Cái lỗ hổng cả đời không lấp
nổi...
PHÙ VÂN
(Trao đổi với bà Phạm Thị
Hoài qua bài “Tư cách chính thống của trí thức Việt Nam”
theo lời mời của tạp chí Cánh
Én)
Hồi những năm 1970-75, Hà Nội
khét lẹt những “án văn” Cây Táo Ông Lành, Vòng Trắng... Ông trùm văn
nghệ Tố
Hữu đã phải kêu lên: ”Tà khí đang bốc lên ...”, nhà thơ chính thống Chế
Lan
Viên đã phải đẻ ra một từ mới “bọn bàng thống” để chỉ những cây bút
“chân đất”
đang khởi màu phản kháng, và nhà thơ Dương Tường - người mười năm sau
dìu dắt
Phạm Thị Hoài vào giới cầm bút Hà Nội, người đã được PTH đề tặng trang
trọng
trang đầu cuốn “Marie Sến” - khi được hỏi về “đặc điểm của thời đại
chúng ta”,
ông Dương Tường đã buông một tiếng thở dài: ”L’angoisse” – sự lo âu.
Vâng,
những năm đó bầu trời Hà Nội lúc nào cũng ong ong một màu tai ương, mỗi
sáng
anh em cầm bút thường hỏi nhau, hôm nay, báo Văn Nghệ làm thịt thằng
nào đây,
danh sách ‘cấm bút” có thêm thằng nào. Tâm trạng bất an thường trực
trong những
cây bút “bàng thống” khiến chẳng còn lòng dạ đâu nghe một bản giao
hưởng, coi
một tranh tĩnh vật. Tháng Tư năm 1975, nếu không có sự kiện ngày 30,
cái tâm
trạng bất an đó còn trĩu nặng biết chừng nào, bởi lẽ, mừng rỡ về ‘đại
thắng mùa
Xuân“, Đảng đã “tha” hết, bỏ qua những bắt bẻ, những suy diễn, giảm
thiểu đi
rất nhiều cái tâm lý bất an thường trực kia.
Khoảng gần mười năm sau, vào đêm
trước của thời đổi mới, bà Phạm Thị Hoài được vào “trường văn, trận
bút” bằng
các truyện ngắn, bằng những quan niệm sáng tác “bàng thống” trong đó có
cả cái
quan niệm “bất an” kia nữa.
Và lại cũng hơn mười năm sau, đọc
bài “Tư cách chính thống của người cầm bút” mà tờ Cánh Én đang mời gọi
hội thảo
đây, sau khi kiên nhẫn đi hết những vòng vo, hẻm hóc, ngóc ngách của
ngôn từ
tôi mới vớ lẽ ra bà Phạm Thị Hoài dẫn tới một “phát hiện: “Thế kỷ 21
này xã hội
Việt Nam còn là chỗ hội tụ của những dịch bệnh nhường như vô phương cứu
chữa
khác mà bao trùm lên tất cả là một khái niệm. Đối
với tôi, tôi đặt
tên khái
niệm đó là sự bất an. ”
Tôi
chưa muốn nói tới “bản quyền” của ông
Dương Tường về khái niệm mà bà PTH tự nhận đã đặt tên cho nó, tôi cũng
chẳng
muốn nhiễu sự trích ra bằng nghịch lý văn hào André Gide đã trình bày
trong
diễn văn “Bàn Về Các Ảnh Hưởng” đọc trong buổi lễ nhận giải Nobel: “Kỳ lạ thay, chính trong những thời đại kiềm
tỏa và câu thúc, đầu óc con người lại đạt tới hiệu năng cao nhất...”,
tôi chỉ
muốn nói rằng suốt thời 1983-93 khi PTH nhập cuộc làng văn Hà Nội, xã
hội đã
phần nào giải tỏa khá nhiều ứng suất để bà khó bề trải nghiệm cái kinh
nghiệm
bất an đó, và chính từ sự kiện này, tôi bổ sung bài viết của bà một đặc
tính
của trí thức miền Bắc là “sự học mót”, sự thu nhận thông tin ở dạng
“cấp 2”
thường dẫn tới tiêu hóa một cách sống sít, mất căn bản các kiếùn thức
thâu lượm
được, khó bề tránh khỏi trạng huống “ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng
vung”.
Ta hãy bắt đầu từ các bậc cha chú
thường vẫn được gọi bằng thế hệ các nhà văn tiền chiến, may mắn thay
cho họ
thoát được nguy cơ “để trống nền giáo dục phổ thông sẽ tạo thành cái lỗ
hổng cả
đời chẳng bao giờ lấp nổi“ mà nhà giáo dục học Makarencô đã khẳng định
rất chí
lý. Vâng, thật may mắn thay cho những Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan
Viên... thời
mài ghế nhà trường phổ thông còn được tiếp xúc với các nhà Ánh Sáng,
với Hugo,
Balzac, Appolinaire, Rimbaud... và cũng bất hạnh thay cho họ vào độ
tuổi chín
nhất của ngòi bút lại theo Đảng kéo nhau hết lên rừng chém tre, đẵn gỗ,
học
tập, kiểm thảo và đổi bầu sữa mẹ, từ nay trong cái nhà trẻ của thời đại
công
nông - Diên An, Lêninít, Xtalinnít... sẽ là nguồn sữa mới, cách ly với
cả một
thời “phục hưng” sau Thế chiến 2 bùng nổ những trào lưu hiện sinh, hiện
đại chủ
nghĩa... Sau 9 năm kháng chiến, các nhà văn “con nuôi” của Đảng vốn
nặng mặc
cảm “ăn theo cách mạng” trở về Hà Nội choáng ngợp trước nhũng sách vở,
tạp chí
mới chất đầy trong "Thư Viện Quốc Gia”; nhưng than ôi từ nay trong mắt
họ
đã được gắn tròng kính mới để thấy “Picasso là nấm độc mọc trên cây gỗ mục của chủ nghĩa tư bản”, di truyền
học và phân tâm học là sản phẩm của tư sản đế quốc.
Các nhà văn thế hệ hai lớn lên
trong kháng chiến chống Pháp, cậy thế con đẻ cách mạng, giáo dục phổ
thông chưa
mất căn bản, dám “nghĩ ra ngoài những điều Đảng nghĩ”, sục sạo vào tinh
thần
dân chủ mới sau thế chiến nhờ thế ta có được những Trần Dần, Lê Đạt,
Hoàng
Cầm... Nhưng tiếc thay, chẳng tới được tầm cỡ như Andre Gide đã khẳng
định,
”trong thời kỳ bị câu thúc và kiềm tỏa nhất” hiệu năng đầu óc của họ
cũng chẳng
đạt tới mức độ cao nhất, bởi thế khi được “cởi trói”, những gì mà các
“thiên
tài trong bóng tối” trình làng thượng số cũng chỉ tới mức “Men Đá Vàng”
của
Hoàng Cầm, ”Những Đường Phố Và Những Cột Đèn” của Trần Dần, “36 Bài Thơ Tình” của Lê Đạt và Dương Tường,
”Ô Mai” của Đặng Đình Hưng, ”Porcinovani” của Nguyễn Xuân Khánh...
không mấy
gây được tiếng nổ nào.
Sự “mất căn bản” trong thế hệ
trí thức thứ ba những người cầm bút mới kinh hoàng, lớn lên dưới mái
trường
XHCN, học kiến thức phổ thông thì ít, chính trị Mác-Lê thì nhiều, bởi
thế những
cây bút thời chống Mỹ như Lê Lựu, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy... một
thời chỉ
cần đọc hai tập “trói voi bỏ rọ” “Phương Tây Văn Học Và Con Người” của
giáo sư
Hoàng Tôn Trinh là họ đã yên chí nắm
được “phần còn lại của thế giới” bên ngoài các nước XHCN, họ xúm vào
chửi “Chủ
Nghĩa Hiện Thực Không Bờ Bến” của Garaudy mà chưa đọc ông ta nổi lấy
một trang
mà chỉ “hóng chuyện “ qua các bài tóm tắt.
Ấy thế nhưng đến cái thế hệ thứ
tư, học hành loạng quạng đèn dầu nơi sơ tán, ngắt quãng vì tiếng còi
báo động,
đầu óc bị phân tán và chia cắt tới từng phân vuông vải, từng gam mỳ
chính trong
các ô tem phiếu và khi dứt chiến tranh ngay lập tức họ được đi Liên Xô,
đi
Đức... học hành với hành trang rỗng tuếch của một tuổi thơ thực sự là
thất học.
Từ vùng sơ tán nông thôn Việt Nam họ nhảy dù xuống những trung tâm văn
minh Mạc
Tư Khoa, Béclin... choáng ngợp trước tiện nghi và văn hóa trước đó họ
mới chỉ
thấy trên phim ảnh, họ nốc vội nốc vàng mọi thứ vào bao tử thành bội
thực, “tẩu
hỏa nhập ma”. Và than ôi đại đa số các tiến sĩ, phó tiến sĩ, những nòng
cốt làm
nên trí thức hiện đại là phần lớn thuộc đám này.
Một cô tiến sĩ tin học ở Đức
về hiện giảng dậy tại một trường Đại học ở TP Hồ Chí Minh, từ khi về
nước cứ
luôn miệng ca cẩm chê bai Việt Nam và hết lời tâng bốc nước Đại Đức. Và
thưa bà
Phạm Thị Hoài, mặc dù có rất nhiều nỗ lực đào thoát khỏi cái “thành
phần xuất
thân“ này bà vẫn thuộc về họ, những con người bị “chói lòa”, “tẩu hỏa
nhập ma”
bởi sự hấp thụ sống sít các nền văn hóa phương Tây khi trong bài hai
lần bà
tâng bốc nước Đại Đức: nào là ”Tôi cũng xin nói thẳng là chúng ta đang
sống ở
một nước không nghèo và không lạc hậu tí nào là nước Đức...”; nào là
“Tôi cứ
nhìn cái cách tự tra vấn mình, tự hành hạ, tự
truy tội, tự xỉ vả
mình của
một dân tộc như dân tộc Đức này mà phải nhận ra rằng: Đó là một dân tộc
đã đạt
được nhiều thành tựu đến mức nào mới làm cái việc cũng rất ư là quý
phái là tự
phê bình mình như vậy”, trong khi đó bà lại giống y chang cái cô Tiến
sĩ ở Đức
về kia, mạt sát, xỉ vả Việt Nam không tiếc lời: ”Xã hội Việt Nam là một
tập hợp
tạm bợ, rời rạc và hoàn toàn không hữu cơ. Có
những cá nhân hoang mang và bất ổn. Về xuất phát
điểm là như vậy, vấn
đề đặt ra là trong cái số phận dường như là vĩnh viễn hẩm hưu...”, ”.
Chỉ có
nước Việt là chưa bao giờ như thế mà thôi. Tôi thậm chí không dám nghĩ
tiếp
rằng là khi cháu tôi hoặc chắt tôi sinh ra thì chúng ta vẫn không thoát
được
cái kiếp đội sổ như vậy...” Tôi không dám cãi với bà
rằng ông tây bà đầm người Đức hơn dân Mít
ta nhiều lắm, ta lại càng thua họ ở chỗ chưa bao giờ có gan nhét cả 6
triệu
người Do Thái vào lò Auschwitz đốt cho chết lấy xương tro làm phân bón,
lấy da
người làm chụp đèn ngủ, ta cũng muôn đời cũng chẳng bén gót họ khi họ
gây ra
hai cuộc đại thế chiến giết chết một phần tư nhân loại. Ôi, cái căn
bệnh “chói
lòa”, ”tẩu hỏa nhập ma” khi mang một “lỗ thủng cả đời không lấp nổi“
nhảy bổ
vào nền văn hoá phương Tây khiến cho con người ta chua ngoa ngộ nhận
đến như
thế. Cái căn bệïnh trầm kha đó đã để lại nhan nhản các dấu vết dọc dài
trên
khắp bài nói chuyện của bà Phạm Thị Hoài. Nào là “văn chương Việt Nam
cả một
thế kỷ 15 chỉ được một ông Nguyễn Trãi, cả một thế kỷ 16 hầu như toàn
là nhạt
nhẽo và trung bình cả” (thế còn Lê Thánh Tôn, Nguyễn Bỉnh Khiêm?), nào
là “Khổng
Tử chả làm được điều gì khi còn đang tại chức, Khổng Tử chỉ có đánh xe
đi bát
phố, nghe nhạc và bình phẩm về đàn bà,
về cách hoạ đàn bà là đúng hơn khi tại chức”. (sic). Bà lại còn ra
giọng kẻ cả
so sánh khập khiễng: “Và một nhà văn tài hoa từng được coi là thần
tượng của sự
ngông nghêng, thách thức như Nguyễn Tuân; thực ra cũng có thể so với
Nguyễn
Du...” Ôi thôi thôi, bà PTH làm sao biết được ông Nguyễn Tuân treo cổ
bản thảo
mình lên để phản tỉnh, và thường khoe mỗi lần đi thực tế đều vào các
huyện ủy
để được cơm bưng nước rót, thế rồi Tùy Bút Sông Đà, Hà Nội Ta Đánh Mỹ
Giỏi...
Than ôi ông nhà văn giống như một người làm xiếc trên dây, chỉ tiếc cái
dây
chăng đã đặt xuống đất rồi mà ông tưởng nó vẫn còn treo cao nên cứ vẫn
còn đu
đưa ưỡn ẹo mãi; Vậy làm sao mà thành “thần tượng của sự ngông nghênh”,
làm sao
so được với cốt cách cụ Nguyễn Du mà đời sau vua Tự Đức còn đòi nọc ra
đánh
đòn? Ấy, cái sự “tẩu hỏa nhập ma” làm bà cứ nói lấy được như thế. Câu
trước bà
viết: ”Chúng ta có thể lấy hẳn của người Chiêm Thành một giống lúa
chiêm mà chả
buồn học hỏi gì nhiều ở văn hoá và ngôn ngữ của họ”, và liền đó bà lại
viết
điều ngược lại: ”Chúng ta lấy biết bao điệu nhạc buồn của họ vào chính
cái quan
họ Bắc Ninh nổi tiếng. Chúng ta đã khiến cho cái làn điệu dân ca đó trở
nên
buồn nhất trong các làn điệu dân ca của miền Bắc...” Ô hay, vậy chưa
phải “học
hỏi ở nền văn hóa và ngôn ngữ của họ” chăng? Liệu bà PTH có biết rằng
ông cha
ta đã bắt biết bao nhiêu thợ giỏi của họ ra ngoài Bắc lập thành các
“Sở” thủ
công mỹ nghệ (Yên Sở ngày nay phải chăng là một dấu vết) và chính từ đó
kiến
trúc, điêu khắc Việt Nam mới khởi sắc và như vậy chẳng phải là “học
hỏi” thì là
gì? Vậy sao bà còn nói liều: ”Chúng ta (...) chả buồn học hỏi điều gì ở
họ, không buồn nghiên cứu chút gì về họ và
thậm
chí dường như chúng ta chôn phắt họ đi không tiếc nuối gì hết.” Căn cứ
vào đâu
bà nói phứa phựa: ”Dĩ nhiên là người Việt vừa học vừa chửi, giống hệt
như vừa
học vừa chửi người Pháp, vừa học vừa chửi người Liên Xô,
vừa học vừa chửi người Mỹ”. Rồi cứ hàm hồ như
thế bà xây dựng nên cả một “lý thuyết” “lưỡng phân” trong người trí
thức. Vậy
nhưng tôi thật nghi ngờ nó khi cái sở học của bà lộ ra chẳng được là
bao lúc bà
“chửi” tiếng Nôm của ta. “Muốn dùng chữ Nôm thì người ta phải biết dùng
chữ Hán
trước đã, rồi sau đó phải học nguyên tắc cấu trúc chữ Hán vốn rất là
phức tạp
như vậy vào làm sao cho nó thành ra cái gọi là chữ Nôm.” Dạ vâng, thưa
bà để ký
âm tiếng nói của ta, ông cha ta đã phải mượn chữ Hán để tạo ra cái mà
bà gọi
một cách khinh miệt “cái gọi là chữ Nôm”.
Ta hãy coi cái ví dụ của bà: ”Tôi
lấy một ví dụ: chữ "Trời" chẳng hạn, muốn
viết ra mặt giấy thì ta phải viết như thế nào?
Thì người ta phải
biết hai chữ Hán là chữ "Thiên" và chữ "Thượng", phải biết
cách ghép hai chữ này lại với nhau để thành một chữ
"Trời". Quả nhiên là một cái logic
vô cùng kinh hoàng đối với hình dung của tôi, cứ làm như còn một cái
"Thiên" nào khác ngoài cái "Thượng" đó. Mà
đã thế sao không dùng luôn tiếng Hán chỉ
có một chữ "Thiên" là xong, tại sao lại hai lần tiếng Hán như thế gộp
vào nhau để ra thành chữ "Trời"? Trong cái công trình sáng tạo chữ
Nôm ấy, rõ ràng "Sáng tạo là gì? - Là ghép hai cái dập khuôn vào với
nhau!”
Quả thực đây là một ví dụ tiêu biểu
cho cái sự “tưởng cái gì cũng biết” của một cây lúa tự kéo mình lên.
Thưa bà
PTH, chẳng phải đại trí thức gì, người ta cũng có thể hiểu được ông cha
ta tạo
ra chữ Nôm theo nhũng quy tắc hẳn hoi chứ chả phải là một thứ “lôgích
kinh
hoàng” điển hình cho cái “tinh thần làm khổ dân” như bà nói. Chẳng hạn khi tạo ra chữ “gạo”, chữ Nôm viết chữ
“mễ" liền với chữ “cáo”, tạo chữ “chó" ta viết chữ
“cẩu” liền với chữ “chủ”. Vậy là đủ hiểu một
chữ Nôm bao giờ cũng có hai thành phần “biểu âm” và “biểu nghĩa”. Trong
chữ
‘trời” mà bà dẫn chứng, ta viết “thiên” “biểu nghĩa” và vì không tìm
được “biểu
âm” “ời”, ta thay nó bằng chữ “biểu
nghĩa” “thượng” cho đủ hai thành phần trong một chữ Nôm như đã quy ước.
Vậy thì
có gì mà bà phải trách ông cha ta “sáng tạo là gì?' là ghép hai cái dập
khuôn
vào với nhau...” Ở đây điều đáng trách chính là cái sở học xem ra chưa
tới đâu
mà đã có tính cách "chửi cha
ông"!- Và phải chăng trong bài diễn thuyết bà cứ xách mé với giọng
trống
không “Khổng Tử, Nguyễn Trường Tộ, Tự Đức, Nguyễn Du, Trần Dần...” là
bà tự kéo
bà cao hơn lên được một chút? Chẳng lẽ sự mất căn bản trong học vấn của
bà đã
sâu sắc đến độ quên mất cả cung cách xưng hô trong “văn hóa thuyết
trình”? Rồi
thì bà lại nói bừa phứa: ”Thí dụ như nói dến ông Bụt chẳng hạn, nào ai còn rạch ròi rằng đấy là một ûngoại
kiều Ấn Độ mà tên phải gọi là Buddha cơ.” Ô hô... Thưa bà PTH, tên cái
“ông
ngoại kiều Ấn độ” ấy tên là Tất Đạt Đa (Siddharta) cơ, hoặc Cồ đàm
(Gautama), có họ là Thích ca (Cakya),
chứ tên ông ấy đâu phải là Buddha! Còn Buddha với hai cách phiên âm là
Bụt hay
Phật chỉ là danh từ chung chỉ “người giác ngộ”. Đó là lý do tại sao
trong đạo
Phật lại có... nhiều Phật, tức nhiều Buddha!!! Lầm lẫn đến như thế thì
kiến
thức về Phật giáo của bà tới đâu, đã
thếø bà còn cao giọng “bởi lẽ giữa chữ Bụt và chữ Phật có một khoảng
trống, và
trong khoảng trống ấy là ông thầy Trung Hoa “ thì thử hỏi còn ai... tin
được
bà!
Cũng bởi lẽ đó tôi nghi ngờ cả
cái lý thuyết “tư cách chính thống của trí thức Việt Nam” mà bà ban
phát sự rao
giảng một cách rối mù, trong đó nếu nôm na giản dị thì huỵch toẹt ra
rằng bà
chửi trí thức Việt Nam đều làm quan hết, nghiện quan, nịnh nọt quan,
viết lách
theo ý quan hết. Vậy thì cái Cục an ninh văn hóa-tư tưởng ở VN bây giờ,
hà cớ
gì vẫn phải tồn tại và phát triển mạnh mẽ như thế? Vậy thì đâu rồi cả
một dòng
văn thơ samizdat (tự xuất bản) của miền Bắc thời đó? Đâu rồi các nhà
thơ
"chân đất" như Phan Đan (người đã có một
thời đỡ đầu tinh thần cho chính bà), Hữu
Loan, Bùi Ngọc Tấn,
Nguyễn Xuân Khánh, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Chí Thiện... Và còn rất nhiều
người
khác, người khác nữa, phải chăng họ đều không phải là trí thức? Vậy thì
tư cách
chính thống của họ nằm ở đâu?
Sau khi mạt sát chán chê trí
thức miền Bắc, bà lại quay sang xoa đầu trí thức miền Nam: ”Công bằng
mà nói
thì ở một giai đoạn ngắn của lịch sử, tức là ở đầu thế kỷ 20, trong cả
nước từ
năm 1945, đến năm 1975 ở miền Nam có một
cơ hội để cặp bài trùng tri thức và quyền lực có thể tách nhau ra được
và quả
thực cũng có tách nhau ra phần nào. Nhưng đấy là một khoá học tiếc thay
là rất
ngắn, quá ngắn để giới trí thức Việt Nam thoát ra khỏi cái vòng
kiềm toả
bằng quyền lực chính trị để trở thành một lực lượng độc lập như giới
trí thức ở
các xã hội dân chủ hiện đại”. Thì cứ cho là ở Sài Gòn từ năm 1945 đến
1975 quý
vị trí thức có cơ hội chẳng thèm chơi với chính quyền đi, nhưng mà
trước nữa,
trước nữa cũng đã có Đảng cộng sản đâu mà trí thức không có cơ hội như
thế? Vậy
thì cái điều bà ví von là “khóa học” ấy đâu có quá ngắn ngủi để người
trí thức
“thoát ra khỏi vòng kiềm tỏa của quyền lực chính trị“? Mà sự thực họ có
sợ và
có hám quyền lực đến như thế chăng? Hay là bà PTH suy bụng ta ra bụng
người?
Viết theo lời mời của ban biên
tập Cánh Én đến đây đã khá dài mà vẫn còn khối điều có thể nhặt nhạnh
ra được
để thưa chuyện với bà Phạm Thị Hoài. Nhưng thôi, trước và sau tôi, chắc
còn
nhiều vị lên tiếng góp ý. Bởi vậy tôi xin được phép ra giọng người
trên, lặp
lại câu nói của bà: ”Tôi xin dừng lại ở đây...”
PHÙ VÂN
April 27, 2001
* * *