Hồi ký
Nguyễn Đăng Mạnh
Toàn
văn cuốn sách đã có bạn
đưa lên mạng.
Theo
thông tin tôi có, GS.
Nguyễn Đăng Mạnh đang chỉnh sửa phần viết về gia đình. Phần chân dung
các nhà
văn thì chắc vẫn giữ như thế.
Tags:
nguyễnđăngmạnh
Thursday 4 September 2008 -
04:45PM
(BST)
Xuân Diệu, trích Hồi ký
Nguyễn Đăng Mạnh
Hồi
kháng chiến chống Pháp,
có lần tôi đã được thấy Xuân Diệu. Lúc ấy tôi đang học ở trường Trung
học kháng
chiến đóng ở Đào Giả - Phú Thọ. Tôi đi khám bệnh ở một bệnh viện ở Đại
Đồng.
Hình như anh cũng đi chữa răng thì phải. Có người biết Xuân Diệu, chỉ
cho tôi.
Anh đi xe đạp, mái tóc lượn sóng, rất thi sĩ.
Từ
ngày về Hà Nội học, rồi
công tác ở Đại học, tôi có dịp đến Xuân Diệu mấy lần cùng với Nguyễn
Duy Bình
và Hoàng Ngọc Hiến. Vào cuối những năm 60, sang những năm 70 của thế kỉ
trước,
tôi luôn viết cho tạp chí Tác phẩm mới do Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Tô
Hoài thay
phiên nhau phụ trách, vì thế luôn có dịp tiếp xúc với Xuân Diệu.
Xem
chừng anh rất tín nhiệm
tôi. Có lần tôi ngồi uống cà phê với anh ở 24 Điện Biên, bỗng anh nói:
“Đây là
hai tài nhân nói chuyện với nhau” (Anh không nói nhân tài mà lại nói
tài nhân)
Khi
tập thơ Những năm 60 của
Huy Cận ra đời, Xuân Diệu đặt tôi viết bài phê bình đăng Tác phẩm mới.
Anh nói,
Huy Cận đang đi Pháp, Mạnh phải viết thẳng tay, nêu rõ nhược điểm cho
cậu ta đỡ
chủ quan. Tập thơ nhiều bài yếu lắm. Khi viết bài ấy, anh có trao đổi
góp ý với
tôi.
Biết
anh mến tôi, tôi đến anh
luôn.
Xuân
Diệu là người rất chu
đáo, thiết thực và tiết kiệm. Chu
đáo, thiết
thực, tiết kiệm đến tỉ mỉ, chi tiết. Thấy tôi viết bản thảo kín cả hai
mặt
giấy, anh cho tôi một cuốn giấy báo, bảo rọc ra, viết một mặt thôi (Hồi
này đời
sống khó khăn đến nỗi giấy trắng để viết văn, viết báo cũng thiếu thốn.
Tôi
thường phải dọc giấy để dùng làm bản thảo những tờ giấy bỏ thừa không
viết hết
ở cuối những bài tập làm văn của học sinh, vợ tôi thường thu về nhà để
chấm).
Những lần tôi đến anh vào buổi chiều, mải nói chuyện đến gần tối, anh
thường
giục tôi về, vì đường thì xa, đi lại nguy hiểm. Anh nói: “Có thể ở nhà
vợ lo bị
cướp xe đạp ấy chứ!”. Có lần trời nắng, đi qua nhà anh, tôi tạt vào
mượn cái
mũ. Anh cho mượn cái mũ lá đã cũ (hình như của Hà Vũ, con Huy Cận), vậy
mà vẫn
dặn phải giữ cẩn thận, khi nào ra Hà Nội trả lại anh. Có lần đang ngồi
với anh,
thấy có người nhà đem sách báo cũ ra bán cho hàng đồng nát. Anh gọi với
theo:
“Này, những cái bìa sách các tông đẹp, nhớ lấy lại mà dùng”. Thấy anh
có một u
già giúp việc (U Khang), tôi tưởng mọi việc chợ búa, bếp núc, anh chẳng
phải
quan tâm. Vậy mà không phải. Anh tỏ ra rất thạo giá cả thực phẩm ngoài
chợ, giá
trứng, giá thịt. Có lần tôi đã được nghe anh tính toán rất tỉ mỉ: “ Ba
quả
trứng gà 33 đồng, 2 quả trứng vịt lộn giờ 18 đồng một quả, nhân 3 là 36
đồng,
bổ hơn 3 quả trứng gà chứ, 3 lạng thịt bò nhiều hơn 3 lạng thịt lợn, vì
thịt bò
nhẹ hơn. Nhưng 3 lạng thịt bò có bổ hơn 2 quả trứng vịt lộn không thì
chưa rõ.
Nhưng cũng phải đổi món chứ...Còn thịt chó thì thịt lẫn xương 4 đồng
rưỡi một
lạng, thịt nầm 6 đồng một lạng...” (Tính theo giá tiền đầu những năm
1980).
Thấy tôi nhiều khi có vẻ lơ đãng, cẩu thả, anh thường nói giễu: “Cậu
đúng là
nhà văn lớn”, hoặc “cậu nghệ sỹ quá, nghệ sĩ hơn cả mình”.
Một lần
tôi đến Xuân Diệu với
con trai tôi là Nguyễn Đăng Thanh. Nó sắp đi nước ngoài học. Tưởng tôi
đưa con
đến chào anh trước khi đi Liên Xô, anh rất cảm động. Anh sôi nổi dặn dò
cháu
đến nửa tiếng đồng hồ.
Xuân
Diệu thỉnh thoảng có một
chuyến đi xa, như đi Liên Xô, Pháp hay Ấn Độ gì đó. Bao giờ anh cũng
chú ý mua
quà về cho những người thân. Nhưng không tuỳ tiện mà lập danh sách hẳn
hoi, và
tuỳ từng người mà tặng các món quà khác nhau. Tôi cũng được nằm trong
danh sách
ấy. Khi thì một cái áo sơ mi, khi thì một bao thuốc lá ngoại, sang nhất
là một
cái đồng hồ đeo tay Liên Xô hiệu Pơndốt.
Xuân
Diệu làm việc rất cần
cù. Một tấm gương lao động quyết liệt: đọc sách, dịch sách, viết văn,
làm thơ.
Mùa hè, tôi thấy anh xoay trần ra viết. Nghỉ ngơi cũng là học tập. Anh
mở nhạc
cổ điển ra nghe. Anh nói, cứ nghe nhạc mãi, dù không hiểu nó cũng thấm
vào
người. Vậy mà có ai đến chơi, anh vội vàng xếp cả lại, tiếp đón rất
nhiệt tình.
Kể cả người anh không ưa. Có một lần đang nói chuyện với anh, thấy một
người
ghé vào. Anh tiếp rất niềm nở. Khi người ấy về, anh nói với tôi: “Sao
tôi ghét
thằng cha này thế!”. Ghét mà vẫn tiếp chu đáo? Đoán biết tôi thắc mắc
thế, anh
giải thích: “không tiếp nó lần sau nó không đến nữa”. Tôi nhớ lại, có
lần anh
nói: “Người ta yêu vờ yêu vịt còn hơn là lạnh như tiền. Người ta vỗ tay
để lấy
lòng mình thôi còn hơn là không vỗ tay”. Lại nhớ câu thơ của anh:
Và hãy
yêu tôi một giờ cũng
đủ
Một
giây cũng cam, một phút
cũng đành.
Thì ra
Xuân Diệu rất sợ cô
độc. Rất lo không có ai thương mình, không có ai nhớ mình, tìm đến với
mình.
Xuân
Diệu rất sợ chết. Có lần
tôi đến anh. Anh chỉ bức ảnh bà má của anh mắc vào giá sách, nói: “Bà
má mình
đấy. Bà ấy mất rồi. Không có bằng chứng gì chứng tỏ bà đã từng sống ở
trên đời”
Lần
khác tôi đến anh khi Như
Phong vừa chết. Anh nói, Như Phong chủ quan, cho là mình khoẻ lắm.
Không có
doute méthodique về sức khoẻ của mình. Anh lắc đầu, lè lưỡi: “cái chết
ghê gớm
thật, nó biến con người ta từ plus infini thành moins infini!”.
Lúc đó
tôi không biết nói gì.
Nhớ đến cái chết của Nguyên Hồng, tôi nói: “Nguyên Hồng cũng chết một
cách đột
ngột” (giống Như Phong)
Xuân
Diệu ngẫm nghĩ một lát
rồi nói: “Không, Nguyên Hồng chết rồi, nhưng cái văn của anh ấy vẫn còn
rên rỉ.
Còn Như Phong, chết là không còn dấu vết gì nữa. Mấy bài phê bình, ai
đọc!”
Xuân
Diệu ngay từ nhỏ đã rất
có ý thức giữ gìn mọi tài liệu, bút tích của mình. Anh còn giữ nguyên
năm cuốn
vở học sinh hồi học ở Quy Nhơn, ghi chép linh tinh đủ thứ: nhật ký,
những dòng
suy nghĩ tản mạn, dịch thơ, tập sáng tác... Trải qua bao biến thiên của
cuộc
đời, rồi những lần sơ tán trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống
Mỹ, vậy
mà vẫn giữ nguyên, không sờn không rách. Một con người có ý thức rất
cao về bản
thân mình.
Đọc mấy
quyển vở ấy, tôi thấy
có một bài thơ anh đặt tên là ”Những người chết trẻ”. Chắc là một người
bạn học
của anh chết, anh xúc động làm bài thơ này. Bài thơ khá dài, gồm nhiều
đoạn,
đoạn nào cũng chỉ xoay quanh cùng một ý. Chẳng hạn, đoạn một nói về các
bạn gái
rất thương bạn, khóc. Nhưng rồi yêu người này, người khác và quên. Đoạn
hai,
nói về các bạn trai, đoạn ba nói về anh chị em ruột, ý vẫn thế thôi:
lúc đầu
thương, khóc, sau cũng quên. Đoạn cuối cùng nói về cha mẹ. Cha mẹ thì
không bao
giờ quên con, nhưng cha mẹ sẽ già và chết. Thế là hết, chẳng còn ai
thương nhớ
mình nữa:
Nhớ các
anh hoài chỉ mẹ cha,
Song
tro tàn lạnh không còn
lửa,
Rồi đèn
mờ tắt. Thế là thôi,
Không
một người thương ở cõi
đời.
Cùng
một ý ấy – “Những người
chết trẻ” – tôi còn thấy một bài thơ khác ở dạng một bản nháp:
Vẻ đẹp
và non và mạnh mẽ
... yêu
như điên
Biết
bao hình bóng đầy vẻ thơ
Biết
bao khuôn mặt còn ngây
thơ
Biết
bao mái tóc còn như tơ
Biết
bao cặp mắt đầy ước mơ
Sau cái
màn quên đã mịt mờ!
.............................................
Biết
bao chàng thanh niên đã
chết
Đã
chết! Tiếng sao mà gớm
ghê!
Đã
chết! Đã đi không còn về.
Mang
theo lực, tài, xuân, hương,
huê
Đã
chết, tiếng sao mà thảm
thê!
..................................................
Biết
bao chàng thanh niên đã
qua
Như gió
xuân đi không để vết
.................................................
Thế
đấy, biết bao chàng thanh
niên
Đã chết
trước khi chưa được
sống...
Té ra,
từ tuổi thiếu niên,
Xuân Diệu đã nghĩ đến cái chết, đã lo đến khi phải từ giã cõi đời này.
Và điều
đặc biệt là anh đã nghĩ cách chống lại cái chết, nghĩa là trở thành bất
tử –
bất tử trong lòng người.
Chống
lại cái chết bằng cách
nào? Bằng cách làm thơ, anh gọi là “Thơ trái tim”.
Trong
quyển vở học sinh,
quyển thứ ba (đề tập III, 1934), tôi thấy anh, ngay từ tuổi học trò, đã
có hẳn
một lí thuyết về sự bất tử của thi ca. Anh viết một đoạn văn dài, đặt
dưới cái
đầu đề: “Một bài thơ với một tên người”. Lập luận của anh như sau:
“Thơ là
đồ chơi, là đồ ru
ngủ, là đồ không thiết thực, nghĩa là - sao không nói hẳn?- đồ bỏ. Các
nhà tận
tâm về sinh kế của xã hội, các nhà thiết thực, các nhà nghiêm khắc nói
thế.
Phải hay không tôi chẳng cần biết. Với Fontenelle, tôi muốn cho rằng ai
cũng
phải cả (tout le monde a raison). Tôi chỉ để ý mà thấy rằng: Ba ngàn
năm qua
chôn nắm xương tàn của Homère. Nói về danh vọng và bất hủ, đã ba ngàn
năm
Homère vẫn được tôn sùng... Cái gì rồi cũng qua đi. Đế quốc Lamã, đế
quốc
Charlemagne. Nhưng cái chết không diệt được cái gì không phải là vật
chất. Mà
cái đầu tiên không phải là vật chất chẳng phải là thơ sao? Thơ - cám dỗ
của mơ
màng...”
“Với
những khúc anh hùng ca
(épopée) Jliade, Odyssée, Homère sống đến nay... Song thiên tài thời
bất hủ là
lẽ cố nhiên. Phải chăng thơ có cái ma lực siêu việt thời gian, mà đến
những
người chỉ có tài (talent) cũng có thể sống ở trong thơ, hơn nữa, trong
một bài
thơ?”
“Một
bài thơ cứu một tên
người, vớt một tên người ở trong giòng thời gian nó lôi cuốn sự vật vào
miền
quên lãng?... Phẩm hơn lượng, le sonnet sans défaut vaut, seul, un long
poème... Nhưng vài câu thơ trong ấy rung động những trái tim lại đáng
giá bằng
mấy bài sonnet không nhầm lỗi... Ta để ý xem, những bài thơ cứu một tên
người,
khá nhiều là thơ tình cảm, thơ trái tim. Tư tưởng có thể thay đổi, bây
giờ còn
ai muốn nghe những lời biện thuyết của Luther, những bài thơ của
Rousseau, bây
giờ ai ưa?... Nhưng trái tim người... khi nào cũng có những trẻ con,
những bà
mẹ, những cô gái, những mẹ già, nghĩa là những con người, họ yêu
thương, họ vui
vầy, họ đau xót... Cho nên tiếng kêu than của Trác Văn Quân vẫn còn tìm
thấy
tiếng vang trong lòng những cô Bạch Lệ Ảnh”.
“Ở đây
tôi không nói những
danh sỹ như Ronsard, họ có dư thơ để mà sống trường cửu. Tôi chỉ nói
những nhà
thi sĩ còn ở trong trí nhớ nhờ một bài thơ. Những nhà thơ ấy cũng có
làm nhiều
bài, song chỉ được có một bài xuất sắc. Trên dòng thời gian vô cùng
tận, họ chỉ
có một chiếc lá thả trôi đi. Tôi không biết thơ Tàu cho nhiều. Song tôi
vẫn
nghe tiếng nàng Ban, ả Tạ. Tôi vẫn còn nhờ ý tứ bài thơ vịnh quạt của
Triệu Yến
Phi. Có lẽ trong văn Tàu, người ta cũng còn nhớ đến nàng, nhờ bài thơ
kia”.
Còn ai
không biết đến bài
“Hồi văn” của Tô Huệ? Ở đây mới đúng cái trường hợp một bài thơ với một
tên
người...
Như vậy
là đối với Xuân Diệu,
điều quan trọng nhất không phải là chuyện văn chương thơ phú mà là
chuyện làm
sao được sống mãi với đời, sống mãi với nhân loại. Văn chương thơ phú
chỉ là
phương tiện để giúp anh sống mãi trong lòng người, một thứ vũ khí để
chống lại
cái chết. Và tôi hình dung cả cuộc đời lao động nghệ thuật quyết liệt
của Xuân
Diệu là một quá trình quyết đấu với cái chết.
Trong
mấy quyển vở học sinh
ấy, tôi còn thấy điều đặc biệt này ở con người Xuân Diệu: luôn đòi hỏi
tình cảm
cao độ, tình yêu mãnh liệt, yêu phải hết mình. Trong mấy quyển vở nói
trên,
thỉnh thoảng lại thấy có một đoạn nhật kí.
Có một
đoạn nhật kí như thế
này: anh ghi tâm trạng rất đau khổ của mình, đau khổ đến mức như là
thất tình
vậy. Lúc đầu tôi cứ tưởng thế, chắc là một cô bạn gái nào đấy – vì anh
viết tắt
tên cái người mà anh cho là không còn yêu anh nữa. Đọc tiếp mới biết
không
phải. Đó là một anh bạn trai. Và lí do rất trẻ con: “Hôm ấy mình đến
mượn B cái
quần đùi. B. nói, chốc nữa mình đi đá bóng, không cho mượn được”. Có
thế mà đau
khổ! (Khi trả lại mấy quyển vở, tôi nói với Xuân Diệu như thế – Lúc đầu
tưởng
là bạn gái, hoá ra là bạn trai - Xuân Diệu ngồi im một lát rồi bảo tôi:
“Này,
đừng nói với ai nhé, người ta hiểu lầm!).
Mấy
trang sau, tôi lại thấy
một đoạn nhật ký nữa. Cũng vẫn là nỗi đau khổ nói trên – Và vẫn là cái
anh B.
nào kia. Lần này, lý do khác: có một gánh hát cải lương Nam kỳ
ra biểu
diễn ở Quy Nhơn. Học sinh mua vé đi xem. B. không có tiền, vay một bạn
nào đấy
tiền mua vé. Xuân Diệu biết được. Thế là lại đau khổ như là thất tình:
bạn bè
với nhau, không có tiền, không nói với mình một tiếng, mà lại đi vay
người
khác.
Trong
mấy quyển vở nói trên,
Xuân Diệu tập viết đủ loại văn thơ nhưng tôi để ý thấy, dù viết thể văn
nào thì
chủ yếu cũng quay quanh tình bạn. Và dù là thơ hay văn xuôi, dù là dịch
thơ
Pháp, thơ Tầu thì cũng thể hiện sự khao khát tình bạn đến cuồng si mà
không
được đền đáp xứng đáng. Một cái tôi cảm thấy cô đơn, vắng người tri kỷ.
Ví dụ,
đây là một đoạn văn như thế:
“Tôi là
một đứa si, gặp bạn
thì yêu hết lòng, xa nhau một khắc thời lấy làm nhớ, thế mà giứt mối
tình một
cách mau chóng như thế, làm sao mà chịu nổi phẫn uất, lòng hận sầu? Đêm
hôm ấy
nằm mà thở dài một mình, sáng dậy viết cái thư thật dài, gửi cho bạn:
Ôi!
Nhân sự.
Trọng
của nỡ khinh người!
Vẫn
tưởng lòng son in một tấm
Đâu ngờ
dạ thế trắng như vôi!
“Bao
nhiêu tình đem tặng bạn
tôi, bạn tôi đã không nhận mà quăng xuống đất bùn trả lại cho tôi. Tôi
chỉ xin
nhặt lại, rửa cho tinh khiết như cũ, rồi đem chôn kỹ trong một góc quả
tim tôi
vậy. Bây giờ tôi chưa quên được tình cũ, song ngày qua tháng tới, có
một ngày
cũng sẽ quên. Than ôi! Vũ trụ mang mang, nước non rộng lớn, từ đây đến
lúc
chết, suốt một đời há lẽ không kiếm được khách thân bằng ư?”
Luôn
luôn đòi hỏi tình cảm
cao độ, nên Xuân Diệu thường dễ có mặc cảm người ta lạnh nhạt với mình.
Có một
lần, lâu tôi không đến thăm anh. Khi gặp, anh nói dỗi: “Cậu bây giờ nổi
tiếng
rồi nên chán mình chứ gì?”.
Tôi
nhận thấy Xuân Diệu có
một cái gì như là có chất đàn bà vậy – hay hờn dỗi. Và khác hẳn với
Nguyễn
Tuân, anh hay bộc lộ thẳng tình cảm với những người mà anh quý mến.
Thực
tình tôi không hiểu sao
Xuân Diệu lại có thể thân với Huy Cận. Họ quả cũng có những chỗ hợp
nhau. Nhưng
Huy Cận đâu phải hạng người tử tế, ngay cả trong tình bạn với Xuân Diệu.
Hai ông
bạn, có chỗ này quả
là giống nhau: cùng ăn rất khoẻ và chỉ thích thịt cá, trứng vịt lộn,
nghĩa là
những thứ nhiều prôtit.
Hồi
khoa văn Đại học sư phạm
Việt Bắc đưa sinh viên về Hà Nội (đóng ở Cổ Nhuế) để mời các nhà văn
đến nói
chuyện, tôi có được nhờ tiếp khách hộ. Tôi thấy Xuân Diệu rất thích
uống bia và
húp trứng sống. Anh còn nói, tối nào, cần viết một cái gì thì buổi
chiều thế
nào cũng phải mua ba lạng thịt chó để bồi dưỡng. Có thế mới có sức viết
(Xuân
Diệu chết vì bị nhồi máu cơ tim, tức là máu nhiễm mỡ, cần kiêng ăn
nhiều thịt,
trứng. Khi anh mất, Vũ Tú Nam
nói, Xuân Diệu đã bồi dưỡng nhầm là vì thế). Huy Cận cũng vậy. Phải nói
là tham
ăn.
Nhưng
điều rất vui là, tuy
cùng ăn khoẻ mà Huy Cận thì được khen là bình dân, còn Xuân Diệu thì bị
chê là
tham ăn. Nguyễn Khải thấy như thế, khi tháp tùng hai cây bút đàn anh
này vào
tham quan Nam Ngạn, Hàm Rồng, mừng thành tích bắn máy bay Mỹ (năm
1965). Họ
chiêu đãi các vị. Quan ăn tham (Huy Cận) thì gọi là bình dân, còn dân
(Xuân
Diệu) thì gọi là tham ăn. Đúng là một dân tộc chỉ trọng quan lại.
Hai ông
bạn còn có chỗ này
cũng giống nhau: có ý thức giữ đầy đủ những bản thảo các tập thơ làm
trước cách
mạng tháng Tám. Giữ nguyên cả những bản nháp từng bài một. Một bài thơ
có thể
có tới ba bốn bản nháp, từ bản này sang bản khác, sửa chữa thế nào cho
đến bản
cuối cùng khi bài thơ được hoàn thiện. Chẳng hạn như bài Nguyệt Cầm của
Xuân
Diệu (lúc đầu đặt tên là Đàn trong trăng sáng). Trước khi trở thành một
thi phẩm
tuyệt tác mà ta đều biết, bài thơ đã trải qua nhiều bản nháp, trong đó
có những
câu còn rất thô sơ vụng về như:
Nhỏ
giọt vào trăng, đêm thuỷ
tinh
Linh
lung bóng sáng bỗng run
mình
Vì nghe
tới đoạn giai nhân
chết
Xanh
ngắt không mây nguyệt
một mình.
Riêng
câu kết, có tơi bốn lần
nháp khác nhau:
... Đàn
ơi, người đẹp đến tê
mê
...
Thôi mà! âm nhạc giết tôi
đi!
... Dịu
dàng âm nhạc giết tôi
đi!
... Đàn
ơi! Âm nhạc giết ta
đi!
Cuối
cùng mới tới được câu
kết tuyệt vời này:
Nghe
sầu âm nhạc đến sao Khuê
Tài
liệu này rất quý. Từ
những bản nháp này, có thể nghiên cứu viết được những công trình khoa
học rất
hay về ngôn ngữ thơ ca, về lao động nghệ thuật... Xuân Diệu sẵn sàng
cho tôi
mượn. Rất tiếc hồi ầy chưa có photocopy dễ dàng như sau này. Chép tay
thì biết
đến bao giờ, nhất là lại chép cả những chỗ dập dập xoá xoá, viết đi,
viết lại,
rất ngại.
Bây giờ
Xuân Diệu mất rồi.
Tất cả ở trong tay Huy Cận.
Có lần
tôi định dùng mẹo để
lấy ra từ tay Huy Cận. Tôi hướng dẫn một cô sinh viên làm luận văn cao
học, tên
là H T H, về Lửa thiêng. Cô này khá xinh đẹp, lại khôn ngoan. Tôi giới
thiệu cô
đến Huy Cận để hỏi han, trao đổi, dần dà thân mật, sẽ mượn cho tôi tập
bản thảo
kia, lúc đầu là bản thảo Lửa thiêng của Huy Cận, sau đến bản thảo Thơ
thơ, Gửi
thương cho gió của Xuân Diệu. Bây giờ sẵn photo rồi, chỉ cần mượn ra
nửa tiếng
đồng hồ là có thể chụp được hết.
Tôi đã
thất bại. Huy Cận tìm
cách lợi dụng cô này mà không chịu mất gì. Thái độ gạ gẫm lộ liễu, rất
tởm, đại
khái đặt tập bản thảo bên cạnh, cầm tay cô và nói: “Phải thế nào mới
cho mượn
chứ!”. Sau này tôi mới biết, đừng hòng lấy không một cái gì ở ông ta.
Anh Hà
Minh Đức đã bị một vố rất đau: trả ông ta mấy triệu để lấy bút tích và
bức ảnh
của ông thời trẻ. Anh chỉ nhận được một bản photo! ảnh cũng photo!
Tôi
không hiểu sao Xuân Diệu
lại có thể tin cậy Huy Cận đến thế. Ông bạn này đã gây khó khăn cho
người ta
nghiên cứu Xuân Diệu, lại định dùng tài liệu của Xuân Diệu để kiếm
chác. Cái
phòng ở của Xuân Diệu, dù cho vốn thuộc quyền sở hữu của Huy Cận, lẽ ra
cũng
nên giữ nguyên để làm bảo tàng ông bạn. Huy Cận đã xoá hết dấu vết, dọn
dẹp đi
hết. Rồi hai bố con tranh nhau. Vậy là người có tội lớn nhất đối với
Xuân Diệu
lại chính là ông bạn thân thiết số một của anh. Xuân Diệu muốn sống mãi
trong
lòng người. Đó là điều anh tha thiết nhất lúc sinh thời. Vậy mà chính
ông bạn
“quý” kia đã phản lại anh ở chính cái điều anh vô cùng tha thiết ấy.
Tuy
nhiên tìm hiểu quan hệ
giữa Huy Cận và Xuân Diệu, thấy tình bạn thân thiết giữa hai người là
có thật.
Năm 1940, sau khi đỗ tú tài, Xuân Diệu học luật một năm rồi thi vào
ngạch tham
tá nhà đoan và được điều vào làm việc ở Mỹ Tho cho đến 1943. Thời gian
này Huy
Cận vẫn đi học. Khi Huy Cận đỗ kĩ sư canh nông, có việc làm, Xuân Diệu
liền xin
thôi việc trở lại Hà Nội ở với Huy Cận, sống nhờ vào lương Huy Cận.
Nguyễn Công
Hoan nghe nói chuyện này, hỏi: “Thế không sợ Huy Cận nó đá đi à? Lúc ấy
thì
sống bằng gì mà bỏ việc?” Xuân Diệu nói: “Lúc bấy giờ tôi không hề nghĩ
đến
tình huống đó”.
Đúng là
lãng mạn! Tôi biết,
thời Tây, tham tá (commis) thuộc loại viên chức cao cấp, lương khá lắm.
Bỏ đi
dễ dàng như vậy quả là rất lãng mạn và tỏ ra tin tưởng tuyệt đối ở tình
bạn.
Tuy nhiên tình huống “Huy Cận đá”, tôi nghĩ khó xảy ra. Vì Huy Cận nhà
nghèo,
tuy có học bổng nhưng còn phải nuôi hai em đang học ở Thanh Hoá. Xuân
Diệu
thường giúp đỡ bạn rất cụ thể. Thời gian làm tham tá đoan ở Mỹ Tho, anh
cứ đều
đều gửi ra cho Huy Cận mỗi tháng 10 đồng. Khi Huy Cận tham gia cách
mạng, Xuân
Diệu còn vào tận quê Hà Tĩnh, lo thu xếp gia đình cho Huy Cận để bạn an
tâm công
tác. Mặt khác, trong hoạt động sáng tác, Huy Cận cũng cần một chỗ dựa
là Xuân
Diệu. Xuân Diệu sớm có chân trong Tự lực văn đoàn, như vậy là có thanh
thế lắm
(Huy Cận tha thiết xin vào Tự lực văn đoàn nhưng không được chấp nhận).
Tôi đã
được chứng kiến Huy
Cận sẵn sàng quy phục và tỏ ra phụ thuộc vào Xuân Diệu như thế nào: Hôm
ấy tôi
đến Xuân Diệu, thấy Huy Cận ở trên gác xuống, ăn mặc chỉnh tề, cứ loanh
quanh ở
căn phòng của Xuân Diệu. Thấy tôi, Huy Cận khoe vừa dịch bài thơ tình
của
Arvers (Sonnet d’Arvers): “Mon âme a son secret, ma vie a son mystère”.
Bài này
đã có một bản dịch rất được truyền tụng của Khái Hưng “Lòng ta chôn một
khối
tình, Tình trong giây lát mà thành thiên thâu...”. Huy Cận đã đọc cho
tôi nghe
bản dịch của anh và lấy làm đắc ý: “Tôi dịch sát nghĩa hơn bản dịch của
Khái
Hưng chứ!”
Xuân
Diệu mắng luôn: “Dịch
sát nghĩa mà là hay à?”
Xuân
Diệu rót nước ra cốc mời
tôi uống. Huy Cận hỏi: “Nước mơ hả?”. Lại bị Xuân Diệu mắng: “Mơ mơ cái
gì, làm
gì có mơ!”
Thấy
Huy Cận cứ nói chuyện
với tôi, Xuân Diệu lại mắng nữa: “Anh Mạnh anh ấy đến chơi với tôi chứ,
sao cứ
nói mãi thế!”.
Tôi rất
lấy làm lạ: Sao Xuân
Diệu cứ mắng Huy Cận như mắng con nít mà toàn chuyện chẳng đáng gì cả!
Thì ra
sáng hôm ấy, Huy Cận
hẹn với Quang Huy ở Nhà xuất bản Văn học tới làm việc về một tuyển tập
thơ của
mình, cho nên ăn mặc chỉnh tề và cứ loanh quanh ở tầng một, phòng Xuân
Diệu.
Một
lát, Quang Huy đến. Huy
Cận ra làm việc với Quang Huy ở phòng ngoài. Xuân Diệu giải thích với
tôi: “Dạo
này làm được mấy bài thơ, cứ hoắng lên. Mình phải mắng cho cụt hứng đi,
đỡ chủ
quan. Cứ tưởng bở!”
Làm
việc với Quang Huy một
lát, Huy Cận chạy vào báo cáo với Xuân Diệu, đại khái nói, Huy đề nghị
bỏ mấy
bài nào đấy và Cận thấy cũng phải.
Xuân
Diệu nổi nóng: “Không
bỏ! Sợ mất ghế thứ trưởng à?”
Huy Cận
nhăn nhó: “Khổ quá,
sợ gì đâu. Thấy Huy nó nói cũng có lý”.
Thì ra
tuyển thơ của mình như
thế nào, Huy Cận cũng phải báo cáo với Xuân Diệu.
Xuân
Diệu đúng là chỗ dựa của
Huy Cận trong đời và trong sáng tác. Nhưng khi ông bạn chết rồi thì còn
cần gì
nữa. Máu tham và thói ích kỉ, bần tiện liền trỗi dậy và giết chết luôn
tình
bạn.
Xuân
Diệu không chỉ cần cù
đọc sách, làm thơ, anh còn rất chăm chỉ đi nói chuyện. Đâu mời cũng đi.
Đối
tượng nào cũng nói. Các bà cấp dưỡng, các nông trường viên mời cũng đi
ngay.
Lại còn gợi ý cho người ta mời nữa. Anh thường nói với tôi khi lâu lâu
tôi
không mời anh nói chuyện với sinh viên: “Phải khẩn trương khai thác
mình đi
chứ!”. Đối với mỗi đối tượng, anh đều rút kinh nghiệm nói sao cho hấp
dẫn. Anh
tính toán rất tỉ mỉ, từ sự sắp xếp nơi nói chuyện ra sao, cự li người
ngồi nghe
thế nào, mùa hè khác, mùa đông khác, thỉnh thoảng lại phải xen vào một
câu
chuyện vui cho không khí đỡ tẻ. Đặc biệt anh hay kết hợp phổ biến “sinh
đẻ có
kế hoạch” (không hiểu sao Xuân Diệu luôn luôn lo lắng đến chuyện này).
Anh nói
một hồi mà không thấy vỗ tay, rất dễ mất hứng. Nhiều khi không kiên
nhẫn được
nữa, anh hỏi thẳng người nghe: “Sao, có thích không? Thích thì phải vỗ
tay lên
chứ!”
Xuân
Diệu rất sợ thái độ lạnh
nhạt, dửng dưng. Anh cho có nhiều thằng đàn ông rất ngu, vợ nấu cho món
ăn
ngon, cứ chén hùng hục mà không biết khen lấy một câu. Tôi nhớ câu thơ
của anh:
Em có
tài nấu nướng
Anh có
tài ngợi khen
Xuân
Diệu thích nói chuyện
với giáo viên nhất.
Đầu năm
1985, Hữu Thỉnh, sau
đại hội nhà văn lần thứ III, là uỷ viên chấp hành phụ trách nhà văn
trẻ. Anh
mời chúng tôi đi Tuyên Quang bồi dưỡng một lớp nhà văn trẻ ở các tỉnh
miền núi
phía Bắc. Đoàn có Xuân Diệu, Chính Hữu, Lê Lựu, Nguyễn Thành Long,
Vương Trí
Nhàn và tôi.
Giáo
viên trường Cao đẳng Sư
phạm Tuyên Quang, nhân dịp này, mời Xuân Diệu đến nói chuyện. Hôm sau
họ lại
mời tôi. Xuân Diệu bảo tôi: “Giáo viên họ mời thì nên đi. Nói chuyện
với giáo
viên lợi lắm. Nói với người khác, một người nghe là chỉ một người. Nói
chuyện
với giáo viên, một người nghe bằng hàng trăm người. Vì các thày cô giáo
lại nói
lại với học sinh của mình”.
Đi nói
chuyện là một yêu cầu
tự thân của Xuân Diệu. Anh có nhu cầu được tiếp xúc và trò chuyện với
nhiều
người, thật nhiều người. Cho nên ở mấy ngày với anh ở Tuyên Quang, tôi
thấy anh
đi nói chuyện liên miên. Nói sáng, nói chiều, nói tối, khản cả cổ. Được
có thêm
một người biết đến mình, anh sướng lắm. Cho nên anh thường nhắc đi nhắc
lại câu
chuyện về một anh hàng nước mía nào đấy ở Tuy Hoà (Phú Yên) biết anh là
nhà thơ
Xuân Diệu và đãi anh một cốc nước mía bốn đồng: “Thi sĩ cỡ như tôi có
thể được
tổng thống mời tiệc ấy chứ. Nhưng được một anh hàng nước mía biết đến,
khó
lắm!” Xuân Diệu nói một cách đầy tự hào.
Xuân
Diệu luôn luôn có ý thức
bảo vệ Thơ mới và văn học lãng mạn. Ai đụng đến Thơ mới là không xong
với anh.
Anh ghét Vũ Đức Phúc, Phạn Cự Đệ, Lê Đình Kỵ là vì thế. Anh không ưa cả
Hoài
Thanh vì tác giả Thi nhân Việt Nam
vốn rất mê Thơ mới là thế mà nay lại quay ra phê phán Thơ mới quá gay
gắt (Tố
Hữu cũng phải nói: “Hoài Thanh tát mình quá đau”). Anh cũng luôn luôn
đấu tranh
cho sự tồn tại chính đáng của cái tôi cá nhân và thơ tình. Vấn đề này,
ngày nay
chẳng ai còn thắc mắc. Phải là kẻ gàn dở hoặc ngu tối lắm mới phủ định
cái tôi
cá nhân và thơ tình. Nhưng sinh thời Xuân Diệu, nghĩa là khoảng đầu
những năm
1980 trở về trước, đấu tranh cho sự khẳng định cái tôi cá nhân và thơ
tình là
cả một thái độ dũng cảm. Tôi nhớ thời chống Mỹ, có lần anh nói với tôi:
“Mỗi
lần in một tập thơ, mình phải đưa ra trước hàng loạt bài chống Mỹ như
một cái
đầu tầu xe lửa, sau đó, xen vào những “toa” thơ chiến đấu, lén lút mắc
vào một
cái “toa” thơ tình cho nó kéo ào đi”. Nhưng thơ tình của anh lúc bấy
giờ nhiều
khi không hẳn là thơ tình, không dám là thơ tình thật sự. Đó nhiều khi
chỉ là
thơ của cái nghĩa vợ chồng (Anh chờ em về ăn cơm, Đứa con của tình yêu,
Em làm
bếp... Tôi gọi thế là thơ về “giai đoạn văn xuôi” của tình yêu) hoặc
phải gò
theo khẩu hiệu “vui duyên mới không quên nhiệm vụ” thường thấy giăng
lên ở
những phòng cưới thời chiến tranh...
Ngoài
ra, về tình yêu, trái
tim anh cũng không còn cái cuồng nhiệt, cái mãnh liệt như thời trước.
Mà không
say đắm cuồng nhiệt thì làm sao tạo được thơ tình thật sự!
Vào
những năm 60, 70, 80 của
thế kỉ trước, Xuân Diệu bỗng làm rất nhiều thơ tình. Số lượng gấp bội
so với
thơ tình trước cách mạng. Vào năm 1961, ở anh dường như có một sự thức
tỉnh trở
lại về tình yêu. Anh nói: “Năm 1961, do một mối tình đến với mình mà
mình cảm
thấy tình yêu thật sự sống lại mạnh mẽ. Hoá ra “Đáy chĩnh vét rồi, hãy
còn hạt
gạo” – giống như như câu thơ của Baudelaire “Un brin de paille brille
encore
dans l’étable”. Anh định làm một cuốn từ điển về đủ các trạng thái của
tình
yêu: nhớ, ghen, hờn – dỗi, rồi lúc thức, lúc ngủ, khi ăn, khi uống...
Nhưng
dư luận không đánh giá
cao thơ tình của anh sau cách mạng. Tôi cũng thấy như vậy. Nguyễn Kiên
nói
đúng, thơ tình Xuân Diệu sau cách mạng dùng kỹ thuật nhiều hơn là có
tình yêu
thật với một đối tượng có thật. Cách làm thường là thế này: dựa vào một
chi
tiết có thể có rồi phóng đại lên, ngoa ngôn lên cho thành say đắm.
Chẳng hạn,
em gửi cho anh một bức thư, nói nhớ anh. Thế là như đang đi giữa sa mạc
bỗng
thấy nhân loại quanh mình. Hoặc là, em có vẻ lạnh nhạt, anh buồn quá.
Nhưng một
bữa cơm, em gắp cho anh một miếng thịt bằng ngón tay, thế là:
Anh ăn
như miếng ngọc
Dạ vui
sướng nghẹn ngào
Nghĩ
tình em vô tận
Khi bỏ
vào bát anh...
Đúng
thế, bản thân kỹ thuật
không bao giờ tạo ra thơ. Trước cách mạng, anh có dùng kỹ thuật gì đâu
mà đúng
là thơ tình:
Anh nhớ
bóng, anh nhớ hình,
anh nhớ ảnh,
Anh nhớ
em, anh nhớ lắm em
ơi!
Dù sao
thì cũng có một thời,
Xuân Diệu cũng đã từng là nhà thơ tình số một ở nước mình. Và đến bây
giờ, liệu
đã có ai vượt được?
Có một
hồi, người ta cứ đồn
Xuân Diệu ái nam ái nữ. Không rõ hư thực thế nào. Rồi anh cưới Bạch
Diệp. Ái
năm ái nữ sao lại lấy vợ? Nhưng được mấy tháng, Bạch Diệp bỏ luôn. Vậy
là sao?
Thực ra
Xuân Diệu chỉ mắc
chứng đồng tính luyến ái và bất lực trong quan hệ tình dục, chứ không
ái nam ái
nữ.
Hồi
kháng chiến chống Pháp,
tôi công tác với anh Lã Hữu Quỳnh ở Sở Giáo dục Liên khu Việt Bắc (Anh
Quỳnh là
một nhạc sĩ, sau 1954, về Hà Nội làm Hiệu phó trường nhạc trung cấp).
Anh quê ở
Bắc Giang. Trong thời gian kháng chiến, các văn nghệ sĩ đi công tác
qua, thường
ghé vào nhà anh ngủ nhờ. Một lần, Xuân Diệu và Trần Văn Cẩn vào ngủ
nhờ. Nửa
đêm, anh thấy Cẩn đùng đùng dậy chửi mắng Xuân Diệu thậm tệ.
Anh
Xuân Tửu một lần cùng
Xuân Diệu ở trong một đoàn văn nghệ sĩ đi thăm đảo Cô Tô. Chiều hôm
trước họ
nghỉ lại ở Móng Cái để hôm sau đáp tàu ra đảo. Xuân Tửu muốn tắm truồng
nên một
mình lang thang ra biển tìm chỗ vắng người. Nhưng rất phiền là cứ thấy
Xuân
Diệu lẽo đẽo đi đằng sau. Đi một chập, Xuân Diệu biết ý Xuân Tửu, nói:
“muốn
tắm truồng phải không? Thì cùng tắm”. Xuân Tửu mừng quá không phải vì
được tắm,
mà vì nhân dịp này, biết đích xác Xuân Diệu có ái nam ái nữ hay không.
Anh
giương mục kỉnh để nhìn cho rõ – Té ra rất đẹp! – Xuân Tửu nói với tôi
như vậy.
Sau khi
Bạch Diệp bỏ Xuân
Diệu, anh Huỳnh Lý có một lần cùng ăn với Xuân Diệu ở khách sạn Phú
Gia. Huỳnh
Lý gạ chuyện: “Mình có học với cậu từ nhỏ (cấp II Quy Nhơn), mình biết
chứ.
Người ta cứ nói cậu ái nam ái nữ, nhưng có phải đâu (trẻ con thằng nào
ái nam
ái nữ, nó vật ra khám ngay, dấu sao được)
Xuân
Diệu im lặng một lúc rồi
nói: “Cái con Bạch Diệp trắng trợn! Để rồi mình uống thuốc, sẽ khá lên
dần. Nó
bỏ luôn”.
Người
làm mối Bạch Diệp cho
Xuân Diệu là Nguyễn Đình Thi và Hằng Phương. Hôm cùng đi vào Đà Nẵng,
Nguyễn
Đình Thi nói với tôi: “Tôi cứ bị cô Bạch Diệp chửi mãi”
Thực
ra, chuyện Xuân Diệu có
vấn đề về sinh lý, Bạch Diệp cũng có ngờ ngợ trước khi nhận lấy Xuân
Diệu- Chị
cẩn thận đi hỏi Tô Hoài là bí thư Đảng đoàn văn nghệ – Tô Hoài nói,
không biết
và mách đi hỏi Huy Cận. Huy Cận nói không có chuyện gì. Nhưng Bạch Diệp
vẫn cảnh
giác: Cưới rất to nhưng không đăng kí kết hôn. Thành ra khi biết
chuyện, bỏ
luôn, không phải ra toà lôi thôi.
Khi
Xuân Diệu mất, Bạch Diệp
viếng một vòng hoa trắng.
Hôm giỗ
đầu Xuân Diệu (tháng
12 – 1986), người ta tổ chức một cuộc hội thảo khoa học lớn ở câu lạc
bộ lao
động. Tôi được mời đọc báo cáo. Tôi đọc bài: “Tư tưởng và phong cách
một nhà
thơ lớn: Xuân Diệu”. Ở bài này, lần đầu tiên tôi đưa ra mấy ý được hoan
nghênh:
tư tưởng nghệ thuật (idée poétique) của Xuân Diệu là niềm khát khao
giao cảm
hết mình với cuộc đời trần tục, trần thế này; Xuân Diệu là người đầu
tiên đưa
vào thơ ca Việt Nam, tình yêu thật sự là tình yêu, nghĩa là sự giao cảm
tuyệt
đối từ nhục thể đến tâm hồn (khác với thơ tình của Huy Cận, chỉ là tình
yêu
platonique); một cách tân quan trọng của Xuân Diệu về thi pháp: coi con
người
giữa tuổi trẻ và tình yêu là chuẩn mực của cái đẹp.
Chị
Xuân Như, em Xuân Diệu,
có mặt hôm ấy, đến gặp tôi, nói: “Anh viết rất đúng về anh tôi”
Rất
tiếc, giá mà Xuân Diệu
đọc được!
Xuân
Diệu (tiếp theo)
Nhớ
lại, lần đầu tiên tôi đến
Xuân Diệu ở 24 Điện Biên là vào năm 1966. Cuối năm 1985 thì Xuân Diệu
qua đời.
Hai mươi năm quan hệ mật thiết với anh, tôi được tiếp chuyện anh không
biết bao
nhiêu lần. Đối với tôi, anh không dấu điều gì. Từ chuyện đời, chuyện
văn,
chuyện yêu ghét người này, người khác, chuyện ăn uống sao cho có sức
khoẻ và
sống lâu để viết, rồi chuyện kinh nghiệm viết với đủ ngón nghề cụ thể.
Cả
chuyện khôn khéo luồn lách nữa để có thể đối phó với đời... Anh đã cấp
cho tôi
biết bao tri thức và kinh nghiệm, và đã khuyến khích tôi rất nhiều. Anh
muốn
tôi hiểu thật rõ, thật kĩ về anh để viết thật tốt về anh. Và về phần
mình, tôi cũng
muốn như vậy.
Những
lần trò chuyện với anh,
nói chung, tôi đều có ghi lại. Giờ tôi muốn chép ra đây một ít, cố
truyền đạt
lại chính xác từ ý tứ tới giọng điệu của anh, mong muốn nhớ lại được
con người
cụ thể của anh, cá tính, tính cách cụ thể của anh. Nhân tiện, qua cái
cuộc trò
chuyện, cũng thấy được tâm lí xã hội cụ thể của giới cầm bút một thời
và không
khí lịch sử cụ thể của nền văn học ta mấy chục năm về trước.
Tối 8 –
6 – 1966, tại 24 Điện
Biên.
Tôi đề
cập đến Thơ mới.
Xuân
Diệu nói, không muốn nói
chuyện Thơ mới. Mệt – Ngại lắm.
Hãy dồn
tinh lực cho hiện
tại, làm thơ chống Mỹ. Nhưng rồi anh lại nói sôi nổi về Thơ mới.
Anh rất
tự hào vì người ta
vẫn chép thơ của anh. Đi bơm xe đạp, có một anh bơm cho rất kỹ, rồi gạ
chép Thơ
thơ. Năm 1954, gặp anh Lê Duẩn ở bến phà Ròn, Quảng Bình. Lê Duẩn nói:
“Thơ
trước cách mạng của anh, tôi mê, thơ sau cách mạng của anh tôi chưa mê”.
Xuân
Diệu cho vấn đề quyết
định là vấn đề trái tim . Chúng tôi chỉ cần trái tim. Trái tim là “chép
thơ”.
Có hai hệ thống tiếp nhận thơ mới: giảng officiel trong nhà trường và
việc chép
thơ của thanh niên. Một điều rất bực là ở trường phổ thông người ta cứ
cho lãng
mạn là xấu (Huy Cận có mặt lúc ấy, nói xen vào “quần chúng công nông
rộng rãi
hơn các nhà nghiên cứu”). Tố Hữu đã từng ngâm Vạn lý tình và Tương tư
chiều...
Thời gian sẽ ủng hộ những phần tích cực của Thơ mới. Ở Liên Xô, người
ta công
nhận cả ba nhà thơ: Blốc, Êxênhin và Maiakôpxki. Nhưng quan điểm của
ông anh
thứ hai (Trung Quốc) thì ghê quá! Tả còn hơn hữu, sợ quá! Nhưng mà
thôi, chả
cần bàn bạc làm gì, chỉ cần người ta chép thơ tôi. Còn thầy giáo, đánh
giá hay
dở, tốt xấu, học sinh nó không nghe đâu!
Xuân
Diệu rất ghét người ta
cho thơ tình của anh là truỵ lạc. Anh nói: “Mình thuốc lá cũng không
biết hút,
có thể nói là nhà quê”. Anh cũng rất ghét người ta cho anh là chịu ảnh
hưởng
symbolisme và André Gide. Anh nói: “Đây là sự bắt gặp chứ không phải
chịu ảnh
hưởng. Khi tôi làm thơ, tôi chưa đọc Gide, mãi đến khi ra Hà Nội, học
lycée mới
đọc”.
Xuân
Diệu cho khẳng định ý
nghĩa tích cực của sự ra đời của cái tôi cá nhân là đúng. Còn mâu thuẫn
giữa
cái tôi và cộng đồng là mãi mãi. Cần hiểu ý thức cá nhân khác với chủ
nghĩa cá
nhân.
Khi
Xuân Diệu xuất hiện, Thế
Lữ trở thành démodé, rồi người ta không đọc anh nữa. Cái mốt lên tiên
của Thế
Lữ là évasion nặng: Phải hiểu Xuân Diệu không phải tìm tòi về nghệ
thuật mà là
cố tìm cách nói cho chân thật, có khi lời thơ sống sượng, Tây quá. Lúc
đầu
người ta không thừa nhận là thơ, là có âm điệu, vì quen với cái du
dương Thế Lữ
rồi. Xuân Diệu muốn giao hoà với mọi người mà không được. Cô độc. Buồn.
Nhưng
không thoả hiệp. Muốn quẫy ra khỏi cái sầu, cưỡng lại cái sầu mà không
được.
Nhưng lòng yêu đời vẫn mạnh hơn cái buồn.
Anh
đồng ý với tôi: “Đúng là
thơ Xuân Diệu có cái mâu thuẫn: mùa xuân và tình yêu mâu thuẫn với
chiều thu và
đêm lạnh. Nhưng tuy không đi với quần chúng, mình vẫn ghét bọn giầu
sang và xã
hội kim tiền. Mình đi tìm lối thoát mà bế tắc. Nhưng nếu không cô đơn
thì thoả
hiệp, thoả mãn với xã hội sao!”
Bỗng
Xuân Diệu xoay ra nói
đến cái chết của Nguyễn Bính. “ Nguyễn Bính chết hồi Tết. Bất ngờ quá!
Có lẽ do
thiếu bồi dưỡng”. Anh tỏ ra rất lo lắng.
Tối 10
– 8 – 1966, tại 24
Điện Biên.
Xuân
Diệu nói về tiểu sử của
mình. Anh cũng nói nhiều về cái tôi cá nhân cá thể (individu) và về Thơ
mới.
“Đời
ông tôi ở trong tứ hộ
nổi tiếng hay chữ ở Hà Tĩnh. Bố tôi là một ông tú kép, có vợ, vào Bình
Định lấy
bà hai làm nước mắm ở Gò Bồi. Ông cụ học chữ Tây, đỗ primaire. Chỉ dạy
học,
không thích ra làm việc nhà nước và không thích phải luồn cúi. Có học
nghề
thuốc bắc.
Mình
học ở cha tính cần cù,
lòng thương người, không thèm khát vươn lên xã hội quyền quý.
1934 đỗ
diplôme. 1935 ra Hà
Nội học tú tài. Đỗ tú tài, học một năm luật. Năm 1941 thi tham tá đoan.
1943
thôi làm đoan. 1944 tham gia Việt Minh. Tuy có chân trong Tự lực văn
đoàn,
nhưng không tham gia tổ chức kinh tế với cánh Ngày nay. Rất yêu quốc
văn – Yêu
quốc văn là có bao hàm lòng yêu nước – vì tiếng Việt đương thời bị coi
là tiếng
vợ lẽ. Ở trường học hồi ấy có ba môn bị khinh bỉ: chữ Hán, tiếng Việt
và Vẽ.
Rất
thích làm thơ. Nhưng
không évasion như Thế Lữ (tiên), Hàn Mạc Tử (điên), Chế Lan Viên (ma),
Huy Cận
(siêu hình), Vũ Hoàng Chương (thuốc phiện), Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú
Thứ (kín
mít, cho chữ vào hũ, lắc rồi xếp ra).
Nói
Xuân Diệu là nói
individu. Phạm trù individu tư sản thoát khỏi ý thức hệ phong kiến là
một tiến
bộ, là dân chủ hơn so với tư tưởng trượng phu, quân tử. Tất nhiên đói
nghèo thì
không đòi hỏi ý thức cá nhân được. Khi cá nhân tách ra, tự riêng, tự
phân biệt
với đại gia đình phong kiến thì có vui nhưng cũng có buồn. Tự biết
mình, tự
phân biệt mình với người thì cảm thấy cô đơn. Ngày nay cũng thế thôi.
Nhưng
Xuân Diệu dừng lại ở đấy, không thoát ly và vẫn lạc quan yêu đời, tuy
cô độc.
Vì vẫn bám lấy cuộc đời, không thoát ly nên gặp cách mạng, theo cách
mạng và
làm thơ ngay.
Cái tôi
Thơ mới như con bướm
thoát xác. Lần đầu nó khám phá thiên nhiên bằng con mắt tươi mới, không
nhìn
bằng ước lệ nữa – Thế Lữ vẫn chưa thoát ước lệ.
Cơ sở
xã hội của Thơ mới là
tiểu tư sản, không phải tư sản.
Ông
Trường Chinh nói với hoạ
sĩ Lê Lam: “Đi qua sông Hồng, tôi nhớ bài Tràng Giang của Huy Cận. Ông
nói với
Huy Cận, khi làm bài Là thi sĩ, tuy có nói đến bài Cảm xúc của Xuân
Diệu, nhưng
không phải để đả Xuân Diệu mà để vận động giác ngộ một người lúc đó là
cai khố
đỏ. Anh này mê thơ lãng mạn. Có ba yếu tố tạo nên thơ Tố Hữu: Tố Hữu,
cách mạng
và Thơ mới. Tố Hữu chịu ảnh hưởng thơ Xuân Diệu rất rõ “Ôi cô đơn thấm
lạnh tâm
tình!”, “Xuân bước nhẹ trên cành non lá mới”...v.v...
Xuân
Diệu khi tìm thấy cái
tôi của mình thì đâm sợ, muốn thoát mình. Bài Viễn khách, Lời kỹ nữ là
thế. Kỹ
nữ là Xuân Diệu. Xuân Diệu tự đặt mình vào thân phận người bị dập vùi.
Người
con gái khổ mà không gào to như anh đàn ông, tuy ít bị tình phụ hơn mà
gào rất
to, như Musset.
Tình
yêu là cái tuyệt đích
nên không bao giờ thoả mãn. “Nous mettons l’infini dans l’ amour. Ce
n’est pas
la faute des femmes” Anatole France
nói thế. Vì thế nous souffrons. Đó là Xa cách, là Hi mã lạp sơn...
Thế Lữ
nói được cái buồn “Buồn
ơi xa vắng mênh mông là buồn”. Huy Thông thì romantique rất rõ: quay về
quá
khứ, về cái orient. Có hình ảnh cái lầu La mã, cái rèm La mã. Mấy câu
đầu của
Tiếng địch sông Ô, Con voi già... mở rất rộng, hay... Thơ Xuân Diệu cũ
mà mới.
Bài Viễn khách: “Đang lúc hoàng hôn xuống, là giờ viễn khách đi”, có
hơi hướng
câu thơ cổ “Đương quân hoài quy nhật, Thị thiếp đoạn trường thì”. Bài
Nhị hồ,
Vội vàng, Đây mùa thu tới cũng thế, vừa cổ vừa kim. Tả mùa thu mà không
hoàn
toàn tàn lụi. Mùa thu tropical, nhiệt đới. Baudelaire ca ngợi Phi Châu
nhiệt
đới. Mình ở vùng nhiệt đới sao không ca ngợi cây cỏ tropical của mình.
Còn cái
cô đúc của thơ Xuân Diệu thì bắt gặp Đường thi và Baudelaire, bắt gặp
Symbolisme.
Cái
quẫy của cá nhân thực ra
có từ Hồ Xuân Hương, Lâm Đại Ngọc, bắt đầu biết yêu theo kiểu cá nhân
(mình –
ta) nên buồn. Lâm Đại Ngọc chôn hoa tức là chôn mình. L’Isolement của
Lamartine, René của Chateaubriand là thế...
Hàn Mạc
Tử gắn với đời hơn
Chế Lan Viên. Chế Lan Viên không được độc giả chú ý lắm vì không nói gì
liên
quan đến họ.
Tình
yêu phải là một phạm trù
riêng. Không cứ phải nói tình yêu gắn với sản xuất, chiến đấu. Cứ nói
riêng nó
thôi cũng được, miễn là lành mạnh. Phải nâng tình yêu lên thành khái
niệm. Hiện
ta vẫn là giai cấp tự tại, tự nó, chưa có ý thức về tình yêu. Ta lấy vợ
mà chưa
yêu. Chung thuỷ là vĩ đại thật, song chưa có khái niệm về yêu thật sự.
Yêu thật
sự là mình với ta”.
Xuân
Diệu xoay ra nói kinh
nghiệm làm thơ.
“Làm
thơ không chỉ có ý là
được. Phải có xương thịt vật chất. Như cứ lấy giọng rê rê rê rồi bắt
gặp một
nét nhạc thật sự. Có khi vì tìm được một câu thơ, một điệu thơ nào đó
mà làm
thành cả một bài thơ. Khi nẩy ra một điệu nào đó thì nhất định phải làm
theo
cái điệu ấy. Y như yêu mà chỉ có khái niệm trừu tượng thì không phải là
yêu
thật. Phải trông thấy một người con gái, có cái mũi, cái tai như thế
nào đó rồi
mới hình thành tình yêu...”
Ngày 4
– 7 – 1967. 24 Điện
Biên
Xuân
Diệu nói say sưa về cái
anh gọi là “chiến thuật” nói chuyện với quần chúng sao cho hấp dẫn. Từ
bố trí
nơi nói chuyện, ánh sáng thế nào, cửa đóng cửa mở, đến xếp ghế ngồi, cự
ly mùa
hè, mừa rét... Và đối với người nghe thì phải làm cho họ không chán.
Anh nói:
Phải “chim” quần chúng. Họ mê rồi thì tha hồ kéo họ đi, đi Tây Bắc, Tây
Nguyên,
đâu cũng được.
Khi
trời tối, phải nói ngầm,
thì ví với vợ chồng ban đêm nói chuyện với nhau, vợ nói anh chồng thỉnh
thoảng
phải ờ ờ lên để chứng tỏ chưa ngủ, vẫn nghe. Khi nói một chập , quần
chúng tỏ
vẻ chán, thì lại hỏi: “Phành phạch trong lòng đã chán chưa?”. Khi nói
muộn quá
thì ví cái tình của người ngoài 40 tuổi như nắng quái chiều hôm còn
mạnh hơn
ban trưa, “vì yêu một cách truy lĩnh...”
Nhưng
mở đầu thế thôi, chủ
yếu vẫn nói về kinh nghiệm làm thơ. Anh nói có yếu tố vô hình trong đời
sống và
trong thơ: “Nhìn một người yêu cụ thể có mặt mũi, tóc tai, song khi yêu
thì cảm
thấy được một cái gì đấy khái quát và vô hình, thí dụ một tâm hồn trong
trẻo,
tươi mát. Nhà thơ có khi tả một buổi sáng mùa xuân, đi hái một bông
hoa. Nhưng
cái hữu hình đó lại cốt để diễn đạt cái vô hình: chẳng hạn cái cảm giác
thoải
mái tươi mát của tâm hồn...
Cái vô
hình còn là cái nhân
tố không thú nhận inavoué. Trên đời, có anh cứ nói loanh quanh mãi,
thực ra có
khi chỉ cốt đến để xin một bữa cơm. Cái inavoué có khi rất tầm thường,
có khi
rất cao cả. Giảng thơ phải biết cái inavoué, cái vô hình đó và căn cứ
vào cái
cái hữu hình mà phân tích ra.
Làm thơ
cốt cho hay, phải có
tài có sắc mới tồn tại được. Cần gì những thành kiến lung tung. Cốt
quần chúng
đọc thơ, cốt hai trẻ yêu nhau, còn cô, dì, chú, bác nói ra nói vào thì
cần gì!
Nghiên
cứu Xuân Diệu, phải
nghiên cứu yếu tố thời gian. Xuân Diệu luôn luôn băn khoăn về thời
gian. Yêu
cuộc sống, tất băn khăn về thời gian. Con người sinh ra từ thời gian.
Mà thời
gian có không gian của nó. Tính toán, cân nhắc điều gì, Xuân Diệu đều
nghĩ đến
cái chết. Sợ chết thì phải làm thơ cho nhanh. Mẹ tôi mất, mẹ Huy Cận
mất. Các
bà ấy từng có lúc sống thật trên đời không nhỉ? Nếu không tập hợp, giữ
gìn di
vật còn lại thì có thể là chưa bao giờ từng sống.
Trong
đời người ta có những
phút giao cảm – gọi là giao cảm mới thật đầy đủ, đầy đủ hơn là nói yêu.
Có khi
giao hợp, hôn nhau mà không giao cảm. Có những lúc giao cảm thế mà sau
thôi
không yêu nữa. Là vợ chồng rồi có khi mất cái phút ấy, thậm chí không
lấy nhau,
có khi trông thấy nhau cứ lạnh như tiền. Lạ lắm ! Tình yêu muốn vô biên
song
cuộc đời, lòng người nó hữu hạn. Và chết là hết cả. Như là cái tangente
giữa
plus infini và moins infini. Đó là nói tình yêu bách niên giai lão. Có
nhiều
khi thay đổi người yêu. Vậy thì phải hồi tưởng lại cái phút giao cảm
ấy. Vợ
chồng sở dĩ gắn bó với nhau là do họ nhớ lại những phút giao cảm của
tâm hồn
ngày xưa. Kỷ niệm do đó rất quan trọng trong đời sống tinh thần. Hiện
nay,
nhiều khi người ta sống chỉ để ăn uống thôi, họ không có đời sống tinh
thần.
Tôi làm thơ để đem đến cho họ cái khoái lạc tinh thần.
Thơ
tình của tôi luôn là sự
hồi tưởng lại cái phút giao cảm ấy, trong thời điểm ấy, ngày ấy, buổi
chiều ấy,
con đường ấy, cái chỗ cong cong ấy ta đã ngồi bên nhau (không gian có
tính thời
gian). Bây giờ đi qua một mình, muốn dựng bia kỉ niệm ở chỗ ấy của cái
tình đôi
ta.
Pháp có
ba bài thơ nói về kỉ
niệm cũng nói đến cái không gian rất cụ thể:
Tristesse
d’ Olympio (V.
Hugo)
Le
premier regret (Lamartine)
Premier
souvernir (Musset)
Có lúc
mình muốn để dành
tiền, nhưng nghĩ lúc chết thì có ý nghĩa gì. Có lúc muốn ăn thêm một
miếng
thịt, nhưng ăn thêm rồi cũng chết. Để miếng thịt ấy cho đứa em ở xa,
gọi về cho
nó ăn.
Tôi
định lúc sắp chết sẽ viết
tất cả những mémoires xấu của mình, những cái tầm thường của mình. Hiện
nay
người ta ít viết về cái đó.
Làm
thơ, mỗi bài thơ nó có
cái vị riêng của nó như thịt bò thì phải làm món ấy, cái đó phải cho
vào nước
chấm thịt vịt chứ cho vào nước chấm thịt gà thì hỏng. Cho nên có tứ thơ
nghĩ ra
mà phải để dành đó đến lúc làm bài thơ đúng món mới đưa vào được”.
Ngày 1-
12- 1981, 24 Điện
Biên
Tôi đến
thăm Xuân Diệu, anh
mừng lắm: “Tưởng Mạnh giận mình không đến nữa. Hôm ấy mình nóng, nói
sẵng.
Tưởng Mạnh giận”.
Thì ra
anh hối hận vì bữa ấy
tôi đến mời anh tới dự một cuộc hội thảo về giảng thơ Hồ Chủ Tịch (anh
Hoàng
Dung tổ chức, nhờ tôi đến mời Xuân Diệu), anh đã trả lời một cách thẳng
thắn và
gay gắt: “Còn có gì mà nói nữa về thơ Cụ Hồ? Mình không đi đâu! Bây giờ
mà còn
bình với giảng về thơ Cụ Hồ là nhảm nhí! nhảm nhí!”
Giờ thì
anh rất niềm nở tiếp
tôi.
Lần này
anh nói nhiều về sự
hình thành hồn thơ anh.
“Ông bố
tôi sớm giác ngộ tân
học. Ông tự học tiếng Pháp. Mua từ điển học, ông còn tự học làm thuốc
nữa. Sau
ông xin được một chân dạy chứ Hán ở Collège Quy Nhơn, lương 18 đồng.
Một loại
chargé de cours thôi. Mình học bố đến hết cấp I, đỗ Certificat còn
thiếu một
tuổi, phải học lại. Sau lên học collège. Đỗ diplôme năm 1934. Đúng lúc
khủng
hoảng kinh tế. Định đi thi làm thừa phái nhưng không có điều kiện. May
sao được
gọi ra Bắc kỳ học trường Bưởi.
Biết Hà
Nội. Biết Bắc Kỳ.
Thấy được mùa thu và cái lạnh Hà Nội. Rất thích, rất mê thiên nhiên Bắc
kỳ.
Mình dường như được bừng tỉnh trước vẻ đẹp của đất trời, sững sờ trước
những
cành đào nở hoa ở chùa Sinh Từ... Theo tôi romantisme chỉ có thể phát
sinh,
phát triển ở Bắc kỳ với tác động của thiên nhiên bốn mùa phong phú.
Hoa, hoa
rất đẹp. Trại hoa Thuỵ Khuê, gần Bưởi. Mùa thu Hà Nội tuyệt đẹp, lạnh
hơn bây
giờ. Trời trong, cao, nắng vàng... Thiên nhiên Bắc kỳ, hoa Bắc kỳ đã đẻ
ra văn
Khái Hưng, Nhất Linh và thơ Thế Lữ.
Thiên
nhiên đi vào thơ tôi,
có cảnh mùa thu, mùa đông, mùa xuân của Bắc kỳ. Còn mùa hạ thì có trăng
và biển
Quy Nhơn. Gió nồm Quy Nhơn có một cái gì rất sắc dục, rất charnel.
Mình
học hết 2 ème secondaire
thì Huế mở ban tú tài. Bèn vào học 2ème secondaire ở Huế. Thế là lại
biết Huế.
Mình ra Hà Nội đúng vào cái tuổi l’âge de puberté, thấy có một cái gì
rất sắc
dục trong thiên nhiên và ở con người. Huế cũng rất đẹp, cũng rất tình.
Đặc biệt
có cái lassif sắc dục rất Huế, nhưng kín hơn. Giọng hò Huế mê ly...
Năm
1940 mình thi tham tá
đoan và vào làm việc ở Mỹ Tho. 1943 Huy Cận đỗ kỹ sư canh nông, mình
xin thôi
việc ra Hà Nội, học luật, ở với Huy Cận ở 61 Hàng Bông. Phong trào Việt
Minh
phát triển. Huy Cận gặp Nguyễn Thành Lê. Lê đưa Huy Cận vào Đảng Dân
Chủ (Dương
Đức Hiền lãnh đạo). Đảo chính Nhật. Huy Cận gặp Dương Đức Hiền ở Hà
Đông, được
đưa lên chiến khu hoạt động cách mạng chuyên nghiệp. Khoảng 17- 8 gì đó
mình
vào Hà Tĩnh lo thu xếp hai bên gia đình (của mình và Huy Cận) để Huy
Cận yên
tâm đi chiến khu – nếu cách mạng không thành công thì có thể phải đi xa
(sang
Tầu chẳng hạn). Ngày 20 – 8, mình trở ra Hà Nội giữa cảnh cờ đỏ sao
vàng bay
trên các mái nhà...
Mình
lúc đầu ở đảng Dân chủ
và tham gia quốc hội. Huy Cận làm bộ trưởng. Lúc ấy mình không ưa
Nguyễn Tuân
và Nguyễn Tuân cũng không thích mình. Anh ấy vẫn khăn xếp, áo gấm, rất
chướng.
In Nguyễn, đề “Kính tặng Tôi”. Mình viết bài trên Tiên phong (kí tên
Triều Mai)
chế giễu: Nguyễn Tuân tự đặt mình lên bàn thờ rồi sì sụp lễ bái mình.
Kể cũng
hơi hẹp hòi. Mình còn viết bài phê phán Nguyễn Hải Thần là đứa con đi
xa về
chửi mẹ nó, không nhận mẹ nó. Rồi làm thơ đả bọn Quốc dân đảng. Khi bọn
Quốc
dân đảng tổ chức biểu tình “tổng đình công” chống tổng tuyển cử, mình
dắt cái
xe đạp Hirondelle đi ở phía sau. Mình bảo đồng bào đừng đi theo bọn
phản động.
Chúng nó thấy thế định bắt mình, mình vội bỏ xe đạp lẩn đi. Sau có
người đem xe
đạp trả cho. Mình còn bảo đồng bào tập trung ở Bắc Bộ phủ để hoan
nghênh chính
phủ lâm thời. Mình lúc ấy chỉ là Việt Minh, ở Văn hoá cứu quốc, chẳng
phải đảng
viên. Cứ tự động, tự phát thế thôi”.
Rồi
mình làm bài Ngọn quốc
kì, ca ngợi cờ đỏ sao vàng. Nguyễn Huy Tưởng ở văn hoá cứu quốc (đóng ở
trụ sở
Hội khai trí tiến đức, nay là Cục Hàng không) commăng làm để đối lại
với bọn
phản động tung ra đủ thứ cờ táp nham: sao trắng, ba gạch...
Có
người cho mình là cơ hội
chủ nghĩa. Báo Thiết thực của Quốc dân Đảng (cánh Ngày nay) vẽ hình chế
giễu:
Cụ Hồ đứng như con cò câu cá ở suối. Xa xa, Huy Cận tắm. Còn mình là
con chim
đầu xù ngồi trên cây hót. Mình lấy làm tự hào về bức tranh này.
“Năm
1946, mình ở trong một
đoàn văn nghệ đi vào Buôn Ma Thiêng, Củng Sơn, đi sau đoàn Nguyễn Tuân.
Trở ra
Thanh Hoá, lúc Hồ Chủ Tịch đang ở đó. Bác định lập một chiến khu ở
Thanh Hoá.
Bác ở một cái nhà Xéc (câu lạc bộ) gì đó. Hôm sau bọn Pháp bắn súng vào
cái nhà
ấy. Hôm trước Bác nói chuyện với đồng bào. Người ta chen nhau xem Hồ
Chủ Tịch,
có người bị gẫy tay mà vẫn phấn khởi.
“Huy
Cận thì theo chính phủ
đi Hà Đông. Mặt trận Trúc Sơn vỡ, lại đi Sơn Tây rồi lên Việt Bắc, ở
Bắc Cạn
thì phải. Mình cũng đi Bắc Cạn. Nó nhẩy dù Bắc Cạn. Mình về Đại Từ. Rồi
đi Phú
Thọ, qua Bắc Giang, từng ở chỗ Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố. Nhưng sau lên
ATK làm
đài phát thanh, trong khi Tố Hữu, Nam Cao làm báo Cứu quốc”.
Nói đến
đấy, Xuân Diệu dừng
lại uống nước. Anh nghỉ hơi một lúc. Tôi nhân đấy gợi ý anh chuyển
hướng sang
nói về thơ của anh.
Nói
chuyện thơ, anh càng tỏ
ra sôi nổi hơn:
“ Huy
Cận là xúc giác
Xuân
Diệu là mũi: khứu giác:
“Hoa bưởi thơm rồi đêm đã khuya” – Mình học Baudelaire.
Chế Lan
Viên không có da,
không có mũi.
Bài
“Mông lung” rất Xuân
Diệu. Có cái không thể xác định rõ ràng là linh hồn hay xác thịt. Đằng
sau linh
hồn là cái nền xác thịt, sắc dục. Hít thở xác thịt của vũ trụ, cảm thấy
mùi da
thịt của..., không biết của ai, song rõ ràng là cảm thấy cái mùi vật
chất da
thịt của những Dương Quý Phi, của những người đẹp tự thuở nào. Hương da
thịt
tẩm trong vũ trụ. Và nhớ, không biết nhớ ai, nhưng nhớ da diết. Thơ
Xuân Diệu
cảm và diễn tả được cái không rõ mà rất rõ, cái nửa linh hồn, nửa xác
thịt, dâm
mà trong sạch, trong sáng. Nó là cái rạo rực, cái uể oải của Huế, cái
hồng hào
của Hà Nội, cái charnel trong gió nồm, trong gió biển Quy Nhơn...
Thơ
Xuân Diệu tả rất giỏi cái
nước đôi:
Mưa
trưa và chiều tà
Suy và
thịnh
Lặng lẽ
và động.
Có một
cái gì đấy mà Thế Lữ
không cảm nhận được. Chỉ Xuân Diệu, Huy Cận mới có cái antenne ấy để
bắt được
những sợi giây vô hình của thiên nhiên. Thơ Xuân Diệu là vũ trụ sắc
dục,
charnel. Là cái mê ly, là tạo atmosphère chỉ bằng vài câu, vài chữ.
Thơ
Xuân Diệu mở đầu đột phá
ngay, ào ra ngay. Nhiều vần sắc. Mãnh liệt. Đột xuất. Ào ào.
Bài
Xuân không mùa. Sentir
được phong cảnh. Ngồi ở hồ Tĩnh Tâm, Huế. Có âm vang của Huế, đẹp, kín,
không
sắc dục lộ liễu như thơ làm ở Hà Nội.
Mình có
một bài inédit nói về
vũ trụ là xác thịt: thịt là hoa hồng, máu là hoa nhài, xương – liễu,
mày – lau,
mắt – hồ.
Thế
đấy, thơ Xuân Diệu là
thế. Frisson da thịt, sensation, antenne cảm nhận vũ trụ da thịt, hít
thở da
thịt thiên nhiên. Thơ có mũi.
Anh
ngừng nói, và bỗng chuyển
sang phàn nàn về đời sống. Hôm ấy là mồng một tháng chạp năm 1981. Ôi
những năm
80 của thế kỉ trước! Đời sống quá khổ cực. Mà Xuân Diệu thì quan niệm
cuộc đời
rất cụ thể: Đối với anh, cuộc đời là bán một cuốn sách cũ cho đồng nát,
phải
giữ lại cái bìa cứng và mấy trang giấy trắng; là ăn món gì phải tính
toán vừa
bổ vừa rẻ, là thịt chó, thịt lẫn xương 4 đồng rưỡi một lạng, thịt nầm 6
đồng
một lạng; là ngồi nói chuyện thơ mà vẫn phải chú ý theo dõi con gà mái
đẻ. Nó
có tật ăn trứng. Thành ra nó đẻ, nhà thơ phải nhanh tay vồ lấy...
Vì thế
anh rất bực bội: “Xã
hội bây giờ cứ bắt người ta làm thiên thần, nên giờ người ta làm con
vật. Bắt
làm ange mãi, giờ người ta làm bête. Cách mạng chỉ tạo ra vinh quang
thôi ư?
Phải ăn nữa chứ! Vinh quang trong đói khát mãi sao!”.
Xuân
Diệu (tiếp theo)
(Tiếp
theo)
Ba giờ
chiều, ngày 12 – 12 –
1981, 24 Điện Biên
Trời
rét. Khô ráo. Cổng ngoài
nhà anh (và Huy Cận) dạo này có thêm liếp che bên trong song sắt cho
kín đáo
hơn. Chỉ khoét một lỗ vuông. Cửa sổ phía trước thấy đóng. Tưởng Xuân
Diệu không
có nhà, tôi bỏ đi, nhưng tính toán thế nào lại quay lại và cứ đẩy cửa
vào. Cửa
sổ phía đông mở, nhìn vào thấy cửa buồng không khép, biết có người ở
nhà.
Tôi vào
phòng, thấy Xuân Diệu
đang nằm ngủ, đắp chiếc chăn len hoa. Tôi cảm thấy phiền, muốn quay ra.
Hà Vũ
gọi. Xuân Diệu trả lời, giọng hơi gắt: “Cái gì thế? Ai thế?”. Sau thấy
tôi, anh
vội mời vào.
Tôi
nói: “Chết, anh đang ngủ,
tôi không biết”
Anh
nói: “Không sao, chả mấy
khi Mạnh đến”
Có lẽ
anh nghĩ, từ ngày anh
đi Paris về, bây giờ tôi mới đến, phải
có chút
gì của Paris
để
đãi tôi. Anh cho ăn phomát, uống rượu vang đỏ, hút thuốc lá Mỹ, lại cà
phê nữa.
Anh
phàn nàn: “Cuộc sống giờ
khổ cực quá. Xã hội bây giờ như nhà không có chủ” – Anh lè lưỡi, nhắm
mắt, lại
lè lưỡi – Sợ quá!”
Anh
khoe tập giấy ghi lời cảm
ơn của những nơi anh vừa làm việc ở Pháp, và đưa tôi xem bản chương
trình làm
việc ở Paris
7,
Sorbonne, Nice và một tờ báo Đoàn kết của Việt kiều.
Anh nói
có một người đàn bà
Pháp ở Alger tên là Francoise Roger tập thơ Xuân Diệu như là tập Kiều.
Đàn bà
Pháp mà rất giỏi tiếng Việt. Bà ta lấy một người Brasil. Bà ta cóp nhặt
bốn câu
thơ Xuân Diệu ở bốn bài thơ khác nhau, rồi ghép lại thành một bài tứ
tuyệt. Và
vận dụng thơ Xuân Diệu vào cuộc sống. Thí dụ: chạy vội theo tầu điện:
“Mau với
chứ, vội vàng lên với chứ!”. Bà ta theo hồi giáo, hôm nay ăn thịt, ngày
mai ăn
chay: “Anh ơi anh, em rất sợ ngày mai”... Francoise Roger coi thơ tình
Xuân
Diệu hay hơn cả thơ tình Musset.
Anh chê
tập tiểu luận của Lê
Đình Kỵ viết về Tố Hữu: “Huy Cận đọc cho biết chứ tôi chưa đọc. Khen Tố
Hữu thì
cứ khen, việc gì phải chê Thơ mới. Làm gì mà phải hạ nhân cách. Hàn Tín
luồn
khố để làm đại tướng, để làm vương sau này. Lê Đình Kỵ buồn khố để nó
cho vào
Sài Gòn gần vợ à? Hay nó không in sách cho? Anh Lý hải Châu rất tốt .
Anh ấy
bảo Trương Chính, trong bài giới thiệu Tuyển tập Hoài Thanh, đã tán
thành Hoài
Thanh phê phán Thơ mới. Anh ấy cắt bỏ đi. Tôi bảo anh Châu, sao anh
không cứ để
nguyên như thế. Anh làm thế là anh cứu Trương Chính đấy chứ! Thơ mới
không cần
thế đâu. Tôi chả dại đi bênh Thơ mới làm gì, nhưng mà tôi cứ đi bình
những bài
Thơ mới hay!
Rồi anh
nói tiếp vẻ bực bội:
“Ta cứ có cái lối bế quan toả cảng, không cho ai đi ra nước ngoài. Như
đứa trẻ
cứ bịt mãi, che mãi, da thịt nó vẫn cứ lòi ra. Tôi còn đánh du kích
Khổng Tử
nhiều. Không biết nếu chỉ có nước mình mà không có các nước khác thì ra
sao?
Nguy thật! Không qua tư bản chủ nghĩa, thiệt nhiều quá! Không cho nói
yêu, nói
hoa lá thì đợi đến thế giới đại đồng mới nói à? Thế trước cách mạng
tháng Tám,
ai nói yêu, nói hoa lá đều là sai cả à? Là cản trở cách mạng à?”
Tôi cứ
cặm cụi chép mấy bản
nháp thơ của anh thời Thơ mới, anh nói: “Mạnh hãy tạm xếp cái này lại
để viết
bài văn xuôi cho Tuyển tập Xuân Diệu đã. Mà phải vay tiền Tuyển tập
Nguyễn Tuân
đi mà bồi dưỡng để viết - lấy ngắn nuôi dài”.
Rồi anh
xoay ra nói về lớp
thơ trẻ: “Bọn làm thơ trẻ bây giờ ngu dốt quá! Nó như cái ôtô lên giây
cót. Hết
giây cót là không chạy được nữa. Như những cô gái tuổi dậy thì, ra vẻ
lắm, oai
lắm – anh khuỳnh tay, vênh mặt, làm bộ kiêu ngạo - đến lúc có chồng, có
con là
thôi hết”.
Trưa
ngày thứ sáu 25- 12 –
1981, 24 Điện Biên
Tôi đến
Xuân Diệu để báo hoãn
cuộc gặp mặt với anh vào sáng thứ bẩy 26 – 12. Cổng ngoài đóng. Nghe
tiếng, anh
chạy ra. Không có việc gì phải vào, sợ mở khoá lôi thôi, tôi nói với
anh một
câu rồi từ biệt. Anh thò tay qua lỗ vuông khoét vào cái phên nứa che
ngoài chấn
song cửa, bắt tay tôi. Anh nói: Ca dao Khu Năm có câu:
Thương
em, anh đút cái ấy qua
rào,
Đút qua
đút lại gai nó cào
rách da
Nói
xong anh cười ha hả.
Chủ
nhật, ngày 31 - 1 – 1982,
24 Điện Biên.
Tôi đến
khoảng 4 giờ chiều.
Xuân Diệu đang làm việc ngoài sân sát cửa sổ, trông ra cổng, dưới bóng
hoàng
lan. Bàn ghế làm việc bằng trúc.
Như mọi
lần, anh tiếp tôi vồn
vã. Tôi nói: “Anh đang làm việc, bận”. Anh gạt đi: “Làm việc thì bao
giờ mình
chả làm việc”.
Tôi vào
nhà. Huy Cận đang nói
chuyện điện thoại ở phòng ngoài, một lúc vào nói chuyện vụ đắm tàu chết
người ở
Quảng Ninh. Vớt xác khó khăn. Người ta vớt đồ đạc, quần áo, hành lý chứ
không
vớt người: “Mình quá tin ở tư tưởng thì thành thế đấy. Mình là Mácxít,
coi ý
thức do tồn tại quyết định, vậy mà lại duy tâm. Duy tâm nên bây giờ
chịu hậu
quả, quy luật nó quật lại. Nhưng thôi không nói chuyện buồn làm gì. Ta
nói
chuyện khác”.
Huy Cận
đọc cho tôi nghe hai
bài thơ anh mới làm.
Xuân
Diệu giục tôi viết bài
về văn xuôi của anh. Anh nói: “Mệt quá! Viết khó lắm!, mệt lắm! Nhưng
phải cố
gắng thôi. Thời gian! Mình 67 tuổi rồi! Trong ta có vàng, nhưng không
viết thì
vàng cũng không có thể khai thác được”.
Anh lại
nói kinh nghiệm rất
cụ thể: “Viết mỗi trang phải chừa lề rộng. Viết một mặt giấy thôi. Chừa
lại một
nửa để sau bổ sung. Không phải cứ viết tuần tự từ đầu đến cuối. Cứ viết
từng
đoạn rồi lắp ráp, như chuyện cây tre trăm đốt. Có khi cứ viết bừa đi
rồi chế
biến sau. Đánh thọc sâu vào hầm Đờ Cát. Một mũi thọc sâu, bắt lấy Đờ
Cát đã,
rồi quay ra giải quyết bọn còn lại không khó gì lắm”.
Anh mời
tôi uống hai ba thứ
rượu vang của Pháp, Hung, Bungari. và hút thuốc lá ngoại.
Anh
phàn nàn có nhiều việc
không đáng phải làm mà cứ phải làm, mất bao nhiêu thì giờ – những việc
linh
tinh về sinh hoạt.
Anh lại
nhắc tôi phải ăn uống
cho tốt. Và động viên: “Chúng mình còn được người ta giao việc cho mà
làm, thế
là còn hơn nhiều người không có việc gì mà làm”.
Anh chê
cuốn sách của tôi
viết về thơ Hồ Chủ Tịch, bữa trước tặng anh: “Bám vào Sóng Hồng nhiều
quá và sao
cứ phải gò thơ Bác vào hiện thực xã hội chủ nghĩa làm gì! Thế chỉ hiện
thực xã
hội chủ nghĩa mới có giá trị sao? Đã đến lúc ai cũng phải lột trần
truồng cả ra
mà xem xét bình đẳng như nhau”.
Không
hiểu sao câu chuyện lại
xoay sang Chế Lan Viên lúc nào không biết. Anh nói: “ Nhà văn có tri
thức, có
văn hoá cao là Nguyễn Đình Thi và Huy Cận. Chế Lan Viên chỉ tài chế
biến ngay
những sách vở đọc được, dùng trí thông minh mà vận dụng ngay. Chỉ có
ngọn, chưa
có gốc, có nền. Cứ phân tích, xé chẻ ra, thiếu tổng hợp. Chỉ có cái gì
là tổng
hợp mới còn lại lâu dài.
Lối
viết của Chế Lan Viên là
phải dựa, phải tựa vào một cái gì đối lập, phải phê phán, đả kích nó
thì mới
đưa ra cái chính diện. Không có cái gì để mà đả thì không viết nổi.”
Anh tán
thành ý kiến của tôi
là cần biết thật tỉ mỉ về tiểu sử của anh. Và anh bắt đầu thuật kể. Anh
nói, bà
má của anh đã có một đời chồng trước khi lấy ông thân sinh anh. Bà là
người
không chịu khó làm ăn. Khi anh lên hai tuổi thì bà cả vào. Bà cả (anh
gọi là mẹ
già) chịu khó làm ăn tần tảo. Má anh không ở được, phải đưa anh về với
bà ngoại
ở Gò Bồi. Năm anh sáu, bẩy tuổi gì đó, bố anh đưa anh về Quy Nhơn ở với
ông và
bà cả “cho khỏi hư hỏng”. Anh phải xa má từ đó. Má anh sau tập kết ra
Bắc ở với
anh. Bà mất năm 1966. Bà cả sinh con trai. Nó kém tuổi anh nhưng anh
vẫn phải
gọi nó là anh. Thằng “anh” nhỏ này hơi một tý là mách mẹ nó. Nó còn
đánh anh
nữa. Hồi sang Pháp, phát biểu ở Paris
7, anh nói: “Nhờ bị thằng em (thằng “anh” nhỏ) đánh mà tôi biết thông
cảm với
những người bị áp bức”. Anh còn phải xách giỏ đi chợ, rất sợ gặp bọn
bạn học,
nhất là con gái, con những ông Ký, ông Phán. Nhiều khi phải nép vào
hàng rào,
chui vào bụi cây, nhưng không tránh thoát.
Cách
mạng tháng Tám, Xuân
Diệu được đưa vào Quốc hội. Tháng 5 – 1946, được cử vào phái đoàn Phạm
Văn Đồng
- đi Paris (hội nghị Fontainebleau) kháng chiến toàn quốc, anh lên Việt
Bắc,
vào Ban chấp hành Hội văn nghệ. Anh tự thấy có một cuộc thức tỉnh về
quần
chúng. Anh nói: “Bài Bầm ơi! của Tố Hữu ảnh hưởng lớn tới hướng đi về
thơ của
mình. Bài Bầm ơi! là một sự phát hiện về nhân dân, được viết một cách
nhuần
nhị. Một sự chuyển hướng về tình cảm và về ngôn ngữ thơ. Rồi mình đi
nói
chuyện. Cũng là một cách quần chúng hoá, vì phải nói sao cho quần chúng
hiểu.
Rồi tham gia phát động quần chúng giảm tô ở làng Còng, Vĩnh Lộc, Thanh
Hoá và
làm thơ về bần cố nông”.
Sau
cách mạng tháng Tám, Xuân
Diệu sáng tác nhiều. Riêng thơ tình của anh, tính cho đến lúc này là
450 bài,
cộng với các loại thơ khác, phải ngót 1000 bài. Anh nói: “Nếu cần chọn
một bài
tâm đắc nhất, mình chọn bài Biển. Hình ảnh biển từ nhỏ đã đi vào mình.
Biển đau
thương, bể khổ trong thơ ca truyền thống và thơ Xuân Diệu. Vậy mà nay
biển vui,
đầy sức sống. Cách mạng và cuộc đời đã đem lại cho mình một tâm hồn
tươi mới”.
Xuân
Diệu nói tiếp về những
nhân tố tạo nên hồn thơ anh: “Có lý do năng khiếu bẩm sinh. Có lý do ở
sức yêu
mến cuộc đời. Sống hết mình, toàn thân, toàn trí, toàn tâm, toàn giác
quan.
Mình cảm thụ đời rất cụ thể, bằng cả xương thịt, da, mũi, mắt, tai và
hồn. Mình
nói chuyện, điệu bộ, nét mặt nhăn nhó buồn cười lắm, chụp ảnh mới biết.
Nghĩa
là rất cụ thể. Cả con người nói. Toàn thân tham gia vào câu văn, không
phải chỉ
có ý mà cả luồng cảm xúc tràn vào bài văn. Cho nên sáng tác là sống cao
độ nhất
cá nhân mình. Vì thế mình ham sáng tác nhất, dành nhiều thì giờ cho
sáng tác.
Còn có
lý do cần cù học tập
nữa. Mình như là bà già, cái gì cũng nhặt nhạnh, tích luỹ. Đứa cháu đi
đâu về
kêu đói, bà đã có ngay cái cho cháu ăn rồi.
Do viết
thư nhiều, tự phân
tích mình, dần dần mình viết được văn xuôi.
Do nói
chuyện nhiều, phải lập
luận, phải thuyết phục, phải làm cho người ta đồng cảm, mình viết được
phê bình
văn học.
Xuân
Diệu tự cho là mình dại
– dại mà lại thành khôn. Anh nói: “Do yêu cuộc sống nên tôi dại. Dại mà
khôn.
Nghĩa là được sống có ích cho đời, cho mình, được sống đầy đủ từng
giây, từng
phút của mình. Tôi ít đi tán chuyện, tán chuyện rồi nói xấu người này,
người
khác. Mình cũng chẳng cao đạo gì. Để thì giờ đọc và viết”.
Anh
phàn nàn: “Cuộc sống của
ta chật hẹp, gò bó quá! Con người ta bao giờ cũng sống một cách toàn
diện, họ
vẫn phải ăn, ngủ, giao hợp. Mình thu hẹp thơ tình yêu lại thì người ta
sẽ chỉ
có giao hợp, giao hợp, giao hợp mà không có tinh thần nữa. Không có
tình yêu
giữa hai con người thì chỉ còn là quan hệ giữa hai con vật”.
Thấy
trời đã xâm xẩm, tuy
muốn tiếp tục nói nữa, nhưng thông cảm với tôi đi đường xa, anh giục
tôi về kẻo
muộn.
Ngày 14
– 2 – 1982, 24 Điện
Biên
Trong
lần gặp này, Xuân Diệu
nói nhiều chuyện rất tỉ mỉ về thời thơ ấu, thời học sinh của anh.
Anh
nói: “Về tuổi thơ ấu, tôi
chỉ mới nói một chút. Cần lắm. Phong phú lắm. Tôi chưa viết hồi kí. Rất
cần tự
mình phân tích những kỉ niệm tuổi thơ, rất có ích cho những thế hệ sau.
Người
ta sống hời hợt lắm, không sống sâu bản thân mình, sống không có ý thức
gì. Ta
chỉ lo giáo dục tư tưởng. Tư tưởng là lí trí thôi. Phải giáo dục tâm
hồn, giáo
dục tinh thần nhân văn, nhân bản, humain. Tại sao chỉ nói bình thường
mà vĩ đại
mới quý, bình thường mà sâu cũng quý chứ! Tôi mà chỉ được giáo dục về
tư tưởng
thì tôi sẽ là anh hùng, không phải là Xuân Diệu, nhà thơ nữa.
Thời
thơ ấu của tôi có biết
bao nhiêu chuyện nó luyện cho cái vốn nhân đạo, vốn yêu đời, yêu người,
yêu hoa
lá, biển, thiên nhiên...
Thuở bé
tôi hiền lắm, chả bao
giờ dám vùng lên. Cứ bị cái thằng anh kém hai tuổi nó bắt nạt mà chịu.
Tôi có
thằng em ruột rất khổ, tôi đã viết trong Phấn thông vàng. Nó lêu lổng,
vagabond, bỏ nhà đi lang thang. Có một hồi đi phu ở Tây Nguyên. Giờ nó
làm báo
ở Sài Gòn. Nó viết hồi ký. Giá Mạnh đọc được thì tốt lắm, hiểu thêm
thời thơ ấu
của tôi. Nó sống lang thang, rách rưới như ăn mày, nay gọi là “bụi
đời”. Nó đặt
tên tập hồi ký là “Gió cuốn bụi đời”, ngờ đâu lại thành đúng nghĩa bụi
đời ta
vẫn dùng ngày nay.
Lúc nhỏ
tôi ở với má ở Gò Bồi
là chỗ làm nước mắm, trại làm nước mắm của bà ngoại tôi. Sau ở với bố ở
Văn
Quang, cách Gò Bồi độ 10 cây số. Thỉnh thoảng tôi có về bà ngoại. Tôi
nhớ dì
Bốn. Dì ấy thương tôi lắm. Trông thấy dì ấy chắp nối những vụn nhiễu
làm cái
gối mà tôi thấy phong phú màu sắc quá, rất thích.
Về sau
khoảng 1939, tôi và
Huy Cận có đến nhà anh Nguyễn Xuân Khoát bói bài Tây. Anh Khoát bói cho
tôi,
nói số tôi luôn có “protection des femmes” (được phụ nữ bảo hộ, bảo
trợ) . Giờ
tôi muốn tán phụ nữ, nịnh phụ nữ, tôi cứ nói số tôi có “protection des
femmes”
.
Vì thế
tôi được dì Bốn
thương. Lúc dì ấy đi làm giúp cho mợ Mười tôi, xuống đò qua sông, tôi
cứ khóc
gọi theo: “Dì đừng bỏ cháu đi lấy chồng!” Thực ra có phải dì ấy đi lấy
chồng
đâu.
Tôi có
một bà mợ, mợ Năm gì
đấy cũng rất khổ. Một buổi nhà có khách, mợ Năm ra ngoài uống nước hay
ăn gì
đó, thế mà bị cậu Năm mắng đuổi vào. Mợ ấy buồn vì bị mọi người hắt
hủi. Một mợ
khác đẻ non rồi chết. Người ta nói tại mợ ấy trông thấy một cái hoa
chuối có
trái nhưng cây lại chết nên không thành được buồng chuối. Mợ ấy đẻ non
và chết
là vì thế.
Những
người phụ nữ ấy gây ra
ở tôi ấn tượng rất tội về nỗi khổ của người đàn bà. Người đàn bà Việt Nam
thời trước
khổ lắm. Cái gương mặt của họ nhìn thấy khó, thấy tối thế nào. Sau ngày
giải
phóng, tôi có về Plâycu, dì Bốn tôi ở đó. Tôi có làm bài thơ về dì Bốn
in trong
Hồn tôi đôi cánh. Tôi định làm một bài về mợ Năm, nhưng chưa làm xong.
Học
xong cấp I, tôi lên Quy
Nhơn học, ở nhà chú tôi. Chú tôi làm thư kí đoan, thuê nhà ông Chín
Cược. Ông
Chín Cược giầu lắm. Nhà có vườn rộng. Có cái giếng rất sâu. Có trồng
thựơc
dược, hoa to, cánh xoà - “Vàng tươi, thược dược cánh hơi xoà”. Có hoa
nhài bờ
giếng. Đêm trăng hoa nhài rất đẹp và thơm. Tôi như sống với những bông
nhài.
Tôi cũng thích hoa huệ. Huệ trong Bình Định gọi là lan. Tôi làm thơ về
hoa lan,
nhành lan như vút cao, bông hoa như chóng mặt vì ngợp. Sau vì muốn cả
nước mọi
miền đều thông cảm được, tôi đổi thành hoa huệ “Nhánh vút làm cho bông
huệ
ngợp”. Huệ trong kia không trồng ruộng hàng sào, bán hàng chục dò như ở
Bắc.
Tôi
thuở bé giỏi trèo cây
lắm. Trong vườn ông Chín Cược có cây ổi, mọc sau cái miếu, bên bờ tường
đầy rêu
trơn. Thế mà tôi theo một thằng bạn tập trèo và trèo được. Trèo lên cao
thấy cả
một thế giới mới lạ. Có một cành ở xa, có quả, tôi bò ra hái. Cả một
thế giới
mở ra với đứa trẻ. Tôi còn trèo me, lấy được trùm me chín cho thím tôi
muối và
kho cá trầu, thú vị lắm.
Tôi rất
mê cải lương. Hồi vào
làm việc ở Mỹ Tho, tôi ở chính quê hương của cải lương, quê của Phùng
Há, Năm
Phỉ. Năm 1932, cải lương ra Bắc. Một gánh cải lương thỉnh thoảng ra
diễn ở Gò
Bồi, tại một cái chợ nhỏ. Mê lắm! Có một thằng bạn, nhà hiếm, gọi là
thằng Chó
(tên thật của nó là Đức) rất có duyên, hát cải lương rất hay. Ở Gò Bồi,
mỗi nhà
có ghe bầu riêng, bán cá, bán nước mắm. Hàng đắt là do người bán có
duyên, khéo
nói. Mẹ thằng Chó là người rất có duyên.
Tôi
cũng học hát cải lương.
Có một cái gì ở trong linh hồn của điệu hát nó rất trữ tình, rất lãng
mạn. Hành
vân, vọng cổ, tứ đại oán... mê lắm (Anh dừng lại hát cho tôi nghe mấy
câu tứ
đại oán). Cải lương là tiếng nói của individu, khi mới ra đời nó có cái
mélancolie, một cái buồn khác cái buồn cũ. Nó là lãng mạn chủ nghĩa, đi
trước
Thơ mới, Tự lực văn đoàn. Có cái đau xé. Cái đau đúc lại, cô lại rồi xé
ra. Cải
lương có ảnh hưởng đến thơ tôi. Có cái xé lòng. Đúc lại, không thèm
buồn. Đúc
lại trước khi nổ ra, vỡ ra.
Hồi đi
học, tôi là một cây
hát trong lớp. Thích hát. Ai bảo là hát ngay: cải lương, ca Huế, sa
mạc, cả hát
Tây “J’ai deux amours”. Nhạc vào thơ tôi ghê lắm. Nhạc mà vẫn giữ ý,
giữ lời
nói, không âm nhạc chủ nghĩa.
Tôi có
một ông chú người Nghệ
Tĩnh – trong Nam
cũng gọi là người Bắc – hát sa mạc, kể sa mạc, tôi mê lắm. Cứ phải lấy
hai hạt
thóc nhổ cho ông năm cái râu hay năm sợi tóc sâu mới được ông hát cho
nghe mấy
câu sa mạc.
Nói đến
đây Xuân Diệu chuyển
giọng nói với tôi như là kết luận cho câu chuyện của mình hôm ấy: “Mạnh
phải
tích luỹ cho mình cái vốn nhân bản. Cái đó quyết định nội dung viết của
mình.
Còn kiến thức thì cứ tích luỹ, thu nhận dần dần. Cái chính là phải có
vốn nhân
bản, cái humanisme, thì sẽ làm ăn được nhiều. Đó là cái vốn để viết lâu
dài.
Tôi
không thích giải thích
nhà văn, nhà thơ bằng môi trường. Môi trường không quan trọng gì lắm.
Cái quan
trọng là khiếu bẩm sinh, cái chất người của nhà thơ, có cần gì môi
trường. Tại
sao bao nhiêu người cùng môi trường mà không phải ai cũng thành nhà
thơ?”
Anh
tiễn tôi ra cửa. Vừa đi
vừa than phiền: “Bán óc giờ rẻ quá! Mà không ai có tiền mua. Mà mình
cũng chả
có gì bán ngoài cái đó. Nhưng thôi, mỗi người sinh ra thế nào, bản chất
thế nào
thì cứ thế mà sống thôi. Còn chuyện đời, chuyện chính trị chẳng biết
thế nào,
mặc!”.
Ngày 24
– 5 – 1982, 24 Điện
Biên
Tôi đến
Xuân Diệu đúng lúc
anh tiễn khách ra cổng. Anh nói với tôi: “Nào vào mà nghe người ta
khen! Nguyễn
Cao Luyện khen lắm (bài Thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng, đăng trên báo
Nhân
dân).
Anh vội
đưa tôi vào nhà. Anh
bóc bánh bích quy. Pha cà phê. Mời thuốc lá đầu lọc: “Người ta đến tuổi
nào đấy
cũng phải có lúc ung dung mà hưởng lạc một chút chứ, ăn miếng ngon,
ngắm bông
hoa đẹp. Đời Nguyên Hồng chỉ là một rêve (C’est un mauvais rêve, một ác
mộng!).
Nguyên
Hồng là tài và tâm.
Trí thì yếu. Tác phẩm hay hơn cả là gì nhỉ? Những ngày thơ ấu? Nguyên
Hồng chết
đột ngột quá - Xuân Diệu lắc đầu, lè lưỡi.
Anh chỉ
tập bản thảo viết dở
trên bàn: “Mình viết văn như người bị đòi nợ. Đến hẹn mà không có xu
nào trả.
Bụng rỗng không! Ấy thế mà rồi cũng viết được đấy. Tập trung suy nghĩ
mãi vào
một điểm rồi nó bật ra. Lúc đầu tản mạn linh tinh, tưởng không sao viết
được.
Sau tập trung vào một điểm thì viết được.”
Bỗng
anh chuyển sang nhận xét
mấy nhà thơ đương thời như Tế Hanh, Lưu Trọng Lư, Giang Nam:
“Tế Hanh
cái gì cũng có cả, nhưng chả đọng lại cái gì. Như giao hợp đánh xoạch
một cái,
chưa kịp thấy gì, đã mặc quần áo rồi (anh cười to). Lưu Trọng Lư tản
mạn quá,
rồi chạy theo tiền để nuôi vợ con. Đời có những nhân tố rất tầm thường
mà hoá
ra chi phối. Do thế mà viết ẩu. Lư yếu vì vợ đẹp, yêu cầu sinh lý cao.
Lư còn
sống được như thế là giỏi rồi đấy. Lư quanh quẩn rút lại chỉ có một mô
hình:
hát giặm, năm tiếng có vần giữa xen vào. Thế thôi! Khi làm thơ thất
ngôn thì có
thay đổi tí chút. Tế Hanh, thơ như là cuộc đời sẵn có cái gì thì lấy
luôn làm
câu thơ. Thơ không có xác, có chất, không có gia công sáng tạo gì cho
sâu sắc.
Paul Valéry, câu thơ có xương cốt, đứng vững lắm. Anna de Noailles là
giande
poétesse, vậy mà câu thơ cũng dàn trải, không vững chãi. Lamartine cũng
thế.
Nhà thơ lớn thế mà câu thơ chưa thật kiên cố. Thơ Verlaine vững lắm.
Câu chữ
không sao thay thế được, không bỏ được chữ nào. Nhà văn phải đẻ ra chữ.
Câu,
chữ là của mình. Mình đẻ ra câu chữ mới là nhà văn thật sự”.
Thơ
Thanh Hải còn kém hơn thơ
Giang Nam.
Nhưng Giang Nam
ngay ở bài hay nhất là bài Quê hương cũng không có xác. Tình yêu không
có xác.
Như câu chuyện kể ra thế thôi.
Hàn Mạc
Tử đúng là đẻ ra chữ.
Chữ của Hàn Mạc Tử vững chắc lắm, cứ vọt ra. Thơ Tế Hanh như thứ trạm
nổi nông,
loại phù điêu. Cái gì cũng có nhưng không sâu sắc, không nổi góc cạnh,
hời hợt,
nông choèn, tự nhiên nhĩ nhiên, trời đất, đời sống cho thế nào thì nói
thế,
không gia công đào xới, nhào nặn.”
Anh lại
trở lại chuyện đời
sống và phàn nàn: “Mình cứ viết hết bài nọ đến bài kia, luôn luôn phải
ở tình
trạng phải cố sức. Như hòn bi phải có sức tác động vào mới viết được.
Thành ra
lại phải quay ra lo chuyện ăn. Rất mệt!
Nhưng
mà rất mừng là có một
số người hiểu mình: Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Nguyễn
Đăng
Mạnh. Phải tăng cường tìm hiểu nhau, tăng cường tri âm tri kỷ.”
Anh mời
tôi uống nước, hút
thuốc lá. Anh nói: “Không phải ai mình cũng mời thế đâu!”. Anh hạ
giọng: “Này
chuyện tình với bạn trai ngày xưa của mình, Mạnh có nhận xét đấy, đừng
viết ra
làm gì, người ta hiểu sai đi không lợi. Mạnh thân với Hoàng Ngọc Hiến,
lúc nào
nói với Hiến phải giữ mồm giữ miệng. Người ta phản ánh đến anh Tố Hữu
rồi đấy.
Anh Lành anh ấy biết rồi đấy. Khéo rồi họ lại thắt lại thì chết. Bây
giờ đang
có chiều hướng mở ra, khá. Trường hợp Tuyển tập Nguyễn Tuân là thế. Ta
cứ lặng
lẽ mà ăn, mà ngoạm từng miếng, nhưng đừng có nhai rau ráu ồn lên làm
gì. Không
phải sợ, không phải hèn đâu, nhưng mà không cần phải thế”.
Xuân
Diệu lại mời tôi hút
thuốc lá: “Cứ hút đi! Biết rồi đến lúc nào mình không còn nữa để đưa
thuốc lá
cho mà hút”.
Anh lại
giục làm việc khẩn
trương lên. Cái chết nó thúc đẩy mình.
Tôi ra
về. Trời mưa. Thấy tôi
không có mũ, anh cho mượn cái mũ lá cũ: “Mũ cũ nhưng đừng vất đi đấy”.
Anh lại
lấy cái cặp nhựa, cặp
mép cái túi xách của tôi cho khỏi ướt sách vở bên trong: “Mình như
người vợ
chăm sóc chồng. Thế mới biết người đàn bà là cần”.
Ngày 8
– 4 – 1983, 24 Điện
Biên.
Xuân
Diệu mở cổng. Tôi nói,
lâu quá không gặp anh. Xuân Diệu nói: “Mạnh mà cũng biết sốt ruột kia
à? Tưởng
bây giờ đang lên, không thích mình nữa?”. Anh cười: “Ấy người ta có cái
ghen
chẳng có fondement gì cả như thế đấy!”.
Tôi đến
Xuân Diệu sau khi gặp
Lưu Công Nhân ở Sài Gòn.
Tôi
hỏi: “Anh có biết Lưu
Công Nhân?”.
Xuân
Diệu: “Có biết, nhưng
không thân thiết lắm. Thế hắn sống bằng gì? Có mấy con?”. Tôi nói,
không biết,
chỉ thấy giầu lắm. Xuân Diệu: “Cậu đúng là nhà văn lớn, không để ý cái
gì cụ
thể cả”.
Tôi lại
nói về chuyện vừa gặp
Chế Lan Viên ở Sài Gòn. Xuân Diệu nói: “Chế Lan Viên giờ buồn lắm. Sắc
sảo,
thông minh, song trong quan hệ với nhau còn phải có tình người, chứ đâu
chỉ
chuyện tìm tòi chân lý. Chế Lan Viên hay lấy lý át người ta, dồn người
ta vào
thế bí. Người ta ít gần. Sợ. Văn tiểu luận của Chế Lan Viên có từng
đoạn sắc
sảo, hay. Nhưng nhìn toàn bộ thì không vững, xộc xệch lắm.
Anh lại
quay ra nói về Thơ
mới. Anh cho rằng: “ Nói Thơ mới thoát thai từ hát nói là ngu. Thơ mới
đến độ
kết tinh ổn định nào đấy thì gặp hát nói. Vả lại câu tám tiếng, câu mở
rộng của
hát nói vẫn khác câu tám tiếng của Thơ mới.
Còn
song thất lục bát thì là
thể ngâm, réo rắt, không hợp với Thơ mới.
Thơ mới
có nhu cầu kéo dài
câu thơ, vì nó phong phú, tràn đầy, nó cần nói nhiều.”
Bỗng
anh quay ra phê phán
Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức: “Hết thời Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức rồi. Họ làm
xong
nhiệm vụ lịch sử rồi. Đệ viết về Thơ mới, ca ngợi Thơ mới xong, bảo nó
là con
đĩ. Chơi gái mãi rồi bảo nó là con đĩ. Đệ cứ dẫn ra những câu tương tự
của Thơ
Pháp và Thơ mới để tỏ ra là đọc nhiều. Kỳ thực có sự gặp gỡ tự nhiên
chứ không
phải bao giờ cũng là mô phỏng - Đối chiếu thơ Bác với thơ xưa nhiều khi
cũng
thế.”
Huy Cận
đi làm về. Anh nói với
tôi: “Ta phải gặp nhau nữa chứ. Tôi mới nói sơ sơ thôi, còn nhiều điều
chưa nói
(trước đây ít lâu, tôi có một cuộc trò chuyện với Huy Cận). Anh Đệ, anh
Đức là
nhà phê bình officiels. Tôi đã đọc anh viết về Nguyên Hồng, Nguyễn
Tuân, thấy
có cái gọi là suy nghĩ. Còn nhiều người viết chẳng có giá trị gì”.
Xuân
Diệu tiếp tục nói về thơ
mình. Càng nói càng sôi nổi: “Xuân Diệu là individu. Cái day dứt nhất ở
Xuân
Diệu là cái “moi” và “non – moi”. Và căng cho hết mình. Làm thơ để thực
hiện
cái le moi của mình là Xuân Diệu.
Tình
yêu thực hiện được sâu
sắc nhất cái cá nhân. Tình yêu gắn với cuộc sống vật chất, trần gian,
bản năng,
lại rất cá nhân trong conscience.
Xuân
Diệu không làm thơ “anh
anh em em”, mà thực sự làm thơ trong phạm trù tình yêu. Xuân Diệu thách
với cả
thế giới về thơ tình yêu. Xưa sôi nổi thanh niên, nay sâu lắng, suy
nghĩ hơn.
Vấn đề
thời gian trong thơ
Xuân Diệu lớn lắm: day dứt nhớ lại cái phút ấy, phút thần tiên ấy, cái
chỗ ấy,
cái lúc ấy trong cả cuộc đời – cái phút thật là yêu, của phạm trù tình
yêu. Về
sau chỉ là nghĩa, có nhiều cái ân tình khác, nhưng thật sự là yêu chỉ
có cái
phút ấy. Thơ tình là vĩnh cửu hoá cái phút ấy.”
Anh
chuyển sang giọng tâm
tình thân mật: “Thơ tình Xuân Diệu có một sự trỗi dậy, sống dậy vào
khoảng sau
Riêng chung, tức khoảng 1961 gì đó: “Bỗng anh xoè bàn tay ra khoe:
“Đấy, mont
de Vénus của mình
cao thế này (anh chỉ chỗ bàn tay gồ lên gần ngón cái). Mont
de lune của mình cũng rõ, giầu mơ mộng, rất lãng mạn (anh chỉ phía gần
ngón
út), còn mont
de soleil là danh vọng cũng rất nổi (anh chỉ khoảng giữa bàn tay phía
giáp các
ngón).
Thực ra
anh người mập, bàn
tay múp míp, chỗ nào chả đầy, chả mọng lên.
Anh lại
khoe nhận được một lá
thư nhờ làm hộ một bài thơ tình để tặng người yêu. Anh cười: “Làm thơ
tình
thuê! Giá mấy hào một bài đây! Đấy, nhu cầu thực tế của đời sống về thơ
tình là
thế đấy”
Tôi
nói: “Anh Tố Hữu nói làm
thơ tình rất khó”.
Xuân
Diệu: “Khó ở chỗ phải
chân thật, phải yêu thật”.
Chiều
ngày 12 – 4 - 1985, 24
Điện Biên
Thấy
tôi, Xuân Diệu mừng lắm:
“Vài ba tháng gặp nhau một lần là quý rồi. Cứ đi dép cho đỡ lạnh chân”.
Anh mời
tôi uống cà phê, hút thuốc lá như thường lệ. Anh nói Như Phong chết làm
anh
hoảng quá. Như Phong chủ quan, tự cho là khoẻ lắm. Cái chết! Thế là từ
plus
infini thành moins infini.
Tôi nói
Nguyên Hồng chết sớm
hơn và cũng đột ngột. Xuân Diệu nói: “Nhưng mà Nguyên Hồng chết rồi,
cái văn
của anh ấy vẫn còn rên rỉ. Còn Như Phong mất là không thấy dấu vết gì
nữa”.
Anh
xoay ra nói về giá cả đắt
đỏ mà nhuận bút thấp quá: “Nhuận bút tập sách viết 10 năm chỉ bằng một
chỉ
vàng. Nhận nhuận bút mà buồn. Đi một chuyến lại hơn là nhuận bút. Quãng
Ngãi
chỉ có 180 đồng một cân thịt bò. Đời sống hơn ngoài Bắc. Trong Nam
đời sống
cao hơn, khí hậu dễ chịu hơn. Nhưng mà không được quên cái gốc. Trong Nam họ
suốt
ngày lo kiếm tiền thôi. Sống ở Sài Gòn không chịu nổi. Không ai biết
anh là ai.
Con người lọt thỏm mất hút đi trong cái biển người mênh mông”.
Anh lại
xoay ra tính toán cụ
thể giá thực phẩm: 3 quả trứng gà 33 đồng, 2 quả trứng vịt lộn 18 đồng
một quả,
nhân 3 là 36 đồng...
Bỗng
anh ngắm nhìn tôi, nhận
xét: “Mạnh để tóc thế này hay hơn. Mặt mạnh nhỏ, để tóc thế này nó ôm
lấy mặt,
đỡ gầy.” Tôi nói, nhiều người cũng khen như thế. Xuân Diệu cười: “Hoá
ra mình
nhận xét thế mà đúng với ý kiến mọi người, “chúng khẩu đồng từ”.
Tôi
nói, hình như Nguyễn Tuân
vào Quảng Nam
viết một bài được trả nhuận bút cao lắm. Xuân Diệu nói: “Đúng là Quảng Nam Đà
Nẵng nó
trả Nguyễn Tuân 10.000 đồng một bài. Bài có hai trang. Không hay lắm.
Nguyễn
Tuân viết khó. Bây giờ viết khó hay lắm!”
Tôi hỏi
anh có nghĩ gì về
khái niệm phong cách.
Xuân
Diệu nói: “Style là bút
pháp và cũng là phong cách. “Khen rằng bút pháp đã tinh. Nghe bút pháp
có vẻ
nặng hơn”.
Tôi
nói, phong cách có lẽ
rộng nghĩa hơn, toàn diện hơn, sâu hơn. Anh đi tra từ điển: “Style:
manière.
Manière d’ exprimer sa pensée. Ừ, phong cách đúng hơn”.
Anh chê
Nguyễn Xuân Nam,
cho là
không thật, không tốt. Tôi nghĩ bụng chắc lại là cái chuyện Xuân Nam viết về Huy Cận. Xuân Nam bị
ngờ là
bới móc Huy Cận. Xuân Diệu đã nói với tôi một lần rồi. (Xuân Nam viết
một bài
về Huy Cận, anh ca ngợi sự chuyển biến tiến bộ về tư tưởng của Huy Cận,
đại ý:
ngày xưa Huy Cận làm thơ thường đề tặng các nhà văn trong Tự lực văn
đoàn và cả
con cái họ, nay anh làm thơ tặng nhân dân lao động, như tặng một cô thợ
mỏ, một
anh thợ hàn chẳng hạn... Nhưng Xuân Diệu lại hiểu là Xuân Nam có ý nói
móc, xỏ
xiên người bạn của anh ngày xưa từng nịnh hót cánh Tự lực văn đoàn
(Thực ra hồi
ấy, Huy Cận từng tha thiết xin vào Tự lực văn đoàn mà không được chấp
nhận).
Anh chê
Phan Cự Đệ, Hà Minh
Đức viết không có nội dung: “Nội dung là tình cảm. Không có tình cảm,
không có
nội dung. Tôi cứ ném thia lia, bắn tin về Phan Cự Đệ. Tôi nói với Hà
Xuân
Trường: Đệ làm tổng biên tập Nhà xuất bản Văn học thì chúng tôi sẽ đánh
du kích
5 năm cho phải đổ. Nói với Việt cộng phải nói bằng cách nói của Việt
cộng họ
mới sợ”.
Anh đọc
tôi nghe bài thơ:
“Nếu anh cứ thương nhớ em thì sao”. Bài thơ ba khổ. Khổ đầu hay.
Tôi
khen bài thơ hay.
Xuân
Diệu nói: “Những câu thơ
như thế phải đọc cho Mạnh nghe. Mình đọc được cho Mạnh nghe cũng thấy
thích.
Bài “ Hoa anh ơi!” là một lời thơ đi suốt. Cả bài thơ là một lời đi
suốt”.
Anh
nhắc tôi về kẻo muộn. Đi
về, ra ngoại thành, sương xuống, chắc là thấy cô đơn, buồn. Tôi nói, có
lần ở
nông trường 1 – 5 Nghệ An, thấy con bò đi một mình buổi chiều, buồn
quá! Anh
nói: “Con bò nó cũng thấy buồn – và thế là nó trở thành thi sĩ, trở
thành
người”.
Anh
tiễn tôi ra cửa, nhắc
thỉnh thoảng gặp nhau. Ít ra một quý một lần, hai tháng một lần càng
tốt.
Tôi
nói, có lúc ngửi một mùi
hương, thấy nhớ một cái gì ghê quá. Anh nói, thế là Marcel Proust.
Hương và vị
nữa.
Anh hỏi
tôi về kết quả cuộc
chấm thi truyện ngắn tôi có tham gia. Tôi nói không có bài thật trội.
Sàn sàn
cả. Anh nói chủ nghĩa xã hội chỉ tạo ra cái moyenne trung bình, bonne
moyenne,
không có bon talent.
Anh
nói, trong cuộc thi thơ,
Lâm Thị Mỹ Dạ thắc mắc sao không có giải A. Tôi viết một bài lôi ra có
bài loại
B cũng không đáng. Lạm phát thơ. 150 nhà thơ! Sao nhiều thế! Phải dọn
bớt lại.
Anh
động viên tôi: “Dù sao
chúng mình còn có chỗ họ mời. Có người không được thế. Mạnh và mình giữ
được vị
trí do thực lực. Cần gì giám đốc, phó giám đốc. Rồi đổ ngay ấy mà! Cứ
viết cho
tốt. Nghệ Tĩnh Tết vừa qua Tỉnh uỷ đi thăm Minh Huệ tuy Minh Huệ chưa
bằng Trần
Hữu Thung. Song biết thăm ai? Thế là họ có chuyển”.
* *
*
Từ 1966
đến 1985, năm Xuân
Diệu qua đời, tính ra tôi có tới vài chục lần được trò chuyện với Xuân
Diệu.
Càng tiếp xúc càng thân, và anh càng cởi mở hơn.
Chỉ
riêng năm 1985, tôi gặp
anh tới 5, 6 lần.
Nhưng
tôi nhớ nhất ba lần sau
đây:
1. Đầu
năm 1985 cũng đi với
anh lên Tuyên Quang bồi dưỡng những cây bút trẻ ở vùng núi phía Bắc.
Tôi nhớ đi
qua đền Hùng đúng vào dịp hội. Xe dừng lại, các anh trong đoàn (Chính
Hữu, Lê
Lựu, Nguyễn Thành Long, Hữu Thỉnh, Vương Trí Nhàn và tôi) đều có đảo
lên đồi
xem một lát. Riêng Xuân Diệu không lên. Anh ngồi lại trong xe. Chắc
mệt, ngại
leo dốc. Ở Tuyên Quang, chúng tôi nghỉ ở nhà khách của Tỉnh uỷ. Đêm,
tôi để ý
thấy Xuân Diệu thở rất nặng nhọc, lắm lúc như hộc lên. Tim có vấn đề.
2. Lần
thứ hai là ngày 5 – 10
– 1985. Tôi đến mời anh nói chuyện với lớp sinh viên đặc biệt (gọi là
lớp 5C)
do tôi làm chủ nhiệm. Anh giữ tôi lại, tặng tôi cái đồng hồ.
3. Lần
thứ ba là ngày 10 – 10
1985. Tôi đưa 14 sinh viên đến phòng anh ở 24 Điện Biên để nghe anh
giảng thơ.
Đây là
cuộc gặp cuối cùng với
anh. Hai tháng sau, anh qua đời (ngày 18- 12 – 1985)
Cả ba
cuộc gặp này, tôi đều
đã đưa vào mấy bài chân dung viết về anh nên không thuật lại nữa.
5 – 12
– 2006.
Tags:
nguyễnđăngmạnh,
xuândiệu
Wednesday
3 September 2008 -
05:37PM (BST) Permanent Link | 0 Comments
Hoài
Thanh, trích Hồi ký
Nguyễn Đăng Mạnh
Chương
XI, trích Hồi ký
Nguyễn Đăng Mạnh
Tôi
được tiếp xúc với Hoài
Thanh nhiều lần.
Hồi
công tác ở một cơ quan
của Tỉnh đảng bộ Thái Nguyên, tôi đã được nghe ông nói chuyện về thơ
kháng
chiến, tại một địa điểm ở thị trấn Phúc Trìu. Tiếp đó tôi học ở trường
sư phạm
trung cấp trung ương (đóng ở Chợ Ngọc, Tuyên Quang). ở đây tôi lại được
nghe
ông nói về đề tài ấy một lần nữa. Cả hai lần đều vào năm 1949.
Khi tôi
về học ở Đại học sư
phạm Hà Nội (từ 1957 – 1960) thì ông đến dạy mấy bài về văn học Việt Nam
thời trung
đại: Kiều, Cung oán, Hoa Tiên, Phan Trần..
Sau
này, được giữ lại làm cán
bộ giảng dạy đại học, lúc đầu ở Đại học Sư phạm Vinh, sau ở Đại học Sư
phạm Hà
Nội, tôi luôn đến ông để hỏi về tình hình văn học thời trước cách mạng
tháng
Tám và về kinh nghiệm phê bình văn học (Khi ở Nguyễn Thượng Hiền, khi ở
Trần
Quốc Toản).
Hầu hết
những ghi chép của tôi
về ông, tôi đã sử dụng trong bài chân dung đặt tên là “ Hoài Thanh, con
người
sinh ra để đọc thơ, bình thơ”.
ở đây
tôi chỉ xin ghi một số
điều về ông mà tôi chưa có dịp viết ra hoặc viết ra chưa đầy đủ.
Có lẽ
một trong những điều
khổ tâm nhất của Hoài Thanh là hầu hết các cây bút cùng thời với ông và
cùng
theo cách mạng như ông, đều gọi ông là “thằng nịnh” (Nguyễn Tuân, Xuân
Diệu,
Huy Cận, Chế Lan Viên...)
Cho nên
Xuân Sách có thơ:
Vị nghệ
thuật nửa đời người
Nửa đời
còn lại vị người cấp
trên.
Tôi
nghe nói, hồi kháng chiến
chống Pháp, ở chiến khu Việt Bắc Hoài Thanh luôn luôn sát cánh với Tố
Hữu, luôn
gần gũi trò chuyện thân mật với Tố Hữu, trong khi anh em khác thường
lảng đi
chỗ khác, sợ mang tiếng cầu thân với cán bộ lãnh đạo. Tâm lý anh trí
thức
thường như thế. Và họ phản ứng với thái độ của Hoài Thanh.
Tôi thì
cho rằng, Hoài Thanh
là con người sống bằng tình cảm. Hồi cách mạng tháng Tám, ông ở Huế.
Lúc ấy Tố
Hữu còn rất trẻ mà đã làm chủ tịch uỷ ban khởi nghĩa của Huế. Một thanh
niên
vào tù ra tội, lại là một thi sĩ thật sự và cũng mê Kiều như ông, hợp
với ông,
nên ông phục lắm. Tố Hữu cũng rất quý và tin cậy Hoài Thanh. Khi được
gọi ra
Bắc để lãnh đạo văn nghệ, người đầu tiên Tố Hữu cần gặp là Nguyễn Tuân.
Tố Hữu
đã nhờ Hoài Thanh đến Nguyễn Tuân, thương lượng và hẹn thời gian, địa
điểm gặp
(Nguyễn Tuân hẹn gặp ở nhà hàng Thuỷ Tạ bờ hồ Hoàn Kiếm). Tố Hữu còn là
chỗ dựa
về chính trị của Hoài Thanh nữa.
Từ Sơn,
con Hoài Thanh, có
lần nói với tôi: có một bữa, ông Hoài Thanh nằm trên giường, có vẻ mệt.
Bỗng
ông nói với con: “Cha mà không có anh Lành thì Bùi Công Trừng nó giết
cha rồi!”
Té ra là thế! Cái chuyện vị nghệ thuật, vị nhân sinh có chết ai đâu mà
những
ông cộng sản làm to chuyện thế, và thù dai thế! Người ta đã đi theo
cách mạng,
theo kháng chiến bao năm rồi mà vẫn không tha (cho mãi đến kỳ tặng giải
thưởng
Hồ Chí Minh đợt I (1996), họ cũng không tặng cho Hoài Thanh, trong khi
sẵn sàng
tặng cho Hà Xuân Trường, Hồ Tôn Trinh, tuy sự nghiệp của hai vị này có
đáng gì
đâu so với Hoài Thanh). Tôi cứ nghĩ mãi, không hiểu sao, đối với trí
thức, các
ông cộng sản lại hẹp hòi và ngu xuẩn đến thế. Chính các ông ấy, đã làm
hại cách
mạng nhiều lắm.
Anh Từ
Sơn còn cho biết, hồi
Hoài Thanh phụ trách tuần báo Văn nghệ. Có một số báo, trang đầu in ảnh
Trường
Chinh. ảnh bị cái tít in quá đậm ở mặt sau làm mờ đi. Trường Chinh gọi
Hoài
Thanh đến nói: “Anh in ảnh tôi như thế này à?” Hoài Thanh sợ quá, cứ đi
lang
thang ngoài đường, vô cùng hoang mang. Cái án vị nghệ thuật trở thành
cái án
chính trị, vẫn như lưỡi gươm lơ lửng treo trên đầu.
Đúng
vậy, Hoài Thanh là con
người chủ yếu sống bằng tình cảm. Cái tạng ông nó thế (Người ta từng
cho ông
thuộc loại phê bình tình cảm - để phân biệt với phê bình lý trí, phê
bình khoa
học chủ nghĩa scientisme). Cho nên, ông có quan hệ đặc biệt với Tố Hữu,
viết
rất say sưa về thơ Tố Hữu, tập thơ nào củaTố Hữu ra đời cũng lập tức có
một bài
phê bình rất tâm huyết của ông. Đó, cũng là do cái nợ tình, nợ nghĩa mà
ra.
Nhưng
cái: “án chính trị vị
nghệ thuật” chắc cũng làm cho ông phải lên gân lên cốt khi phủ nhận
triệt để
Thi nhân Việt Nam:
Thi
nhân còn một chút duyên
Chẳng
cầm cho vững lại lèn
cho đau.
(Xuân
Sách)
Chẳng
lẽ một con người giầu
tình như ông mà lại dễ dàng dứt tình với đứa con tinh thần mà ông đã
gửi cả tâm
hồn vào đấy. Từ Sơn nói, cuối đời, có lần Hoài Thanh nói với anh: “Nhờ
có cuốn
Thi Nhân Việt Nam
mà người ta mới coi cha là một nhà văn”.
Vậy mà
ông lại phủ nhận Thi
nhân Việt Nam (Nhìn
lại
phong trào Thơ mới và cuốn Thi nhân Việt Nam) đến mức Trần Huy Liệu
cho là quá
đáng, và Tố Hữu thì nói: “Hoài Thanh đã tát mình đau quá”.
Cho nên
tôi vẫn cứ ngờ ngợ
thế nào về cái thái độ quá cứng, quá tả của Hoài Thanh. Tiếp xúc với
ông, thấy
ông luôn luôn nói lập trường cách mạng, lập trường giai cấp. Phải có
tình cảm
đúng, tình cảm đúng là tình cảm của giai cấp công nhân. Ông tỏ ra rất
phục các
lãnh tụ cộng sản, coi phát ngôn của các vị ấy là chân lý mình phải lấy
làm
chuẩn, kể cả những phát biểu về văn chương. Và ông không viết về các
nhà Thơ
mới nữa, mà chỉ chăm chăm viết về thơ Hồ Chí Minh, Sóng Hồng, Tố Hữu,
hay các
cây bút đang chiến đấu ở miền Nam như Lê Anh Xuân, Nguyễn Thi, Anh
Đức... Cứ
như là mỗi bài viết phải là một cuộc chiến đấu về tư tưởng theo gương
những
người cộng sản. Không biết ông có thật sự tin ở những điều mình nói,
mình viết
hay không – tôi cứ ngờ ngờ thế nào ấy.
Nhưng ý
kiến của Hoài Thanh
bên cạnh “phần cứng” cũng có những “phần mềm”. ấy là khi ông phát biểu
về những
đối tượng khác. Nhiều nhận xét của ông khá thẳng thắn, không dè dặt, né
tránh.
Có lần
ông nói với tôi về
Viện văn học và tờ Tạp chí văn học do ông phụ trách (Lúc này Hoài Thanh
làm
Viện phó Viện Văn học, thư ký toà soạn Tạp chí văn học): “Viện văn học
của
chúng tôi làm sao có uy tín được như Tự lực văn đoàn ngày trước. Nó đưa
ai lên
là được lên. Nó hạ ai xuống là phải xuống”
Bây giờ
ta đang chống Mỹ
(1967), tạp chí của chúng tôi vẫn ra được đều đều là coi như thắng Mỹ
rồi. Mỗi
số ra được đúng kì hạn là một trận thắng... Chứ thực ra nhiều bài có
chất lượng
gì đâu. Tôi khổ với các ông HMĐ, HSV quá, chữ nghĩa, câu văn, tôi cứ
phải sửa
rất nhiều mới đăng được.
Ông nói
về Chế Lan Viên: “Chế
Lan Viên sắc sảo, nhiều sáng tạo khá hấp dẫn. Nhưng tôi cứ lởn vởn ý
nghĩ về
chỗ trung thực của anh. Cuốn Thi nhân Việt Nam
của tôi có nhiều sai lầm. Nhưng
điều tôi ân hận hơn cả là đã qúa khen Chế Lan Viên. Thực thì chắc có
thực,
nhưng có thực đến mức ấy không? Có thật “Hồn ai trú ẩn ở đầu ta”, có
thật có
“tâm hồn Chàm” thế không? Có muốn trốn lên “một tinh cầu giá lạnh” thật
không?
Xuân Diệu thì chân chất, thật thà.
Về
Nguyễn Đình Thi, ông nói
vắn tắt: “Chưa bao giờ tôi đánh giá cao nhân cách của Nguyễn Đình Thi”.
Hoài
Thanh cũng đánh giá rất
thấp con người Huy Cận: “Có người nhân cách tốt nhưng thơ lại không
hay, như
Thanh Tịnh. Có người nhân cách kém mà thơ lại hay, như Huy Cận”. Đây là
ông nói
Huy Cận trước cách mạng, Huy Cận “Lửa thiêng”. Thơ Huy Cận sau cách
mạng, ông
cho là tầm thường (vulgaire) – Trong tập Di bút, ông có ghi lại cuộc
trao đổi
của ông với Trường Chinh ở chiến khu Việt Bắc hồi kháng chiến chống
Pháp về Huy
Cận. Họ thống nhất với nhau: thơ Huy Cận vulgaire (Khi in tập Di bút
thành
sách, anh Từ Sơn ngại đụng chạm nên cắt bỏ đi, cả ý kiến của Hoài Thanh
về văn
của HMĐ nữa). Còn với tôi, ông nói: “Huy Cận xưa hay hơn bây giờ. Bây
giờ cũng
có bài hay nhưng ít, càng làm càng dở. Xưa trong cái u uất nặng nề, anh
chàng
16, 17 tuổi đó có nhìn thấy một góc, một khoảng trời rất trong, rất thơ.
Nay có
thể là tâm hồn không u
ám nữa, tiến bộ, nhưng không có được khoảng trời rất trong như thế nữa.
Nguyễn
Tuân không ưa Hoài
Thanh, nói về ông nhiều câu rất ác. Nhưng nhận xét về Nguyễn Tuân, thái
độ của
Hoài Thanh vẫn rất công bằng: “Nguyễn Tuân địch có thể lợi dụng, như
trước cách
mạng, nó tặng anh ấy giải thưởng Alexanơre de Rhodes – Sau cách mạng
thì bọn
Nhân văn lôi kéo. Nhưng Nguyễn Tuân không bao giờ hạ mình làm những
điều phi
nghĩa. Nguyễn Tuân không phải Nhân văn, không bê tha truỵ lạc trong
sinh hoạt
như cánh Nhân văn. Nguyễn Tuân thích phát hiện những cái lặt vặt, thứ
yếu vì
cho rằng những cái quan trọng ai cũng biết cả rồi. Nguyễn Tuân rất
bướng. Cần
góp ý kiến gì với anh ấy, chúng tôi phải nhờ anh Tố Hữu. Tố Hữu nói mới
nghe,
mà cũng nghe vừa phải thôi. Anh ấy cho giáo điều thì sinh ra xét lại.
Vào Đảng
như một thứ nhân sĩ, không gắn bó với một trách nhiệm cụ thể nào, coi
mình như
một thế giới uỷ, chính uỷ của thế giới, có trách nhiệm với toàn nhân
loại. Cho
nên chậm tiến. Đi trong kháng chiến như đi chơi, tuy đi chơi trong
kháng chiến
khác đi chơi trước cách mạng.
Bài Tờ
hoa của Nguyễn Tuân, Chế
Lan Viên có công phát hiện, đã bỏ đi. Thế mà sau lại đăng báo được. Tờ
hoa là
có ý chửi cải cách ruộng đất.
Cái gì
quen đi rồi cũng thành
nghề. Nguyễn Tuân có nghề chửi. Chửi rất ác. Không thể phê bình thân ái
nội bộ
được. Nguyễn Tuân cứ phải chửi ác. Nay vớ được thằng phi công Mỹ, tốt
quá! Ta
chửi Mỹ lâu rồi, song trước kia nó ở tận đâu đâu ấy, nay nó trực tiếp
đánh ta,
ta nhìn rõ mặt nó rồi. Cái nghề chửi của Nguyễn Tuân được dùng đến, rất
tốt.
Nguyễn Tuân ghét conformisme. Tôi cho tác dụng của Nguyễn Tuân còn lâu
dài đối
với cách mạng giải phóng dân tộc.
Hoài
Thanh nói về Nguyên
Hồng: “Lắm lúc không biết anh ấy thật hay giả. Trên diễn đàn, đang nói,
dừng
lại: “Cho tôi khóc một lúc đã”. Nguyên Hồng cũng không gắn với một
trách nhiệm
cụ thể nào, nên chậm tiến bộ”.
Hoài
Thanh luôn luôn cho rằng
phải sống gắn bó với quần chúng, có trách nhiệm cụ thể với cách mạng
mới tiến
bộ được.
* *
*
Nhìn
chung cuộc đời Hoài
Thanh, thấy ông có mấy cái thực sự trở thành niềm say mê:
Một là
say Thơ mới (1932 –
1945). Điều này, sau cách mạng ông đã quyết dứt bỏ. Nhưng chắc ở chỗ
sâu kín
của tâm hồn, vẫn không dứt bỏ được.
Hai là
say Kiều. Trước cách
mạng thì không nói làm gì. Ông đã ca tụng câu nói mà ông cho là “can
đảm” của
Phạm Quỳnh: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta
còn”.Thi nhân
Việt Nam
câu thơ của Nguyễn Du: “Của tin gọi một chút này làm ghi”. Và ông đã
trân trọng
ghi lên trang đầu cuốn
Sau
cách mạng, ngay trong
những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, ông đã viết ngay một
cuốn sách
về Kiều: Quyền sống của con người trong Truyện Kiều. Ông ca ngợi Nguyễn
Du
trong dịp kỉ niệm 200 năm sinh của nhà thơ, rồi ông dạy Truyện Kiều ở
Đại học
Sư phạm Hà Nội...
Trong
những cuộc tiếp xúc với
ông, tôi thấy khi nói về quá trình phấn đấu về tư tưởng để có được lập
trường
của Đảng, có được tình cảm mà ông gọi là tình cảm đúng đắn của giai cấp
công
nhân, cứ thấy ông quẩn quanh, vướng vít không sao dứt khỏi được duyên
nợ với
Truyện Kiều. Ông thương cô Kiều chịu nhiều oan khổ thì không có chuyện
gì. Nhưng
ông cảm thông với giấc mộng Từ Hải của Nguyễn Du thì có vấn đề. Ông
biết Cụ Hồ
nói: “Thằng Từ Hải sao nó tồi thế. Nó không chết đứng thì về triều nó
cũng chết
ngồi”. Lê Duẩn phê phán cuốn “Quyền sống...” của ông. Tuy ông rất phục
Hồ Chí
Minh và Lê Duẩn, nhưng ông vẫn chưa thông. Đến cuộc chỉnh huấn năm
1952, Tố Hữu
còn phải giúp đỡ ông nhiều: “Làm sao lại lấy Từ Hải làm lý tưởng được:
một nhân
vật bất mãn và bất lực”. Nhưng ông vẫn chưa thông hẳn.
Duyệt
lại quá trình phê bình,
nghiên cứu của Truyện Kiều của mình, ông nói: “Trước cách mạng tháng
Tám mình
viết “Một phương diện của thiên tài Nguyễn Du” (1944), nhiệt liệt ca
ngợi Từ
Hải. Lúc nhỏ tôi cũng có mộng anh hùng (Hoài Thanh từng tham gia đảng
Tân Việt
và từng bị bắt giam một thời gian ở Hà Nội, sau đó bị trục xuất về Nghệ
An),
rồi cuộc đời ác liệt quá, lại không gắn được với một tổ chức nào cho
chắc nên
không dám làm anh hùng. Nhưng vẫn có mơ ước làm anh hùng. Nguyễn Du
chắc cũng
vậy. Đến thời kháng chiến, năm 1948, tôi viết Quyền sống của con người
trong
Truyện Kiều, tự thấy chưa thay đổi gì lắm. Đi cách mạng, ừ thì đi. Rồi
đâu cũng
vào đấy thôi, chỉ khác là có đánh Tây. Vì thế trong cuốn sách tôi chỉ
thêm có
một câu: “ Nhân dân ta đang thực hiện giấc mộng anh hùng của Nguyễn Du
và còn
vượt xa nữa. Nói chung vẫn ca ngợi Từ Hải.
Sau
chỉnh huấn 1952, cũng
chưa hoàn toàn thay đổi. Trước thì viết Từ Hải chết vì ngay thẳng mà
chết. Sau
viết, Từ Hải chết vì thật dạ tin người. Đến mãi 1965, kỷ niệm 200 năm
sinh
Nguyễn Du tuy có phê phán Từ Hải thiếu cảnh giác, nhưng trong phê phán
vẫn có
thương hại nhiều...
Đấy,
qua lời tự bạch của Hoài
Thanh, thấy ông không sao dứt được khỏi tâm trí mình nỗi ám ảnh của Từ
Hải,
giấc mơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Dù đấu tranh tư tưởng, dù kiểm
thảo
lên, kiểm thảo xuống, vẫn không dứt ra được. Ông mê Kiều có lẽ còn hơn
cả Chu
Mạnh Trinh ngày trước: “Ta cũng nói tình, thương người đồng điệu”.
Một
niềm say mê nữa cũng đeo
đuổi Hoài Thanh đến trọn đời là đọc thơ, bình thơ, giảng thơ. Con người
tình
cảm của Hoài Thanh tất nhiên thể hiện rất rõ ở lĩnh vực này.
Ngay
giải thích những hiện
tượng văn học sử ông cũng dùng kinh nghiệm đời sống, dùng trực cảm. Ông
không
thích nói lý luận, có lẽ ông không tin ở lý luận.
Ông
nói, nhà thơ lãng mạn đến
với cách mạng, sáng tác được ngay vì quen ca ngợi. Còn nhà văn hiện
thực phê
phán lại lúng túng, không viết được, vì chửi đã thành nghề rồi. Chỉ
quen chửi.
Đến với cách mạng, chửi ai?
Ông cho
rằng, vấn đề dân tộc
bao giờ cũng gây xúc động mạnh. Cách mạng vô sản nói chuyện giai cấp
nên khó
hấp dẫn. Mặt trận Việt Minh ra đời nêu dân tộc lên hàng đầu, làm nức
lòng
người.
Về tầng
lớp tiểu tư sản, ông
cho rằng, tiểu tư sản yêu nước song yếu đuối. Rất sợ cây súng của Tây
nên không
tin tưởng. “La raison du plus fort est toujours la meilleure” là cái
triết lý
nó đè lên tâm hồn như một định mệnh.
Ông nói
về phê bình văn học:
“Ta cho đến nay chưa có ai gọi là nhà phê bình. Từ 1930, cái gì cũng
đổi mới
cả, song chưa thể nói đã có phê bình chuyên nghiệp (nhà văn chuyên
nghiệp thì
có). Thường chỉ là nghiệp dư, làm một nghề nào đó rồi mới làm thêm phê
bình.
Muốn
đẩy mạnh phê bình, phải
giải quyết:
- Gây
hào hứng cho phê bình.
Người ta hiện nay không thích viết phê bình, không hào hứng làm nhà phê
bình.
- Tạo
điều kiện để có nhà phê
bình chuyên nghiệp.
- Luyện
cách viết cho hay.
Hiện nhiều người chưa có cách viết, không biết cách viết. Phải viết thế
nào cho
người ta đọc một câu cứ phải đọc tiếp.
Nhược
điểm của phê bình là
không dứt khoát, tác phẩm nào cũng ưu một chút, khuyết một chút. Như
nhau.
Người đọc không biết anh cho tác phẩm là hay hay dở. Phê phán Vào đời
và Đống
rác cũ là trung ương phê chứ có phải nhà phê bình nêu ra đâu.
Hiện
nay có hiện tượng trái
ngược là nhà văn và nhà phê bình đọc tác phẩm rất ít, ít hơn quần
chúng. Anh
phê bình chỉ đọc để viết thôi. Khi cần viết mới đọc.
Phê
bình phải có hai điều
kiện:
- Nhậy
cảm. Xúc cảm nhạy bén.
- Có
văn hoá. Dù là
inpressionnisme cũng phải có văn hoá. Phải đọc nhiều, đọc hết, có ấn
tượng sâu
và nhớ lâu.
Ngày
xưa tôi đọc nhiều lắm,
nhớ lâu, dễ khóc. Nay khó khóc quá - “Tuổi già hạt lệ như sương”. Cũng
ít nhớ.
Tôi thuộc loại người cũ rồi. Lê Đình Kỵ thế mà cũng thuộc loại cũ rồi.
Đi vào
văn học mà 40 tuổi mới
vào là dại. Vào làm gì! Viết văn là phải bắt đầu từ trẻ, có nhiệt tình,
nhậy
cảm. Người ta viết văn bằng những ấn tượng những năm lên năm, lên bẩy,
chứ
không phải 30, 35 đâu.
Và cái
đó không thay đổi
được. Cái tạo nên tài năng, phong cách, sở trường là hoàn cảnh sống từ
tuổi lên
năm, lên bẩy: cánh đồng ấy, bờ tre ấy, cái ao ấy... Sau này lớn lên,
thay đổi
quan điểm, lập trường, chứ không thay đổi phạm vi đề tài, cách viết,
cách cảm
xúc, cách nghĩ. Không nên bắt người ta thay đổi. Bắt vô ích. Mỗi ca sĩ
chỉ hát
hay vài bài, Tân Nhân chỉ hát hay vài bài, các bài khác cũng hát được
nhưng không
hay.”
Về vấn
đề tính dân tộc của
văn học, tôi rất tán thành ý kiến Hoài Thanh: “Tính dân tộc chỉ cảm
thấy thôi,
rất khó định nghĩa hay phân tích cho rành mạch”. Viết văn thì phải thể
hiện
tính dân tộc. Nhưng tính dân tộc là gì? Hoài Thanh bình thơ Giang Nam
viết về
tình vợ chồng mà ông cho là có tính dân tộc:
Dây bầu
sai trái bên đầu ngõ
Vẫn đợi
anh về hái nấu canh
Đó là
tính dân tộc đấy, rất
Việt Nam! Người vợ nghèo Việt Nam chỉ mơ ước thế thôi.
Nhớ
chồng, thương chồng, em
khóc. Nhưng lại đổ tại con:
“Nó
khóc làm em cũng khóc
theo”
Thực ra
con không khóc, em
cũng khóc.
Tình
cảm của người Việt Nam
thường tỏ bầy, kín đáo, lặng lẽ, không ồn ào. Đó là cái tần ngần của
Kim Trọng
khi trở lại vườn Thuý:
Cuối
tường gai góc mọc đầy
Đi về
này những lối này năm
xưa...
Người
Tây thì khác: Le lac
của Lamartine: Ôi, hồ! ầm ĩ cả lên.
Về việc
phân biệt thơ hay thơ
dở, tức là việc thẩm văn, Hoài Thanh cũng quan niệm hết sức đơn giản,
theo lối
kinh nghiệm chủ nghĩa. Ông nói: “Phân biệt thơ hay thơ dở chỉ có đọc
nhiều. Ăn
phở mãi thì phân biệt được phở ngon. Chứ phân chất, định nghĩa phở ngon
là gì,
vô ích. Nhưng phải đọc kỹ, phải tinh. Nếu không, có khi mắc lừa. Phở có
lẽ ít
mắc lừa hơn.
Về điểm
này, tôi thấy Hoài
Thanh chỉ đúng một phần thôi. Vì thực tế có người đọc rất nhiều mà thẩm
văn vẫn
kém. Quan trọng là phải sống sâu sắc với những gì mình đọc, cũng như
những gì
mình thấy, mình nghe...Người sống hời hợt thì đọc thiên kinh vạn quyển,
đi khắp
thế giới, sống đến trăm tuổi, cũng chẳng có được năng lực thẩm văn tử
tế. Theo
tôi, Hoài Thanh sở dĩ thẩm văn tốt, chủ yếu vì ông sống sâu sắc cuộc
sống của
mình, sống sâu sắc với mọi cảnh vật quanh mình. Cứ đọc những đoạn bình
thơ của
ông mà xem.
Thí dụ,
ông bình thơ Tố Hữu,
bài Việt Nam, máu và hoa
“Ngày
29 – 1 – 1973, báo Nhân
dân đăng bài Việt Nam máu và hoa của Tố Hữu. Hôm ấy, hiệp định Pari vừa
kí được
hai hôm. Nhà thơ cảm thấy một niềm vui lớn quá, tưởng chừng như không
phải là
chuyện thật mà là chuyện trong mơ:
Khao
khát trăm năm mãi đợi
chờ,
Hôm nay
vui đến ngỡ trong mơ
Cả cái
êm ả của bầu trời, cái
bình yên của mặt đất cũng có cái gì như là không thật:
Một
trời êm ả xanh không
tưởng,
Mặt đất
bình yên giấc trẻ
thơ.
Có
người băn khoăn: chuyện ta
chiến thắng là chuyện tất nhiên, chuyện ta dự kiến từ lâu, chính ta tự
mình làm
nên chiến thắng, tại sao gọi là chuyện trong mơ? Nhưng tuần tự và đột
biến, tất
nhiên mà ta vẫn cứ ngạc nhiên, cuộc sống xưa nay là thế và chính vì thế
mà say
người. Một cây hoa ta trồng ta biết nó sẽ nở hoa, nhưng đến ngày nở
hoa, ta lại
không khỏi có chút ngạc nhiên. Một đôi vợ chồng trẻ, một hôm nào đó
cũng không
ngờ mình đã làm cha, làm mẹ. Một bông hồng nở, một đứa bé ra đời còn
thế nữa là
chuyện chiến thắng hôm nay...”
Đấy,
ông có dẫn sách vở gì
đâu. Toàn nói chuyện kinh nghiệm sống thông thường mà đem đến cho ông
những
rung cảm trước những vần thơ.
Ông nói
đúng: Đọc thơ, nếu
không có vốn sống thì cứ dửng dưng, không có xúc cảm gì. ấy là thơ đã
gieo vào
những tâm hồn chưa có gì để đón đợi nó.
Cảm
nhận được thơ hay thơ dở
rồi, lại còn phải biết diễn đạt sao cho hấp dẫn nữa. ở đây, Hoài Thanh
có hai
tư cách thống nhất làm một: nhà phê bình và thày giáo dạy văn.
Ông
nói: “Cách viết, cách nói
không nên cố định, mà tuỳ bài, tuỳ nội dung mà quyết định hình thức. Có
thể đi
từ đại ý đến chi tiết hay ngược lại. Điều quan trọng là làm sao luôn
luôn đặt
ra những vấn đề để giải quyết – cuộc sống là như thế.
Và phải
nói sao buộc người
nghe phải chờ đợi.
Thí dụ,
năm 1941, Tố Hữu ở
trong tù viết bài Quyết hy sinh, đã vẽ được hình ảnh người chiến sĩ
cộng sản
rất đẹp:
Các anh
chị bước lên đài gươm
máy
Đầu sắp
rơi mà môi vẫn cười
tươi!
Song
lúc đó anh mới 20 tuổi,
kinh nghiệm chiến đấu chưa nhiều, nên hình ảnh chưa sâu. Đến bài Ba
mươi năm
đời ta có Đảng ( 1960), hình ảnh người chiến sĩ được vẽ sâu hơn: “Miếng
cơm
dành để người sau ấm lòng”. Đúng hơn, sâu hơn. Đằng sau câu thơ lại có
thấp
thoáng hình ảnh anh Hoàng Văn Thụ.
Thí dụ
khác: Tháng Tám 1945,
Tố Hữu làm bài Hồ Chí Minh. Hình ảnh Bác rất đúng, rất đẹp:
Bao
thất bại dẫu xát lòng cay
đắng
Hồn vẫn
tươi vui, thơm ngát
tình đời.
Nhưng
lúc đó, Tố Hữu chưa
được gần Bác, nên có câu không đúng “Tiếng người thét, mau lên gươm lắp
súng”.
Tiếng thét này không phải của Bác. Sau này trong bài Sáng tháng năm,
anh sửa
lại đúng hơn:
Giọng
của Người, không phải
sấm trên cao
Thấm
từng tiếng, ấm vào lòng
mong ước.
Về cách
nói, có cách nói nhợt
nhạt, có câu nói cứ trơn tuồn tuột. Có cách nói làm cho người ta phải
chú ý.
Chữ dùng thì phải bình dị, gần gũi. Phải học ngôn ngữ quần chúng, học
ca dao,
để nói cho đỡ khô khan.
Và phải
tuỳ thể loại của tác
phẩm. Mỗi thể loại có ưu thế và hạn chế của nó, đáp ứng một khía cạnh
nào đó
của đời sống. Chẳng hạn, đánh giá Sống như anh phải theo đặc trưng của
thể ký.
Đọc ký, người ta tin có thực. Cái hay của ký, tác dụng của ký, một phần
là ở
chỗ người đọc tin là có thực. Nếu là tiểu thuyết thì người ta đòi hỏi
nhân vật
phải được đào sâu vào tâm lý với những diễn biến thầm kín và phức tạp.
Nhưng là
ký thì không ai đòi hỏi thế. Lê Anh Xuân làm Trường ca Nguyễn Văn Trỗi.
Anh tả
chị Quyên đến thăm anh Trỗi ở khám tử hình “Chấn song sắt cũng trổ cành
đơm
hoa”. Thơ tả thế được. Ký không tả thế được.
* *
*
Hoài
Thanh vốn là một học
sinh trường Bưởi. Ông cùng Tôn Quang Phiệt tham gia đảng Tân Việt, bị
nó bắt
giam rồi trục xuất khỏi Hà Nội, tống vào Vinh. Có một thằng Tây, chủ
nhà máy
gạch Vinh thấy ông nói được tiếng Pháp, gọi cho làm thư ký.
Một
buổi kia đi làm, xe đạp
thủng săm, đến chậm 15 phút, nó tát tai và đuổi. Ông tìm được một gia
đình xin
làm gia sư. Bùi Huy Tín ở nhà in Đắc Lập, Huế, tình cờ gặp, đưa vào
trong ấy
làm thợ chữa morasse (1931). Đến năm 1933, Đào Duy Anh, Tôn Quang Phiệt
thành
lập trường Collège tư thục Thuận Hoá. Ông được mời dạy. Ông dạy Việt
văn và
tiếng Pháp, vừa đi làm, vừa đọc sách, viết văn từ ngày ấy.
Hồi làm
thợ chữa morasse,
Hoài Thanh đã viết phê bình. Rồi nổ ra cuộc tranh luận với Hải Triều về
quan
điểm nghệ thuật. Hoài Thanh hàng ngày đi làm phải cuốc bộ, guốc gỗ, vậy
mà bị
quy là nhà văn phú hào. Còn Hải Triều đi xe nhà gọng đồng, nhà có 8 đầy
tớ, thì
là nhà văn vô sản. Hoài Thanh ngẫm nghĩ thấy cũng buồn cười.
Nhà in
Đắc Lập, nơi làm việc
của Hoài Thanh rất gần hiệu sách Hương Giang của Hải Triều. Họ rất dễ
gặp nhau.
Nhưng Hải Triều tránh không muốn gặp Hoài Thanh, vì sợ gặp, nhỡ hoà
giải với
nhau thì mất đối tượng đấu tranh.
Đọc
thơ, bình thơ quả là niềm
say mê, một niềm vui, thậm chí là lẽ sống của Hoài Thanh. Dường như lúc
nào ông
cũng băn khoăn day dứt về chuyện văn chương.
Trước
cách mạng, cãi nhau với
Hải Triều cũng là chuyện say mê văn chương. Sau cách mạng, phấn đấu về
tư
tưởng, nhưng vẫn luôn luôn trăn trở về quan niệm văn chương thế nào là
đúng, là
sai.
Năm
1954, anh Thành Thế Thái
Bình được cử vào tiếp quản Thủ đô. Trước khi nhận nhiệm vụ này, anh có
tham gia
cải cách ruộng đất đợt 5 với Hoài Thanh ít ngày ở Đại Từ – Thái Nguyên.
Anh
nhận xét, Hoài Thanh ba cùng rất nghiêm túc, thái độ với anh đội trưởng
rất
kính cẩn, một thưa anh, hai báo cáo anh, tuy anh này rất trẻ, chỉ đáng
tuổi con
ông thôi. Thành Thế Thái Bình lúc đó chỉ độ 20 tuổi, cũng được ông thưa
gửi như
thế. Ông không hề tỏ ra là một nhà văn, không bao giờ nói chuyện văn
chương.
Nhưng những buổi tối sáng trăng, thấy ông thường ngồi trầm ngâm, ở cái
chõng
ngoài sân, hút thuốc lào, vừa chống cái điếu cày, vừa nhìn trăng, thỉnh
thoảng
thở dài. “ Yêu trăng có phải là vị nghệ thuật không nhỉ, cũng có thể là
vị nhân
sinh chứ! Có nhất thiết cứ phải trực tiếp viết về người nghèo khổ mới
là vị
nhân sinh? Như thơ Hồ Xanh: “Nước mắt của anh em vô sản, là nguồn thơ
chảy ra
vô tận”? Tôi đoán ông tự hỏi mình như thế khi ngắm trăng và thở dài.
Tôi nghĩ
thế vì liên hệ đến đoạn Di bút của ông sau này viết về ý kiến Lê Duẩn
nói với
họa sĩ Huỳnh Văn Gấm hồi hoạt động ở trong Nam: “Không nhất thiết bức
tranh nào
cũng trình bày những hình ảnh công nông. Một bông hồng rung rinh dưới
ánh mặt
trời trong sương sớm sao lại không được xem là nghệ thuật vị nhân
sinh?”.
Trong
những ngày cuối đời,
ông ghi những ý nghĩ của mình vào một tập giấy gọi là Di bút. Đọc tập
Di bút
này thấy những băn khoăn day dứt cuối đời của ông chủ yếu cũng vẫn là
chuyện
văn chương, đặc biệt là chuyện hiểu thơ và bình thơ.
* *
*
Nhưng
trong những ngày cuối
cùng trước khi mất, theo anh Từ Sơn, Hoài Thanh hình như có ngộ ra một
cái gì
đó có vẻ ngược chiều với những suy nghĩ trước kia của ông.
Trong
Di bút (bản đánh máy Từ
Sơn cho tôi) tuy ông chủ yếu nói về văn chương, nhưng cũng có nêu lên
một vài
thắc mắc về chế độ xã hội miền Bắc. Chẳng hạn, ông nhận xét thái độ lao
động
của cán bộ ta không nghiêm túc bằng những viên chức của các cơ quan
dưới chính
quyền nguỵ (gọi là viên chức “lưu dung”). Thí dụ, những cô y tá, hộ lý
của bệnh
viện ta không phục vụ bệnh nhân tốt như y tá, hộ lý của các bệnh viện ở
Sài Gòn
trước 1975 ở lại làm việc với ta, hay những cô mậu dịch của ta thì rất
hách
dịch, cửa quyền. Còn luật lệ giao thông của ta thì không nghiêm như
luật lệ
giao thông của Sài Gòn thời nguỵ...Ông thuật lại câu chuyện của em ông
là
Nguyễn Đức Ninh là đảng uỷ viên xã Nghĩa Mỹ huyện Nghĩa Đàn. Trong cải
cách
ruộng đất, khi anh bí thư đảng uỷ bị bắt, bị quy là phản động mà Ninh
không hề
biết, anh rất phục đảng: đảng tài giỏi quá!. Nhưng đến khi chính anh
cũng bị
bắt thì anh mới thấy, hoá ra đảng cũng sai (Từ Sơn cho biết Nguyễn Đức
Ninh bị
kết án tử hình, sau hạ xuống tù chung thân).
Ông
thắc mắc cả về Lê Duẩn
khi Duẩn nói Nguyễn Du không có chút tình cảm gì với quần chúng. Ông
thắc mắc
cả về Hồ Chí Minh: trong 5 điều Bác Hồ dạy “không có một điều nào nói
về tình
thương mẹ, thương cha. Tình thương ấy mà không có hoặc có mà lệch lạc
thì đâu
có thể nói được là đã nên người”. Hoặc là “vào khoảng năm 1952, tôi
được nghe
Bác nói trong một lớp chỉnh huấn: “Bác có thể sai, Trung ương có thể
sai...
Nhưng đồng chí Mao Trạch Đông, đồng chí Xitalin thì không thể
sai”(...). ý kiến
ấy khó có thể nói là không sai.
Tuy
thắc mắc đấy, nhưng qua
cách diễn đạt, thấy ông vẫn phải rào đón rất kỹ. Di bút chỉ viết cho
con đọc
thôi mà phải rào đón như thế có nghĩa là ông chỉ phân vân thế thôi, chứ
vẫn rất
tin ở đảng, ở Lê Duẩn và cụ Hồ.
Về bài
thơ của Xuân Sách viết
về ông, Đặng Vương Hưng có viết trên một số Văn nghệ công an rằng Xuân
Sách có
đến thăm Hoài Thanh khi ông Hoài sắp mất. Xuân Sách cho biết, cuối cùng
Hoài
Thanh đã thú nhận Xuân Sách viết về ông như thế là đúng. Thực ra, theo
Từ Sơn,
Đặng Vương Hưng đã bịa ra chuyện ấy. Vì khi ốm nặng, Hoài Thanh ra Hà
Nội, còn
Xuân Sách vẫn ở Vũng Tầu, không hề đến thăm. Theo Từ Sơn, chuyện thật
chỉ là
thế này: Hoài Thanh nói với Từ Sơn: “Xuân Sách nó dùng Kiều để nói mình
vì biết
mình mê Kiều. Nhưng câu thứ hai ác quá. Nên sửa như thế này cho đúng:
“Nửa đời
lại phải vị người cấp trên” – thêm cho một chữ “phải”. Vậy là có thể
hiểu,Hoài
Thanh quả có công nhận Xuân Sách nói đúng một phần về mình.
Khi
Hoài Thanh mệt nặng, Từ
Sơn có nói với Tố Hữu đến thăm.
Tố Hữu
đến, Hoài Thanh quay
mặt vào tường không tiếp. Tố Hữu về rồi, ông mới quay ra. Ông nói với
Từ Sơn:
“Từ bài Chuyện thơ (Làm bí thư hoài có bí ... thơ), coi như sự nghiệp
của Tố
Hữu đã kết thúc.
Tôi cho
ông nói thế là đúng.
Qua bài Chuyện thơ, Tố Hữu ngang nhiên tuyên bố: “Ta là nhà thơ bí thư
Đảng,
nhà thơ lãnh tụ đây!”. Cụ Hồ làm thơ có bao giờ tuyên bố thế đâu! Thậm
chí còn
coi những “bạn tù nghiện ngập, bẩn thỉu, ghẻ lở là tri âm tri kỷ nữa
“Gẩy đàn
trong ngục thấy tri âm” (Ghẻ)
Láng Hạ, 25 – 5 – 2007
NGUYỄN
ĐĂNG MẠNH VIẾT VỀ
HOÀNG NGỌC HIẾN
Hoàng
Ngọc Hiến là một trong
hai người bạn đồng tuế thân nhất của tôi (người thứ hai là Phạm Luận,
cán bộ
giảng dạy ở Đại học Việt Bắc). Có thểgọi là tri âm tri kỉ, hiểu nhau từ
cái hay
đến cái dở, chỗ mạnh và chỗ yếu, hoàn toàn tin cậy nhau, luôn quan tâm
bảo vệ
nhau.
Tôi với
Hoàng Ngọc Hiến như
có duyên trời xe kết vậy.
Anh ở
tận Nghệ Tĩnh, tôi ở
Việt Bắc. Thế mà tình cờ gặp nhau. Tôi cùng gia đình tản cư từ Bắc Ninh
lên
Thái Nguyên hồi kháng chiến chống Pháp, anh thì chạy cải cách ruộng đất
cũng
vọt lên đấy. Anh có một người học trò tên là Lới, trong đoàn uỷ cải
cách ruộng
đất, báo cho biết phải chạy ngay lên Việt Bắc vì lý lịch xấu, có thể
nguy. Và
anh ta lấy quyền đoàn uỷ viên giải quyết ngay cho Hiến (Trong cải cách,
bố
Hoàng Ngọc Hiến bị quy địa chủ và bị tù). Lên Thái Nguyên, anh dạy văn
ở trường
Lương Ngọc Quyến. Còn tôi lúc đó là cán bộ Sở giáo dục Việt Bắc thường
đến
Lương Ngọc Quyến là trường trọng điểm của Sở, để kiểm tra, theo dõi về
chuyên
môn.
Dạy ở
Lương Ngọc Quyến ít
lâu, anh được gọi về trường Đại học Hà Nội. Thầy Nguyễn lương Ngọc cho
Hiến có
hiểu biết về triết học, bố trí làm trợ lý cho Trần ĐứcThảo. TRần Đức
Thảo thấy
Hiến là đảng viên, không nhận. Vì thế Hiến phải chuyển sang làm trợ lý
cho
Hoàng Xuân Nhị dạy văn học Nga Xô viết.
Từ Đại
học Sư phạm Hà Nội,
Hiến được cử sang Liên Xô làm nghiên cứu sinh. Tôi thì chả đi đâu cả,
chỉ quanh
quẩn ở trong nước. Nhưng rồi tình cờ tôi và Hiến lại gặp nhau ở Đại học
Sư phạm
Vinh. Tôi thì bị điều từ Hà Nội vào. Hiến lẽ ra được ở Hà Nội, vì Đại
học Hà
Nội cử đi học, nay đỗ phó Tiến sĩ trở về, phải được ở Hà Nội. Nhưng Đỗ
Đức Uyên
bí thư đảng uỷ và Hoàng Dung bí thư liên chi cho Hiến mắc chủ nghĩa xét
lại
Khrútxốp, không nhận lại nữa, tống anh vào Vinh.
Từ
Vinh, tôi được chuyển ra
Hà Nội trước. Hiến ra sau. Nhưng rồi lại gặp nhau ở trường Viết văn
Nguyễn Du.
Anh phụ trách trường này, còn tôi được mời đến dạy. Rồi nhờ có Phan
Ngọc Thu,
một học trò cũ của tôi, lúc đầu ở Đại học Sư phạm Huế, sau ở Đại học Đà
Nẵng,
tổ chức đào tạo giáo viên cấp II lên trình độ đại học và bồi dưỡng giáo
viên
chuyên văn, thường mời tôi và Hiến vào giúp. Thế là lại gặp nhau luôn,
khi ở
Huế, khi ở Đà Nẵng, khi ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Tôi thích
đi, Hiến
cũng thế. Tôi là thằng ham chơi, vui đâu chầu đấy, Hiến cũng vậy, cứ ới
là đi,
để tán chuyện, để đánh chén. Ngoài ra tôi hay mời anh đến làm phản biện
cho
nghiên cứu sinh của mình. Mời là anh đến ngay...
Tuy
nhiên tôi và Hiến có
những chỗ không giống nhau. Anh dạy văn học nước ngoài, thích lý luận,
thiên về
tư duy trừu tượng, say mê triết học Đông Tây. Tôi chỉ dạy văn học Việt Nam và
thiên về
nghiên cứu văn học sử và phêbình văn học. Hiến rất thích nhận xét khái
quát,
đúc thành những mệnh đề chắc nịch, tuy có phần cực đoan, chẳng hạn:
- Đặc
điểm người Nghệ Tĩnh:
"Cái gì cũng biết, trừ hạnh phúc."
- Phân
loại cán bộ giảng dạy
đại học: "Có hai loại động vật và thực vật. Loại động vật, suốt ngày
lăng
xăng, chạy từ đề tài này sang đề tài khác, không nghiên cứu được cái gì
nên
hồn, dù thông minh, cũng chỉ có những ý kiến loe loé thế thôi, chẳng
làm nên sự
nghiệp gì. Loại thực vật, ngồi yên kiên trì suy nghĩ, như cái cây cắm
rễ xuống
đất thật sâu, có thế mới làm khoa học được."
- ý
kiến sinh viên nhận xét
thầy: "Nói chung chê thì đúng, khen thì
thường
sai..."
Hiến
cái gì cũng muốn giải
thích, cũng tìm quy luật. Thí dụ: Anh nói: " Lê Hoài Nam
nếu cao hơn
5 phân, số phận khác hẳn". Lê Hoài Namlà chủ nhiệm khoa Văn Đại học Sư
phạm Vinh, sau là bí thư đảng uỷ trường và Hiệu trưởng Đại học Sư phạm
Quy
Nhơn. Anh người thấp lùn, hơi dị dạng. Hiến cho rằng vì đặc điểm cơ thể
như vậy
nên Lê Hoài Nam
rất ngại xuất hiện ở chỗ đông người, nơi thành phố lớn, nên cứ lùi dần,
lùi dần
vào nơi hẻo lánh: Vinh, rồi Quy Nhơn.
Có lần
tôi nhận xét, các danh
nhân thế giới thường là người ở các tỉnh nhỏ, nhưng về Thủ đô thì thành
danh
nhân. Danh nhân người gốc ở Thủ đô rất ít. Như Trần Hưng Đạo, Nguyễn
Trãi,
Quang Trung, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Hồ Chí Minh, như Marx, Tolstoi,
Lomonosov, Napoléon... Hiến giải thích luôn: "Vì ở Thủ đô lắm cái hấp
dẫn
làm cho con người ở đây phung phí hết tinh lực, Người các địa phương
tinh lực
không mất, về Thủ đô được phát huy lên".
Vì sao
Hồ Chí minh chết đúng
vào ngày Tuyên ngôn độc lập 2.9? Hiến giải thích: "Vì ông cố tình chết
vào
ngày ấy. Ông Hồ là đáo để lắm. Chỉ cần dứt đứt các giây dợ ở ống thở
ôxy là
chết chứ gì".
Hiến
thường có những nhận xét
rất gọn và rất ác về người này người khác trong giới đại học. Hồi ở Đại
học Sư
phạm Vinh, tôi với Hiến thường đạp xe đi về cùng đường với nhau (Hà Nội
- Vinh
hay Hà Nội - Thanh Hoá) dọc đường, thường "luận anh hùng" trong thiên
hạ. Thường tôi hỏi, Hiến trả lời. Thí dụ:
- NĐN
(một giáo sư tiến sĩ
được đánh giá rất cao ở Đại học Sư phạm Hà Nội) chỉ là một giáo viên
cấp III
giỏi.
- Không
nên đánh giá ĐVK
(giáo sư tiến sĩ của Đại học tổng hợp Hà Nội) là giỏi hay dốt. Anh ta
là người
không có trí khôn.
- HL
(cán bộ dạy sử của Đại
học Sư phạm Vinh) kết tinh mọi cặn bã của dân Nghệ Tĩnh.
- Có
một giáo sư văn học,
trước khi dự lớp, anh đánh giá là một con sư tử (về chuyên môn, khoa
học), khi
dự lớp về, anh nói: chỉ là một giáo viên phổ thông.
- Một
vị giáo sư văn học
khác, anh cho chẳng hiểu văn là gì cả.
- Anh
nhận xét ĐT, một cây
bút phê bình khá tài hoa ở hải ngoại, chỉ là một ông chánh tổng Annam ở Paris.
- PTL
(giáo sư trường Đại học
Sư phạm Hà Nội). Hiến nói: "Một điều nhục nhã của mình là đồng hương
với
PTL. Thậm chí chỉ quen biết PTL thôi cũng đã là một sai lầm, một sai
lầm không
thể sửa chữa được".
Hiến có
những nhận xét rất
cảm tính, nghĩa là chưa có căn cứ đầy đủ. Nhưng anh rất tin ở trực cảm
của
mình.
Trường
Đại học Sư phạm Vinh
có chủ trương cán bộ giảng dạy phải theo sát thực tế phổ thông. Ai đã
đi hướng
dẫn thực tập sư phạm thì không nói làm gì, những những người không
hướng dẫn
thực tập cũng phải về ở một đoàn thực tập nào đấy khoảng một tuần lễ,
gọi là
tham quan thực tập. Hiến cũng phải về một đoàn, anh chọn một đoàn ở gần
chỗ
khoa Văn sơ tán, do LBH phụ trách. Đêm ấy, LBH và Hiến cùng ngủ trong
một căn
phòng kê hai cái giường song song. LBH hỏi Hiến một cách trịnh trọng:
"Anh
là người sâu sắc, từ ngày anh về trường này, anh nhận xét tôi là người
thế
nào?". Hiến trả lời luôn: "Cậu là người thiếu nhân cách". LBH
ắng đi một lúc vì nhận xét quá bất ngờ của Hiến. Nhưng rồi gặng hỏi
Hiến:
"Anh cho dẫn chứng?". Hiến bí không tìm ra dẫn chứng. Mãi sau cũng cố
đưa ra một ví dụ: "Chẳng hạn, cậu không biết tiếng Pháp mà cứ làm như
biết".
Trong
quan hệ hàng ngày với
tập thể cán bộ, sinh viên, Hiến rất hồn nhiên, chân thật, dễ tính, nên
được anh
em mến. Nhưng hình như anh có máu phiến loạn, thích gây sự với lãnh
đạo. Hồi
những năm 60 của thế kỷ trước, tôi nhớ Phạm Văn Đồng có viết một bài về
việc
giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Bài ấy, người khác có thể coi là
thường,
không hay hoặc chưa đúng chỗ này chỗ khác. Nhưng Hoàng ngọc Hiến thì
phải nói:
"Phạm Văn Đồng viết bài ấy là thiếu văn hoá". Ở Đại học Sư phạm Vinh,
Hiến bị lãnh đạo quy tội thiếu quan điểm giáo dục, vì không chịu đi
thực tế,
luôn luôn bỏ ra Hà Nội, lẩn tránh việc hướng dẫn sinh viên thực tập sư
phạm.
Hôm ấy, chi bộ họp kiểm thảo Hiến về khuyết điểm này, có Lê Hoài Nam là
đảng uỷ
viên của trường xuống dự. Hiến nói: "Tôi cho rằng không đi thực tế mà
nắm
được thực tế mới giỏi. Tôi kém, nên còn phải đi thực tế một lần. Anh Lê
Hoài Nam
không đi
lần nào mà nắm được thực tế mới giỏi chứ!" Những câu nói như thế, tôi
chắc
Hiến đều có nghiền ngẫm cẩn thận. Phóng ra những đòn như thế, Hiến bao
giờ cũng
chuẩn bị rất chu đáo. Tôi biết rõ điều này. Vì cùng được mời đi nói
chuyện với
anh nhiều lần, tôi thấy anh bao giờ cũng chuẩn bị bài bản rất cẩn thận.
Trở lại
tính thích gây sự của
Hiến đối với lãnh đạo. Như đã nói, Hiến ít ở khoa (Đại học sư phạm
Vinh), hay
ra Hà Nội. Có lần anh vắng mặt đúng vào dịp công đoàn khoa văn xếp loại
cán bộ
theo ba mức A, B, C. Tiêu chuẩn cũng nhẹ nhàng thôi. Loại A chỉ là
không có
khuyết điểm gì đáng kể thôi. Hầu như cả khoa không có trường hợp nào
phải xếp
loại B cả. Tổ công đoàn, được sự chỉ đạo của chi bộ Đảng, lập kế hoạch:
khi
Hiến ở Hà Nội vào thì họp xếp loại. Chủ trương của Chi bộ là phải, nhân
cuộc
xếp loại này, nghiêm khắc kiểm điểm Hiến về tư tưởng. Trình tự cuộc xếp
loại
được dự kiến như sau: người được xếp loại tự xếp loại trước. Anh em
trong tổ có
ý kiến sau. Người ta đoán chắc Hiến sẽ tự nhận loại A. Lúc đó anh tổ
trưởng sẽ
điều khiển tổ viên phân tích thiếu sót của Hiến, đại khái như sau: Anh
Hiến chỉ
đáng xếp loại B thôi, vì khuyết điểm này, khuyết điểm khác... Nhưng gần
đây anh
đã tỏ ra có tiến bộ, thí dụ như gánh nước uống cho anh em tập tự vệ,
vậy ta
chiếu cố xếp lên loại A... Nhưng, bất ngờ, Hiến chỉ tự xếp loại B. Bài
bản đã
dự kiến thế là bị phá sản. Tuy thế, tổ trưởng là tay khá thông minh,
anh ta vẫn
tìm được cách thực hiện phương án cũ: "Đúng, anh Hiến tự xếp mình loại
B
là đúng (Phân tích khuyết điểm của Hiến một chập). Nhưng vì gần đây có
một vài
tiến bộ nên ta chiếu cố xếp lên loại A". Hiến nhất định không nghe, chỉ
nhận loại B thôi. Anh nói: "Đối với tôi A hay B cũng thế thôi. Và tôi
chẳng tiến bộ gì cả. Còn nếu các anh muốn tìm chỗ tiến bộ thật sự của
tôi thì
tôi xin mách: tôi rất tiến bộ về chuyên môn, soạn bài rất kỹ". Mà đúng
như
vậy thật. Tôi đã dự giờ Hiến dạy một lần. Anh soạn bài rất nghiêm túc.
Anh muốn
ý tưởng của mình phải được trình bầy thật sáng rõ, rành mạch, gây ấn
tượng và
có sức thuyết phục.
Hoàng
Ngọc Hiến có một phản
ứng khá dữ dội, chung quanh vụ "hiện thực phải đạo" (Hoàng Ngọc Hiến
viết bài Về một đặc điểm của văn học nghệ thuật ở ta trong giai đoạn
vừa qua
đăng Văn nghệ số 23 (9.6.1979) có luận điểm nổi tiếng "hiện thực phải
đạo"). Hồi ấy anh còn ở Triệu Việt Vương. Tôi đến anh một buổi chiều.
Anh
kể một câu chuyện vừa xẩy ra với anh: sau bài "hiện thực phải đạo",
anh bị đánh rất mạnh. Trên tạp chí cộng sản, Hà Xuân Trường có bài đả
Hiến.
Hiến viết bài tranh luận lại. Tạp chí cộng sản không đăng, cho người
đến mời
anh lại toà soạn để nói chuyện. Tay
phái viên
đến mời anh, nói xong, lấy cái điếu cầy định làm một hơi. Hiến quát
ngay:
"Thôi, không hút. Đi ngay, không hút sách gì cả!". Đến toà soạn tạp
chí, mấy biên tập viên đã chờ sẵn: "Nào mời anh lên gác. Chuyện văn
chương
phải nói nơi kín đáo". Hiến lại bác lại ngay: "Chuyện văn chương
không việc gì phải kín đáo!". Hiến giải thích với tôi: "ấy đối với
bọn này cứ phải tấn công như thế, tấn công ngay từ thằng đến mời". Ban
biên tập tạp chí Cộng sản giải thích với Hiến: "Hiện nay bọn Tàu đang
gây
sự ở biên giới. Tạp chí phải dành giấy để đăng bài phê phán chủ nghĩa
bá quyền
Bắc Kinh, không đăng bài của anh được". Hiến phản ứng ngay: "Tại sao
ta thừa giấy để đánh bọn cường bạo nước ngoài, lại thiếu giấy để đánh
bọn cường
bạo trong nước!".
Năm
1980, người ta tổ chức
một cuộc hội nghị khoa học đặt ở Viện bảo tàng cách mạng xế xế Nhà hát
lớn Hà
Nội. Hội nghị toàn quốc, rất đông. Tôi có gặp một số bạn quen ở Vinh,
Huế ra họp.
Hoàng Ngọc Hiến hôm ấy nói buông mà rất rành mạch, hấp dẫn. anh nhắc
lại cái
câu đã nói ở trụ sở tạp chí cộng sản: "Tại sao ta thừa giấy để đánh bọn
cường bạo nước ngoài, mà lại thiếu giấy để đánh bọn cường bạo trong
nước!". Đến giờ nghỉ. Mọi người, hoặc tản ra dạo chơi ngoài vườn hoa,
hoặc
ngồi trò chuyện với nhau trong hội trường. Tôi cũng ngồi lại trong hội
trường
nói chuyện với mấy anh bạn cũ ở Vinh, ở Huế. Hiến cũng ở lại hội
trường, nhưng
ngồi một mình cách vài hàng ghế, trước mặt chúng tôi. Hà Xuân Trường
lững thững
từ hàng ghế đầu đi xuống chỗ Hiến, vỗ vai anh thân mật. Hiến gạt phắt
tay
Trường ra: "Tôi không phải hạng người cho anh vỗ vai nhé!". Trông
Hiến lúc ấy rất dữ. Hà Xuân Trường sững người và hơi ngượng. Anh phân
bua với
chúng tôi: "Đấy, các anh xem, anh Hiến anh ấy như thế đấy!".
Buổi
trưa hôm ấy, Hiến rủ tôi
về nhà ăn cơm. Trong bữa cơm, Hiến hỏi tôi: "Sao, cậu thấy mình nói có
được không?". Tôi khen: "Khá lắm!". Chị Tố Nga, vợ Hiến, mách
luôn: "Lẩm bẩm suốt đêm làm gì mà không khá!". Thì ra Hiến không phải
chỉ chuẩn bị ý, mà còn luyện nói nữa. Hiến thế mà cũng là một tay đấu
khẩu khá
nhanh trí và đáo để.
Cũng
vào khoảng trước sau năm
1980, khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội có tổ chức một cuộc hội thảo khoa
học, đề
tài: giáo dục tư tưởng qua giảng dạy văn học. Hiến lúc đó vẫn còn ở Đại
học Sư
phạm Vinh. Anh ra dự hội nghị. Không biết bản báo cáo viết của anh gửi
ra như
thế nào, nhưng anh trình bầy miệng thì khá gai góc, và hình như anh lại
cố tình
diễn đạt cho thật ấn tượng về cái ý rất gai góc của mình. Anh cứ thủng
thẳng
nói đi nói lại: "Những gì chi bộ Đảng, đoàn thanh niên, đài phát thanh,
báo Đảng đã nói hay viết, thì trong lớp ta không nói. Ta chỉ nói những
điều chi
bộ Đảng, đoàn thanh niên, đài phát thanh, báo Đảng không nói, không
viết".
Ý kiến của Hoàng Ngọc Hiến đã gây chấn động hội nghị. Những người lãnh
đạo hội
nghị rất lo ngại (lãnh đạo hội nghị là Nguyễn Văn Hạnh quyền chủ nhiệm
khoa và
Trần Thanh Đạm phó chủ nhiệm khoa). Đạm thấy nhất thiết phải uốn nắn
lại. Anh
động viên Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thị Hoàng lúc đó là đảng viên dự bị hay
cảm tình
đảng gì đó lên phê phán Hiến. Tôi không nhớ ý kiến của cô Hoàng thế
nào, chỉ
nhớ một câu mỉa mai của Châu: "Đứa trẻ con ngồi trên vai bố, cứ tưởng
mình
cao hơn bố". Hoàng Ngọc Hiến giơ tay xin phát biểu. Anh cố tình tự
khoe:
"Tôi đã góp phần làm cho hội nghị thành công. Vì một hội nghị khoa học
có
tranh luận học thuật thì mới là một hội nghị có kết quả. Tôi đã gây
được cuộc
tranh luận cho hội nghị. Ngoài ra tôi rất sướng vì đã được ngồi trên
vai anh Đỗ
Hữu Châu".
Sau hội
nghị này, Trần Thanh
Đạm gửi giấy cho chi bộ Đảng của khoa Văn Đại học Sư phạm Vinh phản ánh
về sự
"lệch lạc tư tưởng" của Hiến. ít ngày sau, tôi đến chơi Hiến - Anh
vẫn ở Triệu Việt Vương. Một căn phòng rất hẹp, chỉ độ 16 mét vuông. Kê
được hai
cái ghế salon và một cái bàn nước nhỏ. Tôi và Hiến ngồi ở salon. Chị Tố
Nga, vợ
Hiến giải chiếu ngồi trên nền nhà. Chị cứ chỉ tay vào mặt Hiến mà nói
đi nói
lại xa xả: "Tôi không thấy có ai ngu như anh Hiến!". Nói mãi chán, chị
bỏ ra đi. Hiến thủng thẳng nói với tôi: "Hắn nói thế mà đúng. Như ta
vẫn
nói đế quốc Mỹ là ngu ấy mà!". Té ra, anh lại ngẫm nghĩ về lời nói của
vợ,
như một đối tượng nghiên cứu.
Chị Tố
Nga, vợ Hiến, là một
người cũng khá đặc biệt: chuyên môn mạt sát chồng trước mặt khách khứa
bạn bè,
thậm chí trước cả học trò của chồng. Nhưng đám học trò của anh đã có
kinh
nghiệm: bà ấy nói thầy Hiến thì được, chứ người khác tưởng bở, cũng phụ
hoạ
theo, nói theo, là chết với bà ấy. Còn Hoàng Ngọc Hiến thì coi thường,
bỏ ngoài
tai, xem như nói ai đó, chẳng dính dáng gì đến mình.
Hoàng
Ngọc Hiến, tư duy khoa
học thì tỏ ra sâu sắc, nhưng trong đời sống thực tế, nhiều khi rất nhẹ
dạ, cả
tin. Vào khoảng 1987, Hội văn nghệ Quảng Nam- Đà Nẵng có mời tôi và
Hiến vào
nói chuyện với giới văn nghệ trong ấy. Chúng tôi ở với nhau độ một tuần
lễ, sau
đó, Hiến vào Sài Gòn, tôi ra Hà Nội. ít ngày sau, tôi đang ngồi ở nhà
(tại Đồng
Xa) thì thấy Hiến đạp xe tới. Lúc đó mới độ 8 giờ sáng. Tôi hỏi ra bao
giờ. Anh
nói ra sáng nay, tàu 7 giờ sáng tới Hà Nội. Tôi ngạc nhiên: vừa về Hà
Nội đã
vội đến tôi làm gì! Hoá ra anh vừa tham gia một đảng gọi là đảng "Nhân
dân
hành động" và ra Hà Nội để phát triển Đảng. Người đầu tiên anh định kết
nạp là tôi. Anh nói, không sợ gì cả. Tay
thủ
lĩnh là một tay tiến sỹ ở Mỹ về. Rất trí thức. Đảng này đã thống nhất
với cộng
sản chuẩn bị ra đa đảng. Trong đảng này có một uỷ viên bộ chính trị và
một
thiếu tá công an cộng sản. Đảng phát triển chủ yếu vào trí thức. Anh
lại hỏi,
thằng Thanh nhà ông vào Sài Gòn đã có việc làm và nhà cửa gì chưa, để
anh lo
giải quyết cho.Tôi không tin, từ chối: "Cậu định làm chính trị à? Không
sợ
công an à?" Hiến có vẻ xem thường, cho tôi là thằng nhát. ít lâu sau
tôi
được biết đảng này phát triển mạnh ở vùng Vĩnh Long, vừa bị bắt một
loạt. Tôi
vào Cần Thơ, Dạ Ngân bảo thế.
Một
thời gian sau, tôi gặp
lại Hiến ở trụ sở văn nghệ. Tôi hỏi Hiến: "Biết gì chưa?" Hiến:
"Biết rồi! Biết rồi!" Tôi lại hỏi: "Có sao không?" Hiến:
"Không sao, không sao - Nhưng này, đừng nói với ai nhé!"
Dương
Thu Hương khi biết chuyện
này, nói với tôi: "Ông Hiến mà là
đàn bà
thì chửa hoang hàng tỉ
lần".
Tôi cho
rằng Hoàng Ngọc Hiến
có số "quý nhân phù trợ". Nghĩa là luôn gặp may. Tôi ví anh với nhân
vật Pie Bêdukhốp trong Chiến tranh và hoà bình của L.Tolstoi. Người to
lớn, ra
trận cứ trương ngực ra mà đi giữa chiến trường, nhưng tên đạn cứ tránh
không
dính. Đấu súng tuy không biết bắn súng, mà lại thắng một tay thiện
xạ... Hiến
cũng thế. Ăn nói táo tợn với người có chức có quyền, hành động nhiều
khi dại
dột. Nhưng chẳng sao cả. Vẫn đi Pháp, đi Mỹ đều đều. Anh kể tôi nghe
cái vụ
"phải đạo" của anh hồi 1980, anh có một cú thoát hiểm rất ngoạn mục.
Người ta tổ chức hẳn một cuộc hội nghị để đánh anh. Lê Đức Thọ trực
tiếp chỉ
đạo. Loại có vấn đề như tôi, không được mời. Hơn 50 người được mời có
chọn lọc
để nhằm phê phán Hiến. Hiến là người thứ 50 (avant dernier) được phép
phát
biểu. Người cuối cùng là Chế Lan Viên (thứ 51) . Người ta bố trí một
tay sắc
sảo như thế để có thể đập tan ý kiến của Hiến vàhội nghị kết thúc luôn.
Giờ
nghỉ, Lê Đức Thọ trò chuyện với Hiến mới biết Hiến là người đồng hương
với
mình. Cùng quê Đức Thọ, Hà Tĩnh (Lê Đức Thọ ở Nam Định, nhưng quê gốc ở
Đức
Thọ, Hà Tĩnh, anh em Lê Đức Thọ đều lấy biệt danh có chữ Đức hoặc chữ
Thọ: Đinh
Đức Thiện, Mai Chí Thọ, Lê Đức Thọ) Thế là Hiến gặp may. Vì tình đồng
hương, Lê
Đức Thọ đã cứu anh. Ai đó trong hội nghị nói Hiến chịu ảnh hưởng tư
tưởng mỹ
học của Kant. Thọ dõng dạc khẳng định trước hội nghị: "Hoàng Ngọc Hiến
chẳng kăng kiếc gì hết, Hoàng Ngọc Hiến là Mác Lênin". Tình thế thành
ra
đảo ngược. Chế Lan Viên chót đánh Hiến, thấy thế, đâm hoảng, bèn lảng
qua chỗ
Hiến đang ngồi với Lê Đức Thọ, nói khẽ với anh: "Lúc nãy tôi có nói
điều
gì quá, anh bỏ qua đi cho nhé!". Sau này, Chế Lan Viên còn nhờ tôi nhắn
lại với Hiến hai lần như thế. Lại còn nói phách "Tôi có trọng anh Hiến
thì
tôi mới tranh luận với anh ấy chứ!".
Có lẽ
vì hay gặp may mà Hiến
luôn luôn lạc quan.
Lại vẫn
cái vụ "hiện
thực phải đạo". Tôi nhớ giáp Tết âm lịch năm ấy, Khái Vinh có mời tôi,
Hiến và Xuân Diệu ăn thịt chó ở Hàng Lược. Lúc đó, dân Nhật Tân đã lục
tục đem
đào tới bán. Khái Vinh nói, anh Hiến là người có tài mà khổ, bị đánh dữ
quá!.
Xuân Diệu nói: "Con người ta có trải qua đau khổ thì mới nên người".
Nhưng Hiến lại phát biểu một cách đắc ý: "Những điều tôi được nhiều hơn
những điều tôi mất". Và anh dẫn chứng: "Đứa con gái tôi vào Sài Gòn,
giáp Tết bị mắc kẹt ở đấy không ra được vì giao thông khó khăn. Có một
anh phi
công cho lên ngồi ghé phụ bay ra không mất tiền, vì biết là con ông
"hiện
thực phải đạo". Cũng con bé ấy học đến lớp cuối cấp, sắp thi đại học,
rất
cần có người luyện cho môn toán. Rất may, có một cô giáo tự nguyện đến
luyện
giúp miễn phí vì biết là con ông "hiện thực phải đạo". Đó là chưa kể
nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đến tận nhà Hiến tặng hoa. Và bài "hiện thực
phải đạo" đã làm cho anh nổi tiếng một thời và được nể trọng trong giới
trí thức cấp tiến.
Đúng là
Hoàng Ngọc Hiến có
quý nhân phù trợ thật.
Hồi
Hiến sang Mỹ, có một bọn
Việt kiều chống cộng quá khích định hành hung anh. May sao lại có một
thượng
nghị sĩ Mỹ phái một vệ sĩ của ông ta tới bảo vệ - Mới đây Hiến kể với
tôi như
vậy.
* * *
Tôi rất
tin cậy Hoàng Ngọc
Hiến. Nên chịu ảnh hưởng Hiến về nhiều mặt, đặc biệt là trong việc dùng
thuốc.
Thuốc huyết áp, thuốc bổ, thuốc loãng xương... Tất nhiên tôi có chịu
ảnh hưởng
anh cả về tư duy khoa học. Hiến có tài liệu nào anh cho là hay hoặc
nghĩ ra
điều gì có vẻ tâm đắc, đều trao đổi với tôi. Trò chuyện với Hiến bao
giờ cũng
có ích, dù ít dù nhiều, đối với cái nghĩ của mình. "Dữ quân nhất dạ
thoại,
thắng độc thập niên thư". Người xưa nói thế, vận dụng vào trường hợp
Hoàng
Ngọc Hiến e có hơi quá. Nhưng quả là trò chuyện với Hiến bao giờ cũng
thu lượm
được một cái gì đó có ích. Hiến rất ghét giáo điều và nghĩ cái gì thì
nghĩ đến
nơi đến chốn. Tôi cho rằng, mấy phát biểu sau đây của Hiến là những ý
kiến nghe
được:
Nghiên
cứu khoa học, quan
trọng nhất là nghĩ bằng cái đầu của mình và viết bằng lời văn của mình.
Đọc
người khác rất cần, song phải thấm thế nào đó để trở thành của mình, để
khi
nghĩ là nghĩ bằng cái đầu của mình và viết bằng lời văn của mình.
Quán
tính của con người là
thường quy những điều chưa biết vào cái sơ đồ có sẵn, sơ đồ biết rồi.
Do lười
nghĩ. Quán tính rất mạnh, lay chuyển được quán tính, được cách nghĩ là
khoa
học.
Khoa
học trước hết là đặt vấn
đề đích đáng. Tìm ra cái mới hoàn toàn rất khó. Thường chỉ chỉnh lại
một tý.
Vấn đề đặt ra đúng, nhưng chưa đúng hẳn. Chỉnh lại một tý như chỉnh ti
vi cho
hình nét hơn, âm rõ hơn. Thí dụ, nói Đam Săn anh hùng dũng cảm là đúng.
Nhưng
thực ra tính cách Đam Săn phong phú hơn: hồn nhiên, trung thực, lãng
mạn, ngỗ
nghịch... đặc biệt là một cá tính tự do.
Nói Số
đỏ đả kích những ông
chủ bà chủ của xã hội cũ là đúng, nhưng đâu chỉ có thế. Số đỏ là cả một
xã hội
hài hước gồm đủ hạng người, ai cũng buồn cười, một xã hội ngớ ngẩn, nhí
nhố, lố
bịch... , kể cả bình dân.
Hiến
khẳng định vai trò quan
trọng của cảm hứng và trực giác. Tôi cho rất đúng. Anh nói, cảm hứng
lay động
toàn bộ năng lực tinh thần của người nghiên cứu. Trong giây phút ấy,
con người,
cùng một lúc, có vô số liên tưởng, kể cả liên tưởng vô thức. Do đó rất
sáng
suốt. Nhưng phải băn khoăn nhức nhối về nhân sinh, về văn học mới có
cảm hứng
dẫn tới tìm tòi phát hiện. Cảm hứng làm cho câu, chữ có hồn. Cảm hứng
phát huy
trực giác, khiến cảm nhận được cái mới. Mọi tìm tòi đều bắt đầu bằng
trực giác.
Sau đó mới dùng suy lý lôgic chỉnh lại (vì thế Hiến rất phục những phán
đoán
trực giác của ai đó, chỉ ra chính xác bản chất một đối tượng nào đấy,
không cần
lý lẽ chứng minh gì hết).
Phân
tích tác phẩm gay nhất
là đọc hết cuốn sách mà chẳng thấy có ý gì cả. ý là một ý nghĩa mới
đích đáng
trả lời một câu hỏi ta đang tìm tòi, đang suy nghĩ để giải đáp. Tác
phẩm chẳng
giải đáp được một câu hỏi nào cần thiết, là vô nghĩa.
Phân
tích tác phẩm là phân
tích chi tiết. Phải chọn chi tiét có vấn đề. Phân tích một chi tiết mà
mở ra cả
một vấn đề về đạo lý, về triết lý. Phân tích một chi tiết như thế có
sức thuyết
phục và sang trọng hơn là phân tích tràn lan.
Cuối
cùng phải tìm từ, tìm
chữ đích đáng để diễn đạt. Một bài viết hay là có được một hai từ đích
đáng kết
tinh được cái hiểu, cái ý của mình. Đó là cái thần của bài viết.
Hiến
nghĩ thế nên rất chăm
chỉ học chữ, học từ. Có khi học ở dân gian. Thí dụ, anh rất khoái vì
học được
chữ "bõ hờn" của một ông người Mường tên là Cò Lửa, chủ nhà chúng tôi
ở nhờ hồi kháng chiến chống Mỹ tại Thạch Thành, Thanh Hoá. Phần nhiều
học ở
sách vở. Thí dụ chữ "hương nguyện", "phường hương nguyện"
anh học được của Mạnh Tử khi nghiên cứu triết học cổ phương Đông. Có lẽ
tương
đương với chữ philistin chăng?
Có
những chữ thông thường
nhưng anh đem đến cho nó một nghĩa mới nào đấy. Như "kể lại nội dung"
và "viết nội dung". (Bài "Kể lại nội dung và viết nội dung"
(Văn học gần ...và xa. NXB giáo dục 2003). Hay như chữ "trí thức bình
dân" trong bài anh giới thiệu Tuyển tập Nguyễn đăng Mạnh (NXB Giáo dục
2006)... Có thể gọi trường hợp này là sáng tạo từ mới.
Gần đây
Hoàng Ngọc Hiến say
mê đọc Nho, Phật, Đạo qua sách của Francois Fulien. Anh lấy làm khoái
chí học
được ở F.Julien, sự phân biệt giữa tư duy Đông và Tây. Tây là chân lý
(Vérité).
Đông là dịch lý (transformation). Một đằng cứ cãi nhau về chân lý, về
đúng hay
sai. Một đằng chủ trương "cùng" hay "thông". Đúng sai không
quan trọng, quan trọng là không bế tắc, là thông, là được việc, là có
hiệu quả
thực tế...
* * *
Như đã
nói, Hoàng Ngọc Hiến
sống rất hồn nhiên, tự nhiên.
Hồi
chống Mỹ, sơ tán ở Thạch
Thành, Thanh Hoá, không mấy khi có được miếng thịt mà ăn. Hôm ấy, anh
em kiếm
được một đĩa thịt. Hiến vừa ăn, vừa xụt xịt mũi, vừa gật gù: "Ăn thịt
ngon
thật!".
Tối
tối, anh rất chịu khó
cùng với tôi xách đèn đi bắt ốc sên về cải thiện, tin rằng ba con ốc
sên bằng
một quả trứng vịt (Hồi ấy có kẻ phao lên như vậy).
Hiến
hay nghĩ ra những chuyện
kỳ cục và buồn cười để đùa vui. Thí dụ như chuyện phân loại cán bộ khoa
văn
trường Đại học Sư phạm Vinh thành ăn cướp và ăn cắp. Hình như tư duy
khoa học
mãi, nghĩ mãi những điều có nghĩa lý, người ta phải thư giãn đầu óc
bằng những
chuyện vô nghĩa lý.
Hiến
đúng là vui đâu chầu
đấy.
Có một
lần Ngô Thảo nhân quen
một Việt kiều về nước, mời tôi, Hiến và Hoàng Cầm đến đánh chén ở một
nhà hàng.
Xe đón tôi trước, đón Hiến sau. Trên xe, tôi gọi điện cho Hiến chuẩn bị
ra ngõ
để đón xe. Chị Tố Nga, vợ Hiến, cầm máy trả lời: "Lão ấy mời đi họp thì
đến chậm, nhưng mời đi ăn thì đúng giờ lắm!".
Một lần
khác, mới năm ngoái
đấy thôi, anh Vũ Văn Viết ở Việt Trì mời chúng tôi lên dự lễ khai
trương ngôi
trường phổ thông dân lập do anh vừa xây dựng. Anh cần nhiều người ở Hà
Nội lên
dự cho thật long trọng. Nhưng hôm ấy nhiều người trong danh sách mời
không đi
được vì bận việc hay đang đi công tác xa. Ngồi trên xe thấy vắng vẻ
quá, tôi
nẩy ra ý mời Hiến, tuy Hiến chẳng quen biết gì Vũ Văn Viết cả. Và Viết
cũng
không mời Hiến.Tôi gọi điện. Hiến nhận lời ngay, và lập tức đáp xe ôm
đến chỗ
hẹn.
Cái
giống nghệ sĩ thật sự bao
giờ cũng rất tự nhiên - nói như Lưu Công Nhân, "tự nhiên như ruồi".
Họ rất khó tính trong sáng tạo, nhưng rất dễ tính trong sinh hoạt đời
thường.
Khoa học cũng là một hoạt động sáng tạo, nhà khoa học cũng là một loại
nghệ sĩ,
nhất là khoa học về văn chương.Vì thế Hoàng Ngọc Hiến cũng rất hồn
nhiên, tự
nhiên, "tự nhiên như ruồi". Hiến là dân Nghệ Tĩnh nhưng lại chê dân
Nghệ "cái gì cũng biết, trừ hạnh phúc". Nhưng chính Hiến cũng rất
Nghệ. Một tay đầy nghị lực. Tập thể dục rất kiên trì. Nghiện cả thuốc
lá, thuốc
lào mà bỏ hẳn (Bỏ mà vẫn cho hút thuốc lá là thích nhất. Anh nói "Khi
nào
sắp chết sẽ hút lại"). Gần 80 tuổi vẫn cả ngày ôm cái máy vi tính để
lấy
thông tin và luyện ngoại ngữ. Rồi đọc sách, dịch sách, viết sách... Tôi
là dân
Bắc Kỳ, kém xa Hiến về mặt này.
Hiến
đích thực là dân Nghệ,
đúng thế, nhưng là một tay Nghệ "cái gì cũng biết, kể cả hạnh phúc".
Vì tôi biết chưa bao giờ anh từ chối một lạc thú trần thế, trần tục nào.
Láng
Hạ, 20.5.2007