Mai
Sau Dù Có Bao Giờ
Aleph
Theo Jean-Yves Pouilloux, tác giả cuốn
Borges,
Fictions, trong những bài viết về Borges, bài của Maurice
Blanchot "rõ ràng, trầm trọng, sắc sảo" nhất. Bài viết
nhan đề
Vô cùng của văn chương: L'Aleph, trong
Cuốn
sách sẽ tới (Le livre à venir). Sau đây là
trích đoạn:
Tôi nghi rằng, Borges đã nhận được
cái vô cùng của văn chương. Nói như vậy không
có nghĩa là ông có được sự hiểu biết trầm lắng
chiết ra từ những tác phẩm văn học, nhưng để khẳng định một điều,
kinh nghiệm văn chương có thể gần gụi một cách thật sâu
thẳm với những nghịch lý, những trò ngược ngạo mà Hegel,
để tránh né nó, đã gọi là vô
tận xấu (le mauvais infini).
Sự thực văn chương nằm trong sự lầm lạc về cái
vô cùng. Thế giới mà chúng ta "sống" nó,
may mắn thay, nông cạn. Chỉ cần vài bước là chúng
ta ra khỏi căn phòng, cần vài năm là ra khỏi "đời
mình, đời nhau" (notre vie). Nhưng giả dụ rằng, trong cõi
'nhân gian bé tí' đó, tự nhiên tối tăm,
bỗng nhiên mù lòa, chúng ta lạc mất nhau. Giả
dụ rằng, chốn sa mạc địa lý kia bỗng trở thành sa mạc thánh
kinh: không phải bốn bước, không phải mười một ngày chúng
ta vượt được, mà là thời gian của hai thế hệ, mà là
cả lịch sử nhân loại, có thể hơn thế nữa. Đối với con người
cân đo đong đếm, và được đánh giá như vậy, căn
phòng, sa mạc, thế giới là những nơi chốn được xác
định hết sức rõ ràng. Đối với con người "sa mạc, mê
cung", những con người chỉ cầu mong một bước đi nhỉnh hơn cuộc đời mình
một chút xíu, vậy là chính cõi không
gian vừa kể trên kia, bỗng biến thành vô cùng.
Borges hiểu rằng phẩm giá nguy nàn của văn chương không
phải vì nó khiến cho chúng ta giả dụ rằng, có
một tác giả lớn lao, đắm đuối trong những trò mộng mị, huyền
hoặc, nhưng nó cho chúng ta cảm nhận một điều, gần gụi đâu
đây là một sức mạnh kỳ lạ, vô tính, vô ngã.
Ông thích người ta nói như vầy về Shakespeare: "ông
ta giống như mọi người, trừ điều này: ông ta giống như mọi
người"
Note: Bài viết của Blanchot quả là thần sầu.
Blanchot là sư phụ của bạn quí của GCC, là
Huỳnh Phan Anh. Cuốn
Le Livre à venir, mua ở Paris, khi
anh được tụi Tẩy mời qua chơi, "Mua tại Paris nhân gặp HPA, Nov/99".
Về già - vào lúc này – đang đọc lại,
thì lại nhận ra, GCC đã từng lâm tình trạng
như Blanchot mô tả, không chỉ 1, mà là 2 lần,
và, chúng bổ túc cho nhau, và, "ngược ngạo"
nhau.
Một "vô tận xấu vs vô tận tốt", có thể nói
như thế.
“Vô tận xấu” là lần "hai đứa chúng tớ lạc mất
nhau", và MCNK không xẩy ra, ở PLT.
Tức lần GCC tính tự mình làm thịt mình
khi Seagull bỏ đi.
“Vô tận tốt”, thì như Szymborska mô tả, trong
Viễn Tượng
They passed like strangers,
without a word or gesture,
her off to the store,
him heading for the car.
Perhaps startled
or distracted,
or forgetting
that for a short while
they'd been in love forever.
Still, there's no guarantee
that it was them.
Maybe yes from a distance,
but not close up.
I watched them from the window,
and those who observe from above
are often mistaken.
She vanished beyond the glass door.
He got in behind the wheel
and took off.
As if nothing had happened,
if it had.
And I, sure for just a moment
that I'd seen it,
strive to convince you, O Readers,
with this accidental little poem
that it was sad.
-Wistawa Szymborka
*
Viễn tượng
Họ đi ngang nhau như hai kẻ xa lạ,
Chẳng một lời, một cử chỉ
Nàng tới tiệm
Chàng hướng xe
Có lẽ nhói một cái,
Hay lơ là một tí
Hoặc lãng quên một tẹo
Và thế là trong một thoáng,
Họ yêu nhau
Thiên thu bất tận
Tuy nhiên chẳng có chi bảo đảm
Đó là Gấu và CM
Có lẽ đúng là hai đứa
đó
Nếu nhìn từ xa
Đừng dí mắt thật gần
Tôi nhìn hai đứa từ trên
cửa sổ
Và nhìn từ xa, từ phía
bên trên như thế
Thường hú họa
CM biến mất quá cánh cửa kiếng
Gấu ngồi vô xe
Và tếch
Như chẳng có gì xẩy ra
Giả như có gì
Và tôi, chắc chắn vào
lúc đó
Nhìn thấy như vậy
Và cố gắng thuyết phục bạn,
Ôi nnhững độc giả của tôi
Bằng bài thơ nho nhỏ tình cờ
này
Rằng, buồn, buồn thật đấy
Trong Liêu Trai, có chuyện, một
em chồn, tu luyện tới đỉnh rồi, lỡ gặp 1 em, bèn mê,
thế là đi theo em về, bầu bạn.
Em này, bị chồng chê, mê
tớ gái. Thế là em chồn bầy cách làm
cho em này đẹp trở lại, và lấy lại được chồng.
Em trả ơn, bằng cách bầy cho em chồn
uống rượu say, để cho ông chồng làm thịt.
Tỉnh dậy, em chồn than, ta tu thành tiên,
chỉ vì mê…. gái mà lại trở
lại kiếp chồn!
Trong những tuyển tập thơ tình, chưa
có ai để vô đó, thứ tình tuyệt vời
này, nhỉ?
Cái phim đang được báo chí
khen rầm trời là 1 phim tình “lesbian”,
Carol,
hai em mê nhau, phỏng theo tiểu thuyết
của Pạt, Patricia Highsmith, 1 vì nữ hoàng trinh thám,
Gấu cực mê, từ hồi mới lớn.
Ui chao, lại nhớ đến cô bạn, đúng
hơn, cô học trò, thời gian ở trại cấm Skiew, Thái
Lan.
Em than, giá thầy là....
đàn bà, thì thầy trò mình
tha hồ mà bầu bạn, mà thủ thỉ!
Em có không biết bao nhiêu
chuyện, để mà kể, mà chẳng làm sao biết
thủ thỉ cùng ai!
L'INFINI
LITTÉRAIRE : L'ALEPH
Parlant de l'infini, Borges dit que cette idée corrompt
les autres. Michaux évoque l'infini, ennemi de l'homme, et dit
de la mescaline qui « refuse le mouvement du fini»: «
Infinivertie, elle détranquillise. »
Je soupconne Borges d'avoir recu l'infini de
la littérature. Ce n'est pas pour faire entendre qu'il n'en a
qu'une calme connaissance tirée d'oeuvres littéraires, mais
pour affirmer que l'expérience de la littérature est peut-etre
fondamentalement proche des paradoxes et des sophismes de ce que Hegel,
pour l'écarter, appelait le mauvais infini.
La vérité de la littérature
serait dans l'erreur de l'infini. Le monde où nous vivons et
tel que nous le vivons est heureusement borné. II nous suffit
de quelques pas pour sortir de notre chambre, de quelques années
pour sortir de notre vie. Mais supposons que, dans cet étroit
espace, soudain obscur, soudain aveugles, nous nous égarions.
Supposons que le désert géographique devienne le
désert biblique: ce n'est plus quatre pas, ce n'est plus onze
jours qu'il nous faut pour le traverser, mais le temps de deux génerations,
mais toute l'histoire de toute l'humanité, et peut-être
davantage. Pour l'homme mesuré et de mesure, la chambre, le désert
et le monde sont des lieux strictement déterminés. Pour l'homme
désertique et labyrinthique, voué à l'erreur d'une
démarche nécessairement un peu plus longue que sa vie,
le même espace sera vraiment infini, même s'il sait qu'il
ne l'est pas et d'autant plus qu'il le saura.
Maurice Blanchot:
Le livre à venir
Thơ
Mỗi Ngày
Aleph
Cách đọc
Borges của tụi mũi lõ trên toàn thế giới, không
giống cách đọc Borges, của, chỉ 1 tên da vàng
mũi tẹt Bắc Kít, là GCC. Thế giới của Borges, chính
là thế giới của Kafka, như Gấu đã từng chứng minh. Ác
mộng ở Borges biến thành sự thực thế kỷ 20, ở Kafka. K phán,
mi THNM rồi, nhìn đâu cũng thấy VC, là do GCC đọc
Borges, mà ra Kafka!
Viên y sĩ trong Y Sĩ Đồng Quê, của
Kafka, chẳng đúng là Dương Thu Hương ư, cả hai
đều than, chúng ta đã bị lừa.
Nền văn học hải ngoại, của lũ Ngụy, chẳng đã
thoát thai từ cái khoảnh khắc tên trưởng toán
hành quyết VC ra lệnh bắn, và 1 năm qua đi, giữa
cánh tay giơ lên và tên nhà văn
Ngụy té xuống, trong Phép Lạ Bí Ần, của Borges,
và không chỉ 1 năm qua đi mà "hoài hoài
còn hoài", khi VC, Cái Ác Bắc Kít
vẫn hoành hành ở nơi xứ Mít.
Quan điểm của Borges, về Nazi,
và Hitler, mới thực sự quái dị, và
áp dụng vô xứ Mít mới thần sầu làm
sao: Borges thực sự tin rằng, Hitler "thực sự" muốn thất trận!
Bạn đọc Tin Văn hẳn còn
nhớ anh bạn học thời trung học Ngô Khánh
Lãng của GCC. Anh là sĩ quan thám báo,
đi tù VC 13 năm, thua Thảo Trường 4 năm. Anh kể là,
1 lần tù Ngụy đi qua 1 làng Bắc Kít, và
anh được 1 bà già thương tình lén
quản giáo cho 1 tô cơm. Nhìn anh ăn thê
lương quá, do đói quá, bà nói,
tụi mi đánh đấm làm sao để thua giặc dữ. Bà
già này ngày đêm cầu khẩn cho tụi
mi ra giải phóng Miền Bắc.
Solzhenitsyn Mít, nhà
thơ Nguyễn Chí Thiện chẳng thế ư. Đi tù
VC, nghe tin Miền Nam thất trận, anh đi 1 đường nhạc sến,
“thôi rồi còn chi đâu em ơi”!
Hitler wants to be defeated. Hitler is collaborating blindly
with the inevitable armies that will annihilate him,
as the metal vultures and the dragon (which must not have
been unaware that they were monsters) collaborated, mysteriously,
with Hercules.
Lạ, hiếm, phong trần, tã:
Vớ được tại tiệm sách cũ.
FOREWORD
First and foremost, I think
of myself as a reader, then as a poet, then as
a prose writer. The initial part of this statement
calls for no explanation; the other two should be
qualified. They do not mean- they emphatically do not mean-that
I am fonder of my verse than of my prose, or that I judge
it as technically better, For all I know, the opposite may
be true. I suspect that poetry differs from prose not, as
many have claimed, through their dissimilar word patterns,
but by the fact that each is read in a different way. A passage
read as though addressed to the reason is prose; read as though
addressed to the imagination, it might be poetry. I cannot
say whether my work is poetry or not; I can only say that my appeal
is to the imagination. I am not a thinker. I am merely a man
who has tried to explore the literary possibilities of metaphysics
and of religion.
My stories are, in a sense,
outside of me. I dream them, shape them, and
set them down; after that, once sent out into the world,
they belong to others. All that is personal to me,
all that my friends good-naturedly tolerate in me-my likes
and dislikes, my hobbies, my habits-are to be found in
my verse. In the long run, perhaps, I shall stand or fall
by my poems.
Goethe, who is not one
of my heroes, thought that all poetry is occasional
poetry (Gelegenheitsdichtung). I have forgotten
the context, but I suppose his statement is open to
at least two interpretations: he may have been apologizing
for the all-too-plentiful verses he contributed to
albums, or he may have implied that true poetry springs from
what a particular man feels at a particular time. In my case,
I can fairly claim that every piece in this book had its origin
in a particular mood, in a necessity of its own, and was not meant
to illustrate a theory or to fill out a volume. I have never thought
of my poems, in fact, in terms of publication.
When this book was begun,
some three years ago in Cambridge, it was the
first time I had ever taken a direct hand in the translation
'of any of my own work. Di Giovanni and I have gone very
thoroughly over each piece, each line, and each word; the
fact that I am not only a collaborator but also the writer
has given us greater freedom, since we are less tied to
verbal precision than to inner meanings and intentions. I should
like to thank the outstanding British and American poets
who, by their skill and generosity, have made English poems
of my Spanish originals and so given them this new life.
JORGE LUIS BORGES
Salt Lake City, March 31, 1971
Trước hết và trên hết, tôi
nghĩ về tôi như là 1 độc giả,
rồi như một thi sĩ, và rồi thì là,
một nhà văn xuôi.
Phần đầu của câu phán, tớ là
độc giả, thì đếch cần giải thích
[trừ đám Mít triết, chúng
chỉ thích làm phê bình
gia, khi chửi Gấu, mi đâu phải phê bình
gia, vì mi đâu có bằng cử nhân
triết của Thầy Nguyễn Văn Trung ban cho mi, hà,
hà!]. Hai phần sau, có lẽ nên định
giá. Chúng không có nghĩa, tôi
khoái thơ vần hơn thơ xuôi. Ngược lại,
có lẽ thú hơn, xuôi hơn vần.
Tôi ngờ rằng, mỗi cách có
cách đọc riêng của nó.
Môt đoạn, đọc, mà nghĩ, nó viện
tới lý lẽ, thì là văn xuôi,
cái viện tới trí tưởng tượng, thì
là thơ. Tôi cũng khó nói
về cái viết của tôi, thì thơ, hay đếch
thơ. Tôi chỉ có thể nói, tôi
cố với/vời tới trí tưởng tượng, khi viết chúng.
Tôi không phải là 1 suy
nghĩ gia. Tôi, giản dị mà nói,
là 1 người cố phát triển, khai phá,
những khả hữu văn chương của siêu hình
học và của tôn giáo.
Cách đọc Borges của GCC, như "tự sướng"
ở trên, chưa từng có tên mũi lõ nào,
đọc!
Cũng thế, là giải thích cách
trao Nobel những năm gần đây: Cho, chỉ 1 tác phẩm,
chẳng cần toàn bộ văn nghiệp, cho thứ viết từ “anus mundi”,
từ đáy, thay vì từ đỉnh, gợi hứng từ Walter Benjamin.
Những câu chuyện của tôi, theo 1
nghĩa, thì ở ngoài tôi. Tôi mơ chúng,
tạo vóc dáng cho chúng, và cho chúng
ra đời; sau đó, một khi ra đời, vào đời, chúng
thuộc về những ngưòi khác. Tất cả thì đều có
tính cá nhân đối với tôi, tất cả thì
đều được bạn bè của tôi, do rộng luợng chịu đựng tôi,
nên chịu đựng chúng, có thể nói như thế:
họ chịu đựng cái tôi thích, cái tôi
không thích - già rồi hiền đi để mà chết,
họ khuyên tôi như thế - những "hobbies” của tôi, tám
bó rồi mà vẫn ham hố những kiều nữ Playboy thí dụ
- những thói quen của tôi… , tất cả đều có trong thơ
của tôi.
Trên đường dài, chúng đứng
thế chỗ của tôi, hoặc té, ngã, thế cho tôi!
(1)
Cuốn sách “Thương Xá”, cho dù
chúng ta đánh giá nó như thế nào
– điêu tàn, thất bại, một dự án bất khả,
impossible project – đề nghị một đường lối mới, để viết về một
nền văn minh: sử dụng những rác rưởi làm chất liệu,
thay vì những nghệ phẩm của cái nền văn minh đó;
lịch sử từ đáy thay vì lịch sử từ đỉnh. Và
lời kêu gọi của Benjamin (trong “Những luận đề” - “Theses”),
cho một lịch sử xoáy vào đau khổ của những người thua,
thay vì thành tựu của những kẻ thắng: lời kêu
gọi này mang đầy tính tiên tri, về cung cách
mà việc viết sử bắt đầu nghĩ về chính nó, trong
quãng đời [còn lại ngắn ngủi của chúng] ta.
J. M. Coetzee: The Marvels of Walter Benjamin [Những
kỳ tích về Walter Benjamin]
Note: Maurois cũng nhận ra liên hệ thầy trò giữa Kafka
và Borges.
Mê Cung
Note: Cuốn này, GCC có bản tiếng Tây,
và, tất nhiên, có nguyên tác tiếng
Tẩy, bài Tựa của Maurois. Nhưng kiếm hoài không
thấy, trong kho sách khổng lồ, nơi bên dưới cầu thang.
May mà kiếm thấy bản tiếng Anh.
Thôi đành post bản tiếng Anh vậy.
Maurois coi Borges "đã từng", was, là
đệ tử trực tiếp của Kafka, và “Lâu Đài”, có
thể do Borges, nhưng nếu là ông, nó sẽ chỉ còn
chừng vài trang, do lười và không ưa sự toàn
hảo. [Kafka was a direct precursor of Borges. The Castle might be by
Borges, but he would have made it into a ten-page story, both out of
lofty laziness and out of concern for perfection.]
Gấu đã từng nhận ra điều này, đúng
như thế, và cũng đã từng viết ra đâu đó,
trên TV. Nhưng có 1 khoảng cách xa vời vợi giữa
họ, như giữa mộng và thực.
Với Kafka, Lâu Đài
là thực, tức thế giới toàn trị.
Preface
Jorge Luis Borges is a great writer who has composed
only little essays or short narratives. Yet they suffice for us
to call him great because of their wonderful intelligence, their wealth
of invention, and their tight, almost mathematical, style. Argentine
by birth and temperament, but nurtured on universal literature, Borges
has no spiritual homeland. He creates, outside time and space, imaginary
and symbolic worlds. It is a sign of his importance that, in placing
him, only strange and perfect works can be called to mind. He is akin
to Kafka, Poe, sometimes to Henry James and Wells, always to Valery by
the abrupt projection of his paradoxes in what has been called "his private
metaphysics."
I
His sources are innumerable and unexpected. Borges
has read everything, and especially what nobody reads any more:
the Cabalists, the Alexandrine Greeks, medieval philosophers. His
erudition is not profound-he asks of it only flashes of lightning
and ideas-but it is vast. For example, Pascal wrote: "Nature is an
infinite sphere whose center is everywhere, whose circumference is nowhere."
Borges sets out to hunt down this metaphor through the centuries. He
finds in Giordano Bruno (1584): "We can assert with certainty that the
universe is all center, or that the center of the universe is everywhere
and its circumference nowhere." But Giordano Bruno had been able to read
in a twelfth-century French theologian, Alain de Lille, a formulation borrowed
from the
Corpus Hermeticum (third century): "God is an intelligible
sphere whose center is everywhere and whose circumference is nowhere,"
Such researches, carried out among the Chinese as among the Arabs or the
Egyptians, delight Borges, and lead him to the subjects of his stories.
Many of his masters are English,
He has an infinite admiration for Wells and is indignant that Oscar
Wilde could define him as "a scientific Jules Verne," Borges makes
the observation that the fiction of Jules Verne speculates on future
probability (the submarine, the trip to
the moon), that of Wells on pure possibility (an invisible man, a flower
that devours a man, a machine to explore time), or even on
impossibility (a man returning from the hereafter
with a future flower).
Beyond that, a Wells novel symbolically
represents features inherent in all human destinies. Any great and
lasting book must be ambiguous, Borges says; it is a mirror that makes
the reader's features known, but the author must seem to be unaware
of the significance of his work-which is an excellent description
of Borges's own art. "God must not engage in theology; the writer must
not destroy by human reasonings the faith that art requires of us."
He admires Poe and Chesterton
as much as he does Wells. Poe wrote perfect tales of fantastic horror
and invented the detective story, but he never combined the two
types of writing. Chesterton
did attempt and
felicitously brought off this tour de force. Each of Father Brown's
adventures proposes to explain, in reason's name, an unexplainable
fact. "Though Chesterton disclaimed being a Poe or Kafka, there was,
in the material out of which his ego was molded, something that tended
to nightmare." Kafka
was a direct precursor of Borges.
The Castle might be by Borges, but
he would have made it into a ten-page story, both out of lofty laziness
and out of concern for perfection. As for Kafka's precursors, Borges's
erudition takes pleasure in finding them in Zeno of Elea, Kierkegaard
and Robert Browning. In each of these authors there is some Kafka, but
if Kafka had not written, nobody would have been able to notice it-whence
this very Borgesian paradox: "Every writer creates his own precursors."
Another man who inspires him
is the English writer John William Dunne, author of such curious
books about time, in which he claims that the past, present and
future exist simultaneously, as is proved by our dreams. (Schopenhauer,
Borges remarks, had already written that life and dreams are leaves
of the same book: reading them in order is living; skimming through
them is dreaming.) In death we shall rediscover all the instants of
our life and we shall freely combine them as in dreams. "God, our friends,
and Shakespeare will collaborate with us." Nothing pleases Borges better
than to play in this way with mind, dreams, space and time. The more complicated
the game becomes, the happier he is. The dreamer can be dreamed in his
turn. "The Mind was dreaming; the world was its dream." In all philosophers,
from Democritus to Spinoza, from Schopenhauer to Kierkegaard, he is on the
watch for paradoxical intellectual possibilities.
II
There are to be found in Valery's notebooks many
notes such as this: "Idea for a frightening story: it is discovered
that the only remedy for cancer is living human flesh. Consequences."
I can well imagine a piece of Borges "fiction" written on such a theme.
Reading ancient and modern philosophers, he stops at an idea or a hypothesis.
The spark flashes. "If this absurd postulate were developed to its
extreme logical consequences," he wonders, "what world would be created?"
For example, an author, Pierre
Menard, undertakes to compose Don Quixote-not another Quixote,
but the Quixote. His method? To know Spanish well, to rediscover the
Catholic faith, to war against the Moors, to forget the history of
Europe-in short, to be Miguel de Cervantes. The coincidence then becomes
so total that the twentieth-century author rewrites Cervantes' novel
literally, word for word, and without referring to the original. And
here Borges has this astonishing sentence: "The text of Cervantes and
that of Menard are verbally identical, but the second is almost infinitely
richer." This he triumphantly demonstrates, for this subject, apparently
absurd, in fact expresses a real idea: the Quixote that we read is not
that of Cervantes, any more than our Madame Bovary is that of Flaubert.
Each twentieth-century reader involuntarily rewrites in his own way
the masterpieces of past centuries. It was enough to make an extrapolation
in order to draw Borges's story out of it.
Often a paradox that ought to
bowl us over does not strike us in the abstract form given it by
philosophers. Borges makes a concrete reality out of it. The "Library
of Babel" is the image of the universe, infinite and always started
over again. Most of the books in this library are unintelligible,
letters thrown together by chance or perversely repeated, but sometimes,
in this labyrinth of letters, a reasonable line or sentence is found.
Such are the laws of nature, tiny cases of regularity
in a chaotic world. The "Lottery in Babylon" is another ingenious
and penetrating staging of the role of chance in life. The mysterious
Company that distributes good and bad luck reminds us of the "musical
banks" in Samuel Butler's
Erewhon.
Attracted by metaphysics, but
accepting no system as true, Borges makes out of all of them a game
for the mind. He discovers two tendencies in himself: "one to esteem
religious and philosophical ideas for their aesthetic value, and
even for what is magical or marvelous in their content. That is perhaps
the indication of an essential skepticism. The other is to suppose
in advance that the quantity of fables or metaphors of which man's
imagination is capable is limited, but that this small number of inventions
can be everything to everyone."
Among these fables or ideas,
certain ones -particularly fascinate him: that of Endless Recurrence,
or the circular repetition of all the history of the world, a theme
dear to Nietzsche; that of the dream within a dream; that of centuries
that seem minutes and seconds that seem years ("The Secret Miracle");
that of the hallucinatory nature of the world. He likes to quote Novalis:
"The greatest of sorcerers would be the one who would cast a spell on
himself to the degree of taking his own phantasmagoria for autonomous
apparitions. Might that not be our case?" Borges answers that indeed
it is our case: it is we who have dreamed the universe. We can see in
what it consists, the deliberately constructed interplay of the mirrors
and mazes of this thought, difficult but always acute and laden with
secrets. In all these stories we find roads that fork, corridors that
lead nowhere, except to other' corridors, and so on as far as the eye
can see. For Borges this is an image of human thought, which endlessly
makes its way through concatenations of causes and effects without ever
exhausting infinity, and marvels over what is perhaps only inhuman chance.
And why wander in these labyrinths? Once more, for aesthetic reasons;
because this present infinity, these "vertiginous symmetries," have their
tragic beauty. The form is more important than the content.
III
Borges's form often recalls Swift's: the same gravity
amid the absurd, the same precision of detail. To demonstrate
an impossible discovery, he will adopt the tone of the most scrupulous
scholar, mix imaginary writings in with real and erudite sources.
Rather than write a whole book, which would bore him, he analyzes
a book which has never existed. "Why take five hundred pages," he
asks, "to develop an idea whose oral demonstration fits into a few
minutes?"
Such is, for example, the narrative
that bears this bizarre title: "Tlon, Uqbar, Orbis Tertius." This
concerns the history of an unknown planet, complete "with its architectures
and quarrels, with the terror of its mythologies and the uproar of
its languages, its emperors and seas, its minerals and birds and fish,
its algebra and fire, its theological and metaphysical controversies."
This invention of a new world appears to be the work of a secret society
of astronomers, engineers, biologists, metaphysicians and geometricians.
This world that they have created, Tlon, is a Berekeleyan and Kierkegaardian
world where only inner life exists. On Tlon everyone has his own truth;
external objects are whatever each one wants. The international press
broadcasts this discovery, and very soon the world of Tlon obliterates
our world. An imaginary past takes the place of our own. A group of solitary
scientists has transformed the universe. All this is mad, subtle, and
gives food for endless thought.
Other stories by Borges are parables,
mysterious and never explicit; still others are detective narratives
in the manner of Chesterton. Their plots remain entirely intellectual.
The criminal exploits his familiarity with the methods of the detective.
It is Dupin against Dupin or Maigret against Maigret. One of these
pieces of "fiction" is the insatiable search for a person through the
scarcely perceptible reflections that he has left on other souls. In
another, because a condemned man has noticed that expectations never coincide
with reality, he imagines the circumstances of his own death. Since
they have thus become expectations, they can no longer become realities.
These inventions are described
in a pure and scholarly style which must be linked up with Poe,
"who begat Baudelaire, who begat Mallarme, who begat Valery," who
begat Borges. It is especially by his rigor that he reminds us of
Valery. "To be in love is to create a religion whose god is fallible."
By his piled-up imperfects he sometimes recalls Flaubert; by the
rarity of his adjectives, St. John Perse. "The inconsolable cry of
a bird." But, once these relationships are pointed out, it must be
said that Borges's style is, like his thought, highly original. Of the
metaphysicians of Tlon he writes: "They seek neither truth nor likelihood;
they seek astonishment. They think metaphysics is a branch of the
literature of fantasy." That rather well defines the greatness and the
art of Borges.
ANDRE MAUROIS
of the French Academy
Translated by Sherry Mangan
Other stories by Borges are parables, mysterious and never explicit:
Những chuyện khác thì là ngụ ngôn, ẩn dụ, bí
hiểm, và không hề dứt khoát, rõ ràng.
Quả thế.
Ngụ ngôn Tháp Babel khủng khiếp nhất, nếu THNM, như
GCC, và áp dụng vào xứ Mít.
Xây Tháp Babel ư? OK. Nhưng nhớ là đừng trèo
lên nhé.
Cú 30 Tháng Tư mà chẳng xứng với xây
tháp Babel ư?
Nhưng xây xong, hoành tráng như thế mà
bảo đừng trèo lên, bố ai chịu nổi!
Thế là trèo:
Ngụy, chúng tống đi Trại Cải Tạo mút mùa lệ
thuỷ. Nhà Ngụy, chúng cướp. Vợ Ngụy chúng hiếp, con
Ngụy cấm đi học, lỡ đi học cấm vô Đại Học!
Cái vụ TXT theo GCC “là cũng là” hệ quả, by-effect,
phản ứng phụ, của cú trèo tháp Babel!
Man rợ vs Cổ điển
David Grossman : Nghệ thuật giả tưởng
Mọi người, bất cứ một người, ai cũng nên đặt
ra cho chính mình, một vài câu hỏi liên
quan tới Lò Thiêu.
David Grossman
Câu này, nhà văn Mít phải
thuộc nằm lòng, và Lò Thiêu đối với
chúng, là Trại Cải Tạo.
Chưa từng có đến 1 tên, đau cái
đau, làm thịt cả 1 miền đất ruột thịt, và sau đó,
như cục ung thư, làm thịt cả nước.
Không phải "vô tư" mà vị bộ trưởng ngoại
giao Đức nhắc tới chiến tranh lạnh, trong vụ Vẹm bắt cóc TXT.
Chiến Tranh Lạnh bắt đầu khi chế độ Nazi chấm dứt.
Đằng sau vụ TXT, là bóng ma Lò Thiêu,
và quá nữa, bóng ma Lò Cải Tạo, có
thể nói như thế.
Cái vụ TXT này, còn làm nhớ tới
Sebald.
Ông chửi nước Đức của ông, vờ cái vụ máy
bay Đồng Minh tàn phá những thành phố Đức, và
tự hỏi tại sao, và bèn tự trả lời, người Đức coi đây
là nỗi nhục nhã trong gia đình, đừng mang ra khoe
với thiên hạ, y chang cái vụ Bắc Kít mời Tẫu vô
giường, nhường vợ cho chúng, đổi lấy súng đạn làm
thịt thằng em Nam Bộ!
Làm sao Đức bỏ qua cho Vẹm cho được!
Sở dĩ không có 1 tên Bắc Kít nào
dám nhỏ 1 giọt nưóc mắt cá sấu cho lũ Ngụy, có
thể là do chúng vẫn còn đau cái nỗi đau
nhường giường cho Tẫu, trong khi xẻ dọc Trường Sơn!
But barbarism doesn't care if we
are cultivated or not.
Lũ Vẹm đếch "care", chúng ta có học hay không có
học.
Quả thế. Cho đến thời điểm này, chúng vẫn không làm
sao hiểu được, tại làm sao mà Đức lại quá quan tâm
đến 1 tên mafia đỏ, bị đồng bọn hăm he làm thịt, bỏ chạy
Nhưng, nhìn 1 cách nào đó, trường hợp TXT
là cơ may độc nhất, có thể nói như vậy, cho tới nay,
để cho người Đức, thắp lên nén hương tưởng niệm nạn nhân
Lò Thiêu.
Sebald chẳng đã từng than, "không làm sao tưởng niệm,
nỗi nhục trong gia đình…. "...
Đọc bài của Sến, trên net, viết về cas TXT, thì thấy
rõ, cái đọc, cái độc, cái ác của Bắc
Kít.
Chúng chỉ có thể sản xuất ra 1 thứ
văn chương làm nhục thêm cho Mít.
Cái nén hương mà Đức thắp lên cho Lò
Thiêu, lũ Ngụy cũng được ngửi ké, theo cái kiểu suy nghĩ
của Sến, ngửi khói bếp hàng xóm cũng đủ no.
Cũng trên tờ báo Trẻ có bài của Sến, Gấu đọc
trên net, còn có bài, Đức đâu cần TXT.
Cần quá chứ làm sao nói không cần?
Chính lũ Vẹm cho Đức cơ hội để nhìn lại vụ Lò Thiêu,
và quá đó, lũ Ngụy, nhìn lại Trại Tù Cải
Tạo.
Nghe có vẻ lớn lối nhưng quả đúng như thế, nếu đọc Sebald
viết về 1 nước Đức thời hậu chiến, cái thành quả kinh tế hậu
chiến, vẫn có mùi tủi nhục, từ Lò Thiêu.
Rảnh rang GCC sẽ đi hết bài viết của ông, Air War and Literature,
Không Chiến và Văn Chương, trong Về Lịch Sử Tự Nhiên Của
Hủy Diệt.
http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/Paul_Celan.html
To confront his
executioners in the name of the language they share with him, and
to force them to their knees.
That was the major bet, held.
Have I ever read Paul Celan? I have listened to him
for a long time. I listen to him. Each time his books renew a
dialogue the beginning of which I can't remember, though nothing
has come to interrupt it since then.
Silent dialogue through words as light as free and
adventurous birds; all the world's gravity being in the sky; like
stones laid by nostalgic ghosts on the marble of nonexistent tombs;
all the world's pain being in the earth; and like ashes of an interminable
day of horror of which there remains but the unbearable image of pink
smoke above millions of burned bodies.
A nothing rose
a Noone's Rose
A nothing
were we, are we, will we remain, blossoming:
the nothing - , the
noonesrose.
Edmond Jabès:
The Memory of
Words
Để đối chất với lũ đao phủ Bắc Kít, những kẻ cùng
chia sẻ tiếng nói với mi
Để bắt chúng quỳ gối
Quả đúng 1à 1 cú đánh quả lớn.
Tôi đã từng đọc Paul Celan? Tôi đã nghe
ông nói một thời gian dài. Tôi lắng nghe ông.
Mỗi lần sách của ông làm mới lại 1 cuộc thoại, bắt
đầu ra sao, tôi chẳng thể nhớ, nhưng kể đó, chưa lần đứt đoạn
bởi bất sự điều gì.
Thoại lặng câm qua những con chữ, thì nhẹ như chim
trời tự do rong ruổi trong những chuyến ngao du; cái trọng lực của
thế giới thì ở trên trời, trong không khí; như
những hòn đá được bầy ra bởi những hồn ma của hoài
nhớ trên những phiến cẩm thạch của những nấm mồ không hiện
hữu, tất cả nỗi đau của kiếp người thì ở trong đất; và như
tro than của một ngày triền miên của nỗi ghê rợn mà
với nó, chẳng có gì còn lại, ngoại trừ một
hình ảnh không làm sao chịu đựng nổi của một BHD,
giống như sương khói mầu hồng ở bên trên hàng
triệu triệu những thân xác bị thiêu đốt
Một bông hồng hư vô
Một BHD của Không Ai
All poets are Jews
Marina Tsvetayeva
[Paul Celan trích dẫn làm tiêu đề cho 1 bài
thơ của ông]
Mọi thi sĩ là... Ngụy!
Đúng ý Vương Đại Gia, Vương Trí Nhàn,
"May mà có Ngụy"!
Note:
Đây là hình ảnh những nấm mồ ở trên không,
cực kỳ thần sầu, do quá thê luơng, trong Tẩu Khúc
Của Thần Chết.
Kertesz, Nobel văn chương, chôm, mà không biết
(1)
Imre
Kertesz par ML (1)
Ông có nhận được cú đọc
nào đáng kể, tôi muốn nói, đam mê đọc, từ
một sư phụ nào không?
Vous n’avez recu la passion
de la lecture de personne?
Đam mê đọc, đọc phát
khùng, phát điên lên, là do những tác
phẩm của Thomas Mann, và của Camus đem đến cho tôi [gợi lên
ở nơi tôi]. Họ là những ông bố văn học của tôi,
hay, như người ta nói, hai ngôi sao Berger của tôi.
Kafka nữa chứ, phải không?
[Kafka aussi?]
Tôi khám phá
ra Kafka hơi muộn, Phải đến năm 1964, như tôi còn nhớ được,
tác phẩm của Kafka lần đầu tiên ra mắt tại Hung, và
là Mẽo, America, Vụ Án, Le Procès.
Dịch được lắm, mãi sau đó, tôi mới được đọc. Thần sầu,
thiên tài, génial. Không chỉ trong tính
đề tài, luận đề, mà còn trong cách miêu
tả một xen, une scène… Phải can đảm đến khùng điên thì
mới dám thuổng Kafka, il faut un grand courage pour oser écrire
après Kafka, en tout cas.
Trong 1 cuộc phỏng vấn mới đây, ông
[thuổng Sến], phán, tớ rất mừng vì đếch có tí
vay muợn nào tiền chiến, đúng không?
[Cái này dịch bậy.
Nguyên văn: Ông rất mừng vì đếch thuộc về, hay liên
hệ. Thời của những đại ý thức hệ đã qua rồi. Ông có
tiếc nuối điều này? Vous avez déclaré dans un récent
entretien que vous vous réjouissez d’être sans appartenance.
L’époque des grandes idéologies est arrivée à
son terme. Le regrettez-vous?]
Phải lại bắt đầu từ khá
xa. Trước tiên, phải biết là, sau Auschwitz, thế giới trở nên
khác, le monde est devenu autre, những bảng luật bị gẫy vụn, les
tables de la loi se sont brisées. Ông biết câu chuyện
1 thuỷ thủ Hy Lạp, trong lúc loay hoay cập 1 hòn đảo thì
nghe la: Thượng Đế đã chết [On crie que le grand Pan est mort]. Thế
đó: một nền văn hóa đã chết. Sau Lò Thiêu,
không 1 ý thức hệ nào còn có giá
nữa [valable].
Sau Lò Thiêu, là phải suy nghĩ khác đi.
Một trong những cuốn tiểu thuyết của ông
có tên là Những kẻ tìm dấu vết, Les Chercheurs de traces. Liệu bây giờ còn những người tìm
dấu vết, so, comparable, với những nhân vật của ông?
Một câu hỏi tuyệt. Còn
chứ, chắc chắn [Il y en a, sans doute]
Ông khuyên họ, sao?
Tôi mới vớ được 1 cuốn
tiểu thuyết mà nữ tác giả sống ở Mẽo từ lâu, ông
chồng là nhà chính trị được nhiều người biết, connu.
Trong bốn chục năm, bà ta không biết gốc mình là
Do Thái, tuy ngửi ra có 1 cái gì đó bị
giấu diếm, che đậy [tout en sentant que quelque chose clochait]. Thế rồi
1 bữa có người bất thình lình hỏi bà, "Thế nào
sống sót có cực không?"
[Et comment vous avez survécu?: Bà sống sót như thế
nào?].
Sống sót cái gì chứ?
Thì Lò Thiêu chứ cái gì.
Bà bèn chạy gặp ông bô bà bô, ngỏ
lời trách móc, tại sao giấu?
Làm Mẽo không thú sao? Để ý làm gì
cái quá khứ thê lương đó.
Cô con gái lắc đầu, nói, bây giờ con mới cảm
thấy thực sự là người!
Có 1 điều gì đó,
liên quan tới cái vụ Bắc Kít rất thèm được là…
Ngụy, ở đây!
Gấu đã từng gặp những người như vậy, và đã từng viết
ra điều này, trong 1 truyện ngắn, để coi lại, trình cho bà
con cùng đọc.
Hà, hà!
Cái
cú TXT, một cách nào đó, là cơ hội cho
Đức "lại được làm người", như cô gái mà Kertesz
"ẩn dụ"!
Cách đọc Borges của tụi mũi lõ trên
toàn thế giới, không giống cách đọc Borges,
của, chỉ 1 tên da vàng mũi tẹt Bắc Kít, là
GCC. Thế giới của Borges, chính là thế giới của Kafka,
như Gấu đã từng chứng minh. Ác mộng ở Borges biến thành
sự thực thế kỷ 20, ở Kafka. K phán, mi THNM rồi, nhìn
đâu cũng thấy VC, là do GCC đọc Borges, mà ra Kafka!
Viên y sĩ trong
Y Sĩ Đồng Quê, của
Kafka, chẳng đúng là Dương Thu Hương ư, cả hai đều
than, chúng ta đã bị lừa.
Nền văn học hải ngoại, của lũ Ngụy, chẳng đã
thoát thai từ cái khoảnh khắc tên trưởng toán
hành quyết VC ra lệnh bắn, và 1 năm qua đi, giữa cánh
tay giơ lên và tên nhà văn Ngụy té
xuống, trong Phép Lạ Bí Ần, của Borges, và không
chỉ 1 năm qua đi mà "hoài hoài còn hoài",
khi VC, Cái Ác Bắc Kít vẫn hoành hành
ở nơi xứ Mít.
Quan điểm của Borges, về Nazi, và Hitler, mới
thực sự quái dị, và áp dụng vô xứ Mít
mới thần sầu làm sao: Borges thực sự tin rằng, Hitler "thực
sự" muốn thất trận!
Bạn đọc Tin Văn hẳn còn nhớ anh bạn học thời trung
học Ngô Khánh Lãng của GCC. Anh là sĩ
quan thám báo, đi tù VC 13 năm, thua Thảo Trường
4 năm. Anh kể là, 1 lần tù Ngụy đi qua 1 làng Bắc
Kít, và anh được 1 bà già thương tình
lén quản giáo cho 1 tô cơm. Nhìn anh ăn thê
lương quá, do đói quá, bà nói, tụi
mi đánh đấm làm sao để thua giặc dữ. Bà già
này ngày đêm cầu khẩn cho tụi mi ra giải phóng
Miền Bắc.
Solzhenitsyn Mít, nhà thơ Nguyễn Chí
Thiện chẳng thế ư. Đi tù VC, nghe tin Miền Nam thất trận,
anh đi 1 đường nhạc sến, “thôi rồi còn chi đâu em
ơi”!
Còm của Borges về ngày 30 Tháng
Tư 1975
Hitler wants to be defeated. Hitler is collaborating blindly
with the inevitable armies that will annihilate him, as the metal
vultures and the dragon (which must not have been unaware that they
were monsters) collaborated, mysteriously, with Hercule.
Lạ,
hiếm, phong trần, tã: Vớ được tại tiệm sách cũ.
FOREWORD
First and foremost, I think
of myself as a reader, then as a poet, then as a prose
writer. The initial part of this statement calls for no
explanation; the other two should be qualified. They do not
mean- they emphatically do not mean-that I am fonder of
my verse than of my prose, or that I judge it as technically
better, For all I know, the opposite may be true. I suspect
that poetry differs from prose not, as many have claimed, through
their dissimilar word patterns, but by the fact that each is read
in a different way. A passage read as though addressed to the reason
is prose; read as though addressed to the imagination, it might
be poetry. I cannot say whether my work is poetry or not; I can only
say that my appeal is to the imagination. I am not a thinker. I am
merely a man who has tried to explore the literary possibilities
of metaphysics and of religion.
My stories are, in a sense, outside of me. I dream
them, shape them, and set them down; after that, once sent
out into the world, they belong to others. All that is personal
to me, all that my friends good-naturedly tolerate in me-my
likes and dislikes, my hobbies, my habits-are to be found
in my verse. In the long run, perhaps, I shall stand or fall
by my poems.
Goethe, who is not one of my heroes, thought that
all poetry is occasional poetry (Gelegenheitsdichtung).
I have forgotten the context, but I suppose his statement
is open to at least two interpretations: he may have been
apologizing for the all-too-plentiful verses he contributed
to albums, or he may have implied that true poetry springs from
what a particular man feels at a particular time. In my case, I
can fairly claim that every piece in this book had its origin in
a particular mood, in a necessity of its own, and was not meant to
illustrate a theory or to fill out a volume. I have never thought
of my poems, in fact, in terms of publication.
When this book was begun, some three years ago in
Cambridge, it was the first time I had ever taken a direct
hand in the translation 'of any of my own work. Di Giovanni
and I have gone very thoroughly over each piece, each line,
and each word; the fact that I am not only a collaborator but
also the writer has given us greater freedom, since we are less
tied to verbal precision than to inner meanings and intentions.
I should like to thank the outstanding British and American
poets who, by their skill and generosity, have made English poems
of my Spanish originals and so given them this new life.
JORGE LUIS BORGES
Salt Lake City,
March 31, 1971
Trước hết và
trên hết, tôi nghĩ về tôi như
là 1 độc giả, rồi như một thi sĩ, và rồi
thì là, một nhà văn xuôi.
Phần đầu của câu
phán, tớ là độc giả, thì đếch
cần giải thích [trừ đám Mít triết,
chúng chỉ thích làm phê bình
gia, khi chửi Gấu, mi đâu phải phê bình
gia, vì mi đâu có bằng cử nhân
triết của Thầy Nguyễn Văn Trung ban cho mi, hà, hà!].
Hai phần sau, có lẽ nên định giá. Chúng
không có nghĩa, tôi khoái thơ
vần hơn thơ xuôi. Ngược lại, có lẽ thú
hơn, xuôi hơn vần.
Tôi ngờ
rằng, mỗi cách có cách đọc riêng
của nó. Môt đoạn, đọc, mà nghĩ,
nó viện tới lý lẽ, thì là
văn xuôi, cái viện tới trí tưởng tượng,
thì là thơ. Tôi cũng khó nói
về cái viết của tôi, thì thơ, hay đếch
thơ. Tôi chỉ có thể nói, tôi cố với/vời
tới trí tưởng tượng, khi viết chúng.
Tôi không
phải là 1 suy nghĩ gia. Tôi, giản dị
mà nói, là 1 người cố phát triển,
khai phá, những khả hữu văn chương của siêu
hình học và của tôn giáo.
INTRODUCTION
This is the first systematic presentation in English
of the poems of a writer who made his initial fame in his own country
nearly fifty years ago with his poetry, but whose present-day universal
acclaim happens to rest on the small body of his prose. Until now, in
England and the United States, we have known only the Borges of the
puzzling short stories and luminous essays, Borges the brilliant conversationalist,
the imitated Borges, the Anglo-American Borges. Of course, there is
only one Borges, and no one will deny that the central vision which
informs all his work is a poetic vision, but with a broad selection of
the poems available we at last begin to have Borges whole. We may in
this book even have, for the first time, the essence of Borges-the Borges
who is one of South America's, and the world's, best poets.
Borges' poetry requires no special
key. For those who like a biographical context, it is sufficient
to point out here that the author was born in Buenos Aires, in 1899,
learned English as a child at the side of an English grandmother,
and came to poetry in English under the influence of his father, who
loved England's great poets of the last century. Educated in Geneva
during the First World War, where he discovered Whitman and the
German expressionists, Borges began writing poetry in French and English.
Later, in Spain, in 1919, he published his first poem, became involved
with an imagist sect called the "ultraists," and, after returning
to Buenos Aires, saw his first book into print himself. It would be
superfluous to repeat in any greater detail what Borges has already told
us about his early life and first writings in his recent short autobiography.
(That essay, which is printed elsewhere, is not only a perfect introduction
to Borges, setting his entire lifework in a frame, but also makes an
ideal supplementary introduction to the present volume.) For the rest,
Borges himself provides the most valuable insights into his own poetry;
mindful of this, ten of his prefaces are included at the end of this
edition, along with a full set of notes that furnish the reader with
helpful historical and biographical information.
As a poet, Borges has striven over
the years to write more and more clearly, plainly, and straightforwardly.
A study of the revisions of his early work from edition to edition
of the poems shows a stripping away of baroque ornament and a greater
concern for natural word order and for the use of common language.
Even his ideas about metaphor have moved in this direction. "When I was
a young man," Borges has remarked, "I was always hunting for new metaphors;
then I found out that really good metaphors are always the same." The
emphasis, then, has been away from callow, tiresome, and merely clever
inventiveness (a trolley car seen as a man shouldering a gun) to the stressing
of familiar and natural affinities, such as dream-life, sleep-death, and
the flow of rivers and time-a turn, as Borges bitingly terms it, to sanity.
There is a great deal of truth to Borges' insistence that he has been first
a reader and then a writer. For it is as a peruser of books that he constantly
plumps for such unabashedly old-fashioned qualities as readability,
pleasure, and enjoyment, demanding in turn that the writer in him provide
this same complement of un-academic and refreshing virtues in his own
work. * All these elements add up, I find, to endearing aspirations
in a twentieth-century poet.
* Many of Borges' current views on poetry are found
in three concise essays "On the Classics," "A Defense of Poetry,"
and "The Metaphor"-collected under the title "Up from Ultraism"
and published in The New York Review of Books, XV, 3, August 13,
1970.
I want now to introduce the present selection.
Jorge Luis Borges came into my consciousness in the
fall of 1967. I was living an hour or so north of Boston, and I had
been asked to compile a bilingual anthology of Latin-American verse.
Reading Borges then for the first time in order to
choose his best half-dozen pages, I quickly discovered several
poems I admired, but I was most moved by a piece called "Elvira de
Alvear," for something back of its lines-even in a weak translation-connected
me straightaway with Borges' humanity. I couldn't have been greener,
having come to Borges not through the celebrated stories but through
the (then) overlooked poems. Wanting to learn more about the poet and
the man, I next read Ronald Christ's intelligent Borges interview in
the Paris Review. The author leaped alive and bristling off those pages-and
yet modest and lovable and curiously self-effacing. I recognized the
same Borges who had written "Elvira de Alvear." By that point, the English
versions I had been reading all felt pale; the man who spoke with such
sparkle and wit had to write far better than his translations showed.
(His own English, I later found out, surpassed that of the general
run of his translated work.) A study of the original texts became unavoidable,
and, in Cambridge one day to buy them, I learned by chance that Borges
was at Harvard at that moment and for that year as Charles Eliot Norton
Professor of Poetry. Seizing this opportunity, I wrote him at once, proposing
an English-language edition of his poetry, and he answered, asking me
to pay him a visit. That visit, made early in December, 1967, has never
ended. Borges and I liked each other, we enjoyed the work, and it was
the right hour to have come knocking. At the time, Borges was suffering
from an unhappy private life and from the peculiar isolation it had forced
him into. I had happened along, all unwittingly, to help fill those long
empty Sundays he so dreaded, to offer him the kind of work he could give
his mind to (this in turn earned him much-needed self-justification),
and to lend him the ear he desperately required. Ironically, in the short
space of three weeks or a month, I had become the last American to discover
Borges and the first to work with him. It was a lucky chain of events,
and it kept getting luckier. Our project received the assistance of
[suite]
Norman Thomas Di Giovanni
Rose
/ The rose of Paracelsus ( J.L.Borges)
ROSE
Rose,
the unfading rose beyond my verse-
rose that's full and fragrant,
rose of the black garden in the deep of night,
rose of any garden and any night,
rose that's born again by the art of alchemy
out of tenuous ash,
rose of the Persians and Ariosto,
rose that's always by itself,
rose that's always the rose of roses,
the young Platonic flower,
the blind and burning rose beyond my verse,
unattainable rose.
[Norman Thomas di Giovanni]
J.L. Borges
BÔNG
HỒNG
Bông hồng không tàn phai, vượt quá
thơ của tôi
Bông hồng - nở trọn, thơm ngát –
Bông hồng, từ cánh vườn đen, nơi sâu
thẳm của đêm
Bông hồng của bất cứ vườn, bất cứ đêm
Bông hồng lại sinh ra nhờ huyền thuật,
từ tro than tinh khiết, giản dị.
Bông hồng của những người Ba Tư, và của
Ariosto,
Bông hồng luôn luôn bằng chính
nó
Bông hồng luôn luôn là bông
hồng của những bông hồng
Bông hoa trẻ măng, của tình yêu Platonic
- chiêm ngưỡng và kính trọng -
Bông hồng mù, cháy bỏng vượt quá
thơ của tôi
Bông hồng không làm sao nắm bắt được.
Nguyễn Quốc Trụ
dịch
“Đọc thơ dịch cũng giống như đi tắm mà
mặc áo mưa bên ngoài vậy."
https://chuyenbangquo.wordpress.com/
Note:
Cái hình ảnh mặc áo mưa đi tắm này,
quá “dã man”, nhất là lại dùng để chỉ
công việc dịch thơ!
Như cái từ “áo mưa”!
Với GCC, thơ làm ra là để được dịch. Mỗi 1
vị độc giả, không biết, không đọc được nguyên tác,
đọc 1 bài thơ dịch, là 1 vị độc giả không trông
mong, chờ đợi, và như thế, thực hiếm quí, thật trân
trọng.
Đây là ý của Borges, được GCC suy rộng
ra, khi ông biết, thơ của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng
trên thế giới.
Luôn cả cái chuyện ông có nhiều
độc giả cũng làm ông ngạc nhiên, theo như bài
viết về ông, của Steiner, “Những con hổ trong gương”. Post ở
đây cái đoạn thần sầu đó.
Lần vô server/cpanel, thấy con số 1.000 visits/1 ngày,
Gấu quá hoảng hốt, thực sự là như vậy. Sau hiểu ra,
con số độc giả thực sự của Tin Văn chỉ chừng 200 vị, cũng quá
nhiều rồi, so với những năm đầu, chừng 30, nhưng do vô nhiều lần
trong ngày. Lúc đó mới đỡ sợ.
The turning point came in 1961. Beckett and Borges were
awarded the Formentor Prize. A year later, Borges's Labyrinths and
Fictions appeared in English. Honors rained. The Italian government
made Borges Commendatore. At the suggestion of Malraux, de Gaulle
conferred on his illustrious fellow-writer and master of myths the title
of Commander of the Ordre des Lettres et des Arts. The sudden lion found
himself lecturing in Madrid, Paris, Geneva, London, Oxford, Edinburgh,
Harvard, Texas. "At a ripe old age," muses Borges, "I began to find that
many people were interested in my work all over the world. It seems strange:
many of my writings have been done into English, into Swedish, into French,
into Italian, into German, into Portuguese, into some of the Slav languages,
into Danish. And always this comes as a great surprise to me, because I
remember I published a book-that must have been way back in 1932, I think-and
at the end of the year I found out that no less than thirty-seven copies
had been sold!" A leanness that had its compensations:
"Those people are real, I mean every one of them has a face of his
own, a family, he lives in his own particular street. Why, if you sell,
say, two thousand copies, it is the same thing as if you had sold nothing
at all, because two thousand is too vast- I mean for the imagination to
grasp .... Perhaps seventeen would have been better or even seven." Each
of these numbers has a symbolic role, and in Borges's fables so does the
cabalistic diminishing series.
Today, the secret thirty-seven have produced an industry.
Ý của Borges, hai ngàn
ấn bản thì cũng như chẳng 1 ấn bản, làm nhớ đến "Rule
number one" của art2all:
Thứ “độc giả số 1” ở trên đời, là thứ đúng
ra mình đừng nên có, và nếu có, thì
đừng nên gặp!
Độc giả vĩ đại thì cũng giống như tình yêu
vĩ đại!
J.L. Borges: Doomsday ( Tận Thế )
DOOMSDAY
It will be when the trumpet sounds, as Saint John the
theologian writes.
It was in 1757, according to Swedenborg.
It was in Israel (when the she-wolf nailed the flesh of
Christ
to the cross) but not only then.
It happens with every heartbeat.
There is no moment that can't be the pit of Hell.
There is no moment that can't be the water of Paradise.
There is no moment that isn't a loaded gun.
At any second you could be Cain or the Buddha, the mask
or
the face.
At any second Helen of Troy could reveal her love for
you.
At any second the rooster could have crowed three times.
At every second the water clock lets fall the final drop.
-S.K.
J.L. Borges: Poems of the Night
TẬN THẾ
Nó sẽ xẩy ra khi tiếng kèn rú lên,
như Saint John nhà thần học viết
Đó là vào năm 1757
theo như Swedenborg.
Đó là ở Israel, (khi nữ sói đóng
đinh Chúa Ky Tô lên cây thập tự), nhưng không
chỉ khi đó.
Nó xẩy ra với mọi cú tim đập
Chẳng có khoảnh khắc nào mà không
có thể gọi là “hố Địa Ngục”
Chẳng có khoảnh khắc mà không thể
gọi là “nước Thiên Đàng”
Chẳng có khoảnh khắc nào mà không
thể là “súng đã nạp đạn”
Bất cứ giây khắc nào bạn cũng có thể
là Cain hay Đức Phật, cái mặt nạ hay là bộ
mặt.
Bất cứ giây khắc nào Người Đẹp thành
Troy cũng có thể bật mí Nàng yêu bạn.
Bất cứ giây khắc nào thì con gà
trống cũng có thể gáy ba phát.
Bất cứ giây khắc nào thì cũng có
thể, giọt nước cuối cùng của cái đồng hồ nước, rớt
xuống.
J.L.Borges: Remorse for any death ( Ân hận vì bất
cứ một cái chết)
[Note to K: link broken]
J.L.Borges:
Someone ( Một người nào đó)
A man worn down by time,
a man who does not even expect death
(the proofs of death are statistics
and everyone runs the risk
of being the first immortal),
a man who has learned to express thanks
for the days' modest alms:
sleep, routine, the taste of water,
an unsuspected etymology,
a Latin or Saxon verse,
the memory of a woman who left him
thirty years ago now
whom he can call to mind without bitterness,
a man who is aware that the present
is both future and oblivion,
a man who has betrayed
and has been betrayed,
may feel suddenly, when crossing the street,
a mysterious happiness
not coming from the side of hope
but from an ancient innocence,
from his own root or from some diffused god.
He knows better than to look at it closely,
for there are reasons more terrible than tigers
which will prove to him
that wretchedness is his duty,
but he accepts humbly
this felicity, this glimmer.
Perhaps in death when the dust
is dust, we will be forever
this undecipherable root,
from which will grow forever,
serene or horrible,
our solitary heaven or hell.
-W.S.M.
J.L. Borges
~~oOo~~
Một người nào đó
Một người đàn ông bị thời gian quần cho nát
bấy ra.
Một người đàn ông không chờ mong, ngay
cả cái chết
(những chứng cớ về cái chết, là trò
thống kê,
và mọi người, bất cứ một ai,
cũng có thể gặp phải rủi ro,
là đếch làm sao mà chết được, và
trở thành kẻ bất tử đầu tiên)
một người đàn ông học bầy tỏ lòng
biết ơn
đối với của bố thí khiêm
tốn của những ngày:
ngủ, thói thường, mùi vị của nước
một từ nguyên học chắc như bắp, không chút
hồ nghi
một câu thơ La tinh hay Saxon,
kỷ niệm về 1 người đàn bà bỏ rơi anh ta,
từ ba mươi năm về trước
người đàn bà mà bây giờ nhớ
lại không còn cay đắng
một người đàn ông biết, hiện tại thì
là cả hai: tương lai và quên lãng.
một người đàn ông đã phản bội
và bị phản bội
anh ta có thể cảm thấy, bất thình lình,
khi băng qua một con phố,
một hạnh phúc bí ẩn
không đến từ phía của hy vọng
nhưng từ một sự ngây thơ cũ kỹ
từ cái căn cơ của chính anh ta, là
1 kẻ tà đạo,
hay từ 1 vị thần linh cà chớn
nào đó
Anh ta biết rành hơn cả cái trò dí
mắt sát tận nơi
Bởi là vì có những lý do khủng
khiếp hơn cả lũ hổ
Chứng tỏ cho anh ta, sự cùng khổ là bổn
phận của anh ta
Nhưng anh khiêm tốn chấp nhận hạnh phúc này,
tia sáng yếu ớt này.
Có thể, trong cái chết, khi bụi là
bụi,
Chúng ta sẽ thiên thu vĩnh hằng,
là cái gốc rễ không
thể nào giải mã ra được
từ đó mọc lên, thiên thu hằng hằng,
cái thiên đàng hay địa ngục cô
đơn của chúng ta,
thanh thản và ghê rợn.
Chuyện Tình
http://damau.org/archives/43270
LTS
Lúc sinh thời Borges hợp tác với dịch giả Norman Thomas di
Giovanni, người dịch những tác phẩm của ông sang Anh ngữ và
do đó đã giúp ông nới rộng tầm độc giả hoàn
cầu. Nhưng sau khi ông qua đời, bà Maria Kodama, vợ ông,
đã hủy bỏ tác quyền của tất cả mọi tác phẩm xuất bản
trong Anh ngữ với Norman Thomas di Giovanni và thay thế với các
bản dịch mới của Andrew Hurley.
Bản Việt ngữ trên Da màu được dựa trên bản Anh ngữ
của Norman Thomas di Giovanni, hiện ở trong phạm vi công cộng. Tuy
nhiên, bản Anh ngữ của Norman Thomas di Giovanni, khi đối chiếu
nguyên bản Tây Ban Nha, có một vài đoạn khác
biệt, cùng một vài lỗi về dịch thuật, hoặc từ ngữ không
còn thông dụng hiện nay. Khi biên tập, BBT Da màu
– vì không được phép dùng bản Anh ngữ của Andrew
Hurley (nxb. Penguin) – đã đối chiếu thẳng với nguyên bản
Tây Ban Nha của Borges ở những đoạn mà bản Anh ngữ của Norman
Thomas di Giovanni không đồng nhất với nguyên bản.
16.8.2009
THE YOUNG NIGHT
And now the lustral waters of
night absolve me
from the many colors and the many
forms.
In the garden, birds and stars exalt
the longed-for return of the ancient
norms
of sleep and shadow. Darkness is
sealing
the mirrors which copy the fiction
of things.
Goethe said it best: everything near becomes far.
Those four words capture the entire
twilight.
In the garden, roses cease to be
roses;
they wish to be the Rose.
-C.M.
J.L. Borges: Poems of the Night. Waiting For The Night (1978-1985)
Note:
p. 137. The Young Night: Borges discussed the line
by Goethe quoted in the poem: "Alles Nahe werde fern, everything
near becomes far. Goethe was referring to the evening
twilight. Everything near becomes far. It is true. At nightfall,
the closest to us seems to move away from our eyes. So the
visible world has moved away from my eyes, perhaps forever.
Goethe could be referring not only to twilight but to life. All
things go off, leaving us. Old age is probably the supreme solitude-except
that the supreme solitude is death. And 'everything near becomes
far' also refers to the slow process of blindness which is not a
complete misfortune. It is one more instrument among the many-all
of them strange- that fate or chance provide," "Blindness," Selected
Non-Fictions (edited by Eliot Weinberger), New York, Penguin, 1999,
p. 483.
Đêm trẻ
Và bây giờ nước
thanh tẩy của đêm
Xóa cho tôi rất nhiều
màu sắc và hình thể.
Trong vườn, chim và sao tán
tụng sự trở về hằng mong mỏi
Những tiêu chuẩn xa xưa về
ngủ và bóng
Đêm đen sẽ đóng khằn
những tấm gương
Chúng lập lại giả tưởng của
sự vật
Về cú này, Goethe
phán bảnh nhất, mọi vật gần thì bèn
xa,
[Cái gì gì
ôm em trong tay mà đã nhớ em những
ngày sắp tới ?]
Chỉ mấy từ tóm trọn chạng
vạng
Trong vườn những bông hồng
ngưng là những bông hồng
Chúng trở thành BHD.
Lạ, hiếm,
phong trần, tã: Vớ được tại tiệm sách cũ.
FOREWORD
First and foremost, I think
of myself as a reader, then as a poet, then as a prose writer.
The initial part of this statement calls for no explanation; the
other two should be qualified. They do not mean- they emphatically
do not mean-that I am fonder of my verse than of my prose, or that
I judge it as technically better, For all I know, the opposite
may be true. I suspect that poetry differs from prose not, as many
have claimed, through their dissimilar word patterns, but by the
fact that each is read in a different way. A passage read as though addressed
to the reason is prose; read as though addressed to the imagination,
it might be poetry. I cannot say whether my work is poetry or not; I
can only say that my appeal is to the imagination. I am not a thinker.
I am merely a man who has tried to explore the literary possibilities
of metaphysics and of religion.
My stories are,
in a sense, outside of me. I dream them, shape them, and
set them down; after that, once sent out into the world, they
belong to others. All that is personal to me, all that my friends
good-naturedly tolerate in me-my likes and dislikes, my hobbies,
my habits-are to be found in my verse. In the long run, perhaps,
I shall stand or fall by my poems.
Goethe, who is
not one of my heroes, thought that all poetry is occasional
poetry (Gelegenheitsdichtung). I have forgotten the context,
but I suppose his statement is open to at least two interpretations:
he may have been apologizing for the all-too-plentiful verses he
contributed to albums, or he may have implied that true poetry springs
from what a particular man feels at a particular time. In my case,
I can fairly claim that every piece in this book had its origin in
a particular mood, in a necessity of its own, and was not meant to illustrate
a theory or to fill out a volume. I have never thought of my poems,
in fact, in terms of publication.
When this book
was begun, some three years ago in Cambridge, it was the
first time I had ever taken a direct hand in the translation 'of
any of my own work. Di Giovanni and I have gone very thoroughly over
each piece, each line, and each word; the fact that I am not only
a collaborator but also the writer has given us greater freedom,
since we are less tied to verbal precision than to inner meanings
and intentions. I should like to thank the outstanding British and
American poets who, by their skill and generosity, have made English
poems of my Spanish originals and so given them this new life.
JORGE LUIS BORGES
Salt Lake City, March 31, 1971
Trước hết và trên hết,
tôi nghĩ về tôi như là 1 độc giả, rồi
như một thi sĩ, và rồi thì là, một nhà
văn xuôi.
Phần đầu của câu phán,
tớ là độc giả, thì đếch cần giải thích
[trừ đám Mít triết, chúng chỉ thích
làm phê bình gia, khi chửi Gấu, mi đâu
phải phê bình gia, vì mi đâu có
bằng cử nhân triết của Thầy Nguyễn Văn Trung ban cho mi,
hà, hà!]. Hai phần sau, có lẽ nên định
giá. Chúng không có nghĩa, tôi
khoái thơ vần hơn thơ xuôi. Ngược lại, có lẽ thú
hơn, xuôi hơn vần.
Tôi ngờ rằng, mỗi cách
có cách đọc riêng của nó. Môt
đoạn, đọc, mà nghĩ, nó viện tới lý lẽ,
thì là văn xuôi, cái viện tới trí
tưởng tượng, thì là thơ. Tôi cũng khó
nói về cái viết của tôi, thì thơ, hay
đếch thơ. Tôi chỉ có thể nói, tôi cố
với/vời tới trí tưởng tượng, khi viết chúng.
Tôi không phải là
1 suy nghĩ gia. Tôi, giản dị mà nói, là
1 người cố phát triển, khai phá, những khả hữu
văn chương của siêu hình học và của tôn
giáo.
Note: Cái chuyện bà vợ của
Borges nghỉ chơi với Norman Thomas di Giovanni, GCC có đọc 1 bài
trên TLS, và theo GCC, cũng là chuyện bình
thường, và cũng chẳng mắc mớ gì đến Mít chúng
ta, khi đọc và dịch Borges, căn cứ vào nguyên tác,
và những bản dịch Anh, Pháp đã có và vẫn
thường xuyên có thêm, trên net. Gấu lướt net, thấy
cả 1 cuốn dịch Borges, trên net, và dịch giả thản nhiên
tự nhận, đồ chôm, stolen, có sao đâu?
Chỉ nội 1 câu tiếng Anh của Shakespeare, Borges trích
dẫn, để "hoành dương" quan điểm của ông về không gian,
vậy mà dịch giả truyện Aleph trên Da Màu, đã dịch
nhảm, vậy mà BBT phán:
Khi biên tập, BBT Da màu – vì không được
phép dùng bản Anh ngữ của Andrew Hurley (nxb. Penguin) –
đã đối chiếu thẳng với nguyên bản Tây Ban Nha của Borges
ở những đoạn mà bản Anh ngữ của Norman Thomas di Giovanni không
đồng nhất với nguyên bản.
Ngay bản của di Giovanni biên tập cũng có rất nhiều dịch
giả nổi tiếng, đã từng dịch Borges, góp mặt, có sao
đâu.
Tin Văn dùng tưới, chẳng "vì không được phép
dùng bản Anh ngữ của Andrew Hurley (nxb. Penguin)"!
Tại sao không được phép? Ai cấm?
Non-profit mà sợ thằng nào con nào?
... đã đối chiếu thẳng với nguyên bản Tây Ban Nha
của Borges ở những đoạn mà bản Anh ngữ của Norman Thomas di Giovanni
không đồng nhất với nguyên bản.
Như biết trước là sẽ có trường hợp khùng, như
Da Màu, Borges viết về giao tình & dịch dọt giữa ông
và di Giovanni:
When this book was begun, some three years ago in Cambridge, it was
the first time I had ever taken a direct hand in the translation 'of any
of my own work. Di Giovanni and I have gone very thoroughly over each piece,
each line, and each word; the fact that I am not only a collaborator but
also the writer has given us greater freedom, since we are less tied to
verbal precision than to inner meanings and intentions. I should like to
thank the outstanding British and American poets who, by their skill and
generosity, have made English poems of my Spanish originals and so given
them this new life.
Dịch như hạch, mà phán mới kinh làm sao!
NQT
Tin Văn sẽ post, bài viết của di Giovanni, cũng trong cuốn trên,
ghi lại mối giao tình của ông với Borges.
LTS: Jorge Francisco Isidoro Luis
Borges (sinh ngày 24 tháng 8 năm 1899, Buenos Aires, Argentina
-mất ngày 14 tháng 6 năm 1986, Geneva, Thụy sĩ) là
một nhà văn, nhà thơ, và tiểu luận gia, với
văn
chương ảo tưởng của thế giới mơ đã trở thành các
tác phẩm kinh điển của thế kỷ 20.
Vũ trụ hư cấu của Borges được
kết tạo bởi kiến thức đọc sách mênh mông của ông
trong lĩnh vực văn học, triết học và thần học.
Cách đọc Borges của tụi mũi lõ trên toàn
thế giới, không giống cách đọc Borges, của, chỉ 1 tên
da vàng mũi tẹt Bắc Kít, là GCC. Thế giới của Borges,
chính là thế giới của Kafka, như Gấu đã từng chứng minh.
Ác mộng ở Borges biến thành sự thực thế kỷ 20, ở Kafka. K phán,
mi THNM rồi, nhìn đâu cũng thấy VC, là do GCC đọc Borges,
mà ra Kafka. Viên y sĩ trong Y Sĩ Đồng Quê, chẳng đúng
là Dương Thu Hương ư, cả hai đều than, chúng ta đã
bị lừa. Nền văn học hải ngoại, của lũ Ngụy, chẳng đã thoát
thai từ cái khoảnh khắc tên trưởng toán hành
quyết VC ra lệnh bắn, và 1 năm qua đi, giữa cánh tay giơ lên
và tên nhà văn Ngụy té xuống, trong Phép
Lạ Bí Ần, của Borges, và không chỉ 1 năm qau đi mà
"hoài hoài còn hoài", khi VC, Cái Ác
Bắc Kít vẫn hoành hành ở nơi xứ Mít.
Chuyện Tình
Chỉ có truyện tình là vĩ đại thôi.
K phán.
Gấu mua cuốn Into The Looking-Glass Wood của Alberto Manguel
cũng lâu rồi, có đọc lai rai, vì là
1 tác giả Gấu mê, ngay từ lúc vừa ra hải ngoại,
qua sự giới thiệu của Nguyễn Tiến Văn, với cuốn A History of Reading
của ông. Bữa nay lôi ra đọc, vớ đúng 1 bài
thật là thần sầu “Borges in Love”.
Manguel đã từng hân hạnh là
người đọc truyện cho Borges, khi ông bị mù. Bài
viết kể về cuộc tình của Borges với Estela Canto, và
Borges viết truyện The Aleph, là để tặng vị này.
Sau đây là link bản tiếng Anh,
và bản tiếng Việt (Da Màu).
Tiép đó, Gấu bèn lai rai
về truyện ngắn The Aleph.
http://damau.org/archives/43270
http://www.phinnweb.org/links/literature/borges/aleph.html
In a 1970 commentary on the story, Borges explained,
"What eternity is to time, the Aleph is to space." As the narrator
of the story discovers, however, trying to describe such an
idea in conventional terms can prove a daunting—even impossible—task.
Trong 1 lần còm, Borges giải thích,
"cái" là "vĩnh cửu" với thời gian, thì với
The Aleph, "nó" là "không gian".
Món quà của Borges tặng em, đúng
là như thế, cái "nơi chốn của tất cả nơi chốn"
Bạn đọc Tin Văn hẳn cũng đã đọc MCNK
của TTT, trên Tin Văn, và chắc hẳn cũng khổ tâm
như Duy, 1 nhân vật ở trong truyện. Duy băn khoăn, thế rồi
Hiền đi đâu. Kiệt thì giải thích với vợ là,
anh đưa Hiền tới đó, rồi lại về với em.
Chỗ đó là chỗ nào?
Có lần Gấu gọi nơi chốn đó, là
Lost Domain, muợn từ Anh Môn. Nhưng Manguel cho biết, đó
là Ithaca: The place that is all places, tức là The
Aleph.
Borges cho biết, ông cảm thấy định mệnh
của ông, là, đếch được hạnh phúc, that it
was not his destiny to be happy.
Quái làm sao, Gấu cũng đã từng bị
phán như thế, qua ông bạn chưa từng được gặp là
nhà văn Doãn Dân, sĩ quan VNCH, đã tử
trận. Nhớ là, Nguyễn Tân Văn, bạn thời còn đi
học của Gấu, có lần đưa cho anh đọc cuốn “Những ngày
ở Sài Gòn”, đọc xong, anh phán, thằng cha này
quá sợ hạnh phúc! (1)
Doãn Dân:
Tên Trần Doãn Dân, sinh năm 1938 tại
Nam
Định. Sĩ quan. Tử trận tại Quảng Trị ngày 29.4.1972
Tác phẩm: Chỗ của Huệ, 1968;
Tiếng gọi thầm,
1972
Võ Phiến VHTQ
(1)
Once again, Borges felt that it was not his destiny
to be happy. Literature provided consolation, but never quite
enough, since it also brought back memories of each loss or failure,
as he knew when he wrote the last lines of the first sonnet in the
diptych "1964":
No one loses (you repeat in vain)
Except that which he doesn't have and never
Had, but it isn't sufficient to be brave
To learn the art of oblivion,
A symbol, a rose tears you apart
And a guitar can kill you.
Bài viết "Borgres Iêu" thật là
tuyệt vời. Từ từ tính.
Gấu cũng tính dịch L'Aleph. Lần qua Pháp “thăm
Paris rồi chết”, có mua bản tiếng Tẩy, mới kiếm lại được. Tin
Văn sẽ có thêm bản tiếng Mít, vì thú
thực đọc bản của Da Màu, không "mặn" (1) - thuổng từ này
của bạn quí NXH -
(1)
Thượng đế hỡi! Dù có bị giam trong một hạt cây,
ta vẫn coi ta là bá chủ của không gian vô
tận …
Hamlet, II, 2
Jorge Luis Borges
♦ Chuyển ngữ: Ah ♦ 0
bình luận ♦ 5.08.2016
Da
Mau
Nguyên tác tiếng Anh:
O God. I could be bounded in a nutshell and
count myself King at infinite space
GCC dịch:
Ôi Thượng Đế. Ta có thể bị giam hãm
trong một hạt cây, và coi chính ta như là
Vì Vua ở không gian vô tận.
Lẽ tất nhiên, dịch không sai, trật, nhưng tốt
nhất, cố giữ tinh thần của nguyên tác, đâu có
những từ như “dù có”, “vẫn coi”. Dịch theo kiểu “thậm
xưng”, như trên, là làm hư luôn cả nội dung
truyện ngắn L’Aleph.
Trong lời giới thiệu, dịch giả, qua LTS, viết:
Jorge Francisco Isidoro Luis Borges (sinh ngày 24 tháng
8 năm 1899, Buenos Aires, Argentina -mất ngày 14 tháng
6 năm 1986, Geneva, Thụy sĩ) là một nhà văn, nhà thơ,
và tiểu luận gia, với văn chương ảo tưởng của thế giới mơ đã
trở thành các tác phẩm kinh điển của thế kỷ 20.
Vũ trụ hư cấu của Borges được kết tạo bởi kiến thức đọc sách mênh
mông của ông trong lĩnh vực văn học, triết học và
thần học. Borges cho rằng hành trình đi tìm chân
lý trong một vũ trụ vô hạn cũng là một nỗ lực vô
hạn. Trong vũ trụ của năng lượng, khối lượng và vận tốc ánh
sáng, Borges nghĩ điều bí ẩn lớn lao
nhất chính là thời gian, thay vì không gian.
Câu văn thứ nhất, tiếng Việt, sái văn phạm. “Borges…
là 1 nhà văn văn nhà thơ…”, OK, sau đó,
“với…. văn chương ảo đã trở thành các phẩm kinh
điển,” như vậy, Borges, là người, khúc trước, khúc
sau, trở thành “các tác phẩm”!
Borges không hề so sánh thời gian với không
gian, ông coi thời gian là thiết yếu bí ẩn, những
điều khác, có thể "bí mật", không gian,
"không quan trọng", như chương 8, trong cuốn Tám Bó,
cho thấy.
Cái tính "thiết yếu bí ẩn" của thời gian,
như Borges giải thích, là do nó mắc mớ tới cái
"ego" của con người.
University of Chicago,
March 1980
Time Is
the Essential Mystery
Borges:
I think that time is the one essential mystery. Other things may
be mysterious. Space is unimportant. You can think of a space-less
universe, for example, a universe made of music .... The problem of
time involves the problem of ego, for, after all, what is the ego? The
ego is the past, the present, and also the anticipation of time to come,
of the future.
Dịch dọt nhảm quá!
Hà, hà!
NQT
Brodsky, khi coi thời gian "thua" "từ" [ngôn ngữ], và
"thơ", là "thời gian được cấu trúc lại", (2) theo GCC,
có thể nằm trong nhận định về cái ego của con người của Borges!
Ngàn năm trước... (một ai đó), khóc Gấu,
ngàn năm sau, vẫn còn dấu giọt nước mắt ở nơi lưng bàn
tay!
Mi làm phiền ta quá. Kiếp trước mi đúng là
con điả... Ta bận chồng, bận con, bận công việc nhà thờ,
ngoài ra còn bận "viết" nữa, đâu còn thời gian
dành cho mi!
Tks
Take Care
NQT
(2)
http://www.tanvien.net/tgtp/rebel_poet.html
Bao thơ tôi, ít nhiều chi, là về cùng
một điều - về Thời Gian. Về thời gian làm gì con người.
"All my poems are more or less about the same thing – about Time.
About what time does to Man."
Joseph Brodsky.
Ngôn Ngữ Lớn Hơn Thời Gian
Chống lại con đỉa đói Thời gian, ngấu nghiến tất cả, dẫn
tới sự thiếu vắng của cả hai, cá nhân và thế giới,
Brodsky động viên tới Từ (the word). Ít nhà thơ hiện
đại nào như ông, nhấn mạnh đến như thế, vào khả năng
của từ, nhằm dứt nó ra khỏi con đỉa đói thời gian sẽ ngấu
nghiến tất cả (all-devouring Time). Niềm tin tưởng này luôn
luôn trở đi trở lại trong thơ ông, nhất là ở những dòng
thơ chót:
I don't know any more what earth will nurse my carcass.
Scratch on, my pen: let's mark the white the way
it marks us.
("The Fifth Anniversary", 1977)
[Tôi không còn biết nữa, mảnh đất nào
sẽ bú mớm cho cái thân xác này.
Cây viết của tôi ơi: Hãy tiếp tục vạch lên
nền trắng, cách mà nó vạch nên chúng
ta]
[“Kỷ niệm năm thứ năm xa quê hương”, 1977]
V/v làm hư luôn nội dung...
Đúng như vậy:
http://www.phinnweb.org/links/literature/borges/aleph.html
In a 1970 commentary on the story,
Borges explained, "What eternity is to time, the Aleph
is to space." As the narrator of the story discovers, however,
trying to describe such an idea in conventional terms can prove
a daunting—even impossible—task.
Trong 1 lần còm, Borges giải
thích, "cái" là "vĩnh cửu" với thời
gian, thì với The Aleph, "nó" là "không
gian".
Món quà của Borges tặng
em, đúng là như thế, cái "nơi chốn của
tất cả nơi chốn".
Nhớ là, Em của Borges, ra lịnh, mi viết 1 cái gì
cho ta, về ta đi, như cô bạn của Gấu, trong Cõi Khác,
khi gặp lại, ở hải ngoại, ra lịnh, mi đọc vậy đủ rồi, hãy viết [về
ta] đi.
Hay như Sad Seagull, khi đọc Istanbul, bản tiếng Mít,
thấy cũng được, bèn ra lịnh, ta muốn 1 cuốn khác nữa, và
Gấu bèn hứa ẩu, sẽ dịch tiếp The Call for the Dead.
O God! I could be bounded in a nutshell, and count
myself a King of infinite space...
Hamlet, II, 2
But they will teach us that Eternity is the Standing
still of the Present Time, a Nuncstans (as the schools call it); which neither
they, nor any else understand, no more than they would a Hic-stans for
an Infinite greatness of Place.
Leviathan, IV, 46
On the burning February morning Beatriz Viterbo died, after braving
an agony that never for a single moment gave way to self-pity or fear,
I noticed that the sidewalk billboards around Constitution Plaza were advertising
some new brand or other of American cigarettes. The fact pained me, for
I realized that the wide and ceaseless universe was already slipping away
from her and that this slight change was the first of an endless series.
The universe may change but not me, I thought with a certain sad vanity. I
knew that at times my fruitless devotion had annoyed her; now that she was
dead, I could devote myself to her memory, without hope but also without humiliation.
I recalled that the thirtieth of April was her birthday; on that day to visit
her house on Garay Street and pay my respects to her father and to Carlos
Argentino Daneri, her first cousin, would be an irreproachable and perhaps
unavoidable act of politeness. Once again I would wait in the twilight of
the small, cluttered drawing room, once again I would study the details of
her many photographs: Beatriz Viterbo in profile and in full colour; Beatriz
wearing a mask, during the Carnival of 1921; Beatriz at her First Communion;
Beatriz on the day of her wedding to Roberto Alessandri; Beatriz soon after
her divorce, at a luncheon at the Turf Club; Beatriz at a seaside resort
in Quilmes with Delia San Marco Porcel and Carlos Argentino; Beatriz with
the Pekingese lapdog given her by Villegas Haedo; Beatriz, front and three-quarter
views, smiling, hand on her chin... I would not be forced, as in the past,
to justify my presence with modest offerings of books - books whose pages
I finally learned to cut beforehand, so as not to find out, months later,
that they lay around unopened.
L'Aleph
La brulante
matinée de février au cours de laquelle mourut Beatriz Viterbo,
après une impérieuse agonie qui pas un seul instant ne se
rabaissa au sentimentalisme ni à la peur, je remarquai que sur les
porte-affiches en fer de la place de la Constitution on avait renouvelé
je ne sais quelle annonce de cigarettes de tabac blond; le fait me peina,
car je compris que l'incessant et vaste univers s'eloignait d'elle désormais
et que ce changement était le premier d'une série indéfinie.
L'univers changera mais pas moi, pensai-je avec une mélancolique
vanité ; en de certaines occasions, je le sais, ma vaine passion l'avait
exaspérée , morte, je pouvais me consacrer à sa mémoire,
sans espoir mais aussi sans humiliation. Je considerai que le 30 avril
était son anniversaire , rendre visite ce jour-là à
la maison de la rue Garay pour saluer son père et Carlos Argentino
Daneri, son cousin germain, était un geste courtois, irréprochable,
peut-être indispensable. J'attendrais de nouveau, dans la pénombre
du petit salon bourré d'objets, j'étudierais de nouveau les
détails de ses nombreux portraits. Beatriz Viterbo de profil, en
couleurs , Beatriz avec un loup, lors des fêtes de carnaval de 1921
; la première communion de Beatriz; Beatriz, le jour de son mariage
avec Roberto Alessandri , Beatriz, peu après le divorce, a nn dejeuner
du Club Hippique; Beatriz a Quilmes, avec Delia San Marco Porcel et Carlos
Argentino; Beatriz avec le pékinois que lui avait offert Villegas
Haedo , Beatriz de face et de trois quarts, souriant, la main sur le menton
... Je ne serais pas obligé, comme d'autres fois, de justifier ma
présence avec de modestes cadeaux de livres : livres dont j'avais
appris finalement a couper les pages pour ne pas constater, quelques mois
plus tard, qu'ils étaient intacts.