh Dương suy nghĩ một chút, xong nói;
-Bên
mắt là Bác sĩ Lữ.
-Anh
quen không ?
-Để anh
nhờ người nói giúp.
-Em cám
ơn anh.
Anh Dương nhìn đồng hồ, Thụy biết anh sắp đi nên
cũng vội
vàng đứng lên. Trước khi đi, Thụy và anh còn nói lại chuyện vừa rồi, và
Thụy
cảm thấy có sự tin cậy về tương lai của mình.
Ngày hôm sau, Thụy lên đơn vị chờ chuyến đi. Nhưng
cả
Thụy và Trung úy Ngoạn chờ đến gần trưa, giờ đó mới có chuyến bay
Chinook lên
vùng hành quân. Tới đây, Trung úy Ngoạn liên lạc về ASOC, xong xuôi,
ông quay
sang Thụy nói cho biết là chuyến đi biệt phái kỳ này kéo dài đến hai
tuần lễ.
IX
Lần đầu tiên bà Huyên gặp lại cô gái, kể từ một buổi
sáng
hè năm ngoái cô đến đây, mới đó, đã qua hơn một năm.
Khi còn đứng trên bậc thềm cửa, bà trông thấy cô gái
đang
cắt tỉa những ngọn lá, nhánh cây, và chăm sóc từng cánh hoa, nhìn bóng
dáng
thiếu nữ hiện lên trong nắng sớm lòng bà nghe trỗi dậy một niềm thương
mến và
cảm thấy những giây phút hạnh phúc đang được gửi tới, riêng cho đời
mình.
Từng bước chậm, bà Huyên đi trong dáng vẻ an nhàn,
tự
tin. Với bộ quần áo nhẹ vàng nhạt, khoác ngoài chiếc áo len màu cà phê,
bà có
cái dáng thật cao nhã, đẹp thuần hậu qua mái tóc bạc trắng, gương mặt
đầy đặn,
đôi mắt còn lấp lánh những tháng ngày tìm lại tuổi thanh xuân.
Hoa, cây lá, cũng là một thứ tình yêu giữ rất lâu
trong
tâm hồn cô gái. Ánh nắng in xuống vai áo hồng của cô. Không để ý gì
chung
quanh, lúc này, cô ngây người ngắm từng bông hoa đã nở rộng hết các
cánh.
-Chào
cháu.
Cô gái hơi giật mình, quay đầu lại.
-Dạ,
cháu chào bà.
-Bà
thấy cháu thật là dễ
thương. Cháu đã làm sáng đẹp cảnh trí của nhà bà.
-Cháu
rất thích chăm sóc cây
cối, bông hoa.
-Và,
cháu cũng là một cô gái
xinh đẹp.
-Cám ơn
bà.
Hai người bên nhau trong nắng ấm của những ngày đầu
thu.
Những ngày thu luôn mang dáng vẻ buồn dịu dàng, nhưng thật mới mẻ.
-Cụ ông
khỏe không bà ?
-Đã yếu
đi nhiều.
-Cháu
thấy bà vẫn còn mạnh.
Bên ngoài, con đường không một chút vẩn đục. Tất cả
nhẹ
êm, sáng sủa. Dòng sông chảy hiền hòa, những hàng cây dọc theo bờ sông
phủ kín
lá xanh mướt. Dòng sông trôi đi, trong lúc này ánh nắng từ đâu xa tràn
tới phủ
kín lên chiếc cầu. Đây là khu nhà ga, luôn gần gũi thân mật. Ở khu phố
này khi
có đoàn tàu ở các tỉnh về đến, lúc nào bạn cũng được nghe nó báo hiệu
một hồi
còi vang vọng thật dài và rất lâu.
-Cháu
vẫn thường hay về thăm
nhà ?
-Dạ,
cũng có về nhưng không
thường lắm.
Cô gái lễ phép lên tiếng mời bà chủ vào nhà mình.
Yên
lặng, bà Huyên theo chân cô gái bước lên bậc thềm vào nhà.
Căn phòng phòng khách sáng lên, và những sự vật bày
biện
tự nhiên lộ ra vẻ mặt hớn hở để đón tiếp bà chủ nhà. Cô gái mời bà
Huyên ngồi
xuống chiếc ghế nệm, rồi một mình cô đi ra phòng sau. Một lúc cô trở
lại với
khay trà, và để nhẹ xuống bàn.
Trong khi cô gái rót nước vào tách, bà Huyên nói:
-Bà rất
hài lòng về cháu.
-Cám ơn
bà.
-Cháu
tên gì ?
-Cháu
tên Oanh.
-Đúng
là cái tên thể hiện con
người của cháu.
-Mời bà
dùng nước.
Bà Huyên cầm tách trà lên uống một hớp.
-Nhà
vườn có bông mộc, cháu
bỏ vào trà cho thơm.
-Dạ.
-Cháu
đi dạy hay còn đi học.
-Cháu
vẫn còn đi học.
-Cháu
học trường nào ?
-Dạ,
trường Mỹ Thuật.
Bà Huyên gật nhẹ
đầu. Ánh mắt bà sáng lên một niềm vui. Thật yên lặng, bà nhìn những bức
tranh
vẽ treo tường. Bà khen cách trang trí của cô gái. Bà nói:
-Cháu
chọn những bức tranh
thật dễ thương.
-Những
bức này cháu vẽ lấy.
-Giỏi
quá.
Bà ngắm cô gái, đôi mắt bà hạnh phúc lạ thường. Và,
theo
ý mong của bà Huyên, cô gái đưa bàn tay ra cho bà nắm giữ. Giọng thân
tình, bà
Huyên nói:
-Rất
tiếc, con trai bà đã lập
gia đình.
Cô gái bỗng thấy ngượng nghịu, bối rối. Rồi bà tiếp
lời:
-Hạnh
phúc cho ai được gặp
cháu.
-Cám ơn
bà có lời khen cháu.
-Không,
bà nói thực lòng.
Cháu ở đây thấy ra sao ?
-Dễ
chịu lắm, thưa bà.
-Cháu
nói thực lòng chứ.
-Dạ,
cháu rất thực lòng.
-Nào,
cho bà xem cuộc sống
của cháu.
Cô gái đứng lên mời bà Huyên vào phòng sinh hoạt của
mình. Và, sự ngạc nhiên đến thích thú khi bà nhìn thấy căn phòng cô gái
ở rất
ngăn nắp, gọn gàng và sạch sẽ.
-Cháu
thật là một cô gái hoàn
hảo.
-Dạ,
cám ơn bà. Cháu thật
hạnh phúc trước những lời khích lệ của bà.
Không nói gì thêm, bà nhìn ngắm những bức tranh cô
gái
vẽ. Những nét vẽ ấn tượng, màu sắc tươi sáng, trước mỗi bức tranh bà
cảm thấy
như mình được trờ về lại những tháng ngày xưa.
-Oanh, cháu đi theo bác.
Cô gái vâng lời, bước đi theo. Ra ngoài phòng khách,
bà
chủ nhà lấy chìa khóa mở một cánh cửa đi qua phòng bên.
Đây là căn phòng còn bỏ trống. Ở bên trong bức màn,
gia
đình cất những thứ đồ đạc riêng, nay không cần dùng đến.
Nhìn gương mặt cô gái, bà nói:
-Bà
dành cho cháu căn phòng
này để vẽ tranh.
Cô gái thoáng có chút lo ngại.
-Này
cháu, bà hiểu cháu.
Không, cháu đừng nghĩ ngợi. Bà muốn dành cho cháu căn phòng này vì cháu
yêu
nghệ thuật. Chỉ có cháu, bà mới mở cửa căn phòng này. Đây là phòng
tranh của
cháu.
Giọng ngập ngừng, cô gái hỏi:
-Mỗi
tháng bà cho cháu trả
bao nhiêu.
Bà chủ ngẩn người. Nhưng nhìn vẻ mặt cô gái, bà hiểu.
-Không,
bà không lấy tiền
đâu. Bà dành cho cháu, cháu hãy dùng căn phòng này để vẽ tranh.
Một giọng xa vắng, bà tiếp lời:
-Nhưng
rồi, đến một ngày cháu
xa khỏi đây, xa khỏi thành phố này. Về sau, khi cháu rời căn nhà này,
xin cháu
gởi lại cho bà một vài bức tranh cháu vẽ để kỷ niệm nhắc bà luôn nhớ
đến cháu.
-Vâng,
cháu xin hứa với bà.
-Bà rất
thương cháu.
Niềm vui quá bất ngờ, cô gái nói:
-Thưa
bà, hôm nay là ngày
sinh nhật của cháu.
-Vậy
sao ? bà chúc mừng ngày
vui hôm nay của cháu.
Rồi bà Huyên rút chiếc chìa khóa đưa cho cô gái.
-Đây,
cháu cất giữ.
-Cháu
cám ơn bà.
Oanh theo chân bà Huyên xuống khỏi bậc thềm tam cấp.
-Bà về
nghe cháu.
-Dạ, bà
về.
Oanh trở lại chỗ khóm cây, nàng dọn dẹp những cánh
lá,
cánh bông và nhánh cây tỉa vương rãi trên mặt đất. Bằng lối đi bên hàng
rào,
nàng cầm túi rác bỏ vào thùng xong đi tới bể nước rửa tay.
Oanh trở lên nhà, trong trạng thái hân hoan và nàng
nghĩ
tới phòng tranh đặc biệt của mình.
Căn phòng lặng yên như thể mong đợi nàng lên tiếng.
Ngay
lúc này, nàng nghĩ tới việc dời những bức tranh bên phòng vẽ chỗ ở của
mình,
qua phòng mới, và từng bức một với nghệ thuật trang hoàng tranh thật
khéo léo,
cân xứng như nghệ thuật cắm hoa, Oanh làm cho bức tường trở nên sinh
động, đầy
ánh sáng qua màu sắc khiến bạn có ngay cảm tưởng, mỗi bức tranh là một
khuôn
mặt hiện hữu ngoài cuộc đời. Và, hôm nay, cái cơ duyên của bà khách đem
đến cho
nàng, trở nên một sự tái tạo và trưởng thành khi nàng nghĩ đến cuộc đời
mình.
Ngày mai, luôn luôn những ngày thật hứa hẹn. Và, ngày mai, cũng luôn
luôn là
những ngày tháng của mỗi mùa, trong cái tốt tươi, hạnh phúc.
Lúc nãy, mới bước chân vào căn phòng này, nàng giữ
lấy
một cảm giác có tính cách ước lệ, vừa thầm kín, nhưng giờ, là trước mắt
nàng là
một thế giới nhỏ bé được dựng lên thật bao dung, hài hòa. Từ một góc
ánh sáng
bên cửa Oanh nhìn căn phòng, bất chợt nàng có ý nghĩ đây là một khung
cảnh của
sân khấu, và nàng đang tập diễn cho mình một vai kịch. Không chỉ đứng
nhìn
tranh vẽ của mình với tâm cảm của một người sáng tác, mà trong sự
thưởng ngoạn
nghệ thuật, Oanh cũng đang ngây ngất với từng nét đẹp duyên dáng, vừa
chân thực
của tình yêu. Oanh bỗng nhắm mắt lại, đây là giây phút huyền nhiệm, và
nàng đã
có ngay trong trí tưởng một bức tranh thật mới lạ, đầy ánh sáng của màu
nắng và
cây lá, mỗi màu là một niềm vui, mỗi màu là tiếng nói từ ngoài cuộc đời
đưa
nàng vào trong sự thể hiện của nghệ thuật.
Những giọt mồ hôi trên trán nhỏ xuống, cảm giác của
vị
mặn trên môi làm Oanh nhớ nghĩ đến Nguyên. Và, người yêu của cô, một
bóng hình
đâu đó, thật rất gần bên cô.
Oanh trở về phòng mình. Nàng xuống bếp, chiếc khăn
mặt
vắt trên vai, cả mái tóc đổ xuống khi nàng múc nước rửa mặt. Sau khi
rửa mặt
xong, Nga thong thả nghĩ đến bữa ăn
trưa, mà hầu như nàng không dự tính trước. Ăn gì đây, nàng cất tiếng
hỏi đôi
mắt hiền dịu đang đứng nhìn chung quanh gian bếp đã nguội lạnh, không
có một
chút lửa từ sáng đến giờ. Nhưng rồi, nàng chú ý đến mấy thứ thức ăn mua
sẵn
chiều qua để trên bàn, trong thoáng nghĩ, nàng nghĩ đến một vài món ăn
sẽ làm
chiều nay để mừng sinh nhật của nàng.
Nga nghĩ đến món ăn nhẹ. Nàng xách chiếc ấm ra bể
lấy
nước, đặt lên bếp đun sôi, và trong khi chờ nước sôi reo, nàng làm món
mì gói,
có cải, tôm và trứng. Đây là món đơn giản, nhưng với tài khéo tay làm
bếp, món
ăn này của nàng luôn hấp dẫn.
Khi nước bốc hơi, Oanh vẫn để nước sôi thêm chút nữa
rồi
mới nhấc ấm, và từ từ nàng cho nước vào tô mì, xong lấy một cái dĩa đậy
úp kín
đợi lâu chừng hơn một phút, mì vừa chín tới.
Ngày chủ nhật bình yên. Oanh ngồi ăn ngoài phòng
khách.
Bỗng nhiên nàng chợt nghĩ, từ một ngày ấy đến giờ, nàng ở căn nhà thuê
này một
mình, nhưng không lúc nào nàng cảm thấy lẻ loi, cô độc cả. Nàng luôn
cảm thấy
hạnh phúc với cuộc sống, với không khí, cảnh vật quen thuộc, và hơn thế
nữa,
nàng luôn có Nguyên ngay cả lúc này đây vắng chàng. Hầu như Nguyên về
bên Oanh
mỗi ngày.
Bữa ăn trưa ngon. Oanh đứng lên đem chiếc khay ăn
vào nhà
để xuống chậu thau dùng rửa bát bên cạnh bể nước, xong nàng trở lên
phòng
khách, ngồi một mình uống trà thật thú vị trong sự yên tĩnh, rồi bỗng
nhiên
nàng khép mắt lại như đó là giây phút thần diệu của người họa sĩ nghĩ
đến một
bức tranh vẽ chân dung.
Khi cảm thấy trong cõi tiềm thức có một sự lay động
êm
dịu, nhẹ nhàng, Oanh đứng lên, đi vào phòng nghỉ của mình. Trên mặt
gối, tóc
nàng xõa rộng. Nàng đọc tờ tuần báo Kịch Ảnh, số mới nhất, ra Huế ngày
hôm qua.
Bài điểm phim của nhà văn Mai Thảo về cuốn phim The
Snows
of Kilimanjaro thật hay. Hai tài tử chính đóng trong phim này là
Gregory Peck
và Ava Gadner. Nàng đã coi nhiều cuốn phim Gregory Peck đóng, nhớ nhất
là phim
To kill a Mockingbird. Nàng cũng rất yêu thích nét đẹp lãng mạn, phong
trần của
nữ tài tử Ava Gadner. Nguyên cho nàng biết, nữ tài tử này, gốc Mễ Tây
Cơ, cô ta
đóng rất nhiều phim phỏng theo tiểu thuyết của nhà văn Mỹ Enerst
Hemingway, và
anh có điều ngạc nhiên, trong phim A farewell to arms, đạo diễn không
chọn cô
ta đóng vai Catherine mà lại chọn Jennifer Jones. Phim A farewell to
arms được
quay hai lần, đều cùng một nữ tài tử Jennifer Jones đóng, nhưng vai cô
ta đóng
không lột tả hết tính cách nhận vật chính trong truyện.
Oanh thiếp ngủ lúc nào, nàng cũng không hay. Căn
phòng
lắng im không tiếng động. Tờ báo buông rời khỏi tay nàng, nằm bên cạnh
chiếc
gối. Và, hơi thở nàng nhẹ, vừa dễ gây niềm xao xuyến. Nàng đẹp trong sự
yêu
thương trên gương mặt, và nàng đang ngủ ngon giấc. Bên cạnh dòng thác
đang tuôn
chảy, con đường đèo uốn quanh dẫn nàng đi xa lên thành phố miền cao
nguyên.
Oanh đang nằm mơ thấy mình đi trên một chuyến xe ca vượt từng quãng
đèo, cảnh
vật hai bên là rừng núi, ghềnh thác. Trời không mưa, nhưng gió tràn
lạnh vào
khoang xe, và nàng ngồi ở chiếc ghế dựa bên cửa xe nhìn sương mù bao
phủ cả một
vùng không gian xa lạ, nhưng thật là thơ mộng. Trong xe, có tiếng nhạc,
có cả
tiếng nói của hành khách, nhưng riêng nàng vẫn một mình. Và rồi, quang
cảnh
thành phố hiện ra, giống thư thể lúc này nàng đang nằm mơ vậy. Nàng hết
sức
ngạc nhiên trước khung cảnh một thành phố nằm giữa một không gian của
núi và
rừng bao quanh. Khi xe chạy qua nhiều nhiều con đường nàng được trông
thấy
những biệt thư nằm trên các ngọn đồi, những ngôi nhà màu ngói đỏ tươi
bên cánh
rừng, những vườn hoa xinh đẹp, chim chóc bay qua trên hồ nước, và ánh
nắng sớm
đang dần dần làm loãng tan những đám sương mù dày trên các góc phố.
Nơi thành phố ấy nàng đến là Đà Lạt. Lúc này, trong
giấc
ngủ thật êm dịu, nàng vừa nhận ra được bóng dáng mình, và nhớ lại một
mùa hè ấy
nàng mới mười lăm tuổi. Nàng đến thành phố này để thăm một người anh
ruột. Anh
của nàng đi xa nhà đã lâu, và anh đang sống trong thành phố này ở căn
nhà thuê
chung với gia đình một người bạn thân.
Khi cô gái đến, sự
xuất hiện của cô làm mọi người ngẩn ngơ, thấy cô đẹp như là thiên thần.
Từ buổi
gặp đầu tiên, những người trong nhà ai cũng quí mến, mỗi ngày ai cũng
ai cũng
dành được ở bên cô, ngắm vẻ đẹp dễ thương của cô, nghe giọng nói của cô
như
tiếng chim hót, và sự săn sóc dành cho cô là những món quà cô yêu
thích.
Người
anh của cô, sau buổi đi
làm việc ở sở về, là để hết thời gian dành cho cô với mỗi buổi chiều là
một
cuộc dạo phố, đi mua sắm, đi tới các tiệm ăn, mỗi cuối tuần là đến một
nơi có
nhiều thắng cảnh đẹp rừng Saint Benoit, hồ Than Thở, thác Cam Ly, thác
Prenn,
thác Gougha, hồ Xuân Hương, tu viện Domaine de Marie.
Ngôi nhà ấy nằm ngang lưng dốc đường Duy Tân, bên
kia
đường là những hàng cây trồng anh đào và mimosa, ở sau lưng nhà, nhìn
xuống bên
dưới con đường là một ngôi trường trung học, về sau này, tôi mới nói
cho cô gái
hay tôi đã học ngôi trường đó, tôi đã ở thành phố đó vào thời gian cô
đến thăm.
Khi nghe tôi nói vậy, cô gái đã nhìn tôi bằng cặp mắt thân thiện, và
bạn biết
không, chỉ trong cái nhìn ấy mà bao nhiêu ý tưởng về hạnh phúc, về kỷ
niệm, về
tình yêu bỗng gợi nhớ lên trong sự hồi ức một thành phố cũ của tôi thời
niện
thiếu, ngày xa ấy, tôi thấy bóng dáng buổi chiều sương mù trên các ngọn
đồi,
tôi nghe tiếng thông reo lưu luyến hoài mong như âm điệu của tiếng đàn
vĩ cầm,
và tôi được ngắm nhìn từng mùa hoa nở, đáng yêu nhất là hoa mimosa và
hoa anh
đào. Tôi chỉ học ở Đà Lạt hai năm, rồi đi xa. Rồi một ngày đó, tôi nhận được lá
thư của cô gái, cô cho tôi hay rằng người anh của cô đã chết, anh ấy
chết khi
chưa có gia đình, hay tin cái chết của người anh, cô đã khóc sướt mướt,
thảm
thương như thể một người vợ chưa cưới.
Lá thư viết dài, cô kể lại cho tôi nghe một mùa hè tuyệt vời của năm
ấy, cô nói
nhiều về tình cảm người anh của cô, và hiện giờ cô vẫn còn giữ lại kỷ
niệm
chiếc áo đầm học sinh màu xanh có dây
thắt lưng màu hồng tím rất là đẹp.
Một hôm, ngồi bên nhau cô gái hỏi:
-Bao
giờ mùa hè mới trở lại
anh nhỉ ?
-Cô cứ
nhìn những chiếc áo cô
mặc sau mỗi mùa.
-Anh
cũng như thế chứ.
-Không
đâu cô. Tôi chỉ có một
màu áo thôi, đó là màu của núi rừng.
-Màu
ấy, trông thật hoang
dại.
-Tôi chỉ có mặc một màu áo đó. Vì tuổi trẻ của
chúng tôi thuộc về chiến tranh.
-Anh
không có được những ngày
nghỉ hè sao ?
-Không,
cô. Những lúc nào tôi
cũng nhớ, và bên cô, trong giọng nói của cô, lúc này đây tôi là kẻ trở
lại một
mình với thời niên thiếu.
-Người
anh của em chết thảm
thương quá.
-Cô
thật đẹp và có lòng nhân
hậu.
-Anh
vẫn còn giữ những lá thư
của em đó chứ.
-Tôi
vẫn còn giữ lá thư của
cô và nhiều hình ảnh khác nữa.
-Rồi
thời gian cũng phôi pha.
-Với
cô, trong niềm phôi pha,
luôn luôn tôi vẫn thấy những hình ảnh sáng đẹp của cô.
Khi nghe tiếng chuông nhạc trên đồng hồ treo tường,
Vân
Oanh thức dậy. Nàng thức giấc với một cảm giác dễ chịu, và nàng cũng
biết rằng,
lúc này buổi chiều đã tới.
Bên ngoài cửa, có tiếng nói thân quen của ba cô gái.
Vừa gặp nhau, các cô cùng cất tiếng cười vang. Rồi ở
ngay
phòng khách, bốn cô ngồi xuống, ba cô đem hết những quà tặng của mình
ra khoe,
còn Oanh, nàng luôn là biểu tượng của hạnh phúc.
Nhi, em gái Nguyên tặng cho người chị dâu tương lai
một
cuốn album và một tập ảnh phong cảnh về Hà Nội thuở xưa. Phương, tặng
cho Oanh
bốn cây cọ và hộp sơn màu nước. Liên An nhìn Oanh, nụ cười trong cặp
mắt đen
lánh. Cô gái muốn để cho Oanh tự tay mở sợi dây buộc gói quà. Và, quà
tặng của
Liên An là một khung ảnh lớn.
Oanh nhận quà xong, nàng để một vài giây cho căn
phòng
thật là nồng ấm, rồi chút sau lên tiếng:
-Mình
vừa mới mở một phòng
tranh ?
Tất cả ba cô gái nhìn Oanh, kinh ngạc.
-Mời
các bạn bước qua phòng
tranh của mình.
Ngay khi Oanh nay cánh cửa bên, những bức tranh của
nàng
mới treo xong lúc trưa dậy lên như một luồng sáng. Bốn người bước vào,
những
bức tranh đã xem trước đó, giờ là những bức tranh mới hẳn mang trọn vẹn
một ý
nghĩa về giá trị nghệ thuật khi nó có được vị trí của mình trong căn
phòng này.
-Hay
quá, nhưng làm sao chị
có cơ duyện này, Liên An hỏi.
Bằng một giọng nhỏ nhẹ, thân tình, Oanh kể lại câu
chuyện
sáng nay của nàng và bà chủ nhà.
-Vậy là là ngày sinh nhật của chị hôm nay đáng nhớ
hơn bao giờ hết.
-Chị
cám ơn Nhi.
Sau một lúc khá lâu đứng ở phòng tranh, giờ bốn cô
qua
phòng khách. Vừa ngồi xuống, cả bốn người tranh nhau nói về thực đơn
của mình
dành cho một tối sinh nhật.
Liên An chợt hỏi:
-Nãy
giờ, chị Oanh giấu anh
Nguyên đâu ?
-Anh
Nguyên đi dặt bánh.
-Phương sẽ làm món bánh lá.
-Nhi là món bánh xèo.
-Liên
An chỉ chờ tới giờ ăn
thôi. Nhưng mình cũng có thể làm được món chả giò.
-Hay
lắm.
Rồi cả bốn cô cùng đứng lên, rộn ràng đi xuống bếp.
Tự
trưa, bếp nguội lạnh, giờ có lửa sáng, dậy ồn lên với những tiếng nói
yêu đời
của bao cô gái.
Oanh nói với các bạn, nàng làm món mì Quảng và món
xôi
gà.
Phương bỗng lên tiếng:
-Mình
làm nhiều món quá, làm
sao ăn hết ?
-Đừng
lo, chúng mình ăn sinh
nhật buổi tối mà.
Nhi hỏi:
-Anh
Nguyên có mời bạn anh
đến không ?
-Không,
anh Nguyên chỉ dành
cho chúng mình thôi.
Nguyên được từng cô gái nhắc đến tên, và một vài mẩu
chuyện của anh thời trước.
-Em
chưa hề hay biết buổi gặp
đầu tiên của chị Oanh và anh Nguyên.
-Tối
nay, chị sẽ bảo anh
Nguyên kể cho .
Liên An nói:
-Em
muốn anh Nguyên kể hết
chuyện các cô nàng anh quen.
-Anh ấy
sẽ chiều ý Liên An.
-Còn
chị thì sao ?
-Bao
nhiêu chuyện của anh,
chị nghe kể hết rồi.
Phương hỏi Oanh.
-Có mấy
phút chị buồn ?
-Hơn
một giây.
Khi lửa bếp đã nóng lên và làm đỏ hồng gương mặt các
cô
gái, và lúc này các cô đang chuyển qua những đề tài về chuyện học hành,
thi cử,
chuyện tình lãng mạn trong yêu đương của chính mình, bạn bè.
Phương lên tiếng hỏi:
-Chị
Oanh thích làm cô giáo
không ?
-Đó là
ước mong của mình.
-Chị
không thích làm họa sĩ
sáng tác.
-Mình
rất thích vẽ, nhưng không
là họa sĩ, sự nghiệp to tát quá.
-Ở
thành phố nào mà có chị
Oanh đến, sẽ là thành phố đẹp.
Oanh đưa mắt nhìn qua Nhi. Nàng hiểu được bao nhiêu
ý
nghĩ dễ thương của cô em gái Nguyên dành cho nàng. Và, lúc trưa nằm
nghỉ nàng
đã mơ thấy một thành phố trong cái đẹp huyền nhiệm của thiên nhiên.
Nguyên cũng
nói, tên của nàng là một thành phố trong con tim.
-Em
chọn học Luật, muốn trở
thành Luật sư.
-Em
mong năm tới lên Đại Học.
-Liên
An thì sao ? Đã có tin
đi du học chưa ?
-Vẫn
chưa.
-Vẫn
còn chờ.
-Vâng,
em đợi chờ.
-Liên
An nên đi ngành ngoại
giao, Phương nói.
Oanh mỉm cười nhìn qua Liên An. Vừa xem Liên An là
một
người bạn, vừa coi cô như em gái của mình, Oanh rất mến Liên An. Về
Liên An, cô
thật hạnh phúc mỗi khi nói về Nguyên. Nguyên cũng là một lý tưởng của
Liên An.
Nhi bỗng phá ngang giấc mộng, cô nói:
-Với giấc mộng nào đi nữa, chị em mình rồi cũng
chỉ làm đến chức nội tướng mà thôi.
Bốn người cùng cười vang. Buổi chiều tới nhanh. Bên
ngoài, nắng đã tràn qua hết phía bên kia sông. Hàng cây trên bến nước,
nắng ở
đó treo từng cụm vàng óng, và hình ảnh dãy nhà tu viện dần dần vươn lên
cao
khỏi bóng nắng.
Từ đơn vị, Nguyên lái xe về nhà, tắm rửa xong anh
thay
quần áo xi vin rồi xuống phố, đến tiệm bánh Bảo Thạnh .
Nguyên trả tiền, nhận bánh xong về nhà ngay. Ba cô
gái
còn ở lại nơi gian bếp làm thức ăn để mình Oanh lên nhà trên đón Nguyên.
-Trời,
anh lạ quá.
-Sao mà
lạ ?
-Hôm
nay anh thật trẻ ra như
sinh viên thời trước.
Nguyên mặc áo sơ mi kẽ sọc xanh và chiếc quần tây
xám.
Oanh nhận nghĩ thật đúng, những lúc như thế này, Nguyên trẻ hẳn trong
dáng nét
cũa thư sinh.
-Anh
đặt bánh ở đâu ?
-Tiệm
bánh Bảo Thạnh.
Rồi một giọng vui, Oanh hỏi:
-Anh có
thấy gì lạ không ?
Nguyên nhìn quanh, bất chợt nhận ra căn phòng bên mở
cửa.
-Bà chủ
cho em mượn căn phòng
để tổ chức sinh nhật.
-Anh đi
theo em.
Oanh đưa Nguyên qua căn phòng mới, anh rất ngạc
nhiên khi
đứng trước những bức tranh của Oanh. Hai người bên nhau, Nguyên mong
tìm được ý
tưởng mới.
-Em
nghĩ sao ?
Oanh không đáp lời, nàng ngước lên nhìn Nguyên với
nụ
cười trong cặp mắt. Nguyên đặt bàn tay lên vai người yêu rồi kéo nàng
lại thật
gần. Oanh hé môi, lặng im để cho Nguyên đặt môi hôn.
Một giọng nhỏ, nàng nói:
-Em là
của anh.
-Cám ơn
em. Nghìn lần..
-Thôi,
một lần mới quí.
Oanh nói, rồi nắm giữ lấy bàn tay của Nguyên. Hai
người
trở qua phòng khách. Bất chợt, Nguyên bảo người yêu tới đứng bên cửa mở
ra sân,
anh lùi một bước và đưa máy ảnh lên ngắm cái dáng nghiêng có mái tóc
dài thả
xuống vai của thiếu nữ , rồi hai lần bấm nút, Nguyên chụp được cho Oanh
hai
pose ảnh thật vừa ý.
X
Oanh trở xuống bếp một mình. Chỉ độ mười lăm phút
lên đón
Nguyên về mà nàng có cảm tưởng thời gian như khá lâu. Một buổi chiều
nay, hai
người bên cửa sổ, sau cái nhìn đằm thắm, si dại trên đôi mắt, Oanh đứng
yên cho
Nguyên xổ tung mái tóc nàng, anh ngắm nàng rất cảm động, và rồi, anh
đón nhận
từng nụ hôn mềm ướt, trên cặp môi run rẩy của người yêu.
Liên An hỏi:
-Anh
Nguyên đi lại rồi ?
-Không,
ở trên nhà.
Trên chiếc bàn dài , bên phía Phương và Nhi để một tô bột trắng tinh vừa nấu chính, xấp lá chuối
xanh, và dĩa thịt kho tôm. Oanh và Liên An lo về món chả giò. Oanh rây
dầu ăn
và lòng trứng đỏ phết lên từng chiếc bánh tráng, còn Liên An ngồi cuốn.
Những
ngón tay thon nhẹ của Liên An tưởng như cũng làm cho mỗi chiếc giò cuốn
nhỏ
theo. Mỗi cô ngồi trên
chiếc ghế gỗ vuông, thấp. Vừa làm, giọng
nói qua lời chuyện trò, những lúc được đùa giỡn trong tiếng cười vui,
cô nào
cũng cảm thấy thoải mái.
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi
Đôi mắt
đẹp của Oanh, nhiều
lần bị chiếu tướng. Liên An, rồi Phương và Nhi lúc nhìn qua nàng biểu
lộ một vẻ
đằm thắm, lạ lùng. Khi có mặt nơi gian bếp lúc này, bạn chợt nhận ra cô
gái nào
cũng thùy mị , đảm đang. Và rồi đây, những cô gái của tuổi xanh này sẽ
lớn, có
thể họ chia tay bất ngờ, rồi đường đời dưới gót chân, những kỷ niệm đẹp
mỗi lúc
hao mòn, trong thoáng nhớ, có người thầm nhắc lại mấy câu thơ mà ngày
hôm ấy
chợt thốt lên.
-Em chỉ
có tập Gái quê của
Hàn Mặc Tử.
-Không,
chị ạ. Em yêu thích
sự trong sáng, hiền lành, không hề muốn nghĩ gì về nỗi khổ đau.
-Chị
thấy rằng, người thi sĩ
này quá bất hạnh.
Trên bếp nấu, lửa đang cháy đều ngọn. Có hai lò,
phía
trong là nồi xôi đậu, ở ngoài là soong
nước chờ sôi để luộc gà. Hai món này, do cô chủ Vân Oanh đảm trách, và
còn một
món nữa chưa làm đến là mì Quảng.
Hôm nay, ngày sinh nhật Vân Oanh. Nàng sẽ luôn nhớ
mãi
ngày này, một ngày vui không chỉ riêng cho mình mà còn là của các cô
bạn ngồi
đây nữa. Bốn cô đã thành cô Tú hết. Nhi
kém tuổi hơn, vừa mới đậu xong phần nhất. Cô học khá, trúng tuyển ngay
kỳ đầu.
Ba cô Oanh, Phương , Liên An, kỳ thi vừa qua đều gặt hái được kết quả
vừa ý.
Trong tâm cảnh Phương và An, buồn vui lẫn lộn. Phương rất mong đi Sài
Gòn, nhưng
rồi, hiểu được những ý nghĩ sâu sắc của người anh mình về gia đình, cô
đành ở
lại Huế học, và những ngày qua, Oanh, Liên An , Nhi đã làm cho Phương
khuây
khỏa, vui lên, nhờ đó Phương mới nhận ra rằng, Huế là thành phố của
tình bạn.
Về Liên An, rồi cô sẽ đi xa. Nơi phương trời ấy, rất lẻ loi, nhưng
những lá thư
cô sẽ viết gửi về cho những người bạn, mỗi lá thư là
chút lửa ấm với quê hương và gia đình. Và,
giống như Phương, cô thương mến Nguyên như người anh ruột, và giờ đây
cạnh bên
người anh của mình, là Vân Oanh yêu dấu, muôn thuở với màu áo tím của
nàng.
Liên An đã nói với tôi, trong linh hồn áo tím, em nhớ mãi Vân Oanh.
Suốt tuần lễ rồi, khu Morin rộn ràng tiếng nói,
tiếng
bước chân hớn hở của bao nhiêu cô cậu học sinh mới đặt bước lên năm thứ
nhất
Đại học. Oanh nay không còn ở cái tuổi mười tám dung dăng, dung dẻ,
nhưng vẫn
giữ được sự hồn nhiên, và bây giờ, hình bóng nàng xuất hiện thật là mới
mẻ. Từ
sinh viên bên trường Mỹ Thuật qua trường Văn Khoa, Vân Oanh nhận ra
được mình
trong một ý thức trầm tĩnh về nhân cách và cả học vấn.
Nguyên đã ở bên
Oanh trọn ngày thứ tư vừa rồi. Nguyên đưa Oanh đi ghi danh, hai người
rất thích
thú khi đạp xe bên nhau một buổi sáng của ngày đầu thu trong thời tiết
thật là
đẹp. Những lúc nhìn qua Nguyên, với gương mặt nhỏ nhắn và dáng dấp thư
sinh,
nhanh nhẹn, nàng thấy anh rất là trẻ, chừng mới cái độ của lớp tuổi hai
mươi.
Một giọng thân thương, Oanh nói:
-Anh
ghi danh học lại đi.
Nguyên cười đáp:
-Anh
thuộc lớp sinh viên già.
-Không,
em rất muốn anh trở
lại thời sinh viên.
-Anh đã
có em, em đem anh trở
lại thời sinh viên.
Oanh đạp xe chậm lại, trên đôi mắt nhìn xa tới cuối
đường, nàng nói:
-Anh đi
học, có thêm em nữa,
anh vẫn là người thầy giúp đỡ em.
-Em yên
tâm học, lúc nào cũng
có anh bên em.
Bên kia sông, hình ảnh kinh thành Huế. Khu công viên
đầy
nắng thật sáng sủa, sạch đẹp. Ngôi trường Đồng Khánh đối diện với công
viên,
trước cổng trường quét vôi tím, nữ sinh Huế mặc áo trắng mới tinh. Nhìn
lên bầu
trời, bạn chợt trông thấy cả một đàn chim đang bay ngược hướng dòng
sông, xa
dần khỏi thành phố hướng về phía ngọn núi.
Nguyên bỗng nói:
-Anh và
em, chúng mình có
nhau là đủ.
-Nhưng
rồi, chiến tranh cũng
kết thúc.
-Em mà
đã mong đợi, ngày ấy
sẽ đến thôi.
Thoáng có một ý tưởng vui trong nụ cười, Oanh nói:
-Anh mà
trẻ mãi, thì em mới ở
bên anh.
-Thời
gian sẽ không làm thay
đổi được anh.
-Anh
đừng quá tự tin, nhé.
-Em mới
làm cho anh tin tưởng
về mình.
-Hay
quá.
Oanh đáp lời, và cảm thấy cặp mắt mình đang vui.
Oanh
luôn nhớ nghĩ đến Nguyên, những lúc xa cũng như ở mỗi giấy phút gần.
Mùa thu
cũng đã làm cho thành phố trở nên trang trọng, tuổi trẻ vừa được sự yêu
mến của
thời gian, vừa đang nẩy mầm một sự trưởng thành trong nhận thức.
Khi đến khu Morin, hai người phải xuống xe dắt bộ vì
rất
đông sinh viên đứng tràn ra đường. Tới chỗ gởi xe đạp, Nguyên và Oanh
ngó tìm
một quán cà phê gần đó. Nguyên lấy chiếc máy ảnh ở trước giỏ xe, rồi
trên vỉa
hè lát đá, cách quãng chừng năm mười mét Oanh dừng bước lại vừa tạo
dáng
để Nguyên chụp những bức ảnh cho nàng.
Nga mặc áo dài tím, nắng thu chiếu sáng lên áo nàng. Nguyên và Oanh rất
hợp ý
nhau trong sự yêu thích những cảnh vật. Vừa chụp nhanh và chính xác,
những bức
ảnh Nguyên dành cho Oanh rất là nổi bật các góc cạnh, tạo ngay ấn
tượng, bạn có
thể đem so sánh được với những người
chụp ảnh chuyên nghiệp.
Quán cà phê khá đông sinh viên. Khi thấy Nguyên và
Oanh
xuất hiện, rất nhiều cặp mắt chú ý nhìn chàng và nàng, người nào như
cùng nhận rõ sự tương xứng của đôi lứa này.
Hai ly cà phê nóng, bốc lên hơi khói. Oanh nhìn
Nguyên
hỏi:
-Tại
sao anh không biết hút
thuốc ?
-Anh
không thích.
-Uống
cà phê, không hút
thuốc, anh không thấy xa lạ sao ?
Nguyên mỉm cười, đáp:
-Ý
tưởng của em cho anh nhìn
thấy màu khói.
-Cà phê
đây uống ngon, phải
không anh ?
-Rất
ngon.
-Chừng
nào Thụy về phép ?
-Chắc
là trong năm nay.
-Coi
bộ, Thụy thứ gì cũng lấn
lướt anh.
-Em kể
ra xem.
-Nhi
nói, Thụy rất là bụi
đời. Những môn thể thao, thứ nào cũng chơi được, rồi hút thuốc lá,
ghiền cà
phê, còn cả bài bạc nữa.
-Có một
thứ nó không biết.
-Về
nghệ thuật ?
-Thụy
không biết tí gì về âm
nhạc cả. Coi một bản nhạc, nó không đọc được nốt, nói gì đến chuyện cầm
đàn.
Oanh nhìn vẻ mặt Nguyên một lúc khá lâu, không hẳn
cô gợi
sự hình dung gương mặt người em của Nguyên thật khá thân như là một
người bạn
của nàng đang ở xa, mà có lẽ, với chút suy nghĩ để tìm lấy cho câu
chuyện thân
mật.
-Hãy
bảo Thụy học nhạc, học
đàn đi. Tuổi trẻ với cây đàn ghi ta khác chi người lữ khách đầy mơ
mộng, lãng
mạn.
-Nếu
Thụy có được một cây
đàn, chắc nó sẽ mơ làm nhạc sĩ.
-Đó
cũng là hạnh phúc.
Nguyên gật nhẹ đầu, rồi cầm chiếc máy ảnh lên điều
chỉnh.
Bỗng anh đẩy nhẹ chiếc ghế, rồi lùi bước và hơi thấp người xuống.
Nguyên lên
tiếng:
-Em cầm
ly cà phê.
Oanh uống khẽ một hớp, rồi trên tay vẫn giữ ly cà
phê để
sát gần môi. Nguyên bấm máy, thêm hai pose nữa với đôi mắt Oanh yên
lặng nhìn
xuống ly cà phê đơn độc để lại trên bàn. Nàng cũng vừa chợt nghĩ đến
một tranh
tĩnh vật, thiếu nữ và ly cà phê. Bức tranh sẽ có một lọ hoa, với hai
thứ hoa
trắng và tím.
Nguyên trở lại ghế ngồi, anh đón nhận ở phút giây
này cái
nhìn đằm thắm của Oanh. Oanh có đôi mắt thật dịu buồn, những lúc yên
lặng nhìn
rất lâu, Nguyên có cảm giác Oanh sắp nói với anh về những kỷ niệm thật
sâu kín
đã đến với cuộc đời nàng, mà chỉ riêng nàng mới biết, và vẫn ôm ấp.
Những kỷ
niệm đó, thường biểu lộ khi anh thấy nàng khóc.
Hôm nay trời se lạnh hơn mọi hôm, nên không khí ngồi
quán
uống cà phê rất là thú vị.
Quán cà phê nằm phía trên khu nhà Bưu điện, từ chỗ ngồi dưới bóng cây nhìn qua khu Đại
học Morin bạn trông thấy rõ tất cả cảnh mọi sinh hoạt.
Ngồi khá lâu, hai người mới rời quán. Những đám sinh
viên
năm thứ nhất đến ghi danh xong ra về, dần dần thưa vắng bớt. Oanh để
tay mình
trong tay Nguyên khi hai người băng qua đường.
Vừa bước lên bậc thềm tam cấp, oanh bỗng thấy trong
tâm
trí nàng một cảm giác khác lạ không giải thích được. Có thể, bạn chợt
thấy chỉ
có một bóng dáng nàng trước ngưỡng cửa Đại Học. Khi vào trong văn phòng
của
trường, hai người dừng lại chờ. Bên trong, các sinh viên và nhân viên
phụ trách
ghi danh đang làm việc. Những tiếng gõ trên bàn máy đánh chữ nghe vang đều đặn.
Oanh đang cầm giữ tấm bìa vàng, ở trong là những
giấy tờ
cần thiết để xin nhập học. Rồi đến lượt nàng, sau khi bốn sinh viên vừa
xong
việc ra về. Cô sinh viên phụ trách nhận giấy tờ, văn bằng của Oanh xem
kỹ, rồi
ghi tên nàng vào một cuốn sổ giấy ca rô dày , xong, cô cho nàng biết
tiền lệ
phí ghi danh phải nạp.
Xong việc thu nhận đơn
ghi danh, trong lúc đưa biên nhận cho Oanh, cô gái
bỗng ngây người trước
một vẻ xinh đẹp , duyên dáng của Oanh. Nhưng rồi, cô không biết biểu lộ
cách
nào, mà nhìn Oanh, cô cố gắng tạo dáng nên một nụ cười thật lòng để nhớ
mãi.
Ngày nhập học sẽ được ghi rõ trên giấy báo. Cô gái
hỏi
Nguyên:
-Anh có
ghi danh không ?
-Không.
-Sao
lại không ?
Cô gái vui miệng
hỏi. Nguyên cười đáp:
-Tôi
không có bằng cấp.
-Em
không tin đâu?
Rồi nàng nói với Oanh;
-Chị
nên khuyến khích anh đi
học.
-Anh
không thích đi học, Oanh
đáp.
Xong buổi ghi danh quan trọng này , Nguyên dành trọn
cả
cuộn phim mang theo chụp cho Oanh. Tới
ngày sinh nhật , thêm những cuộn phim
mới ảnh của nàng sẽ đầy kín cuốn album.
Trên đường trở lại bãi gửi xe , Nguyên nói:
-Em sẽ
là người mẫu của
trường Văn Khoa.
-Không
dám đâu, biết bao
nhiêu cô Đồng Khánh đẹp hơn em nhiều.
-Anh sẽ
đi tìm một cô Đồng
Khánh xinh đẹp để đứng gần em.
-Anh đi
tìm đi, rồi để cả một
đời anh bên cạnh cô gái ấy.
Nguyên nói:
-Áo
trắng của Đồng Khánh đã
phôi pha rồi.
-Thật
không ?
-Em hãy
tin là có thật.
Vừa dắt xe đạp ra đường, Oanh hỏi:
-Anh đi
ăn tiệm không ?
-Tùy em.
Nguyên có vẻ yên lặng, vừa lơ đãng.
-Hay là
về nhà ?
-Ừ, về
nhà.
-Nhưng
cũng ghé vào chợ một
chút.
-Vậy
thì qua phố.
-Thôi,
tới chợ Bến Ngự cho
gần.
Một buổi sáng thật dễ chịu, Oanh như chỉ nói cho
mình
nghe lúc lên xe đạp. Từ Morin đi đường
tắt đến Bến Ngự rất gần, nhưng cả hai ra đường chính Lê Lợi , thong thả
đạp xe
bên nhau. Hôm nay, áo tím của Oanh mang dáng vẻ của mùa thu. Và, ý thu
của nàng
rất dễ thương như Huế.
Dòng sông Hương đang lướt gió, trải rộng một mái tóc
nàng
cung nữ. Nắng qua mỗi con đường, chiếu
sáng lên công viên, nước chảy của dòng sông hòa sắc với những đám mây
trên bầu
trời tạo cho thành phố không chỉ yên bình theo cuộc sống, mà mới đây,
đã hình
thành một phong thái nghệ thuật.
Dọc đường Lê Lợi, dòng người và xe đạp lên xuống rất
nhộn
nhịp. Ít ngày nữa thôi, các trường trong thành phố sẽ bắt đầu niên học
mới.
Nguyên và Oanh vẫn đi chậm bên nhau. Thời gian đã
dành
mỗi phút hạnh phúc trong ân tình, câu chuyện hai người bình thường
trong cuộc
sống, đôi lúc được nhớ về kỷ niệm từng nơi chốn đã sống qua, thảng hoặc
xen vào
chuyện học hành hay nhắc đến một hai người thân trong gia đình.
Bỗng nhiên Oanh hỏi:
-Tại
sao anh luôn thích mặc
đồ lính ?
-Anh là
quân nhân, phải mặc
quần áo lính chứ sao.
-Nhưng
vào ngày nghỉ, anh
cũng không mặc quần áo thường.
-Áo
quần xi vin nhẹ quá.
-Hay là
anh chỉ muốn làm
người hùng ?
-Đôi
khi, anh vẫn cứ tưởng
mình đã ở trong quân đội quá lâu.
-Anh
vào quân đội bao lâu rồi
?
-Hơn
bốn năm.
-Anh
lên lon như vậy có nhanh
không ?
-Trong
khoảng thời gian vừa
phải. Không nhanh lắm, không chậm lắm.
-Anh và
Thụy có hợp tính nhau
không ?
-Em hỏi
một câu thực hay.
-Anh
trả lời em đi.
Nguyên nói:
-Anh
chị em trong gia đình,
thường sống với nhau bằng tình thương, sự hy sinh, và nhớ nghĩ nhau khi
ở xa.
Nhưng không thể nào trở thành người bạn, hay coi nhau là bạn, ai có
những ý
nghĩ so sánh ấy anh cho là không đúng, cũng không thành thực nữa.
Tới ngả rẽ bên trường Luật, Nguyên và Oanh đạp xe
vào lối
đường giữa đi tới phía cầu Nam Giao,
đoạn rẽ trái, men theo dòng sông phía bên này tới
chợ Bến Ngự.
Dòng sông nhỏ lại,
khoảng cách hai bờ cũng gần nhau, nhà ở bên đây và bên kia bờ trông
thấy rõ, và
mỗi khu vực, có một cây cầu nhỏ bắc qua giữa hai bờ. Sông nhỏ này có
tên An
cựu. Suốt dòng sông, có đến sáu chiếc cầu nhỏ bắc qua hai bờ. nằm
cách khoảng nhau chừng vài trăm mét.
Nguyên đứng ngoài chờ
Oanh vào chợ. Lúc này một mình, dưới bóng cây im
nắng Nguyên đưa mắt
nhìn khung cảnh sinh hoạt của mọi người
đi qua trên đường, về phía các nhà ở, và những cảnh vật hiện lên trong
không
gian bình thường, lặng lẽ, anh bỗng có cảm giác thật dễ chịu khi được
nhớ lại
những tháng ngày đã qua.
Năm 14 tuổi, Nguyên rời gia đình ở ngoài Quảng Trị
vào
Huế học ở trường trung học Hàm Nghi. Anh học tiếp năm sau ở trường này,
rồi thi
Thành Chung, sau đó, chuyển qua trường Quốc Học học ba năm ở ban Tú Tài
xong
bước lên Đại Học. Nhưng ở bậc Đại Học chỉ một năm Dự
bị, hỏng thi vấn đáp, rồi trong không khí
chính trị bất an, anh rời bỏ Huế vào Sài Gòn tìm kiếm việc làm, cuối cùng chọn
đi lính. Vào lính, anh lột bỏ ngay được cái dáng vẻ thư sinh ngay từ
ngày đầu ở
quân trường, từ đó, anh cảm thấy mình thực sự yêu mến quân đội qua tâm
hồn lãng
mạn của người lính. Với anh, lãng mạn trong tâm hồn người lính không
phải để là
người hùng, mà qua một tập thể lớn mạnh này, ai cũng nhận ra tinh thần
trách
nhiệm của chính mình với bộ quân phục là biểu tượng. Vậy nên, từ mấy
năm ở lính đến giờ, hầu như Nguyên thấm
đậm hẳn về
cuộc sống người lính, lúc nào anh cũng nghĩ mình là người lính và luôn
cả những
bộ quần áo lính anh phải mặc, không thể rời bỏ. Tuy đây chỉ là thói
quen, một
cung cách, hay là suy nghĩ độc lập từ một cá nhân, nhưng nó thể hiện rõ
cá tính
của Nguyên về tình cảm cũng như về cách phục vụ. Nguyên rời Sài Gòn ra
đơn vị
Trung đoàn tân lập này nay cũng đã gần ba năm. Về lại Huế, Nguyên khác
xưa
nhiều với thời học sinh, sinh viên, nhưng Huế vẫn nhận ra anh là đứa
con Huế đã
trưởng thành, và giờ đây cho anh có được
mối tình đẹp, rất đẹp với một người con gái xứ Quảng.
Oanh mua một ít rau, cá , thịt và trái cây, mấy túi
nhỏ
bỏ chung vào cái túi lớn xách bên tay, chừng nửa giờ vào chợ nàng trở
ra. Nguyên không hay khi Oanh từ phía sau
đi tới.
Anh quay lại nghe tiếng Oanh hỏi, rồi một giọng vui, anh trả lời:
-Thật
là lâu , đó em.
Oanh hỏi lại:
-Bao
nhiêu năm ?
-Năm
thôi chưa đủ, còn phải
thêm cả ngày tháng nữa.
-Anh
cảm thấy lo lắng không ?
-Không,
anh có em.
Hai người lên xe đi. Oanh vui giọng, kể cho Nguyên
nghe
những lời ngợi khen của các cô bán hàng trong chợ lúc nhìn ngắm nàng đi
qua.
-Em có
được là người mẫu
không ?
-Em là
người mẫu của áo dài.
-Các cô
Đồng Khánh thì sao ?
-Các cô
ấy dịu dàng quá.
-Còn
em, dữ lắm nghe.
-Không,
em rất là duyên dáng.
-Anh
giải thích nghe mơ hồ
quá.
-Cách
nói mơ hồ, rất dễ gây
cảm xúc cho trí tưởng tượng.
Oanh bỗng nói:
-Ngôn
ngữ triết lý thật là
khó, nhưng càng gợi ý suy tưởng, em lại thích.
Giờ khắc của buổi trưa trở nên ấm áp, lạ thường.
Huế, mỗi
không gian là bức tranh, cách bố cục cho nó, bạn chỉ cần lấy một đoạn
sông có
cây cầu nhỏ, và bên sông là một mái nhà. Huế, ý thu rất dễ thương khi
bạn nghe
tiếng nói từ các cô gái Huế ,tới tuổi trưởng thành, từ một nơi xa về
lại đây,
khung cảnh ở thành phố này sẽ tạo cho bạn nhửng liên tưởng đến một
thành phố
khác.
Nguyên bỗng nhớ một gương mặt trí thức trẻ, nhà thơ
Nguyễn đình Thi. Rồi tiếp đó là bóng dáng người thi sĩ. Và, lúc này,
Huế cũng
sẽ mãi đẹp như hai câu thơ của chàng:
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em
Về đến nhà, Nguyên ngồi ở phòng khách đọc báo.
Nguyên cảm
nhận được sự thoải về không khí bình yên trong một gia đình, dưới một
mái nhà,
với tờ báo mình đang đọc cho anh liên tưởng tới các bài luận văn thời
còn ở
những lớp nhỏ dưới trung học.
Oanh thay xong bộ quần áo nhe,ï nàng đi làm cơm.
Trước
khi nhen bếp lửa, nàng pha hai ly nước chanh đường, một cho Nguyên và
một cho
nàng.
-Anh
đói chưa ?
Nguyên ngừng đọc báo, nói:
-Em nấu
chín cơm, bữa ăn sẽ
rất ngon.
-Em có
nấu món canh chua.
-Em
đúng là con người thuần
túy.
-Sao,
anh hay diễn tả ý rất
mơ hồ.
Nguyên đáp lời Oanh như bài soạn sẵn:
-Em ở
xứ Quảng, mà tất cả các
món ăn ba miền Nam, Trung, Bắc em đều nấu được và rất là ngon.
-Vậy,
em còn là người mẫu nấu
nướng nữa, phải không ?
Nguyên gật đầu ngay, không do dự. Nhìn qua Nguyên,
Oanh
cười, ít giây sau nàng nói:
-Mứt
bánh, mới là món thuốc
của em. Nấu ăn, em tạm thôi. Nhưng được anh khen ngon là quí lắm rồi.
-Anh ăn
ngon thực sự.
Vừa chuyện trò với Oanh , Nguyên vừa xem báo. Anh
chú ý
đến bài xã luận của ký giả Từ Chung.
Oanh cầm ly nước chanh đứng lên, nhẹ bước xuống nhà.
Một
giờ sau, bữa ăn trưa dọn lên ở ngoài phòng khách.
Cơm và thức ăn đang nóng. Lúc Nguyên cầm đũa, anh
không
ngăn được cảm xúc của mình, và sau đó, anh tìm ra được một ý nghĩ trọn
vẹn cho
đời anh, là anh đang có được sự săn sóc của người yêu.
Bữa ăn chậm rãi, mỗi miếng ngon rất chân thực như là
kỷ
niệm của tuổi thơ.
-Có thư
Mỵ Châu gởi cho em
không ?
-Có.
-Mỗi
khi có thư Mỵ Châu, em
nhớ cho anh biết và đọc thư Mỵ Châu cho anh nghe.
Oanh bỗng nghĩ tới một ngày, khi nàng và Nguyên có
được
mái ấm gia đình, gần hay xa tới đâu trong đất nước, nàng sẽ đem Mỵ Châu
theo
với nàng.
Sau một ngày nghỉ, Nguyên trở lại đơn vị làm việc
bình
thường. Anh làm công việc với sự đam mê, thật cẩn trọng về
các thứ giấy tờ, đối với
thuộc cấp, không một ai anh quên nghĩ đến
họ. Những lúc sau giờ làm việc, sau bữa ăn trên Câu lạc bộ về phòng
nghỉ, anh
dành hết thời gian này nhớ đến Oanh. Oanh luôn hiện ra trong tâm trí
anh một
khuôn mặt dịu dàng, hạnh phúc. Có những bức ảnh anh chụp được cho Oanh
qua trí
tưởng tượng, thật là mới mẽ, sáng tươi, hay đẹp, hơn cả những bức ảnh
Oanh có
trong cuốn album. Và, hết tuần lễ này, anh phải mua sắm một ít thứ
chuẩn bị cho
ngày vui sinh nhật của Oanh.
Hôm nay, ngày vui này đến. Oanh nói với Liên An:
-Anh
Nguyên còn là một người
anh của chị.
An nói:
-Em rất
thích anh Nguyên. Anh
ấy thật dễ chịu. Và, không chỉ riêng em, anh ấy luôn là người rất dễ
thương với
bao cô gái khác ở thành phố thân yêu này.
Bỗng Nguyên xuất hiện, An lên tiếng :
-Nãy
giờ anh trốn đi đâu,
không xuống coi tụi em làm bếp.
Nguyên cười hiền lành, rồi anh gọi Oanh lên nhà.
-Em
thấy anh trang hoàng như
vậy, được không ?
-Giỏi.
-Anh
muốn em xem lại lần nữa.
Oanh đưa mắt quan sát. Nàng học Mỹ Thuật, nên cái
nhìn
của nàng, trong đó, mọi sự vật như thể đã được sắp sẵn theo ý nàng.
Oanh cầm
bình hoa, dời qua phía bên trái một chút cho cân đối vị trí. Hai người
nói
chuyện một lúc, Oanh trở xuống nhà, đúng lúc này, bánh lọc đã hấp chín,
giò
cuốn chiên xong, luôn cả món xôi và gà luộc cũng đã rồi.
Chỉ món đặc biệt là mì Quảng, bây giờ Oanh
bắt đầu.
Trên bếp, son nước sôi để luộc mì. Bốn cô cùng đứng
bên
Oanh, nghe nàng nói về món ăn đặc biệt này của xứ Quảng mà nàng học từ
người cô
em họ của ba nàng. Người cô này, lúc ở Hội An, có mở một tiệm mì Quảng
ở Cẩm
Hà, quán ăn nằm bên con đường lớn của vùng ngoại ô trông xuống sông Thu
Bồn. Ở
xứ Quảng, món mì rất bình dân, để được ăn ngon, sợi mì vừa mềm và dẽo,
còn đồ
nấu là thịt heo cắt lát thật mỏng, tôm nhỏ không bóc vỏ, rồi cho gia
vị, tất cả
thứ này nấu thành nước dùng mì, nó không được loãng nước như bún, phở
hay hủ
tiếu mà phải nấu thật rền, và thật kẹo.
Liên An nói:
-Chị
Vân Oanh đúng là một phụ
nữ hoàn hảo.
Oanh chỉ cười, tay trái nàng đang cầm đũa khoắng nhẹ
cho
ớt màu hòa tan vào nước dùng. Liên An nhìn vẻ khéo léo từ bàn tay của
Nga khi
nấu món ăn, cô gái bỗng ước ao mình có được người chị như nàng.
Phương lên tiếng hỏi:
-Anh
Nguyên có hay khen chị
không ?
-Trời,
ông cứ khen hoài.
-Và,
chị thấy anh sao ?
-Anh
Nguyên vui tính.
-Chưa
hết đâu.
-Em
thấy anh Nguyên và chị
quá đẹp đôi.
-Hôm
nào đến lễ đính hôn,
mình sẽ chụp ảnh và quay phim.
-Em ở
xa, chị nhớ gởi ảnh cho
em.
-Chắc
chắn rồi.
-Có chữ
ký , lời đề tặng của
hai người. Và cả thư nữa nhé.
Nga hỏi:
-Liên
An muốn mình viết hay
anh Nguyên.
-Cả hai người.
Nguyên đang ngồi một mình trên phòng khách. Anh cảm
thấy
hài lòng khi nhìn cái vẻ sáng đẹp, tươi tắn trong căn phòng hôm nay
được trang
hoàng để mừng sinh nhật Vân Oanh.
Bên ngoài, buổi chiều thật nhẹ nhàng.
Phía dưới sông, có đông người giặt giũ, bất
chợt vang lên tiếng kêu xình xịch của một chiếc xuồng máy rẽ sóng lướt
mau, rồi
xa dần. Ngày chủ nhật, sinh hoạt trên
các khu phố quanh nhà ga vẫn giữ một nhịp độ như ngày bình thường.
Huyền Trân
là con đường từ đầu phố ga ra ngoại ô, con đường này khá dài, có những
quãng
ven theo dòng sông, buổi sáng sớm trông thấy sương mù còn bao phủ trên
những
cây cầu và những khu phố bên kia bờ sông, buổi chiều, cảnh hoàng hôn
xuống
trông rất đẹp, và cũng rất buồn. Khi ra đến cuối ngoại ô, con đường
càng thơ
mộng, êm ả, với tiếng gió ru hàng cây, với những căn nhà màu ngói đỏ,
và nghe
dậy lên những hương vị thoang thoảng mùi thơm cây trái từ trong các nhà
vườn
tỏa ra. Hết con đường này, bạn sẽ còn trông thấy còn một con đường đất
rộng nối
dài theo, dẫn đi qua các ngôi làng rồi vượt qua các dãy đồi, dần dần
tiến đến
núi.
Nhi bỗng lên tiếng:
-Anh
Thụy sắp về phép đó chị
Oanh.
-Ờ, chị
có nghe anh Nguyên
nói. Anh cũng sắp đi học ngành hoa tiêu.
-Anh
Thụy đã gặp chị Oanh lần
nào chưa ?
-Chưa.
-Anh có
về phép.
-Ngày
Thụy về phép, mình ở Đà
Nẵng.
Liên An nói:
-Anh
Thụy quen cô nào, anh
cũng mời người ta uống cà phê.
-Con
người nghệ sĩ mà.
Bỗng dưng Liên An muốn kể ra chuyện về một người
mình đã
gặp nhưng rồi cô dừng lại, sợ có điều dị nghị. Tuy nhiên, Oanh đã nghe
cô gái
kể một vài câu chuyện về người đó rồi.
Buổi chiều đã qua nhanh, vừa hết giờ nguyện, chuông
nhà
thờ lớn của thành phố đánh lên vang vọng một hồi dài nghe trầm tĩnh,
lắng đọng,
sự sinh hoạt một ngàysắp hết.
Nguyên bật đèn sáng. Vừa đúng lúc, các cô em mang
từng
món ăn lên dọn vào chiếc bàn xếp dài. Trên bàn, đã có sẵn ly giấy, nước
giải
khát, các thứ này Nguyên mua ở quầy hàng quân tiếp vụ của Trung đoàn.
Sau khi mì luộc chín xong, Oanh vớt ra ngoài để ráo
khô
trong cái thau nhựa, còn nồi nấu món mì, lửa được hạ thấp để giữ sức
nóng. Ở
bàn nhỏ bên kia, Nga đã để sẵn vài dĩa bánh và xôi, dành biếu bà chủ
nhà và để
cho Nhi mang về cho mẹ và các em của Nguyên.
Ba cô em dọn tiệc xong, đi rửa mặt và thay áo dài.
Oanh
vào phòng mình, sau khi các cô đã xong.
Kim đồng hồ chỉ đúng sáu giờ, giờ mặt trời lặn.
Oanh trở ra ngoài với chiếc áo nhung màu rêu thật là
đẹp.
Nàng đeo lên cổ một chuỗi hạt nhỏ màu hồng rất là xinh.
Nguyên cầm máy ảnh, sẵn sàng, anh đề nghị trước tiên
các
cô đứng cạnh nhau trước bàn tiệc, rồi lần lượt
là Oanh, bên cạnh mỗi cô trước chiếc bánh sinh nhật
với một ngọn nến
hồng cắm ở ngay chính giữa chiếc bánh lớn.
Mỗi cô, một màu áo. Mỗi cô, duyên dáng qua nụ cười.
Oanh
cảm thấy hạnh phúc ứa lệ.
Rồi ngọn nến được thắp sáng lên. Oanh đứng trước
chiếc
bánh và ngọn nến. Hôm nay là sinh nhật thứ 21 của nàng. Ngọn nến hồng
với dáng
cao và đẹp vươn lên tỏa sáng xuống chiếc bánh. Nguyên chụp Oanh từng
ảnh một
ghi dấu mỗi khoảnh khắc hạnh phúc của nàng.
Và, tuổi sinh nhật bắt đầu. Ngọn nến lung linh. Như
một
cảnh trong phim, Oanh cúi xuống, chúm môi thổi tắt ngọn nến. Tuổi 21
vừa trôi
qua sau một giây. Khi lửa nến đã tắt, tiếng vỗ tay của Nguyên và các cô
em nàng
cùng reo vui lên, rồi mọi người cùng hát một bài hát .
Happy birthday to you, happy birthday to you.
Happy birthday...
XI
Tối hôm ấy, sau bữa tiệc sinh nhật mà món ăn nào
cũng
ngon, vừa miệng, Nguyên và Oanh cùng mấy cô em ngồi ở phòng khách trò
chuyện,
cười nói rất là vui. Liên An là đề tài chính về chuyện nàng sắp đi du
học. Nhân
chuyến đi của Liên An, Nguyên kể cho các cô chuyến đi của anh sang Đài
Loan hai
tháng để học về khoa chiến tranh tâm lý. Anh vừa gợi nhớ, và dùng nét
phác họa,
rồi theo câu chuyện anh nói đến một biến cố lịch sử Trung Hoa, vào năm
1949,
hồng quân Mao Trạch Đông nổi dậy giành chiến thắng, Tưởng Giới Thạch
bại trận
rút lui quân ra Đài Loan và thành lập
thành một quốc gia riêng trên đảo này.
Bên ngoài, có tiếng động gió thổi rung cây lá , và
trên
mặt sân là màu sáng của ánh trăng. Trăng mùa thu thật đẹp. Từ cửa phòng
khách
mở rộng, bạn nhìn ra thấy con đường Huyền Trân, thấy dòng sông chảy bên
dưới,
một lúc sau, trăng sáng ngập lên hai bờ sông, dâng cao và tràn qua
những mái
ngói của ngôi trường, ngôi trường cũng vừa là một tu viện cổ kính.
Đến 9 giờ, Nga mời mọi người qua phòng tranh. Khi
bật đèn
sáng lên, những bức tranh hiện ánh màu nước thật là sắc , và trong ánh
màu của
những bức tranh biểu hiện rõ năng khiếu hội họa của một sinh viên học
trường Mỹ
Thuật.
Một giọng vui, lớn trong phong cách đĩnh đạc Nga nói:
-Bây
giờ, mình khai mạc phòng
tranh với các bạn.
Các cô vỗ tay khen ngợi. Niềm vui của Oanh, như thể
là
những hoa trái đầu mùa vừa được hái. Có mười bức tranh được treo trong
căn
phòng này. Oanh hướng dẫn các cô bạn đi xem tranh, mỗi bức, Oanh để cho
các cô
thưởng thức, bình phẩm, và nếu cần đến một lời giải thích, Oanh mới lên
tiếng.
Nguyên thay xong cuốn phim, thêm lúc này nữa, anh
chụp
ảnh cho căn phòng triển lãm tranh của Oanh.
Tùy theo cách chọn mỗi cô, Nguyên chụp ảnh qua chân
dung
và bức tranh treo đằng sau. Tiếng bước chân lay động nhẹ nhàng gây nên
sự ấm
cúng. Rồi sau một lượt xem tranh xong, chiếc bánh sinh nhật được Oanh
cắt thật
khéo để mời khách.
Mỗi cô gái dành cho sinh nhật Oanh một câu chuyện.
Đây là
câu chuyện hội họa về những bức tranh được xem xong bên phòng triễn
lãm. Và bây
giờ, những câu chuyện này được nói ở phòng khách.
Những bông hoa Phương vừa nói đến, thật sống động.
Nhìn
qua các bông hoa, bạn sẽ thấy rằng Phương nhận xét đúng, cái đẹp và
cuộc đời
Vân Oanh ẩn chìm trong những sắc hoa ấy.
Khoảng hai tuần sau, có toán ALO mới đến , nhóm của
Thụy
bốn người được thay phiên. Trưa nắng gắt, đầy bụi, sau chuyến tiếp tế,
cả nhóm
được trực thăng đón đưa về Biên Hòa. Xuống sân bay ở phi đoàn 229, họ
quá giang
xe pick up, xuống ở phòng tài chánh để lãnh lương.
Sau khi nhận lương xong, mỗi người tản mác một nơi,
hẹn
gặp ở bên đơn vị vào đầu giờ làm việc buổi chiều.
Số tiền lương của Thụy được ba ngàn hai trăm. Thụy tính đến tiền nhà thuê, tiền ăn trong tháng,
còn lại non một ngàn là tiền tiêu.
Quán cơm nằm bên dưới, cách cổng chính Quân đoàn hơn
trăm
thước. Khi bước vào quán, người Thụy đầy bụi ở quần áo và trên chiếc ba
lô.
Nhưng anh không còn cảm thấy mệt mỏi, vì thế nào sau chuyến công tác
cũng được
nghỉ xả hơi đôi ba ngày.
Vừa ngồi xuống ghế, Thụy gọi:
-Cơm
dĩa.
-Trứng
chiên, hay đồ xào chú.
-Cho
chú chung cả hai thứ.
-Nước
uống, chú.
-Trà
đá, ly lớn nghe.
Đứa gái nhỏ quay bước. Nơi bàn Thụy ngồi trông ra
con
đường, nắng bụi, và tiếng động xe cố gây thêm cảm giác buồn ngủ. Sau bữa ăn, Thụy còn muốn uống cà phê
cho được tỉnh táo. Hai tuần đi hành quân, ngày đêm, Thụy chập chờn nghe
tiếng
súng đạn giao tranh, tiếng súng trọng pháo của bên quân dù và bên Cộng
quân,
những đêm ngồi trực máy, và những giấc ngủ chập chờn có khi gặp cơn ác
mộng,
ngay lúc đó, Thụy có cảm tường tôi đang ở một nơi chốn nào xa lạ trong
khung
cảnh nước độc, rừng thiêng.
Khi đứa gái mang cơm và nước uống ra, Thụy gọi thêm một dĩa cơm không để ăn no.
Cứ vào bữa ăn, Thụy luôn đói, nhờ vậy, anh ăn cảm
thấy
ngon và ăn được nhiều cơm. Những miếng cơm anh ăn cũng thật thô, và anh
ăn
trong sự vội vàng, thiếu thốn. Những miếng ăn cũng chằng nhai kỹ, rất
có thể
sau này, khi tuổi càng lớn , bệnh đau bao từ sẽ gây khó khăn cho anh.
Nhưng
thậy kệ, anh đang sống với ngày qua ngày, có vậy thôi.
Sau bữa ăn no, Thụy gọi ly cà phê đá. Không đợi lâu,
có
cà phê đá Thụy cầm ly uống một ngụm đầy xong đốt điếu thuốc. Khi hít
những hơi
thuốc của một điếu vừa mới đốt, Thụy hít thật sâu, xong nhả khói ra từ
từ, cảm
giác lúc ấy, biết bao nhiêu là ý tưởng trộn lẫn cùng giấc mơ làm anh
thật sự
khoái trá. Như vậy đó, Thụy cho phép mình đã hiểu, và rất đáng được
hưởng một
cuộc sống.
Quán ăn đông khách, vì giờ này là cao điểm. Quanh
các
loại bàn lớn nhỏ bày trong quán, bàn nào cũng có đông lính tráng ngồi
ăn.
Thụy ngồi ở quán cho đến đầu giờ làm việc. Khi trả
xong
tiền ăn, anh mua thêm gói thuốc trong số tiền thối lại.
Một người lính nhìn qua khi anh vừa đúng lên và
quàng ba
lô vào người. Bật chợt, anh thấy kim đồng hồ treo tường chí đến 2 giờ.
Ra khỏi quán, anh đi về phía cổng, rồi từ cổng đi bộ
tới
Trung tâm Không trợ nằm ở dãy nhà bên trái.
Bộ chỉ huy Không trợ nằm dưới hầm, có gắn máy lạnh.
Ở
đây, có cả một đơn vị Không quân Mỹ làm việc chung, vậy mà, sự cố gắng
học Anh
ngữ của Thụy với các ông Sĩ quan và lính Mỹ, không được mấy kết quả.
Hai năm
rồi, bốn kỳ thi Tú Tài đôi, anh vẫn lấy được nổi mảnh
bằng.
Qua khỏi quầy căng
tin, Thụy rẽ trái là
đến phòng
làm việc của ban ALO. Phước đang trực máy, vừa thấy tôi anh đưa tay
chào.
-Sao ?
người hùng.
Vừa buột miệng chưởi thề, Thụy tiếp lời:
-Rét
quá mày ơi, ngày nào
cũng nghe pháo.
-Đám
kia đâu ?
-Lãnh
lương xong, anh em tản
mác. Chắc tụi nó sắp qua.
Thụy mời Phước điếu thuốc. Đốt lửa xong, Thụy hỏi:
-Có gì
lã không ?
-Mày có
giấy gọi đi học.
-Lâu
chưa ?
-Hai ngày rồi. Mày lên văn thư gặp trung sĩ Bình.
-Ờ.
Vừa thấy viên Đại úy trưởng ban vào, Thụy đứng
nghiêm,
chào kính. Ông hỏi Thụy:
-Mấy
anh em kia đâu ?
-Ở bên
Không đoàn, chắc sắp qua.
-Anh
lãnh lương chưa ?
-Dạ rồi.
Viên Đại úy nhìn áo quần Thụy mặc khá lôi thôi, ông
mỉm
cười.
-Sao
tình hình trên vùng hành
quân sao ?
-Nghe
đạn pháo suốt ngày, Đại
úy ơi.
-Cho
mấy cậu đi theo hành
quân cho thấm mùi chiến trận.
-Đại
úy, cho tụi em ít ngày
nghỉ chứ.
-Cố
nhiên.
Thụy định lấy gói thuốc đưa mời, nhưng thuốc tôi hút
loại
nặng và rẻ tiền nên thôi. Viên Đại úy ngồi ở bàn làm việc, còn tôi vẫn
đứng.
Bỗng nhớ về Thụy, ông nói:
-Anh
được gọi đi học hoa
tiêu.
-Dạ,
mới nghe anh Phước nói.
Với một nụ cười hảo cảm, ông nói với Thụy:
-Anh
sắp trở thành hoa tiêu
rồi.
Thụy đáp lời ngay:
-Chưa
dám đâu, Đại úy.
-Sao mà
chưa được. Anh đi
học, chừng hơn một năm là trường.
-Nhưng
biết có đậu không. Ở
đây, Sĩ quan ALO, ông nào cũng gãy cánh.
Với cái nhìn trầm lặng, thông cảm, ông nói:
-Tôi
hiểu anh có nỗi lo.
Nhưng khi đã chọn lựa sự ra đi, nhất quyết anh phải cố gắng thành công.
Rồi ông bảo Thụy kéo ghế ngồi. Ngồi xuống ghế, Thụy
nói
lời tâm sự:
-Em vẫn
muốn học xong Tú Tài
II, rồi xin vào ngành kỹ thuật.
-Tuổi
em còn trẻ, trở thành
phi công hào hùng hơn.
-Vâng,
em cũng có ước mong
này, nhưng được trở thành phi công như Đại úy, đâu dễ dàng.
-Không
khó lắm đâu. Tùy vào
khả năng, sức khỏe của mình khi học bay.
-Đại úy
bay đã quá ba ngàn
giờ chưa ?
-Chưa
tới.
-Ba
ngàn giờ, là được mang
cánh có râu.
-Đúng
rồi anh. Vậy là anh
cũng biết qua về hoa tiêu.
Thụy nói:
-Trước
khi học chuyên môn, em
có làm việc ở phi đoàn 217 và báo Ly tưởng.
-Anh có
viết báo sao ?
-Em
viết loại truyện sáng tác
thôi.
-Hay lắm. Rồi nghề bay đem cho anh nhiều cảm hứng
viết văn.
-Em
viết vui thôi, không thể
là nhà văn.
-Anh
đọc cuốn Đời phi công
chưa ?
-Rồi,
Đại úy.
-Và
những tiểu thuyết của
Saint Exupéry
-Có, em
đọc qua bản dịch. Em
thích cuốn Bay đêm.
-Anh
không đọc được tiếng
Pháp ?
-Không
đủ sức. Nhưng học
chương trình thi, tác giả này em có học.
-Saint
Ex, viết truyện rất
hay, thơ mộng, lãng mạn, đúng tâm hồn của phi công.
-Saint
Ex lâm nạn, chết trong
kỳ đệ nhị thế chiến.
-Đúng
rồi.
Bên ngoài, tiếng cười nói ồn ào, và Thụy biết là các
bạn
trong toán đã tới. Trung úy Ngoạn xuất hiện, ông đứng nghiêm chào kính.
-Sao,
khỏe chứ Ngoạn.
-Cám ơn
Đại úy.
-Hai
cậu sao ?
-Dạ, cũng
bình thường. Tài và Phú chào xong đáp lời ngay.
Viên Đại úy nói:
-Chuyến
công tác tốt. Tôi để
cả toán nghỉ ba ngày rồi trở lại làm việc.
Thụy để anh em ngồi lại, xin phép viên Đại úy đến
phòng
văn thư. Vừa thấy anh, trung sĩ Bình cười hỏi:
-Sao,
chừng nào bạn khao
chúng tôi chầu bia đây.
Thụy chỉ cười. Bình hỏi lại:
-Sao mà
cười trừ.
Vừa kéo ngăn học, Bình tiếp lời:
-Thôi,
để cho bạn đi học ra
Sĩ quan rồi về khao nhé.
-Đồng ý.
Thụy được xem Công điện gọi đi học, danh sách hồm
bốn
chục người. Tên và cấp bậc của Thụy nằm ở hàng thứ 12.
Thụy còn nhận được thư của em gái Nhi.
-Rồi
thủ tục sao, Trung sĩ.
-Về
nghỉ ít ngày cho thoải
mái, xong trở lại đây nhận giấy tờ đi học.
Trong phòng văn thư, có
hai người đang chơi cờ. Bên chiếc bàn trong góc, hạ
sĩ Phong đang đánh
máy giây tờ về các tin tức tình báo, một vài người nữa đang làm việc,
nhưng câu
chuyện giữa Thụy và các bạn vẫn tiếp nối.
Bỗng nhiên, Thụy nhận ra thời gian trôi nhanh. Lúc
trưa,
cùng toán lên trực thăng, từ trên phi cơ nhìn xuống, Thụy trông thấy
núi, đồng
ruộng, thị trấn Tây Ninh và đường quốc lộ I. Gió tạt
mạnh, tiếng cánh quạt kêu vù vù, ngồi nhìn ra
ngoài Thụy nghĩ nhiều đến chiến tranh trong khoảng thời gian hai tuần
lễ ở vùng
hành quân với Sư đoàn dù, và Thụy đã trực diện, nghe rõ tiếng súng nổ,
nhìn
thấy những cuộc giao tranh. Vào lúc ấy, Thụy không dám nghĩ đến những
câu
chuyện chiến tranh thật lãng mạn để kẻ cho Huê nghe (nhưng nếu nàng
thích, tôi
sẽ kể). Với Thụy, có Huê để mình hiểu thêm đôi chút về một cô gái lạ
lùng trong
cuộc sống.
Kim đồng hồ phòng văn thư chỉ bốn giờ. Thụy nói lời
chào
các bạn, xong trở lại phòng của ban ALO, nhưng thấy vắng chỉ có mình
Phước làm
việc.
-Chưa
về à ?
-Đại úy
Luyện đi đâu ?
-Đi họp.
-Thôi,
về nghe.
-Ờ.
Với chiếc ba lô đeo vai, Thụy mở lối cửa sau ra
ngoài. Ở
trong phòng có máy lạnh, người cảm thấy dễ chịu, ra bên ngoài trời hừng
nóng,
một lúc sau mới thấy quen mắt cảnh vật.
Từ khu vực Trung tâm Không ra đến cổng cũng xa, vừa
đi,
Thụy đảo mắt tìm kiếm xe quá giang nhưng không có xe nào cả.
Trời bỗng âm u như thể sắp có mưa. Bên kia đường, có
chuyến xe khách vừa mới ngừng. Tôi vội băng nhanh qua và lên xe, nhưng
rồi xe
vẫn chưa chạy ngay. Tôi ngồi dãy ghế giữa, phía ngoài.
Hai chiếc phi cơ khu trục vừa cất cánh bay lên tiếng
động
cơ vang giữa vùng trời.
-Chưa
chạy sao anh tài ?
-Chưa.
Chờ lấy thêm ít người khách.
Chiếc ba lô tôi treo trên giá. Và lúc này chờ, tôi
mở thư
Hiền ra đọc. Nỗi vui đến với tôi ngay những giòng đầu thư, Thúy Hiền
báo tin
thi đậu được bằng bán phần, rồi sau đó em tôi kể chuyện gia đình, gần
cuối thư,
Thúy Hiền cho tôi biết cô được dự ngày vui sinh nhật của chị Thiên Nga
bạn gái anh
Nguyên. Bỗng dưng lòng tôi bâng khuâng, vì không có được ảnh của Thiên
Nga. Vậy
là, từ kỳ nghỉ phép hồi năm ngoái đến giờ, tôi chỉ nghe tên người con
gái xứ
Quảng, và hình dung nàng qua mỗi câu chuyện, qua những hàng chữ viết
của người
thân trên dòng thư. Thúy Hiền em tôi nói, chị Thiên Nga bằng lòng cho
gởi mấy
tấm ảnh chị đến cho tôi, nhưng vì hay tin tôi sắp đi phép nên em gái
tôi muốn
dành cho tôi một sự ngạc nhiên, vào lúc ấy, không biết tôi sẽ nghĩ như
thế nào,
hay cảm nhận ra sao sau một thời gian
lâu chỉ hình dung nàng qua trí tưởng.
Có bốn người khách tới một lượt , họ lên ngồi ghế
sau. Xe
hàng nổ máy trở lại, từ từ lăn bánh. Tôi
gấp lá thư của Thúy Hiền bỏ vào túi áo trên.
Ngồi bên cửa xe tôi yên lặng nhìn ra ngoài. Ý nghĩ
về một
nơi chốn xa lạ, về một cuộc chiến xảy ra nơi ấy, mà tôi đã có mặt cách
đây hai
tuần, và giờ đây, trên chuyến xe hàng, tôi đang ở trên con đường đi đến
một
thành phố. Rồi, tôi sẽ thấy lại những khung sinh hoạt bình thường ở Sài
Gòn như
trước khi đi. Rồi, tôi sẽ mau chóng quên những ngày lửa đạn vừa mới qua.
Sài Gòn, trời đang mưa. Xuống xe ở bên hông nhà thờ
chợ
Thị Nghè, tôi đến trạm xe buýt đứng núp mưa, đồng thời, mở ba lô lấy
chiếc áo
mưa ra mặc.
Trời mưa nặng hạt , rồi tạnh. Về tới chỗ nhà trọ,
hầu như
mọi việc tôi cùng làm một lúc cho nhanh chóng, sau đó, tôi trút bỏ hết
cảm giác
nẳng nề của chuyến đi khi đã giặt, phơi xong hết quần áo, rồi bước vào
phòng
tắm.
Mỗi giờ, thời gian lại chuyển dịch tôi qua một ví
trí
khác. Bên ngoài, trời chưa tối hẳn. Từ trên gác, tôi nhanh chân qua lối
cầu
thang đi xuống nhà, tay cầm sẵn tiền đưa cho bà chủ.
-Cám ơn
cậu. Hai tuần rồi,
cậu đi đâu xa ?
-Tôi đi
công tác.
-Có một
người tới tìm cậu.
-Ai vậy
?
-Tôi
nhớ anh này có đến đây
một lần.
-Anh ta
có nhắn lại gì không
?
-Không.
Anh hỏi cậu, tôi nói
đi vắng, xong là anh lên Honda đi liền.
Thụy đoán nghĩ
chắc là Hoàng.
-Cậu ra
ngoài ăn cơm ?
-Ờ cũng
đi ăn, rồi xuống phố.
-Tôi
quí cậu làm nghe. Thật
là một người đàng hoàng.
-Cám ơn
bà. Cứ đến đầu tháng,
tôi lo trả tiền nhà cho bà kẻo sợ bà lo lắng.
-Không,
không sao đâu.
-Sao,
lâu nay, anh con trai
của bà có thư về không.
-Có,
này cậu. Có ảnh của em
chụp ở trường, tôi đưa cho cậu xem.
Bà chủ nhà đi lấy thư
đưa cho Thụy đọc. Thụy chỉ đọc qua, xem sơ mấy bức
ảnh rồi trả lại cho
bà.
Hoàn toàn, lúc này anh không nghĩ đến tương lai của
mình.
Vừa bước chân ra tới đầu đường, bất chợt tôi có ý
nghĩ
hỏi mình sao lâu nay, không tìm sắm một xe đạp để đi đây, đi đó. Chưa
tìm ra
cách giải quyết, mưa ào xuống.
Tới mười giờ đêm, tiệc sinh nhật vãn. Chỉ còn Nguyên
và
Oanh ở lại dọn dẹp bàn ghế, ly tách, và dĩa giấy. Những phần ăn còn dư
cũng
được đem cất. Mỗi cô , người nào cũng có một phần quà mang về nhà, vì
các món
ăn và bánh trái hôm nay làm khá nhiều.
Sauk hi dọn xong,
Oanh để Nguyên lại một mình, nàng qua
bên bà Huyên chủ nhà. Bà Huyên đón nàng, vừa vào nhà Oanh để nguyên
chiếc khay
xuống, rồi theo ý bà Oanh ngồi xuống chuyện trò.
Oanh làm bà Huyên vui qua những câu chuyện. Chừng
sau nửa
giờ, nàng đứng dậy xin kiếu từ. Bà Huyên tiễn nàng đi ra lối cửa trước,
dừng
lại bên thềm mái hiên.
Trăng sáng đẹp lạ lùng. Bây giờ, Oanh mặc quần áo
nhẹ
trong nhà, nàng cảm thấy gió đêm hơi lạnh nhưng cũng hay, lúc đi, nàng
đã quấn
khăn quàng ở cổ.
Cửa phòng khách vẫn còn mở, Nguyên đang ngồi đọc
báo.
Oanh vào nhà, vừa đóng cửa lại, nànglên tiếng hỏi Nguyên:
-Anh
uống cà phê không ?
-Em
không sợ mất ngủ, thì
uống.
Oanh nói:
-Em đi
làm cà phê.
Nguyên đọc báo. Cà phê, Oanh chỉ pha một phin, với
bình
thủy nước sôi vừa mới nấu xong.
Oanh hỏi:
-Sao,
anh giúp em cả ngày
nay, mệt không ?
-Có em,
việc gì anh cũng làm
tốt.
-Thật
không ?
Hai người bên nhau ngồi chung ở chiếc ghế lớn.
Nguyên ôm
Oanh trong cánh tay, vừa vuốt tóc nàng. Hai người đang chờ cà phê chảy
xuống
ly.
-Ngày
mai Tổng thống ra thăm
Sư đoàn.
-Ông có
ghé Huế không ?
-Không,
ông chỉ thăm các đơn
vị rồi về lại Sài Gòn.
-Có
thăm Trung đoàn anh không
?
-Có chứ.
Nguyên hôn mái tóc, hôn xuống cánh tay để trần của
Oanh
anh cảm thấy dễ chịu, nhẹ nhàng với mùi vị trái cây nơi da thịt người
yêu.
Nguyên nói:
-Rồi em
sẽ bắt đầu thấy hăng
hái, yêu thích chuyện học hành.
-Anh
mượn một số cours năm
học đầu cho em.
Nguyên nói:
-Thụy
sẽ gởi cho em một số
sách văn học em cần.
-Sách
dành cho Đại Học.
-Ở
trường Văn khoa Sài Gòn,
có một số bài giảng được in thành sách.
Oanh chợt mỉm cười, nói với Nguyên:
-Một
mình em mà đến hai người
săn sóc.
-Chẳng
phải, em sắp là chị
dâu của Thụy đó sao ?
Oanh hỏi:
-Rồi
đến lúc nào Oanh mới về phép.
-Có lẽ
vào tháng tới.
-Vậy
anh viết thư nhắc Oanh
mua sách Đại học cho em.
-Ngoài
sách ra, em cần gì nữa
không ?
Oanh chỉ nói:
-Em
cũng rất thích học. Nhưng
học Đại học, đâu có dễ dàng.
-Em
nghĩ đúng.
-Tại
sao, anh không muốn học
nữa.
Im lặng, một lúc sau Nguyên nói:
-Anh
không duyên nợ với khoa
bảng. Năm lên Đại Học, anh thi vào trường Sư phạm đậu đến hạng nhì,
nhưng vào
vấn đáp bị đánh rớt. Anh có thể học ở Sư phạm, nhưng học không có học
bổng, nên
anh bỏ, qua học Văn khoa, ở khóa nhì, anh đậu viết, nhưng rồi rớt vấn
đáp. Thực
ra, lúc ấy đừng xảy ra biến cố chính trị, có thể anh đậu được rồi....
Oanh nói:
-Mới
rớt một năm thôi, anh đã
nản chí.
-Anh
không nản, nhưng duyên
nợ với sách đèn, anh không có.
-Anh
buồn lắm phải không ?
-Có
buồn chứ. Nhưng bây giờ,
em đã học thay cho anh.
-Em sẽ
cố gắng.
-Và rất
ngoan ngoãn nữa, phải
không.
-Không
đâu, em dữ lắm, Oanh
cười ngước mắt nhìn Nguyên.
Rồi nàng hé môi để cho Nguyên hôn nàng.
Khi xuống tới Sài Gòn, Thụy đến nhà dì Hồng. Trong
nhà,
ai cũng ngạc nhiên vì cả mấy tuần nay Thụy không đến. Thụy không nói về
chuyến
đi công tác, mà chỉ trò chuyện bình thường về công việc đang làm ở đơn
vị.
Có tiếng chuông, Thúy ra mở cửa, Lăng đến.
-Ủa,
anh đi đâu mấy tuần nay
?
-Đi
theo hành quân với Sư
đoàn dù.
Ngay lúc ấy, Thụy nhớ ra người khách đến tìm gặp Thụy là Lăng, không phải bạn Hoàng như dự
đoán.
XII
Vừa tới ngày nhận giấy tờ đi học, lúc tìm gặp anh em
trong đơn vị nói lời chào từ giã, bất ngờ,Thụy
được hay biết hôm nay là ngày kỷ niệm bốn năm thành
lập đơn vị biệt
phái. Và, tiệc liên hoan mừng ngày này được tổ chức lúc sáu giờ chiều.
Sau bữa ăn trưa,Thụy đón xe lam ra Tam Hiệp thăm gia
đình
chị Số. Tới khu chợ, tôi thấy chị ngồi ở sạp hàng, hai chị em nói
chuyện, và
đợi chừng nửa giờ sau có cháu gái lớn ra trông hàng, chị đưa tôi về
nhà. Lối
đường từ chợ đến nhà chị ở xa hơn cây số, nhưng đường đi có bóng mát
của hàng
cây nên không cảm thấy mệt nhọc.
Đã vắng hơn bốn tháng, nay Thụy mới trở lại nhà chị.
Có
một vài thay đổi nho nhỏ, bên phía trái cạnh vườn, chị làm
hai cái chuồng cao nuôi chim bồ câu. Từ phía
đường trên có tiếng chó sủa, vào sân, tôi thật vui mắt được nhìn bầy gà
của chị
đang mổ thóc, và nghe tiếng gà mẹ, gà con ríu rít bên nhau mà nhớ đến
làng quê
trong thuở thanh bình. Nhớ rõ lần đầu cách đây bốn năm, Thụy và anh
Nguyên từ
Sài Gòn tìm lên thăm chị. Rồi, Thụy làm việc ở Biên Hòa, rất nhiều lần
chị
mongThụy đến nhà chị ở cho có tình chị
em, cũng gần chỗ làm việc (mà em có ngại lắm, em chỉ vẻ cho cháu học
giúp chị)
nhưng thực lòng, Thụy không muốn có điều kiện như thế, Thụy vẫn luôn
nhớ đến
chị, có dịp đến thăm, và tự nhủ rằng, chị là người nhân hậu, rất thân
yêu trong
gia đình, giòng họ, và riêng với tâm hồn anh nữa.
-Cháu
chào cậu.
Ở bàn học bên cửa sổ, cháu Hùng con trai chị vừa
thấyThụy
đứng dậy chào.
-Hôm
nay cháu nghỉ.
-Dạ
không, cháu học lớp
chiều.
Hai chị em ngồi ở bàn khách, trông ra cửa chính mở
rộng.
Chị Số hỏi, vừa rót trà nóng ra ly.
-Cậu có
về phép thăm nhà
không ?
-Em có
về năm ngoái.
-Chú
thím, mấy em khỏe không
?
-Ngoài
nhà bình thường. Em
cũng có ra làng quê.
-Chị cứ
trông về thăm một lần
mà chưa đi được.
Thụy nhìn gương
mặt người chị, đôi mắt to, vẻ lặng buồn như chỉ gửi gắm trong câu nói.
-Em
thăm chị lần này, có lẽ
lâu nữa mới gặp lại.
-Cậu
thuyên chuyển đi đâu ?
Về ngoài Trung hay lên cao nguyên.
-Em đi
học.
Chị Số nhìn lại người em trai. Khi Thụy rút điếu
thuốc
trong bao, chị để anh châm lửa hút, và rồi không đợi chị hỏi, Thụy giải
thích
cho chị hay. Niềm vui dậy dàng làm sáng khuôn mặt chị.
-Vậy
đến chừng nào em đi qua
Mỹ ?
-Chưa
đâu, đơn em xin đi học
mới được chấp thuận.
Thụy cũng nói cho người chị hay về điều kiện được
cho đi
học hoa tiêu là phải có sức khỏe tốt. Thụy
xong được giai đoạn này, trong kỳ khám sức khỏe vừa
qua, phần nào anh
cũng tốt, chỉ có mắt hơi yếu bị xếp loại A, nghĩa là rồi đây chỉ học về
ngành
trực thăng.
Bữa ăn trưa, nhà chỉ có mấy người. Anh Nghi làm việc
ở
ngành kiểm lâm, trưa ở lại sở. Thụy đã ăn ở quán trước khi đến tìm chị,
nhưng
rồi cũng cầm đũa cho chị vui. Có món bún cá thật ngon, Thụy ăn hết tô,
và gắng
thêm một chén cơm.
Chị Số hơi thất vọng khi thấy anh ăn ít, sớm ngừng
đũa.
Nhưng rồi, chị vui trở lại, và trong mắt chị ánh lên một niềm vui, sung
sướng
có được một người em nay mai sẽ đi học ở Hoa Kỳ.
Khi được mẹ cho biết cậu đi học lái máy bay, cháu
Hùng cứ
nhìn anh, cắp mắt sáng lên có vẻ thán phục. Thụy đọc
được trong mắt đứa cháu những ý nghĩ và
những ước mong của cháu trong sự tưởng tượng về một người cậu.
Bữa ăn qua mau, Thụy lên tấm phản nằm nghỉ đọc báo,
còn
cháu Hùng cũng đã vội thay quần áo vì sắp đến giờ đi học.
Trước khi đi, cháu Hùng lên tiếng chào Thụy, anh đáp
lời
vừa đưa mắt nhìn đứa cháu. Đợi cháu ra ngoài, Thụy mới hỏi:
-Cháu
học hành khá không chị
?
-Cháu
học khá, cậu.
-Mong
cháu học khá, Thụy nói.
Rồi tiếp lời: Bên giòng họ mình không có khoa bảng. Ai cũng chăm chỉ,
cần cù,
nhưng rồi đường học cũng không có ai đi được xa. Thế hệ anh, chị em
mình qua
rồi, mong đến các cháu thôi.
-Chị
cũng thấy vậy. Nhưng dù
sao, trong gia đình mình tình anh chị em, vẫn còn máu mủ, giòng họ.
-Chị ra
quán bây giờ ?
-Không,
chị làm việc nhà. Cậu
nằm nghỉ đi.
Thụy qua tấm phản,
ngả người xuống nằm đọc báo. Một lúc anh thiếp ngủ, rồi thức dậy với
một cảm
giác xa lạ, mơ hồ. Khi nhìn qua kệ sách, Thụy lấy làm lạ có mấy cuốn
truyện
dịch, Thụy nghĩ chắc không phải của cháu Hùng mà là của anh Nghi. Anh
Nghi cũng
rất ghiền tiểu thuyết, mấy lần trước ghé thăm, ở lại một hai tối, trời
có trăng
sáng, hai anh em ngồi uống trà ngoài sân trò chuyện về thơ văn rất thú
vị. Và
trong các nhà thơ xưa, Nguyễn Bính là thi sĩ anh rất ngưỡng mộ.
Ở trên kệ không có sách truyện kiếm hiệp của Kim
Dung,
nhưng Thụy biết anh Nghi đã đọc từng kỳ tên nhật báo và có trí nhớ rất
tốt.
Những truyện Kim Dung anh đã đọc, ngoài trí nhớ ra, anh có những cách
mô
tả nhân vật rất ấn tượng, hấp dẫn và
những lời bình luận cũng độc đáo. Thụy có đọc hai cuốn Cô gái Đồ Long
và Tiếu
Ngạo Giang Hồ. Hai nhân vật nữ trong hai bộ truyện này Thụy rất nhớ,
rất vọng
tưởng là Chu Chỉ Nhược và Nhạc Linh San. Và, sau hai nhân vật này , có
một nhân
vật phản ảnh rõ tính cách người đời trong xã hội là Nhạc Bất Quần.
Thụy rời tấm phản, tới kệ sách, nhìn lướt qua một
lúc,
xong chọn cuốn Giã Từ Vũ Khí là cuốn tôi luôn bị cuốn hút với nhiều lần
đọc.
Thụy trở lại tấm phản, nằm xuống mở rộng cuốn sách.
Nhưng
anh không đọc từ đầu cuốn, mà lướt qua
nhiều chương, xem chương nào thích thì dừng lại đọc.
Đến chương XXIII, Thụy cảm thấy muốn đọc. Henry hết
kỳ
nghỉ bệnh trở ra lại chiến trường. Trước khi đi, anh gặp những người
trong bệnh
viện nói lời chào tạm biệt. Khung cảnh một buổi chiều thật buồn, cảm
động. Lúc sáng nay,
nhận giấy tờ xong Thụy đi gặp
vị Trung Tá Giám đốc, các Sĩ quan, các anh em Hạ sĩ quan, rồi các bạn
lính như
anh để nói lời chào từ giã, bỗng dưng tôi có cảm tưởng những kỷ niệm về
một đời
lính của mình đã thực sự hình thành và làm anh xúc động. Mới ba năm
lính, vậy
mà Thụy thấy thời gian như đã lâu. Nhớ lại buồi đầu tiên, Thụy và người
bạn
cùng khóa đến trình diện làm việc ở phi đoàn 217. Trong phi đoàn, hầu
hết là
các Sĩ quan phi công, hạ sĩ quan và lính chỉ khoảng mười người. Thụy có
chức vụ
là thư ký hành quân, buổi sáng lên ca, Thụy gọi điện thoại qua Đài khí
tượng
xin tin tức thời tiết để ghi lên bảng, sau đó, ngồi ở bàn làm những
việc linh
tinh về giấy tờ, vừa nghe điện thoại. Giờ nghỉ trưa, chiều, đi ăn
xongThụy trở lại làm việc, đến tối , một
mình với
chiếc ghế bố ở nơi phòng trực. Về đêm, rất thường xuyên có những phi vụ tản
thương ở chiến trường. Vào ngày đầu tuần và đầu tháng Thụy phải vẽ biểu
đồ hoạt
động của phi đoàn, rồi làm tính cộng số giờ bay của mỗi phi công trong
tháng.
Trong cuốn sổ bay hàng ngày, các phi công có phi vụ sau khi hoàn tất,
thường
ghi giờ bay vào sổ ở hai cột, cột hàng đầu là giờ cất cánh, cột hàng
nhì là giờ
đáp khi trở về, hàng cột thứ ba là ghi
tọa độ và mô tả mục tiêu. Khi tổng kết xong giờ bay, Thụy làm trên một
tờ giấy
trắng viết tay để trình chi vị Đại úy phi đoàn phó vừa kiêm nhiệm
Trưởng phòng
hành quân. Thụy chỉ làm một thời gian ngắn, rồi đi. Nhưng với đơn vị
đầu tiên
này đã cho anh một chút hương hào hoa của người lính không quân. Ở phi
đoàn,
các sĩ quan trẻ rất vui tính, người nào cũng có thiện cảm với cấp dưới
và khi
thấy trong lúc rảnh, Thụy đem sách học, ai cũng khuyến khích. Ngày ra
đi lính,
tôi thấy tương lai mình buồn bã, nhưng rồi sau ba tháng học căn bản
quân sự ở
quân trường Nha Trang xong về đơn vị này công việc thật nhàn hạ nên anh
cảm
thấy dễ chịu, và cầm chắc chữ thọ cho số mạng của mình. Ngoài công việc
ra, đôi
lúc, anh cũng có đôi chút nghĩ ngợi, suy tư về cuộc chiến tranh. Mỗi
ngày, từ
sáng đến tối khuya, phi đoàn có rất nhiều phi vụ tiếp tế, tản thương,
công tác,
biệt phái. Khi các phi công trở về sau một phi vụ hoàn tất, nhìn hình
ảnh họ
qua bộ quần áo bay màu lam, màu đen, hay màu da cam, Thụy có ngay một ý
tưởng
về họ là người hiệp sĩ của không trung.
Và tiếp đó, anh liên tưởng những trang sách tả các
những chuyến bay chở
thư, những chuyến bay đêm, những chuyến bay hành quân của nhà văn phi
công Pháp
Saint Exupéry. Vào một tối lên phiên trực,Thụy được Trung úy Thạnh
trưởng toán
cho anh theo một chuyến bay đêm đi tản thương ở Hậu Nghĩa với hai phi
công
trong phi đoàn. Bãi đậu phi cơ của phi đoàn nằm xa doanh trại chừng hai
trăm
mét, lúc lên phi cơ, anh ngồi phía sau
với một cơ khí viên, đội mũ bay, phía trước là hai ghế ngồi của phi
công bên
trái là người chánh, bên phải là người phụ. Sau những vòng quay rất
nhanh của
cánh quạt, phi cơ cất cánh. Từ chỗ ngồi nhìn ra khoang cửa, lúc phi cơ
dần dần
lên cao Thụy trông thấy quang cảnh Sài Gòn bừng sáng ánh đèn. Nhưng chỉ
ít phút
sau, phi cơ bay vào trong đêm tối, và lúc đến vùng hành quân Thụy trông
thấy
những tia sáng của lửa đạn và có cuộc chạm súng đang diễn ra. Vừa liên
lạc với
quân bạn, phi cơ vừa giảm độ cao và đáp xuống một trảng cỏ. Gió cánh
quạt vẫn
quay đều làm tung những đám cỏ ở khu tiền đồn , ngay lúc đó, bốn người
lính
chuyển hai băng ca của hai thương binh lên máy bay. Trời tối, Thụy
không nhìn
rõ mặt họ, nhưng nhận ra các vết thương đã được băng bó tạm.
Từ tiền đồn về quân y viện Cộng hòa khoảng nửa giờ
bay.
Sau mười phút đổ thương binh, trực thăng lại cất cánh. và trước khi trở
lại phi
đoàn, hai phi công bay mấy vòng bay trên thành phố Sài Gòn, lúc này,Thụy được thỏa mắt nhìn thấy một thành phố bừng
sáng như ngày hội.
Thụy về viết một đoản văn về chuyến bay đêm gởi báo
Lý
tưởng và được chọn đăng. Rồi anh gởi thêm ít truyện ngắn, các sáng tác
của anh
được chúy ý, và đến một ngày Thụy được kéo về báo Lý tưởng làm việc với
tính
cách phóng viên cho tờ báo. Thời gian này, Thụy đi công tác luôn,
chuyến công
tác nào anh cũng được lên máy bay. Những gì đã qua, đó là những gì vẫn
còn lại
(rồi sẽ theo anh).
Vừa ra khỏi bệnh viện, Henry bước vào quán cà phê .
Bên
ngoài, trời đêm xuống lạnh lẽo, nhiều sương mù. Henry ngồi uống cà phê,
lúc
trông thấy Cathérine đến, anh đứng lên gõ vào cửa, nàng quay đầu, trông
thấy
anh nàng mỉm cười.
Henry rời khỏi quán, bước ra ngoài và cùng với người
yêu
đi chơi trên phố. Đây cũng là một buổi tối cuối cùng, rồi hai người từ
biệt.
Rất có thể, họ sẽ gặp lại, và cũng có thể là không. Chiến tranh, cuộc
chiến
tranh thế giới lần thứ nhất đang diễn ra, Cathérine là người Anh làm nữ y tá phục vụ trong bệnh viện của người Anh,
còn Henry là người Mỹ phục vụ trong đội quân Hồng thập tự , cả hai đang
ở mặt
trận trên đất Ý.
Về đêm, đường phố
lặng yên, vắng bóng người. Những bước đi của hai người bên nhau là
những lời
tâm tình, những ước mơ, những điều muốn nói, có vẻ như chỉ mong tìm
nguồn hơi
ấm, một chỗ ẩn núp, vì trên mỗi quãng
phố họ đi qua trời đang lạnh, rất tối, và đang mưa.
Một lúc sau, họ đón xe ngựa trở về khách sạn trước
mặt
nhà ga nghỉ ngơi, ăn bữa cơm tối, trước khi chia tay. Suốt buổi ăn,
Cathérine
vắt chiếc áo của Henry trên vai nàng. Đây là kỷ niệm giản dị và chân
thực. Xe
lửa từ Turin sẽ đến ga vào lúc mười hai giờ đêm. Tới giờ đó, Henry ra
đi và
chuyến tàu sẽ đưa anh đến đơn vị đang ở ngoài mặt trận.
Lúc hai người chia tay, trời mưa nặng hạt. Cathérine
không vào sân ga để tiễn người yêu, chiếc xe ngựa đưa nàng trở về bệnh
viện,
ngồi trên xe, nàng ngoái đầu nhìn lại bóng dáng chàng.
Còn một chương nữa
kết thúc phần thứ ba của tác phẩm nhưng Thụy ngừng hẳn, không đọc thêm, trong khoảnh khắc này, những cảm xúc trong
buổi tối ấy đã làm Thụy lây lất nghĩ đến chiến tranh, đến các cô gái
anh đã
quen hoặc một đôi lần gặp trong những ngày tháng qua của tuổi trẻ. Và,
không có
một ai như Cathérine cả. Thụy nghĩ đến
Ninh Hà đến những người bạn đã quen biết nàng, trong đó có Thụy nữa.
Sau cùng,
Thụy nhớ đếnVân Oanh. Trong sự nhớ nghĩ đến nàng, Thụy trở lại những
ngày nghỉ
phép năm trước, đó cũng là hạnh phúc tưởng như mình đã tìm thấy.
Chị Số ở nhà dưới đi lên, lúc đặt mâm ăn xuống bàn,
chị
lên tiếng:
-Có chè
ngon, em dậy ăn.
Thụy ngửi được
hương vị thơm của món chè, liền ngồi dậy, đem cuốn sách sang chỗ kệ, để
vào chỗ
cũ.
-Em ở
đây chơi với gia đình
chị ít ngày.
-Em
không có ngày nghỉ phép.
-Vậy
biết đến lúc nào gặp lại
em.
-Rồi
cũng có ngày chị ạ.
-Ăn chè
đi em.
Chị Số dọn mâm chè đến sáu chén. Thụy cầm muỗng múc
chè
ăn. Chè ngọt thanh, những hạt đậu thật mềm, vừa dẽo. Vừa ăn, Thụy thưởng thức món chè cùng với khung cảnh làng
quê ở nơi đây. Bên ngoài, trời chiều thật dễ chịu.
-Lúc
này chị buôn bán khá
không ?
-Cũng
tạm cậu.
-Em
thấy cuộc sống yên ổn của
chị ở vùng quê em rất là thích.
-Rồi ít
năm nữa thôi, cậu có
gia đình.
-Chưa
đâu chị ạ.
Ngon miệng, Thụy ăn thêm chén nữa. Người chị cảm
thấy
vui, hỏi tôi thêm nhiều chuyện. Thụy hết sức hạnh phúc được nhìn và
nghe tiếng
chị nói. Bằng một giọng hơi nặng, nhưng rõ ràng, chị Số kể lại những
năm tháng
rời xa Quảng Trị, vào sống ở Huế rồi lấy
chồng, ít năm sau đi theo chồng vào miền Nam. Từ thuở ấy, cái tuổi con
gái lớn
lên và đi xa gia đình, đã gần mười năm nay chị chưa có dịp về thăm làng
quê nội
ngoại ở Quảng Trị. Trong các chú, các cô, ba Thụy rất được chị quí
trọng. Với
ba anh, ông cũng không chỉ coi chị là cháu mà còn là đứa con ruột thịt.
Ngày xa ấy, Thụy chỉ gặp chị một đôi lần, đến bây
giờ,
gặp lại lòng anh trở nên thân thiết hơn. Thụy có anh trai và em gái. Cả
hai anh
đều lấy làm thích, nhưng vẫn còn thiếu, ấy là anh cũng rất cần có một
người
chị. Bây giờ, anh có thể nghĩ rằng, chị Số là người chị ruột thịt. Thụy
thích
có được một người chị để được nhớ nghĩ tới và mong mỏi tin tức khi ở
xa. Và có
được người chị, ở xa về với gia đình, thì nhà người chị là nơi trước
tiên mình
tìm thăm, đến đó, mình cảm thấy vui được chuyện trò, và nếu lúc mình
đến chị
vắng nhà, mình sẽ giúp cho chị công việc gánh nước, bổ củi, để khi chị
còn lo
buôn bán ngoài chợ khỏi phải bỏ công làm thêm việc nhà. Và rồi, buổi
chiều hôm
ấy chị em gặp lại nhau, cùng nhau vui với bữa cơm trong gia đình. Tối
đến, thời
gian thư thả tiếng chuyện trò vang âm cả một vùng làng quê ở trong trí
nhớ cũng
như bên ngoài của cuộc đời.
Năm giờ chiều, Thụy chào chị tôi để đi. Chị Số đi
theo
tiễn anh ra lối cổng, dừng lại đó, Thụy nhìn chị trên gương mặt buồn và
đôi mắt
mở to, lúc ấy, chị đưa tay lên quệt mấy giọt nước mắt.
-Em cám
ơn chị. Đi xa em nhớ
đến chị và các cháu luôn.
-Cậu
nhớ viết thư cho chị.
-Em nhớ.
Thụy dời bước, không ngoái đầu lại. Dưới bóng im con
đường quê Thụy bước thanh thản, ra đến bến xe gần chợ, anh vừa gặp kịp
chuyến
xe lam đi Biên Hòa.
Khoảng đường từ Tam Hiệp lên Biên Hòa chừng mười cây
số.
Thụy ngồi dãy ghế bên trái, chỗ phía ngoài cạnh bậc thang lên xuống,
đầu quay
nhìn những cảnh vật đằng sau mỗi khi xe lướt qua. Trời chiều bâng
khuâng trong
nắng ấm. Thụy không nhận ra một quang cảnh xa lạ, và cũng chẳng thấy nó
quá
thân thuộc với mình. Đã qua hơn một năm Thụy đến làm việc ở thị trấn
này, chừng
đó không lâu, nhưng rồi, cuộc sống của Thụy ít nhiều cũng có sự gắn bó
nên đôi
lúc nhận ra vẻ thân tình của đời sống, Thụy thật sự bằng lòng, chẳng
đòi hỏi
cái gì cao hơn, hay một ước vọng gì lớn hơn.
Thực lòng, Thụy không mấy vui về chuyện được đi học
lớp
sĩ quan ngành hoa tiêu. Điều ước của anh là dứt khoát lấy cho được mảnh
bằng
tốt nghiệp trung học, xong việc này là tôi trả dứt món nợ. Thụy ước
mong có tấm
bằng này là để giải tỏa mọi mặc cảm tâm lý về chuyện thi cử đã dồn đọng
từ
nhiều năm tháng qua. Khi có được tấm bằng này, Thụy có thể xin đi học
khóa Sĩ
quan kỹ thuật ra trường được mang cấp bậc Thiếu úy làm việc dưới đất,
có đồng
lương kha khá để có thể nghĩ tới được một mái ấm gia đình. Nhưng đây
cũng chưa
hẳn là điều ước mong thực sự của Thụy điều ước thực sự là Thụy trả xong
món nợ
học hành thi cử để tự do theo con đường văn nghệ, một con đường viết
văn tôi
đang đi và luôn ấp ủ bên mình.
Khi có được một tâm hồn tự do, phong phú, Thụy sẽ
viết
văn hay và tin tưởng vào năng khiếu, vào sự sáng tạo của mình và luôn
luôn
trong mọi tình huống là nhìn về phía trước. Ở đây, trong cái nhìn này,
là sự cố
gắng khám phá những bí ẩn của con người trong văn chương. Tôi sẽ không
đi tìm
sự linh diệu, huyền bí về con người trong đức tin của tôn giáo, mà tôi
chỉ mong
đạt tới được con người bằng giá trị nhân bản của hiện sinh. Và sau
cùng, những
nhân vật trong tiểu thuyết tôi tìm kiếm, không là toàn thể nhưng có
được tính
cách biểu tượng. Mới ít năm trên đường văn nghệ, nhưng tôi cũng nhận ra
sự bộc
phát của riêng mình, đồng thời, có một ý niệm về bản sắc của văn chương
miền Nam
từ sau ngày chia đôi đất nước. Theo cái nhìn chung, thời của văn chương
tiền
chiến và văn chương kháng chiến đã qua, được đem vào văn học sử một
cách trang
trọng. Nhà trường vẫn cất giữ những sách này trong thư viện, độc giả
bên ngoài vẫn đọc sách, và các tác phẩm cũ
vẫn làm họ
yêu thích, nhưng dù vậy, nó đã không còn nằm trong luồng gió mới của
miền Nam.
Từ ảnh hưởng lớn lao của văn chương hiện sinh, thế hệ mới của tuổi trẻ
đã
chuyển dòng, khởi sự cho miền Nam một cách viết mới, và cách viết này
được có cảm
hứng từ những suy nghĩ mới. Nhóm Sáng Tạo là tiền phong, nhóm này tuy không nhiều người, nhưng gây nên được
ngọn lửa, thổi bùng cháy sức sáng tạo ảnh hưởng lớn cho toàn cõi văn
học miền
Nam. Khi khởi viết những truyện ngắn đầu tiên, tôi đã nương nhờ theo
cách viết
của nhóm nhà văn này, và càng viết, tôi nhận ra mình có thêm cảm xúc
mới, cái
nhìn mới, nhờ đó chữ nghĩa trở nên vừa lạ lùng, vừa trong sáng.
Nhưng theo tôi, gió mới trong văn học miền Nam chỉ
ảnh
hường nhất thời. Sau những mới lạ ban đầu trong cách viết mới, hầu hết
các nhà
văn tiên phong đã dừng lại, không đi xa nữa. Tại sao ? Nguyên do chính,
vì
những cái vốn sống, vốn kiến thức của họ chỉ đến tầm mức trung bình. Có
hai
hình ảnh nhà văn ở miền Nam: nhà văn tự học, nhà văn có bằng cấp. Ở các
nhà văn
tự học, thường là có năng khiếu đặc biệt về sáng tác, về sự cảm thụ ,
nhưng dễ
chết non, vì rằng, ở buổi đầu họ viết
hay đều là những dạng hồi ức, tự truyện, khi đến giai đoạn trưởng thành
của
tiểu thuyết được ví như dòng sông ra đến
biển, thì các nhà văn này không thể viết tác phẩm lớn có bề dày cả hình
thức,
nội dung, vì rằng, họ thiếu kiến thức học vấn, thiếu cả kinh nghiệm
sống, đồng
thời điểm quan trọng nhất là đọc. Sự phát triển trong việc đọc là tìm
hiểu hiểu
văn chương nước ngoài, sự kiện này, các nhà văn tự học do thiếu trình
độ ngoại
ngữ, và ở miền Nam còn quá nhiều sách dịch. Đó , xem ra, là một bước
cản rất
lớn hầu như rất ít có nhà văn tự học nào có đủ khả năng vượt nổi. Nhà văn văn thuộc lớp có học, có bằng cấp,
thì những tác phẩm của họ viết ra lại nhiều
phần khó hiểu. Những nhà văn này có thể đem lại cho
độc giả sự tin tưởng
về cái sở học của mình ở cách viết đúng câu, đúng văn phạm, nhưng không
tạo cho
họ những hứng thú trong một bài thơ, một truyện ngắn có tính cách sáng
tạo, vì
rằng sự vắng bóng cảm xúc, đến cả đời sống thực cần thiết cho kinh
nghiệm. Ở
lớp nhà văn có học, hiểu rộng trên sách vở về triết lý hiện sinh nhưng
không
biểu hiện được con người hiện sinh trong cuộc sống qua tác phẩm của
mình.
Nguyễn Du không là một nhà văn, nhà thơ của thuyết hiện sinh , nhưng
truyện
Kiều ông viết là một tác phẩm hiện sinh đặc sắc, toàn diện.
Tôi luôn có tâm niệm muốn đi đúng con đường văn
nghệ, và
chân thực với mình, nên luôn luôn tôi tự đo lường khả năng của mình. Để
đi được
xa, trước tiên tôi cần kiến thức, đó là sức đọc. Tôi chịu khó, cốn gắng
đọc. Ít
ra, mỗi nhà văn, tôi phải tìm ra một cuốn đặc sắc để đọc. Với vốn đọc
nhiều,
tôi tin rằng, mình sẽ nghĩ ra được một cách viết. Tôi viết những gì tôi
hiểu
được, không làm dáng trí thức để viết những điều mà mình không hiểu.
Trong
những câu danh ngôn, tôi có được đọc câu của nhà văn Boileau, ông nói
rằng,
điều gì mình hiểu thì sẽ diễn đạt ra rõ
ràng. Tôi cũng không nên viết lập lại những khuôn sáo của người
khác.Tôi chỉ
nên viết, ước ao viết ra được những gì chân thực, dễ hiểu, đầy cảm xúc,
và phải
có một kỹ thuật văn chương về cả hai mặt bố cục và bút pháp. Khi đạt
điều này,
tôi đi được một mình. Không có nghĩa, trên con đường độc đạo, chỉ riêng
mình
tôi đang đi, mà thực ra trong cái bóng của tôi có sự hiện diện của một
người
thầy. Người thầy của tôi là tác giả và những tác phẩm mà tôi vừa yêu
thích, vừa
khám phá thấy. Nhờ vào người thầy mà tôi chọn như là định mệnh, tôi tạo
được
cho tôi một sự đích thực của riêng mình.
Tôi đang ở tuổi hai mươi, cùng lứa tuổi của tôi, có
rất
nhiều anh em cũng làm văn nghệ, sáng tác
thơ văn. Những anh em này là học sinh, sinh viên, và đa phần do tình
hình chiến
tranh, những người trẻ này đã mặc áo lính. Tôi đang tìm đọc những tác
phẩm của
bạn bè hôm nay, dù chì nghe tên, dù chỉ sơ thân hay đã quen biết. Và
đọc họ,
tôi nhận ra được một đôi điều họ có cái nhìn mới, cảm xúc mới, và rất
là táo
bạo trong sự diễn tả. Vào thời điểm này, văn chương lớp trẻ trở thành
một biểu
tượng cho văn học miền Nam, một văn học
của khói lửa và chiến tranh. Và những người bạn văn này đang ở trên
tôi, nhưng
không vì thế, tôi không nhận ra cái yếu kém của họ mà nhìn chung, tôi
thấy chưa
có ai viết thực với suy nghĩ và cảm xúc, không những thế, rất nhiều anh
bạn còn
ưa sự làm dáng trong văn chương. Rồi, cái nhất thời ở phía ngoài bề mặt
chiến
tranh, cũng sẽ chỉ còn là những sự kiện thông tin, sáng tác của họ một
thời
gian sau cuộc chiến sẽ trở nên cũ kỹ như một lớp sơn đã tróc.
Trưa hôm ấy nhà vắng, chỉ có mình tôi và Thu Hải.
Riêng
hai người, chúng tôi ngồi ở bàn khách chuyện trò, nàng biết tôi yêu
nàng nên để
nguyên vẹn cả khuôn mặt của nàng cho tôi được ngắm.
Với một giọng thân tình, Ninh Hà hỏi:
-Anh đi
xa như vậy có nghĩ
đến lúc trở về không ?
-Anh
không nghĩ tới. Nhưng có
em, anh luôn ước mong có một ngày trở về của mình.
-Anh
trở về, sẽ cảm thấy vắng
bóng em.
-Không,
em không vắng bóng
đâu. Em sẽ có những đổi khác, nhưng mà trong kỷ niệm anh biết mình đang
có là
của em.
-Anh có
đi theo con đường
viết văn không ?
-Anh
muốn nói với em, anh sẽ
theo con đường này. Không, nó không là mơ ước, không là sự thành công,
không là
đi tìm kiếm danh vọng, tên tuổi, nhưng nó đã báo trước cho anh biết số
phận của
mình. Văn chương như thể đã trói buộc, vận vào đời anh.
-Em
nghĩ là anh sẽ viết văn.
-Có em,
anh tin là anh viết
được. Rồi một ngày nào đó của bao nhiêu năm sau, em là nhân vật chính
trong
tiểu thuyết của anh.
-Nếu
anh thực hiện được đó là
niềm vui em đã dành cho anh.
-Em đã
nói ra những lời anh
ấp ủ.
Sau một ngày ấy, và từ buổi ấy ra đi, giấc mơ để trở
thành người viết văn ở nơi tôi, vẫn luôn là sự đợi chờ một hình bóng.
Khi tôi
gặp lại Ninh Hà ở Sài Gòn, nàng có đổi khác đôi chút, và nàng có thêm
nữa chút
vẻ đẹp quyến rũ, rất mặn mà. Những ngày ở Sài Gòn, tôi và nàng cùng cảm
thấy hạnh
phúc. Tôi yêu nàng, có được nàng qua những ngày mưa nặng hạt buổi
chiều. Tôi
nhớ chiếc áo dài xanh chấm bông trắng nàng nàng mặc. Tôi như luôn ở bên
nàng,
và nàng đã cho tôi một khuôn mặt thiếu phụ thật trẻ đẹp, mỗi ánh mắt
nhìn nàng,
tôi cố giấu đi nỗi buồn của mình vì thực sự trong lòng đang có niềm
khao khát
tình yêu. Và ở bên nàng, tôi rất thích nghe tiếng nàng nói, tiếng nói
của nàng
âm thanh trong trẻo như tiếng đàn, có lúc thấy mờ đục như thấm nước
mắt, và với
giọng nói khô ngọt ấy cũng hết sức gợi ra trong tôi lòng thèm muốn có
được tình
yêu trong vòng tay ấp ủ của nàng.
Nàng vào thăm Duy đang học ở quân trường, hai tháng
sau
đó, nàng về. Sáng sớm hôm ấy, tôi đến trạm hàng không đưa tiễn nàng.
Trước khi chia tay, nàng để cho tôi ôm hôn nàng, và
nghe
nàng nói:
-Anh
phải quên em mới viết
văn được. Đừng nên giữ lại em, nhớ em trong những ngày mưa ở Sài Gòn,
vì như
thế, anh sẽ chỉ quá nặng lòng tươngtư không viết được. Hãy quên em đi,
hãy nghĩ
em là một người khác thì anh sẽ viết được và thành công.
Từ lần nghĩ phép đầu tiên về thăm gia đình, Thụy
được hay
tin Vân Oanh là người bạn gái của anh Nguyên. Và, đến nay, hình ảnh Vân
Oanh mà
Thụy mường như nàng là một nhân vật tiểu thuyết.
Xe lam vượt lên hết quãng dốc, rồi giảm tốc độ
xuống, rồi
dừng lại phía bên ngoài con đường trước cổng gác chính của Quân đoàn.
XIII
Tiệc liên hoan tổ chức ở phòng hội, có hai chiếc bàn
dài
có trải khăn màu và mấy chục chiếc ghế xếp. Trên mỗi bàn bày nhiều thức
ăn,
rượu, bia và nước ngọt. Anh em trong đơn
vị khoảng ba mươi người họp mặt đông đủ.
Sau lời ngỏ của vị Trung tá Giám đốc kết thúc, tất
cả
đồng loạt vỗ tay, rồi bữa tiệc vui bắt đầu, mỗi người tự động lấy phần
ăn và
thức uống cho mình. Có ghế, nhưng ít ai ngồi. Dù là chung đơn vị, nhưng
vẫn
theo thứ cấp, các Sĩ quan làm một nhóm riêng, hạ sĩ quan và lính tụ một
nhóm
riêng. Tiếng chuyện trò nổi lên vui vẻ, thoải mái, và không thiếu những
chuyện
tiếu lâm là cả một kho tàng của binh chủng Không quân, bao nhiêu chuyện
này
thường hay đăng trên Lý tưởng, nhưng cũng có một số chuyện được phịa ra
nghe
vừa lạ, và vui.
Thụy chỉ uống bia, không dùng rượu. Và, hôm nay,
cùng các
bạn, người nào cũng bắt anh cụng ly. Trong đám lính bạn Thụy, có bốn
tên đã đậu
Tú Tài, vậy mà chỉ mình Thụy đi học Sĩ quan, ba bạn kia vẫn muốn làm
lính để có
được nhiều thì giờ học thêm lấy cho xong cái bằng Tú Tài đôi.
Khi gần tan tiệc, Thụy mới tìm đến chào tạm biệt các
vị
Sĩ quan. Các Sĩ quan không trợ đều thuộc ngành phi hành , tuổi tác họ
chỉ hơn
chúng tôi một hai tuổi, tính tình rất vui vẻ.
Người sau cùng, Thụy đến chào là Trung úy Khải. Thụy
nói
xong, ông đưa mắt nhìn lại anh rất lâu. Rồi bằng một giọng chân tình,
vừa
nghiêm nghị, ông nói:
-Mầy đã
đi Sĩ quan, thì gắng
cho thành. Dù tình huống nào cũng phải trở thành Sĩ quan, không được
thoái bước
mà quay lui, nghe rõ chưa.
-Nghe
rõ Trung úy,Thụy đáp.
Ông đưa tay ra bắt tay Thụy.
Tám giờ tối, tan tiệc. Sau khi thu dọn xong, anh em
trong
đơn vị chia tay ra về. Chỉ những toán trực ở lại làm việc.
Vừa trông thấy Thụy, vị Trung tá Giám đốc hỏi:
-Anh có
về Sài Gòn không ?
-Dạ có.
-Lên xe
tôi về.
Chiếc xe pick up sơn màu xanh. Ngoài chỗ ghế lái,
băng
bên cạnh rộng và dài ngồi được ba người.
Khi xe trên đường hướng ra cổng, một giọng hơi nhỏ,
Thụy
nói:
-Em cám
ơn Trung tá đã giúp
cho em nhiều trong thời gian qua.
Một giọng vui, ông hỏi:
-Anh ra
Sĩ quan, rồi có muốn
đi ngành Không trợ không ?
-Em
chưa dám nghĩ gì cả. Em
chỉ mong sao được đi Mỹ học, rồi ra trường.
-Rồi
ngày ấy sẽ đến với anh,
ông nói.
Chiếc xe rẽ trái khi ra khỏi cổng Quân đoàn. Giờ
này,
dưới đèn điện sáng dọc con đường, sinh hoạt thị trấn nhộn nhịp, đông
vui. Các
quán ăn đông khách, và các quán cà phê vọng lên tiếng nhạc, giọng hát
Khánh Ly
nghe văng vẳng, chán chường.
-Thời
trung tá đi Pháp, thời
gian học lâu không ?
-Gần ba
năm.
-Thời
đó, đi Pháp thật là
hiếm.
-Lớp
của tôi là lớp đầu, có
chừng ba chục anh em.
Một giọng vui Thụy hỏi:
-Thời
trẻ đó, Trung tá có
quen cô đầm nào không ?
-Có chứ.
Thụy không cần hỏi thêm, đã được nghe ngay câu
chuyện
tình của ông với một cô sinh viên người Thụy Sĩ qua Pháp học.
Trên gương mặt vị Trung tá ửng hồng vì uống khá
nhiều
rượu whisky, nhưng ông không say. Những câu chuyện ông vừa kể cho Thụy
nghe rất
hứng thú, và có những câu thơ Pháp ông đọc lên nghe thật đậm đà, mới
lạ. Paris,
Thụy không dám hình dung nơi kinh thành ánh sáng ấy những gì lớn lao mà
chỉ nhớ
nghĩ nơi ấy bởi có tâm hồn yêu thích thơ văn.. Thụy thích những bài thơ
của thi
sĩ Cung Trầm Tưởng, tôi nhớ mùi vị cà phê Magots, điếu thuốc Gitane và
khu phố
sinh viên Latin, những hình ảnh ấy nằm ở trong trí nhớ tôi qua một đoạn
văn đẹp
trong tiểu thuyết Đời phi công của nhà văn Toàn Phong. Và, còn thêm một
nơi
chốn nữa là khu vườn Luxembourg, nơi đây, vào mỗi buồi sáng đi đến
trường học,
chú bé Pierre Nozière(chính là Anatole France) vừa đi, vừa nhảy nhót
như một
con chim sẻ. Thụy rất yêu chú bé nếu anh được gặp chú bé ngoài đời, vì
chú cũng
có một tâm hồn dễ mơ mộng giống như anh.
-Ngày
Trung tá về , đất nước
đã chia đôi ?
Thụy hỏi điều ấy, ông gật đầu. Xa lộ dài hun hút,
bắt đầu
chìm trong bóng tối. Hai bên rất là vắng vẻ, thưa thớt ánh đèn qua
những căn
nhà, về phía trong xa là bóng núi và các làng mạc.
-Lâu
nay, anh có sáng tác
được gì thêm không ?
-Dạ,
cũng có. Em viết được
vài truyện ngắn.
-Anh có
tác phẩm in nào chưa
?
-Dạ
chưa. Em cũng chỉ mới tấp
tễnh làm người viết văn thôi.
-Anh
viết cũng khá. Rồi đây,
được cơ hội đi xa anh có thêm nguồn cãm hứng sáng tác.
-Em rất
muốn viết một cuốn
tiểu thuyết về người phi công trong thời chiến.
-Ý nghĩ
đó hay. Lâu nay, có
một số rất ít viết về cuộc chiến tranh của người phi công.
Thụy suy nghĩ một lúc, rồi nói:
-Khi
trở thành phi công, em
sẽ viết, và tin là tác phẩm hoàn tất. Em muốn viết để tiếp nối cuốn
tiểu thuyết
của nhà văn Toàn Phong. Ở cuốn truyện này, độc giả chỉ mới biết được
giai đoạn
đầu của người phi công vào những năm còn đang huấn luyện, về cái đẹp
của tình
yêu, về phần em , nếu tiếp nối được em sẽ viết về những người phi công
đang
hiện diện trong cuộc chiến tranh ở trên vùng trời miền Nam và cả miền
Bắc nữa.
-Anh
hãy đọc thêm tiểu thuyết
của Saint Exupéry.
-Sách
nhà văn phi công này đã
được dịch mấy cuốn. Em có hai cuốn Bay đêm và Chuyến thư miền Nam.
Nhưng thực
sự, thời của Saint Ex, cũng vẫn là thời huấn luyện, thử thách từng dặm
đường
bay trên không gian, và thời ấy, phi cơ hẳn còn đang thô sơ chưa hiện
đại như
sau này.
Vị Trung tá trở lại thời gian cũ của mình, ông cho
Thụy
biết những tháng năm khó khăn lúc ông học ở bên Pháp, và điều ông cũng
như tôi
hãnh diện là thế hệ của ông sau này là những người làm vinh dự cho binh
chủng
Không quân.
Tới ngã tư Sài Gòn, xe rẽ trái đi theo đường Hồng
Thập
Tự. Khi xe dừng lại bên đây cầu, trông qua bên kia là khu nhà thờ, Thụy
nói lời
từ giã cám ơn ông lần nữa rồi xuống xe.
Mới tối hôm đó, đã qua hai tuần lễ Thụh rời xa đơn
vị.
Ngày mai, Lăng đi xuống miền Tây thực tập ở ba tỉnh Mỹ Tho, Cần Thơ và
Long
Xuyên. Thời gian thực tập bốn tháng xong trở lại trường, rồi học hết
chương
trình Cao học trong hai năm. Khi ra trường, Lăng sẽ được hưởng lương
ngạch Đốc
sự và đảm nhận chức vụ Trưởng ty, Quận trưởng, có khi là Phó tỉnh
trưởng.
Sau khi xem xong trận đá banh, Thụy và Lăng tìm đến
quán
ăn ở đường Nguyễn tri Phương. Thụy nói với Lăng dù được gọi đi học
nhưng lòng
tôi không vui, vì món nợ với cái bằng Tú Tài hai anh chưa trả dứt được.
Không
hiểu sao, Thụy cứ lấn cấn và luôn bị ám ảnh về tấm bằng này đến nỗi
khiến anh
có ý nghĩ mình làm gì cũng cứ thất bại.
Bữa ăn ngon, và hết sạch các món hai đứa gọi. Không
ngồi
lâu, vì Lăng phải về nhà để ngày mai đi chuyến xe sớm nên hai người
cùng rời
quán đứng dậy.
Xuống Sài Gòn, Thụy nhờ Lăng thả tôi ở khu chợ Bàn
Cờ
trên đường Nguyễn Thiện Thuật.
-Có
rảnh, nhớ viết thư.
-Có chỗ
ổn định, anh xuống
dưới chơi.
Một vài giây còn đứng với nhau, Thụy nói:
-Tôi
tính xin ít ngày phép về
Huế thăm nhà.
-Xin
được, anh nên đi.
Từ ngõ đường ngoài tôi đi bộ đến nhà Huê. Có tiếng
Thụy
và cả tiếng gõ cửa, Huê đi ra.
-Ủa, anh hả.
-Anh
đến mời em đi uống cà
phê.
-Sao mà
có chuyện lạ vậy.
-Có gì
đâu mà lạ.
Huê khoác chiếc áo len nhẹ ở ngoài bộ quần áo thường
có
chấm bông, rồi cùng tôi đi ra quán nước đầu đường.
Quán nước có mái hiên, đèn sáng, nhưng khách hơi
thưa
vắng. Cả Thụy và Huê cùng uống cà phê đen nóng.
Khi đứa nhỏ chạy bàn bỏ đi, Thụy nói:
-Em có
thấy uống cà phê lúc
nào cũng thú vị.
-Em
cũng thấy thế.
-Em và
anh có vài sở thích
giống nhau.
-Nhưng
suy nghĩ về tình cảm
lại rất khác nhau.
-Dù thế
nào, em cũng không
quên anh.
Mỗi ly cà phê nóng được đặt trên dĩa lót. Thụy múc
hai
thìa đường bỏ vào tách của Huê .
-Lâu
nay anh đi đâu không
thấy.
-Anh
vẫn làm việc ở trên Biên
Hòa và ở trên đó luôn, ít về Sài gòn.
-Em cứ
tưởng anh lại đi xa.
-Đi xa,
anh đã viết thư cho
em rồi.
-Trời,
anh làm như em là
người yêu.
-Cà phê
ngon, em uống đi.
Thụy đốt điếu
thuốc sau một hớp cà phê uống đầy. Thụy muốn tìm một lời chân thật để
nói với
Huê và anh đang nhìn nàng uống cà phê. Lúc nào gặp nhau cũng vậy, Huê rất là tự nhiên khi nàng cho anh ngắm lâu vẻ
đẹp của nàng.
-Sao
đó, công việc làm của
anh.
-Cũng
bình thường. Anh luôn
nhớ đến em.
Huê mỉm cười nói:
-Anh
luôn hiểu sai những ý
của em.
-Nhớ,
đâu hẳn chỉ là tiếng
của tình yêu, mà tình bạn cũng có.
-Nhưng
lúc nào, em cũng thấy
anh mượn nhiều ẩn dụ.
Thụy mỉm cười, nghĩ đến giọng nói của Huê. Trên
khuôn mặt
Huê, cả một vẻ sáng đẹp hiện ra dưới ánh đèn.
-Anh
sắp đi phép.
-Về
Huế, phải không ?
-Đúng
rồi, em. Ở Huế, em chưa
hề biết phải không ?
-Chưa.
Này anh, gái Huế đẹp lắm phải không ?
-Anh
không biết .
-Trời
đất, anh ở ngoài đó mà
không biết hả.
-Anh đã
xa ngoài đó lâu rồi.
-Bộ,
anh không thích gái Huế
hả.
-Anh
không quen cô nào cả, xa
quê hương vào đây được gặp em nên chỉ biết có em thôi.
-Anh
thấy em, sao ?
-Em là
một thiếu nữ đẹp.
-Anh
nói cũng đúng thôi.
-Em
thật duyên dáng như người
mẫu.
-Mấy
giờ rồi anh ?
-Mười
giờ hơn.
Thụy gọi đứa nhỏ
lại trả tiền cà phê rồi cùng Huê rời quán. Thụy đưa Huê về nhà, cả hai
cùng vui
câu chuyện trong cách bình thường.
-Em
thích anh tặng em chiếc
nón bài thơ không ?
-Ờ hay
đó, anh mua tặng cho
em.
-Sẵn
lòng.
Trước cửa nhà, Thụy và Huê dừng bước.
-Hôm
nào anh đi phép ?
-Anh
chưa định, vì còn một số
việc về giấy tờ anh làm chưa xong.
-Trước
khi đi, anh có ghé em
không ?
-Có,
anh sẽ ghé. Không có
anh, em chẳng có bạn uống cà phê.
-Nhớ
ghé, lần tới em bao anh.
-Em quá
dễ thương.
-Không
đúng đâu.
-Em ngủ
ngon.
-Nhớ
ghé em trước khi đi.
Thụy chợt kéo tay Huê giữ lại và nàng để cho anh ôm
nàng.
Buổi tối về nhà,Thụy thức khuya ngồi viết truyện, và qua ngày hôm sau,
đọc lại
truyện đã viết Thụy sửa chữa đôi ba chỗ, sau đó viết thêm một truyện
mới nữa.
Những khóa sinh ở các đơn vị xa được gọi đi học về
trình
diện vẫn chưa đông. Lúc thấy Trung úy Cẩm đi ra, Thụy lại gần chào ông.
Khi ông
lấy điếu thuốc, tôi bật ngay que diêm để ông mồi lửa. Sau khi kéo một
hơi đầy,
ông hỏi:
-Có
chuyện gì không ?
-Dạ có.
Ông nhìn lại Thụy. Thụy nói:
-Trung
úy cho em xin ít ngày
phép về thăm gia đình.
-Gia
đình anh ở đâu ?
-Dạ
ngoài Huế.
-Sao ở
đơn vị, anh không xin
đi.
-Có
giấy gọi đi học, em phải
đi gấp sợ trễ khóa.
Ông nhìn lại Thụy.
-Anh
thi đậu không ?
-Dạ
rớt. Ngày thi thứ nhì, em
đau bỏ cuộc.
-Tôi
đậu rồi.
-Em
chia mừng với Trung úy.
-Tôi
thi ở Trưng Vương, cùng
trường với anh.
-Em
không gặp Trung úy.
-Tôi có
thấy anh hôm đầu.
-Lên
Đại học, Trung úy học
ngành gì ?
-Tôi
học Luật.
-Ở
Không quân, có nhiều Sĩ
quan học bên ngành Luật.
-Tôi
không thích học văn
chương.
-Em
thích, và em có viết văn.
-Tôi
biết anh.
Ở ngoài hành lang hai người nói chuyện chốc lát, sau
ông
trở vào phòng làm việc , bảo Thụy đi
theo. Khi ông ngồi xuống ghế, Thụy đứng quan sát bàn làm việc của ông.
Bên
trong chiếc kệ nhỏ, có một số sách sắp ngay ngắn.
-Cho
anh đi phép một tuần.
Nhớ về trình diện đúng ngày.
-Dạ.
Trưa hôm ấy, từ Tân Sơn Nhất Thụy đón xe buýt xuống
Sài
Gòn. Sau khi rời quán ăn, suốt buổi trưa anh đi dọc theo dãy hàng sách
cũ trên
phố Lê Lợi mua được một ít sách cho anh Nguyên, sau đó qua chợ Bến
Thành mua
một ít quà biếu về cho bên gia đình Ninh Hà và gia đình anh.
Trước ngày đi, Thụy có được 700 đồng tiền nhuận bút
hai
truyện ngắn được đăng trên nhật báo Ngôn Luận và Miền Nam.
Từ Sài Gòn, Thụy đi chuyến bay C47 cất cánh lúc 10
giờ
sáng, đến Đà Nẵng gần mười hai giờ trưa. Từ trạm tiếp liên, có xe thồ
và xe lam
đưa khách ra phố. Thụy đi xe thồ về thẳng nhà Ninh Hà.
Vừa thấy tôi xuất hiện, cả nhà ngạc nhiên, mừng rỡ,
các
em đến nắm tayThụy rất cảm động.
Nàng hỏi:
-Anh về
phép lâu không ?
-Anh đi
được mười ngày.
Thụy không thể giấu được sự xúc động khi gặp lại
Ninh Hà.
Trong ánh mắt nàng, bóng dáng anh đã bất động, in lên đó.
-Cậu đã
ra ngoài nhà chưa ?
-Dạ
chưa.
-Anh ở
chơi với gia đình ít
ngày rồi ra.
Thụy kéo chiếc ghế ngồi, cảm giác thật nhẹ nhõm. Cả
nhà
đông đủ, mỗi người hỏi anh một đôi câu. Thụy nghe rõ tiếng nói, nhất là
nhớ rất
lâu từng âm sắc của Ninh Hà.
Có
khách vào mua hàng, bà
Uyên đứng lên đi ra quầy, trong thoáng nhìn,Thụy quan
sát cửa hiệu nước hoa của gia đình, và
thấy mới mẻ hơn ngày xưa. Hai tủ kính bày những loại hàng mẫu nước hoa
nhiều
màu sắp đẹp, ở ngoài mái hiên có một cái tủ kính cũng lớn bày bán thuốc
lá, bật
lửa, đồ trang sức.
Ánh
sáng từ khuôn mặt và trên
cánh tay để trần của Ninh Hà dâng lên một màu sáng dịu, vừa phảng phất
chút
hương thơm.
-Anh
lúc này mập ra .
-Em đi
làm chưa ?
-Em có
việc làm rồi, tuần tới
bắt đầu.
-Dạy
học phải không ?
-Nghề
đó, nghèo lắm.
-Anh
biết, việc gì em cũng
làm được.
Ông Kha nói:
-Em Hà
làm cho hãng xuất nhập
cảng.
Tôi nhìn qua Ninh Hà , đôi mắt nhỏ bé của nàng sáng
lên
một nụ cười.
-Trưa
rồi, mình đóng cửa em
ạ.
-Vâng.
Bà Uyên mở hai sợi dây buộc, bức màn buông rũ khép
lại.
Hai cánh cửa vẫn mở, và lúc này, cả gia đình chuẩn bị ăn trưa.
Khi hai người giúp việc dọn cơm lên, Thụy không thấy
chị
Trà. Bà Uyên nói:
-Mấy
người giúp việc trước
lúc cậu còn ở đây, họ về quê rồi. Hai người này, cũng là người Quảng
Trị.
Quanh chiếc bàn tròn, gia đình ngồi ăn. Thụy ngồi
cạnh
Ninh Hà và mấy em nàng. Nhìn Hằng,Thụy hỏi:
-Em học
lớp mấy rồi ?
-Đệ Lục
anh.
Thụy ngắm cô bé bắt đầu để tóc thiếu nữ, giọng vui
nói:
-Anh
nhớ thời đi học, em mặc
chiếc áo đầm, cứ lúp xúp theo bên chị Ninh Hà.
-Nay em
đã lớn rồi đây.
-Xinh
nữa.
-Em
không dám đâu.
-Anh
Thụy lúc này có viết
truyện nữa không ?
-Có,
nhưng không nhiều lắm.
-Anh có
mang những truyện
đăng báo về không ?
-Có.
Ông Kha hỏi tôi:
-Cậu ở
lính, thăng được cấp
gì rồi.
-Thưa
hai bác, cháu sắp đi
học Sĩ quan.
-Cậu
không ở Không quân nữa
sao ?
-Dạ,
vẫn ờ Không Quân, cháu
xin học về hoa tiêu.
-Vậy là
cậu lên cấp Sĩ quan
rồi.
-Cháu
mới được giấy gọi đi
học. Giờ đang là khóa sinh.
-Hoa
tiêu là làm phi công
phải không anh ?
-Đúng
rồi em.
-Vậy là
anh học lái máy bay.
-Đúng
rồi.
-Anh đã
lái được chưa ?
-Chưa.
Anh mới có giấy gọi về
đi học.
Cà nhà nghe tôi kể chuyện của mình. Ninh Hà nói:
-Anh đi
qua Mỹ học, có gì vui
bằng.
-Chừng
nào đi, anh Thụy.
-Anh
chưa biết. Giờ anh đang
chờ khóa học Anh ngữ.
Tôi đã có được một ngày vui với gia đình người bạn
gái.
Tới đầu giờ buổi chiều các em đi học. Rồi ông bà Kha cũng đi thăm gia
đình một
người bạn mới từ Qui Nhơn ra. Trước khi đi, ông cho tôi hay, người bạn
này
trước đây ở trong quân ngũ, cùng đơn vị với ông. Xa nhau từ sau ngày
đình chiến,
nay mới bắt được tin tức.
Tôi không đi đâu, ở nhà với Ninh Hà trông coi cửa
hiệu.
-Anh
Duy sao không về ?
-Anh
đang ở Quảng Tín.
-Làm
việc trong đó.
Ninh Hà nhìn tôi nói:
-Từ
ngày anh Duy ra đơn vị,
hư hỏng lắm.
-Sao
vậy ? Có chuyện, em nói
cho anh biết đi.
-Em
buồn lắm.
Người khách đến đứng bên ngoài đợi mua thuốc lá.
Ninh Hà
bỏ dở câu chuyện đứng lên đi ra bán hàng. Khi trở vào, cô đưa cho tôi
gói thuốc
Pall Mall.
-Anh có
đây rồi.
-Anh giữ lấy mà hút.
Tôi đốt điếu thuốc, giọng trầm lặng nói:
-Lúc
nhận được thư em, anh
thấy lo lắng. Từ ngày ấy đến nay, anh chỉ ước mong em có cuộc sống dễ
chịu.
-Anh
Duy sa vào cờ bạc, em
không nói nổi nữa.
Khi bắt gặp thấy đôi mắt, tôi và nàng nhìn nhau rất
lâu.
Rồi tôi hỏi:
-Nơi
hãng em sắp làm việc, là
trong nước hay ngoại quốc.
-Hãng
này của Đại hàn.
-Có
việc làm, em sẽ bớt phiền
muộn.
-Em
chán lắm, đôi khi ân hận
cho đời mình.
-Em nên
nói rõ cho Duy biết.
-Anh ấy
chỉ biết con bạc. Anh
đánh thua sạch, con người anh không còn tư cách gì nữa.
Tôi dụi mẩu thuốc lá vào chiếc gạt tàn, cầm tách trà
đưa
lên miệng uống một hớp đầy.
-Anh ăn
gì không ?
-Không,
anh không đói.
-Em gọi
cà phê cho anh nghe.
-Không,
anh uống trà, được
dịp về phép thăm em, lòng anh vui.
-Anh
qua Mỹ học lâu không ?
-Cũng
đến hai năm.
-Sao,
anh đã có cô Phượng nào
chưa ?
-Em đã
đọc cuốn truyện ấy
rồi.
-Có. Em
rất thích.
-Vậy mà
em lại không làm cô
Phượng cho những chàng phi công.
-Ở xa,
viết thư cho em, anh
phải viết hay như những lá thư trong cuốn sách.
-Anh
không chắc mình viết
hay, nhưng thành thực.
-Những
thư anh viết gởi cho
em hẳn còn đó.
-Anh
cũng giữ những thư của
em, và bao nhiêu tấm ảnh của em cùng gia đình.
-Anh đã
khởi sự viết cuốn
sách chưa ?
-Chưa,
nhưng anh rất nhớ
những lời em nói, và căn dặn.
-Anh
nên viết cho đời mình
một cuốn sách.
-Về
ngoài này, em nhớ Sài Gòn
không ?
-Rất là
nhớ.
-Sài
Gòn vẫn còn mưa. Những
ngày mưa nhắc anh nhớ đến em hơn hết. Bây giờ đây, bao nhiêu hình ảnh
cũ của em
vẫn còn trong đó. Sài Gòn, cứ đến về chiều trời mưa, và nhắc anh nhớ
tên em,
nhớ đến từng bóng dáng của em.
Nàng nghe tôi nói, chỉ im lặng. Một lúc sau, tôi
nghe rõ
tiếng của nàng:
-Em nhớ
đến anh luôn.
XIII
Xe Phi Long hẳn còn đậu chờ khách. Mới có bốn người
trên
các dãy ghế trống. Thụy để túi xách lên giá , xong ngồi xuống. Bỗng
dưng, anh
có cảm giác trống trải lạ thường.
Một lúc sau, có thêm khá nhiều khách tới tìm xe.
Thằng lơ
đón mời họ lên những dãy ghế trước, vừa cho biết, chừng hai mươi phút
nữa là xe
chạy. Người tài xế đứng ở ngoài, dáng nặng nề, anh ta đang hút thuốc.
Bà chủ xe
mặc bộ quần áo bà ba màu đất, bên vai đeo cái túi xách lớn.
Thụy không ngồi lâu, một lúc sau mở lối cửa bên hông
đi
xuống rồi chậm bước đến quán cà phê. Anh gọi ly cà phê đen
nóng. Không quá hai phút, đứa nhỏ mang cà phê
ra, vừa bỏ xuống bàn, nó hỏi có lấy thuốc hút, anh đáp không.
Thụy cho hai muỗng đường vào cà phê, khuấy nhẹ, hẳn
còn
nóng nhưng anh đưa lên miệng làm một hớp đầy để đốt điếu thuốc.
Nắng buổi sáng thật dễ chịu. Bến xe ồn ào, quanh bến
khá
nhiều xe đậu và đông khách đợi chờ, còn những người bán quà rong, bán
báo dạo
vừa mời mọc, vừa cất tiếng rao.
Khói thuốc trườn lên từng sợi mỏng dần ngả màu tím.
Thụy
là người lính trở về phép, đi chuyến bay từ Sài gòn ra Đà Nẵng, lúc
xuống phi
trường anh đón xe thồ về thăm nhà người bạn gái nghỉ chơi ở gia đình nàng, hai ngày qua, đối với nàng
cũng như gia đình anh được coi như là người thân.
Lúc sáng nay, nàng tiễn chân anh một đoạn ngắn ra
con đường trước mặt nhà. Trong lúc chờ
xe lam đến, nàng và anh có được sự gần gũi bên nhau trong ít phút.
-Anh có
trở vào Đà Nẵng nữa
không ?
-Không,
hết phép, anh đi luôn
từ Huế.
-Nhớ
viết thư cho em.
-Anh
nhớ luôn.
Một giọng vui, nàng hỏi:
-Anh
sắp đi Mỹ, mơ mộng gì
không ?
Với giọng điềm
nhiên, Thụy đáp lời:
-Anh
vẫn còn lo lắng qua từng
giai đoạn. Khó nhất với anh, là học Anh ngữ.
-Mình
học ở bên đây mới đi.
-Đúng
đó em. Nhưng qua tới Mỹ
cũng còn phải thi trắc nghiệm nữa.
-Anh
đừng lo lắng quá.
-Cám ơn
em.
Khi từ giã, nàng đưa tay cho anh bắt. Chiếc xe lam
vừa lăn
bánh, anh ngoái đầu nhìn thấy nàng đứng vẫy tay, thật là một nỗi nhớ da
diết, u
buồn. Thụy vẫn mãi nhớ đến nàng, đến những ngày ở Sài Gòn. Thời gian
cũng đã
qua nhanh. Rồi đời lính nói với anh rằng,
năm nay, bạn hai mươi lăm tuổi.
Cà phê nguội dần, Thụy cũng đang uống chậm. Trong
lúc
ngồi quán uống cà phê, mắt anh không ngừng chú nhìn quang cảnh sinh
hoạt buổi
sáng nay ở bến xe, có lúc, anh nhớ nghĩ nhiều đến Huế, có lúc, anh trông thấy bóng dáng mình vào một năm ấy đã
tìm đến thành phố này, rồi bất chợt, anh hướng về Sài Gòn, nơi thành
phố đó bây
giờ anh đang là kẻ vắng mặt.
Hành khách tới xe đã khá đông. Bỗng nhiên, một bóng
chiếc
áo dài tím xuất hiện làm Thụy chú ý. Nàng đứng quay lưng nên anh không
nhìn
được rõ khuôn mặt, nhưng qua áo tím, và cái dáng thật uyển chuyển trong
mỗi
bước đi, Thụy hình dung ra được một vẻ đẹp trên khuôn mặt của nàng.
Bỗng tiếng thằng lơ xe cất lên:
-Mời
quý cô bác lên xe.
Vội vàng đứng dậy, trả tiền cà phê xong, Thụy trở
lại xe,
và mở cửa hông bước lên.
Cô gái nhìn Thụy, có vẻ chú ý. Thụy chưa ngồi, còn
đứng
với cao tay để mở cái túi ngoài lấy mấy tờ báo xuống, chút nữa đọc giết
thì giờ
lúc xe chạy.
Vừa đặt tờ báo trải ra, và trong ánh mắt nhìn qua cô
gái,
ngay lúc này, anh phác vẽ được vào tâm trí mình hình ảnh một bức chân
dung
thiếu nữ mà chiếc áo tím của nàng là một dĩ vãng đẹp. Nàng có khuôn mặt
trái
soan, mái tóc không dài lắm, thả xuống chỉ tới gần vai, và nàng có một
đôi mắt
nhung vời vợi, đẹp vô cùng.
Tự dưng Thụy ái ngại không dám tìm lời làm quen.
Ngồi im
gần như bất động, anh cũng thật bối rối. Không hiểu sao anh có mặc cảm,
vì anh
nhận ra rằng, tuy vẻ đẹp ngoài của nàng rất giản dị, nhưng thật ra,
nàng tự
mình cất giấu trong linh hồn một vẻ khuê các của các nàng tiểu thư,
càng mường
tượng, càng tưởng như thấy nàng qua bao nhiêu hình ảnh kiêu sa trên
từng lớp
nhung lụa. Vậy đó, ích gì mà tôi nghĩ
đến hay trông đợi mối tơ duyên, hoặc có
diễm phúc được trao đổi ít lời thành nên một câu chuyện cùng với nàng.
Người tài xế nhấn một tiếng còi, liền đó, tay thằng lơ xe đập mạnh vào mái cửa, vọng lớn tiếng:
-Xong
rồi, chạy đi.
Xe rời bến. Tôi nhìn ra cửa, nhưng không hề sắp xếp một chuyện gì quan trọng trong đầu đề suy
nghĩ về mình nữa cả. Quang cảnh khu phố quanh bến xe mau biến dạng, chỗ
này
khuất, chỗ kia hiện và sau khi chạy lướt một vòng bến, xe tiến ra ngoài
phía
cổng. Dừng lại ở đó đợi , ít phút sau xe mới rẽ trái vào đường lớn của
phố
chính. Khu phố chính thật đông đúc, ồn ào, xe trên đường, và người đi
qua lại
tấp nập.
Đà Nẵng cách Huế gần một trăm cây số. Chỉ chạy chậm
trên
một đoạn khá dài hơn ba trăm mét , rồi thấy đường bắt đầu trống xe liền
tăng
tốc độ để chạy nhanh. Ngồi bên cửa xe, Thụy vẫn chú tâm nhìn quang
cảnh. Mỗi
chuyến ra đi hay trở về, trong tôi luôn tự cho mình là lữ khách. Khi đi
phi cơ,
tôi luôn tìm và tưởng tượng trong cái nhìn của mình vào không gian, ở bên dưới là đất liền, tôi gắn ý nghĩ của
mình vào cuộc sống qua tâm tưởng từng con người, ở trên bầu trời, phi
cơ đã bay
qua những vùng mây, trong mỗi bóng mây tôi có sự hình dung về nó, nó
hiện lên
hình dáng những thú vật không lồ, nó cũng sẽ hiện lên những cánh đồng
mây trắng
bao la, nó cũng cho thấy những dáng hình vươn lên rất cao như là những
ngọn
núi, và đẹp nhất nhất là lúc nó tạo nên được những hình ảnh kiến trúc
lạ mắt bằng
những đền đài, hay bằng những dáng vẻ của một hay nhiều thành phố giữa
khung
trời thật cao và thật rộng. Tôi đã ghi nhận bao nhiêu hình ảnh đó, và
ước mong
đến một ngày tôi sẽ viết nên được trọn vẹn những cảm xúc chân thực của
mình. Ở
trong mọi cuộc di chuyển, đời tôi gắn bó nhiều nhất là với con tàu. Có
lẽ, hình
ảnh đầu tiên đã ghi khắc trong trí nhớ của tôi là tháp nước, nơi ấy,
mỗi khi
tàu về đến ga thường dừng lại trong mười phút để lấy nước, rồi sau đó,
mới tiếp
tục cuộc hành trình. Ngày xa ấy, gia đình tôi còn ở Quảng Trị và căn
nhà chúng
tôi ở ngay trước con đường bên dưới phía cổng ga, nhìn đối diện sang
bên kia là
tháp nước và xa hơn một chút là rừng thưa. Từ một thuở ấy, trong ký ức
tôi đã
nghe vang dội lên những tiếng còi tàu. Vậy nên, khi trở về hay đi đâu
xa, ngồi
trên xe lửa, đó là thời gian của sự hồi ức đưa tôi trở lại nơi chốn cũ
ở thành
phố Quảng trị nhỏ bé, nơi chốn ấy, cũng là một thứ quê nhà cho lữ
khách. Đi,
bao giờ bạn cũng dễ biết mình sẽ tới một nơi nào đó xa. Và, bạn cũng
biết rồi đó,
trong đời tôi, đã đầy ắp biết bao nhiêu kỷ niệm còn hơi nóng của tuổi
thơ ,
những kỷ niệm ấy làm nên cuộc hành trình lang thang trên những con tàu
và đưa
tôi đến từng nhà ga.
Khi xe bỗng giảm tốc độ, rồi chạy chậm, tôi nhìn
thấy
phía trước có một trạm gác nằm gần cây cầu. Tối hôm qua, với một giọng
thân
tình nàng nói:
-Anh
hãy cố gắng quên em đi.
Tôi lặng im, ít giây sau nàng tiếp lời:
-Anh
quên được em, đó cũng là
lúc cuốn sách anh ước ao viết sẽ hình thành.
-Em vẫn
mang một hình ảnh
trong đó chứ.
-Không.
Hãy nên đem một ảnh
hình khác thay thế em.
-Có thể
như em nói, rồi anh
sẽ gặp.
Trong giấy nghỉ phép, tôi được đi mười ngày. Chiều
hôm
qua, tôi đi chơi phố một mình. Sau khi ghé nhà sách Lam Sơn trở ra, tôi
bỗng có
ý nghĩ muốn đi tìm nhà cô Thiên Nga. Không biết cô ở phố nào, nhưng
cũng mong
tìm nên tôi cứ lang thang qua nhiều dãy phố, tình cờ tôi buột miệng hỏi
một vài
người qua đường, nhưng rồi, không có ai hay biết cả.
Xe ngừng hẳn. Người tài xế mở cửa xe đi xuống. Viên
Cảnh
sát gác đứng chờ, lúc đến gần, người tài xế trình giấy. Viên Cảnh sát
không nói
gì, anh ta đưa mắt quan sát từ phía bên ngoài vào trong xe. Rồi anh ta
bước
chậm, mắt ngước nhìn qua từng hàng ghế hành khách ngồi trong xe.
Một lúc sau, đứng chỗ giữa xe mắt anh ta nhìn lên
phía
trần, bỗng hỏi:
-Gì
trên đó ?
-Hàng
hóa thường thôi xếp.
-Còn gì
nữa không ?
-Không.
Tôi để ý vẻ mặt người tài xế và cả viên cảnh sát
nữa.
Chắc là có chuyện không ổn với những người đi buôn. Vừa chợt nghĩ vậy,
tôi bỗng
thấy khó chịu khi thấy viên Cảnh sát tới bên cửa hông, rồi anh ta đu
mạnh người
lên. Đứng trên bậc cao của thanh sắt, anh ta đưa tay dỡ tấm bạt, vừa lục lọi tìm từng bao hàng. Cũng khá lâu, viên
Cảnh sát mới nhảy xuống.
Người tài xế đi theo anh ta vào trạm, hai người nói
chuyện gì với nhau hơi lâu, rồi họ trở ra, vẻ mặt anh tài xế không mấy
vui, còn
viên Cảnh sát giờ như có được cảm giác thoải mái với điếu thuốc hút
đang cháy
đỏ ngậm trên môi.
Vừa quay đầu vào trong, tôi bắt gặp cái nhìn cô gái.
Tôi
cảm thấy bâng khuâng thấy cô đẹp lạ lùng. Xe lăn bánh chạy, lặng yên
tôi mở tờ
báo ra đọc. Bỗng dưng tôi có cảm tưởng như cô gái định hỏi tôi điều gì
đó. Tôi
ngừng đọc, nhìn qua cô nhỏ nhẹ hỏi:
-Còn dư
một tờ, cô đọc không
?
Cô gái gật đầu. Tôi có hai tờ báo,
đưa qua cho cô một tờ.
-Báo cũ
nghe cô.
-Không
sao .
Tôi đọc tin tức trên trang nhất. Rồi sau đó, lật qua
tìm
trang trong tôi đọc lướt vài bài xong
đến mục quảng cáo.
Rất bất ngờ, tôi trông thấy cô gái đang cúi mắt chăm
chú
đọc trên trang văn nghệ có một truyện ngắn của tôi.
Với sự ngại ngần khi không muốn tự mình khoe khoang,
tôi
gấp tờ báo lại để trên đùi xong quay mặt ra ngoài.
Xe đang chạy lên đèo. Những đoàn xe đang nối nhau
tạo nên
một chuỗi biểu tượng, hình ảnh nào cũng phản hiện những dáng màu sắc
rất là
sinh động. Tôi nhìn thấy núi qua từng
tảng đá chênh vênh và nghe tiếng nước suối chảy.
Phía bên kia xa cách
biển, nhưng trong nắng, tôi cũng nhìn thấy rõ mặt biển lóa sáng, trên
biển có
bóng dáng vài con tàu đang di chuyển ra ngoài khơi. Nơi xa kia nữa, bạn
có thể
ước độ qua một tầm nhìn phóng và định hướng về phía đó là Cửa Đại.
Lên đèo xe chạy theo triền núi, nhiều vòng cua,
nhiều lối
đổ dốc, nhưng xe vẫn chạy êm không bị nhồi xóc. Hải Vân, tên con đèo
nghe dễ
thương như tên người con gái. Lúc này, tôi thực sự rung động đi tìm
những nguồn
thơ, nhưng không sáng tác, mà muốn được
dành riêng cho mình hạnh phúc nhớ lại những câu thơ hay.
Khi càng lên cao, núi và sương mù dâng một thứ khí
lạnh
trong hồn thơ Huy Cận, và hương vị ấy
len vào tâm tưởng làm tôi nôn nao. Thế rồi, từ trong âm vang của bài
thơ tôi
chợt nghe có tiếng động và hình bóng một con chim vụt bay qua cánh rừng
Bỗng dưng buồn bã không gian
Mây giăng lũng thấp một màn âm u
Nai cao gót lẩn trong mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về
Hải Vân ơi, hãy để cho tôi nghe tiếng gọi thầm như
thể đó
là tiếng của nàng.
-Anh
Thụy ạ, em luôn hiểu
anh.
-Anh
cũng có ý nghĩ như em.
Bên dưới này nhìn lên, tôi trông thấy trạm ngừng của
đỉnh
đèo xuất hiện. Đã có những chuyến xe đến sớm ngừng đỗ khách ở đó.
Cô gái đã coi xong truyện ngắn đăng ở trang văn
nghệ. Lúc
cô lật qua trang khác, giọng thân tình tôi hỏi:
-Cô
đang dạy học ở Huế ?
Với nụ cười trên ánh mắt, nhìn qua tôi, cô đáp:
-Không,
tôi đang còn học.
-Tôi
được về phép thăm nhà.
-Ông
đang ở trong quân đội ?
-Vâng.
-Ông xa
Huế lâu chưa ?
-Cũng
mấy năm rồi cô. Cô học
bên Văn khoa hay Luật.
Tôi được nghe rõ tiếng cô gái nói, giọng chậm rãi:
-Tôi
học chính bên Mỹ Thuật,
còn ở Văn Khoa mới là năm dự bị.
-Bên Mỹ
Thuật, cô học sắp
xong chưa ?
-Năm
nay là năm cuối.
-Tôi có
một người quen đang
học ở Mỹ Thuật. Thực ra, cô ấy là bạn gái của anh tôi.
-Ai đó
?, nàng hỏi tôi.
-Cô bạn
gái anh tôi tên là
Vân Oanh.
Một nụ cười rất vui trên cặp mắt, cô gái nói:
-Ở
trường Mỹ Thuật chỉ có một
nữ sinh viên thôi.
Hai người có vẻ bắt đầu thân tình với nhau trong câu
chuyện. Người lính nói:
-Tôi
chưa gặp, chỉ đọc thư
nhà nghe nói tới người bạn gái của anh mình thôi. Cô gái người xứ
Quảng, ra Huế
học về ngành Mỹ Thuật. Năm trước, tôi có về thăm nhà nhưng không gặp,
em gái
tôi nói, chị ấy về gia đình nghỉ hè.
-Vậy là
ông chưa gặp lần nào
cả ?
-Chưa.
Nhưng tôi có nhận được
thư. Từ ngày ấy, trong tôi luôn có một sự hình dung, đến bây giờ, hình
ảnh
mường tượng về cô gái vẫn đẹp, không mất đi một nét nào.
-Người
anh của ông có ở trong
quân đội không ?
-Có.
Anh tôi là Sĩ quan, vừa
mới thăng cấp Đại úy.
-Ông
thì sao ?
Người lính đáp:
-Tôi
thì rất tầm thường. Tôi
là lính bên binh chủng Không quân, nhưng làm lính thành phố cũng nhàn.
-Ông
được về phép lâu không ?
-Mười
ngày cô ?
-Hôm
nay là ngày đầu ?
-Cũng
mất hai ngày rồi.
Nắng rực sáng bên lưng đèo thật là đẹp. Ở phía trước
cũng
như sau, các đoàn xe nối đuôi nhau chạy. Và mỗi quãng đèo, cảnh vật trở
nên
đẹp, tươi lên giữa màu nắng.
Người lính hỏi:
-Cô đã
có dự cuộc triễn lãm
nào chưa ?
-Cũng
có một vài lần vào
những kỳ lễ hội hay dịp Tết.
-Năm Dự
bị, cô học bên ban
nào ?
-Ban
Pháp văn.
-Ngày
đó, anh tôi chẳng gặp
duyên may thi cử. Anh ấy thi đậu viết ở trường Sư phạm , nhưng vào vấn
đáp lại
rớt. Ở trường Văn khoa, năm Dự bị anh cũng đậu viết, nhưng cũng rớt vấn
đáp.
Cô gái nhìn qua người lính, trên mắt nàng có một nụ
cười
rất dịu hiền. Một chút sau, nàng lật trang báo, xong đưa ra một truyện
ngắn
trong đó hỏi:
-Truyện
ngắn này ông viết phải
không ?
-Đúng
đấy. Sao cô đoán hay
vậy ?
Nàng cười, bảo:
-Tôi
biết hết chuyện ông kể.
-Nghĩ
là thân tình trong
chuyến đi, tôi kể cô nghe thôi.
-Tôi
hiểu.
Xe đã lên tới đỉnh đèo đang tìm chỗ đậu để nghỉ. Hai
người ngừng chuyện, và hành khách lần lượt xuống xe. Giờ đợi đổ đèo xe
đến rất
đông, các hàng quán tấp nập khách ra vào.
Bên tôi, vẫn còn bóng cô gái. Từ đỉnh đèo cao nhìn
xuống
biển, cảnh trí rất là đẹp mắt, tôi bỗng
thốt ra lời về điều mình nghĩ.
Cô gái bỗng hỏi:
-Hồi
trước ông có học ở Đà
Nẵng không ?
-Có,
cô. Tôi có học một năm ở
trường Sao Mai.
-Cô gái
ông viết trong truyện
là nguyên mẫu ngoài đời.
-Một
cái bóng thôi cô. Viết
truyện, ai cũng tưởng tượng và hư cấu.
-Ông
còn đi học tiếp không ?
-Không,
tôi thực sự không
sáng dạ với sách đèn.
Giữa đám đông ồn ào trên bãi đậu xe, có những đứa
trẻ bán
quà rong. Một lúc sau, người lính và cô gái đi tới một quán giải khát.
Lúc ngần
ngừ dừng lại bên ngoài, người lính nói:
-Mời cô
uống cà phê cho vui.
Cô gái không đáp lời, rồi cùng người lính vào quán
ngồi ở
cái bàn nhỏ bên chái hiên. Trong quán người ta đang ăn uống và có mùi
thịt rừng
dậy lên tỏa bay ngào ngạt.
-Cô
uống được cà phê vào lúc
tối không ?
-Cũng
uống được.
-Cà phê
tôi uống lúc nào cũng
được.
Đứa nhỏ mang hai tách cà phê nóng ra. Trời ấm nắng
và có
chút lạnh. Ở nơi đây, vang âm tiếng suối bên lưng đèo thỉnh thoảng nghe
trỗi
dậy.
-Mỗi
tuần cô về thăm nhà một
lần ?
-Không
thường lắm. Thường là
mỗi cuối tháng.
Người lính nói:
-Ngày
hôm qua đi chơi phố,
trong đầu tôi có ý nghĩ muốn tìm thăm nhà người bạn gái của anh tôi.
Tôi đã
được đọc thư, hình dung ra bóng dáng và khuôn mặt của nàng. Dù chưa
gặp, nhưng
trong thư từ đã có tình thân. Bây giờ tôi phải gọi nàng bằng chị, vì
anh tôi và
nàng sắp làm lễ hỏi vào tháng tới. Tôi mong lần về này được gặp, và
cũng mong
rằng những gì mình tưởng tượng là đúng người thực ngoài đời.
Người lính dừng lời nhìn qua cô gái, thấy khuôn mặt
cô,
và trên cặp môi dễ thương đang có một vệt màu cà phê đọng lại. Trên mắt
cô gái
lại có lớp nhung rất mịn màng, và nụ cười thật là hiền dịu trên ánh
mắt. Rồi,
trong những nét ấy lại còn trải ra một vẻ buồn, thật xa vắng vừa nên
thơ.
-Ông
được coi ảnh người chị
dâu tương lai của ông chưa ?
-Chưa.
-Ông có
mong gặp người đó
không ?
-Rất
mong. Tôi nghĩ lần này
về chắc là gặp. Vì lúc này, đang là mùa học, không phải là mùa hè.
Ngồi chuyện trò với người lính, cô gái vẫn giữ nét
trang
nghiêm và khi nghe người lính nói về những cuốn sách mà anh bỏ công tìm
mua để
mang về cho cô học, cô thật là cảm động.
Hành khách rời quán trở lại xe, người lính rút ví
lấy
tiền trả, cô gái ngăn lại:
-Để tôi
trả cho.
-Tôi
mời cô mà.
-Tôi
biết. Chút nữa lên xe
mình tiếp câu chuyện.
Người lính được trở về và tìm thấy một thứ hạnh phúc
thật
êm ái trong thời tuổi trẻ của mình.
Khi xe chuyển bánh, rồi cùng chạy theo đoàn xe đang
xuống
đèo phía trước bỗng nghe vang lên một điệu nhạc hành khúc, rồi tiếng
hát bắt
đầu.
Hành khách nghe xong hết bản nhạc, vỗ tay.
Người lính quay sang hỏi:
-Ở Huế,
nhà cô ở đâu ?
Một giọng vui, cô gái cười đáp lời.
-Tôi ở
gần nhà anh Nguyên.
XIV
Khoảng quá trưa, xe đò đến Huế. Hai người chưa về
nhà,
cùng đi bộ tìm một quán ăn đầu phố cách bến xe chừng hai trăm mét.
Người lính
và cô gái cùng cảm thấy vui, giờ họ đãõ là hai chị em. Nghĩ như thế nên
cô gái
chợt cảm thấy mình lớn hẳn, nghiêm trang ra, còn người lính, anh ta
cũng thấy
vui trong cảm giác mình đang nhỏ bé lại.
-Chị
Oanh có hay ghé nhà Thụy
không ?
-Ghé
luôn mà.
-Có
chị, chắc anh Nguyên hay
về nhà.
-Thụy nói đúng. Trước khi quen mình, anh hay ở luôn
trong trại ít khi về.
-Đọc
thư của chị, lòng rất
vui. Thư đó, Thụy còn giữ. Rồi, tôi nói
tiếp: mới có một thư thôi đó.
-Một
thôi. Thư khác dành cho
các cô ở đây. À, Thụy quen Liên An lâu chưa ?
Người lính này đang yêu, nhưng không tỏ bày. Liên An
là
cánh bướm trắng, còn Thụy đang phất phơ như chiếc áo giữa vùng trời mây
tím.
Hai người vào ngay quán ăn nằm đầu dãy phố. Trưa đầy
nắng, và cái lạnh gây nên một cảm giác thú vị, vừa ấm áp.
Hai người để túi xách xuống chân, rồi kéo ghế ngồi.
Người
hầu bàn đi ra, dừng bước ngay bên bàn nghe Vân Oanh đặt món ăn cho bữa
cơm phần
hai người.
-Rồi
chừng nào Thụy mới đi
học ?
-Hết kỳ
phép này, vào trong
đó vừa đúng lúc nhập học.
-Thụy
học lái máy bay.
-Chưa,
mới bắt đầu học Anh
ngữ, thi đậu bên đây sẽ được cho đi. Qua bên đó, còn học ở trường dạy
Anh văn
thêm một khóa nữa mới chuyển qua học bay.
Vân Oanh nhìn lại tôi, ánh mắt cười biểu hiện niềm
vui.
Rồi tôi nghe tiếng nàng nói, và lúc này, đang chờ dọn bữa cơm trưa, tôi
cảm
thấy mình thật là nhỏ bé trước một người chị dâu thật là đẹp, vừa rất
đáng yêu.
Cũng yểu điệu nữa chứ, hay quá, mình nên để nàng nói, một giọng nói xứ Quảng nghe đậm đà, thân thiết, và
mình cũng đang nghĩ rằng, nàng hay biết
trong đôi mắt mình lúc nào cũng thầm lặng ngắm say sưa khuôn mặt đẹp
của nàng.
Khi bữa ăn được người hầu mang chiếc mâm nhôm ra,
rồi dọn
từng món ăn lên bàn, mùi vị thức ăn và cơm nóng làm tôi cảm thấy đói.
-Chị ở
nhà thuê chung với
bạn, hay một mình.
-Ở một
mình.
-Nhà
thuê rộng không chị ?
-Cũng
rộng rãi.
Hai người cầm đũa, nhìn nhau trong niềm vui, rồi
cùng lên
tiếng mời ăn.
-Sách
Thụy mua cho chị, có
mấy cuốn in từ bài giảng dạy ở trường.
-Cám ơn
Thụy nhiều lắm.
-Rồi
tốt nghiệp bên Mỹ Thuật,
ra trường chị có xin đi dạy không ?
-Chưa
biết, nhưng dạy học
mình rất thích.
-Rồi
trở vào Đà Nẵng, chị xin
dạy ở đó.
Với nụ cười đằm thắm, nàng ngừng đũa nhìn tôi hỏi:
-Thụy muốn mình dạy ở đâu ?
Nhìn nàng, tôi nói:
-Chị
xin ra Quảng Trị dạy
nghe.
Nàng gật đầu, ánh mắt của một phương trời.
Trong giọng vui,Thụy
nói:
-Ước
gì, cho tôi được nhỏ bé
để ngồi học lớp côVân Oanh.
-Anh
Nguyên cũng nói mình xin
ra Quảng Trị dạy để gần Huế và gia đình.
-Chị đã
có biết Quảng Trị rồi
phải không ?
-Có.
Anh Nguyên đã đưa mình
ra thăm ngoài làng quê và ngoài tỉnh lỵ.
Nhìn Thụy, một giọng vui nàng tiếp lời:
-Quảng
Trị , mình không chỉ
thấy ngoài thực tế, mà cũng rất chia sẻ với một quê hương Thụy đã viết
nhiều
trong truyện.
Tôi uống hớp nước. Một giọng tâm tình, tôi kể cho
nàng
nghe câu chuyện của tôi và người bạn gái thân thương.
Vân Oanh hỏi:
-Sao cô
ấy không muốn mình là
nhân vật trong cuốn sách Thụy viết.
-Cô ấy
không muốn muốn người
mình yêu đè nặng mối tương tư.
-Vậy là
Thụy phải tìm một
hình ảnh khác thay thế cho cô.
-Chị
nói đúng, hình ảnh đó là
muôn thuở.
-Liên
An phải không ?
-Liên
An là cánh bướm trắng,
rất mỏng manh.
-Vậy
thì ai trong đo ?
-Nàng
là một tấm áo, và với
tấm lòng quê hương cũ.
-Thụy
có thích nhân vật cô
Loan trong Đôi bạn ?
-Khi
mong tìm gặp người thân
của mình, Thụy luôn nhớ nghĩ đến Loan.
Tôi ăn rất tự nhiên. Vân Oanh cũng đói, nàng ăn
ngon. Tôi
thỉnh thoảng ghi nhận được những nét duyên dáng cũa nàng trong cách cầm
đũa
muỗng, trong cách gắp thức ăn, và mỗi miếng vừa ăn xong, tôi cũng ghi
nhận thêm
cái vẻ hay hay từ dư vị thức ăn còn lại trên đôi môi xinh đẹp của nàng.
Nỗi buồn
thật duyên dáng và tự nhiên từ hình ảnh đôi mắt có nụ cười của nàng,
ánh sáng
cứ dịu lại, nhỏ dần, và ngưng đọng rất lâu.
Nàng bỗng nói:
-Liên
An có giấy gọi đi du
học rồi.
-Chắc
cô ấy đã vào Sài Gòn .
-Chưa
đâu. Có thể về lần này
Kham sẽ gặp.
-Nhưng
sao chị biết Thụy quen
Liên An.
-Cô ấy
kể chuyện cho mình
nghe.
-Hôm ấy
Liên An nói: Về chị
Vân Oanh, biết lấy ai mà so sánh.
Vân Oanh cầm ly nước trà đá đưa lên miệng uống. Thời
tiết
trong thành phố đang bắt đầu những ngày mới mẻ vào đầu mùa đông, ánh
nắng đã
làm gương mặt Vân Oanh ửng hồng như màu chín của trái cây.
Một giọng thân tình tôi nói với nàng:
-Thụy
thực sự chưa mong điều
chi cả. Nói vậy, không hẳn đúng. Ước mong của Thụy là viết nên được một
cuốn
sách. Còn về những cô gái mình quen, đó chỉ là những kỷ niệm đậm đà
trong hương
vị của gió mùa.
-Về
phép, ghé Đà Nẵng Thụy ở
nhà ai ?
-Nhà cô
bạn.
-Cô gái
ở trong truyện Thụy
viết, phải không ?
-Vâng,
bạn gái thân lắm.
-Người
chồng của cô này, có
họ hàng bên gia đình mình.
-Vậy à
, chị.
-Anh
Nguyên hay nói về Thụy,
và mình cũng cho anh biết.
-Gia
đình cô coi Thụy như là
con, nhận làm con nuôi.
-Thế
với cô ấy là sao ?
-Hai
người rất hiểu nhau.
-Cô ấy
trước đây là bạn học
cùng lớp.
-Vâng.
Tối qua, Thu Hải cũng nói chuyện cho tôi nghe về Duy
chồng nàng. Tôi đem lời tâm sự của nàng nói với Thiên Nga.
-Gia
đình bên Duy, người nào
cũng vậy hết.
-Anh
Duy đánh bạc thua nhiều
lắm.
-Bên
nhà Duy có họ hàng với
bên má mình. Nhưng, cũng không gần gũi, ít qua lại với nhau.
Bữa ăn thong thả cùng thời gian rảnh rỗi cho câu
chuyện.
Trong im lặng, tôi và Vân Oanh dành một vài giây nhỏ cho nụ cười, và
trong thâm
tâm nàng biết, tôi thật ngưỡng mộ nàng, vì thế, nàng cũng thật vui tạo dáng cho mình thành người mẫu để cho tôi
thật vui trong cặp mắt khi được ngắm nàng.
Tôi bỗng nói:
-Hình
ảnh Vân Oanh vẫn nguyên
vẹn trong trí tưởng.
-Nghĩa
là sao ?
-Buổi
chiều ấy, em Nhi nói về
Vân Oanh, câu chuyện kể ấy đã cho Thụy hình dung về bóng dáng một thiếu
nữ, và bây giờ, sự không ngờ gặp đã thấy
rõ nét người trong trí tưởng vẫn là người của nguyên mẫu.
-Chắc
không ? Sao mà có ý
khen mình vậy ?
-Cái
đẹp của Vân Oanh rất
thuần khiết, đúng là hình ảnh của văn chương .
-Những
nhân vật trong truyện
của Thụy đều có thực ở ngoài đời.
Câu chuyện của hai người nghe thật thú vị qua giọng
nói,
vừa thân mật, vừa chất chứa những cảm tình trong sáng.
Vân Oanh ngừng ăn, cầm ly nước đưa lên miệng uống.
Tôi
cũng muốn ngưng, nhưng còn lại ít cơm trên dĩa, tôi ăn nốt cho hết.
-Chiều
nay chị có đi đâu
không ?
-Không,
ở nhà.
-Anh
Nguyên về, tối đi uống
cà phê.
Vân Oanh gật đầu. Người đàn bà ngồi ở quầy tính tiền
đưa
mắt nhìn ra cửa. Bên ngoài, nắng tràn qua những mái nhà, trên con
đường, tiếng
động xe cộ qua lại vang lên thật đều đặn.
Thụy quay đầu nói:
-Cho
tính tiền chị ơi.
Vân Oanh ngăn lại:
-Để
mình trả.
Thụy mỉm cười, lắc
đầu. Khi rời quán ra đường, Thụy nói:
-Lần về
phép này, Thụy lãnh
được tiền nhuận bút cho hai truyện ngắn.
-Họ trả
nhiều không ?
-Mỗi
truyện được bảy trăm.
Báo ngày, báo tuần trả không nhiều. Ở tạp chí, nhuận bút đến 2000, khá
lắm.
-Sao
Thụy không gởi truyện
cho tạp chí.
-Khi
nào cảm thấy mình viết
thật khá, lúc ấy Thụy mới gởi.
-Truyện
Thụy viết có nhiều
cảm xúc lắm.
-Mình
phải đi từng nấc thang.
Và muốn viết khá, cần đọc nhiều. Khi Thụy gởi truyện cho tạp chí đó là
lúc, chị
coi Thụy là nhà văn được rồi.
-Bây
giờ gọi nhà văn không
được sao ?
-Chưa.
Bao giờ truyện Thụy
viết hay, và đẹp như hình ảnh Vân Oanh , lúc ấy hẳn gọi.
Với ý tưởng ấy, giọng nói vui của tôi tình cờ luồn
vào
cơn gió hất tung chiếc chiếc áo dài tím Vân Oanh bay lên. Nàng đưa một
tay ra
cầm giữ, nhìn phía trước, tôi trông thấy có một bóng người khách đứng
chờ ở
trạm xe buýt.
Khi đến đó, chúng tôi cũng đợi. Trạm xe búyt cách xa
bến
xe đò chừng hai trăm mét, và từ chỗ chúng tôi đứng, nhìn một quãng xa
trông
thấy ngôi nhà thờ, Trước nhà thờ là bức tượng lớn Đức Mẹ vươn lên cao
khỏi bóng
nắng.
-Năm
đầu tiên đến Huế, gia
đình ở trong vùng này, căn nhà nằm trông ra con đường nhỏ bên trái khu
nhà thờ.
Vân Oanh hồi tưởng lại thời thơ ấu, nàng kể một câu
chuyện vừa thực, vừa trẻ thơ. Tôi bỗng
nghĩ đến cô Mỵ Châu, qua gương mặt ấy là dáng nét của thiên thần.
Xe buýt đến. Ba người khách lên xe. Người khách kia
với
dáng vẻ một công chức, trong lúc chờ xe, hai chúng tôi trò chuyện còn
ông ta
đọc báo, vừa hút điếu thuốc.
Xe chạy nhanh. Tôi trông thấy ngôi nhà thờ và thấy
bóng
dáng căn nhà cũ tôi ở ở con đường bên cạnh. Trong phút giây này, Huế làm tôi ngập ngừng, vừa xa lạ.
Xe buýt đỗ khách ở trạm nhà ga. Nhiều khách đứng ở
đó đợi
xe, chỉ có hai người xuống bến là tôi và Vân Oanh.
Không về nhà ngay, tôi theo Vân Oanh đến nhà nàng.
Từ ga
đi bộ tới nhà nàng hơn trăm mét. Con đường Huyền Trân nằm ven theo dòng
sông.
Tôi trông thấy dòng sông, cây cầu, và ngôi trường cổ giống như tu viện
bên kia
sông.
Lối cổng sắt mở rộng, nhà thuê Vân Oanh cuối dãy
cạnh đó
có mấy cây nở hoa trắng và tím thật đẹp. Khi Vân Oanh lấy chía khóa mở
cửa tôi
đưa mắt nhìn qua bờ tường, nhìn cảnh sân trước nhà, và bên ngoài là con
đường
dưới nắng ven theo dòng sông.
Vừa bước vào nhà, Vân Oanh nói:
-Ngồi
nghỉ đi, mình làm nước
chanh cho uống.
Vân Oanh đi vào nhà trong. Tôi ngồi xuống chiếc ghế
ở
phòng khách, túi xách để bên cạnh chân. Nắng ngoài sân tràn vào phòng
qua cửa
lớn mở rộng, tôi cảm thấy có chút bâng khuâng về người chị dâu đẹp và
thương
mến của mình. Trong phòng khách bày biện giản dị, có mấy bức tranh vẽ
treo trên
tường.
Một lúc sau, Vân Oanh trở ra với khay nước và bộ
quần áo
mặc thường.
-Chị
thuê chỗ này, có đắt
không ?
-Không.
Bà chủ đây là người
rất tử tế, phúc hậu.
Tôi nhìn bao quát căn nhà. Vân Oanh nhắc:
-Uống
nước đi.
-Mời
chị.
Tôi và nàng cùng cầm ly nước chanh uống một hớp nhỏ.
Lặng
yên, tôi kéo túi xách mở ra, và lấy những cuốn sách đã mua theo lời dặn
của anh
Nguyên.
Tôi để gói sách trên mặt bàn.
-Chị mở
ra đi.
Vân Oanh mở gói giấy một cách cẩn thận. Trong gói
mặt
trên là những sách về văn học, bốn cuốn, còn mặt dưới là những tập bài
giảng in
ronéo.
Trong lúc nàng xem qua các bài giảng, tôi nói:
-Thụy có người bạn đang học trên Văn Khoa. Những
bài giảng này anh ấy học năm trước còn giữ, tặng cho Thụy, tiện mang về
cho
chị.
-Hay
quá.
Với những sách học rất cần, và các bài giảng thật là
hữu
ích, Vân Oanh chăm chú, cúi mắt tìm kiếm trên đó một sự chờ đợi cho
thời gian
học của mình. Tôi ngắm nhìn dáng vẻ của nàng, mái tóc thả vai, gương
mặt đẹp,
rất dịu hiền, hòa nhã.
Khi ngẩng mặt lên, nhìn tôi, nàng cười.
-Uống
nước đi.
-Mong
là anh Nguyên về chiều
nay, tôi nói.
-Chiều
nay anh về.
-Uống
nước đi rồi qua xem
tranh.
Một lúc sau, Vân Oanh đứng dậy. Tôi cũng đứng lên,
rồi
bước theo nàng qua phòng bên cạnh.
Vừa nhìn thấy căn phòng và tranh vẽ
xuất hiện, tôi thốt lên;
-Đẹp
quá. Chị có máy ảnh đó
không ?
-Không
có.
-Có máy
ảnh thì hay nhỉ.
Những bức tranh chị vẽ Thụy muốn chụp. Và, có cả cô họa sĩ nữa, phải
không ?
-Có rồi
Thụy , cả phòng tranh
này anh Nguyên đã dành cho mình nguyên một cuốn album.
-Thật
là tuyệt với.
-Sao,
thấy tranh mình sáng
tác được không ?
-Bức
tranh nào cũng có một
khuôn mặt hạnh phúc, tôi nói.
Vân Oanh mỉm cười. Khi hai người bước chậm bên nhau
cùng
xem tranh, nàng cũng đã cho tôi chút hương thơm nhan sắc của nàng.
Một hồi lâu, tôi lặng im không nói gì. Nàng hỏi:
-Có gì
mà băn khoăn vậy ?
Tôi nhìn về phía khoảng tối bên trong, bỗng nói:
-Sao
Vân Oanh không vẽ bức
chân dung của mình.
-Đó tác
phẩm cuối đời.
-Sao
không vẽ ngay bây giờ.
-Không,
không nên vẽ.
-Nhưng
dù vậy, có người đã vẽ
rồi.
-Ai vẽ,
thực không ?
Hai người trở qua
lại phòng khách. Ánh nắng từ ngoài sân tràn vào dâng cả vùng sáng, làm
mềm dịu
mái tóc thiếu nữ. Nàng như hiểu được ý Thụy đã nói ra với nàng, nhưng
đó là của
trí tưởng tượng in bóng cho mình, chứ không thể nào anh vẽ nên được bức
chân
dung cho nàng. Vì rằng, anh không có chút năng khiếu nào về hội họa.
Nếu anh có
, anh không chỉ vẽ một bức chân dung của nàng thôi, mà nhiều , rất
nhiều.
Nhìn vẻ mặt buồn của Thụy, nàng hỏi:
-Đang
nhớ Ninh Hà hay Liên An
?
Trên tường, chiếc đồng hồ trỗi ngân lên nhiều tiếng
nhạc
lúc quả lắc đun đưa.
Phần
Thứ Ba
I
Trong lúc chờ khai
giảng, tất cả khóa sinh ngành phi hành vừa mới được tuyển đều phải qua
một kỳ
thi trắc nghiệm khả năng Anh ngữ, nếu một bạn nào đạt số điểm 80 ECL sẽ
thi lần
thứ nhì, và số điểm này vẫn lấy được thì sẽ được bay nhanh sang Hoa Kỳ
sớm để
học bay. Hai ngày thứ năm, thứ sáu là hai ngày thi tại địa điểm trường
Sinh Ngữ
Quân đội nằm trên đường Nguyễn Trãi, Chợ Lớn. Bài thi gồm 120 câu,
trong đó có
40 câu hỏi về văn phạm. Thụy ở đợt thi ngày đầu, anh làm bài được nhưng
không
mấy tự tin.
Thời gian học Anh ngữ được ấn định 6 tháng với bộ
sách
American English Course gồm 10 cuốn, mỗi cuốn học từ ba đến bốn tuần lễ
, rồi
qua các kỳ thi lên lớp, đến lớp cuối cùng sách 2400 là bắt đầu dự kỳ thi lấy điểm chuẩn xuất ngoại.
Bây giờ đây , hơn 800 khóa sinh đã về trình diện đủ
vẫn
còn được Tổng Hành Dinh điều động. Số này chia ra rất nhiều toán,
thường ngày
làm công việc trực gác vòng đai, hoặc phụ việc về hồ sơ ở các phòng ban thuộc Bộ Tự Lệnh.
Thụy đã trở về đơn vị sau kỳ nghỉ phép mười ngày, và
đây cũng là lần đi thứ nhì kể từ ngày
anh vào lính. Trong chuyến phép vừa qua, Thụy có một ngày ghé Đà Nẵng
thăm gia
đình Ninh Hà, được gặp lại nàng. Anh thật hạnh phúc với từng giây phút
bên
nàng, được nàng cho anh nhìn say đắm một khuôn mặt đẹp và buồn của
người thiếu
phụ, được nghe tiếng nàng nói, và từ đôi mắt yêu dấu, anh cũng đã tỏ lộ
cho
nàng hiểu rằng anh vẫn yêu nàng.
Ngày ở chơi Đà Nẵng, Thụy cũng mong tìm nhà hay được
thấy
Vân Oanh, nhưng cũng có cơ duyên, ngày hôm sau anh tình cờ gặp nàng
trên chuyến
xe khách từ Đà Nẵng đi ra Huế. Sự gặp gỡ thật là bất ngờ, ngạc nhiên
đến thú
vị, và Thụy nhận ra rằng khung cảnh trữ tình của mặt biển, mây núi
giăng trên đèo
không thể gây nên ấn tượng thiết tha bằng chiếc áo dài tím của Vân Oanh.
Rồi bao nhiêu ngày ở Huế với sự thân thương đầm ấm
của
gia đình, bóng dáng Vân Oanh thấp thoáng , chan hòa. Mỗi giờ khắc trong
buổi
sáng hay chiều, Vân Oanh và Thụy ở bên nhau trao đổi nhiều câu chuyện
rất đáng
ghi nhớ, và hai người thật là tâm đắc. Không quá suy xét chọn lọc, mỗi
lần Vân
Oanh tạo dáng là Thụy tìm ra một nét đẹp riêng của nàng. Và cứ như thế,
anh ghi
lại dễ dàng từ Vân Oanh một khuôn mặt trái soan, một mái tóc như bài
thơ, còn
ánh mắt nàng luôn mang một vẻ buồn thiếu nữ, đó là màu ánh sáng buổi
chiều in
dấu trên nhung lụa. Khi anh nói nàng đúng là người mẫu, đáp lời, nàng
ngồi im
lặng như
tranh vẽ chân dung để cho anh ngắm nàng.
Hết mười ngày phép, Thụy lại ra đi. Nơi thành phố
ấy,
đằng sau lưng anh giờ đây mái nhà ở và
những người thân trong gia đình là của nàng. Hãy cứ gọi như thế, mới
thấy rằng,
hạnh phúc thật quí hiếm. Năm nay cũng là năm cuối của Vân Oanh ở trường
Mỹ Thuật.
Tới hè, nàng thi lấy bằng tốt nghiệp. Thời đi học, ai cũng có những kỷ
niệm
đẹp. Vân Oanh sẽ lấy làm vui, rất vui trong thời gian nghỉ hè được trở
về với
gia đình ở Đà Nẵng. Một mùa hè thong thả, nàng sẽ dành nhiều thời gian
để vẽ
tranh, hay viết thư cho bạn bè ở xa, và thế nào cũng có một lá thư dành
cho
Thụy. Vào mỗi buổi tối, nàng sẽ ở bên Mỵ Châu, cô em gái yêu thương của
nàng,
và nàng sẽ nói rất nhiều lời tâm sự.
Chỉ vừa mới khoảng hơn hai tháng, vậy mà Thụy cứ
tưởng
mình rời xa đơn vị lâu lắm rồi. Lòng Thụy cũng đang rộn ràng trong ước
mơ được
trở thành người phi công. Có lúc, anh buông thả đời mình bằng trí tưởng
tượng,
nhưng rồi trở về thực tế, suy nghĩ trong mỗi lần cân nhắc, Thụy thấy
mình có
những điều lo ngại. Thời gian đi và đến sẽ như thế nào, mộng ước thành
hay tan
vỡ, tất cả hoàn toàn không do chính anh quyết định. Thụy vẫn thấy mình
còn lơ
lửng. Khi nghĩ đến chuyện thi cử, phần nào Thụy cảm thấy cay đắng. Bởi
thế,
trong lúc này anh vẫn cứ băn khoăn về một ngày nào đó trong tương lai.
Nếu là
hiện thực, Thụy sẽ trở thành một phi công và anh được tham dự vào cuộc
chiến
tranh cùng đồng đội. Rồi từ đó, anh hẳn phải gắn bó cuộc đời quân ngũ,
trong ý
nghĩa người phi công thời chiến. Cái đẹp trong tiểu thuyết luôn luôn là
niềm mơ
mộng, dễ thương. Khi thực sự là người phi công, Thụy nghĩ đến hơn tất
cả là
trách nhiệm của mình qua từng phi vụ trong mỗi ngày hoặc đêm. Anh sẽ cố
tự nhủ,
mình là phi công không phải chỉ muốn khoác áo cái vẻ lãng mạn, hào hùng
giữa
mây trời, rồi để làm thơ, hoặc viết tác phẩm văn chương. Khi mong tìm
hoặc mơ
mộng về những thiếu nữ xinh đẹp, trong tâm hồn Thụy luôn có hình ảnh
Phượng.
Thế nhưng, anh vẫn chưa gặp hình ảnh nàng qua một ai đó ở ngoài đời. Kỳ
nghỉ
phép vừa qua anh được gặp Vân Oanh, thực sự thương mến nàng, nhưng anh
cũng
phải đi xa để viết thư cho nàng đọc, rồi những lá thư ấy sẽ nói anh là
một
người bạn trẻ rất đồng cảm về những sắc
thái nghệ thuật của nàng từ sự sáng tạo đến cuộc sống. Tối hôm đó, anh
Nguyên
dẫn đi uống cà phê ở trong khu Thành Nội. Trời đêm lạnh, nhưng ánh
trăng ngập
sáng cả cung điện hoàng thành. Chiếc bàn gỗ và ghế thấp, Thụy vừa nghe
tiếng
Vân Oanh nói , vừa ngắm nàng. Về sau, nàng nói với anh, đó là lần đầu
tiên nàng
nói chuyện về gia đình của mình.
Trước ngày Thụy đi, bên nhà anh làm một bữa cơm
thịnh
soạn trong gia đình, món ăn ngon nhất là mì Quảng tự tay Vân Oanh nấu.
Xong bữa
ăn, anh Nguyên chụp ảnh cho Thụy và cả nhà. Rồi đến lượt Thụy, anh cũng
chụp
được cho hai người, anh Nguyên và Vân
Oanh những bức ảnh rất nghệ thuật.
Từ Huế, Thụy đi Sài Gòn bằng chuyến phi cơ C130. Mưa
nặng
hạt lúc máy bay cất cánh. Khi qua khỏi vùng mây con đèo và biển ở Hải
Vân, bầu
trời mới quang đãng trở lại, và máy bay
về đến Sài Gòn sau 1 giờ 40 phút bay.
Về lại Sài Gòn Thụy ở tạm nhà dì Hồng, từ hôm ấy đã
qua
đi một tuần lễ khóa học vẫn chưa bắt đầu . Mỗi ngày, hết phiên trực
gác, có lúc
Thụy ngồi quán cà phê đấu hót với bạn bè, có lúc nhảy dù ra ngoài chơi
phố. Vào
ngày nghỉ, anh dành thì giờ cho một số công việc làm: giặt giũ quần áo,
viết
thư, và luôn sáng tác truyện ngắn. Khi nào viết xong, ngày hôm sau Thụy
tìm đến
ngay các tòa soạn tuần báo gởi đăng để kiếm tiền nhuận bút. Những gì
Thụy viết
lúc này là cốt kiếm chút tiền để chi tiêu và cơm nước. Anh chỉ ở tạm
nhà dì
Hồng, còn đến bữa anh thường ra ăn ngoài. Rồi ăn xong, Thụy thường đi
chơi phố
, la cà dọc theo con đường có những quầy hàng bán sách báo cũ. Lúc nào
có mặt ở
đây, Thụy cũng mua được ít cuốn sách truyện hay, giá rẻ.
Buổi chiều hôm nay, trời Sài Gòn thật đẹp. Thụy đang
rảo
bước, bỗng nghe tiếng gọi tên, nghe đến lần thứ hai anh mới dừng bước.
Liên An mặc áo dài trắng, nàng vội băng qua đường,
hình
ảnh đó Thụy ghi nhớ mãi. Tới gần, nhìn thấy nhau, trên gương mặt Liên
An hiện
rõ một niềm vui. Rồi nàng nói:
-Em
mong gặp anh.
Chiếc túi giấy Thụy đang cầm có hai cuốn sách cũ mới
mua
xong. Hai người bên nhau, ngược con đường đi lên phía rạp hát. Ngôi nhà
thờ ở
xa thấp thoáng ánh sắc đỏ của màu ngói và cả một vùng nắng sáng lòa,
tỏa rộng.
-Anh
mới về phép thăm nhà.
-Anh có
gặp chị Vân Oanh
không ?
-Có.
Thụy kể lại cho Liên An nghe về chuyến đi hôm ấy
cùng Vân
Oanh từ Đà Nẵng ra Huế.
-Bất
ngờ như vậy, hay quá. Có
thể thành nên một câu chuyện hay để anh viết.
-Vân
Oanh, bây giờ là chị dâu của anh.
-Em
biết.
Khi Thụy đưa Liên An vào quán Cái
Chùa, bà Huyền Chi trông thấy, mỉm cười. Quán
đông khách, nồng lên mùi khói thuốc, và lúc đứng chờ Thụy cũng có ý tìm
gặp bạn
quen. Ở bàn trong cùng có ba người khách rời ghế, Thụy liền nắm tay
Liên An kéo
đi.
Người hầu bàn đến, chờ ông ta dọn dẹp xong, Thụy nói:
-Hai cà
phê.
Liên An nhìn Thụy, nàng nói:
-Em
thấy lúc này anh khỏe ra.
-Ngày
anh về Huế không có
Liên An.
-Chị
Vân Oanh ra sao ?
-Anh
Nguyên và chị sắp làm lễ
hỏi.
-Em
biết.
Hai ly cà phê mang ra. Thụy bỏ vào ly của Liên An
hai
viên đường.
-Anh
cho thêm một viên nữa.
Thụy bỏ thêm cho Liên An, còn bên anh hai viên là đủ.
-Anh về
thăm nhà vui không ?
-Anh có
mười ngày với Huế,
nhưng đi đâu cũng không tìm thấy em.
-Ngày
mai em lên đường.
-Em đi
chuyến bay sáng hay
chiều ?
-Ban
đêm anh, 12 giờ đêm.
Khi đặt tách cà phê xuống dĩa lót, Thụy đốt điếu
thuốc.
-Em
uống cà phê giờ này, sợ
mất ngủ không ?
-Không,
em cũng thích cà phê.
Người lính thở nhẹ làn khói. Những sợi khói mỏng
lãng
đãng trước đôi mắt Liên An. Với ánh mắt ngập ngừng trong dáng vẻ nghiêm
trang,
Liên An ngồi đó nhìn Thụy, mỗi lúc tưởng như trong cái nhìn ấy, những
điều gì
nói được với nhau dần dần thể hiện rõ. Liên An thật chỉ muốn dành cho
Thụy một
hình ảnh áo trắng. Thụy chợt nghĩ đến Huê. Rốt cùng, anh vẫn một mình,
trơ
trọi.
Tự nhiên Thụy giật mình lúc nghe tiếng Liên An hỏi.
Vừa
ấp úng, anh đáp:
-Không,
không có ai cả.
-Đừng
có giấu em, nàng cười.
Vừa thấy người hầu bàn đi ngang, Thụy gọi lấy thêm
bánh.
-Hai
cái.
-Không,
một thôi.
Khi dĩa bánh mang ra, Thụy để dành cho Liên An.
-Anh ăn
đi.
-Anh
muốn nhìn em ăn.
Cà phê đã nguội, nhưng uống vẫn ngon.
Liên An ăn bánh. Thụy bắt đầu cảm thấy dễ chịu, và
nói:
-Anh về
phép được mười ngày,
những ngày ở Huế thật vui.
-Anh có
ra Quảng Trị không ?
-Không,
lần này chỉ ở Huế.
Bữa cơm thân mật trong gia đình có Phương nữa. Vân Oanh làm món mì
Quảng, hôm
đó, vắng mình em thôi. Nhi nói cho anh hay sách vở học của em và
Phương, cô
hưởng hết.
Liên An cười. Trên dĩa, chiếc bánh còn một nửa.
-Em có
viết thư cho anh đọc
không ?
-Không.
-Em qua
Mỹ, học bao nhiêu năm
?
-Bốn
năm.
-Em ở tiểu bang nào ?
-California.
Thụy nói với Liên An:
-Nếu
anh được gởi đi học, anh
sẽ ở bên Texas.
-Anh
cũng sắp đi Mỹ.
-Anh
xin đi học về ngành hoa
tiêu. Nhưng khóa học thì vẫn đang chờ.
-Anh mà
đi, nhớ cho em hay.
-Em nói
không viết thư cho
anh đọc mà.
Nàng bảo:
-Anh
đừng làm bộ ngây thơ.
-Anh
lúc nào cũng tin lời
người khác, nhất là em.
-Em
cũng giống như Phương
thôi.
-Em nói
không đúng. Em là
người ở phương xa.
-Không
chính xác. Em là người
sắp đi tới phương trời xa.
-Liên
An bắt đầu lãng mạn
rồi.
Liên An cười, ánh sáng trên đôi mắt khép lại như
giấc mơ.
Không ăn nốt phần bánh còn lại, nhưng cà phê cô gái
uống
hết.
Và, Liên An đưa tay ra ngăn lại không để cho Thụy
trả
tiền.
Ra ngoài đường phố, buổi chiều Sài Gòn trời thật đẹp.
-Nếu
trời thình lình đổ mưa,
em có đón xe về nhà không ?
-Không
đâu, em ở bên anh hết
buổi chiều nay.
Hai người đi lên phía khu nhà thờ. Bên phải nhà thờ
là
nhà Bưu diện, bên trái có một hiệu sách. Lúc nãy, khi quay đầu về phía
trong
quầy có cửa kính, Thụy trông thấy bà Huyền Chi. Bà chỉ nhìn anh, và có
lẽ bà
còn nhìn theo anh và Liên An lúc hai người đi ra phía cửa chính.
-Thời
gian anh đi học lâu
không ?
-Anh
chưa biết. Nhưng khoảng
chừng hai năm.
-Em mới
nhận được thư của
Ngọc. Sáu tháng nữa, anh ấy về nước.
-Anh
Ngọc đang ở đâu ?
-Texas,
anh qua sớm sẽ gặp
Ngọc.
-Anh sẽ
nói gì với Ngọc, nếu gặp.
-Anh kể
chuyện về anh, và có
những lần gặp em, ở Huế, rồi Sài Gòn.
-Anh và
em, còn nhớ nghĩ đến
nhau không ?
-Luôn
luôn.
-Nhớ
thôi, không có chờ đợi.
-Không.
Nhưng anh không có gì
để làm em quên anh cả.
-Vậy
anh chỉ có một tình yêu
em gái thôi.
-Anh
nói đúng.
Khu nhà thờ với dáng màu ngói đỏ và nơi đây lá cuối
mùa
thu rụng xuống hết trên các lối đi và trên vỉa hè. Thụy đưa Liên An tới
phía
công viên có cỏ, rừng cây, nằm đối diện với dinh Độc Lập.
-Em có
hay chụp ảnh không ?
-Cũng
thích lắm.
-Không
có chiếc máy ảnh cho
anh chụp em một vài tấm kỷ niệm.
Buổi chiều chợt trở lạnh. Liên An và Thụy ngồi xuống băng ghế. Hai người bên nhau nhìn
quang cảnh phố, nhìn màu cỏ xanh tươi và những hàng cây trong công viên.
-Liên
An đã làm lễ hỏi chưa ?
-Chưa,
anh.
-Rồi
Ngọc, còn chờ đợi Liên
An về nước.
Cô gái gật đầu.
-Anh
vẫn nghĩ mình xa lạ với
em.
-Em
không phải là người anh
mong đợi. Em biết.
-Anh
không có một ai hết.
-Em
biết.
-Nhưng,
anh không nghĩ mình
là bơ vơ, đơn độc.
Liên An nhìn qua Thụy:
-Anh
chỉ giữ mãi ảnh hình của
Ninh Hà.
-Người
bạn học của anh thời
trước. Anh không có gì về kỷ niệm với người bạn ấy.
-Có
chứ, anh đừng giấu em.
-Có,
trong tiếng nói của
người bạn.
-Em ở
bên anh lúc này, anh
cảm thấy vui không ?
-Anh
thấy rất vui. Liên An là
buổi chiều của anh.
-Em
luôn nhớ đến anh.
-Biết
đến bao giờ anh gặp lại
em.
-Thời
gian sẽ nhắc nhở cho
anh hay.
Đôi mắt Liên An nhìn lâu vào gương mặt Thụy. Và,
nàng mỉm
cười. Lúc này bên anh, nàng muốn kể cho anh câu chuyện giữa nàng và
Ngọc. Nàng
lại nghĩ, kể xong hết chuyện, Thụy sẽ
không có chút gì ngạc nhiên, cũng không tự so sánh để ôm lấy mối mặc
cảm. Dù
sao, Thụy đã là một người lính.
Sự ra đi của anh Châu ngày ấy gây cho tôi một nỗi
buồn,
quyến luyến. Những ngày đầu, tôi rất nhớ đến anh. Tôi nhớ những buổi
tối có
trăng ngồi đánh cờ, chuyện trò với anh, nhớ tới
những cuốn sách của anh đưa cho tôi đọc. Và , lại
còn tình thân của anh
cho gia đình tôi nữa, tôi rất thích những chuyện anh kể về Hà Nội, về
những
tỉnh lỵ, những vùng quê miền Bắc. Tôi luôn coi anh như là người anh cả.
Trưa hôm ấy, nằm nghe
cơn mưa xuống thật nhẹ mát, tôi đọc lại cuốn truyện
Bướm Trắng của nhà
văn Nhất Linh. Cô Thu trong Bướm Trắng đã cho tôi hình dung một thiếu
nữ đẹp,
sắc nét, rất có thể rồi đây tôi sẽ gặp một cô gái giống như thế ngòai
đời. Tôi
đọc xong trọn chương đầu, cảm thấy buồn ngủ rồi buông sách. Tôi ngủ
ngon giấc
và nằm mơ thấy Ninh Hà. Nàng và tôi ngồi trong lớp học ồn ào, đông bạn
bè vây
quanh. Các cô bạn mặc nhiều màu áo khác nhau, chỉ có Ninh Hà mặc áo dài
trắng.
Lớp học đang giờ nghỉ, học sinh nói chuyện, và hầu như ai cũng chú ý
đến chúng
tôi. Một lúc sau đó, Ninh Hà và tôi lên ngồi trên bàn học cạnh bên
nhau. Tà áo
dài của nàng lấp qua một bên. Nàng đưa tay qua kéo tôi lại gần, rồi lúc
đó,
nàng hé môi. Tôi cúi xuống đặt môi hôn, vừa ôm nàng. Tôi cảm thấy cả
môi tôi và
nàng cùng thơm một thứ vị ngọt trái cây. Tôi ngửi được cả hương vị thơm
như gạo
mùa nơi chiếc áo trắng nàng mặc. Hai chúng tôi vẫn quấn quít trong cặp
môi hôn,
không rời nhau. Chiếc áo trắng Ninh Hà mặc đã làm tỏa ngập ánh sáng
khắp căn
phòng.
Khi tôi thức giấc, trời tạnh mưa. Chiếc đồng hồ để
trên
bàn học chỉ 3 giờ. Tôi ngồi dậy trong yên lặng, sau đó đi rửa mặt, rồi
trở về
phòng thay quần áo. Tôi mặc chiếc áo sơ mi màu nâu đậm, quần vải kaki
vàng nhà
binh. Tôi mở ngăn ví, thấy có ít tiền còn ở ngăn giữa.
Đường Trưng Nữ Vương bắt đầu từ Viện Cổ Chàm chạy
qua khu
chợ Mới và lên thẳng đến vòng đai phi trường. Nhà dì tôi ở quãng giữa,
cách ngã
ba đường đi ra phía biển chừng vài chục mét. Ở khu dưới này chỉ có một
ít nhà
xây, còn hầu hết là những xóm nhà lao động. Quán ăn, quán giải khát
cũng mọc
lên nhiều. Vào sáng thứ bảy, chủ nhật, con đường đông khách ăn, vì các
quán bán
món ăn bình dân ngon và rẻ. Từ ngày ở Đà Nẵng, tôi đâm ra ghiền món mì
Quảng.
Món ăn này đặc biệt của người ở miền trong này, và khi bạn đến đây, ghé
quán mì
Quảng, bạn sẽ thấy món ăn hấp dẫn, no và ngon miệng. Đó là những sợi mì
dai và
dày bỏ vào trong cái tô có rau, thịt kho ba chỉ, bánh tráng, đậu phụng.
Khi bạn
đói, có thể bạn ăn đến hai tô là thay thế cho bữa ăn trưa hoặc tối. Ở
thành phố
này những quán bán mì Quảng mở từ sáng
sớm đến chiều tối.
Buổi chiều vang lên giữa hư không tiếng còi tàu vọng
từ
bến Cảng. Tôi hình dung thấy một con tàu đang rời bến. Ngày mai tôi ra
Huế.
Ngày mai, tôi về lại với gia đình. Còn lại buổi chiều nay cho tôi nhớ
đến Ninh
Hà. Trong giấc ngủ tôi mơ thấy nàng và giờ đã tan biến. Nhưng mà nàng
vẫn còn
đi từng bước chân qua trí tưởng của tôi. Tôi bỗng liên tưởng đến một
tên gọi xa
xăm.
Tôi đạp xe ngang qua khu công viên, đối diện với
trường
tôi học. Bên trong sân trường, có một số học sinh đang chơi bóng chuyền.
Gió thổi mát. Tôi dừng xe trước nhà Ninh Hà. Cửa
hiệu
luôn có khách ra vào mua các lọai mỹ phẩm. Tôi nghĩ là nàng có ở nhà.
Nếu như
có Duy vào, rất có thể giờ này nàng ở nhà Duy trong căn phòng riêng của
chàng.
Duy và nàng đã gắn bó nhau cả tâm hồn và thể xác. Tôi có ý nghĩ, thân
xác của
hai người luôn đầy đủ, có lúc dư thừa. Và, họ sẽ nói gì với nhau ngòai
chuyện
thân xác. Trên gương mặt Ninh Hà, tôi luôn nhận ra, nàng có một đời
sống riêng,
một câu chuyện riêng mà Duy không thể biết. Tiếng nói của Ninh Hà khi
dành cho
tôi như biểu hiện điều đó.
Hai khách hàng rời cửa hiệu. Vừa lúc thấy tôi xuất
hiện,
ông Kha vui vẻ kêu lên. Tôi lên tiếng chào ông và bà Uyên.
-Cậu
ngồi chơi. Tôi trở lại
bây giờ.
Tôi đáp dạ, ngồi xuống chiếc ghế rộng cầm tờ báo
đọc. Ông
Kha trở lên nhà, ông có vẻ thỏai mái sau công việc vừa mới pha chế hàng
mỹ phẩm
xong.
Ông đưa gói thuốc mời tôi một điếu. Tôi cầm lấy, mồi
lửa
từ cây diêm vừa bật cháy. Có tiếng nhạc từ trên căn gác vọng xuống.
Tiếng hát
Thái Thanh nghe rõ và trong.
Về đây khi mái tóc còn xanh xanh
Về đây với màu gió ngày lang thang
Tôi lắng nghe đến khi tiếng đàn đệm bản nhạc buông
dần,
rồi tiếng hát ngưng. Sau ít giây còn xúc động, tôi định thần trở lại,
vừa lúc
ông Kha hỏi:
-Các
trường có nghỉ lễ Phục
Sinh không ?
-Dạ có.
Ngày mai cháu ra nhà.
Cửa hiệu chiếm hết một nửa phòng khách với nhiều tủ
kính
nhỏ dựa lưng tường. Ở ngòai mái hiên, một cái tủ lớn bày hàng và có bán
cả
thuốc lá.
Khi chị giúp việc đem lên hai cái ly lớn có nước đá,
vừa
nghe giọng mời, tôi đóan chừng chị là người ngòai quê tôi.
Bà Uyên nói:
-Cậu
đây là người ở Quảng
trị.
-Chào
cậu.
-Chào
chị.
-Ở
Quảng Trị, cậu ở ngay
tỉnh.
-Dạ,
ngay tỉnh.
Ông Kha rót bia vào hai ly.
-Tôi ở
Trường Sanh, chị nói.
-Trường
Sanh gần Hải Lăng,
quê nội của tôi.
Chị giúp việc tên Trà. Nói qua chuyện ít câu với
tôi,
xong chị xuống nhà. Ở cửa hiệu, thường có hai người đến giúp việc vào
ngày
thường trong tuần. Công việc của họ là súc rửa chai , rồi cho hàng vào
chai và
dán nhãn.
Tôi cầm ly bia uống một ngụm đầy. Ông Kha nói:
-Các
ông Tướng làm Cách Mạng
bị quản thúc hết.
-Các
ông bị đưa lên Đà Lạt.
-Tình
hình vẫn chưa yên ổn.
-Bây
giờ, ông Khánh được Mỹ
ủng hộ. Ông ấy cũng là tay chân ông Diệm.
-Cậu có
nghĩ là mấy ông Tướng
trung lập không ?
-Cháu
không biết. Nhưng cháu
nghĩ những vị Tướng bị quản thúc thân với người Pháp.
Nắng sáng lên ở ngòai. Lúc tôi rời khỏi nhà, trời
còn âm
u sau cơn mưa tự lúc trưa. Tôi nôn nao mong được gặp Ninh Hà. Bỗng tôi
nhớ đến
giấc mơ gặp nàng ở lớp học. Giấc mơ hẳn
còn đây, đang dâng lên mùi thơm chiếc áo trắng nàng mặc.
-Uống
đi cậu.
Tôi cầm ly bia ông Kha vừa rót thêm. Tôi nhìn lại
gương
mặt của ông. Mỗi lần nhìn ông, tôi như cố gợi nhớ trong đầu một con
người tôi
đã gặp ngày nào đó. Và, tôi luôn có cảm giác, lướt qua hình ảnh ông là
một
chuyến xe lửa trở về dừng lại bên tháp nước nhà ga. Dòng nước mạnh tràn
chảy
trên máng xối. Khói đầu máy tàu, buổi chiều xôn xao những tiếng động
quanh vùng
núi, rồi một lúc sau, con tàu rời ga xép ra đi.
-Uống
bia tốt lắm cậu. Đỡ
khát nước.
Lòng tôi vui hẳn lên cùng với men rượu và nụ cười
chợt
sáng khi ngước mắt trông về phía cầu thang thấy bóng Ninh Hà đi xuống.
Tiếng
bước chân nàng gây tiếng động, và tôi nghĩ ngay đến những lời mình sẽ
tìm ra
được một câu chuyện để nói với nàng, và được ở lâu bên nàng.
Ninh Hà đi xuống nhà dưới, rồi một lúc sau trở lên
gặp
tôi.
-Ba cho
con một ly.
Ông Kha khui chai bia lớn, rót vào cái ly nhỏ cho
nàng
uống.
-Anh có
ra thăm nhà không ?
-Có.
Ngày mai anh đi.
Tôi và Ninh Hà đưa mắt nhìn nhau. Gần bên nhau, Ninh
Hà
luôn cho thấy vẻ đẹp của nàng. Nàng không chỉ đẹp với những tà áo dài
tôi thường
gặp nàng ở lớp học. Nàng đẹp giản dị và quyến rũ cả trong bộ áo quần
nhẹ mặc ở
nhà. Nàng mặc quần áo nhẹ như gió mát và
hương gió ấy ngây cây lá trong vườn. Hai cánh tay nàng để trần, vòng cổ
thon
thả và khuôn ngực để lộ ra một lớp sữa trắng đọng như thể là một phần
của bức
tượng nghệ thuật mà chất liệu sáng tạo là sự pha trộn các thứ trái cây.
-Em
đang dọn lại căn gác.
-Xong
chưa ?
-Em nhờ
anh đưa chiếc kệ lên
căn gác, được không ?
Không giấu được xúc động, tôi nhìn người bạn gái.
Nàng
hiểu, mỉm cười.
Ông Kha đứng lên nói:
-Tôi
trở lại làm việc. Hết
giờ nghỉ.
Ông nói với tôi một câu tiếng Pháp. Còn lại tôi và
Ninh
Hà bên nhau:
-Hai
tuần nghỉ, em có tính đi
chơi đâu không ?
-Không.
Khi thấy tôi nhìn nàng lâu, nàng ra vẻ nghiêm trên
cặp
mắt. Rồi nàng bảo:
-Lên
gác đi.
Tôi theo Ninh Hà xuống nhà dưới. Chiếc kệ chùi rửa
xong
được đặt cạnh bể nước. Tôi nhấc thử chiếc kệ, nói:
-Anh
đem lên một mình được.
Tôi nhấc chiếc kệ để lên vai. Vào lối cầu thang,
Ninh Hà
nhường tôi đi trước, một tay nàng đỡ phía sau. Từng bước chậm, chắc
chắn. Khi
lên khỏi cầu thang hẹp, tôi thực sự cảm thấy chiếc kệ đang dồn sức nặng
nhưng
cố gắng đặt xuống nhẹ nhàng. Sức nặng chùng xuống theo chiếc kệ vừa
đặt, lòng
tôi thực sự vui được ở bên Ninh Hà .
Tôi nhìn qua lối cửa, hỏi:
-Em
muốn đặt ở đâu ?
Ninh Hà bên tôi, má ửng hồng làm tôi đắm say nhưng
cố che
giấu sự ngượng nghịu.
-Anh
muốn đặt ở đâu ?
-Bên
cửa sổ.
-Em
theo ý anh.
Tôi và Ninh Hà mỗi người một đầu nhấc chiếc kệ di
chuyển
đến cho đặt dựa vách tường sát cửa sổ.
Hai người nhìn nhau qua ánh mắt. Tiếp đó, khung cảnh
và
những đồ đạc trên căn gác hiện ra. Chiếc giường ngủ, chăn màn, tủ đựng
quần áo,
bàn học, sách vở và báo. Chiếc radio nhỏ hiệu Nationale với cần ăng ten
còn kéo
lên.
-Em để
lại anh một mình.
Ninh Hà cười, xong bỏ đi. Tôi gật đầu với vẻ mặt lo
âu.
Nàng đã rời căn gác đi xuống cầu thang. Tôi bâng khuâng nhìn theo bóng
nàng,
lòng tiếc nuối, và ước mong chỉ được ở bên nàng.
Ninh Hà không ở bên tôi nữa. Tôi chưa biết làm gì.
Căn
gác bỗng dưng trống vắng, lạnh lùng. Bất chợt, tôi đưa mắt qua nhìn
những chiếc
áo dài của Ninh Hà được để vào móc áo treo thành hàng trên một sợi dây
kẽm bên
lưng tường. Ánh sáng từ ngòai cửa lọt vào, cái vẻ sáng mở ra màu sắc
những
chiếc áo dài vừa dửng dưng, buồn lặng. Tôi biết mình không thể nói, đôi
mắt
bình yên nhìn từng chiếc áo của nàng với cảm giác đang nhìn theo con
đường trên
một dãy phố. Trong phút này, tình yêu thương người bạn gái của tôi thật
đằm
thắm, tôi đứng lặng yên nghe lời tự nhủ, mỗi chiếc áo là một hình bóng,
một quãng
đời đã in dấu lên trên đó bao nhiêu kỷ niệm thân thương của nàng. Đến
cả tiếng
nói nữa, mỗi chiếc áo đã gói lại nỗi buồn,
và tiếng nàng nói nghe như một lời gọi bâng quơ rất
xa, rất nhớ trong
tình mẫu tử. Nàng rất đẹp, quyến rũ biết bao nhiêu mỗi khi nàng lấy một
chiếc
áo dài để mặc.
Bỗng có tiếng Ninh Hà thốt lên:
-Anh
cất giữ của em, phải
không ?
Ninh Hà đang đứng ở cửa lúc nào tôi không hay. Trên
tay
nàng cầm hai ly nước đá chanh.
Tôi đang tìm một câu hay để nói. Ninh Hà đến gần
tôi, đưa
một ly cho tôi. Hai người kéo ghế ngồi xuống bàn học. Khi chiếc muỗng
khuấy nhẹ
trong ly nước ngừng tiếng động, tôi nói:
-Anh có
được những chiếc áo
dài của em. Có được trong đó nữa, biết bao nhiêu là hình ảnh của em.
Ninh Hà nhìn sang phía những chiếc áo đang treo ở
sợi dây
kẽm. Nàng bỗng hỏi tôi:
-Anh
thương em, bạn anh có
biết không ?
-Bạn bè
anh và em, ai cũng
biết.
-Anh
thấy màu áo có sặc sở
lắm không ?
-Không,
màu nào cũng phác vẽ
cho em một nét đẹp riêng.
-Em
biết, những gì của em anh
cũng đều thấy đẹp.
-Không
lúc nào hình ảnh em
vắng trong anh cả. Em vắng đi, anh cứ đợi chờ.
Chúng tôi uống nước, cảm thấy đỡ khát. Ninh Hà làm
nước
chanh thật ngon. Rồi một lúc sau, tôi đứng lên bắt đầu công việc.
Ninh Hà chuyền sách cho tôi sắp.
-Ở Huế,
nhà anh ở đâu ?
-Ở gần
chùa Từ Đàm. Hồi ở
Quảng Trị, em có hay đi Huế không ?
-Có,
một đôi lần. Em đi với
ba bằng xe lửa.
Tôi cầm cuốn sách truyện Ninh Hà mới đưa lật coi nội
dung
vài trang rồi gấp lại. Tôi bỗng nói với người bạn:
-Nhà
anh ở Quảng Trị đối diện
với tháp nước. Những năm sống ở đó, anh luôn nhớ rõ những chuyến tàu
khi về đến
ga. Thời kỳ đó, mẹ anh có mở một quán hàng cơm ngày nào cũng đông khách.
-Anh có
phụ giúp cho mẹ anh
không ?
-Có,
bưng cơm nước phục vụ
cho khách ăn. Công việc này, mẹ anh có cho anh tiền ăn quà.
-Anh
giỏi lắm.
-Cám ơn
em.
-Ninh Hà ạ.
-Gì anh
?
-Anh
nhớ thời xưa đó anh gặp
một cô bé có cặp mắt giống em.
-Có em,
anh lại tưởng tượng
thêm nhiều hình bóng khác nữa.
-Có em,
một hình ảnh thôi ,
chưa đủ.
-Anh ra
Huế bao nhiêu ngày ?
-Hết kỳ
lễ Phục Sinh.
-Anh có
đi Quảng trị không ?
-Có.
Anh muốn về thăm lại
thành phố nhỏ đó.
-Anh
nhớ thăm cả thành phố
cho em.
-Anh
nhớ đến em khi về lại
ngòai đó.
-Nhưng
mà...
-Sao em
?
-Thôi,
chẳng có gì cả.
-Em
thích thứ quà gì ở Huế.
-Hay
quá. Lúc vào, anh nhớ mua
cho em mè xửng.
-Anh sẽ
mua mè xửng, cả bánh
đậu xanh nữa. Em thích không ?
-Rất
thích.
Công việc đang làm như thể là cái cớ để cho tôi và
Ninh
Hà chuyện trò, được gần gũi nhau, và có được chút cơ duyên vừa buộc
ràng tình
bạn, vừa thắt tình yêu thêm một gút. Bên ngoài, mây trời và quang cảnh
phố trôi
đi trong bình yên. Khi câu chuyện ngừng hẳn, tự dưng tôi có cảm giác
lâng lâng,
lạ thường. Những cuốn sách sắp thành hàng ngay ngắn, đẹp mắt, tôi hài
lòng và
bạn tôi cũng cảm thấy vậy.Tiếng nói Ninh Hà hay lạ, rồi trong tiếng
nàng xưng
em dịu ngọt, tôi cố gắng ngăn chận cảm xúc ôm hôn nàng. Sau đó, tôi
nghe âm
thanh của hư vô và trong im vắng, tôi có cảm giác mình trải rộng cánh
tay để
đón lấy những tiếng nói từ từ của người
yêu nhẹ nhàng như những chiếc lá đang rơi.
Bỗng Ninh Hà gọi tên tôi.
-Đây
này, cho anh Thụy xem.
Tôi vừa quay đầu lại, Ninh Hà đưa cho tôi cuốn
album..
Tôi vội ngừng công việc đứng lên đi tới chỗ bàn học kéo chiếc ghế ngồi
xuống.
Ninh Hà ngồi bên tôi, gần hơn. Tôi cầm ly uống hớp nước, cố lấy sự tự
nhiên.
Chúng tôi cả hai cùng yên lặng. Tôi hơi run rẩy trên
đầu
hai ngón tay. Sau đó, sự rung động như muốn tôi bày tỏ bằng lời nói.
Cuốn album
lớn bằng khổ một cuốn sách. Tôi mở ra trang đầu, hạnh phúc ấm áp ùa
ngập, tràn
đầy lên cả mặt tôi. Rồi nhẹ nhàng, hơi ấm đó tan dần. Những bức ảnh đen
trắng,
lớn có, nhỏ có, được dán thành hàng ngay ngắn, và mỗi tấm cho tôi đoán
được
tuổi của Ninh Hà trên gương mặt. Mỗi cái nhìn từ ánh mắt tôi tỏa xuống
trên bức
ảnh người bạn, đó là tình yêu mà tôi biết nàng rất hiểu. Không để yên
lặng lâu,
tôi hỏi chuyện để được nghe tiếng nói của Ninh Hà. Có một bức ảnh chân
dung rất
lạ tạo nên gương mặt Ninh Hà một bức tranh sống động, gần gũi, đam mê.
Giọng
nói nhỏ, mắt tôi nhìn qua người yêu.
Ninh Hà nói:
-Em
chụp tấm hình này ở Quảng
Trị.
-Anh
cảm động nhớ em ngày
trước ở đó.
Tôi vẽ lại thành phố cũ, căn nhà xưa, qua sự mường tưởng những âm thanh trong giọng nói
củaNinh Hà , và tôi cố gắng tìm đúng trong lòng mình một giọng nói
trung thực
để tôi gửi hết quê hương tới cho nàng.
Tôi lật xem những tấm ảnh khác. Ninh Hà đang ngồi
bên
tôi. Tôi có được Ninh Hà cả hình ảnh và con người. Từng phút giây thời
gian cứ
lũy thừa gấp nhiều lần cho tôi cảm tưởng rằng, hạnh phúc trong kỷ niệm,
về sau
sẽ được ghi nhớ rất là lâu.
Cuốn album xem xong được gấp lại để trên bàn. Trở
lại
công việc, chúng tôi nói chuyện học hành thi cử. Ninh Hà nói với tôi
nàng muốn
theo ngành Dược khi lên Đại Học. Hình dung Ninh Hà với bao nhiêu nét
trẻ đẹp,
tươi vui, qua chiếc áo blouse trắng thời gian sẽ trở thành vùng ánh
sáng, ôi,
hạnh phúc cho bất cứ ai được lấy nàng làm vợ. Tôi nhận ra rằng, tôi chỉ
là
người bạn của nàng. Người bạn của nàng trong thời thơ ấu, và những kỷ
niệm khi
tìm kiếm, tôi luôn cố nhớ ra từng âm sắc trong tiếng nói của nàng.
Ninh Hà bật đèn sáng. Những cuốn sách sắp hết trên
kệ rất
ngăn nắp, sạch sẽ, sáng sủa.
-Ngày
mai anh ra Huế.
-Ngày
mai anh về với ba mẹ và
các em của anh.
-Anh có
đi Quảng Trị không ?
-Có.
Tôi nghe sự lập lại của bao nhiêu câu hỏi, bao nhiêu
lời
nói và ghi nhận thêm một thoáng ý nghĩ trong đôi mắt Ninh Hà . Thành
phố quê
hương tôi, Ninh Hà đã ở đó, đã qua một thời thiếu nữ với những lớp học,
bạn bè,
những con đường đi học thân quen.
Khi thấy Ninh Hà mở cuốn album ra xem, tôi viết
trong trí
nhớ tôi một dòng chữ. Đó là những dòng
lưu luyến của tôi khi yêu nàng, và luôn nhớ đến nàng qua những chiếc áo
dài
nàng mặc.
-Em
tặng anh.
Tôi nhận tấm ảnh của Ninh Hà. Dưới nhà, có tiếng ông
Kha
nói với người vợ.
-Anh sẽ
đi giao hàng ba nơi.
-Có kịp
không ?
-Kịp
chứ. Chừng một giờ thôi,
anh về.
-Em đợi
cơm.
-Nói
với cậu Thụy ở lại ăn
cơm.
-Vâng.
Cậu đang ở trên gác.
Tôi cất tấm ảnh của Ninh Hà vào cuốn sách học nàng
cho
tôi giữ. Nụ cười Ninh Hà làm cho căn gác như thể là nỗi vui của giờ ra
chơi.
Tôi thật muốn nấn ná ở lại bên nàng.
-Em có
bài học nào cần anh
giúp không ?
-Có.
Ninh Hà rút ra một tờ giấy lớn. Khi tôi cầm bút,
nàng
nói:
-Cho
anh đi trước.
Tôi đánh dấu nhân lên ô giấy. Khi chơi, chúng tôi
nghĩ
đến nhau trên mỗi quân cờ. Tôi cũng còn mường tượng những tờ giấy mà
chúng tôi
thường chơi cờ ca rô, Ninh Hà vẫn giữ làm kỷ niệm.
Ông Kha vừa rời nhà. Tôi nghe tiếng xe đạp lăn bánh
ra
ngòai thềm hiên.
-Anh đi
tiếp.
Tôi lơ đãng ghi một dấu nhân gần hàng ba.
-Anh lơ
đãng rồi.
Tôi nhìn lại Ninh Hà. Nàng cũng nhìn lại tôi và cuộc
chơi
như thể muốn ngừng.
-Anh
chỉ muốn có em bên anh.
Tôi viết lên mặt giấy điều tôi muốn nói.
-Em
đang ở bên anh.
-Anh...
Tôi chỉ viết được một chữ, tay run lên. Ninh Hà
cười,
nàng bảo:
-Anh
đánh tiếp đi.
Ván cờ chơi dở, lại tiếp tục. Trong lúc Ninh Hà cúi
xuống
với mái tóc, tôi đặt bàn tay tôi lên tay nàng. Nàng để yên.
Cuộc chơi ngừng. Tôi đứng lên dịch chiếc ghế lại gần
Ninh
Hà. Ngồi bên nàng, tôi mở rộng cánh tay ôm lấy thân nàng. Nàng không có
gì nôn
nao, bối rối. Sự bình thản của nàng cho tôi hiểu rằng, nàng là một cô
gái sống
rất cởi mở.
II
Khi biết Ninh Hà dành cho tôi một tình bạn, vừa cởi
mở
tình yêu tôi thật là hạnh phúc, ước ao luôn có nàng bên cạnh. Sự biểu
lộ niềm
vui của nàng những lần ở lớp, hay lúc đến nhà chơi cho thấy nàng thực
sự đã
yêu.
Về phần mình, tôi có niềm ước mơ một ngày nào đó
trong kỳ
nghỉ hè, tôi mời Ninh Hà ra thăm Quảng Trị, thăm lại làng quê của tôi
cả bên
nội và ngọai. Hai chúng tôi sẽ đem theo xe đạp, và lên đường bằng xe
lửa.
Hãy nghĩ rằng, chúng tôi có một thời tuổi trẻ yêu
nhau.
Hãy nghĩ rằng, giấc mơ này như là một hiện thực.
Buổi sáng sớm, tàu
rời ga Đà Nẵng. Hình ảnh một chuyến tàu đã dừng lại và ra đi từ nơi
đây, gợi
nhớ trong tôi nỗi xúc động của tuổi nhỏ về kỷ niệm biệt ly giữa tình
bạn học
trò.
Tàu chuyển bánh chậm rồi bắt đầu nhanh. Ngồi bên cửa
toa,
tôi và người bạn gái vui thích nhìn ra quang cảnh thiên nhiên, từ những
mái
nhà, các dãy đồi, rồi biển và núi. Câu chuyện của chúng tôi vui, ríu
rít tiếng
cười nghe như những tiếng chim hót, và đứa nào cũng giành nói, cũng
muốn cho
rằng những ý tưởng mình về sự quan sát cảnh vật như thể sẽ viết ra được
ngay
một bài luận về cuộc du ngọan trong lúc này. Rồi tới lúc mệt, chúng tôi
cười
lấy nước mời nhau uống xong chìa môi cho hôn nhau. Bỗng nhiên, con
đường hầm
Hải Vân bóng tối bao phủ, dài hun hút, nghe ồn lên trong tiếng động ầm
ầm của
chiếc đầu máy xe lửa.
Những nhà ga ghé lại rồi rời xa. Bây giờ, trước mắt
chúng
tôi là đồng ruộng, những thị trấn miền quê. Hình ảnh miền Trung nghèo
khó làm
cho Ninh Hà cảm động, thêm biết bao nhiêu ý tưởng về tình người để sau
này lớn
lên nàng sẽ là một người mẹ rất đáng quí. Nàng cho tôi nghĩ đến mẹ tôi
qua hình
ảnh nàng. Ngày xưa đó, mẹ tôi còn trẻ, và nàng bây giờ có gương mặt rất
giống
mẹ tôi, nhưng nàng đẹp hơn.
Tàu chạy hơn nửa ngày mới tới ga Diên Sanh. Đây là
một ga
nhỏ nằm trông ra cánh đồng trống, cách tỉnh lỵ Quảng Trị mười cây số.
Hai chúng
tôi xuống ga, dắt xe đạp đi bên nhau tới
cửa kiểm sóat vé. Một nhân viên hỏa xa vui vẻ chào chúng tôi. Anh là
một cựu
quân nhân giải ngũ, giọng nói nghe nặng như tôi, nhìn
anh tôi chợt nghĩ đến những người thân
của mình.
Đường Quốc Lộ I
Nam Bắc chạy ngang qua nhà ga và thị trấn. Đây là
con đường tráng nhựa
rất tốt. Ở quãng này, quốc lộ cùng song song với đường xe lửa. Tàu đã
rời ga
đang chạy hướng về cây cầu. Bên dưới cây cầu, con sông chảy qua , dòng
nước rất
sâu. Hồi còi tàu cất lên rộn rã, những cụm khói cao ngất tỏa rộng xám
vùng
trời.
-Ở đây
có gần Quảng Trị không
anh ?
-Mười
cây số nữa em.
Tôi và Ninh Hà cùng lên xe đạp. Trong tôi, còn giữ
lại âm
sắc giọng nói của người yêu. Nắng xế trưa lan rộng khắp các ngôi làng.
Có vài
đám khói lam lượn lờ vươn lên khỏi rặng tre. Ninh Hà rất vui khi có tôi
bên
nàng. Ninh Hà đội chiếc mũ vải màu lam, mặc áo sơ mi trắng, quần tây
màu xám
tro. Hai chúng tôi đem theo mỗi người cái túi xách treo trước ghi đông
xe.
Trong túi xách có quần áo, nước uống và thức ăn khô. Chúng tôi dự trù
đi nghỉ
hè mười ngày. Giờ đây, tâm hồn quê không trú ngụ nơi tôi mà dành hết
cho Ninh
Hà . Ninh Hà và tôi là hai người bạn rất thương yêu nhau và quí mến
nhau. Tôi
viết tên nàng trong tim tôi và nàng lúc nào cũng nhắc nhở đến tôi. Nàng
có một
mối tình với tôi được sơn son, thếp vàng đóng trong một khung cảnh với
tất cả
thời thanh xuân của nàng. Ngày mai đây ra sao, hoặc mai sau thế nào,
tôi và
nàng hòan tòan không biết được. Với tôi, hầu như đơn độc, trống không,
vì tôi
muốn rằng những gì tôi có, những gì tôi suy nghĩ, tất cả tôi đều muốn
là của
Ninh Hà , cất choNinh Hà , giữ cho Ninh Hà. Tôi chỉ còn có Ninh Hà để
hiểu rõ
thực trạng về tuổi trẻ của mình. Và, Ninh Hà rất hiểu tôi.
Bên cạnh ngã ba có một ngôi trường tiểu học. Có đông
em
nhỏ chơi đùa, chạy nhảy và đá bóng trước sân cờ. Có hai cô giáo trẻ
đứng dưới
mái hiên nhìn tôi và Ninh Hà đang đạp xe ngang qua. Chỉ một thóang nhìn
vào,
tôi chợt nghĩ, hai cô gái ấy ước mơ gì về hạnh phúc của tôi và người
bạn gái.
Không đâu, hai chúng tôi không phải là đôi tình nhân. Tôi và Ninh Hà là
hai
người bạn sống hạnh phúc bên nhau cho hết thời thanh xuân. Rồi khi thực
sự lớn
lên, vào đời, mỗi chúng tôi ở xa cách một phương trời. Thời gian cứ vậy
trôi
qua. Nhớ nhau chăng nữa, chỉ có cuộc đời ôn lại bao nhiêu kỷ niệm, với
chốn này
hay chốn kia mà rũ thương một chút ngậm ngùi.
Nắng hè thật là ấm. Tiếng Ninh Hà cất lên, nghe
trong
trẻo như dòng suối đang chảy, từ đâu vang vọng lên một âm thanh tưởng
như đó là
tiếng đàn.
-Em rất
là vui.
-Em vui
một mình thôi, hay
sao ?
-Có anh
Thụy nữa chứ.
Tôi bụm miệng gọi tên Ninh Hà . Nàng cũng bụm miệng
gọi
tên tôi. Vang âm trôi giạt, lênh đênh giữa nắng. Chúng tôi cười ngây
ngất súyt
nữa làm ngã xe sau khi thả hai tay.
Vui vẻ bên nhau, chúng tôi nói:
-Anh
ước ao có được giọng nói
hay như em.
Ninh Hà bảo:
-Anh
nên viết văn. Khi viết
văn, anh sẽ tìm ra những tiếng nói rất đẹp, rất hay từ trong những tấm
lòng các
thiếu nữ.
Gần tới phía cây cầu, chúng tôi nhìn thấy dòng sông
và bờ
sông. Nhưng hai người rẽ phải ở đầu ngã ba đi vào quận. Ngôi chợ giờ
này còn nhóm
họp đông người buôn bán và hai bên là các quán hàng ăn, giải khát.
Đường qua
chợ đông nên tôi và Ninh Hà cùng xuống xe dắt bộ.
-Em đói
không ?
-Em
đang tính hỏi anh.
Hai chúng tôi lướt nhìn qua các quán. Bên trong,
tiếng
mời chào khách vọng ra. Đến chỗ bóng cây, chúng tôi mới dựng xe vào
quán nghỉ
chân.
Tôi lấy cái bàn vuông và hai chiếc ghế thấp đưa ra
ngòai,
ngồi tách biệt với khách ăn trong quán. Cô bé con chị bán quán đi ra
chào hỏi,
tôi nói:
-Em cho
hai dĩa bánh ướt chả.
Cô bé đi vào. Ninh Hà ngước cả khuôn mặt với làn da
trắng
để cho tôi ngắm nàng. Nàng mỉm cười với đôi mắt nhỏ thật đẹp.
Bữa ăn mang ra. Cô bé vừa đặt khay xuống, tôi nói:
-Gói
riêng cho chú bốn cái
bánh chưng.
-Dạ.
Tôi lau muỗng đũa đưa qua cho Ninh Hà . Trước khi
mời
nhau ăn, tôi nói:
-Em
biết không, món này thổ
sản ở làng quê anh.
-Chỉ có
món này thôi.
Vừa bắt đầu ăn, tôi nói:
-Còn
vài thứ khác nữa, nhưng
thường thôi.
-Anh kể
đi.
-Bánh
nếp, bánh bột sắn, bánh
tráng khoai.
Hai chúng tôi đều đói nên ăn rất ngon. Nước mắm
chanh ớt
cay phả ra trong lời nói và làm vui thêm câu chuyện. Tim tôi đập đều
nhịp, nhẹ
nhàng, và tôi cảm thấy hạnh phúc của mình là Ninh Hà. Không ngừng trong
ý nghĩ,
và tôi muốn nói ra với Ninh Hà điều này. Hạnh phúc còn nói với tôi rằng
phải
luôn ở bên Ninh Hà không được rời nàng nửa bước. Ninh Hà chợt ngừng
đũa, thốt
lên:
-Ớt cay
quá.
-Em sắp
hết rồi. Gọi một dĩa
nữa nghe.
-Anh
gọi đi.
Tôi gọi thêm, dĩa
bánh mới mang ra vừa mới được tráng hẳn còn nóng.
-Anh ăn
đi, chừa lại em một
ít thôi.
Tôi và Ninh Hà chia nhau một nửa. Khi ăn xong, tôi
cảm
thấy no, chỉ vừa để dành bụng để uống nước chè xanh. Tôi rót chè tươi
vào hai
ly chờ để nguội.
Ninh Hà cứ hít hà hơi cay. Nàng nhìn qua tôi với nụ
cười
trên cặp mắt. Tôi như cảm thấy hương vị ớt cay còn phảng phất. Nước chè
đã
nguội bớt, chúng tôi cùng cầm ly lên uống. Trong quán , khách ăn đang
nói
chuyện. Ninh Hà cố lắng nghe giọng nói người vùng quê. Tôi nghĩ tới một
quê
hương nghèo đã thương yêu Ninh Hà với cả
một tấm lòng.
Sau một giờ nghỉ ở quán, chúng tôi đi.
Khi lên ngồi xe đạp, Ninh Hà nói:
-Bây
giờ mình phải đạp xe
nhanh anh ạ.
-Đạp
chậm thôi. Rồi em còn kể
chuyện cho anh nghe nữa.
-Thôi,
em mệt. Trời nắng, hơi
đâu mà chuyện trò.
-Cũng
không hề gì. Có em đi,
con đường quê trở nên đẹp rồi.
Ninh Hà sung sướng nhìn qua tôi. Chúng tôi đạp xe
thong
thả. Khung cảnh làng quê mà hôm nay tôi đưa Ninh Hà về thăm thật là
thân thiết,
đậm đà và mới mẻ.
-Em có
ước mơ gì không Ninh
Hà.
-Có chứ.
-Em nói
cho anh nghe đi.
-Em mơ
ước đến một ngày đất
nước thống nhất.
-Em đã
nói thay điều anh
nghĩ. Anh ước mơ ngày thống nhất, ngày đó, anh được cùng em ra miền
Bắc, thăm
Hà Nội, và về tìm nơi sinh quán của em.
-Anh
biết quê em ở đâu không
?
Tôi biết rất rõ ngày tháng năm và nơi sinh của Ninh
Hà
nhưng giả vờ nói không. Tiếng Ninh Hà thật ấm:
-Em
sinh ở Hải Dương.
-Hải
Dương có xa Hà Nội không
em ?
-Không
xa lắm. Khỏang 60 cây
số đường xe.
-Em có
hay đi Hà Nội không ?
-Em ở
Hà Nội chứ đâu.
-Vậy
đó. Giọng nói em đúng là
Hà Nội, phải không ?
-Thôi,
được rồi.
-Em là
cả nguồn vui trong
anh, tôi nói.
Ninh Hà đáp lời:
-Mỗi
bức tranh, có cái khung
của nó.
-Em nói
đúng. Và, đây chính
là làng quê chào đón em.
Giọng nhỏ lại, Ninh Hà nói với tôi:
-Đây là
mùa hè kỷ niệm của
anh và em.
Bỗng nhiên, tôi và Ninh Hà cùng dừng lại. Con kênh
đào sâu
với nước chảy dào dạt như dòng suối. Nước từ ngòai phía sông đang dẫn
vào,
trên bờ ruộng, có hai cô gái đang ngồi
trên xe đạp nước. Những tiếng bánh xe gỗ kéo nước lên nghe rất đều,
thân thuộc
. Hai cô gái cứ đạp đều chân. Ninh
Hà
mở túi xách lấy chiếc máy ảnh chụp vài tấm. Sau khi chụp xong, nàng đưa
máy ảnh
cho tôi. Nhanh như con sóc, nàng nhảy qua bờ kinh đứng phía bờ ruộng có
chiếc
xe đạp nước. Tôi chụp cho Ninh Hà nhiều tấm khác nhau.
Ninh Hà trở lại xe, chúng tôi đi tiếp.
-Em sẽ
cảm thấy vui thêm với
đời sống của mình.
-Đây là
thuộc về đâu anh ?
-Hòa
Phong. Ngôi làng này
giàu nhất quận Hải Lăng.
-Hải
Lăng. Tên nghe hay hay.
Con đường quan trải ngôi làng này xa đến bốn cây số.
Vì
ngôi làng gần quận lỵ, nên sinh họat của người dân nhộn nhịp, đông vui
như là ở
thị trấn. Ruộng đồng xanh tốt. Nhà ở lợp ngói. Sau rặng tre, thấp
thóang những
ngôi nhà tranh. Tất cả, cho miền quê một sự yên bình.
Lên ngã tư con dốc, Ninh Hà bảo tôi dừng lại. Nàng
nói:
-Anh
chụp cho em mấy tấm ảnh.
Ninh Hà đứng tựa bên thành cầu, bên dưới là dòng
nước
đang chảy. Tôi nhắm qua ông kính, lấy góc độ, khi hình ảnh Ninh Hà hiện
rõ nét,
tôi mới bấm máy ảnh. Từng vị thế Ninh Hà đứng, tôi chụp theo góc cạnh.
Và, sau
đó tôi và nàng chụp chung vài tấm nhờ một người đi qua đường. Anh bạn
đây là
một giáo viên dạy học trên tỉnh về thăm quê. Khi chụp ảnh, Ninh Hà dành
cho tôi
tất cả sự thân tình của hai người bên nhau.
Nghỉ chân bên cây cầu, tôi chụp được cho Ninh Hà
nhiều
tấm ảnh mà tôi nghĩ là đẹp. Rồi, hai người lại đi. Nhưng vì sợ nguy
hiểm, nên
chúng tôi không lên xe đổ dốc mà dắt bộ tới chỗ bằng phẳng rẽ trái để
về làng.
Con đường bằng phẳng rợp bóng tre im mát. Gió thổi
lào
xào. Mới vào hạ, thời tiết ấm và dịu.
-Còn xa
không anh ?
-Hơn
cây số nữa thôi.
Hình ảnh làng quê quá yêu thương qua gương mặt hiền
dịu
của Ninh Hà . Tôi nói ra ý nghĩ đó, Ninh Hà bảo:
-Anh
thương em rồi, cái gì
anh cũng nhìn thấy em đẹp.
Lòng tôi cảm thấy nôn nao. Tôi mơ nghĩ đến một căn
nhà,
đến những ngày tháng yên bình trong cuộc sống chúng tôi bên nhau. Ước
mơ của
tôi tựa một cuốn sách. Không cần nhiều trí tưởng tượng, một cuốn sách
tôi viết
ra chỉ có một ý nghĩa mong rằng, đây là câu chuyện của lứa đôi khao
khát cuộc
đời hạnh phúc.
Chiếc cầu bắc qua con suối cạn. Bên đây cầu thuộc
làng
Đông Nghi, bên kia là của làng tôi. Và muốn vào làng tôi, ngôi chợ
trước mặt là
vị trí đầu tiên, bên cạnh chợ có một con đường cát nhỏ, hai bên trồng
dứa, con
đường dẫn sâu về đến làng và ra luôn đến biển.
Ninh Hà cất tiếng reo lên như muốn hát một khúc hát.
Tôi
vui, đặt tay qua vai nàng khi xe hai người chạy song song.
-Coi
chừng anh làm em té.
-Không
đâu. Anh luôn giữ được
em.
Về tới trước cổng làng, tôi trông thấy anh Huề như
mới ở
ngòai đồng về. Anh cầm lưỡi hái trên tay, và anh nhận ra tôi ngay khi
cả hai
chúng tôi vừa dừng xe. Tôi giới thiệu Ninh Hà với anh. Rất vui, anh mời
chúng
tôi về nhà anh. Tôi và Ninh Hà đi theo .
Nhà bà nội tôi là căn nhà gạch nằm bên trái, nhà anh
quay
lưng trông ra đồng ruộng, sân trước rất rộng có bầy gà vịt đang ăn, có
tiếng
heo kêu, dưới đồng ruộng có con trâu đang được thuê cày.
Anh Huề có ba cháu nhỏ. Chị Huề làm việc nhà, coi
sóc
vườn, nuôi heo và gà vịt.
Ánh sáng tràn vào nhà khi anh mở cửa. Anh mời chúng
tôi
dùng cơm nhưng tôi đáp lời là đã ăn no khi đi xe lửa, rồi ăn ở quận,
giờ muốn
được nghỉ ngơi.
Ngồi không lâu, anh Huề
đưa tôi qua nhà bà nội. Kể từ khi bà nội mất, nhà
đóng kín cửa, chỉ mở
khi có khách trong gia đình về thăm. Vừa đi, vừa trò chuyện anh cho tôi
hay nhà
bà tôi nay thành nhà khách. Bên đó, có đầy đủ gạo, thức ăn khô, soong
nồi, bình
trà, bình thủy để chứa nước sôi. Anh cho biết, dự trữ như vậy để cho
khách có
được sự thỏai mái như là nhà mình.
Anh Huề tra chìa
khóa mở cửa, xong giao luôn chìa khóa cho tôi. Khi ánh sáng tràn vào,
tôi nhìn
thấy tòan diện căn nhà cũ của bà tôi, và hôm nay, tôi hết sức xúc động
với ngày
về.
Căn nhà đóng cửa nhưng không bị bụi bặm vì anh Huề
vẫn
luôn chăm sóc, quét dọn, và cúng quảy vào những ngày mồng một, rằm, hay
có giỗ.
-Tôi
mới thắp hương và cúng
trái cây hôm qua.
-Vậy là
tôi về đây hưởng lộc
của bà.
-Chú
gặp may. Mong bà phù hộ
chú.
Anh Huề phải về nhà ăn cơm để còn trở ra đồng phụ
thợ
gặt. Anh bắt tay tôi, nói lời chào với Ninh Hà. Nàng đáp lời chào anh
rất lễ
phép.
-Em mệt
chưa ?
Ninh Hà nhìn lại tôi nghiêm nét mặt. Rồi nàng cười
nhìn
tôi rất ý nhị. Tôi mở túi xách lấy ra ít bánh trái để lên dĩa quả trên
bàn thờ
thắp hương.
Nàng đứng ở cửa, đưa mắt nhìn tôi. Sau khi thắp
thương,
khấn vái với lời nguyện thầm xong tôi trở ra.
-Em có
đói không ?
-Không,
anh đói, ăn một mình.
-Không.
-Em
nghỉ đi một chút. Khi nào
đói, thức dậy ăn.
-Còn
anh làm gì ?
-Về
quê, còn có cái thú đọc
sách.
Ninh Hà vào phòng thay quần áo. Nàng trở ra sau đó
với bộ
quần áo nhẹ. Tôi lấy chiếc gối đem qua giường đặt xuống. Chiếc giường
đặt gần
bên cửa sổ.
Trước khi nghỉ trưa, Ninh Hà tháo chiếc đồng hồ đeo
tay
đưa cho tôi. Tôi cầm lấy và đeo vào bên tay trái. Kim đồng hồ, chỉ hai
giờ
chiều.
-Anh
không đi nghỉ sao ?
-Không.
Em nghỉ đi, anh đọc
sách.
Ninh Hà mặc quần áo nhẹ màu vàng. Có sẵn gối và
chiếu trên
chiếc giường gỗ. Chiếc giường đặt bên cạnh cửa sổ trông ra vườn. Ninh
Hà vừa
nằm xuống, tôi vội lấy tờ báo mang qua cho nàng đọc.
-Galant
gớm.
-Em có
muốn anh thức dậy
không ?
-Tùy
anh.
-Em ngủ
ngon.
Tôi quay bước, Ninh Hà gọi. Tôi tới gần, nàng nắm
tay tôi
kéo ngồi xuống bên nàng. Nàng nhỏm người dậy quàng tay qua cổ tôi, hôn
tôi lên
trán và môi. Tôi ôm giữ lấy Ninh Hà hôn xuống cặp môi chín đỏ của nàng.
Rồi tôi
để Ninh Hà nằm nghỉ. Tóc Ninh Hà xõa tràn trên mặt gối với gương mặt
đầy đặn
của nước da trắng in thành một vùng ánh sáng. Tôi luồn tay dưới mái tóc
nàng,
rồi cúi hôn lần nữa.
-Em ngủ
ngon.
-Anh
muốn thức em dậy lúc nào
cũng được.
-Anh sẽ
thức em dậy.
Căn nhà im vắng, dịu mát. Trời đã quá trưa, cảnh vật
yên
tĩnh. Bên ngòai con đường bóng cây tre trải dài, mùi vị của cát có thể
làm thơm
giấc giấc ngủ của người mình yêu. Tôi trở về bàn, ngồi xuống ghế tôi
đọc cuốn
truyện dịch Le grand Meaulnes của nhà văn Pháp Alain Fournier. Vừa đọc,
tôi
nghĩ đến anh chàng Meaulnes, đến người bạn anh Francoise Seurel, và cô
gái
Yvonne de Galais trong chiếc áo đầm trắng, chiếc nón rơm rộng vành,
tiếng đàn
dương cầm vang lên nơi trang viện trong một buổi tối làm tôi nghĩ đến
Liên An.
Tôi luôn có Liên An với tất cả sự dịu dàng tuổi thơ. Liên An sẽ mãi mãi
thơ dại
với tuổi học trò. Tôi không bao giờ muốn Liên An lớn lên cả. Và, nếu
ngày nào
đó, khi đã lớn hẳn , Liên An sẽ đi xa không bao giờ gặp lại tôi nữa.
Khi tôi
nhớ đến Liên An, tôi sẽ nhìn thấy mây trắng bao phủ một góc trời.
Tờ báo nằm yên lặng như một chiếc khăn đắp qua người
Ninh
Hà. Tôi ngừng đọc sách ngắm người yêu đang ngủ. Ninh Hà đã về tới quê
tôi, và
tôi mong dành được hết hạnh phúc cho nàng trong giấc ngủ.
Tôi gấp cuốn sách lại để trên bàn rồi đi ra chỗ mái
hiên.
Tôi cảm thấy mình thực sự có hương vị cuộc sống. Chính hương vị đó tôi
cảm nhận
về tuổi trưởng thành như giờ đây tôi đã có gia đình, người vợ của tôi
là Ninh
Hà vừa mới cưới.
Bà nội tôi mất cách đây đã bốn năm. Căn nhà này được
sửa
sang lại vào thời gian hai năm trước khi bà mất. Kể ra, căn nhà mới tu
sửa cho
bà trọn vẹn niềm vui trong lòng. Nhìn căn nhà, ánh sáng cùng màu sắc
trở nên
mới. Gạch gói ửng màu tươi, tường vôi quét lại sạch sẽ, nền đất được
tráng bằng
xi măng, và có hai cửa sổ mở thêm để đón lấy gió mùa hè từ ngòai vườn,
xa nữa
là gió biển. Ở gian bếp, bày biện ngăn nắp, có chạn tủ, vì muốn là chỗ
vãng lai
cho người thân về nên trong ở nhà kho cũng như nhà
dưới
đều có sẵn bếp, soong nồi, thức ăn khô và gạo.
Tôi đứng dưới mái hiên nhìn ra ngòai nắng. Tôi nghĩ
nhiều
đến người thân nhưng lại có cảm tưởng hình bóng mỗi người đang nhập
nhòa trong
nắng. Rồi, bỗng dưng nhìn cây khế sai quả, những quả vàng chín, những
quả còn
xanh treo chùm lơ lửng, lá rụng xuống thềm gạch gần bên giếng nước tôi
có ý
nghĩ mơ hồ về tiếng động, về tiếng gọi của thời gian. Trưa vắng quá,
không có
tiếng chim hót. Không có nữa, tiếng ai gọi từ ngòai đồng ruộng. Rất xa
trong
khỏanh khắc của đời người, tôi vừa thấy bóng dáng một con tàu chạy qua
trí
tưởng và trỗi dậy âm thanh những hồi còi.
Một lúc, tôi quay vào nhà. Ninh Hà vẫn ngủ ngon
giấc. Tôi
đến gần, dừng bước, đôi mắt thương yêu nhìn ngắm nàng ngủ. Trong tôi,
tiếng gọi
thầm em là người vợ quí giá suốt đời anh luôn mong mỏi, khát thèm. Giấc
ngủ của
Ninh Hà thật đơn sơ. Chiếc gối cũ, mái tóc xõa tràn, Ninh Hà ơi, giấc
ngủ của
em là hồn quê trong bao nhiêu hương sắc thanh bình.
Tôi trở lại bàn, mở cuốn ra đọc. Sau giây lát, bất
chợt
Ninh Hà cất tiếng:
-Anh
không đánh thức em dậy.
-Em ngủ
ngon không ?
-Thật
là dễ chịu.
Từ một khỏang cách tôi và người yêu đưa mắt nhìn
nhau.
Không có một nỗi nhớ nào so sánh được với hạnh phúc của chúng tôi lúc
này. Đôi
mắt Ninh Hà lắng im, đẹp lạ thường. Đôi mắt tôi được hình dung qua cây
lá, như
có bóng im từ vùng ánh sáng đôi mắt người yêu nhìn tới.
-Em
thức dậy nghe.
-Không
ngủ nữa sao ?
-Đủ
rồi.
Tôi gấp sách lại, vừa lật cổ tay nhìn đồng hồ. Buổi
chiều
đã tới. Ninh Hà ngồi dậy đi ra chỗ bể nước gần gian bếp múc nước vào
thau rửa
mặt. Và giờ này, cảnh sinh họat làng quê lại bắt đầu với những tiếng
động cùng
nhiều âm thanh quen thuộc.
Lên nhà, Ninh Hà hỏi tôi:
-Làm gì
bây giờ ?
-Không
làm gì nữa hết. Chỉ
quanh quẩn bên em để nhìn ngắm em.
-Mới có
một ngày đầu hè mà em
cảm thấy êm đềm quá.
-Bởi vì
đây là làng quê của
anh.
-Không
phải là của em sao ?
-Không,
em là của anh thôi.
Ninh Hà cười rung động mái tóc. Tôi lao người tới ôm
gọn
tấm thân của nàng. Nụ hôn của người yêu dành cho tôi có mùi vị sữa thơm
lẫn với
mùi trái cây. Tôi và Ninh Hà hôn nhau, hai cặp môi quấn quít, say đắm.
Bóng im từ vườn cây nghiêng đổ ra sân.
-Anh đã
đói chưa ?
Tôi kéo áo lên để hở bụng. Ninh Hà cười to, vừa đánh
tay
nhẹ vào bụng tôi.
-Em đi
thổi cơm. Ăn xong, anh
đưa em đi ngọan cảnh.
Tôi và Ninh Hà đi xuống nhà bếp. Để có ánh sáng, tôi
lấy
hộp diêm đánh một que thắp lên ngọn đèn dầu con. Đất ẩm xông lên mùi vị
mốc,
nhưng rồi tan loãng dần khi các lối cửa được mở.
Ninh Hà rất nhanh nhẹn. Nàng tìm thấy soong nồi và
thạp
đựng gạo. Có sẵn mọi thứ, nàng bắt tay vào việc. Và cảm giác vui nhất
trong lúc
này là âm thanh trong tiếng nước.
Trong khi Ninh Hà vo gạo, tôi ở bên nàng phụ giúp
rửa
chén bát, gạn lọc cát trong mớ cá khô. Sau đó, khi Ninh Hà vo gạo xong
đi vào
bếp tôi ra vườn hái ít rau để nấu canh.
Buổi chiều xuống thật nhẹ nhàng. Khi tôi trở vào với
rổ
rau vừa hái đầy, gian bếp sáng lửa với bóng Ninh Hà ngồi ở đó. Tôi lên
tiếng:
-Em trở
thành thôn nữ như
trong tranh vẽ.
-Thôi
được rồi, ông anh.
Tôi ngồi xuống bên người mình yêu. Rơm được đốt thay
cho
củi. Lửa tàn rồi lại sáng lên. Tôi có chút nghĩ ngợi mắt lặng nhìn ánh
lửa. Tôi
muốn nghe tiếng Ninh Hà nói. Nhưng sự im lặng trong chốc lát hiện lên
trên vầng
trán nàng một nỗi ưu phiền.
-Em tự
nhiên nhớ đến quê
hương của mình.
-Anh
cũng như em, mơ ngày đất
nước thống nhất.
-Đến ngày đó ra sao anh nhỉ ?
-Đến
ngày đó, ước mơ chỉ còn
là dự tưởng.
-Sao
thế anh ?
-Lúc
ấy, chúng ta đã trưởng
thành. Anh sợ rằng em và anh phải xa nhau.
-Không
đâu.
-Em vẫn
cứ tin tưởng chúng ta
lúc nào cũng giữ tuổi thanh xuân cho mùa hè.
-Không,
em không nghĩ thế.
-Đó, em
thấy không, em cũng
lo sợ ngày mai như anh.
-Nhưng
chúng ta phải luôn nhớ
đến nhau, cố gắng giúp nhau mà sống.
-Bao
giờ anh cũng có em.
-Em
luôn ở bên anh.
Cơm đã chín. Hai món cá khô và canh nấu cùng một
lúc, sau
mười lăm phút là xong xuôi.
Những giọt mồ hôi đọng lại trên vầng trán Ninh Hà ,
cả
gương mặt cùng hừng đỏ vì lửa.
-Anh
sọan bữa ăn, em rửa mặt.
Tôi có ý nghĩ lạ lùng, vội cất tiếng.
-Khoan
em.
-Gì nữa
đây.
Ninh Hà dừng lại dưới mái hiên. Tôi ôm chặt Ninh Hà
trong
hai cánh tay, hé môi đưa lưỡi thấm lấy những giọt mồ hôi trên trán và
trên
gương mặt nàng . Ninh Hà cảm động ôm lấy đầu tôi. Tôi chợt nghe tiếng
nàng
khóc. Tôi cứ để Ninh Hà khóc không dỗ dành, môi tôi hé mở ngậm lấy
những giọt
nước mắt nàng tuôn chảy. Hai đứa tôi ôm giữ chặt lấy nhau, một cảm giác
nghẹn
ngào cũng đã làm tôi ứa lệ.
-Em can
đảm lên Ninh Hà.
-Anh,
anh ơi.
-Anh
đây em.
-Vâng,
em cám ơn anh.
Tôi để Ninh Hà múc nước rửa mặt. Vào bếp, tôi dọn
cơm lên
mâm rồi đem lên nhà. Ninh Hà trở lên, vẻ mặt tươi tỉnh hẳn.
-Ăn
xong, chương trình anh
sắp như thế nào cho em.
-Em
đừng lo.
-Sao mà
không được nào ?
-Anh đã
ghi sẵn từng mục vào
giấy.
-Tốt.
Về sau, em để anh đi
dạy học.
-Còn em.
-Em lo
việc nhà.
Cơm và canh còn nóng sốt. Dù là cơm gạo đỏ, thức ăn
chẳng
có gì nhưng chúng tôi ăn rất ngon. Ninh Hà hỏi tôi:
-Bà nội
sống đến 80 không anh
?
-Vừa
đúng tuổi em nói.
-Còn
ông nội.
-Khỏang
năm mươi.
-Anh
nhớ gì về ông nội không
?
-Còn
nhỏ quá, anh không nhớ.
-Ông bà
nội em vẫn còn sống.
-Em nhớ
ra được không ?
-Có
chứ. Em rời ông bà năm em
lên tám tuổi.
-Tại
sao ông bà không vào
Nam.
-Ông bà
giàu lắm. Có của cải
ruộng vườn, làm sao bỏ đi được.
-Mười
năm, gia đình có nhận
được thư ông bà cụ không ?
-Chỉ có
hai năm đầu. Sau đó,
hai bên không còn viết thư cho nhau nữa.
Giọng Ninh Hà làm hiển hiện bóng hình hai người
thân. Tôi
nhìn lại nàng, muốn nghĩ đến một câu hỏi. Ninh Hà tiếp lời:
-Em vẫn
mơ ngày trở lại đất
Bắc.
-Có,
vào mỗi đêm khuya.
-Em nhớ
nhiều không ?
-Em
khóc, em nhớ nhiều tuổi
thơ của em ở Hà Nội.
-Đã
mười năm đất nước chia
cắt.
Bữa ăn như trỗi dậy một giấc mộng đời. Sự bình thản
trên
gương mặt Ninh Hà, giọng nói ấy nữa làm tôi bâng khuâng nghĩ đến một
chế độ
Cộng Sản khắc nghiệt đối với tòan dân miền Bắc. Tôi đã được đọc cuốn
Nhân Văn
Giai Phẩm. Trước khi quen Ninh Hà , tôi gặp An. Hình ảnh thiếu nữ băng
qua cánh
đồng cỏ trong giấc mơ để trở về chốn làng quê của mình sau ngày rời xa
Hà Nội,
bóng dáng đó mãi hòai đem lại cho tôi một tình cảm thân thiết, nhớ
nhung. Tôi
hiểu rất rõ những tấn thảm kịch về cải cách ruộng đất, về những cuộc
đấu tố dã
man đối với những người ở lại như ông bà cụ của Ninh Hà bị ghép vào tội
địa
chủ, và tôi cũng đã được đọc những trang bút ký kiên gan bền chí của
người dân
Nghệ An trong cuộc nổi dậy ở Quỳnh Lưu.
Vậy là, biết bao nhiêu người thân của gia đình Ninh
Hà
đành giấu biệt đời sống khổ ải của mình trên đất Bắc. Liệu, có ai tìm
đường
trốn thóat vào miền Nam.
Ninh Hà lặng im ngồi đó như pho tượng. Những giây
phút
qua với sự suy tưởng và bao nhiêu hình ảnh từ những trang sách trong
văn chương
miền Bắc hiện lên làm tôi tưởng thời gian đi qua lâu lắm.
-Thời
gian sẽ làm cho chúng
ta già đi, nàng nói.
-Em
đừng bi quan. Ở đây đi ra
biển chừng bốn cây số. Em có thích tắm biển không ?
Ninh Hà vụt đứng dậy đưa tay qua nắm giữ lấy hai vai
tôi.
-Em vào
thay quần áo đi.
-Anh
lúc nào cũng nói với em
lời dịu ngọt.
-Với
em, là hơn hết.
-Rồi
sao nữa.
-Rồi
anh sẽ có được tất cả.
-Không
có gì hết. Hoàn toàn
không .
Tôi đem mâm cơm ăn xong xuống bếp. Ninh Hà mặc quần
áo
xong, chờ tôi. Tôi rửa mặt cho tỉnh táo, sửa lại quần áo một chút.
-Em
xong chưa ?
-Anh
hỏi một câu ngớ ngẩn.
Tôi thấy cặp mắt Ninh Hà có vẻ lo ngại. Khi tôi tới
sát
gần, nàng vẫn đứng yên.
-Áo
trắng em mặc là tiếng nói
của anh.
Đôi mắt Ninh Hà sáng lên một nụ cười. Và rồi, nàng
để yên
cho tôi đặt tay lên áo nàng mở nhẹ hai cúc áo trên.
Khi tôi đưa hai bàn tay áp lên đôi má Ninh Hà, đầu
tôi
cúi xuống và tôi có cảm giác mình buông một giấc ngủ trẻ thơ trên ngực
nàng.
Tôi ngửi mùi vị thơm sữa ướt. Trên ngực Ninh Hà in lên một khỏang ánh
sáng từ
lớp sữa đọng. Tôi ngừng hôn sau giây lát, rồi lại hôn lần nữa trên ngực
nàng.
Vì có ý định đi tắm biển nên chúng tôi mang theo
quần áo,
máy ảnh, và cả bánh trái bỏ chung vào túi xách. Nắng chiều dịu hẳn. Gió
mát,
cảnh làng quê thoang thỏang vị mặn của muối biển trộn cùng
cát và lá cây. Không gian trôi giạt từng đợt
sóng, từng tảng mây trời dâng lên cao trong cảnh khói lam chiều lan tỏa.
Chúng tôi đi bộ, vui với câu chuyện. Khi gặp con
đường
chính của làng, một rặng tre trải dài. Nhà ở hai bên thưa thớt. Tôi đưa
Ninh Hà
ghé thăm gia đình mấy người bà con trong dòng họ còn ở đây. Những người
thân
của tôi, ai cũng hỏi chuyện về Ninh Hà, về gia đình nàng. Đây là một cô
gái ở
trên tỉnh mới về, lạ lùng, thân thiết. Nàng thật đẹp, rồi không biết
người làng
quê ở đây đợi chờ đợi bao nhiêu năm nữa nàng mới trở lại.
Mỗi nơi, chúng tôi ghé thăm chừng nửa giờ. Áo trắng
Ninh
Hà mặc in dưới bóng tre và gây niềm vui cho ánh nắng. Con đường làng
dài một
cây số. Có một quán hàng nằm cạnh ngã ba. Về phía bên kia, gần với núi,
một
ngôi làng khác xuất hiện. Trong quán, có một vài người khách ăn. Chúng
tôi vào
quán mua bánh ướt, và mấy chiếc bánh lá. Lúc sáng ở quán hàng trên
quận, chúng
tôi có mua bánh chưng và đem theo trong túi xách. Bây giờ mới ăn cơm
xong chưa
thấy đói, nhưng ra biển tắm một hồi sau chắn là đói. Rất có thể, hai
chúng tôi
ở lại ngòai biển đến sáng mai mới về vì đêm nay có trăng.
Bây giờ, con đường cuối làng sẽ đưa chúng tôi qua
con
suối, vượt khỏi đây, chúng tôi sẽ đi lên những đồi cát.
Hai chúng tôi dừng lại nhìn con suối chảy, nhìn cảnh
trí
chung quanh rồi xắn quần lên để lội nước. Túi xách tôi quàng dây chéo
qua
người.
Nhìn đôi bàn chân Ninh Hà mới tinh, trắng nõn, tôi
nói:
-Ở đây
ngày xưa có một trận
lụt lớn.
Nàng cười, hỏi lại tôi:
-Anh có
bịa chuyện không ?
-Thật
chứ.
-Không.
-Tại
sao em nói không ?
-Em
biết anh bịa chuyện ra để
được nghe tiếng em nói với anh.
-Cũng
đúng với ý anh. Quả
thực ngày xưa ngôi làng này ngập nước vì một trận lũ lụt. Và sau nhiều
năm vắng
tin, có một cô gái từ nơi đâu xa lạ đã đến ngôi làng này.
-Đi bộ
mệt đứt hơi. Làm gì
còn sức mà trò chuyện với người mình không quen.
Nước dòng suối trong vắt. Ánh nắng theo dòng nước
trôi
đi, nhưng đôi bàn chân Ninh Hà được giữ lại. Mỗi một dấu vết, vẽ lại y
nguyên
đôi chân của nàng. Thời gian đưa chúng tôi qua dòng suối tưởng chừng
lâu lắm.
Khi ngước mắt trông thấy những đồi cát đằng xa, tôi
bỗng
nhận thấy cảnh vật trở nên sáng hơn. Và nơi đó là đồi cát của khu nghĩa
địa.
Những ngôi mộ lớn nhỏ trải dài và rộng. Người khuất
mặt
nghe tiếng bước chân chúng tôi đi qua. Họ cũng biết, từ nơi đây chúng
tôi tìm
con đường ra biển. Và, chúng tôi cũng tưởng rằng, nắng càng về xa một
xứ bạn
nào đó, đi theo là bóng dáng những đàn voi.
-Anh có
chiếc áo mới mặc Tết
của mợ cho.
-Chà,
anh đúng là con cưng
của Ba Mợ.
-Em
không hay gì cả sao ?
-Không.
Hôm đó, em không có ở
nhà.
Ninh Hà đưa mắt nhìn qua tôi như dò hỏi. Tôi nói:
-Chiếc
áo của mợ, cũng bảo
anh ráng đợi chờ em.
Đôi khi trên gương mặt Ninh Hà thay đổi một chút ánh
sáng. Tôi nắm lấy bàn tay người yêu. Và, từng bước đi, lòng chúng tôi
cũng đã
làm cho cát dưới chân trở nên dịu mềm. Cát vẫn còn hơi nóng, vì đây là
miền
biển.
Rồi không lâu, khung cảnh khu nghĩa trang im bặt
cuối
buổi chiều.
XII
Tối hôm ấy, Ninh Hà lịm ngất nhiều lần. Nàng tựa đầu
ngủ
trên cánh tay tôi. Mái tóc nàng xõa rộng, còn ướt át chưa khô. Trên
thân người
nàng còn dính những hạt cát trắng. Trên gương mặt và tòan thân nàng là
một vùng
ánh sáng. Dưới trăng, nàng đẹp như thiên thần. Biển mênh mông, vang dội
bao
nhiêu tiếng sóng nổi chìm trôi giạt lên bờ cát và lúc rút đi, như kéo
theo một
phần đời. Tôi để nàng ngủ yên với từng nhịp thở nhẹ đều. Yêu nàng, tôi
không
thể nói gì được. Có lúc, tôi cúi đầu xuống đặt cặp môi hôn khẽ lên vầng
trán
nàng.
Vào lúc đứng trên đồi cát nhìn thấy biển, hai đứa
tôi có
cảm giác như mình tìm thấy sự tự do đích thực trong cuộc đời. Giọng reo
vui,
chúng tôi cùng cất lên tiếng gọi biển. Và, hơn thế nữa, tôi đã gọi lớn
tên
người mình yêu, Ninh Hà ơi, Ninh Hà ơi, theo biển về đi. Rồi tay nắm
tay, chúng
tôi kéo nhau chạy. Ninh Hà vấp ngã nhiều lần, tôi chỉ có bổn phận là đỡ
nàng
dậy. Khi chạy ra tới biển, đứng trước biển tầm nhìn đã bao quát tất cả,
nơi rất
xa cũng như chỗ thật gần. Biển rất xanh, cát vô cùng trắng, vậy mà chốn
này rất
hoang sơ.
-Sao,
em vui không ?
-Anh
đừng hỏi ngớ ngẩn.
-Anh
yêu em
-Em
không yêu anh thì sao
-Thì
chẳng sao cả. Em muốn
tắm ngay bây giờ chưa.
Tôi chưa kịp phản ứng, Ninh Hà đã lao tới ôm người
tôi.
Hai đứa ôm chặt lấy nhau, hôn nhau với tất cả hạnh phúc vui mừng. Không
cần đợi
nghỉ mệt, tôi và Ninh Hà xuống biển tắm ngay.
Nắm tay nhau ra một quãng vừa sâu, tôi và nàng nhào
người
lên sóng sỏai rộng hai cánh tay bơi ra
xa. Sóng ngược nên chúng tôi bơi chậm. Càng lúc, càng xa bờ. Dừng lại
bên nhau,
đứng nổi giữa sóng biển chúng tôi nhìn xa rất xa. Tôi mong đợi có bóng
dáng một
con tàu di chuyển. Hoặc là nơi xa đó, có một ngọn hải đăng.
-Em có
nghĩ gì trong đầu
không ?
-À, để
em nhớ thử xem. Không,
em không nghĩ gì cả.
Tôi mỉm cười một mình, Ninh Hà hỏi:
-Còn
anh ?
-Anh có
được em.
-Thực
không có ai nghèo nàn
như anh.
-Có em,
anh chẳng cần giàu.
-Anh
chỉ sống trong tưởng
tượng thôi.
Nghỉ một lát, chúng tôi lại tiếp tục bơi. Với biển
rộng,
tôi tin rằng mỗi chúng tôi đều có một hòai bão sau này.
-Em
không lập gia đình sớm
chứ Ninh Hà?
-Em
chưa biết.
Mặt trời sắp sửa lặn. Hai đứa tôi ngừng lại bên nhau
và
nhìn ngắm mặt trời chờ đợi từng khoảnh khắc nó sắp lặn. Những đợt sóng
vỗ nhồi
chúng tôi dập dềnh lúc va vào nhau, lúc rời xa.
-Ngôi
làng biển này có tên
không ?
-Không.
-Tại
sao không ?
-Dạ
thưa cô giáo, vì em không
biết.
-Em cho
anh không điểm.
-Anh
không nhớ ra, nhưng sau
này có thể là anh nhớ.
-Anh
không nhớ gì cả đâu. Em
muốn đặt tên cho ngôi làng này.
-Hay
đó. Biết đâu ở một
phương trời xa, ngày nào đó em nhớ đến.
-Em chỉ
nhớ biển thôi.
-Tại
sao chỉ có biển làm em
nhớ.
-Em có
thể lấy chồng ở nơi
xa.
-Em
linh cảm sự việc này hay
là chuyện có thực.
-Cả hai
đều không rõ.
-Thôi,
em đừng bận tâm. Anh
không hỏi gì thêm chuyện này nữa.
Mặt trời đã lặn. Từ ngòai xa, tôi và Ninh Hà nương
theo
con sóng bơi về bờ. Chúng tôi bơi nhẹ nhàng nhờ sóng nước đẩy nhanh.
Hai đứa lên bờ cùng một lúc.
-Ai là
người lo cho tiết mục
tới.
-Anh
chứ còn ai nữa.
-Nói
nghe buồn quá. Hai cánh
tay anh đã mỏi nhừ.
Ninh Hà đi lấy túi xách. Nàng lấy tờ báo trải ra và
bày
thức ăn. Bánh chưng, bánh ú, bánh tày, bánh ướt.
-Em đói
rồi.
-Ai đói
nhiều, ăn nhiều.
-Ngày
mai em có muốn trở lại
đây nữa không ?
-Tùy
anh.
-Chúng
ta chỉ có mười ngày
hè.
-Mọi
việc, em để anh lo.
Chúng tôi ăn ngon miệng. Những chiếc bánh chưng nhỏ,
lá
mỏng, nếp xanh in màu rêu tươi. Đang đói, ăn ngon miệng, hai đứa tôi sẽ
ăn hết
những thứ mang theo.
-Rồi
đây, biển sẽ làm cho anh
và em nhớ mãi đến những ngày hè.
-Chúng
mình phiêu lưu tới đây
là tưởng tượng hay đang sống thực bên nhau.
-Em
phải nhớ rằng, đại dương
có tiếng nói lớn hơn cả.
-Anh có
ý nghĩ đó bao giờ vậy
?
-Không
phải ý của anh. Anh
đọc trong tiểu thuyết. Tiểu thuyết luôn cho con người một sự tưởng
tượng phong
phú trước khi tiếp xúc với cuộc sống thực giữa đời thường.
-Nếu
sau này em xa anh.
-Anh
vẫn không bao giờ quên
em cả.
-Tuổi
trẻ không thể nào có
một cuộc đời đích thực.
-Sao mà
không ? Biển là nơi
vẫy vùng của tuổi trẻ.
-Đó là
tưởng tượng. Ở trong
sách vở, biển luôn mang một màu xanh cho con người dễ cảm nhận. Nhưng ở
vào cái
tuổi chính đáng với cuộc đời, biển làm cho người ta lo sợ.
-Rồi
đây, mọi việc sẽ ra sao
? Có gì sẽ xảy ra với những điều chúng ta linh cảm.
Chúng tôi ăn hết gọn. Có vẻ, từng miếng ngon trở nên
vô
tình vì câu chuyện của chúng tôi nói về biển có tính cách lo ngại, nghi
ngờ.
Ninh Hà để cho tôi dọn dẹp. Nàng mở chai nước, uống vài ngụm. Tôi nghe
hơi thở
nàng trút nhẹ ra sau cái cảm giác ăn uống đã no. Nàng cười, mắt nhìn
tôi, rồi
hướng về xa nơi đó khi bóng nắng mặt trời vừa tắt.
Tôi đứng lên, cầm tờ giấy báo đã gói gọn đem tới bỏ
vào
thùng rác để ở gốc cây. Khi trở lại, tới gần người yêu tôi dừng một
chút để
ngắm nàng.
-Chúng
mình về đây với biển
vắng để vui hưởng những ngày đầu hạ.
-Anh
không sợ em sẽ xa anh
sao ?
-Không.
Tôi tới ngồi xuống bên người yêu, nói:
-Có
chứ. Ngày mai, không phải
là sự mong chờ mà thực sự để nhớ. Ai cũng bồn chồn nghĩ tới ngày mai để
được
nhớ về mình. Luôn luôn, ngày sắp tới là như vậy. Bây giờ em đang ở bên
anh.
Ninh Hà đưa chai nước qua cho tôi. Đây là phần nước
nàng
để dành. Tôi chợt có ý nghĩ, trong tình yêu, hẳn nàng đã sắp sẵn cho
tôi một
chỗ nghỉ ngơi bên nàng, và lúc đó, chỉ có mình tôi là nàng nhớ thôi.
Nước uống mang mùi vị vừa nhạt, ngấm hương thơm sau
đó
khi mình tìm lấy một cảm giác cho mình.
Trời đất vẫn còn lãng đãng bóng dáng buổi chiều. Nơi
đây
hoang sơ, cả cát trắng và cây cỏ. Gió biển đang thổi lạnh. Người tôi
yêu luôn
đưa mắt ngắm biển. Khi gió biển đầy hơi, từng đợt gió phiêu bạt tràn
vào bờ hất
tung mái tóc của nàng làm tôi cảm thấy vui với ý nghĩ, nàng đi một mình
trên
biển với cánh buồm nâu căng gió. Gió thổi trùm kín mái tóc của nàng,
tôi lại
nghĩ cánh buồm này sẽ gợi cho tôi nhớ đến một bài hát. Hai đứa lặng lẽ
bên nhau
nhìn ra biển. Thế nhưng, chúng tôi chẳng chờ đợi, chẳng tìm một ý nghĩa
nào
trừu tượng trong tiếng nói của biển. Và, nếu mà nghĩ tới, tiếng nói đã
xa mù,
khuất dạng. Tối nay, trời sẽ có trăng sáng. Và, đang lúc này đây chúng
tôi được
nhìn thấy bóng đêm từ ngòai xa ùa tới, phủ lên bờ biển sự im lặng, sự
đợi chờ,
còn lại hai đứa tôi trong một niềm an ủi bên nhau. Hạnh phúc có thực.
Tôi mở
rộng bàn tay nắm lấy sự bao dung của biển, đây là phút Ninh Hà và tôi
gần gũi
nhất.
-Anh
thương em không ?
-Anh
thương em.
-Nếu em
phải đi xa, anh buồn
không ?
-Anh
biết, anh không ngăn
được em khóc. Nhưng anh luôn nhớ giọng nói của em, và khóc một mình.
Ninh Hà khóc. Tôi có ý nghĩ đó, và nàng đang khóc.
Những
giọt nước mắt lăn xuống bên gò má nàng. Ngồi bên nàng, tôi bỗng lo sợ
bóng tối
phủ xuống, và đêm nay sẽ rất lâu với thời gian dự tưởng.
Hai người đứng dậy. Bên nhau, chúng tôi bước đi và
cầu
mong sự yên bình. Những dấu bàn chân của tôi và nàng để lại trên cát
không bày
tỏ một duyên cớ, một cơ sự nào cả. Ngày mai đây, chúng tôi rời xa biển, và tiếng nói của biển quá mênh mông.
-Một
ngày nào đó, một mình em
nhớ lại hết.
-Không
đâu.
-Em có
nghĩ là mùa hè vẫn tồn
tại.
-Không.
-Thế
nào mùa hè cũng trở lại
với anh, dù về sau, anh không còn gặp em nữa.
-Anh đi
đâu ?
-Anh
muốn đi xa.
-Nếu em
không mong lấy chồng
nữa.
-Sao mà
không được. Em đã
chọn lựa rồi.
-Có thể
là như thế thôi. Hòan
tòan, em không mong đợi.
-Anh
rất muốn em tự do theo ý
mình.
-Nếu em
lấy anh, anh bằng
lòng không ?
-Anh
chờ đợi em đến lúc nào
cũng được hết.
-Em
muốn anh nói bây giờ.
-Về
nhà, sao ?
-Về chứ.
Chúng tôi quay trở lại nơi chỗ cũ. Những bước đi nhẹ
đều.
Mỗi bước để lại trên cát, sóng sẽ xóa lấp đi. Những đợt sóng lên bờ
nghe ấm áp,
mỗi lần nó xóa dấu vết, chúng tôi cùng có ý nghĩ, nó sẽ vẽ lại từ tốn
bằng ý
nghĩ chân thực của chúng tôi.
Trăng sáng đã đầy. Với ánh trăng, biển không muốn
trải
rộng. Trăng sáng xuất hiện bóng chị Hằng. Vậy là chỉ có một bóng sáng
cho hai
người. Tôi chẳng hề dám so sánh mình với biển. Biển quá rộng, mang mang
mối
tình lớn của vũ trụ. Chúng tôi đây chỉ có hai người.
Hai người cùng ngồi xuống như thể là hai người khách
đợi
con tàu đến. Bỗng nhiên, tôi thấy một vệt sáng lạ lùng trên mái tócNinh
Hà ,
tưởng chừng như vệt sáng này đổi màu tóc
nàng. Thì ra, đấy là nỗi buồn chị Hằng rọi xuống, có
vẻ như chị ghen
tuông một mối tình. Giữa biển bao la, trên trời cao chị rất sáng, nhưng
một
mình. Nỗi buồn này của chị, dù có phép lạ, chẳng thể nào chị biến hóa
trời đất
lúc này trở nên đen tối.
Một giọng lạnh lùng, cô gái nói:
-Về
thôi anh. Đêm đã lạnh.
-Em
đứng lên đi.
-Anh ở
lại một mình nghe.
-Ờ, anh
ở lại đây.
Tôi trả lời cô gái bằng một giọng ngái ngủ. Tôi khép
mắt,
chập chờn trong khỏanh khắc. Cô gái vừa bỏ đi, đã trở lại.
-Về,
thôi anh.
Tôi đứng dậy từ bàn tay nàng kéo lên. Bỗng dưng,
nàng
cười lớn.
-Anh
không nhận ra em là ai
sao ?
-Anh đã
nhận ra em.
Ninh Hà lao người tới.
-Anh sợ
em không ?
-Có.
-Đừng
sợ. Em không phải là
biển.
-Nhưng,
em bảo anh hãy đợi
chờ.
-Thôi.
Em là cuộc đời của
anh.
Bên nhau, tiếng nói đang thì thầm. Vậy là, từ buổi
chiều
rời khỏi làng quê, rời khỏi căn nhà của mình, chúng tôi đến đây với
biển. Và,
nàng bảo tôi ở lại đây với nàng.
Tiếng nàng nói:
-Có lúc
sự trống vắng làm cho
con người cảm thấy hạnh phúc.
-Hạnh
phúc trong cuộc đời ở
trong giây phút muốn chúng ta nói thật.
Cảnh trăng sáng trên biển thật mầu nhiệm.
-Anh và
em luôn nhớ đến nhau.
-Bao
nhiêu năm tháng sẽ qua
đi. Rồi đến một ngày, anh nhớ lại hết những gì em đã nói với anh.
-Nhìn
con trăng, anh tính
được giờ không ?
-Có lẽ
giờ này, đã nửa đêm.
-Anh
nằm xuống đi. Gối đầu
trên tay em.
Tôi ngả nhẹ đầu trên cánh tay Ninh Hà. Hai người nằm
bên
nhau trên cát. Ninh Hà tháo chiếc đồng hồ đeo tay đưa cho tôi. Tôi ngồi
dậy, mở
túi xách bỏ chiếc đồng hồ ở ngăn phía ngòai.
Tôi nằm xuống, lúc này tay cánh tôi trải ra để Ninh
Hà
tựa đầu. Một chút yên lặng, môi tìm môi, hai người hôn nhau cảm thấy ấm
áp.
Trên cặp môi Ninh Hà hồng tươi như cánh hoa. Không còn có cảm giác về
sự nhiệm
mầu của ánh trăng, yêu nhau, trong cặp môi quấn quít, trong vòng tay ôm
chặt
chúng tôi lăn mình trên cát. Những hạt cát mềm mại bám vào thân thể
chúng tôi.
Mỗi lúc, Ninh Hà càng thở nhanh. Nàng chuyển động rồi trườn mình như
con rắn.
Tôi cố gắng tự chủ, nén hơi thở nhiều lần. Tôi nghe tiếng Ninh Hà gọi
tên tôi.
Tôi đáp lời ngay bằng cái tên của nàng. Nàng đã qúa mê đắm, tột đỉnh
với từng
phút khóai cảm của ái ân, và trong cơn mê sảng, thác lọan nàng gọi tên
tôi
nhiều lần tưởng chừng tôi đang vắng mặt. Tôi không đáp lời, chỉ để cho
nàng
luôn cất tiếng gọi. Nhưng vẫn chưa hết, chưa thể nào ngưng, tôi vẫn còn
giữ
được sự chừng mực qua từng hơi thở của mình. Ninh Hà lịm ngất đi rồi.
Nàng trôi
giạt qua trí tưởng tôi như một con thuyền, và tôi đang cố bám giữ. Càng
lúc,
tôi siết chặt lấy nàng cho đến phút giây ngạt thở, bất ngờ, chúng tôi
buông rời
ra với hai cánh tay lỏng lẻo.
Ninh Hà nằm giấu mặt trên cát. Tóc nàng xõa tung.
Nàng
cất tiếng hỏi tôi, nàng ở đâu. Rồi thiếp ngủ, nàng nằm đó một mình lạnh
lẽo.
Hình ảnh nàng khỏa thân nằm trên cát biển dưới trăng đẹp lạ lùng. Tôi
tưởng như
nàng đã chết. Nàng rũ rượi, ỏai mình trong giấc ngủ.
-Anh
yêu em, em quí giá vô
ngần.
Tôi cúi xuống hôn, nói nhỏ bên tai nàng. Nàng không
nghe
gì nữa cả. Nàng quá mệt, ngủ như chết. Tôi ngồi lại một mình bên nàng,
nghĩ đến
kiếp sau của nàng, nhớ lại khung cảnh lúc ban chiều khi hai chúng tôi
tới đây.
Chị Hằng vẫn để mắt nhìn xuống biển, nhìn xuống thấy người yêu của tôi
nằm khỏa
thân, nhìn thấy nỗi đơn độc của tôi. Chốc lát, bỗng dưng sóng trôi giạt
không
còn thấy dấu vết gì nữa. Trong trí tưởng tôi, tất cả trở nên xa vời, và
tôi chỉ
còn mường tượng thấy hai sợi tóc của tôi và Ninh Hà cột buộc lấy nhau,
thấy
quần áo chúng tôi gói lại với nhau giờ đang lênh đênh, vật vờ trôi trên
biển.
Tôi cũng nhớ lại điều tôi nói với Ninh Hà lúc nhìn cảnh mặt trời lặn.
-Ngủ đi
em.
Ninh Hà trở người, cựa mình rồi ngủ tiếp. Tôi ôm giữ
chặt
lấy tấm thân kiều diễm, yêu quí của nàng, và nếu nàng là một con thuyền
thì tôi
và nàng sẽ theo biển đi xa.
Bình minh, ánh sáng hồng tươi của trời đất khẽ đánh
thức
nàng dậy. Chúng tôi mở túi xách lấy quần áo đem thay, mặc vào. Bây giờ,
hai
chúng tôi đã là vợ chồng rồi nên không có gì bẽn lẽn cả.
Về đến nhà, Ninh
Hà lại ngủ vì còn quá mệt. Tôi đọc sách, xong tự mình lo cơm nước. Một
ngày lại
hết, đêm về, và chỉ còn lại đêm này thôi.
Khỏang ba giờ sáng tôi thức dậy. Một mình, tôi đun
nước
sôi để pha cà phê, rồi nấu cơm. Tôi cảm thấy mình đi tới tuổi trưởng
thành và
yêu Ninh Hà hơn hết. Ngày mai đây, nói khác đi là tương lai như thế nào
chưa
biết, nhưng từ nay, muôn kiếp sau nữa, tôi và Ninh Hà luôn có nhau.
Trời sáng hẳn. Tôi đánh thức Ninh Hà dậy. Ninh Hà
luôn có
được một vẻ đẹp trên gương mặt lạ lùng, gợi cảm lúc vừa mới ngủ dậy.
Nàng để
cho tôi đặt môi lên miệng nàng hôn trước khi nàng đi rửa mặt. Hai người
hôn
nhau rất lâu, vì chốc lát nữa, chúng tôi phải đi, rời quê nội ra quê
ngọai, đến
cuối ngày mới có thể bên nhau để ôm ấp, ân ái. Tối hôm qua, vợ chồng
tôi qua
thăm anh Huề . Cả anh chị hết sức cảm động trong chuyến về thăm lần này
của
tôi, nhất là bên tôi có một người bạn gái đi cùng. Tôi không nói rõ với
anh về
cơ duyên này. Vì rằng, chỉ hai chúng tôi hiểu được nhau trong chuyện
này thôi.
Cũng như tôi, Ninh Hà tỏ ra sự ân tình với người thân của bạn mình,
chồng mình.
Nàng mở ví, lấy một ít tiền để cho ba cháu nhỏ con anh Huề.
Vợ chồng tôi ra đi sớm. Đường làng quê trong buổi
sáng
còn sương ướt, hương quê thật là êm đềm. Vẫn giữ hồn quê trong lòng,
nhưng
chúng tôi không quá sức quyến luyến.
Lên tới quận lỵ Hải Lăng, chúng tôi ghé vào quán ăn
ở
chợ. Buổi sáng sớm sực nức mùi vị các món bún, cháo, và các thứ bánh
vừa mới
nấu xong. Tôi và Ninh Hà ăn bún, sau đó, thêm một chiếc bánh chưng và
uống cà
phê. Mới qua đi ít ngày hè, tôi và Ninh Hà thấy đổi khác, ý thức được
sự trưởng
thành, tình nghĩa vợ chồng và đã hẳn từ nay chúng tôi lo nghĩ đến tương
lai.
Ngồi nghỉ nửa tiếng, ăn uống xong, vợ tôi trả tiền
và
chúng tôi rời quán ngay lúc này.
Quốc lộ I song song với đường xe lửa. Con đường ra
tỉnh
vắng vẻ, chúng tôi đạp xe thong thả và vui trong tiếng chuyện trò. Tôi
hỏi vợ
tôi:
-Em
thích con gái hay con
trai ?
Ninh Hà đâm ra ngượng ngùng, cười đáp:
-Mới
lấy nhau có ít ngày mà
đã mong rồi.
-Không,
anh chưa mong. Nhưng
anh muốn được biết chút riêng tư của em.
-Anh
ước mơ như thế nào em
cũng vậy. Em đã là vợ của anh, tất cả của anh.
-Cám ơn
em. Anh có một ý nghĩ
chân thực là anh và em thương yêu nhau hết kiếp này đến kiếp khác. Anh
không
mong gì con cái, cũng không mong trẻ mãi như thế này. Anh ước mong em
và anh là
vợ chồng suốt đời nhau. Anh ước mong em và anh có bên nhau không còn ai
nữa
khác. Anh và em ở bên nhau qua nhiều thế hệ, qua nhiều kiếp người, qua
tất cả
các dòng họ từ khởi đầu chúng ta vợ chồng, rồi là con cái, rồi là ông
bà, tổ
tiên, rồi trở về lại ban đầu theo hướng đi vòng tròn của quả đất.
-Em
cũng có ý nghĩ đó, anh
biết không ?
-Chúng
ta thương yêu nhau vì
chúng ta hiểu nhau. Trong anh, có em là một người mẹ. Trong anh, có em
là một
người bạn. Trong anh, có em là cô em gái. Trong anh, có em là người
yêu, và giờ
đây, em đã là vợ của anh.
-Thương
em lắm, biết không ?
-Thương
anh lắm, biết không ?
-Cả
hai, không ai biết hết.
Cả hai đã thuộc về con người của trời, của đất, và chúng ta rất giàu có
thiên
nhiên.
Chúng tôi phá lên cười. Đòan tàu vừa chạy qua cầu ầm
ầm,
rồi mất hút. Có ai đó ngồi bên cửa toa nhìn thấy chúng tôi. Hạnh phúc
không
diễn tả hết được, vợ chồng tôi như thể muốn khóc.
III
Tàu rời ga với tiếng còi ngắn. Khói lõang tan chập
chờn
qua bóng nắng. Khi cố gắng vượt lên con dốc, tôi lùi một chút ra sau
vừa đạp,
vừa đẩy phụ xe Ninh Hà . Ninh Hà đang gắng sức, cố đạp nhanh. Lên khỏi
dốc,
chúng tôi trông thấy rõ con tàu. Con tàu khá dài, kéo chừng khỏang mười
toa cả
hành khách và hành lý. Và rồi, chúng tôi buông chân đạp cho xe đổ dốc.
Từ phía
bên này con đường chạy theo cánh đồng, tôi trông thấy ngôi nhà cũ của
tôi.
Hồi còi đòan tàu đã trôi xa, nhưng hẳn còn vọng.
-Lúc
này còn tàu chạy suốt
vào miền Nam không anh ?
-Vẫn
còn.
-Anh đã
đi máy bay chưa ?
-Chưa.
Em đi rồi ?
-Cũng
chưa.
Phong cảnh rừng, núi, rồi nhà ga hiện ra. Tới ngã tư
quốc
lộ, chúng tôi rẽ trái, từ quãng này đến nhà tôi nằm bên dưới ga chừng
ba trăm
mét. Nhà tôi ở, đối diện với tháp nước. Tàu suốt, hay tàu chợ đến ga
đều ngừng
lại lấy nước trong khỏang mười phút. Ngày trước, phía chái hiên có cây
trứng cá
mẹ tôi mở quán hàng ăn và bán giải khát. Ngày đó, sau buổi học ở trường
về đến
nhà, hoặc hai ngày nghỉ cuối tuần anh em chúng tôi luôn phụ giúp mẹ
phục vụ cho
khách ăn.
Căn nhà cũ được nhìn thấy làm tôi xúc động. Và tôi
thấy
lại quán ăn như hồi đó của mẹ tôi. Tôi chưa nói gì cho vợ tôi biết cả.
Hai
người đẩy xe đạp vào quán, dựng xe ở gốc cây. Có khách ăn, nhưng bàn
ghế còn
trống nhiều. Chúng tôi chọn chiếc bàn ngay dưới tàng cây trứng cá gần
chỗ hàng
rào. Bóng nắng in đậm ngòai sân. Một cô bé đến, đang chờ chúng tôi. Vợ
tôi gọi
cơm phần hai người, nước uống là trà đá.
Lúc này, ngòai đường thưa vắng nhưng đây là sự yên
lặng
bìng thường đối với cư dân vùng này mỗi khi có đòan tàu đến rồi lại rời
nhà ga.
Hình ảnh con tàu, nhà ga, bạn sẽ cảm thấy trong tiếng động quen thuộc
này làm
người ta nhớ đến vẻ lạnh lùng của nắng và khói tàu.
Ninh Hà cầm chiếc nón vải quạt nhẹ. Trời bắt đầu
nóng
gắt. Tôi cầm cổ tay Ninh Hà lật nhìn đồng hồ.
-Mình
đi lâu không anh ?
-Mình
đi gần hai tiếng đồng
hồ.
-Đi xe
đò mất chừng nửa giờ.
-Không
đâu. Cũng lâu, vì xe
còn ghé nhiều trạm gác và đón khách dọc đường.
-Anh đi
nhiều nên chi tiết
nào cũng nhớ.
Tôi nhìn lại Ninh Hà, sung sướng biết bao nhiêu với
niềm
vui. Và nay, Ninh Hà đã là vợ của tôi.
Bữa ăn mang ra. Khi cô bé dọn xong, lễ phép mời vợ
chồng
tôi dùng bữa, Ninh Hà cảm thấy vui với nụ cười thân thiện.
Hai người bắt đầu bữa ăn. Tôi nói:
-Ăn
xong, mình nghỉ quanh
đây. Chiều mát đạp xe xuống phố, thăm lại cảnh cũ của thành phố ...
-Sao
lại ngừng, nói tiếp đi.
Khi mà nói về em là anh say sưa, không bao giờ hết chuyện.
-Về
đây, em tìm lại được
nhiều kỷ niệm thân thiết của mình. Căn nhà cũ em ở, các ngôi trường em
đã học,
những người bạn của em, những con đường em thường hay dạo chơi.
-Em có
cảm tưởng từng chi
tiết anh nói giống như tàu đến từng ga xe lửa.
Bữa ăn ngon và câu chuyện vui, vừa cảm động. Tôi đọc
thấy
hạnh phúc in dấu trên gương mặt Ninh Hà bằng sự hồi nhớ với nhiều nét
thời gian
lúc đậm, lúc nhạt.
-Về quê
ngọai, còn xa nữa
không ?
-Chúng
ta về tới quê trước
khi mặt trời lặn.
-Anh
tính ở lại bao nhiêu
ngày ?
Nhìn Ninh Hà, một giọng vui tôi nói:
-Em rất
giống mẹ khi bà còn
trẻ. Và mẹ còn nói, em đẹp hơn mẹ hoàn toàn.
Giọng nhấn mạnh, Ninh Hà lên tiếng:
-Em chỉ
hỏi anh thời gian ở
quê bao lâu ?
-Anh
chưa nói hết ý. Anh nói
về mẹ trước, rồi đến quê mẹ, sau đó là con dâu thương quí của mẹ. Khi
các chi
tiết đầy đủ, lúc đó thời gian quê ngoại là tấm lòng của em đối với mẹ
cũng như
bây giờ, dù sau này không ở chốn quê nữa nhưng mẹ luôn nghĩ tới em.
Niềm vui của tôi hòan tòan gởi hết cho người vợ mình
mới
cưới. Nụ cười trên đôi mắt Ninh Hà lúc này như thể phác vẽ qua trí nhớ
tôi một
quang cảnh đồng quê, buổi sáng mờ khuất sương mù trên sông, buổi trưa
nghe quen
thuộc tiếng người gọi từ một mái nhà tranh, từ ngòai cánh đồng, trên
con đường
cái của làng, buổi chiều, mang mang một sự ngóng trông nhìn bóng nắng
mà đợi
những chuyến đò có ai sắp về, và cuối cùng, tôi nhớ ra, mỗi buổi chiều
như vậy
trên con đê làng, từ phiên chợ buôn bán xong mẹ tôi gánh hàng trở về và
khi
xuất hiện trên đường đê là đã thấy nhà ở của mình.
-Ăn nữa đi em.
-Còn
anh, sao không ăn. Anh
ngồi đâu cũng mơ mộng cả.
Khi thấy chúng tôi ăn xong, cô bé bưng khay trà ra
để cho
tôi châm thêm nước vào ly. Vợ tôi nhìn cô bé, lòng nàng vui.
Bên kia bãi đất trống, tháp nước đầy nắng. Nắng cháy
khô
cả một vùng. Hồi đó, ở đây nhà ở thưa thớt, nhưng từ dạo có cuộc di cư
từ miền
Bắc vào Nam nhà ga trở nên nhộn nhịp, số cư dân mỗi năm một nhiều. Tôi
đưa mắt
nhìn qua chỗ tháp nước, và nó, như là bóng dáng người bạn gợi tôi nhớ
đến một
thời kỳ đã sống ở đây, đã ở căn nhà này. Khi ba tôi bị đổi vào miền
Nam, tôi
theo ba tôi, rồi khi ở hẳn trong Huế, thì căn nhà này được bán đi. Nhà
mua, nhà
thuê, gia đình tôi ở nhiều nơi, nhưng nơi đây, với nhà ga cũ, kỷ niệm
của đời
tôi dường như luôn chìm nổi , vang vọng trong những hồi còi con tàu.
Xưa cũ ấy,
giờ đây, tôi đã tới tuổi trưởng thành.
Cuộc đời tôi, có một khỏanh khắc vĩnh cửu đó ù là
lúc,
tôi nhớ đến tháp nước con tàu dừng lại để lấy nước.
-Ăn nữa
đi. Em đang nghĩ
chuyện gì đó ?
Một thóang hiện của thời gian trên gương mặt hiền
dịu của
nàng.
-Em nhớ
lại nơi này anh ạ.
Vào một buổi trưa đó, em và ba xuống tàu và đã ghé quán ăn cơm, đâu như
chỗ này
đây.
-Cô bé
là em, bao nhiêu tuổi
?
-Đó là
năm di cư.
-Còn
chi tiết gì nữa không ?
-Còn
chứ, nhưng em không nhớ.
-Mười
năm, em ở đây bao nhiêu
năm ?
-Khỏang
hơn sáu năm. Như vậy,
em xa tỉnh này mới vài năm.
-Vậy là
em vẫn còn nhớ được
nhiều.
Tôi nhìn qua Ninh Hà, nói thầm với nàng trên cặp mắt
trìu
mến của mình:
-Bây
giờ, em đã là vợ của
anh. Chỗ này đây, nhà cũ ngày xưa của gia đình anh. Anh biết, anh đã
gặp em
rồi. Và, kỷ niệm cũ là cả một tâm hồn bao dung, chân thật, đón em trở
lại nơi
này.
Chúng tôi rời quán. Vợ tôi trả tiền, còn thừa tiền
lẻ cho
đứa bé. Khi chúng tôi đẩy xe ra khỏi cổng, chợt quay đầu vợ tôi trông
thấy con
bé nhìn theo có vẻ nghĩ ngợi.
Rồi vợ
tôi nói:
-Con bé
dễ thương quá.
-Em về
đây, gặp em, ai cũng
dễ thương hết.
-Thôi,
nước đường em uống
nhiều rồi.
-Không,
em là hương thơm của
trái cây.
Nói xong, vô cùng sung sướng tôi nắm lấy bàn tay
Ninh Hà
. Tiếp lời, tôi nói:
-Anh
quá mừng vui, hạnh phúc.
Đời anh, có được em là đủ. Em là cả một giấc mơ. Anh ước mơ có em không
chỉ
kiếp này thôi, mà bao nhiêu kiếp sau nữa.
-Có hai
tuần lễ nghỉ hè mà
anh mơ đến cả trái đất.
-Đúng
rồi, tên em, trên trái
đất này chỗ nào cũng tìm thấy. Và tên em, là những hoa thơm cỏ lạ.
-Em cám
ơn anh. Em sẽ ở mãi
bên anh, không còn xa anh nữa đâu.
-Em ạ.
Thực ra, chỉ có giấc
mơ cho anh ở gần bên em thôi. Với cuộc đời, chúng ta mỗi người mang lấy
một số
phận.
Tôi đưa Ninh Hà lên nhà ga. Chỉ có một vài thay đổi
trong
cách bài trí ở ngòai phòng đợi, còn hầu như vẫn nguyên vẹn. Ngày trước,
bác T.
làm Trưởng ga này là bạn thân với ba tôi. Nhờ bác, ba tôi có được miếng
đất để
làm nhà, và từ ngày ấy, sự gần gũi của chúng tôi với gia đình bác vô
cùng thân
thiết.
Tôi nói với Ninh Hà:
-Bác
gái mất trong thời kỳ
chiến tranh. Chuyến xe lửa bị giật mìn.
Với cặp mắt ngây thơ, cái nhìn ngơ ngác , người vợ
của
tôi có một vẻ đẹp lạ lùng. Cửa bán vé mở. Một giờ nữa có chuyến tàu từ
Đông Hà
vào, sau đó, đi Huế, rồi chuyển tiếp hành khách đi tàu suốt vào miền
Nam.
-Em đến
Sài Gòn chưa ?
-Chưa.
-Anh đã
đến Sài Gòn. Thành
phố đó to lớn, đông vui lắm.
-Anh
biết nhiều nơi nhỉ.
-Anh
biết Đà Lạt nữa. Đó là
thành phố đẹp nhất trên vùng cao nguyên.
-Anh đi
nhiều nên suốt đời cứ
sống trong mơ mộng.
Phía ngòai phòng
đợi, những hành khách đi tàu đã đến. Có xe lam và xe xích lô từ dưới
phố đưa
khách lên.
Đã hai giờ chiều. Chúng tôi rời ga, lên xe đạp thong
thả
theo con đường Trần Hưng Đạo đổ xuống dưới phố xa chừng độ bốn cây số.
Khi trên
đường ngang qua nhà cũ, vẫn là quán ăn như hồi trước, tôi nhìn lại bóng
dáng
ánh nắng trên sân, mái tôn, cây trứng cá ,
hàng rào cây ngăn với xóm nhà bên cạnh nằm dưới bên
cạnh con dốc đi ra
phía sau hồ nước và gặp lại cánh đồng hướng lên quốc lộ,
chỉ trong giây lát nhìn lại, tôi biết thời
gian đã thay đổi quá nhiều.
Có tiếng còi tàu vang vọng, trôi giạt, như thể hẳn
còn xa
lắm.
Khi vượt qua khỏi ngã tư,
Ninh Hà đạp xe chậm lại. Tôi hỏi:
-Em có
muốn ghé thăm những
bạn cũ của em không ?
-Không,
em chỉ thích ở bên
anh thôi.
-Chốc
lát nữa, em phải mời
anh uống nước sinh tố.
-Sinh
tố không ngọt bằng nước
đường.
-Ấy,
anh thích mùi vị thơm
của trái cây.
-Giọng
nói của em chua lắm.
-Nước
trái cây, thêm chút
giọng nói của em cho vào uống ngon lắm.
Giọng đùa vui và nhỏ, Ninh Hà nói bên tôi:
-Hai
ngày nay, anh uống sữa
của em nhiều rồi.
-Anh
uống thật ngon, cảm giác
lúc nào cũng lâng lâng, ngây ngất.
Giọng bình thường trở lại, vợ tôi bảo:
-Em chỉ
muốn nhìn lại khu phố
cũ và căn nhà mình ở.
-Anh và
em sẽ đến nơi đó.
Ngôi nhà bệnh viện có sân cỏ rộng, mái ngói đã cũ.
Chúng
tôi đang trên đường đi xuống tỉnh.
-Anh
biết em có một người bạn
rất thân ở đây.
-Hẳn
nhiên, không chỉ một
thôi mà nhiều lắm.
-Có một
người thôi.
-Thôi,
đừng có đố tìm. Làm
như hồi đó, em có quen anh.
-Cô bé
Ninh Hà ơi.
-Chà,
nghe lạ không ? Nhớ cô
nào đó ngày xưa, gọi tên cô ấy đi.
-Em có
nhớ câu chuyện lúc nãy
em nói không ?
-Sao mà
không nhớ.
-Có bé
à.
-Nữa.
Bộ muốn trêu em hay sao
?
-Hãy
nghe anh nhắc lại những
điều em đã nói, để em biết rằng, quán hàng chúng ta vừa ghé chỗ đó là
nhà cũ
của anh. Ngày xưa đó, mẹ mở quán hàng cơm và giải khát. Rồi vào một
buổi trưa,
có một người đàn ông đeo kính mát và một cô bé khỏang 8 tuổi vào gọi
cơm. Người
đàn ông mang chiếc cặp đen, cô bé mặc áo hồng, chiếc quần tây xanh và
đeo bên
vai túi xách màu vàng. Em là cô bé ngày đó, gặp em hôm đó, suốt đời anh
nhớ mãi
cặp mắt em.
-Thực
vậy sao ?
-Hoàn
toàn trung thực. Với cơ
duyên chứ không phải là nợ cuộc đời, anh hạnh phúc biết chừng nào khi
em là vợ
của anh.
Ninh Hà im lặng không nói gì. Tôi cũng không giãi
bày
thêm nữa. Nhưng sự yêu thương cho tôi có cảm tưởng, Ninh Hà đang nghĩ
đến trọn
vẹn đời mình từ một tuổi ngây thơ ngày đó, và thành phố hôm nay tôi và
nàng trở
về tìm lại. Hai chúng tôi đã trở về trong trí nhớ, cũng như trong tưởng
tượng.
Phía bên trái, nằm trên quốc lộ là chiếc cầu bắc qua
sông
Thạch Hãn. Sông này phát nguyên từ Như Lệ, một ngôi làng nằm ở cạnh
Trường Sơn
cách thị xã chứng 5 cây số. Nước sông sâu và xanh, đến ngã ba gặp sông
Định
Giang rồi đổ ra biển. Cửa Việt, nơi cửa biển này còn có nhiều con sông
khác nữa
tụ về.
Hai người đạp xe thong thả. Trần Hưng Đạo là con
đường
dài nhất từ nhà ga xuống đến Cổ Thành. Vào mùa đông, gió từ phía núi và
cánh
đồng trống thổi tới lạnh buốt vì ở quãng
này không có nhà ở mà chỉ nhìn thấy đồng ruộng phía dưới.
Khu bệnh viện tọa lạc trên một diện tích đất rộng,
tòa
nhà xây lợp ngói đỏ, có một sân cỏ là nơi chúng tôi thường chơi đá bóng
vào
buổi chiều. Trên sân này, cũng có một vài trận đấu dành cho người lớn,
hai đội
có mặc áo cầu thủ, có trọng tài, đông
khán giả và cũng là buổi chiều cuối tuần giải trí cho bệnh nhân được
giờ phút
thư giãn. Bây giờ, nhìn thấy lại cảnh cũ chỉ là sự hồi nhớ, và trong
tôi hầu
như vắng lặng. Tôi muốn nói với Ninh Hà, chính anh, mong em về thăm lại
thành
phố cũ của anh và cả thành phố đang mang nỗi nhớ mong, chờ em. Nắng
trưa hơi
ngầy ngật, uể ỏai như dòng nước chảy chậm theo con sông.
-Em có
vui không khi trở về
thăm lại chốn cũ ?
-Không,
buồn quá sức.
-Đừng
có giả bộ. Tôi biết
lòng cô vui.
-Anh
nói sai. Em đang buồn
quá sức.
-Còn
anh rất vui.
-Tại
sao anh không khóc.
-Uûa,
khóc để làm gì ?
-Người
ta thường khóc vì xúc
động trở về quê nhà.
-Đúng
rồi. Anh khóc lúc về
lại căn nhà cũ của mình.
-Tiếng
khóc thành niềm vui
khi anh có được em.
-Anh
đừng xúc động quá, trời
mưa bây giờ.
Chúng tôi vui trở lại câu chuyện. Lúc nãy, sự buồn
nhớ
trong tơ vương, trong tình cảm cổ điển gây mối chạnh lòng. Về thăm lại
Quảng
Trị, tôi hồi nhớ những kỷ niệm tuổi nhỏ, thời đi học, nghe những tiếng
nói luôn
thuộc về nơi chốn mình đã sinh ra và lớn lên. Về lại Quảng Trị, thành
phố này
cũng đã bao dung một tâm hồn khắc khỏai. Gia đình Ninh Hà rời miền Bắc
vào miền
Nam theo một triệu người di cư bỏ quê hương ngòai đó. Từ năm tám tuổi,
Ninh Hà
đã sống ở đây với những năm tháng lớn lên qua các trường tiểu học,
trung học.
Khi lên học Trung học, Ninh Hà không còn bé bỏng nữa, đã trở thành một
thiếu nữ
duyên dáng, xinh đẹp làm bao nhiêu anh học trò lớp trên cũng như bao
nhiêu cậu
học trò cùng lớp trồng cây si trên những con đường cô từ nhà đến trường
cũng
như từ trường về đến nhà. Không chỉ có một con đường ấy thôi, mà những
đường
phố trong tỉnh, nơi nào cũng có bóng bao chàng trai đứng lại trên vỉa
hè nhìn
ngắm cô dạo chơi vào ngày cuối tuần. Ai đó, ở trong lòng cô như là một
tấm ảnh
nhỏ mà tự tay tay cô viết một đôi giòng gởi tặng tôi. Và, bạn ngạc
nhiên vô
cùng, ngày đó, tôi không hề quen biết cô, mối cơ duyên để tôi và cô
quen nhau
và trở nên vợ chồng lúc này đây là hình ảnh chiếc áo nâu cô mặc vào một
buổi
sáng đó trong học giờ học chung môn tiếng Pháp, bởi rằng, chiếc áo đó,
cô nhắc
tôi nhớ lại hình ảnh mẹ tôi lúc còn trẻ. Về sau này, rất nhiều lần tôi
nhìn tấm
ảnh của mẹ tôi mà nhớ đến cô gái. Có lẽ, với đức tin về cái duyên trong
đạo
Phật, cô cũng tin rằng, hình ảnh người thân của tôi đã mang rất nhiều
cái bóng
dáng đích thực của cô trong một kiếp trước về sự liên hệ giữa hai
người. Vào
buổi sáng đó gặp cô, tôi có sự linh cảm về một mối tình tôi đã gặp cô
đâu kiếp
trước, và buổi gặp đầu tiên ấy, lại gợi nhắc tôi nhớ đến thành phố cô
đang ở
một ngày đó tôi đã dừng lại bước chân. Bởi vậy, tôi là người Quảng Trị
duy nhất
sống trong lòng Ninh Hà . Ít ra, tôi cũng nên nói rõ với bạn về cô, về
những
người thương yêu cô gái, và khi rời khỏi nơi này cô đã để lại không
mang theo.
Tuy nhiên, những kỷ niệm gồm thư từ, hình ảnh, những dòng lưu bút cô
gái vẫn
còn giữ. Tôi đã đọc, đã tìm lại những kỷ niệm đó thay cho cô trong
những buổi
chiều chúng tôi ở bên nhau trên căn gác. Với tấm lòng cởi mở của mình,
tình yêu
đối với cô luôn có thêm tình bạn. Nếu thiếu tình bạn, không bao giờ bạn
được cô
nhắc đến tên về sau này.
Bóng cây đổ xuống, che bớt nắng trên đường. Chúng
tôi đã
bắt đầu vào trung tâm thị xã. Xe cộ qua lại, những người đi bộ trên vỉa
hè, và
cả dãy phố đang buôn bán tấp nập. Tôi thấy lại những cảnh cũ còn nguyên
vẹn,
hơn nữa có sự đổi mới làm sáng sủa hơn. Trước đây, nhà ở hai bên vỉa hè
thấp,
có khỏang cách, giờ gần nhau hơn và có
một số nhà xây dựng thêm một hai tầng làm cho dãy
phố càng trở nên thanh
lịch. Tôi thấy lại tiệm chụp ảnh Vĩnh Phúc, nhà sách Sáng Tạo, nhà sách
Lương
Giang.
-Anh đã
ghé tiệm thuốc tây
nhà em bao giờ chưa ?
-Có
chứ. Tiếc là hồi đó không
thấy em ?
-Em đâu
có bán hàng. Tiệm
thuốc tây của bác Trác mà.
-Thời
kỳ đó, công việc của ba
ra sao ?
-Ba làm
trong phần hành quảng
cáo.
Nhà thuốc tây Giơ Neo nằm ở trung tâm chợ thị xã.
Bên
trái con đường nhỏ là Ty Thông Tin, và đối diện con đường vào chợ là
nhà sách
Tùng Sơn.
Khu chợ giờ này còn đông nên vợ chồng tôi phải gởi
xe. Dù
biết trước sự đổi thay, nhưng nhìn lại căn nhà cũ vợ tôi có một nỗi
buồn in dấu
trên gương mặt. Nếu như tiệm thuốc tây sang lại còn họat động, chúng
tôi có thể
ghé vào, mua một lọai thuốc cảm cúm phổ thông để tiện dịp xem lại bên
trong căn
nhà ở trước đây, nhưng chủ mới đã sửa sang lại thành nhà ở và có xây
thêm một
tầng lầu nữa.
Tôi và Ninh Hà đi
bộ trên con đường nhỏ đến trạm thông tin để nhìn phía bên hông nhà. Khi
vợ tôi
đứng lại nhìn khung cảnh cũ, tôi im lặng bên nàng. Tôi hiểu được những
gì nàng
suy nghĩ. Dù đây không phải là nhà riêng, nhưng đã có nhiều năm tháng
nàng sống
bên cạnh người thân thích của mình.
Thời gian cũ đã làm phai hết thảy mọi dấu vết. Có
một
quán nước rất là tiện để cho chúng tôi vào đấy nghỉ chân.
-Em còn
nhớ gì thêm về thành
phố này không ?
-Có chứ.
-Không
biết rạp hát Đại Chúng
có đổi tên. Ở đây, có trường trung học Nguyễn Hòang, có sân vận động,
vui nhất
là những ngày hè đi tắm sông.
-Em
thấy anh rất là hạnh
phúc.
-Không
hòan tòan cho anh, nếu
không có em đi cùng.
-Anh cứ
nhắc mãi.
Tôi cầm ly nước đưa lên miệng uống cùng hướng cặp
mắt
theo vợ tôi nhìn qua căn nhà cũ. Thực sự căn nhà đó không phải của gia
đình
mình nên đối với nàng cũng chỉ là một quang cảnh gợi lại ít nhiều về
cuộc đời,
về những người bạn, về một sự rung động có thể cảm thấy vui hơn là buồn.
Bên ngoài, tự dưng mang vẻ ủ dột với màu trời xám
đi.
Không lâu, một trận mưa đổ xuống. Mưa lúc đầu nhẹ nhàng, sau đó nặng
hạt.
-Ngồi
đây ngắm mưa thành phố
cũ.
-Anh
tưởng tượng nhiều quá.
-Không
đúng sao. Trời đang
mưa, anh được ngồi bên em.
-Mưa
lớn, chắc lâu tạnh.
-Em
thích đi dưới mưa không ?
-Đi.
Tôi trả tiền nước. Rời quán, chúng tôi đi qua một
cưả
hiệu tạp hóa mua hai chiếc áo mưa lọai rẻ tiền. Tôi chọn màu thuốc lá,
Ninh Hà
màu xanh lam. Trời đang mưa, hai chúng tôi đi bên nhau đến chỗ gởi xe
đạp. Mới
đầu buổi chiều, từ tỉnh lỵ về quê ngọai của tôi có hai con đường đi.
Con đường
ngắn nhất là về lối đường quận Triệu Phong, qua đò ngang An Dạ tuy
nhiên trời
mưa nặng hạt rất là khó đi. Đường thứ hai, ra thị xã Đông Hà rồi theo
đò dọc
trên sông Hiếu Giang. Tính ra, đi con đường này phải hơn hai giờ đường.
Không có mục đích gì ngòai chuyện đi chơi phố nên
khi lấy
xe đạp, chúng tôi đi lang thang, tiện thấy quang cảnh lạ và hay của phố
nào
chúng tôi đi qua phố đó. Rồi chúng tôi sẽ đi ra con đường bờ sông, và
dọc theo
con đường này ngắm lại dòng sông cũ.
Tôi nói với Ninh Hà :
-Thành
phố này rất là nhớ em.
-Anh
phải làm loãng bớt tình
cảm lãng mạn đi.
-Không
bao giờ anh nghĩ sai
về em. Ngày xưa em sống ở đây, con đường nào cũng có bóng dáng em, cũng
có
người gọi tên em. Mỗi nơi, tên em là nỗi nhớ, kỷ niệm,
ngày tháng đi liền nhau. Ngày xưa cũ, hình
ảnh em ở khắp mọi nơi.
-Anh
quá yêu em, rồi cái gì
của em cũng đẹp hết.
-Hơn
bao giờ hết, có đôi tình
nhân đi dưới mưa.
-Bây
giờ em và anh cùng cất
tiếng hát.
-Tuyệt
vời.
Mưa càng nặng hạt. Thành phố đang chịu trận hứng
mưa.
Nước mưa chảy tràn giữa lòng đường. Gió thổi rào rạt, những tiếng động
của bầu
trời, những nơi xa gần trong thành phố, những hình ảnh lúc hiện, lúc
khuất, ở
trong tâm trí chúng tôi là quá khứ, là hiện tại, và ít nhiều mộng ước
tương
lai. Thế nhưng, tất cả thuộc về tuổi thơ mà không nhớ ra được ngày
tháng của
mình.
-Trong
mưa, có tiếng nói của
em.
-Có
đúng thế không ?
-Bao
nhiêu lần anh đã nghĩ,
nghe âm thanh tiếng em nói là nghe những cơn mưa trong buổi chiều.
-Anh có
luôn tin rằng, tiếng
em nói là nhịp đập tim anh.
-Đó là
một câu hát. Câu hát
này, mỗi khi em hát lại, cho anh một bài hát khác. Ít ngày tới đây nữa
thôi...
Lúc này, giọng nói Ninh Hà như thể là những giọt mưa
trên
lá. Tôi nghe tiếng nói của nàng và hình dung những hàng cây hai bên
đường,
những chiếc lá xanh ướt, những nụ cười
của tuổi hai mươi đầy ắp mộng ước và tan biến rất nhanh. Nàng nói với
tôi bằng
một giọng dịu dàng và hơi buồn, như thể bầu trời này là một sự hòa hợp
nghiêm
trang để những chuyện nàng nói ra, về sau này, sẽ được ghi chép lại
trong nhật
ký. Tôi đang nghe, đồng thời, dành cho
cặp mắt mình như là một tấm gương để in dấu vẻ đẹp
gương mặt Ninh Hà qua ánh sáng cơn mưa buổi
chiều ngòai thành phố.
Bên kia sông, thành phố đã khuất dạng. Nếu có ngỏanh
đầu
lại chỉ còn nhìn thấy những lớp mưa dày đặc trùm kín tất cả bóng lá tối
xanh
dài theo những hàng cây trên con đường ven theo dòng sông. Tuy nhiên,
rồi chúng
cũng có thể nhận ra khi trông thấy một phần những viên gạch nhô lên dọc
theo bờ
tường khu Cổ Thành.
Ninh Hà nói:
-Nếu
sau này xa nhau, anh
đừng có luyến tiếc.
-Không
đâu.
-Không
được nhớ nhung gì cả.
Hãy nghe lời em.
Ở ngọai ô không có con đường trải nhựa. Những con
đường
đất lớn nhỏ, ngang dọc hay cắt chéo, hoặc tới các ngã ba mỗi lúc như
thể hình
dung ra được trên một tấm bản đồ. Trên mỗi con đường đều có nhà ở, có
lạch,
suối, sông và đồng ruộng. Với cảnh trí này, chúng tôi cảm thấy một sự
bình yên,
thanh thản trong tâm hồn. Câu chuyện của chúng tôi có khi lan man,
nhưng dù
vậy, đôi lúc cũng buồn vì sự thương yêu và nỗi nhớ dành cho nhau. Bây
giờ đây
nghĩ đến chúng tôi, hẳn ra, bạn không sống trong tưởng tượng mà với
những cảm
xúc chân tình bạn thấy rằng tình yêu của chúng tôi được bày tỏ như thể
chúng
tôi hiện diện với cuộc đời. Mưa làm cho thời gian chậm và lâu. Chúng
tôi đạp xe
thong thả. Bên nhau, mưa buổi chiều trọn vẹn với bao nhiêu kỷ niệm và
mối tình
đang hạnh phúc. Sự đợi chờ của tôi là muốn được nghe những điều Ninh Hà
nói.
Tôi chẳng có gì phân vân, bối rối cả. Hòan tòan tôi ưng thuận theo mỗi
ý định
của nàng. Thực sự một chiều mưa như thế này làm chúng tôi nghĩ ngợi
nhiều. Đến
lúc nào mới xa nhau chưa biết, nhưng một ngày đó sẽ đến. Và ngày đó,
hai chúng
tôi hòan tòan bặt tin nhau.
-Em chỉ
cần giữ lại tiền mua
vé tàu thôi, tôi nói.
-Có, và
trong này còn có tiền
của anh nữa.
-Em giữ
hết đi. Em muốn để
hết cho em. Em nhớ hôm nay là mình về quê của mẹ.
-Về đâu
cũng xa xôi cả.
-Em
đừng quá lo lắng. Mẹ,
người mẹ luôn phải lo lắng cho bản thân mình bằng nghị lực và sự che
chở.
-Em
biết.
-Bây
giờ em có thể nhớ lại
những ngày cũ đó.
-Anh
nói sao ?
-Những
ngày mưa bão trong năm
đó. Lúc này, anh nhớ ra và nghe được rõ tiếng mưa, tiếng gió, cùng nước
lũ
trong mùa bão ?
-Làm
sao anh hình dung được.
-Em đã
nói với anh, em không
nhớ sao ? Bây giờ, anh chỉ cần nhắc lại, và em sẽ nhớ ra tất cả trong
giọng nói
của mình.
-Những
ngôi làng này, ngày
đó, em đã theo đòan học sinh đi cứu trợ.
-Anh
luôn đặt hết niềm tin
nơi em.
-Anh cứ
mãi sống với nỗi
phiền muộn. Hãy để cho thời gian đi nhanh.
-Vậy là
thời gian cứ bỏ mặc
chúng ta bơ vơ sao ?
-Anh
đừng nghĩ gợi.
-Em
cũng thế. Anh yêu em.
Quang cảnh ngôi làng dưới cơn mưa với những cánh
đồng
ngập nước đang trở lại trong trí nhớ Ninh Hà . Ninh Hà đang nhớ đến và
cố gắng
tìm lại những câu chuyện mà trước đây nàng đã nói ra với những người
bạn của
nàng. Nước mưa tràn ướt lên mặt, bầu trời xám, những tiếng động sấm sét
có lúc
trỗi dậy. Con đường làng vẫn ven theo các đồng ruộng. Có lẽ chúng tôi
bị lạc đường,
nhưng mà, những nhà ở hai bên cho chúng tôi nhận ra được từng dấu hiệu
để tin
rằng, mình đi đúng con đường mong tìm lại quê nhà. Mưa không lớn, nhưng
đều
hạt. Tôi cảm thấy ướt át.
-Em có
lạnh không ?
-Không,
nhưng quần áo ướt cả
đây.
-Có cần
nghỉ chân chốc lát
không em.
-Không,
mình cứ đi.
-Anh
nghĩ là em rất mong gặp
mẹ.
-Anh cứ
luôn đặt em vào trong
sự hồi tưởng của anh.
-Chẳng
phải anh và em là một.
-Không,
hai người khác nhau.
Mỗi người ở một nơi.
-Vậy mà
anh chẳng hay gì cả.
-Không
được ví von, ẩn dụ.
Bên trong tâm tưởng chúng tôi luôn nghĩ đến một con
sông
và dòng nước đang trôi chảy. Bây giờ, con sông xuất hiện. Nước mưa theo
dòng
sông tràn chảy, nơi chốn về trở nên xa. Tới một ngã ba, tôi hơi phân
vân định
hướng. Ninh Hà theo xe tôi rẽ trái, tôi định hướng về dòng sông. Càng
lúc, dòng
sông trở nên gần, trông rõ hơn.
-Anh
không muốn đi nữa.
-Sao
vậy ?
-Em
không thấy dòng sông chảy
mà lại không ngồi nghỉ chân sao ?
-Em
hiểu ý anh.
Chúng tôi dừng xe, và dựng bên một lều quán bỏ
trống. Bạn
nhận ra sự hợp lý của quang cảnh buổi chiều mưa ở vùng làng quê. Nào
con sông
chảy, nhà cửa đìu hiu vắng lặng, quán chợ bỏ hoang, nỗi buồn viễn
khách, vậy
nên đây cũng là cơ hội cho tôi và Ninh Hà nói thêm biết bao lời tâm
tình.
Không vào quán trú mưa, chúng tôi ra bờ sông ngồi.
Ninh
Hà nói:
-Em đã
ngồi bên anh. Nói gì
thì nói đi.
-Mình
còn hai cây số nữa, về
tới nhà.
-Anh
đừng có dẫn dắt kẻ khác.
-Em
thích ở lại đây một mình
không ?
-Đừng
bỏ em tôi nghiệp.
Đôi mắt Ninh Hà nhỏ đẹp sau nụ cười.
-Anh và
em cùng uống nước
mưa.
-Hứng
đi.
Tôi cầm lấy bàn
tay Ninh Hà để ngửa. Tôi cũng ngửa rộng bàn tay để hứng mưa. Nước mưa
chảy đầy,
chúng tôi uống. Tôi uống nước mưa từ bàn tay Ninh Hà , và nàng uống
nước trên
tay tôi.
-Nước
mưa ngọt quá anh.
-Nước
mưa ở tay em có mùi vị
trái cây.
-Nói
tiếp đi.
-Em
không giải thích cho anh.
-Không.
Ninh Hà bảo tôi nhích lại gần để nàng tựa đầu.
-Em ngủ
dưới mưa, nàng nói.
-Em ngủ
đi. Ngồi bên em, anh
nói chuyện với mưa.
Mưa lớn, con đường dọc theo sông trở nên vắng, chỉ
nghe
tiếng gió và những hàng cây ràn rạt làm rớt rụng những cành lá rớt
xuống đường.
Và, ở quãng này, lòng sông mở rộng. Bên kia, ngôi làng nhỏ mỗi lúc
trông thấy
cái bóng bị mưa gió đẩy lùi, càng xa khỏi cánh đồng. Trời mưa, những
căn nhà
ngói cũng như nhà tranh ở ven đường đều đóng cửa. Tuy nhiên, vẫn có
bóng người
đi và tiếng họ gọi nhau vang xa, rồi bạt khuất theo cơn gió đổi chiều.
Trên cao, mây trời xám bạc. Dòng
sông, nước cuốn mạnh chảy rất xiết.
Những cơn mưa mỗi lần trút đổ, kéo nhau, cuồn cuộn trên dòng sông. Ninh
Hà đã
ngủ yên giấc. Nàng ngủ dưới cơn mưa, tôi ngắm gương mặt nàng đẫm ướt
nước mưa.
Bỗng tiếng nàng cất lên hỏi:
-Anh
đang mơ nghĩ gì đấy.
-Tối
nay trời có trăng chứ em
nhỉ.
-Em
không phải cuốn lịch thời
gian.
-Em là
của anh. Lúc nào, em
cũng là riêng của anh.
-Anh
thực quá mơ mộng.
-Em
cũng thế.
Tôi thèm hôn lúc
mưa càng nặng hạt chảy tràn ướt xuống gương mặt nàng.
-Em
không uống nước mưa nữa
sao ?
-Anh
hứng đầy tay cho em
uống.
-Ngày
trở về, em nhớ đi bằng
xe lửa.
-Một
mình, em đi phương tiện
nào cũng được.
-Anh
mong tối nay trời có
trăng. Bây giờ, em ngủ đi. Ngủ đi đến lúc nào mưa tạnh.
-Mặc
cho mưa ướt, em không
ngủ nữa.
-Tối
nay, trước cảnh miền quê
thanh bình, anh và em ngồi ở thềm hiên ngắm trăng.
-Trăng
đêm, anh và em cùng đi
ngắm cảnh làng quê.
Cả hai người cùng đứng dậy. Chúng tôi tới chỗ gốc
cây bên
lều quán lấy xe đạp. Ngôi làng và cánh đồng đang ngập nước. Không có
một ai
quen để chúng tôi nói lời tạm biệt.
Dòng sông nước vẫn chảy xiết, và con đường về miền
quê
ướt át, hiu quạnh, cả hai hình ảnh đã trở nên xa cách như hai người bạn
đem một
ý nghĩa về sự mong nhớ, đợi chờ của thời gian trong mỗi chúng tôi. Tôi
đạp xe
chạy phía ngoài, Ninh Hà đi bên trong.
-Em
không hiểu sao muà hè ở
đây mà lại có những trận mưa lớn như mùa đông.
-Có em
về, chiều nay cơn mưa
lũ tới là vui với những kỷ niệm ngày tháng đó em đã đi theo các đoàn
học sinh
cứu trợ đến các vùng lũ lụt ở miền quê.
-Anh
biết không, đi suốt một
ngày trong mưa lạnh.
-Ngày
đó, em có nhiều bạn bè.
Thời học sinh lúc nào cũng vui như bài hát.
-Ngày
đó, em hát hay lắm.
-Ngày
đó, không có anh.
-Có anh
cũng vô ích.
-Tại
sao ?
-Anh
đâu thích làm công tác
từ thiện. Anh là mọt sách, suốt ngày mộng mơ.
-Ngày
đó, em đã thay thế anh
rồi.
Tới đây, chúng tôi gặp đoạn suối, trời vẫn cứ mưa ,
lòng
suối xiết trôi theo mưa. Không thể vượt qua suối, chúng tôi hướng về
phiá con
đê nên đường đi phải xa hơn. Câu chuyện hai người lại nối tiếp.
-Em về
thăm lần này, biết là
không còn gặp anh nữa.
-Không
sao đâu. Em đừng buồn.
Hình ảnh em, anh cất giữ ở tim mình.
-Anh có
nghĩ tại sao chúng ta
xa nhau không ?
-Không,
anh không nghĩ tới,
vì gặp em buổi sáng đó, anh biết đời anh được sống với em.
Từ trên đường đê, bóng dáng làng quê của mẹ tôi hiện
ra.
Chiều hôm đã tới, chuông nhà thờ đổ vang một hồi lâu.
-Nơi
đây, những làng quê đã
nằm về cuối sông. Có nhiều con đường ra tới biển.
-Nơi
những miền quê này,
quang cảnh đã đổi khác.
-Em đâu
biết tên làng quê của
mẹ, phải không ?
-Sao
không ?
-Em nói
đi.
-Xuân
Thành.
-Ủa,
sao mà tài vậy.
-Em về
đây, về làm dâu của mẹ
từ thuở ấy. Và, bao nhiêu lần, anh bảo rằng em rất giống mẹ lúc mẹ còn
trẻ.
Chúng tôi xuống xe đạp, dắt bộ. Mưa nhẹ hạt, rồi
tạnh.
Ánh mặt trời bừng dậy, sáng hẳn. Ninh Hà reo lên, như trẻ thơ. Nhìn
xuống đồng
hồ đeo tay, nàng hỏi tôi:
-Anh
biết mấy giờ rồi không ?
-Chừng
bốn giờ.
-Trật
lất. Năm giờ chiều rồi.
Một giọng vui, tôi bảo Ninh Hà :
-Anh
biết chứ. Giọng em nói,
vui hay buồn, cả nước mắt nữa đều làm cho mọi cảnh vật trở nên đẹp,
tươi hồng
trong ánh sáng. Khi một ai đó ở xa, thời gian dừng cánh lại, và nơi đâu
cũng
nghe tiếng gọi của một người nhớ đến em. Gió miền quê này anh thuộc
lòng. Chúng
mình đã về tới làng quê của mẹ, ở đây, em đã trông thấy đồng ruộng, cây
đa, bến
nước, tất cả đó trỗi dậy trong màu khói lam lan toả cảnh buổi chiều.
-Anh
lúc nào cũng nói những
lời văn vẻ.
-Em sẽ
cảm thấy, sẽ hiểu thấu
lòng mẹ anh thương em biết nhường nào.
-Em đã
làm dâu người khác.
Giọng Ninh Hà trở nên xa xôi.
-Anh
biết chứ ?
-Biết
vậy, nên trong lòng anh
luôn cảm thấy nặng với nỗi buồn.
-Nhưng
em hãy giấu mẹ, đừng
nói ra.
-Không
đâu anh. Em luôn vâng
lời anh.
-Mẹ đã
sống bao nhiêu năm ở
miền quê như từng lời ca trong mỗi bài hát. Còn anh, lớn lên từ buổi
đầu gặp em
và được em thương anh.
-Anh
thuơng em không ?
-Không,
anh ghét em lắm.
-Vì sao
?
-Vì em
bỏ anh.
Câu chuyện về một miền quê cứ vậy đưa chúng tôi về
tới
nhà với bao nhiêu hạnh phúc được chờ đón. Cậu Bính là con nuôi của ông
bà ngoại
tôi. Vợ chồng tôi hôm nay về thăm quê là để nhớ cảnh cũ. Những người
thân trong
gia đình, đã rời xa chốn này từ những
năm đầu xảy ra cuộc chiến giữa Việt Minh và Pháp. Bà ngoại tôi đang ở
Sài Gòn.
Mẹ tôi, các dì, các cậu ở các tỉnh từ Quảng Trị vào trong các tỉnh phiá
Nam mỗi
người một nơi, thời gian ở xa quê chỉ khi nào nhớ ra được đích thực cái
tên của
mình trong giọng nói lúc ấy mới có được một phong cảnh dấu yêu cho đời
mình.
-Hai
cháu ở Sài Gòn ra ?
-Dạ
không, ở Đà Nẵng.
-Hai
cháu về chơi lâu không ?
-Ít
ngày thôi, cậu.
-Ở cho
hết tuần trăng này
cháu. Qua tuần sau, có giỗ ông ngoại rồi.
Tôi và Ninh Hà đưa mắt nhìn nhau. Căn nhà này, bà
ngoại
tôi để lại giao cho cậu Bính trông nom, quản lý hết. Cậu là người trung
tín.
Từ lúc chúng tôi về đến nhà, cậu tiếp đón, trò
chuyện,
hỏi han những người thân để nghe tôi trả lời. Cậu vẫn khoẻ mạnh. Nhưng
tôi đổi
khác nhiều, và khi nhìn Ninh Hà ở bên tôi, cậu nghĩ rằng, rồi đây chúng
tôi sẽ
sống với nhau rất hạnh phúc.
Cậu nói:
-Cô này
rất giống mẹ cháu.
-Bạn
học rất thân của cháu.
Tôi đưa Ninh Hà ra giếng tắm. Trên lối đi phía sau,
chúng
tôi thấy cảnh vườn rộng rãi. Giếng sâu, nước trong, quanh thành giếng
có lát
gạch. Lúc này, hai đưá tôi cảm thấy lạnh thực sự vì dầm mưa suốt con
đường từ
tỉnh đi xe đạp về.
Giọng nói củaNinh Hà , thật vui và rất hồn nhiên.
Sau khi
tắm xong, chúng tôi chỉ dùng khăn lau khô mặt, và cứ mặc quần áo ướt đi
lên nhà
để thay quần áo khô.
-Nồi
khoai mới luộc.
Con bé út bưng nồi khoai lên đặt xuống bàn khách.
Tôi reo
lên, tưởng như hát một câu hát. Vào phòng thay quần áo rất nhanh, chúng
tôi trở
ra ngoài.
Ngồi xuống trước nồi khoai, Ninh Hà bảo:
-Anh
hát một bài dân ca đi.
Tôi hát nho nhỏ. Ninh Hà vừa nghe, vừa lấy khoai ăn.
Hát
xong, tôi nói, tay vừa lấy một củ khoai.
-Em và
anh mới về thăm quê.
Em có nghĩ, mình về, để sống với sự thích thú, với không khí lãng mạn,
và tâm
hồn chúng ta có những ý nghĩ hay đẹp hơn cả những bài luận trong các
cuốn quốc
văn giáo khoa thư.
-Ngày
nào đó, những kỷ niệm
cảm động nơi làng quê sẽ nhắc nhở em ghi vào một cuốn nhật ký.
Buổi chiều bắt đầu ấm trở lại. Khoai nóng ăn với
hương vị
miền quê, nó còn đầy ứ hơi khói và mùi vị ấm trong cổ họng. Ninh Hà ăn hết hai củ vừa, thêm một củ nhỏ. Còn để
dành bụng cho bữa ăn tối, cậu mợ nuôi của chúng tôi sẽ cho chúng tôi ăn
cháo
hến. Đây là món cháo tôi rất thích.
Ninh Hà thôi ăn, đi ra thềm hiên ngồi hong tóc. Nắng
lên
trải rộng trên sân và chiếu vào thềm hiên. Nàng im lặng nhìn cảnh miền
quê từ
ngôi nhà của một người mẹ trong dĩ vãng. Tôi ăn xong, đứng lên thở nhẹ
một vài
hơi lấy thư giãn, rồi đi ra cửa.
-Em đi
chơi không ?
-Đi
chơi đâu anh ?
-Đi dạo
quanh làng.
Cậu Bính xuất hiện, lên tiếng bảo:
-Hai
con ra thăm mộ ông
ngoại.
-Dạ.
Chỉ có Ninh Hà vào thay lại quần áo. Nàng trở ra
trong
chiếc áo dài lụa nâu, tóc chải suông xuống bờ vai. Hình ảnh này lại gợi
nhắc
tôi nhớ buổi đầu tiên hai chúng tôi gặp nhau ở lớp học, và từ đó, nàng
đã cho
tôi cả một bầu trời bình yên với ánh sáng của những đám mây lơ lửng,
nhẹ nhàng.
Khi nhớ đến nàng, tôi luôn nghĩ nàng có một gương mặt đầy đặn giữ được
lâu thứ
ánh sáng vào lúc bình minh.
Vợ chồng tôi cất tiếng chào cậu Bính rồi mới đi.
Những
lời nhắc nhở của cậu như còn vẳng vọng bên tai. Ninh Hà cầm lấy bó
nhang khi
cậu đưa. Có vẻ cậu có ý muốn được nàng dâu của mẹ tôi quan tâm đến linh
hồn gia
tộc.
Ninh Hà thật hạnh phúc bên tôi. Nàng đẹp, sẽ đẹp mãi
suốt
đời tôi.
-Em là
người vợ vô cùng quí
giá.
-Anh
thương em, bằng lòng lấy
em rồi phải không ?
-Em là
tất cả. Hình ảnh em
qua áo dài là một khuôn mặt thời gian.
Chúng tôi dừng lại trên con đường trước cổng nhà đưa
mắt
nhìn quang cảnh con sông và cánh đồng phiá trước. Chúng tôi cùng thấy
con đê,
thấy nhà ở các làng mạc bên kia, và bóng dáng cả ngôi chùa và ngôi nhà
thờ. Và
trên con đường dài này, căn nhà chúng tôi nằm đầu làng. Và từ đây, đường ngược ra bến đò đi qua khu nghĩa
trang, qua ngôi đình làng có trồng quanh đó những cây bàng cao và lớn.
Nắng bên kia sông đã lùi xa. Bóng nắng trôi giạt về
phiá
lũy tre của ngôi làng bên dưới ngôi nhà thờ. Hồi chuông đã đánh lên
cách đây
chừng một tiếng đồng hồ khi chúng tôi xuất hiện đầu con đê. Có thể tới
đêm,
hoặc sáng sớm mai chuông mới lại khởi sự cho một ngày từ buổi rạng
đông. Còn
chuông chùa nữa, hồi chuông chùa đánh vào lúc ngày bắt đầu tàn, hoàng
hôn
xuống. Bây giờ đây buổi chiều chìm nổi giữa một vùng không gian trống
rộng, và
chúng tôi nhìn thấy bao quát hết các ngôi làng gần xa. Nơi đây, làng
tôi là
điểm cuối vùng dân cư của quận lỵ, đất rộng, đồng ruộng nhiều, nhà ở
thưa thớt
nên qua một vùng trống trải trước mắt chúng tôi nhìn đâu cũng thấy bóng
dáng xa
của các ngôi làng phiá trên. Ngày xưa, vào những lúc thời tiết sáng
sủa, trời rất
quang đảng nhìn lên thị trấn chúng tôi có thể trông thấy bóng dáng cây
cầu bắc
qua sông Hiếu Giang. Đó là cầu H. cũng nằm trên quốc lộ I. Đường đi ra
Bắc qua
cây cầu này, đến cầu giới tuyến Hiền Lương, chạy qua hai quận lỵ Gio
Linh, Vĩnh
Linh nữa là qua địa phận tỉnh Quảng Bình, rồi Vinh, Hà Tịnh, Thanh Hoá.
-Về
đây, em ở bên anh bao
nhiêu ngày ?
-Tùy
em. Anh không nghĩ đến
thời gian, một phút bên em là anh được sung sướng rồi.
-Cảm
động quá. Chết em mất.
-Chốn
này riêng biệt cho anh
và em.
-Còn
chốn nào nữa không ?
-Không.
Nếu sau này xa cách,
mỗi chúng ta chỉ còn một giấc mơ được trở lại quê hương ở nơi này.
-Về
được, anh và em sống mãi
mãi.
Bên nhau, chúng tôi bước thong thả. Gió lộng nghe
lâng
lâng, vừa thổi mát, vừa cho cảnh chiều một nỗi buồn dịu dàng đã hất
tung mái
tóc nàng lên, rồi như bàn tay vuốt khẽ gương mặt, rồi như đưá trẻ thơ
đột nhiên
vụt cắm đầu chạy một hơi, đến từ phiá đó bỗng nó quay đầu chạy nhanh
trở lại
đâm vào người nàng hất tung thân áo lên đánh phần phật.
-Gió
cũng biết làm em đẹp.
-Thôi,
được rồi. Mai mốt chết
đi, về gặp Diêm Vương đầu thai kiếp khác, em xấu như ma trơi.
Tới ngã ba, chúng tôi nhìn thấy khu nghĩa trang. Khu
nghĩa trang nằm bên cạnh đình, có hai cây bàng cao lớn. Buổi chiều
xuống trong
yên lặng khi chúng tôi đi tới, càng gần, tự dưng lòng chùng xuống.
Có khoảng chừng 20 ngôi mộ. Những ngôi mộ của gia
đình
bên mẹ tôi có bia, và xây thành. Tôi đưa Ninh Hà đến thăm mộ ông Cố,
lớn nhất.
Với lòng thành kính khi thắp hương, tôi đứng nhìn nàng mà gợi nhớ, hình
dung
biết bao nhiêu người xưa đã qua đời. Tôi nghĩ đến hai bà cố của tôi là
hai chị
em ruột rất thương nhau. Sau khi thắp hương và khấn xong, Ninh Hà
nhường chỗ
tôi đến vái. Tôi nói với ông cố tôi những lời nguyện ước.
Tấm bia ông cốâ tôi dày và cao. Bức ảnh lớn được
tráng
men in lên tấm bia rộng. Tôi và Ninh Hà lặng yên, chăm chú đọc những
lời ghi
chú về ông ở trên tấm bia. Bỗng tôi thấy đôi mắt Ninh Hà vui lên như
định nói
điều gì. Tôi hiểu, và nói một đôi lời giải thích về dòng họ mẹ tôi.
-Em
hiểu. Và, có thể cụ cố là
người cùng quê với em.
-Em
cũng mang họ của mẹ đấy.
Ông ngoại anh có bốn người con gái, chết đi một còn ba.
-Có lẽ
chúng ta gặp nhau là
do cơ trời, duyên số phải không ?
-Em nói
gì, anh cũng tin.
Rời mộ ông cố, tôi đưa vợ tôi qua thăm hai bà cố,
rồi đến
mộ của hai ông bác, sau cùng là mộ ông ngoại tôi. Ông ngoại tôi mất năm
1947.
Ông làm quan đến hai mươi năm từ khi đỗ đạt. Ông đỗ Cử Nhân, nơi đầu
tiên ông
nhậm chức là huyện Nga Sơn, Thanh Hoá. Sau đó, ông về phiá trong làm
các quận
Thăng Bình, Lý Sơn, đến năm 1945, ông cáo quan về làng quê nghỉ dưỡng
tuổi già.
Ninh Hà nắm giữ bàn tay tôi khi tôi nói về ông tôi.
Tôi
nói bằng sự thành kính, gợi nhớ, trân trọng từng lời nhớ thương ông
tôi. Trong
các con, ông ngoại rất thương mẹ tôi, vì mẹ ít học chỉ ở nhà lo việc
đồng áng
giúp bà ngoại tôi. Bây giờ, nhớ lại khuôn mặt mẹ tôi thời con gái, tôi
nhận ra
vợ tôi có nét mặt gần giống, nhưng nàng đẹp trội hơn, và mãi mãi với vẻ
đẹp này
nàng mong ước tôi suốt đời yêu nàng.
Chúng tôi ngồi bên nhau đợi hương tàn. Nhìn qua cánh
đồng
trống, những ngôi làng xa đã bắt đầu mờ dần trong bóng dáng sương chiều
phủ
xuống. Chúng tôi im lặng để cùng có một tâm hồn với cảnh vật. Và, như
mỗi người
theo đuổi một ý nghĩ riêng.
Bỗng Ninh Hà nói:
-Em đã
có đến đây một lần
rồi.
Tôi chợt nói:
-Đến
hôm nay, em về trở lại.
-Không,
không phải thế, nàng
đáp.
IV
Từ một căn nhà đầu phố Gia Long gần bùng binh ngã
sáu,
vừa thấy xuất hiện một chiếc taxi đang chạy chậm, rồi ngừng lại, vào
lúc ấy
xuất hiện bóng một cô gái đứng bên đường, ít phút sau, cô mở cửa bước
lên xe.
Cũng còn ở nơi đó, trên lề đường một người đàn ông, hai người đàn bà,
cả ba
người cùng vẫy tay chào theo cô gái lúc
xe lăn bánh.
Người tài xế mặc chiếc áo sơ mi đã cũ, có nhiều
đường
sọc, trạc tuổi chừng hơn bốn mươi. Trên mái tóc để dày, và những sợi
tóc như
đã khô cứng. Hai cánh tay ông ta trông
khỏe, vừa lớn, bao kín hết vòng tay lái của chiếc taxi nhỏ. Vừa lúc xe
đang
chạy, ông ta chỉnh lại đồng hồ cây số ghi giá tiền. Mỗi quãng, đồng hồ
nhảy lên
một nấc. Và, chiếc xe vẫn đang chạy chậm trên con đường cũng nằm trên
khu phố
thuộc căn nhà gia đình cô gái ở.
-Cô
được đi du học ?
-Vâng.
-Cô du
học nước nào ?
-Dạ,
Hoa Kỳ,
-Cô mới
đi lần đầu, phải
không ?
-Đúng,
ạ.
Rồi đột nhiên, xe rẽ lối trái, sau đó chạy qua một
con
phố nhộn nhịp, đèn điện sáng trưng. Người tài xế mỉm cười, nói:
-Đấy,
cô nhìn lại Sài Gòn để
nhớ lần cuối khi ở xa.
Cô gái cười, thốt lên:
-Hay
quá. Ông thật là người
có tâm hồn.
Người tài xế giữ nhẹ chân ga cho xe chạy thong thả.
Ngồi
trong xe, cô gái nghe ra những tiếng động xe cộ qua lại trên đường phố
chính,
nghe tiếng bước chân người đi trên lề đường, và cả những tiếng chuyện
trò của
họ, sau cùng, cô thấy nơi đây là thành phố cô đã dừng chân từ hôm rời
Huế vào
đây, và tối nay cô lên đường đi xa.
Người tài xế lại nói:
-Tôi
cũng đã có nhiều chuyến
đưa tiễn khách lên đường đi tới một xứ khác.
-Vâng.
Rồi ít giây sau, cô gái hỏi:
-Ông
chỉ đưa thôi, có vào phi
trường không ?
-Không.
Nhưng lần nào tôi
cũng cảm thấy lòng mình vui.
-Cám ơn
ông.
Lúc này, xe đang chạy trên đường Catinat, hướng về
khu
nhà thờ và nhà Bưu Điện. Trong đôi mắt cô gái, ánh sáng của nụ cười
thật là
hiền dịu. Khi trông thấy quán cà phê Pagode, cô nhớ đến Thụy. Trong
bóng dáng
của Thụy, có cả bóng những người nghệ sĩ thường ngồi ở quán này, và anh
luôn
làm cho cô vui khi anh kể cho cô nghe nhiều chuyện về một người thiếu
phụ trẻ
đẹp, như thể đấy là bức tranh anh đã vẽ ra được và ghi nhớ mãi.
-Hết
Sài Gòn rồi, giờ tôi cho
xe chạy nhanh nhé.
-Vâng,
ạ.
Tiếng cười nhẹ, và cô gái cảm thấy thực vui, háo hức
về
chuyến đi của mình.
-Gia
đình cô ở Huế, phải
không ?
-Đúng,
sao ông hay vậy ?
-Không,
tôi không hay đâu.
Chỉ muốn nhắc lại những lời mấy người thân của cô lúc tiễn cô đi.
-Vâng,
ông nói phải.
-Tôi
cũng mang một tâm trạng
gần giống như họ.
Cô gái chợt có cảm giác lo ngại, một thoáng nghĩ về
điều
gì đó, nhưng rồi vội vàng cô xóa ngay đi. Và, trong sự lặng im, cô đang
lo sợ.
Mười lăm phút sau, chiếc taxi đưa cô gái đến phi
trường.
Vừa thấy bóng dáng Liên An lúc xe ngừng, Thụy liền chạy đến.
Cô gái vẫy tay chào mừng Thụy, vừa hỏi người tài xế :
-Thưa
ông bao nhiêu tiền ?
-Hai
trăm, cô.
Cô gái trả đủ tiền, nói lời cám ơn rồi mở cửa xe.
Thụy
chờ sẵn bên cạnh xe để đỡ hành lý cho Liên An. Ngay lúc đó, anh thoáng
để ý từ
cái nhìn lạnh lùng của người tài xế.
Rồi, hai người dời bước không quay đầu nhìn lại.
Người
tài xế như có vẻ bất bình, cặp mắt nóng đỏ trong cái nhìn dõi theo bóng
cô gái
đi bên cạnh người lính đang khuất dần phía trong.
Mưa đêm xuống, nhẹ hạt.
-Em đổi
tiền được không ?
-Có,
nhưng đổi theo giá
ngoài.
Liên An chỉ cầm tay cái túi xách nhỏ, chiếc túi lớn
của
cô Thụy đeo ở vai bên trái, còn tay phải anh
kéo chiếc va ly lớn có gắn bánh xe. Hai người vui
chuyện lúc đi bên
nhau. Bỗng Liên An nói:
-Em vẫn
còn cảm thấy sợ.
-Sao
vậy em ?
-Hình
như ông tài xế mắc bệnh
tưởng ?
Câu nói của Liên An làm Thụy bâng khuâng. Lúc bước
đi
chậm hẳn, Thụy hỏi:
-Em
ngồi trên xe ra sao ?
-Không
có gì, nhưng ông ấy
hỏi em những điều có vẻ là lạ.
-Em có
trả lời những câu ông
hỏi.
-Có.
Nhưng rồi, không hiểu
sao em ngờ ngợ có chuyện gì đó.
-Và em
cảm thấy lo lắng.
-Vâng.
Nhìn qua Liên An, Thụy nói:
-Em
đừng nghĩ ngợi. Hãy bình
yên , để thanh thản với chuyến đi của mình.
-Vâng,
có anh em yên tâm.
Hai người đi theo những
hành khách phía trước đến quầy số 4, để ghi vé và ký
gởi hành lý. Tới đó, hành khách dừng lại,
thứ tự đứng sắp
hàng. Thụy nhìn đám đông hành khách tìm thử người quen, và trong số
này, có bốn
vị Sĩ quan và hai SVSQ, những người này mặc đồ vét màu xanh của binh
chủng
Không Quân. Hai chàng SVSQ là đi du học, còn bốn ông Sĩ quan là đi tu
nghiệp.
Bốn vị này đều là Sĩ quan kỹ thuật, vì không có người nào đeo cánh bay
trên túi
áo.
Thủ tục ghi vé và
nhận hành lý rất nhanh chóng. Mỗi hành khách chỉ mất hơn mười lăm phút
là xong
phần việc của mình.
Bên cạnh quầy ghi vé có một quầy bán rượu , thức
uống và
đồ ăn nhẹ. Bây giờ, ai cũng thảnh thơi ngồi nghỉ, chờ ra sân bay.
Cùng với hành khách khác, Thụy đưa Liên An đi vào
quán .
-Em
uống cà phê nghe ?
-Cà phê
, uống em không ngủ
được.
Một giọng vui, Thụy nói:
-Nhưng
mà đi, là để thức chứ
có ai mà ngủ.
-Không,
em không thức nổi.
Nhưng thức để làm chi ?
-Thức
để mà nhớ.
Liên An cười nhìn Thụy. Thụy đứng lên, đi đến quầy
mua cà
phê pha sẵn, trong chốc lát đã quay trở lại. Thụy đặt chiếc khay giấy
xuống,
trên khay đã có sẵn mấy gói đường nhỏ.
Liên An rất muốn tạo nên một dáng đẹp, dễ thương để
cho
Thụy tha hồ mà ngắm, nghĩ ngợi và tưởng tượng. Với cặp vui, cô nhìn
Thụy săn
sóc mình. Thụy đang cho đường vào ly cà phê, xong cầm thìa khuấy nhẹ. Rồi, anh đặt ly cà phê trước mặt Liên An:
-Em
uống đi.
-Em chờ
anh.
Trong lúc Thụy cho đường vào ly cà phê của mình,
Liên An
hỏi:
-Ngày
mai anh có đi làm không
?
-Có chứ.
-Bao
giờ khóa học của anh mới
bắt đầu.
-Anh
chưa biết.
-Đừng
nhìn em lâu quá.
-Em
uống cà phê đi.
-Anh ở
Sài Gòn một mình.
-Ngày
đó, anh vào đây tìm
kiếm việc làm.
-Anh
làm công việc gì ?
-Vào
thời gian ấy, việc làm
không có nên anh tình nguyện đi lính.
Hai ly cà phê còn để nguyên, chưa uống vì còn quá
nóng.
Ngồi ở bàn chỉ có riêng hai người, một lúc sau, cà phê bớt nóng uống
được hai
người mời nhau uống và nhìn mưa bên ngoài. Mưa làm cho bóng tối trở nên
dày
hơn, nhưng tiếng mưa đổ không nặng hạt. Người lính chợt cảm thấy lạnh,
lạ
thường. Cô gái mở to cặp mắt nhìn anh, chợt nghe anh ta nói:
-Khi đi
xa là một dịp để cho
mình nhớ. Đêm nay, ngồi trong phi cơ, lúc phi cơ bay trong trời đêm em
chẳng
nhìn chi những vì sao ở ngoài trời, mà cần sự hồi tưởng về một thời nào
đó của
mình để nhớ. Hạnh phúc nhất của mỗi người là được nhớ. Trong bao nhiêu
kỷ niệm
về em, gia đình em, và một nơi em sinh trưởng là hiện ra rõ nét hơn cả.
-Cũng
có anh trong đó nữa
phải không ?
-Anh
nghĩ là cũng có.
-Còn
anh thì sao ?
-Anh
thấy mình đơn độc khi em
đã khuất trong chân mây.
-Lãng
mạn quá. Trên đường đưa
em tới đây, và lúc này có anh, em nhớ ra thật rõ điều người tài xế nói,
và em
hiểu vì sao ông ta muốn cho em được nhìn một đêm cuối ở Sài Gòn trong
giờ phút
ra đi.
-Thế đó
mà em lo sợ.
-Em sợ,
vì ông ta như là
người sống trong bệnh tưởng.
-Rất có
thể, em là một khuôn
mặt nào đó trong đời, ông ta có sự liên hệ.
-Biết
đâu, điều anh nói ra là
đúng.
-Nhưng
mà, em phải để sự bình
yên cho mình. Hay là, em nghĩ đến sự chờ đợi em và Ngọc gặp nhau.
-Không,
em chưa nghĩ đến
Ngọc. Em nghĩ nhiều đến anh.
Thụy nói:
-Anh
vẫn là người lính của
một ngày đó về phép. Và, tối nay, anh phải mặc đồ lính để qua được bên
đây mà
tiễn em.
-Em
nghĩ đến anh, vì chúng ta
sắp chia tay.
-Em có
đói không ? Gọi một
món cho em ăn nghe.
-Đừng
gọi, uống cà phê với
anh được rồi.
Trời vẫn đang mưa. Tiếng hành khách trò chuyện vang
lên
trong niềm vui vừa thật ấm cúng. Thụy đã hút hết điếu thuốc thư ba. Anh
đang
châm điếu thuốc thứ tư. Liên An nói:
-Anh
hút thuốc cũng nhiều.
-Trong
buổi tối nay thôi.
-Không
hút nữa, đưa điếu
thuốc cho em.
-Em
thích hút thuốc sao ?
Liên An gật đầu. Thụy nói:
-Em hút
đi. Có khói thuốc em
hút, anh thấy em bay trong mây.
Liên An mỉm cười. Nàng ngậm điếu thuốc khô trên môi,
hít
nhẹ một hơi rồi thở ra làn khói. Có thêm nhiều xe du lịch và xe taxi
đang đưa
khách đến. Mới được bên nhau khoảng thời gian chưa đầy nửa tiếng, vậy
mà trong
ký ức, trong kỷ niệm, hai người cùng cảm thấy có một sự dằng xé vì nỗi
buồn của
ngày tháng. Thụy nhìn ra mưa, trong lúc tiếng Liên An đang nói bên anh.
Từ nãy giờ, bạn nghe rõ một câu chuyện về bên gia
đình
Liên An. Cách kể câu chuyện, giọng nói của Liên An dần dần sắp xếp cho
bạn nghe
thấy, đó là tất cả những gì nàng mang theo , mỗi sự vật đều đã xếp gọn
để vào
trong chiếc va ly hành lý gởi đi theo chuyến bay cho nàng.
Thụy nở một nụ cười
hiền hậu, anh nói:
-Em đã
có được một khuôn mặt
thời gian.
Thụy uống cà phê thật chậm. Anh đang uống một chút
men
trong hương vị của một mối tình.
Liên An tháo chiếc đồng hồ tay đưa qua cho Thụy.
Thụy cầm
lấy chiếc đồng hồ, anh chỉnh lại ngày và
giờ sau khi đã so giờ bên Việt Nam và giờ ở tiểu bang Cali bên Hoa Kỳ.
-Lúc
này là mấy giờ bên Mỹ ?
-Sáu
giờ sáng. Em qua bên đó,
đến tháng mười là đổi giờ vào mùa đông.
-Em
biết.
-Có ai
đón em không ?
-Có chứ.
-Người
thân bên Ngọc.
-Không.
Người của trường ra
đón.
-Vậy là
em ở nội trú.
Liên An mở túi xách, lấy ra một phong bì thư khá dày
đưa
cho Thụy xem. Thụy mở thư đọc, đây là thư của ông bà Smith , người bảo
trợ cho
Liên An.
Liên An nói:
-Có lá
thư này em đỡ lo.
Với một nụ cười dễ thương, Thụy nhìn Liên An. Cô gái
cũng
nhìn lại anh, màu mắt của cô thật đẹp như
màu một viên kẹo sô cô la.
-Anh cứ
mãi nhìn em, thôi
nhé.
-Chung
quanh em niềm vui như
là ánh sáng, Thụy nói.
-Bây
giờ là đêm, với ánh sáng
là màu vàng.
-Đèn
sáng vẫn đợi giây phút
em lên đường.
-Anh
vẫn luôn mơ mộng.
-Em vẫn
là Liên An, cái tên
anh rất thích gọi
-Chỉ có
tên thôi, phải không
?
-Em vẫn
là Liên An, Thụy khẽ
nhắc.
Từ máy vi âm trong phòng phát thanh chợt vang lên
tiếng
nói của nhân viên phi trường. Đã tới giờ Liên An, ra đi. Thụy chợt rùng
mình,
ngẩn ngơ. Khi anh và cô gái cùng đứng lên, giọng cô xướng ngôn viên đã
thay
đổi, và giọng nói trở nên nhanh với hai thứ tiếng Anh và Pháp dành cho
những
hành khách nước ngoài.
Lối cửa ra phi cơ mang tấm biển số 4. Những người
kiểm vé
đứng chờ. Thụy và Liên An chưa dời bước, mắt nhìn nhau bối rối.
-Em đi
nghe, tiếng cô gái nói
và nước mắt tuôn chảy.
-Anh
nhớ em lắm.
-Em
hiểu.
-Anh
nói với em một lời được
không ?
-Anh cứ
nói đi.
-Anh
yêu em.
Liên An gật đầu, rồi đưa tay ra cho Thụy bắt.
V
Tám giờ sáng, đoàn xe khởi hành. Từ sân phòng tuyển
mộ
đến phi đoàn vận tải chừng hơn mười phút. Khi đoàn xe tới, rẽ vào lối
cổng và
ngừng lại trên bãi đậu trống, gần đó có nhà kho. 218 khóa sinh xuống
xe, tập
trung thành bốn khối theo danh sách đã có ghi sẵn tên. Mỗi khối, sẽ đi
một
chuyến bay. Thụy ở trong khối 4, sẽ đi chuyến sau cùng.
Trong lúc chờ, anh em chia nhau thuốc hút, chuyện
trò ồn
ào, rất thoải mái. Chen lẫn giữa số đông khóa sinh mặc đồ trận, đội mũ
vải, có
khoảng mười SVSQ niên trưởng mắc đồ vàng đeo giây biểu chương, người
nào trông
cũng sáng sủa, đầy niềm tin. Và, có người đứng kẻ ngồi, chuyện trò thân
mật với
khóa sinh.
Tới 9 giờ, khối 1 và 2 lên phi cơ. Hai chuyến bay kế
tiếp
được thông báo sẽ đi lúc 10giờ. Số khóa sinh còn lại được tự do, nhiều
người
đứng dậy rời hàng đi về phía câu lạc bộ của phi đoàn. Khi trở ra, trên
tay mỗi
người có mua bánh mì, cà phê.
Thụy mở nắp túi áo lấy gói thuốc. Đây là điều thứ tư
anh
hút trong buổi sáng nay. Bất chợt, Thụy nhận ra mình già ghơn các bạn
chung
quanh. Cũng dễ hiểu, anh đã đi lính, được đi học Sĩ quan nhớ có bằng Tú
Tài,
còn những bạn kia ngoài đời là học sinh, sinh viên đến tuổi nhập ngũ.
Cũng mặc
áo lính từ những ngày vào quân trường, nhưng họ vẫn giữ cái tươi vui,
mới lạ
của tuổi trẻ. Với sự trầm lặng của mình, Thụy có đôi chút mặc cảm với
các bạn
trẻ giờ đây cùng chung một khóa học. Những bạn trẻ này, tuổi lính mới
có vài
tháng nên trông xem họ thất háo hức, lãng mạn. Và, rồi đây, khi trở
thành phi
công, cuộc đời của mỗi người sẽ có những nét riêng, đặc biệt như là
nhân vật
trong tiểu thuyết.
Vừa lấy cuốn truyện ra khỏi ba lô, Thụy đã vội cất
khi có
lệnh tập trung ra phi cơ. Vào hàng, điểm danh đếm số xong, cả hai khối
được
lệnh bước tiến về chỗ hai chiếc phi cơ đang đậu.
Người áp tải viên nhìn Thụy, hỏi:
-Nhớ
tao ?
-Nhớ.
-Sao,
được đi học Sĩ quan hả.
-Ờ,
được đi học.
Thụy vừa đáp lời, nhìn gương bạn cũ cố nhớ tên. Lần
lượt,
khóa sinh lên tàu. Trong chốc lát, cả khoang tàu chật kín hai dãy ghế
ngồi, một
số anh em phải ngồi xuống sàn. Đây là chiếc vận tải, loại C119. Nếu đi
C130,
chỗ ngồi thoải mái hơn.
Cửa sau đóng, đèn trong phi cơ sáng lên, rồi tiếng
động
cơ nổ, một lát sau từ từ lăn bánh.
Phi cơ cất cánh rời Sài Gòn mười giờ. Người bạn đi
tới
chỗ Thụy, gặp bạn cũ Thụy vui mừng lấy gói thuốc ra mời.
-Ra Nha
Trang học bao lâu ?
-Học ba
tháng quân sự, xong
về đây học Anh ngữ.
-Lấy
xong Tú Tài II chưa ?
-Chưa,
lấy không nổi. Nếu
biết lận đận thi cử, tao đi sớm được ba năm rồi.
-Nãy
giờ nói chuyện, mày nhớ
ra tên tao không ?
-Thực
tình không nhớ.
-Tao
nhớ tên mày.
-Cám ơn.
-Tao là
Huy.
-À, nhớ
rồi. Nhớ cả bài thơ
của mày đăng trong đặc san của khóa.
Huy gật đầu cười, hài lòng.
-Mày là
chủ biên tờ Đặc San
mà.
-Anh em
mình cùng làm, tao
chỉ lo bài vở rồi đánh máy, quay ronéo.
-Còn
giữ tờ báo không ?
-Còn,
lần nay ra Nha Trang
cũng cố làm tờ Đặc San nữa.
-Mày
viết khá lắm. Truyện mày
đăng báo Lý tưởng, tao có đọc.
Huy đang đứng bên cạnh Thụy. Bên người bạn cũ, Thụy
có
được niềm tin. Trong khoang tàu, câu chuyện trong anh em cũng gần gũi,
mỗi
người đều nói ra lời tâm sự của mình. Thụy cảm thấy phân vân, vừa lo
lắng khi
nghĩ đến một ngày mai của mình. Có tiếng chuông reo, chừng mười phút
nữa, phi
cở sẽ hạ cánh. Huy đi lên phía phòng lái, lấy ống nghe mang vào để liên
lạc với
phi công.
Lúc này , tất cả đều im lặng. Thụy nhìn ra bên
ngoài,
trông thấy rặng núi, rồi biển ở biên dưới và trong ánh nắng vàng rực,
thành phố
biển xuất hiện.
Phi cơ đã đáp rất êm. Từ ngoài phi đạo định hướng,
phi cơ
lướt nhanh một quãng xa rồi giảm tốc độ chạy chậm dần , đến lúc ngừng
hẳn .
-Nhanh
lên, các anh còn tà
hả.
Thụy đeo vai ba lô, tay phải nhấc túi xách marin,
anh
điềm nhiên chờ lệnh lạc. Huy mở cửa sau, từ trong khoang tàu đám khóa
sinh vội
vàng, hối hả lao ra ngoài.
-Các
anh tập trung nhanh lên.
Giữa những tiếng
la hét dữ dội, bất chợt có một hình ảnh như áng mây làm Thụy chú ý, đó
là cái
bóng in đậm nét viên Đại úy phi công còn rất trẻ trong bộ đồ bay màu cam đứng dưới nắng riêng một mình và
lặng im không nói gì.
-Các
anh vào hàng ngay.
Người nào cũng đều khiếp sợ, tối mặt tối mày chẳng
thấy
gì cả, chỉ nhìn bóng những chiếc áo
treillis và những cái túi sac marin mà chạy
đến chỗ sắp hàng.
-Đếm số.
Người đứng đầu cất tiếng lớn một, hai, ba, bốn, đến
Thụy
là số 68 đứng ở hàng cuối.
-Sac
marin lên vai, chuẩn bị.
-Sẵn
sàng.
-Chạy.
Mới đầu, đoàn quân còn chạy đều bước, đều hàng.
Nhưng chỉ
vượt được chừng hai trăm thước, các toán bắt đầu rời ra, rồi người
trước kẻ sau
không còn thành hàng lối nữa. Trên vai Thụy chiếc sac marin mỗi lúc
càng đè
nặng, và anh cứ chạy hoa mắt, không nhìn thấy quân trường đâu cả.
-Chỗ các anh đến còn xa lắm. Các anh rõ chưa ?
-Rõ.
-Chạy
nhanh lên.
Khoảng cách của đoàn
quân, mỗi lúc một rời rạc, xa cách thêm. Và dưới
nắng trưa, anh nào cũng
thấm mệt, mồ hôi ướt đầm.
Đến khi quá mệt lả
không chạy nổi nữa, thấy có bóng cây Thụy sà vào
buông người xuống. Và
trước anh năm, mười mét nhiều bạn cũng
đã xỉu, rơi dài dài.
-Tại
sao anh không chạy nữa ?
-Mệt
xỉu rồi cán bộ ơi.
Nghe Thụy đáp vậy,
anh ta bật cười, nhưng liền nín ngay và làm mặt nghiêm.
-Ông
chống thế chờ, xuống cho
tôi trăm cái hít đất coi.
Vừa được nghỉ qua ít phút, Thụy tuân lệnh chống thế
chờ hít
đất. Được hai chục cái, niên trưởng cán bộ bảo anh đứng lên, sac marin
trên vai
tiếp tục chạy. Thụy bạo dạn hỏi:
-Gần
tới chưa cán bộä ?
-Còn xa
lắm, ông. Nhà trại các ông ở trên núi kìa.
Chỗ có
vọng gác ông thấy không ?
Thụy nghĩ anh này xạo, nhưng ông ta hỏi lại lần nữa,
anh
đáp rõ . Giờ Thụy đang cố gắng chạy, bị đứt quãng mấy đoạn, rồi sau cùng về tới khu doanh trại.
Về đây anh em tưởng được nghỉ mệt, đâu ngờ, một trận
dã
chiến ra trò. Trên mặt sân cát, anh thì bò, anh thì lăn thùng phi, anh
nhảy
xổm, và còn cả một đám đông đang đếm nhịp hít đất. Cảnh tượng diễn ra
trong
tiếng la hét không lúc nào ngừng. Rồi cả bọn bị bắt lột con cá alpha,
bị làm
thịt từng đứa một. Bọn lính mới đứa nào cũng nín câm, lầm lì thi hành
lệnh
phạt. Mấy ông niên trưởng cứ thay nhau quần thảo từng toán một, và mắt cứ lăm le anh nào thi hành không đủ
tiêu chuẩn.
Sau đoạn đường bò dã chiến trên cát hai vòng, nóng
bỏng
cả hai cánh tay, đến lượt Thụy phải nhảy
30 cái nhảy xổm đúng thế. Hai tay để lên đầu, thế chân trước, chân sau,
anh cố
gắng nhảy, cuối cùng cũng đủ. Lúc Thụy đang sửa lại quần áo để báo cáo
thi hành
lệnh phạt xong, bất ngờ , một niên
trưởng ở toán bên kia bước nhanh sang, rồi dừng trước mặt Thụy, nạt nộ
hỏi:
-Ông có
biết tôi là ai không
?
-Dạ, là
niên trưởng cán bộ.
-Trời,
ông dạ. Quân đội không
có thưa dạ, ông ơi.
-Là
niên trưởng cán bộ.
Người kia hỏi:
-Ông có
quen biết niên trưởng
này không ?
-Không ?
-Ông có
quen tôi không ?
Thụy đã nhận ra Phạm Đắc Giáp, bạn học cũ, chỉ gật
đầu.
Tiếng Giáp quát lớn:
-ÔÂng
có quen tôi không ?
Sợ quá, Thụy đáp:
-Không.
-Ông
không quen tôi hả.
-Không.
-Hai
chục cái hít đất.
Thụy không đáp
lời, tuân lệnh thi hành. Xong, anh đứng lên nghiêm chỉnh chào kính và
trình
diện. Một giọng từ tốn, Giáp hỏi:
-Cho
ông nhìn lại mặt tôi, có
quen không ?
-Không,
tôi đáp.
-Ông
không xứng đáng là
SVSQ/KQ.
Thụy lặng im nhìn Giáp. Giáp nói:
-Binh
chủng Không Quân, tình
bạn là trên hết. Không bỏ anh em, không bỏ bạn bè. Ông là bạn học với
tôi thời
xưa, mà giờ vào đây ông lại không dám nhìn tôi. 50 chục cái nhảy xổm.
Thụy thi hành lệnh
phạt lập tức. Và anh chỉ biết mình còn
gắng sức, được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Nắng trưa càng gắt, trên bãi
cát, đám
khóa sinh đã xỉu nằm dài, nhưng tiếng mấy ông cán bộ la hét vẫn còn
chói tai
nhức óc. Bất thần, Giáp cất tiếng:
-Cho
ông đứng dậy.
Thụy chỉ mới nhảy được10 cái, Giáp đã cho đứng dậy.
Lúc
anh sửa quần áo để trình diện, tiếng Giáp bỗng
nhẹ nhàng nói:
-Tao là
Giáp, nhớ ra không ?
-Nhớ,
Thụy đáp nhỏ tiếng mắt
vừa nhìn lại người bạn cũ.
-Có biết thằng Định không ?
-Biết.
-Hắn
mới về Sài Gòn tuần
trước. Cuối tháng này hắn đi Mỹ.
-Còn ai
bạn quen ở đây nữa
không ?, Thụy hỏi.
-Không.
Dưới nắng, mồ hôi ra ướt đầm áo Thụy mặc. Niên
trưởng lúc
nãy bắt anh thi hành lệnh phạt, đã bỏ đi. Thụy và Giáp nói chuyện nhỏ
tiếng,
nhắc lại tên mấy người bạn học cũ với
giọng khàn đục khơi trong nỗi nhớ một
chút ngậm ngùi, cay cay trên cặp mắt. Từ khi xuống máy bay lúc mười
giờ, đến lúc
này đã mười hai giờ trưa, 218 tân khóa sinh chịu đựng hai giờ huấn nhục
trong
ngày đầu đã ngất ngư , mệt nhừ rồi, chỉ mong được nghỉ ngơi. Vừa trông
mong như
vậy, bỗng có lệnh tập trung toàn khóa để nghe Niên trưởng Phước SVSQ/CB
trong
chức vụ Không đoàn trưởng nói chuyện. Vị niên trưởng này đứng trước
hàng quân,
dáng uy nghiêm, miếng vải cà rốt mang
trên cổ áo có đến bốn lằn gạch trắng nghiêng, trông ra vẻ là một vị chỉ
huy cấp
tá. Bằng một giọng trầm, vừa nghiêm, sau lời chào mừng đón tiếp, Phước
lần lượt
giới thiệu thành phần SVSQ cán bộ phụ trách tân khóa sinh trong thời
gian huấn
nhục, tiếp theo đó, là những điều lệ, nội qui của quân trường.
Không
nhiều lời, rất ngắn
gọn, cụ thể, rồi kế tiếp ngay là lập
danh sách khóa sinh cho bốn phi đội A, B, C, D. Mỗi phi đội, có bốn
hoặc năm SVSQ cán bộ phụ trách hướng
dẫn. Thụy thuộc vào phi đội B, vàø lấy làm vui khi biết có bạn Giáp ở
trong
toán hướng dẫn phi đội này.
Đã tới
giờ cơm. Từ ngoài sân, lần lượt tân khóa
sinh đi hàng
đôi vào nhà ăn. Rồi đứng nghiêm trước mỗi bàn,
lặng im như cầu kinh,
tất cả cùng
lắng tai nghe những lời hướng dẫn cách ăn uống dành cho SVSQ. Năm phút
sau, tất
cả mới được phép ngồi.
Bữa ăn chỉ có cơm, món canh và cá kho. Mệt và đói,
nên
người nào ăn cũng nhiều. Hết thức ăn, có người lấy nước trà thay canh
để ăn cho
đủ sức. Lúc này, tất cả niên trưởng thay vì la hét , nạt nộ, người nào
cũng lời
lẽ nhẹ nhàng, luôn có mặt từng bàn, vừa trò chuyện, vừa thúc các tân
khóa sinh
phải gắng ăn thật nhiều, thật no, vì thời gian huấn nhục còn kéo dài
đến bốn
tuần. Trong khoảnh khắc ấy, ai cũng cảm
động, vơi dần đi nỗi mỏi mệt.
Bữa ăn thong thả, kéo dài hơn nửa tiếng. Khi trở ra
ngoài, với túi sac marin trên vai, từng phi đội đi nhận phòng. Bên trái
khu
nhà ăn, một tòa nhà dài hai tầng, có lối
cầu thang ở hai đầu. Được phân chia và hướng dẫn trước, hai phi đội C
và D tầng
dưới, A và B lên tầng trên.
Hai dãy
giường sắt đôi song song, một lối đi rộng
ở giữa, bên mỗi
giường có đặt chiếc tủ nhỏ cao hơn một mét, lúc các tân khóa sinh đi
vào cứ
theo thứ tự hàng đôi mà nhận chỗ. Thụy ở dãy giữa, giường trên, bên
cạnh là bạn
Trương Vinh, đối diện có một bạn người Quảng tên Đặng Chứng, gần đó là ba bạn người Huế, Trương Ngọc Hiệp, Trần Vê,
Nguyễn Hữu Định.
Hôm nay là ngày chủ nhật, giờ này, có nhiều SVSQ niên trưởng bắt đầu ra phố, cũng có một
số người trở về trại.
Thụy ngả lưng xuống giường chợp mắt được một giấc.
Khi
anh thức dậy, các bạn chung quanh đang
ngồi đánh giày, soạn sac marin sắp xếp quần áo,
hoặc viết thư. Trong cảnh sinh hoạt giờ nghỉ ai nấy
đều yên lặng, nhưng
cũng trong giờ phút này, anh em có dịp hỏi chuyện làm quen nhau. Khi
nhìn thấy
những người bạn ngồi cúi đầu lặng yên theo ngòi bút viết thư về cho gia
đình, tự
dưng lòng Thụy nao nao khôn kể.
Trong thoáng nhớ, anh nghĩ đến cha mẹ, những đứa em,
và bao nhiêu người
thân cùng bạn bè. Anh cũng bất chợt nhớ đến bóng dáng một cô gái Huế
cùng anh
đi trên chuyến xe buýt, rồi cùng anh xuống một trạm ở nhà ga. Không
biết tận
phương trời xa, Liên An có nhớ lại một chút gì về anh
không, hay buổi gặp gỡ tình cờ đóù, đối với
cô thật bình thường, dửng dưng, chẳng hề gọi là kỷ niệm . Riêng anh,
bóng dáng
chiếc áo nâu như gió mát tâm hồn, phút giây này, lòng anh thực muốn gửi
về Huế,
thành phố thân yêu ấy một mối tình. Sau cùng, ánh sáng trong trí nhớ
Thụy hiện
rõ một hình bóng hiền dịu của Ninh Hà, anh như nghe tiếng nàng nói và
đem lại
cho anh một nỗi buồn, và từ nay anh chỉ
biết giữ mãi sự thầm kín của một câu chuyện tình mà chỉ có riêng hai
người biết
nhau thôi.
Bỗng nhiên, từ ngoài lối cửa vào Giáp xuất hiện trên
tay
cầm một gói giấy báo. Vừa đến bên Thụy, Giáp lên tiếng:
-Ông
vừa mới vào quân trường
mà đã có thân nhân gởi quà rồi.
Các bạn chung quanh nhìn Giáp va øThụy. NhưngThụy biết ngay gói quà nhỏ là Giáp mua ở khu
cantine, chứ không hề có ai gởi cả. Thụy
nói với người bạn tiếng cám ơn rất nhỏ, hơi rụt rè, rồi lúc Giáp ngồi
xuống
cạnh giường mình, Thụy mới mở gói giấy. Đó một chiếc khăn mặt, cái bàn
chải mới
và một phong kẹo nhỏ.
Giọng xúc động, Thụy hỏi:
-Gia
đình anh còn ở Đà Nẵng
không ?
-Vẫn ở
ngoài đó.
-Anh sắp đi Mỹ học lái chưa ?
-Không
đi Mỹ, đang học khóa
Cessna ở đây.
-Vậy
cũng được. Anh đã bay
solo chưa ?
-Rồi,
mới xong tuần trước.
-Như
vậy, trên ngực áo anh có
nửa cánh chim rồi.
Giáp cười nhẹ nhàng. Có bạn khác hỏi:
-Chừng
nào niên trưởng mới ra
trường ?
-Chưa
biết, suông sẻ thì còn
khoảng sáu tháng.
Giờ nghỉ trưa qua mau. Vừa có một hồi kẻng đánh lên,
trong lúc nó còn ngân vọng trôi nổi từng âm thanh, thì ngay lúc đó bao
nhiêu
tiếng la hét như trời sập từ bên dưới cầu thang dội lên, và lập tức, cả
trăm
tên lính mới ào chạy xuống sân tập họp, mặt mày tái mét.
-Mới có
ngày đầu vào quân
trường mà các anh cứ tà tà. Tất cả chống thế chờ.
VI
Phượng, một thiếu nữ đẹp trong tiểu thuyết đã không
xuất
hiện ở trong thành phố này. Ngày thứ bảy, đường phố chính ồn ào, nhộn
nhịp. Dọc
phố độc lập SVSQ và lính quân trường đổ ào ra rất đông. Vào buổi sáng
nay , các
cô gái cũng ăn mặc đẹp, thướt tha những chiếc áo dài, và rất là hạnh
phúc khi
bạn thấy họ đi bên cạnh người. Nha Trang không chỉ đẹp với biển, với
các thắng
cảnh chung quanh thành phố, mà còn là một thành phố nơi đóng đô các
quân
trường. Trường Hải Quân, mang lễ phục trắng, trường Không Quân mang lễ
phục
vàng có gắn nửa cánh chim bay trên nắp túi áo trái, trường Đồng Đế cũng
lễ phục
vàng và đội nón béret đen. Từ sáng sơm, các cửa hiệu đã mở, giờ này,
mới hơn
tám giờ mà các quán ăn, tiệm phở, tiệm mì, quán cà phê, quán giải khát
đã đông
chật, có một vài tiệm khách ăn còn đứng đợi chờ có bàn trống.
Với một cách tạo dáng, bên tay trái kẹp tờ báo, trên
miệng ngậm điếu thuốc vừa nở nụ cười làm duyên, Thụy đứng một mình dưới
mái
hiên rạp hát nhìn quang cảnh trên phố chính Độc Lập rất đông người qua
lại. Có
vẻ, người lính trẻ quân trường, anh nào cũng lộ vẻ tươi vui, dễ thương,
khi bên
cạnh mình đang có bóng dáng và tiếng nói người yêu. Sáng hôm nay, các
cô gái
cũng tha thou, đùa vui trong những chiếc áo dài dễ thương và đẹp, trên
gương
mặt hạnh phúc ấy Thụy cũng cảm thấy mình vui lây, thế nhưng anh vẫn
không tìm
ra được một cô gái nào để liên tưởng đến Phượng.
Tối hôm qua, toàn khóa 69B dự lễ gắn alpha. Trong
không
khí trang nghiêm ở hội trường, buỗi lễ gắn alpha rất trang trọng, đầy ý
nghĩa.
Hai vị Liên đoàn trưởng, Đoàn trưởng cùng chủ tọa buổi lễ. Vị Liên đoàn
trưởng
mang cấp bậc Thiếu Tá, ông thuộc thế hệ những phi công đầu tiên của
Không lực
Việt Nam học ở Pháp, vị Đoàn trưởng, cấp bậc Đại úy, tốt nghiệp ở
trường bay
Hải Quân Hoa Kỳ, và đã là một trong những phi công hào hùng, dũng cảm
thực hiện
những phi vụ ném bom chính phạt miền Bắc. Một tân khóa sinh đại diện
khóa được
hai vị trên gắn cùng gắn cặp alpha danh dự , sau đó, lần lượt những
SVSQ các
khóa đàn anh lần lượt gắn alpha cho toàn thể các tân khóa sinh.
Lời thề cất lên dõng dạc, kết thúc buổi lễ toàn khóa
đi
về khu nhà ăn là nơi tổ chức tiệc vui. Từ đầu giờ buổi sáng, một phi
đội được
cắt đặt lo sắp đặt bàn ghế, trang hoàng hoa giấy và đèn, cùng dựng một
bức vẽ
biểu tượng cho khóa ngay phần ngoài sân khấu. Và, khoảng sáu giờ, trong
lúc tân
khóa sinh dự lễ gắn alpha, thì thân nhân và khách mời đạ được Ban tiếp
tân đón
từ cổng Loang Hoa dẫn vào đên khu trại của sinh viên.
Buổi trình diễn văn nghệ sống thật là sinh động. Các
màn
trình diễn đơn ca, đồng ca, hợp ca gay niềm phấn khích cho buổi tiệc
vui. Trong
lúc hát, an hem ngồi bên nhau cũng chuyện trò sôi nổi. Yêu cầu quan
trọng nhất
của vị Đoàn trưởng là phải có màn khiêu vũ. Mới đầu, an hem trong khóa
còn rụt
rè chưa dám đi ra sàn nhảy, nhưng lớp SVSQ đàn anh tỏ ra xông xáo, vui
hết
mình, anh nào cũng mời đào chính, đào secour của mình ra lả lướt theo
điệu nhạc
với từng bước nhảy. Có màu đèn xanh thông sáng, an hem trong khóa mới
bắt đầu
hào hứng, và chỉ chốc lát, là cả sàn nhảy đầy kín những cặp tình nhân
thoải mái
dưới ánh đèn.
Trong khóa của Thụy, nhiều an hem chơi đàn, chơi
trống và
hát rất hay. Tối nay, trong khóa biểu hiện nhiều khuôn mặt hào hoa của
binh
chủng Không quân.
Người bạn thân của Thụy duy nhát là Giáp, bạn học cũ
ở
trường Sao Mai. Hiện giờ, Giáp là lớp đàn anh trên Thụy hai khóa. Giáp
đang học
khóa 35 Cessna, đã bay solo và được gắn nửa cánh bay rồi. Giáp cũng ở
trong
thành phần sinh viên làm cán bộ, hướng dẫn trật tự kỷ luật khóa đàn em,
nhưng
làm việc vào buổi tối. Ban ngày, sáng chiều Giáp học hai buổi bên
trường phi
hành. Từ hôm gặp nhau ở đây, Giáp và Thụy có sự gần gũi với kỷ niệm một
thời
nuên thiếu đã qua.
Từ đầu buổi chiều đến giờ, Thụy không có mặt ở sàn
nhảy.
Anh làm một người bạn xin chia vui ngày vui hôm nay với bao nhiêu bạn
bè khác.
Bản nhạc Việt theo điệu Tango vừa kết thúc, tiếng vỗ tay vang lên, rồi
những
cặp tình nhân lùi về chỗ ngồi của mình. Tuổi trẻ và tình yêu, dù chỉ
mới quen
nhau thôi, nhưng cũng cho nhau chút hạnh phúc để gọi là một thời để
yêu. Thụy
bỗng trông thấy Giáp vừa nắm tay cô gái, Thụy ngạc nhiên, nãy giờ anh
có ý mong
tìm nhưng chẳng thấy đâu cả. Và, lúc này, Giáp cũng đưa mắt nhìn quanh
tìm
Thụy.
Vừa bụm hai tay lên miệng, nhưng chưa kịp gọi thì
hai
người kia đã trông thấy, và cô gái theo tay Giáp tới gần chỗ Thụy. Lòng
Thụy
thực sự vui, Giáp giới thiệu:
-Anh
Thụy, bạn học cũ của
anh.
-Anh
giới thiệu như vậy,
không có le cho anh Thụy.
-Ủa,
phải giới thiệu sao ?
-Đây là
Sinh viên Sĩ quan
Nguyễn Quốc Thụy.
Cả ba người rộ lên tiếng cười. Thụy lấy thêm ghế, ba
người cùng ngồi. Trên bàn đã có sẵn nước ngọt, Thụy rót đầy hai ly mời bạn và cô gái. Trong lúc Thụy rót nước vào
ly, cô gái nhìn gương mặt Thụy cố nhớ ra anh là người mà cô đã có lần
gặp. Mời
cô gái xong, đến lượt mời bạn, Thụy nói:
-Nãy
giờ ngóng tìm bạn.
-Mình
ra ngoài đón Liên
Hương.
-Nhớ
rồi.
Cô gái gật đầu. Giáp hỏi:
-Quen
phải không ?
-Đúng.
-Bạn
nói về cô này đi.
-Có
giọng hát hay lắm.
Giáp đưa tay cho Thụy bắt.
-Vậy lá
lý lịch được xác nhận
rổi phải không ?
-Đúng.
-Chưa
đủ. Cho bạn biết thêm,
ngày trước Liên Hương học ở Đà Lạt, trường Việt Anh, và tôi cũng học ở
đó hai
năm.
-Thì ra
thế .
-Chứ
sao .
Cô gái cười, trên cặp mắt sáng lên cả một vùng sương
mù
thành phố cũ. Nơi thành phố ấy ấy, những kỷ niệm cô lạnh và ấm cả tâm
hồn.
-Hai
người nói chuyện đi, t6i
ra ngoài gặp Quang một chút.
Khi Giáp đi khỏi, Thụy hỏi cô gái.
-Liên
Hương còn ở Đà Lạt
không ?
-Gia
đình em vẫn ở trên đó.
-Liên
Hương ở Nha Trang một
mình.
-Em dạy
học ở trường Nữ.
Thụy châm điếu thuốc. Liên Hương cầm ly nước chanh
lên
uống từng ngụm. Chiếc áo dài màu hoa cải của Liên Hương nổi bật lên
trong không
gian lễ hội và sáng dịu dưới ánh đèn. Nàng đang lắng tiếng Thụy nói,
vừa nhìn
qua gương mặt và đôi mắt nàng. Tối hôm
ấy, buổi ra mắt lớp học
của Liên
Hương. Tại hội trường rất đông học sinh tham dự, và ai cũng cảm thấy
vui thích
khi chương trình văn nghệ bắt đầu.
Từ một khoảng hẹp trên sân khấu lúc bức màn vừa hé
mở, Liên Hương xuất hiện với chiếc áo
dài tím rất đẹp dưới ánh đèn màu. Nhạc dạo một đoạn thật êm ái, rồi
tiếng hát
cô gái cất lên cao và rất trong. Bản nhạc có tên Mấy độ thu về , trong
từng
giây phút, tiếng hát của cô gái làm cho mọi người lắng đi, êm ả, để
cùng với sự
luyến nhớ mà đi tìm một mùa thu về nơi đâu không rõ. Khi tiếng hát dứt,
riêng
tôi thật mơ màng. Tôi giữ lại ảnh hình đầu tiên của cô gái cho đến khi
bức màn
trên sân khấu che khuất lấp.
Về phòng, Thụy không ngủ được. Bản nhạc buồn như
tiếng
đàn vĩ cầm, mùa thu ấy
trở về từ nơi nao, xa vắng quá. Hình dung lần
nữa với cặp mắt, Thụy thấy lại Liên
Hương trong chiếc áo tím, ánh đèn màu vẫn giữ rất lâu hình ảnh cô gái
trên sân
khấu, dù cho tiếng hát không còn nữa.
-Liên
Hương có quen với Thùy
không ?
-Quen
chứ. Chị Thùy cũng học
ở trường mình, trên em một lớp.
-Anh có
gặp Thùy, nhưng cách
đây hơn ba năm.
-Em mới
dạy năm ngoái.
-Liên
Hương gặp anh Giáp lần
đầu.
-Em
cũng mới quen ít tháng
nay thôi. Ngày hôm đó, anh đi tìm một người bạn cùng dạy ở trường em.
Nơi này, đứng nhìn đường phố đông vui, Thụy chợt nhớ
đến
một hai câu trong bài nhạc của Trịnh Công Sơn
Có đường phố nào vui cho ta qua một ngày
Có sợi tóc nào bay trong trí nhớ nhỏ nhoi
Tối hôm qua, Thụy đã gặp lại Liên Lương, kỷ niệm đã
cùng
nhắc nhở anh và nàng về một mối tình cũ. Sau nhiều năm xa cách, cô gái
ngày xưa
đã lớn thay đổi nhiều. Liên Hương được
mời lên hát. Cô đã hát lại bản nhạc Mấy
độ thu về một thuở cho mối tình học trò , sau đó, tiếp lời yêu cầu, cô
hát bản
Gợi giấc mơ xưa. Tiếng hát nghe thiết tha, buồn lặng, như mối tình ấy
vẫn mãi
đẹp trên dòng sông thành phố cũ. Trên cặp mắt Thụy đỏ hoe, anh đang
biết mình
nhớ Ninh Hà da diết.
Khi chiếc xe khách xuống hết đèo Hải Vân, trời bắt
đầu
mưa nhẹ hạt. Tự dưng qua cơn mưa Thụy nhìn thấy cảnh vật trở nên buồn,
lặng lẽ
dưới bầu trời xám.
Còn hơn 70 cây số nữa mới tới Huế,
ít ra xe đò Tiến Lực còn chạy hai giờ nữa.
Nhưng ngay bên này con đèo đã thuộc địa
phận của tỉnh Thừa Thiên nên bạn sẽ thấy khung cảnh, nếp sinh hoạt, và
nhất là
giọng nói hoàn toàn đổi khác. Ngồi bên cửa xe, Thụy hút thuốc. Khói
mỏng tan
nhanh, đồng thời những ý nghĩ trong anh lại gây một cảm giác băn khoăn,
lạ
lùng. Thụy đã vào Đà Nẵng học một tháng nay rồi. Xa nhà, anh có được
mấy ngày
về nhưng xét ra không có gì nao nức, bồn chồn lắm. Mới khởi sự vào năm
học,
cái bỡ ngỡ lúc đầu cùng với tâm trạng
buồn hỏng thi dần dần nhẹ vơi trong một thứ tình cảm thật dễ chịu của
thành phố
mà anh đón nhận được ở nơi đây một niềm an ủi , vừa cảm động. Hình ảnh
những
ngày qua còn rõ nét trong trí nhớ anh với căn phòng học, tiếng nói trầm
ấm của
dì Vân, tình cảm hồn hậu của bác Hội, và những tiếng cười vui thích
thú, đùa
nghịch đuổi nhau vang lên trong căn nhà rộng của mấy cô chị nhỏ con dì
Vân. Bác
và dì, hai vợ chồng chỉ có một cậu con trai út đang nằm nôi, còn mấy cô
gái
đang theo học trường tiểu học người Hoa. Bác và dì, hai người tuy chênh
lệch
tuổi, nhưng sống chung với nhau thật hạnh phúc, thủy chung. Còn riêng
mình,
Thụy cũng bắt đầu có bạn thân ở lớp như Cát, Há, Hùng, Định, Giáp,
Thanh, những
bạn này quen nhau sớm vì chúng tôi ở cùng đường Trưng Nữ Vương. Buổi
sáng cũng
như chiều, các bạn hay đến đầu ngã ba rồi chúng tôi cùng tới trường.
Và, câu chuyện
vui của chúng tôi là những cuốn phim hay, những trận túc cầu sôi nổi
trong các
kỳ giải thế giới. Đó là bạn trai cùng lớp, còn bạn gái, chỉ có một
người duy
nhất tôi mới quen là Ninh Hà. Ninh Hà ở bên lớp Nhị A, chỉ học chung
với tôi
mỗi tuần 6 giờ hai ngoại ngữ Anh và
Pháp. Tối hôm đó đi chơi về ngang qua nhà nàng, nghe tiếng nàng hỏi,
rồi được
làm thân vào nhà nàng chơi, Thụy đã trở thành một người bạn mới của
nàng. Trong
hai người đôi mắt được diễn tả và nói nhiều hơn cả. Chắc hẳn rồi, nàng
biết tôi
yêu nàng, và tôi như cũng hiểu nàng có yêu tôi. Vào tuần lễ đầu tôi
gặp, nàng
còn ngồi riêng với mấy cô bạn ở dãy bàn bên kia, qua hai tuần lễ sau,
nàng đổi
qua dãy bên này và chọn chỗ ngồi ngay phía trước tôi.
Có chăng, đấy là tình yêu hay sự quen
thân muốn tỏ bày, hạnh phúc tuổi trẻ của tôi là những điểm tựa lấm tấm như từng nụ hoa phơi trên áo nàng, và
nàng còn đẹp, uyển chuyển với mái tóc mượt mà luôn buông xõa xuống hai
vai. Có
vậy, nên tôi rất vui, thích thú khi đến giờ học ngoại ngữ, rồi hôm nào
cũng
vậy, nàng luôn thấy tôi ngồi đợi nàng với cặp mắt trông chờ nhìn ra cửa
lớp. Có
nàng, tôi sẽ cố học chăm, hiểu bài chín chắn, bình tĩnh, chừng mực đo lường sự tự tin nơi mình để chắc chắn năm
nay thi đậu, rồi năm tới cùng lên lớp học chung với nàng, và tôi cũng
thầm ao
ước chúng tôi hiểu nhau thêm để sau này mong có được duyên may làm bạn
đời với
nhau. Không khí lớp học, tình bạn bè, những bài giảng của thầy dạy ở
lớp tự
nhiên đem về cho tôi trọn một thuở tình đầu mới mẻ, bây giờ tôi muốn
mình là một
chiếc va li học trò với bao nhiêu kỷ niệm cất giữ chỉ muốn riêng cho nàng, đó là những chiếc áo màu nàng mặc
mỗi ngày đi học, đó là mái tóc nguyên vẹn trên bờ vai ấy, mỗi khi nàng
cất
tiếng nói vui trong đôi mắt nàng những
ánh sao, những hạt cám của nụ cười dần dần nhỏ bé
lại.
Thường, mỗi buổi học chung vào giờ ra chơi một ít
nhóm
học sinh vẫn hay ngồi lại trong lớp chuyện trò hay chơi cờ ca rô. Bây
giờ chúng
tôi đã thân nhau hơn, dễ dàng nói chuyện với nhau. Biết nàng có ở Quảng
Trị nên
thành phố nhỏ ấy trở nên đề tài phong phú cho tình bạn chúng tôi hôm
nay và cả
ngày xưa. Tôi cho nàng biết, hồi đó, gia đình tôi ở ga, tôi học trường
Nam tiểu
học với một cô giáo rất xinh đẹp, lên trung học vào trường Phước Môn
một năm,
rồi qua trường Nguyễn Hoàng và sau ba năm
học ngoài đó tôi đi xa vào miền Nam. Tôi cũng có hai năm học ở Đà Lạt. Nơi thành phố cao
nguyên này tôi đã sống hồn nhiên, có nhiều kỷ niệm đẹp, dễ thương. Nàng
hay mỉm
cười nhìn lại cặp mắt tôi mỗi lần nghe những lời tôi tâm sự. Và cái
nhìn ấy cũng
đã làm tôi cảm thấy ấm áp, dịu một mùi hương dưới bóng im tỏa ra từ cặp
mắt
nàng. Rồi đến lượt mình, nàng cũng kể
cho tôi nghe chuyện một cô bé vào học tiểu học ở trường Thérésa, sau đó
lên
trung học ở trường Thánh Tâm(và trở thành hoa khôi của trường đó, nàng
cũng biết rằng tôi đang nghĩ như thế).
Giờ ra chơi chỉ mười lăm phút, nhưng mà khoảng thời gian này, đích thực
là hạnh
phúc của hai đứa tôi.
Xe ra tới Huế, gần
trưa. Xe vừa đỗ bến, đã có những anh em bốc vác, chạy xích lô chờ để
rước khách về nhà hoặc chở hàng cho mấy người
đi buôn tới chợ. Tôi chỉ có cái túi xách nhẹ, lúc
anh xích lô mời đón
tôi lắc đầu, vừa đáp lời là nhà tôi ở gần đây trong khu vực nhà thờ
Dòng Chúa
Cứu Thế. Nắng trưa gắt, tôi khát nước nên vào quán ở bến ngồi ăn ly chè
đậu
xanh có đá bào. Bên dưới chiếc xe khách
đậu ở bến, mấy người đi buôn vẫn còn
chờ đợi lơ xe chuyền hàng, và cứ từng bao đưa xuống
được chồng chất ngay
lên những chiếc xích lô đã đợi sẵn.
Hai người đàn bà ngồi gần tôi đang nói chuyện với
nhau về
một vụ tự thiêu vào tối hôm qua ở chùa Diệu Đế. Giọng kể chuyện rất
bình thản,
không có sự nguyền rủa, than van, xót xa, nhưng từng sự kiện ở trong
biến cố
này như đã hình thành một bản luận trạng
tố cáo sự bất công của chính quyền, và
cái chết tự thiêu vì đạo pháp của một thiểu số người ở đây không còn là
thảm
kịch nữa, nó đã trở thành một thái độ đấu tranh bất bạo động của Phật
Giáo ngày
càng kiên trì, quyết liệt.
Tôi mua ly nước đậu ván uống thêm rồi đứng dậy trả
tiền.
Từ bến xe, tôi đi bộ về nhà. Trên con đường trưa vắng xe cộ thưa thớt,
và khi
trông thấy pho tượng Đức Mẹ tôi cùng nhận ra lối ngã ba bên nhà thờ rẽ
vào
đường kiệt nhà tôi. Ngôi nhà thờ xây
dựng hoàn tất sau khi gia đình tôi đến ở một năm. Trong khu vực này,
hầu hết là
nhà người Công Giáo, chỉ có một số ít gia đình theo đạo Phật . Vì chỗ
nhà thuê
rộng rãi, thoáng mát, nên tuy trong tình cảnh khó khăn, không khí ngột
ngạt,
nhà tôi vẫn không dời đi nơi khác. Khi biến cố Phật Giáo xảy ra, ba tôi
báo
động ngay cho cả nhà biết nên giữ im lặng, phòng thân, và đừng nên lui
tới với
các gia đình người công giáo xóm giềng. Năm ngoái, tôi học trường Bình
Linh,
lớp tôi, chỉ có mấy bạn gia đình theo đạo Phật, còn hầu hết là Công
Giáo. Năm
học qua, mỗi sáng chiều vào lớp, hay mỗi lần đổi giờ học, trước khi
khởi sự bài
học chúng tôi đều phải đọc kinh, ngoài ra còn phải học môn giáo lý mỗi
tuần vào
hai ngày thứ tư, thứ sáu. Những hôm có lễ lớn, giờ giáo lý được giảng ở
nhà
nguyện, và tuy là Phật Tử nhưng tôi chẳng kiêng cữ chuyện đọc kinh, hay
lễ rước
mình khi ăn bánh thánh . Thường ở nhà nguyện, linh mục Thích làm chủ
lễ. Linh
mục Thích vừa dạy học ở trường tôi, vừa dạy ở Viện Hán Học.
Về tới nhà, chỉ có mẹ tôi đang soạn đồ đạc ở gian
bếp. Cả
nhà vắng, mấy em tôi đi học, ba tôi đi
làm chưa về.
-Anh
Nguyên đâu mẹ ?
-Không
biết nữa.
-Anh có
tới trường không ?
-Có,
nhưng chưa học hành gì
cả.
Nhà tôi xây trên nền đất cao, có bốn bậc thềm tam
cấp.
Ngồi ở phòng khách trông ra, bên dưới là đường kiệt chạy vòng quanh xóm
rồi ra
gặp một con đường chính trước bến sông. Bên trên nhà tôi, phía đối diện
là tòa
nhà sang trọng của một Viên Đại úy làm việc trong ngành truyền tin. Nhà
ông ta
có vườn rộng, nhờ cây cối tỏa bóng im nên che bớt nắng trên đường kiệt nhỏ này.
-Ngoài
này tình hình ra sao,
mẹ ?
Tôi hỏi lúc thấy mẹ tôi lên nhà. Bà đáp:
-Trên
chùa Từ Đàm, người ta
vẫn cứ tuyệt thực.
-Hôm
qua có vụ tự thiêu nữa,
phải không ?
-Có,
một đoàn viên Phật tử tự
nguyện.
Tôi mở túi xách để dưới chân lấy gói thuốc rút một
điếu
châm hút. Khói thuốc từ trong cổ họng thở nhẹ ra nó đã làm tôi suy nghĩ
nhiều
về tình hình hiện tại. Tôi đã về lại nhà và có cảm tưởng
ở đây luôn, cùng với biết bao nhiêu sự nôn
nóng bừng dậy như thể tôi cũng đang chờ đợi một ngày phán xử cuối cùng.
Mẹ tôi nói:
-Tình
hình khó khăn lắm. Hôm
qua, mẹ ra Quảng Trị.
-Mẹ về
làng ngoại.
-Không,
ra tính chuyện bán
nhà.
-Bán
cho ai ?
-Người
chủ thuê họ muốn mua.
-Giá cả
sao ? Nhưng sao lại
bán đi.
Mẹ tôi lặng im suy nghĩ gì đó, không trả lời . Ba
tôi đi
làm đã về. Rồi cùng lúc, mấy em tôi đi
học cùng về tới. Tiếng cười của Dung vang dòn lên. Trong nhà tôi, tôi
và đứa em
gái kế giống bên ngoại. Tôi giống mẹ tôi, em tôi lại giống dì Vân, còn
lại từ
anh cả tôi đến mấy đứa em trai đều giống bên nội, nhất là ba tôi. Bên
trai, anh
Nguyên dáng hào hoa, đẹp trai, còn bên gái, Dung xinh nhất nhà.
Không khí trong gia đình vui hẳn lên khi có tôi về.
Ba
tôi hỏi:
-Con về
được mấy ngày ?
-Ba
ngày. Trưa chủ nhật con
vào .
-Trong
đó tình hình ra sao ?
-Trong
đó bình thường, yên ổn
hơn. Tuần trước, các trường học tập trung để nghe hóa giải vấn đề Phật
Giáo.
Ông Trung tá tỉnh trưởng Quảng Nam là người Công Giáo.
-Ở tỉnh
nào cũng vậy, cấp cao
là người công giáo thôi, ba tôi nói.
Bữa ăn vừa dọn lên thì anh Nguyên về. Kỳ thi vừa
qua,
anh đậu
được Tú Tài II làm cả nhà rất mừng. Bà con bên nội
tôi cũng mừng, vì anh
là người khai khoa. Gia đình chúng tôi các chú, các bác hầu hết làm
nghề nông
chỉ có hai người được đi học là ba tôi đậu bằng tiểu học, chú tôi,
Nguyễn đặng
Anh có bằng Thành Chung làm công chức Tòa án được ít năm thì kháng
chiến bùng
nổ , chú theo cách mạng, chết trong một trận đánh ở chiến khu Ba Lòng.
Khi hay
tin chú chết, bà nội tôi khóc nhiều ngày đêm, và cái chết của chú đã
làm sụp đổ
niềm hy vọng gia đình vì cả nhà riêng mình chú được nuôi ăn học đến
ngần đó.
Tôi đứng dậy khi anh Nguyên vừa từ bậc thềm bước lên
cửa:
-Anh đi
đâu về đó ?
-Anh
tới nhà thằng bạn.
Anh Nguyên vỗ nhẹ vai tôi, rồi nói mấy lời hỏi thăm
bác
Hội, dì Vân. Tôi rất vui khi nhìn vào cặp mắt
quyến rũ, thật dễ thương của anh. Hai anh em ngồi
xuống ghế ở phòng
khách cùng chuyện trò với ba tôi. Một lúc, theo đà câu chuyện về tình
hình hiện
tại tôi hỏi:
-Anh có
tham gia sinh viên
Phật tử không ?
-Không
có. Nhưng lúc này sinh
viên đang quyết tâm tranh đấu.
-Giáo
sư Đại Học bị bắt được
thả ra chưa ?
-Chưa.
Cả nhà bắt đầu bữa
ăn. Gia đình tôi hôm nay đông đủ làm cho bữa ăn thấy ngon. Chỉ có ba
tôi, tôi
và anh Nguyên bàn tiếp chuyện biến cố Phật Giáo, còn mấy em tôi thì cứ
chuyện
học ở trường với bạn bè, thầy cô mà nói. Trong giọng nói của mấy em
tôi, hoàn
toàn ngây thơ, trong sáng. Đôi khi trong im lặng, tôi nghĩ đến cái chết
của
Nghi Lâm em gái Hân và Nguyệt. Tôi vẫn còn nhớ rõ buổi trưa đó, từ Huế,
Dung
mặc áo đầm trắng đi ra Quảng Trị tìm đến nhà bác tôi, tin cho hay Nghi Lâm đã chết trong số
bảy em bị lựu đạn nổ và xe tăng cán chết ở
Đài Phát Thanh vào tối lễ Phật Đản. Tôi bàng hoàng, mất đi mấy ngày bỏ
học thi.
Sau bữa ăn, anh
Nguyên đi nghỉ. Ở phòng
khách chỉ
có ba tôi và tôi. Tôi hỏi:
-Mẹ nói
bán nhà ở Quảng Trị,
phải không ba ?
-Ờ,
thôi bán mà đi nơi khác
ở.
-Ba
tính đi đâu ?
-Ba
tính xin đổi vào miền
Nam, đem cả gia đình theo luôn.
-Tình
hình này còn lộn xộn,
đã đi đâu được.
-Nhưng
cũng phải tính trước.
Càng ngày, ở đây càng khó khăn.
Tôi lặng im. Ngồi không lâu, ba tôi và tôi cùng đi
nằm nghỉ
trên bộ ghế ngựa đặt sát bên cửa sổ.
Khi tôi thức dậy, ba tôi đã đi làm. Anh Nguyên cũng
rời
nhà đến chơi với mấy người bạn, hoặc lên các chùa theo dõi tình hình.
Tôi rửa
mặt xong, mặc quần áo, rồi lấy xe đạp em tôi đi chơi phố. Khi tới đường
Lê Lợi
ở góc cầu Trường Tiên tôi dừng xe bên bờ đường, nhìn qua vòng rào kẽm
gai mắt
chú ý đến những người lính gác bảo vệ khu vực Đài Phát Thanh. Họ đi lại
trong
khuôn viên của Đài, dáng vẻ ưu tư. Tự
dưng, tôi chợt nghĩ mình đứng ở đây, hay bất cứ nơi đâu cũng đều ngửi
thấy mùi
vị khói lựu đạn cay ngột ngạt, bao trùm làm cả thành phố không vùng dậy
nổi.
Tôi không qua bên
phố Trần Hưng Đạo mà đạp xe chạy lên hướng nhà ga. Trên con đường, càng
lúc
càng đông thêm người đi bộ và xe đạp, họ cứ bươn bươn đi mặc dù có lính
gác.
Trong lòng tôi tuy có nỗi lo sợ, nhưng thấy đồng bào lũ lượt kéo nhau
đi, tôi
cũng nô nức, và rồi tôi cũng theo họ qua từng đoạn đường sau đó hướng
về con
dốc Nam Giao đi lên chùa Từ Đàm. Lên tới đây, người đông chật như nêm.
Tôi đứng
dưới bóng cây nhìn qua chùa, trông thấy cảnh tượng trên sân những người
Phật tử
ngồi yên lặng tuyệt thực, những hàng cờ Phật Giáo treo từ ngoài sân vào
đến các
mái hiên chùa, và tiếng máy phóng thanh đọc bản thông báo chính thức về
việc
phản đối chính phủ. Tôi bỗng tự hỏi, mình làm được gì ? Câu hỏi đó đến
với tôi,
rồi giống như viên sỏi nó rơi chìm xuống đáy sông. Tôi nhìn qua chùa,
những
người đang tuyệt thực ngồi ở ngoài sân , họ thực can đảm, vì biết rằngï
phải
đương đầu một cách khắc nghiệt với chính quyền, và còn nữa, biết bao
nhiêu
người thân của họ đang sống sẽ chịu liên lụy với họ trong biến cố này.
Và, hầu
như cả thành phố đều sôi sục oán thù, bừng bừng trỗi dậy để đấu tranh
cho tự do
và sự sống còn.
Bỗng dưng, không khí đang nung
nóng làm cho tôi có cảm giác sợ hãi.
Không trở về nhà mình, tôi đạp xe đến nhà Hân.
Sau cái chết của
Nghi Lâm, gia đình Hân dọn đi ở chỗ mới. Căn nhà trông ra con đường
Phan Bội
Châu, bên dưới là bến sông. Ở đây, gần
nhà ga và thường nghe rất rõ tiếng còi của các đoàn tàu đến hoặc ra đi.
Tôi và
Hân có sự liên hệ qua tình thông gia. Dì Cúc mẹ Lăng là em mẹ tôi, lấy
chồng,
người này là anh ông Thụy ba của Hân. Sự
liên hệ giữa chúng tôi không chỉ ù thế thôi, mà còn có thêm tình cảm
thân thiết
vào những năm tản cư sống gần nhau nơi quê ngoại chúng tôi, vì vậy, hai
bên rất
thân nhau. Hân nhỏ hơn tôi năm tuổi, còn Nguyệt là chị lớn hơn tôi một
tuổi.
Nguyệt mới đậu Tú Tài I năm rồi, nên giờ học trên tôi một lớp. Vì mặc
cảm với
bạn bè, tôi muốn xa Huế đi vào Đà Nẵng học.
Tôi đến, gặp Hân và Nguyệt ở nhà.
Vừa trông thấy tôi, hai chị em cùng reo lên vui mừng. Lúc ấy, chúng tôi
đều
tưởng như ai cũng đi xa lâu ngày, giờ mới gặp lại.
-Mới ra
hôm nào ?
-Lúc
trưa nay.
Nhà
vắng, lúc này cả ba chúng
tôi đều mong có rất nhiều chuyện để nói hết với nhau.
Nguyệt
hỏi tôi:
-Thụy
thấy sao ?, chính phủ
gia đình nhà Ngô có sụp đổ không ?
Tôi do dự, hỏi lại nhỏ tiếng:
-Chị
nghĩ sao ?
Nguyệt đáp:
-Ảnh
hưởng của Đài B.B.C đối
với dư luận quốc tế rất là lớn.
Giọng chậm rãi, tôi nói:
-Ở Đà
Nẵng quá yên tịnh.
Ngoài này là Trung tâm Phật Giáo nên hai bên đều găng nhau. Phía chính
quyền,
họ không dám tấn công mạnh nữa, ngay cả bên Công Giáo dù cho Đức Cha
Thục đang
nắm quyền.
-Bây
giờ các chùa trở thành
trung tâm tranh đấu.
-Chị
biết tin thầy Thích Trí
Quang ?
-Ông đã
được Tòa Đại Sứ Mỹ
che chở.
Tôi
nhìn qua Hân, cô gái mỉm cười nhìn lại tôi
thoáng hiện một vẻ đẹp
quí phái trong tuổi thiếu nữ. Hân học giỏi, thông minh. Năm học vừa
qua, tôi và
Hân có với nhau một mối tình học trò. Tôi yêu Hân qua hình ảnh của đôi
mắt, qua
những câu nói ngập ngừng, những cử chỉ săn sóc, và sự lo ngại trong
niềm bâng
khuâng, mối tình này có vẻ mang đôi chút dáng dấp các nhân vật trong
tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn.
Tôi ngồi chơi với hai chị em Hân
hết buổi chiều mới đứng lên kiếu từ. Nguyệt rời ghế đi theo tiễn chân
tôi ra
lối cổng. Lúc dừng bước để chào nhau, bỗng nàng nói với tôi, giọng
trách móc
như của người chị:
-Sao
không học ngoài này mà
vào trong đó. Hãy nghĩ là hai bác trên nhà rất buồn, đúng không?
Không đáp lời, tôi chỉ nhìn đôi mắt nàng. Ngày hôm
sau
chủ nhật, tôi đi chuyến xe giữa trưa vào Đà Nẵng. Từ bến xe, tôi đi bộ
về nhà.
Không có gì gấp vội nên một mình, tôi bước thong thả. Bên vai tôi, có
cái túi
xách và nhét tờ báo ở ngoài. Sau chuyến về thăm nhà, lòng tôi vơi nhẹ
hẳn mối
lo. Và giờ đây, trở lại thành phố này
hình ảnh đầu tiên tôi nhớ đến la øNinh Hà. Giữa chúng tôi, cả hai đã
cùng biết
là có tình yêu làm cho mỗi người bối rối trong cái nhìn đằm thắm, thân thương. Chúng tôi luôn muốn trao đổi
tình cảm với nhau, nhưng chỉ có cặp mắt là nói được nhiều hơn cả.
Khi tới đầu phố Độc Lập, tôi ghé
vào hiệu sách Lam Sơn. Tôi vẫn thường hay đến hiệu sách như một thói
quen. Lúc
bước vào, tôi chợt bắt gặp một cô gái có vẻ quen nhưng
nếu cố nhớ ra, tôi cũng chỉ mường tưởng
là đã gặp cô một nơi nào đó ở thành phố khác. Có thể, đó là Nha Trang
nơi tôi
còn giữ kỷ niệm trong mùa hè năm ấy. Cô gái nói giọng miền Nam khiến
tôi lại
hình dung, gợi nhắc đến một chuyến đi xe
đò từ Đà Lạt về Sài Gòn.
Tôi rảo quanh các hàng kệ mắt
tìm xem có những sách gì mới về. Bên cạnh người bạn của mình cô gái vẫn
tiếp
tục trò chuyện, và trong lúc loáng thoáng nghe tôi biết cô ở Sài Gòn
vừa mới về
đây thăm nhà.
Tôi mua một cuốn tập và cây bút
nguyên tử mực xanh để chép bài. Tới quầy, trả tiền xong tôi đi bộ về
nhà. Lòng
tôi lại vui lên khi nghĩ đến Ninh Hà, và lúc này, tôi như có cảm tưởng
tôi sẽ
đến thăm nàng. Tôi vui nghĩ đến người bạn gái của mình , chốc lát nữa
đây tôi
sẽ nói về Huế cho nàng nghe, nhưng mà cuộc hẹn lâu hơn hết của chúng
tôi vẫn là
những giờ học chung ngọai ngữ ở lớp. Hình ảnh
nàng luôn đọng lại nơi đôi mắt. Trong đôi mắt của
nàng tôi tìm thấy
những hạt mưa nhỏ gây niềm vui hay ánh sáng một ngày vừa mới tắt, và
lúc ấy,
cũng là lúc tôi nhận ra được âm thanh
tiếng nói của nàng. Và, đôi khi nàng sẽ hiếu thấu
cuộc đời tôi.
Tôi cũng không nên giấu với bạn là tôi đã có được
xem ảnh
nàng. Tình cờ thôi, một hôm tôi xuống
văn phòng để trả tiền học, bỗng thấy có một xấp học bạ để ở trên chiếc
bàn dài
, thoáng nhìn không có ai để ý tôi liền lật ra xem, vừa tìm kiếm, rồi lòng chợt vui xiết kể khi tôi đọc được
tên nàng. Tôi khẽ mở cuốn học bạ , ngay trang đầu có tấm ảnh căn cước
của nàng
và những dòng lý lịch ghi tên cha mẹ và nơi sinh quán. Tôi lặng im, cúi
mắt
chăm chú nhìn xuống gương mặt nhỏ bé của nàng trong tấm ảnh. Biết bao
nhiêu
điều muốn nói ra, nhưng rồi, tôi vội lướt xem qua thôi, tuy nhiên tôi
ghi nhớ
được hết tất cả những gì tôi mong được biết về nàng.
Nắng ấm trên đường phố. Phố Độc
Lập luôn quang đãng, sạch sẽ. Tôi đi bộ qua nhà thờ Chánh tòa. Bên
trong khuôn
viên nhà thờ là màu vàng của ánh nắng, màu trắng của tường vôi và có
dáng linh
động với những con chim đang nhảy nhót.
Lúc này, trong tôi biết bao nhiêu hình ảnh, biết bao nhiêu niềm vui trở
thành
những câu chuyện kể , và cứ tha hồ tưởng
tượng, tự do liên tưởng đến tên nàng, giọng nói của nàng cứ mang tôi ra đi tới một chốn xa lạ ở phương
trời nào đó dù cho tôi không biết nàng ở đâu. Không biết nữa, những
ngày qua
tôi về thăm nhà thì ở đây nàng làm gì.
Nàng có người yêu chưa nhỉ ? Có
rồi đấy, tự dưng tôi lặng im suy nghĩ, vừa phân vân lo sợ. Nàng đã có
người
yêu, tôi biết nói lên điều gì để so sánh với nỗi buồn. Tôi chợt nghĩ
thế nhưng
rồi cố quên, và bây giờ tôi đang đến gần nhà nàng rồi.
Cửa hiệu Xuân Dung đang có hai
người khách vừa trở ra. Khi đi ngang, tôi gặp Hoàn cậu bé tóc quăn em
nàng ngồi
đọc báo trước nhà. Vừa trông thấy tôi, cậu bé cười hỏi:
-Anh đi
đâu đó ?
Tôi dừng bước, sau ít giây ngập
ngừng tôi bước tới gần cậu bé, nói:
-Anh
mới về thăm nhà ?
-Ở đâu
anh ?
-Anh ra
thăm nhà ở Huế.
-À, nhà
anh ở Huế.
-Em ở
nhà, không đi chơi đâu
?
-Em mới
đi đá banh bàn.
Tôi nhìn ánh sáng đèn néon chiếu
xuống tủ kính. Cậu bé nói:
-Có chị
Hà em trong nhà.
Tôi rất mong gặp lại Ninh Hà ,
nhưng ngại ngùng. Ngay lúc đó, tôi chợt trông thấy nàng từ trong nhà đi
ra. Vừa
gặp nhau, tôi lên tiếng chào, nàng nhìn lại tôi bằng một nụ cười thân
thiện
nhưng không nói gì cả. Cả cậu em và nàng mời tôi vào nhà chơi. Tôi lên
tiếng
chào với ông bà, vừa đáp lời chào lại bà mẹ hỏi tôi:
-Cậu đi
đâu mà đeo túi xách .
-Cháu
mới ra Huế thăm nhà,
tôi đáp.
-Ông bà
có khỏe không ?
-Dạ, ba
mẹ cháu thường luôn.
Tôi đã ghé đến đây một lần rồi,
nên lần này tôi có được sự tự nhiên . Tôi ngồi xuống ghế, cầm tách trà
đưa lên
miệng uống một hớp nhỏ.
Ông Kha hỏi tôi:
-Ở
ngoài đó, tình hình ra sao
cậu ?
Giọng chậm rãi, tôi nói:
-Ngoài
đó, giờ cả thành phố
rất ngột ngạt. Trên các chùa Từ Đàm, Diệu Đế, đâu cũng có lính gác và
vòng rào
kẽm gai.
-Có báo
động không ?
-Rất
căng thẳng, thưa bác.
Nhưng phía chính quyền không còn dám tấn công sợ bùng nổ, còn bên Phật
Giáo vẫn
kiên trì chống đối đòi chính quyền thực hiện nguyện vọng. Chắc chắn sẽ
còn
nhiều vụ tự thiêu nữa.
-Sáng
nay đài B.B.C loan báo
kết quả tường trình của Phái đoàn Liên Hiệp Quốc.
-Tin
tức ra sao, bác ?
-Họ yêu
cầu chính quyền phải
cho tự do tôn giáo.
-Ở Huế,
tất cả quyền hạn
trong tay ông Ngô Đình Cẩn và Đức Cha Ngô Đình Thục.
Trong lúc nói chuyện
với gia đình, tôi vui thích được
dịp ngồi gần bên Ninh Hà. Hạnh phúc cho tôi giống như
cả vụ mùa, từ sự bao dung làm tôi cảm thấy
mình dịu mát trong ngọn gió, trong chút hương thơm và tràn đầy biết bao
nhiêu
hình ảnh mơ mộng giữa cánh đồng quê. Tôi cũng vừa mới về thăm quê nội
tôi cách
đây hai ngày.
-Gia
đình cậu còn ở Quảng Trị
không ?
-Dạ vào
Huế cả rồi. Căn nhà
ngoài đó hiện giờ cho thuê.
-Người
Quảng Trị chất phác lắm
cậu ạ.
-Dạ.
Bên ngoài, buổi chiều bắt đầu xuống có vẻ vội vàng.
Ngồi
trong căn nhà người bạn gái lúc này tôi vui hưởng một
chút hạnh phúc như tưởng mình đang có người
yêu. Vừa cảm thấy nôn nao, vừa cố gắng giữ sự tự nhiên trên vẻ mặt, tôi
đọc
được rất nhiều mối thiện cảm gia đình của người bạn. Và, tôi cũng được
biết tên
cả nhà từng người. Hai ông bà tên là Kha và Uyên. Ninh Hà , chị cả
trong nhà,
đến Hòan cậu bé tóc quăn, Thu Hiền, Hạnh, rồi Hằng là cô út. Tôi hơi
chú ý đến
Thu Hiền, cô em gái này luôn nhìn tôi với nụ cười sáng dịu trên cặp mắt
còn
ngây thơ. Nhưng bạn cũng biết rồi đấy, tôi yêu Thu Hải hơn hết. Nãy giờ
ngồi
bên tôi, Thu Hải không nói gì , nàng chỉ nghe tiếng tôi nói và rất vui
với nụ
cười trong cặp mắt. Một đôi lúc, tôi nghe âm thanh trong trẻo tiếng của
nàng
nói với ba mẹ nàng.
Bỗng nhiên, có một người trẻ xuất hiện. Vừa trông
thấy
anh ta bước vào, rồi cả nhà cùng lên
tiếng, tôi chợt hiểu ngay anh là người quen trong gia đình và có lẽ là
người
yêu của cô gái. Tự dưng tôi lặng im, bối rối.
Chàng trai và cô gái cười nhìn nhau. Một chiếc ghế
trống,
anh ta kéo lại gần bàn ngồi xuống cạnh bên tôi. Ông bà giới thiệu tôi
với người
con trai:
-Cậu
Thụy đây là bạn học cùng
lớp với em Hà.
Tôi và chàng trai chào nhau. Có lẽ trong nhà hiểu
được sự
bối rối của tôi nên ông bà luôn tiện nói
về chàng trai này cho tôi biết, và đúng như
tôi vừa mới chợt đoán
nhận, anh
ta là người yêu của Ninh Hà . Không khí trong gia đình trở lại bình
thường. Và,
ông Kha khơi lại chuyện tình hình đất nước.
Chàng trai nói:
-Tình
hình ngoài Huế nghiêm
trọng lắm bác ạ.
-Anh ở
Huế mới vào ?, tôi
hỏi.
-Vâng.
Ninh Hà giới thiệu với tôi:
-Anh
Duy học ở Đại Học Khoa
Học .
Chàng trai là sinh viên. Duy mặc ngoài
áo jacket xám để hở chiếc sơ
mi trắng. Tôi nhìn gương mặt Duy qua dáng
vẻ thư sinh, thanh lịch,
hẳn là con nhà giàu. Ngồi bên tôi anh nói
chuyện cởi mở , còn với cô gái là người yêu tiếng nói của anh thật nhỏ
nhẹ, thì
thầm. Một lúc sau, tôi đứng dậy xin kiếu từ để ra về. Ông Kha bắt tay tôi thật nồng ấm. Ông nói:
-Thỉnh
thoảng cậu ghé chơi.
-Dạ.
Bỗng nhiên, tôi dừng lại khi bàn tay ông Kha đặt lên
vai
tôi, bối rối trước sự thân tình của ông.
Rồi, tôi cầm lấy gói thuốc ông cho và
nói lời chào cả nhà lần nữa trước khi dời bước. Về đến nhà, lòng tôi
cảm thấy
buồn tưởng lần đầu tiên tôi nhận ra sự xa lạ của chính mình. Mặc dù,
tất cả
trong lòng mình cũng như với người bạn gái tôi hiểu được hết. Thế nhưng
đã vỡ
mộng tình yêu tuổi trẻ làm sao không
tránh khỏi sự suy sụp tinh thần.
Sau bữa ăn
tối, về phòng tôi coi qua loa bài vở rồi
đi ngủ sớm.
Ngày hôm sau, tôi gặp lại Ninh Hà ở giờ học môn
tiếng
Pháp.
Vừa xuất hiện trước cửa lớp , Ninh Hà nở nụ cười
chào
tôi. Qua nụ cười đó, đôi mắt cô gái thấy rõ tôi hơn ai hết và cô có
hạnh phúc
được một người bạn trai luôn yêu thương mình. Và buổi sáng nay dáng nàng qua áo dài trắng làm tôi nhớ Huế,
nhớ trong buổi sáng những hàng cây xanh trên đường Lê Lợi, nhớ trong
buổi chiều
nữ sinh Đồng Khánh tan học về nghe tiếng cười vui như chim hót. Hôm
nay, hay
mãi là nỗi nhớ về sau. Nàng là thành phố, hay nàng đến đây để tìm tôi
vì biết
tôi yêu nàng. Ninh Hà ơi, tôi sẽ cố quên đi chuyện tối qua, đúng hơn đó
là một
khung cảnh buổi chiều ở nhà em mà tôi hay biết em đã có người yêu.
Giờ ra chơi còn
đến mười lăm phút nữa. Mới bước vào,
thấy tôi ngồi lại trong lớp một mình ở bàn, nàng
hiểu tôi đang đợi chờ.
Vậy nên, sau ít phút nói chuyện với cô bạn bên cạnh nàng quay lại gặp
tôi, hỏi
nhỏ:
-Hai
giờ đầu học môn gì ?
-Vạn
Vật.
Trên cặp mắt Ninh Hà nhỏ bé luôn luôn vui, thật đẹp.
Tôi
cũng còn vụng về, không biết tiếp lời ra sao cho câu chuyện trôi chảy.
Rồi sực
nhớ đến chàng trai, trong tình thân tôi hỏi:
-Anh
Duy học ở Huế.
Ninh Hà gật đầu, nói:
-Anh
học ở Đại Học Khoa Học.
-Lúc
này, nghe nói ở Huế còn
bãi khóa.
-Tình
hình ngoài đó ngột ngạt
lắm.
-Ninh
Hà có hay đi chùa không
?
-Có,
hay sinh hoạt trong đoàn
Phật Tử.
-Tuần
trước, Ninh Hà mặc áo
dài lam trông rất lạ.
Cô gái nhìn lại
tôi với cặp mắt vui. Rồi tiếng chuông reo, chúng tôi im lặng để chờ
thầy vào
lớp. Và, trong khi đợi thầy đến người nào cũng mở tập vở và sách ra xem
lại.
Qua gần năm phút, thầy Vinh, phụ trách
môn tiếng Pháp vẫn chưa có mặt. Đang có tiếng xì xào thì ông Giám thị
xuất hiện
cho cả lớp biết là các giáo sư đang họp, chừng nửa giờ nữa mới xong.
Nói xong, ông bỏ đi. Cả lớp hơi ồn, nói chuyện. Tôi
nhìn
lên thấy Ninh Hà yên lặng nghe các bạn nói chuyện. Bất chợt, tôi gọi
tên
nàng. Lập tức, nàng
quay lại làm tôi vui vừa nói nhỏ, vừa chỉ
vào tờ giấy vở.
-Chơi
cờ ca rô nghe.
Không đáp lời tôi, nàng vội quay về bàn mình cầm cây
bút
máy. Tôi cảm thấy hạnh phúc trước vẻ đẹp của nàng. Mái tóc xõa xuống
vai, chiếc áo dài trắng rất mới nàng mặc
hôm nay
dậy lên mùi hương thơm nhẹ nhàng.
-Ninh
Hà đi trước đi, tôi
nói.
Nàng đánh dấu nhân vào ô nhỏ trên khoảng giấy rộng.
Tôi
vòng số không ngay cạnh đó. Rồi bắt đầu, nàng mở nước. Tôi nhìn cách
đánh này,
biết nàng đánh cao. Và, mỗi lần nàng mở nước, tôi theo chặn lối, nhưng
rồi đến
những nước sau, hàng ba và bốn mở ra nhiều đường, tôi chỉ chận được một
ngả,
còn ngả kia đành buông.
-Thua
ván đầu, rồi.
Ván thứ hai, đến tôi đi trước. Tuy là có nước tiên,
nhưng
rồi, cũng rất khó tôi mới gỡ hòa. Qua
ván thứ ba, chúng tôi so tài nhau bằng những nước cờ sắc sảo và cuối
cùng, Ninh
Hà cũng mở được nước rộng để thắng. Rồi, không ngừng, hết giấy, nàng
quay lại
bàn mình lấy một tờ giấy khác chúng tôi chơi tiếp trọn luôn giờ nghỉ vì
các
thầy còn bận họp.
Tự dưng, tình thân của chúng tôi tăng lên từng phút
với
giọng nói nhỏ nhẹ, ấm ấp dễ thương của nàng. Và, rất gần, thật gần lúc
khuôn
mặt nàng cúi xuống trên trang giấy, với mái tóc bên vai, tất cả đó, để
dành cho
tôi một sự lơ đãng, nhớ nhung. Tôi ngắm thật lâu hình ảnh này, chợt bàn
tay tôi
đưa ra chạm nhẹ để vén lên mái tóc đang bao phủ khuôn mặt nàng.
Lúc ấy, hai cặp mắt chúng tôi nhìn nhau thật nghiêm
trang, lắng đọng trong sự bối rối. Và rồi, tôi chợt nghe như tiếng nói
của mình
bị nén lại, còn nàng bỗng dưng bày tỏ một nụ cười.
Ngày hôm sau, tôi nghỉ học trọn ngày. Buổi sáng, hai
người bạn ở gần nhà qua rủ tôi đi học nhưng tôi nói nghỉ ở nhà để phụ
giúp dì
tôi dọn một căn phòng trên cho người
khách thuê ở. Ông ta là Sĩ quan đeo lon Trung úy, từ
miền Nam mới đổi ra ngoài này. Hôm nay có
giờ học Anh Văn và tôi cũng nghĩ rằng, Ninh Hà thấy vắng tôi.
Sau bữa ăn sáng, tôi và anh Năm người bà con bên gia
đình
bác Hội bắt đầu dẹp bớt bàn ghế ở căn phòng đầu nhà trên rồi quét dọn,
lau chùi
sạch sẽ . Hôm nay, không chỉ riêng phòng cho thuê mà các phòng khác
cũng như đồ
đạc trong nhà đều được dọn dẹp, sắp xếp chỗ lại một lần luôn thể. Đến
chiều,
công việc hoàn tất. Căn nhà rộng rãi, một ngày thật sáng sủa làm tôi
hài lòng.
Thực sự ra tôi không cần nghỉ trọn ngày đi học, vì công việc cũng có mấy người làm công bên lò bánh mì qua
phụ, nhưng tôi vẫn muốn ở nhà giúp dì
tôi. Vào lúc sáng nay, vừa làm công việc lau chùi dọn dẹp, tâm trí tôi
luôn bị
xâm chiếm bởi bóng hình và cái tên thân thương của người bạn gái. Tôi
cũng nghĩ
rằng, vắng tôi, Ninh Hà cũng buồn lây và chắc nàng sẽ nghĩ là tôi bị ốm
đau.
Buổi chiều, bên ngoài nắng dịu ấm, hiền hòa. Tôi và
dì
Vân ngồi ở bàn tròn uống nước trà trò chuyện, nhắc nhở đến người thân.
Đã quá
lâu, dì không trở về quê . Nhưng trong câu chuyện của hai dì cháu, hình
ảnh một
làng quê hiện ra, quê nội bên dì và quê
ngoại bên tôi. Ngày xưa đó, căn nhà của
gia đình dì nằm cuối con đường làng, một khu vườn lớn rộng bao quanh
hết và lối
cổng sau trông qua thấy bờ đê và con sông trải dài. Bây giờ, trong
giọng nói
của dì không hẳn là một sự hồi tưởng điều ấy khiến tôi có ý nghĩ những âm thanh thân thiết đang trở thành cái bóng
dáng êm đềm đi theo bước chân người đàn bà trên con đường trở lại chốn
xưa với
cả giấc mơ đầy trọn một thứ tình quê .
Còn tôi, quê ngoại đã làm tôi nhớ những đồng ruộng khô, trên một khoảnh
đất rộng
tiếp với bãi ngô nơi ấy tôi và lũ bạn cùng xóm
thường tập trung chia phe
đá bóng, đó là những quả bóng được bện bằng thứ lá chuối khô. Khi một
quả banh
chuối xơ xác, bung dây cột và banh ra hết, chúng tôi thay trái khác và
đá mải
miết, say mê cho đến chiều tối. Tôi cũng rất thích thú với lối chơi thả
diều
trên con đường lớn của làng trông ra bờ sông và, một đôi lần, tôi chợt mừng rỡ khi ngước mắt nhìn về phía
bờ đê trông thấy bóng dáng mẹ tôi trong
vạt áo nâu đang gánh hàng buôn ở chợ phiên trở về nhà. Tôi đã gợi nhớ
được tuổi
thơ của mình, ngoài hình ảnh đậm nét về
mẹ tôi, ngày ấy, cũng vẫn còn âm thanh
những hồi chuông nhà chùa,
nhà thờ vang vọng trong tôi nữa.
Hai dì cháu đang chuyện trò, bỗng thấy người lạ xuất
hiện
trước cửa với túi xách marin và cái túi nhỏ đeo bên vai. Tôi hết sức
ngạc
nhiên, nhìn người khách thốt lên.
-Anh
Châu.
-Em là
Thụy, phải không ?
-Dạ
phải, em đây.
Tôi vẫn còn nhớ tên anh Châu nên giới thiệu với dì
Vân và
cho dì biết qua sự tình giữa anh và gia đình bên tôi vào năm đó ở Quảng
Trị.
Anh Châu đặt chiếc sac marin xuống dựa lưng tường,
túi
xách nhỏ bên cạnh rồi ngồi vào bàn uống nước theo lời mời của dì tôi.
Tôi nói:
-Căn
phòng anh thuê em đã dọn
sạch sẽ.
-Cám ơn
em.
Rồi sau những phút hàn huyên, mừng rỡ, tôi để lại
chuyện
thuê nhà giữa dì tôi và anh Châu trao đổi với nhau. Anh Châu trả tiền
thuê nhà
trước hai tháng. Dì tôi nhận lấy và rồi chúng tôi cùng đứng dậy. Tôi
cầm lấy
cái túi xách nhẹ đi trước, anh Châu theo tôi tới căn phòng đã dọn sẵn
để cho
thuê.
Lối vào phòng là một cánh cửa cài chốt có móc ngoài
để
khóa khi khách cần đi đâu. Phòng cũng có một cửa sổ mở ra để đón ánh
sáng từ
con đường đổ xuống lò bánh mì và bãi đất trống gần cạnh kho xăng. Nơi
chỗ đó,
không có xây dựng nhà cửa vì người ta sợ hỏa hoạn. Trong căn phòng đã
có sẵn
cái giường gỗ, nếu khách thuê muốn dùng thì giữ, còn không thì đem cất.
Căn
phòng sáng sủa làm anh Châu rất thích. Trên tường mới quét vôi để trống
trơn,
như vậy tiện cho anh muốn treo tranh vẽ hoặc những bức ảnh chụp của gia
đình.
Dì Vân nói chuyện với khách không lâu rồi kiếu từ,
chỉ
còn tôi ở lại phụ giúp anh Châu sắp xếp căn phòng. Hai anh em vừa dọn
phòng,
vừa trò chuyện . Anh Châu thật là người tốt, hôm đó anh chỉ là khách
qua đường
nghỉ nhờ một đêm mưa ở nhà tôi để đợi chuyến tàu hành quân vào vùng Qui
Nhơn,
vậy mà, sau đó, bao nhiêu ngày, bao nhiêu tháng, bao nhiêu năm, bao
nhiêu thư
từ thăm hỏi giữa anh và gia đình tôi, dần dần cột chặt lại thành một
mối cơ
duyên. Anh Châu hỏi thăm từ ba mẹ tôi, anh Khả đến các em tôi với tên
từng đứa,
anh vẫn còn nhớ . Bây giờ, anh hơi
khác lúc trước, nhưng giọng anh nói vẫn
ấm, lúc nghe tiếng anh cười sau câu nói,
tôi bỗng ước mong cho mình làm sao cũng linh hoạt, tươi vui giống anh.
Tôi có
sự vụng về mà tôi hiểu rõ. Thường những cái gì hay ho, sâu sắc, nó chỉ có trong ý nghĩ thôi,
còn bộc phát ra ngoài bằng lời nói hay
cử chỉ, tôi thường vấp váp, đôi khi bối rối, hoặc mất sự tự chủ. Những
người
bạn quen tôi, khi hiểu ra được cái nhược điểm ấy họ
rất thương mến thương tôi.
Căn phòng này rộng
hơn căn phòng tôi ở. Ngoài va li, túi xách marin đựng quần áo ra, anh
Ngọc còn
nhiều sách báo, và kể cả các tập giấy làm bản thảo do chính anh viết đủ
các
loại thơ, truyện ngắn, chính luận.
Buổi chiều xuống mau. Đến giờ ăn,
anh Châu rủ tôi đi phố chơi và ăn cơm tối
luôn. Tôi có hơi ngần ngại, nhưng anh bảo tôi cứ đi với anh cho vui.
Tôi vội
trở về phòng thay quần áo, xuống nhà nói qua với dì Vân và bác Hội rồi
trở lại
với anh Châu để cùng đi.
Trời hơi trở lạnh. Hai anh em bước ra đường đợi
chuyến xe
lam. Đà Nẵng, thành phố này còn xa lạ với anh Châu. Ở các tỉnh miền Nam
anh đã sống nhiều hơn. Anh tới đây còn
hai ngày nữa mới hết phép. Đến ngày thứ hai anh vào trình diện đơn vị
để nhận
phần hành của mình.
Xe lam chưa tới. Trong lúc chờ, hai người đứng nói
chuyện
.Lúc lấy gói thuốc trên túi áo, anh Châu hỏi tôi:
-Em
biết hút thuốc không ?
-Dạ có.
Anh cho em một điếu
hút cho đỡ lạnh.
Tôi cảm thấy ấm khi rít một hơi thuốc đầy.
-Anh
còn nhớ Quảng Trị không
?
-Nhớ
chứ. Anh đi nhiều nơi,
nhưng chỉ có Quảng Trị cho anh nhiều kỷ
niệm nhất.
-Chị
người ở đâu ?
-Nha
Trang.
-Sao
anh không lấy vợ người
Bắc.
Anh Châu cười bảo tôi:
-Đâu
phải mình người Bắc là
phải lấy vợ ở ngoài đó đâu.
-Em
thích tiếng nói của mấy
cô gái Bắc.
Anh Châu cười hơi lớn tiếng, tự
nhiên đứng bên anh tôi cảm thấy mình nhỏ
bé như thuở nào của ngày xưa. Rồi nhìn gương mặt tôi, một giọng vui anh
hỏi:
-Em có
quen cô bạn nào người
Bắc không ?
Nhớ ngay đến Ninh Hà, tôi đáp liền:
-Có.
Bạn học cùng lớp với em.
Giọng nói cô ấy hay lắm, anh ạ.
-Cô ta
có cảm tình với em
không ?
Trong sự rụt rè, tiếng tôi nhỏ đi.
-Em với
cô bạn biết nhau ở
trường thôi. Nhưng em vụng về lắm. Với lại, tiếng nói của em nó nặng và khô quá.
Xe vẫn chưa tới. Bên con đường chờ xe, chúng tôi vẫn
trò
chuyện với nhau mà lúc này chuyển qua vấn đề thời sự về biến cố Phật
Giáo đang
mỗi ngày trở nên căng thẳng giống như
mức nước đầy trong ly
cứ dâng lên
chờ tràn ra. Tiếng nói anh Châu thật trẻ trung, đầy nghị lực, và những
điều anh
suy luận cho thấy sự xác đáng, sáng tỏ các vấn đề. Anh nhận định rằng,
chế độ
Ngô Đình Diệm chỉ muốn biến Việt Nam trở thành một quốc gia của
Vatican, ông
không ý thức được giá trị lịch sử của dân tộc, và biểu tượng quyền lực
của ông
là cây thánh giá. Dinh Độc Lập, nơi đó không khác gì
giáo đường
của Vatican.
Chúng tôi chờ xe đến nửa tiếng. Chuyến xe không đông
khách, hai anh em vừa bước lên vào chỗ ngồi, xe chạy ngay. Xe chạy trên
đường
Trưng Nữ Vương, đến ngã ba Viện Cổ Chàm
rẽ trái xuống đường Độc Lập. Tôi chỉ ngôi trường Sao
Mai cho anh Châu
thấy, rồi lúc qua ngôi nhà Ninh Hà, tôi đưa mắt chăm chú nhìn vào để
tìm nàng.
Có lẽ, nàng không trông thấy tôi, nhưng tôi đã trông thấy nàng đang
ngồi học
bài bên chiếc bàn đặt ở cửa sổ. Nàng ngồi đó, mái tóc xõa xuống vai
trên chiếc
áo len hồng nhạt . Từ buổi sáng đầu tiên gặp nàng, tôi mến nàng, yêu
nàng, nên
mỗi một hình ảnh của nàng đều đến với cặp mắt tôi một cách tự nhiên, và
nó luôn
nói với tôi rằng, nàng đẹp, một vẻ đẹp thu hút tâm hồn để cho bạn cảm
thấy mình
đang bước đi trên con đường tình yêu.
Xe xuống phố chính, ngừng lại bên phía chợ Hàn đối
diện
với nhà sách Lam Sơn. Xuống xe, anh Châu trả tiền, và trước khi dạo
chơi phố
hai anh em vào thăm nhà sách. Tôi đi bên anh, cùng anh tìm những cuốn
tiểu
thuyết mà có lẽ cả hai cùng thích.
Khi trở ra, một cái túi nhỏ anh Ngọc xách có hai tờ
tạp
chí, tờ tuần báo, và một cuốn truyện dịch Về miền đất hứa của nhà văn
Léon
Uris. Rồi, hai anh em thư thả đi bộ, tiếng nói nhỏ vừa đủ nghe trong
câu chuyện
về gia đình, hay cuộc sống. Và mỗi câu chuyện, khi
hiểu rõ những ý tưởng của anh tôi có cảm giác
mình đã tới tuổi trưởng thành. Tự dưng, với ý đó, tôi nhớ nghĩ nhiều
đến Ninh
Hà người bạn gái đã làm cho tâm hồn
tôi đầy ắp một tình yêu
lãng mạn.
Tiếng anh Châu chợt hỏi:
-Ở đây,
tiệm ăn nào ngon em ?
-Em
cũng không biết nữa .
-Em ở
đây lâu chưa ?
-Mới có
hơn tháng nay thôi
anh. Với lại, em đâu có tiền mà vào tiệm ăn để kéo ghế.
Đi ngang một tiệm ăn của người Hoa, hai người ghé
vào.
Tiệm ăn rộng sạch sẽ, nhiều bàn ghế sắp sẵn, và nhiều khách đang ăn.
Anh Châu
chọn chiếc bàn trống ở góc bên trái, nhìn xéo qua cửa sổ thấy một dãy
phố khác.
Người hầu bàn tới đưa hai tấm bìa menu. Tôi cầm lấy, nhưng chẳng mở ra
xem. Anh
Châu mở ra coi lướt, rồi bảo tôi:
-Em
thích ăn gì ?
-Anh
gọi đi.
Anh Châu gọi hai phần cơm , nước uống là bia. Trong
yên
lặng, hai anh em nhìn nhau như để tìm kiếm lại một quãng thời gian đã
qua. Tôi
có nhiều cảm nghĩ trong đầu muốn bày tỏ với anh lúc này nhưng tôi cần
chuẩn bị
cố tìm cách sắp xếp sao cho nó ngắn gọn, đủ nghĩa. Tôi muốn nói với
anh, người
ta hiểu cuộc sống và yêu cuộc sống như thế nào khi gặp một người đồng
hành, một
người xa lạ rồi quen biết, hoặc là một chuyện gì đó dẫn đến cái cơ
duyên hay số
phận cho con người. Với ý tưởng đó thúc đẩy tôi ngỏ lời, nhưng rồi tôi
chẳng
nói.
Bữa ăn dọn ra. Mùi vị thức ăn ngon làm tôi thèm
nhưng tôi cố kìm giữ . Tôi nói:
-Mừng
ngày gặp lại anh.
-Bao
nhiêu năm rồi, em nhớ
không ?
-Hơn
sáu năm.
- Ăn đi
em.
Anh Châu mời tôi,
hai anh em cầm đũa. Tôi có đôi chút ngượng ngùng muốn giấu, còn anh
Châu lúc
nào cũng tự nhiên. Tôi uống một hớp bia sau chén cơm đầu ăn xong, cảm
thấy ngon
lạ. Vị cay của món cải xào, thịt chiên bột, nước xốt, canh cá, và cơm
nóng càng
ăn, càng thấy ngon miệng vô chừng.
-Anh
còn nhớ đến mấy đứa nhỏ
ở nhà, hay thật. Em rất ngạc nhiên, cảm động.
-Anh
nhớ các em như nhớ đến
gia đình anh .
-Ở miền
Bắc, quê anh là tỉnh
nào.
-Phúc
Yên.
-Có xa
Hà Nội không anh ?
-Không
xa lắm, chừng gần bốn
chục cây số.
-Năm di
cư, anh vào Nam một
mình.
-Anh đi
một mình. Cũng năm
đó, anh nhập ngũ.
-Có
người thân nào của anh đi
vào Nam không ?
-Có thể
có, nhưng anh chưa hề
gặp hay biết tin.
-Năm di
cư, em còn nhớ từng
chuyến xe lửa đến ga mỗi sáng sớm cũng như chiều. Và hồi đó, nhà em
cũng là một
mái ấm cho những gia đình tạm cư trước khi họ vào phía trong miền Nam.
Tôi bắt đầu nhận ra bữa cơm ngon đưa dẫn tôi sâu vào
câu
chuyện tâm tình, trong đó, giọng nói của
tôi như có được nỗi niềm trắc ẩn thấm
đượm, nó khiến anh Châu lặng im suy nghĩ.
Một lúc rất lâu,
tôi bỗng nói với anh Châu:
-Tối
hôm đó, trời mưa lớn.
Anh Châu nhìn tôi, nói giọng thật trầm:
-Lúc
xuống tàu ra khỏi ga,
anh tìm nhà khách để ngủ nhưng không có. Đi ngang qua nhà em, thấy đèn
sáng nên
anh đi vào.
-Tối
đó, anh cũng chơi giây
thun chẵn lẻ với tụi em. Và, cả nhà chỉ có thằng Khanh nhỏ ăn hết.
-Nó học
tới lớp mấy rồi ?
-Lớp Đệ
Ngũ rồi anh.
Anh Châu nhớ ra một chuyện gì đó về mấy đứa em tôi,
trên
cặp mắt anh sáng lên nụ cười. Giọng nói của anh, cách anh cư xử với
chúng tôi
như người anh cả làm tôi cảm động. Và lúc này, tôi nghĩ tới một câu
chuyện
trong gia đình để kể lại, vì tôi còn nhớ rõ buổi sáng đó trời mưa nặng
hạt
nhưng đòan tàu chở quân lính trong đơn vị anh Châu vẫn lên đường vào
Qui Nhơn.