|
Camus tại báo Chiến
Đấu
Bảnh
thật,
bảnh thật!
Độc thật, độc thật!
Để
phản
ứng lại trận "Dịch Hạch" Địa
Trung Hải
đang hoành hành tại Tây, Người đứng đầu nước Tây phán:
May quá, tớ không sinh ra tại Bắc Phi, nhưng nhờ Camus mà có
được nỗi hoài nhớ cái xứ sở [khốn kiếp] này, mỗi lần ghé Algérie. (1)
Ui
chao,
giá có một ông bạn văn của
Gấu, sinh ra tại xứ miệt
vườn Nam Kỳ, nói giùm Gấu câu trên, về cái xứ sở có những người của nó,
là
giống Yankee mũi tẹt!
(1) «Grâce à Albert
Camus,
j'ai la
nostalgie, chaque fois que je
vais en Algérie, de ne pas être né en Afrique du Nord», a notamment
déclaré le
président de la République (selon son porte-parole).
Sarkozy, Camus: Même combat
Tổng thống Tây Sarkozy, Camus: Cùng trận đánh.
Cùng trận Dịch Hạch!
*
Có cái mùi ["Dịch Hạch" của] Camus bàng
bạc trong không gian. Vào thời điểm kỷ niệm
50 năm ông được Nobel văn chương, không có gì dễ tẩm độc, và dễ gây
"bệnh Camus",
bằng lúc này.
Chính là ông ta đấy, người đầu tiên, viết toa thuốc trị bệnh Dịch Hạch cho
bạn. Này, hình như cũng mới đây thôi, thứ năm tuần rồi, tại điện
Elysée, Nicolas Sarkozy mời một số văn sĩ gốc Pháp và gốc Algérie (Jean
Daniel,
Amin Maalouf, Olivier Todd, Richard Millet et Yasmina Khadra) đến ăn
điểm tâm,
bên cạnh Antoine Gallimard và Catherine Camus, con gái tác giả “Huyền Thoại
Sisyphe.” Theo phát ngôn viên của ông ta, tổng thống Pháp
đã
từng đặc biệt
nói: “May quá, tôi không sinh ra tại Bắc Phi, nhưng nhờ Camus mà mỗi
lần đến Algérie, tôi lại mang một nỗi buồn man mác về miền đất này.”
Nadine Gordimer chọn
Sách Trong Năm 2007: Camus @ Combat:
Non-fiction - Camus
at "Combat": Writing 1944-1947 by Albert Camus, edited by
Jacqueline Levi-Valensi (Princeton): editorials and other texts,
letters, published at high personal risk by Camus in what began as an
underground newspaper during the German of Occupation of France. Every
line totally charged with extraordinary synthesis of passionate
conviction and objectivity in intellecctual force that distinguishes
Camus's creative talent in his novels, The Plague and The Outtsider. As editor and
journalist, he writes on the premiss, good for during the Occupation
and prescient for our present he did not live to see: " ... the end of
ideologies is upon us, that is, the end of absolute utopias that
destroy themselves owing to the heavy price they eventually exact when
they seek to become part of historical reality". After the war, he
wrote on Algeria what held good for other colonial empires as well:
"The failure to peacefully put an end to colonialism in the aftermath
of World War II ... a serious, if not the most serious, failure of
French democracy itself'.
… Loại không giả tưởng, tôi chọn
cuốn “Camus tại báo Combat", gồm những bài bình luận,
và những
bài viết
khác, xuất hiện vào lúc thật nguy hiểm cho người viết, trên tờ nhật báo
chui tại
một nước Pháp bị Nazi chiếm đóng. Mỗi dòng viết, chứa trong nó, sự tổng
hợp kỳ
tuyệt, của niềm tin say mê và của tính khách quan, trong một sức mạnh
trí tuệ, chính
nó làm rạch ròi ra cái tài năng sáng tạo của Camus, ở trong những cuốn
tiểu
thuyết, Dịch Hạch và Kẻ Xa Lạ. Vừa
là chủ bút vừa là ký giả, ông viết, về tiền đề, tốt cho
thời kỳ [nước Pháp bị] Chiếm Đóng, và còn là một dự báo cho thời hiện
tại
của
chúng ta mà ông chẳng còn sống để chứng nghiệm: “… sự cáo chung của
những ý
thức hệ đè lên chúng ta, nói rõ hơn, sự cáo chung của những không tưởng
tuyệt đối,
chúng tự huỷ chúng, và trong khi tự huỷ, chúng còn đòi cái giá nặng nề
khi muốn
có phần trong thực tại lịch sử”. Sau chiến tranh, ông viết về Algeria,
điều được
coi là tốt, không chỉ cho cựu xứ sở thực dân thuộc địa này mà còn cho
những đế
quốc thực dân thuộc địa khác: “Sự thất bại không kết thúc một cách hoà
bình chủ
nghĩa thực dân thuộc địa, sau khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt… là một
thất bại nghiêm
trọng, nếu không muốn nói, tối nghiêm trọng, cho chính nền dân chủ của
nước Pháp”.
*
Mùa Thu 1943, ba mươi
tuổi, vừa thoát lao phổi, Albert Camus gia nhập Kháng Chiến và bắt đầu
viết cho tờ báo chui Chiến Đấu. Gần như vô danh, ở bên ngoài
Algérie, trước khi viết Kẻ Xa Lạ,
và Huyền Thoại Sisyphus trong
một Paris bị chiếm đóng vào năm 1942, Camus làm cho Nhà xb Gaillimard,
như là một người đọc, a reader, và gần như cùng một thời gian đó, ông
làm chủ biên cho nhật báo Chiến Đấu.
Tờ báo đại diện cho nhiều nhóm kháng chiến, và đã xb không đều đặn từ
Tháng Chạp 1941.
Những bài viết này, ích lợi gì cho ngày hôm nay?
Hiển nhiên, chúng có tính lịch sử. Camus đề cập tới những sự kiện quan
trọng nhất liền sau khi chiến tranh chấm dứt, và nghiên cứu những giải
pháp chính trị lớn lao mà nước Pháp phải đối mặt từ khi Paris được giải
phóng tới Cuộc Chiến Lạnh.
Sept 6, 1944
Tận Lời, Tận Chữ: The End of a Word
Đất nước chúng ta có một thời chỉ có hai hạng quí tộc,
thứ thiệt, một, lao động chân tay, và một, cái đầu.
Bây giờ chúng ta có một định nghĩa mới, cho từ quí tộc, aristocracy: cái phần của quốc gia
từ chối bị làm nô lệ, hay, bắt người khác làm nô lệ.
Nhưng bốn năm thất trận, và cuộc kháng chiến chỉ xác
nhận, điều rõ như ban ngày, đối với tất cả những người yêu nước Pháp,
ngay cả những người xét đoán nó bằng sự thất bại. Cái giai cấp cầm
quyền của đất nước đã đầu hàng, chịu thua.
Cái nước Pháp trưởng giả đã có thời sướng điên lên vì
vinh quang, và hãnh diện, của nước Pháp. Nhưng chính niềm vinh quang
này sống dai hơn chính nó. Nó chẳng còn hơi sức nào để mà ngõi dậy, để
mà ôm lấy những trách nhiệm bổn phận của nó. Khi phải nhận trách nhiệm
giai cấp của mình, nó bèn vờ. Có một sự thoái trào. Thảm hơn nữa, nó
sợ. Nói thẳng ra, nó đếch có yêu dân của nó, và sẽ chấp nhận bất cứ một
cuộc mà cả nào, để cứu chúng nó: giai cấp trưởng giả.
Chính sự sợ hãi tạo ra những tên phản bội....
*
Tôi nói đồng bào nghe rõ không?
*
Sept 15, 1944
Năm 1933, một nhân vật bắng nhắng như một tên điên, leo lên đỉnh của
cái đống đổ nát của nền Cộng Hòa Weimar và hùng hổ phán, tới một quốc
gia đang sướng điên và uống từng lời của tên khùng, và một thế giới
sửng sốt đến ngỡ ngàng, rằng, một thời đại mới, tuyệt vời, đã bắt đầu
cho xứ sở của tên khùng, và cho chính tên khùng.
11 năm sau, những đoàn quân của kẻ thù tiến vào quê cha đất mẹ Đức
quốc, và bợp cho nó một cái bợp chót, cái đất nước kiệt quệ sau 10 năm
ăn ngủ với súng đạn, với máu lửa, của một cuộc thế chiến do chính nó
gây nên.
Kinh nghiệm trên xem ra có lý, có thể dẫn giải, có thể hiểu được.
Rất rất nhiều người tin vào thiên tài Hitler, gần như toàn thể dân
chúng Đức, nhiều người Âu Châu, và một số người Pháp. Đó là do:
Thành công là một luật, và sự tàn bạo, một cám rỗ [succes is a law, and
brutality, a temptation].
Hitler đánh bạc tất cả, với thành công tối hậu: Thắng trận giặc tối
hậu, sau cùng sau kiệt, này, chúng ta sẽ xây cái nhà Việt Nam to lớn
hơn, đàng hoàng hơn.
Cả nhân loại tin vào thiên tài của Bác. Chẳng thế mà nhân loại đã từng
ao ước: sáng ngủ dậy, biến thành con cháu Bác!
*
Combat, Clandestine No. 58, July 1944
The Profession of Journalist?
"For the first time in history, the profession of journalist has become
an honorable profession," M. Marcel Déat declared.
M. Marcel Déat is right.
Clandestine journalism is honorable because it is a proof of
independence, because it involves a risk. It is good, it is healthy,
that everything to do with current political events has become
dangerous. If there is anything we don't want to see again, it is the
shield of impunity behind which so much cowardly behavior and so many
underhanded machinations once took refuge.
Having become honorable activities, politics and journalism will be
obliged one day to judge those who dishonored them .... For example, M.
Marcel Déat
Nghề ký giả?
"Lần đầu tiên trong lịch sử, nghề ký giả trở thành một nghề đáng kính".
Ngài Marcel Déat tuyên bố. Ngài nói đúng.
Báo chui, hay bây giờ, blog chui, đáng kính, bởi vì nó là chứng cớ của
sự độc lập, bởi vì nó dính dáng tới hiểm nguy, rủi ro. Thật tốt, khoẻ
mạnh, khi mà mọi chuyện dính dáng tới những biến động chính trị hiện
tại, trở nên nguy hiểm. Nếu có một cái gì đó chúng ta đếch muốn nhìn
thấy nữa, đó là cái tấm khiên xử lý nội bộ, không trừng phạt, mà đám
cán bộ nhà nước dùng nó để ẩn thân...
Một khi trở thành những hành xử đáng kính, chính trị và báo chí có ngày
sẽ bị bắt buộc phải xét xử những kẻ ngày nào đã làm nó bị ô nhục, trong
đó có Ngài Marcel Déat, thí dụ vậy.
|
|