Mô Phật
1.
Lên năm thứ hai, lớp tôi có
được một người mẫu mới. Một người con gái. Áng chừng hai mươi bốn hai
mươi lăm,
và như thế chị ấy lớn tuổi hơn bọn tôi. Chị còn trẻ, rất trẻ, nhưng
nhìn chị,
không là thầy bói, tôi vẫn biết người ấy có một cuộc sống chẳng mấy
vui. Điều
gì đó hiển hiện quanh người chị, bao phủ lên, tác động rõ trên gương
mặt làm kẻ
ngắm nhìn phải bật ra một nhận xét ban đầu: Buồn.
Tôi chưa là họa sĩ, tôi còn
là sinh viên trường Mỹ thuật. Phải thêm ba năm nữa mới thi tốt nghiệp.
Và từ
giã ngôi trường cổ kính ấy, không chắc tất cả học viên đều trở thành
họa sĩ.
Khi ngó sâu vào đôi mắt chị, ngắm trọn vẹn khuôn mặt có hơi gầy kia,
tôi biết
sẽ khó mà lột tả, vẽ lên mặt giấy cái hư hao phiền muộn luôn ám trên
dung nhan
kia. Nhưng giờ hình họa của bọn tôi chỉ đặt nặng ở phần tổng thể. Chị
sẽ ngồi
trên bục, giữa căn phòng luôn đóng kín cửa. Tùy góc cạnh khi dựng giá
vẽ, bạn
sẽ tóm gọn cái nhân dáng kia, cân đối, hoàn chỉnh, đặt giữa khung giấy
hình chữ
nhật. Khi đo đạc, bạn sẽ dùng cái đầu người mẫu làm đơn vị chuẩn. Chị
ấy không
cao, khoảng một thước sáu hai, từ đỉnh đầu tới gót chân sẽ cho ra một
kết qủa:
dài 6 đầu rưỡi nếu đứng thẳng.
Giống như một lề luật chẳng
cần soạn thảo, người mẫu mới sẽ không khỏa thân toàn phần thời gian
đầu. Chị ấy
tần ngần cởi áo, rụt rè cởi quần, ái ngại ngồi xuống chiếc ghế đã được
định vị
đánh dấu bằng phấn trắng. Đồ lót chị dùng có vẻ như hàng nội địa, thô,
dày, rẻ
tiền; nói chung là xấu. Tựa như ta dùng kéo để cắt cụt cái quần đùi,
xẻo bớt
cái áo thun. Mặc nó chắc không có cảm giác thoải mái dễ chịu. Nhưng cởi
nó ra,
trước mười lăm cặp mắt luôn nheo luôn ngó luôn tọc mạch luôn muốn lột
truồng sự
vật, e sẽ mang cái cảm tưởng mình đang bị tra tấn. Yêu cầu đặt ra: Ngồi
yên
càng lâu càng tốt, tối thiểu thì mười lăm phút. Ngạc nhiên thay, chị
ngồi không
cục cựa gần cả nửa giờ. Ngồi chẳng vọng động, hơn cả thiền giả. Bởi vì
ngồi im
re và phơi bày ở dáng vẻ một sự cam chịu, nhẫn nại trong câm lặng.
Mùa đông ở Huế, không nói bạn
cũng mường tượng ra được cái tái tê kì lạ của nó. Không gian luôn ẩm
thấp, gió
luôn xao động trên hàng lá cây mù u cây nhãn cây bàng cây phượng cây
sầu đông
mọc suốt chiều dài con đường bên ngoài cổng trường. Tất cả chúng đều
loáng ướt,
sụt sùi, run rẩy. Màu trời thì âm u, ẩm đục, ám tối. Nó xuống thấp để
nuốt
chửng hình dáng lá cờ treo rủ trên đỉnh cột. Tôi luôn để ý đến cái xô
sắt dùng
đựng than. Tôi sẽ quạt, thổi, để nó cháy lên những ngọn lửa nhỏ bé hầu
giúp chị
ấy chống đỡ cái lạnh chút nào hay chút đó. Cái “máy sưởi” kì quái ấy
đặt cạnh chỗ
chị và nó có vẻ yếu đuối luôn để cho heo may hàn khí trấn áp. Da chị
tái xanh,
vú chị có lẽ sẽ đang thu nhỏ lại với da nổi hột. Mắt chị đặt để vào
khoảng
không, đâu đó ở góc phòng. Thỉnh thoảng tia nhìn quét vội ngang tôi.
Chẳng lâu,
nhưng tôi cũng cảm nhận được nó ngầm nhắn gửi một lời cám ơn.
Một hôm, khi lên văn phòng để
ký nhận tiền học bổng, tôi thấy chị cũng đứng đợi lãnh tiền. Người thư
ký phụ
trách gọi tên và đó là lần đầu tôi biết cô người mẫu luôn rụt rè kia
mang tên
Hoa. Không dọ hỏi, nhưng tôi hình dung được số tiền khiêm nhường mà chị
sẽ nhận
cho công việc làm người mẫu. Tôi lấy xe đạp rón rén bên chị và mạnh dạn
đưa ra
lời đề nghị:
- Chị đi mô, tôi sẽ chở. Về
nhà hay ghé chợ?
- Đừng… Không đi chợ. Mà nhà
thì ở chỗ xa lắm.
Trời thương, trời tạnh, trời
không mưa. Nếu mưa tôi sẽ bỏ mặc chị. Trời chẳng nắng, nhưng khô ráo.
Thứ thời
tiết khiến người ta thèm ngồi cùng nhau bên cốc cà phê, nhất là người
ta đang
có rủng rỉnh chút tiền trong túi.
- Không chợ mà chẳng nhà, như
rứa là chị rảnh. Cứ leo lên đi, tụi mình tìm quán cà phê. Chị Hoa tính
sao?
Hoa không biết tính làm răng.
Tôi nghĩ vậy. Dùng dằng nửa muốn nửa không. Tôi đoán thế.
- Một người đi bộ, một đứa
đạp xe quờ quạng bên hông. Có phí cả một buổi chiều không?
- Uống cà phê để làm gì?
Từ nhỏ tới lớn, tôi chưa bao
giờ đón nghe một câu hỏi kì cục như vậy. Ở lớp mẫu giáo, có thể nghe
hỏi: Ăn
cơm để làm gì? Dạ thưa cô, ăn cơm để sống.
- Không cứ là cà phê, uống
thứ khác cũng được. Người ta vào quán vì khung cảnh ở đó có vẻ hợp cho
những tâm
sự.
- Nếu chẳng có tâm sự thì vào
đó có phí không?
- Không phí. Tuyệt đối không.
Mái tóc làm che gương mặt.
Một cái đầu luôn cúi gầm khi bước, làm như con đường nhiều chông gai,
sợ chân
dẫm phải. Và sau cùng cái đầu ấy gật nhẹ. Tôi để Hoa toàn quyền lựa
chọn địa
điểm. Hoa chẳng nặng, tôi chẳng nhọc khi thồ cái nhân dáng tôi vẽ cả
mấy chục
lần. Nhắm mắt, tôi có thể mường tượng ra vị trí những nốt ruồi ẩn hiện
thầm kín
trên da thịt Hoa. Tôi đã dời đổi giá vẽ ở đủ mọi góc cạnh. Tôi đã “ăn
tươi nuốt
sống” cơ thể Hoa từ trước ra sau. Tôi ngủ, vắng những mộng mơ. Thảng
hoặc,
chiêm bao rất đỗi ngắn ngủi sật sừ: Tôi ôm Hoa ghì môi hôn đứng trên
ngọn đồi
trọc, cỏ cây cằn cỗi và ở đường chân trời thì sắc sảo một nhát cọ đỏ
bệt ngang,
chảy máu.
2.
Tựa vết dầu đang chảy loang,
người ta đồng loạt bỏ chạy, tôi cũng chạy. Người ta hốt hoảng, tôi cũng
mặt cắt
chẳng còn giọt máu. Người ta bồng bế nhau chất chồng lên xe đò, tôi vác
mạng
không bám đu như thằng lơ xe chính hiệu: Tới luôn bác tài! Người ta
khản tiếng
ơi ới gọi nhau xa bầy lẻ bạn, tôi ngậm câm lòng rất chật những hoang
mang.
Người ta ngó lui, như ngó những cột mốc kỉ niệm đang gắn xuống Quốc lộ
1. Huế
ơi, tạm biệt hay vĩnh biệt? Tôi cũng ngó lui, “tha hồ mây trắng bay”!
Vào Đà Nẵng tôi ở đậu nhà bà
con, đường Hùng Vương, gần chợ Cồn. Tôi hay ra ngồi quán cóc ở lề đường
ngó sự
hỗn loạn luôn thay đổi bộ mặt quanh chỗ ngồi thường trực những tiếng
động điếc
con ráy. Tôi ngồi như một kẻ bị chứng bệnh mộng du. Trầm kha, nhợt
nhạt. Tôi
ngồi, tôi uống cà phê bít tất, uống nước trà nguội, uống câu giờ tựa kẻ
dọn
lòng chờ đợi một biến cố. Tôi ngồi, như bức phù điêu đang hồi ẩn hiện
rêu xanh.
Ba hồn chín vía lộn lui khi tai vọng dội tiếng ai vừa gọi tên tôi, mơ
hồ. Đã ba
ngày vất vưởng, giờ mới có người nhận diện. Giọng vỡ ra, ôi êm ả biết
dường
nào!
- Nghiêm, vô đây khi mô?
Tôi hoàn hồn và tôi chết
điếng. Đứng rất sát, rất gần, rất kề cận bên tôi là Hoa. Hoa của một áo
quần
lụa là có phần tươm tất. Hoa của một che đậy kín đáo giữa chốn ta bà.
Gần quá,
tôi rất muốn ôm Hoa, đưa tay ra là đụng phải, để hiểu, hoàn toàn nó
không là ảo
ảnh.
- Vô đã ba ngày. Đã ba ngày,
cứ ngồi như ri đây!
- Nói nghe thảm. Uống thêm ly
cà phê nữa hí? Hoa đãi.
Tôi đùa: Uống cà phê để làm
gì? Hoa mắng: Con khỉ. Hoa ngồi xuống ghế đẩu, sát tôi. Lưng dựa vào
tường một
công sở đã di tản nhân viên, cửa đóng then cài chờ người đến cạy, hôi
của. Tôi
ngửi được mùi một hương hoa. Có thể Hoa vừa gội đầu xong, hoặc thứ mùi
đó từ cơ
thể, từ nách Hoa phát tiết ra. Tôi không biết. Tôi u mê ám chướng. Tôi
vẫn luôn
là đứa con trai lạc loài. Hoa vuốt tóc tôi, ngó tôi lâu, rồi bình phẩm:
Hốc hác
quá!
Hoa dắt tôi về chỗ Hoa ở, đâu
đó gần cầu Vồng. Lối đi quanh co, con nít mình trần đứng đầy đường với
bụi vàng
đất cát. Nhà nhỏ, những phòng không gắn cửa, lay động ở đó là tấm vải
buông rủ
làm màn. Hoa vén màn, phòng kê chiếc giường, thêm cái tủ nhỏ, sít sao,
vừa đủ
diện tích. Muốn ngồi, chỉ có giường là nơi đặt đít. Giường trải chiếu,
một chữ
Phúc in lem nhem nằm chật chội trong vòng tròn. Chữ Phúc bốc mùi, không
là mùi
của ẩm mục thiếu nắng mốc meo. Một đứa bé chạy ào vào, hộc tốc. Môi
khô, hơi
thở gấp: “Chị Lệ, chị Lệ… có khách đợi”. Hoa ngó tôi, Hoa dùng tay đẩy
thằng
nhỏ ra khỏi phòng: “Em nói lại với họ là bữa ni chị không đi. Chị bị
cảm, nhức
đầu chóng mặt, buồn nôn. Hiểu không? Mai mốt hẳn tính”. Hoa trút bỏ áo
quần.
Tôi quen thuộc với cơ thể ấy, nhưng vùng kín đáo của Hoa là nơi chưa
một thằng
sinh viên mỹ thuật nào được ngắm nhìn, ngoại trừ tôi, hôm nay.
- Để Hoa chỉ cho xem cái ni.
Hoa kéo tấm màn. Phiá sau,
dán trên ô kính cửa sổ là tấm giấy cứng vẽ hình một thiếu nữ mặc đồ lót
ngồi
trên ghế. Bản vẽ vụng, chẳng mấy đẹp kia có viết tên tôi bên dưới. Đó
là bài
làm cách đây đã hai tháng và bài tập ấy mang điểm B. Tôi ngây mặt ra.
Hoa kéo
tôi đi từ ngờ vực này đến ngạc nhiên khác. Khi chạy trốn, tôi chỉ mang
theo cái
mong manh của một phận người. Đã di tản, sao Hoa còn nhọc lòng toan
tính, ôm
đồm mang theo đồ đoàn những thứ vô bổ?
- Không biết nữa. Hoa nói với
người trưởng lớp, xin bức này để làm kỉ niệm. Mỗi tối, trước khi ngủ,
Hoa đều
ngắm nó khoảng năm phút. Hoa tự hỏi: Bao lâu nữa thì mình sẽ tàn tạ,
chẳng còn
được như trong tranh?
Hoa ôm cứng lấy tôi. Hoa bảo:
Hãy yêu Hoa đi. Nắng buổi chiều chiếu rọi xuyên qua bản vẽ làm rách nát
từng đường
trên cơ thể Hoa. Tôi nằm dát người trên chiếu, nghe tiếng súng nổ và
hiểu Đà
Nẵng đang cơn hấp hối.
3.
Có thể, tôi chấm dứt chuyện
kể ngang đây. Nhưng còn điều này tôi muốn thưa thêm: Cách đây hai tuần,
người
bạn cũ, một họa sĩ tự do đang sống ở Huế, có viết trong email: “… mày
còn nhớ
cô người mẫu 6 đầu rưỡi năm xưa không? Người đẹp đang là ni cô, mặc nâu
sồng
lam lũ, mùa lụt bão vừa rồi, em làm việc thiện phân phát thực phẩm giúp
đỡ
những kẻ bất hạnh…” Lúc đó, tôi đã ngồi nhắm mắt lại trước màn hình rất
lâu.
Tai tôi như nghe được giọng nói nhỏ nhẹ của Hoa hôm nào, một ngày của
quá vãng:
Tên hai đứa mình ghép lại sẽ tựa như tên một cuốn kinh: Hoa Nghiêm.
Phải, tôi nhắm mắt ngồi rất
lâu. Lâu gần bằng một mộng mị khi thiếp ngủ. Tôi tắt computer. Tôi đi
đốt thắp
một cây hương. Tôi cúi đầu: Mô Phật!
Hồ Đình Nghiêm
Nguồn: Blog NXH & Bạn hữu
VOA
Note:
Tuyệt.
Nhất là giọng
Huế nữa chứ.
NQT
Cái
truyện ngắn này hỏng, vì… tuyệt quá, hay
quá. Tếu thế.
Khéo quá hóa
vụng.
Dân ghiền thì kêu bằng ‘overdose’.
Chúng ta có đủ cả. Nào chiến
tranh, nào vòng tay học trò, nào bướm khuya, và sau cùng, một vì nữ tu!
Và cái chi tiết tuyệt vời nhất,
tiên tri ra tất cả những chuyện trên đây, là một từ cảnh báo, của cô
gái người
mẫu, khi anh học trò gạ gẫm.
Một hôm, khi lên văn phòng để
ký nhận tiền học bổng,
tôi thấy chị cũng đứng đợi lãnh tiền. Người thư ký phụ trách gọi tên và
đó là
lần đầu tôi biết cô người mẫu luôn rụt rè kia mang tên Hoa. Không dọ
hỏi, nhưng
tôi hình dung được số tiền khiêm nhường mà chị sẽ nhận cho công việc
làm người
mẫu. Tôi lấy xe đạp rón rén bên chị và mạnh dạn đưa ra lời đề nghị:
- Chị đi mô, tôi sẽ chở. Về nhà hay ghé chợ?
- Đừng… Không đi chợ. Mà nhà thì ở chỗ xa lắm.
Và để cho thật hoàn
hảo, là cái tên ghép:
Hoa Nghiêm!
Nguyễn Tuân khen
trăng 14, là vậy.
Nhưng Gấu mê trăng
11 hơn!
Đừng!