1.8.2008
Bùi Chí
Vinh
Giai
thoại của thi sĩ
Vừa
rồi, sau khi ra mắt hai
tập Thơ tình Bùi Chí Vinh và Thơ đời Bùi Chí Vinh trong nước lẫn trên
mạng,
tình cờ tôi được nghe một số giai thoại hay hoặc không hay của thiên hạ
bàn tán
về mình. Ðối với tôi, hay hoặc không hay đều vẫn là giai thoại. Nhưng
giai
thoại phải có cơ sở xác đáng, có thực tế chứng minh, có những người
trong cuộc
chứng kiến thì giai thoại đó mới trường tồn, truyền khẩu hợp lý và khoa
học
được. Những giai thoại đồn đại chung quanh hình tích, sự đi đứng, năng
khiếu
làm thơ ứng khẩu của tôi xuất hiện ngay từ sau giải phóng, lúc tôi còn
rất trẻ,
đang làm việc tại một tờ báo và chỉ mới 21 tuổi đầu. Giai thoại mỗi
ngày mỗi
phát triển thêm lúc tôi đi bộ đội, rồi đi giang hồ, rồi làm đủ mọi thứ
nghề để
sống, thậm chí cả giai thoại lúc tôi bày tỏ chính kiến của mình…
Trong
phạm vi bài viết này
tôi xin mở đầu bằng một giai thoại quái đản nhất vừa nghe được. Sự quái
đản ở
đây tuỳ nghi ai muốn hiểu sao thì hiểu trong khi câu thơ đồn đại về tôi
lại
khởi nguồn từ một tình bạn rất đẹp. Cụ thể từ hai câu thơ tam sao thất
bổn sau
đây:
Trọc
đầu BÙI làm sao CHÍ ở
Nhục
còn chưa có lấy gì VINH
Và họ
nói rằng hai câu thơ
trên là do Bùi Giáng ứng khẩu tặng tôi trong bàn nhậu lúc tôi đang múa
may chữ
nghĩa, khiến tôi hoàn toàn tâm phục khẩu phục. Suy nghĩ như thế không
riêng gì
tôi mà những người quen biết tôi đều phải phì cười. Bởi một lẽ đơn
giản, tác
giả hai câu thơ trên không phải là Bùi Giáng tiên sinh mà là ông anh
Mặc Tuyền,
một nhà thơ kiêm kịch tác gia bụi đời làm “chọc quê” tôi khi tôi mạt lộ
đang
ngồi ở vỉa hè phụ sửa xe cùng anh Phan Văn Bồng, tự Bế Văn Bồng mưu
sinh kiếm
sống vào thời điểm cuối thập niên 80 đói rách. Thời điểm ấy nạn dịch bo
bo
khoai mì hoành hành, mâm cơm không có gạo trắng mà ăn, Mặc Tuyền cố
kiềm chế sự
ngông cuồng của tôi nên làm hai câu khá cảm động. Vừa chơi chữ, vừa nói
về chữ
“nhục”, nhục ở đây có nghĩa là “thịt”, thi sĩ lớn cỡ nào mà đầu cạo
trọc và
thiếu thịt ăn thì bao tử cũng đói meo và chí khí lẫn chí mén cũng đi
chơi chỗ
khác.
Còn Bùi
Giáng tiên sinh đương
nhiên thuộc về đẳng cấp khác. Ông và tôi không phải huynh đệ hoặc thân
thiết
tri kỷ, nhưng khi gặp nhau chưa bao giờ ông dèm pha biếm nhẽ thế hệ sau
mình.
Giai thoại giữa tôi và ông độc đáo hơn nhiều. Cách đây hơn 20 năm, tôi
và Hồ Lê
Thuần (con trai cố bí thư Thành Ðoàn trước 1975 là Hồ Hảo Hớn) vi hành
xuống
miệt Gò Vấp chợ Long Hoa lúc nửa đêm. Nhằm vào lúc Bùi Giáng rời chùa
Long Huê
gần đó ra chợ quậy tưng bừng khói lửa với một cây chổi rách tượng trưng
cho ấn
kiếm. Gọi là ấn kiếm vì Bùi Giáng luôn vỗ ngực xưng vương bất cứ lúc
nào cao
hứng. Ðêm đó chúng tôi ngồi uống rượu vỉa hè chứng kiến “vua cỏ” Bùi
Giáng làm
bà con chạy tán loạn và nhìn ông múa chổi tiến về phía chúng tôi. Ông
vừa đi
vừa khạc thơ rồi dòm trừng trừng vào mặt tôi. Trong cơn say xỉn ngất
trời, Hồ
Lê Thuần xúi tôi đọc thơ đáp lễ. Thế là người ngồi người đứng xuất khẩu
thành
thi qua lại liên tục. Không biết Bùi tiên sinh “phê” thơ tôi ra sao,
chỉ biết
Người tự động quỳ xuống bàn chúng tôi dâng cây chổi rách lên và tuyên
bố “Ðêm
nay Trẫm thay mặt cựu hoàng Bảo Ðại giao ấn kiếm cho thế hệ Hồ Chí
Minh”. Câu
nói đầy tính “chính trị” và đối phó của Bùi Giáng bắt buộc tôi phải
nhận cây
chổi và làm một bài thơ tặng ông tại chỗ, có chép lại nhét túi ông đàng
hoàng,
xin mạn phép ghi ra đây để khép lại lời đồn về sự “tâm phục khẩu phục”
của tôi
trước Bùi Giáng:
Cách
lạy của Bùi Giáng
Liên
tồn, l… tiên, liền tôn
Bác Bùi
chưa gặp đồng môn đây
mà
Ta hăm
bảy tuổi đăng khoa
Bác hơn
sáu chục mới là Trạng
Nguyên
“Bác
đi, bi đát” cơn điên
Ðể mua
trí tuệ “l… tiên, liên
tồn”
“Riêng
ta” thành “ra tiên”
con
Lúc say
xỉn vỗ hậu môn cười
khà
“Bán
dùi Bùi Giáng” xót xa
“Bình
Chí Vui” ta vốn là “Bùi
Vinh”
Bác
không màng nhắc triều
đình
Có đâu
ta nỡ cố tình làm vua
Chi
bằng giữa chợ say sưa
Bùi to
Bùi nhỏ đi lùa các em
Kìa sao
bác lạy như điên
Ðợi ta
đỡ dậy chiêu hiền nữa
sao?!?
Ngoài
ra tôi còn chép cho Bùi
tiên sinh bài thơ BÌNH CHÍ VUI khi ông muốn tôi bình tĩnh chí nam nhi
trở lại
để có thể tồn tại trước bọn sâu bọ làm người. Tôi đã làm bài thơ này
theo
“môđen” tiếng lái và chơi chữ của ông:
Bình
Chí Vui
“Bùi
Chí Vinh, Bình Chí Vui”
Không
bình chí, chắc tiếng
cười mất tiêu
Chí
trong bình, chí mốc meo
Chui ra
bình, chí mới nhiều
nhục vinh
Bùi làm
thiên hạ giật mình
Sờ ngay
“cái đó” kẻo em mếch
lòng
“Bùi
như lạc” nhậu sướng
không?
“Trần
như nhộng” Bùi tồng
ngồng đái chơi
Bất
bình nên chí chưa vui
Các em
nên gọi ông Bùi Chí
Vinh
Chuyện
gặp Nguyễn Ðức Sơn
giang hồ hơn. Trước đó khi mạn đàm về thi ca cùng đồng nghiệp, tôi luôn
luôn
khẳng định miền Nam trước đây có 4 chưởng môn nhân đại diện cho 4
trường phái
thi ca tiêu biểu. Ðó là Bùi Giáng thơ trên trời, Nguyễn Ðức Sơn thơ
dưới đất,
Thanh Tâm Tuyền thơ tự do kiểu Tây phương, Tô Thuỳ Yên thơ hành cổ điển
kiểu
Ðông phương. Vì thế lần hạnh ngộ Nguyễn Ðức Sơn trên cao nguyên Ðại Lào
sơn lam
chướng khí, tôi đã ăn những gì ông tự trồng tự hái và đã đấu khẩu những
gì ông
muốn.
Nguyễn
Ðức Sơn vốn sở trường
thơ lục bát và nổi tiếng trước những bài thơ tinh gọn đến mức độ tối
thiểu về
chữ mà vẫn dào dạt ý tứ. Có bài thơ chỉ hai câu, mỗi câu hai chữ như
“Cái lỗ –
Tối cổ” đủ nói hết về chế độ mẫu hệ, về nơi khai sinh ra loài người. Có
bài thơ
chỉ ba câu, mỗi câu một chữ như “Hột – Thì – Le” đủ nói hết về bản chất
sinh
tồn thiện ác của nhân loại. Và tôi đã mượn những ý thơ độc đáo đó để
đưa vô bài
thơ làm tặng ông như một thứ giai thoại truyền khẩu:
Ðụng độ
Nguyễn Ðức Sơn
“Hột
thì le” thật đó sao?
Ta dân
“thảy lỗ” đến chào
đồng môn
Xưa nay
hai kẻ du côn
Ít khi
đời sống cô hồn như
nhau
Như
miếng trầu khác miếng cau
Nhưng
có cau, chẳng có trầu,
như không
Như
không sinh chuyện động
phòng
Hột sao
le được “nụ hồng thi
ca”
Như
không sinh nở đàn bà
“Cái lỗ
tối cổ” thành ra tầm
thường
Ta thừa
văn, bác dư chương
Hôm nay
một chén Hồ Trường
chao nghiêng
“Thiên
tài” nhờ lỗ “tai
thiền”
Buồn
lên núi hú chẳng phiền
Tarzan
Buồn
hái nấm luyện thành sâm
Buồn
quay vào vách thương
thầm Ðạt Ma
Buồn
hơn xuống động bẻ hoa
Buồn
hơn chút nữa kiếm ta đỡ
buồn
Kiếm ta
ta cứ ngông cuồng
Sánh
vai với Nguyễn Ðức Sơn
cũng kỳ
“Kỳ”thì
theo “Thiệu” mà đi
Ta theo
bác đã chắc gì tịnh
tâm
Chẳng
thà bút vẩy thơ đâm
Rong
chơi đợi trận cát lầm đi
qua
Ðừng
khen chê trước mặt ta
Sợ e
tiếng gáy làm gà ghét
nhau
Chẳng
thà trong cuộc bể dâu
Cưa
nhau chén rượu cho sầu
chia hai…
Riêng
đối với Phạm Thiên Thư
thì tôi “quậy” theo kiểu bụi đời hơn. Năm 1980 tôi được nghỉ phép, mặc
đồ bộ
đội rách xác xơ đi lang thang cùng Hoàng Linh qua đường Lý Chính Thắng
(tức Yên
Ðỗ cũ). Hoàng Linh là bạn giang hồ của tôi, anh là con trai nhà văn
Hoàng Ly và
là em vợ Phạm Thiên Thư lúc đó. Anh giới thiệu tôi với Phạm tiên sinh
đang mở
tiệm hớt tóc và bỏ mối rượu ngay trên đường này.
Cuộc
hội ngộ diễn ra y chang
truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Ngoài trời mưa tầm tã, bên trong tiệm
Phạm tiên
sinh ngừng hớt tóc cho vị thân chủ mặt mũi kỳ dị và kéo vị ấy ngồi
xuống rót
chai rượu màu xanh tiếp tôi và Hoàng Linh. Sau tuần rượu đầu đàm đạo về
thơ, vị
khách lạ đứng dậy chỉ vào mặt tôi và phán “tuổi Giáp ngọ phải không,
sanh vào
cuối tháng 9 âm lịch phải không, chào đời nửa đêm phải không?” Rồi ông
ta đứng
dậy bỏ đi một mạch. Lời phán của kẻ dị nhân khiến tôi hoang mang nhưng
hai anh
em Phạm Thiên Thư, Hoàng Linh chỉ khẽ gật gù khoái trá. Ðến giờ này tôi
vẫn
chưa hiểu dị nhân đó là ai và tại sao chỉ sau một quẻ Dịch ông ta lại
biết ngày
giờ năm sinh tháng đẻ của tôi trong khi cả bàn không ai biết. Hôm đó
trong lúc
cụng ly nghe Phạm tiên sinh thố lộ về cuộc đời trôi nổi lên voi xuống
chó của
ông làm tôi ngậm ngùi vô tận. Tôi thừa biết họ Phạm sở trường về thơ
bốn chữ
nên ứng khẩu tặng ông bài thơ cùng thể loại mà ông ưa thích. Bài thơ
như sau:
Ghẹo
Phạm Thiên Thư
Rượu
Phạm Thiên Thư
Thơ Bùi
hiền sĩ
Một
chén càn khôn
Ðất
trời tuý luý
Tưởng
huynh tên “Thị”
Nên mới
vào chùa
Dè đâu
tửu sắc
Cũng
ghiền nam mô
Huynh
giữ một bồ
Chứa
toàn thịt chó
Ta giữ
bồ kia
Chứa
toàn tín nữ
Vì
huynh quân tử
Như
Nhạc Bất Quần
Ta đành
tiểu tử
Như
Ðiền Bá Quang
Tiếu
Ngạo cung đàn
Một
gian lều cỏ
Huynh
mới bẻ gươm
Ta còn
mãi võ
“Ðoạn
Trường” hai chữ
Huynh
ngâm nát lòng
“Vô
Thanh” đâu chứ
Cửa
thiền huynh trông
Ta con
nhà tông
Giống
lông giống cánh
Quen
ngủ chiếu rơm
Dùng
cơm khổ hạnh
Gặp
chiều mưa lạnh
Chén
tạc chén thù
Ðem thơ
tặng Phạm
Ðếch
cần Thiên Thư!
Cũng
trong thời gian đó, tôi
lang bạt rất nhiều nơi, làm quen với nhiều người, trong đó có thi sĩ
Nguyễn Bắc
Sơn từ Phan Thiết vô là tác giả tập thơ Chiến tranh Việt Nam và
tôi nổi
tiếng.
Nguyễn
Bắc Sơn có hẹn hò đâu
với Trần Mạnh Hảo nên rủ tôi lên chung cư Hội Văn Nghệ số 190 Nam Kỳ
Khởi Nghĩa
lai rai ba sợi chơi. Khi đi, tôi có rủ thêm Trần Hữu Dũng, Vũ Ngọc Giao
là hai
chiến hữu giang hồ cùng cạn chén tang bồng hồ thỉ.
Rượu
vào lời ra. Tôi và
Nguyễn Bắc Sơn thay phiên nhau khạc thơ chan chát. Có lẽ Nguyễn Bắc Sơn
không
ngờ tôi là một kẻ hậu sinh chưa hề có tên tuổi trước giải phóng mà khạc
thơ quá
đã, nên anh “bốc” liền một câu: “Thằng cha Bùi Chí Vinh này làm bài thơ
nào
cũng hay hết, nhưng thơ họ Bùi là Ðồ Long Ðao, còn thơ Nguyễn Bắc Sơn
ta mới là
Ỷ Thiên Kiếm”. Nguyễn Bắc Sơn đâu biết câu phát biểu đó vô tình làm
“mồi” cho
một bài thơ giai thoại về anh và tôi sau này. Bài thơ được tôi ứng khẩu
tại chỗ
như sau:
Cách
nhậu với Nguyễn Bắc Sơn
“Ta làm
thơ bài nào cũng hay”
Nghe gã
Nguyễn Bắc Sơn nói
thế
Té ra
gừng già ngươi chưa cay
Ta chỉ
hạt tiêu mà rơi lệ
Làm thơ
ta làm từ bụng mẹ
Ðợi
ngươi nổi tiếng là ta
sinh
Sinh
sau đẻ muộn giống Hạng
Thác
Cho
người Khổng Tử đỡ hợm
mình
Sinh
sau đẻ muộn giống chim
hạc
Cho đàn
cò đói đỡ ăn đêm
Nhà
ngươi bốc ta cứ như
chưởng:
Rằng
thơ ta ngông như Tạ Tốn
Câu
trước câu sau Ðồ Long Ðao
Vần
dưới vần trên Ỷ Thiên
Kiếm
Ðao
kiếm dành cho bọn cường
hào
Có đâu
đưa vào thơ bố trận
Tại đời
lắm muối nên thơ mặn
Chứ
thiết gì ta nghiệp võ
công
Kìa coi
hoàng đế Quang Trung
đó
Ðến
chết còn ghê chữ má hồng
Tiếc
rằng ngươi không là
thiếu nữ
Thiếu
nữ bốc, ta thành vua
Trụ
Nhà
ngươi bốc, ta thành bia
hơi
Uống
say bọt bay hết lên
trời…
Ðối ẩm
với Nguyễn Bắc Sơn tại
nhà Trần Mạnh Hảo mà quên nhắc đến họ Trần thì quả là điều không phải
phép. Khi
tôi 15 tuổi tham gia phong trào sinh viên học sinh đấu tranh đô thị ở
Sài Gòn
thì bộ đội Trần Mạnh Hảo đã siết cò AK ở trong rừng. Ngay giải văn học
Thành
phố Hồ Chí Minh đầu tiên sau giải phóng 1976 – 1977, tôi và Trần Mạnh
Hảo đã
biết nhau khi anh đoạt giải thơ với tập Tiếng chim gõ cửa, còn tôi đoạt
giải
thơ với tập Hạnh phúc có thật. Tôi với anh còn thân nhau bởi cùng đi
lưu diễn
đọc thơ các trường đại học cùng với Nguyễn Duy, Văn Lê, Nguyễn Nhật
Ánh. Phải
nói thật, tôi thân với Trần Mạnh Hảo hơn những nhà thơ ngoài Bắc khác
một phần
vì quê quán cha tôi thuộc tỉnh Nam Ðịnh, đồng hương với anh.
Trần
Mạnh Hảo và tôi mỗi
người đều tạo ra những sóng gió và dư luận riêng bởi cá tính và thơ của
mình.
Trong bàn nhậu đám đông, tôi và anh luôn luôn giữ vai trò chủ lực trong
việc
đọc thơ phục vụ bè bạn bằng thơ trí nhớ hoặc thơ ứng khẩu. Ai cũng
khẳng định
rằng tôi và anh đều có trí nhớ đặc biệt, thuộc lòng bất kỳ bài nào của
mình
viết ra, cho dù là viết giỡn chơi. Thậm chí giới giang hồ mỗi lần nghe
tôi và
anh đấu khẩu bằng thơ đều gọi là “Nam Chinh, Bắc Chiến”. Một lần ngồi
dưới chân
cầu Công Lý trước nhà chị Phương Huệ, có mặt khá đông bá tánh tín đồ
Phật Giáo,
Trần Mạnh Hảo đã cao hứng đọc oang oang bài thơ chinh phục thiên hạ.
Bằng trí
nhớ tôi chép ra đây sau một thời gian quá lâu hơn 20 năm, nếu có sơ
xuất hoặc
thiếu câu nào đoạn nào mong Trần Mạnh Hảo thông cảm:
Phùng
Phật, sát Phật
Phùng
Phật phải sát Phật
Sát
Phật, Phật quay về
Ngộ rồi
mà chưa ngộ
Tỉnh
tỉnh mà mê mê
Thuý
Kiều vừa thành Phật
Mười
lăm năm tu hành
Cõi tâm
là cõi Phật
Lầu
không lầu không xanh
Phật tự
thân người đẹp
Không
dưng, sao Phật Bà
A Di Ðà
sát Phật
Phật
hoá thành đôi ta!
Tôi
thấy tình hình căng quá
bèn giải thoát cho các tín đồ Phật Giáo bằng bài thơ thức ngộ sau đây:
Phùng
Phật, cứu Phật
Trần
Mạnh Hảo sát Phật
Giữ lại
mình Quan Âm
Nói
theo kiểu phàm tục
Diệt
dục mà sinh dâm
Nói
theo kiểu cờ bạc
Úp Tây
mà lật Ðầm
Nói
theo Bùi hiền sĩ
Muốn
vậy chìa hai trăm!
Bao giờ
cũng vậy, những cuộc
đấu khẩu thơ giữa tôi và Trần Mạnh Hảo đều làm thiên hạ bật cười nhẹ
nhõm tới
bến sau khi thần kinh căng thẳng cũng tới bến. Anh em văn nghệ mà.
Những người
có khả năng khuấy đảo thiên hạ chỉ đếm trên đầu ngón tay, tại sao lại
không
biết thương nhau bảo vệ nhau trước những cặp mắt cú vọ của đám tiểu
nhân rình
mò tâu hót ám hại.
Một
giai thoại nữa có liên
quan tới Trần Mạnh Hảo khi họ Trần dẫn theo hai vị chức sắc thuộc tỉnh
Hà Nam
Ninh đến Hội Văn Nghệ 81 Trần Quốc Thảo ăn nhậu và ra câu đối thách
thức.
Chuyện đó đã hơn 15 năm. Hôm đó tôi đang ngồi uống bia dưới gốc cây đa
cùng với
Nguyễn Quốc Chánh, Ðoàn Vị Thượng… và nhiều anh em văn nghệ khác. Hai
bên chào
nhau và ráp bàn. Trần Mạnh Hảo tuyên bố: “Có một câu đối chúng tôi ra
vế mà từ
Bắc vô Nam chưa ai đối được hoàn hảo về mặt nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Nếu các
bạn trong bàn giải được, chúng tôi cá độ một chầu nhậu thả giàn”.
Vế đối
ra như sau:
“BATA
đi giày vải”
Phải
thú thật là vế ra quá
độc. Bởi băng “Hà Nam Ninh” của Trần Mạnh Hảo gồm đúng 3 người, mà cả 3
đều đi
giày vải, và giày vải đều mang hiệu BATA. Thế là anh em chiến hữu đều
hướng mắt
về phía tôi. Trong tình thế chỉ mành treo chuông, tôi gật đầu cái rụp.
Sau
15
phút động não nhằm xác
minh một đơn vị tiểu thủ công nghiệp mang tên “Ðại Chúng” chuyên sản
xuất dép
râu ở Chợ Lớn, tôi hùng hồn đứng dậy đối lại như sau:
“ÐẠI
CHÚNG lết dép râu”
Câu
đối
lại đã quá rõ ràng.
Khi ba cán bộ đi giày Bata thì đám đông đại chúng nghèo khổ đành phải
mang dép
râu lết bánh. Thế là sau một hồi tranh cãi gọi điện thoại bàn xác minh
cơ sở
sản xuất dép lốp Ðại Chúng có thật hay không thì băng Trần Mạnh Hảo
đành phải
chung độ chứ còn phải hỏi.
Cũng
trong giai thoại về câu
đối, nhân đây tôi nhắc chuyện này như một nén nhang thắp tặng linh hồn
hai vị
thuộc giới văn nghệ đã khuất. Ðó là hai nhà thơ trào phúng Tú Rua và
bác Cử Tạ,
vốn là hai nhân vật nằm trong hai câu đối của tôi. Chuyện xảy ra vào
cuối thập
niên 80 khi tôi và Lê Dụng (con trai cố nhạc sĩ Hoàng Việt) đến nhà Tú
Rua
chơi. Nhà thơ trào phúng Tú Rua vừa là chủ tiệm may đắt khách, vừa là
một cộng
tác viên đắc lực của báo Văn nghệ Thành phố, nơi Lê Dụng công tác.
Trong lúc
trà dư tửu hậu chén tạc chén thù, ông chủ tiệm may Tú Rua cao hứng phán
một câu
“Nghe đồn Bùi Chí Vinh có khả năng ứng tác về ca từ thi phú cổ điển.
Vậy ông có
ngon làm hai câu đối nói về chí khí của Tú Rua tôi trong sáng như sao
Tua Rua
trên bầu trời đêm thì tôi sẵn sàng đãi ông và Lê Dụng suốt một ngày
khắp các
quán Sài Gòn”. Lời phán của Tú Rua như một tiếng sét đánh ngang mày. Mà
đã là
sét đánh thì nháng lửa và tung tóe như sao. Bất giác tôi liên tưởng đến
bác Cử
Tạ phụ trách mục “Ôn Cố Tri Tân” trên báo Long An cuối tuần thường hay
bốc thuốc
Ðông Y ở khu Ông Tạ. Tôi nháy mắt với Lê Dụng như một nhân chứng vàxuất
khẩu
thành… hai câu đối như sau:
TÚ
RUA
“rua” SAO RUA
CỬ TẠ
tạ ÔNG TẠ
Tôi
thấy Lê Dụng khoái trá,
còn Tú Rua lặng người. Trong ba từ “rua” của vế trên thì chữ “rua” thứ
nhì là tiếng
Pháp có nghĩa là “bắt tay”. Tương tự trong ba từ “tạ” của vế đáp thì
chữ “tạ”
thứ nhì thuộc tiếng Hán có nghĩa là “vái chào”. Và kết quả là chúng tôi
say xỉn
quắc cần câu như thế nào có lẽ các bạn cũng hình dung ra được.
Cũng
trong thập niên 80, tôi
thường xuống khu Ông Tạ giao du với gia đình nhà văn Lưu Ngũ và các hảo
hớn anh
chị sống ngoài vòng pháp luật ở khu vực đó. Lưu Ngũ xuất thân là cựu
trung uý
Biệt động quân của quân đội Sài Gòn, sau giải phóng đi học tập cải tạo
và trở
thành nhà văn bất đắc dĩ nhờ đoạt giải văn học thành phố năm 1976 –
1977 với
truyện dài Vũng lầy. Anh chán ghét chiến tranh đến mức độ chỉ muốn làm
con
người, nhưng làm con người giữa thời đại “bo bo” và “xuyên tâm liên”
thì quả
khó làm sao. Trong một đêm nhậu đã đời với những kẻ “Ðảng nghi ngờ,
nhân dân
chú ý” chúng tôi đã đi lang thang trên đường phố chỉ toàn xe đò chạy
bằng than,
nhìn thấy những chiếc xích lô kiếp ngựa thồ mà phu xe toàn là cựu chiến
binh bộ
đội lẫn quân đội chế độ cũ, chúng tôi tiếp tục nhìn thấy những giọt lệ
ứa ra từ
các mệnh phụ phu nhân, các tiểu thư nghèo khổ phải “đứng đường” đón
khách kiếm
tiền độ nhật. Bài thơ “Sinh nghi hành” mở đầu một giai thoại truyền
khẩu sau
này ra đời từ đó:
Sinh
nghi hành
Sinh
nghi ta viết một bài
hành
Vợ nghi
chồng, em út nghi anh
Cha
nghi con cái, bè nghi bạn
Thủ
trưởng thì nghi hết ban
ngành
Láng
giềng dòm ngó nghi hàng
xóm
Ngoài
đường nghi phố chứa lưu
manh
Ngay ta
khi viết bài in báo
Cũng
nghi mình kiếm chác công
danh
Trời
ơi, mọi chuyện sinh nghi
thật
Chén
kiểu thường nghi kỵ chén
sành
Thời
buổi công hầu như chén
cứt
Thiếu
chó, mèo ăn cũng rất
nhanh
Mèo ăn
cho chó leo bàn độc
Vừa sủa
vừa nhai riết cũng
rành
Trẻ con
khát sữa, ai cho bú
Vú mẹ
gầy, sâu rúc nồi canh
Quang
Trung bỏ núi Tây Sơn
xuống
Hoảng
hốt vì gương vỡ chẳng
lành
Nguyễn
Du chỉ một đêm dạo phố
Ðoạn
Trường ngồi viết lại Tân
Thanh
Thuý
Kiều phát triển nhiều
như thế
Thảo
nào đất nước hoá lầu
xanh
Nhà tù
phát triển nhiều như
thế
Kẻ sĩ
làm sao dám học hành
Ta làm
thơ mà lòng đứt ruột
Suốt
đời bao tử chạy loanh
quanh
Lãnh tụ
nói “đói quên nghi
kỵ”
Ơn ấy
ngàn năm sáng sử xanh
Trước
khi tạm ngưng phần đầu
bài viết “Giai thoại của thi sĩ” này, tôi thiết tưởng không có gì ý vị
hơn khi
nhắc đến một ông bạn phương xa là Nguyễn Lương Vị. Hồi còn ở trong nước
chưa
định cư ở Mỹ, Nguyễn Lương Vị sống cùng địa phương với tôi, và những
lúc buồn
bã cô độc, anh thường ghé nhà rủ tôi nhâm nhi chén rượu quên sầu. Anh
buồn vì
một lý do cực kỳ giản dị: anh là một con người chứ không phải một con
thú hoặc
một cỗ máy. Thậm chí anh còn rung động nhanh hơn con người bình thường
một bậc,
bởi anh là… thi sĩ.
Nguyễn
Lương Vị thường ngồi
bứt tóc trong lúc đánh cờ tướng. Ðánh xong bàn cờ là tóc anh rụng như
mưa. Anh
sống nửa dại nửa khôn nửa tỉnh nửa điên như thế nên phải tự giải thoát
mình
trong triết lý Phật Giáo. Mỗi lần say xỉn anh thường thuyết giảng cho
tôi nghe
về tiểu thừa đại thừa, về sắc sắc không không, về cõi luân hồi sát na
sát khí…
để cho tôi “choáng” mà bớt quậy. Nào dè tôi quậy còn tưng bừng hơn. Tôi
có tặng
anh bài thơ sau đây trước khi anh sum họp gia đình bên Mỹ:
Phật
sống
Chư
huynh bàn về tu luyện
Ðứa đại
thừa, đứa tiểu thừa
Ðứa nào
cũng sắp thành Phật
Chỉ
mình ta còn gươm khua
Ðời này
nói đến hơn thua
Biết
bao giờ cho hết chuyện
Ta thấy
chư huynh yêu chùa
Cũng là
tự thân bảo hiểm
Nhưng
tu như vậy còn kém
Biết
khôn lựa gốc bồ đề
Có
người tu hang Pắc Bó
Sau này
thành Phật sướng ghê!
7. 2008
© 2008
talawas
Nguồn