Tủ sách
talawas
15.2.2007
Thanh
Tâm Tuyền
Thơ ở
đâu xa
1
Mục lục
Thơ ở
Long Giao (1975-1976)
Ngày
đến Long Giao
Thức sớm
Đêm thu
ở Lán 9 Long Giao
Xuân
Thơ
thuốc lào
Thơ ở
Yên Bái (1976 – 1977)
Bão
Hái chè
dưới trời mưa tháng 7
Trưa
giao mùa trên đồi cọ
Thơ làm
khi đi nuôi cá
Thơ ở
Lào Cai (1977 – 1978)
Trên
đồi sắn mùa Đông
Trăng tù
Chủ
nhật trời mưa
Sinh
nhật trong tù
Interlude
Bài nhớ
thi sĩ
Thơ ở
K2 Tân Lập (1978 –
1980)
Chiều
cuối năm qua xóm nghèo
Đêm
đông ở K2 Tân Lập
Thư gửi
P. L. P. ở K5
Nhổ cỏ
hương nhu nhớ bạn
Chiều
nắng hanh trên đồi
hương nhu
Thơ
tình trong tù
Sinh
nhật húy nhật
Vang
vang trời vào xuân
Ngã
trên núi Việt Hồng Yên
Bái khi đi lấy nứa
Thơ ở
K5 Tân Lập (1980 –
1982)
Tháng
mười cấy rau lấp
Trưa,
tù, bướm
Tắm
suối ngày hè
Chủ
nhật lên núi kiếm củi
Trà,
sớm và tối
Bão muộn
Gương mộng
Bài
tặng họa sĩ
Thơ
tặng bạn đi cày
Ba bài
sinh nhật con gái
Từ
những ý thơ thấp thoáng
Sinh
nhật thứ 9 của Th.
Bài ru
tháng 5
*
Long
Giao (1975-1976)
1. Ngày
đến Long Giao
Tinh mơ
xe đến Long Giao
Đón
người đám cỏ tranh cao
ven đường
Ngửng
trông núi khuất mờ
sương
Mây bay
tất tưởi, mưa rong
tần ngần
Tiêu
điều ngơ ngác trại quân
Ngổn
ngang chiến cụ trận tàn
bày phơi
Đất bùn
đỏ bết chân người
Xanh um
bờ bụi, tả tơi lũy
đồn
Nhà
trống trải, vách gió
ruồng
Vắng
tanh thố lộ tình suông
lạ lùng
Rắn trơ
nền nhớp ngả lưng
Hé trời
manh múm rách bươm
khói đùa
2. Thức
sớm
Ngày
chưa thức hồi kẻng
Mờ bạc
trăng hạ tuần
Giông
đầu hôm khuya lắng
Gợn heo
hút phân vân
Đứng
ngây trời tối sũng
Ngóng
tiếng gà thôn gần
Nghe xa
rừng núi bủa
Lùa âm
u xốn xang
3. Đêm
thu ở lán 9 Long Giao
Giật
mình tỉnh giấc
Bó gối
trong mùng
Ai đâu
mớ hoảng
Thét
tiếng hãi hùng
Heo may
rập rờn
Rung âm
mái tôn
Núi
rừng vây khuất
Lán
khuya tối tăm
Vo ve
muỗi mòng
Người
nằm chen chúc
Lúc
nhúc mặt đất
Tỏa ám
khốn cùng
Đây đó
ngủ thức
Trằn
trọc mông lung
Vách
khe chuột rúc
Nỉ non
dế trùng
Bóng đè
ngộp câm
Người
vùng giẫy dụa
Khủng
khiếp ú ớ
Mê sảng
thì thầm
Đêm dài
thu phân
Vi vu
lạnh nhạt
Hư thực
bần thần
Cô đơn
ai hát
Vẳng
lời đạm bạc
Điệu
khúc thời xuân
Như xa
như gần
Tình
chung mộng biệt
Ngoài
đêm trôi tít
Theo
sao tàn vong
Theo
gió mờ mịt
Ngày
lên ngại ngùng
(1975 –
1988)
4. Xuân
Tặng
B.G.
Vẫn
thấy trong mơ đời trở
giấc
Cỏ cây
rủ quyến gió bông lông
Trời
xanh trong vắt giếng
nước ngọc
Đất
hiền thở hương nắng thênh
thang
(1976)
5. Thơ
thuốc lào
Ngồi
đây hút điếu thuốc lào
Gạt bên
mấy nỗi mày cau dạ
phiền
Điếu
thông đóm nỏ khói êm
Hút vào
sẽ thấy đảo điên đất
trời
Bạn tù
ơi lửa châm mồi
Rít cho
ròn rã mê tơi cõi
lòng
Ngậm
hơi nếm vị phiêu bồng
Nhẹ
thân lơ lửng hết mong
cùng chờ
Kể chi
vợ dại con thơ
Tính
chi chuyện cửa chuyện
nhà mai sau
Sá gì
một cuộc bể dâu
Loay
hoay chỉ tổ bạc đầu mà
thôi
Lại
thêm trà đượm rót mời
Long
Giao còn thú tuyệt vời
nào hơn
(1975)
*
Yên Bái
(1976-1977)
6. Bão
Tặng
N.X.T.
Trận
bão thổi tắt đám sao
sáng mùa hè
Cuốn
thốc tán loạn ký ức mỏi
mê
Cuồng
giông đêm đêm lay ngục
mộng
Va chạm
hỗn độn những tối tăm
Áp tai
xuống ngực em nghe
ruổi chĩu nhịp trầm
7. Hái
chè dưới trời mưa
tháng 7
Mưa rối
mắt đong đưa búp lá
nõn
Thoáng
lơi tay tỉnh thức ngón
tê mê
Nghe
gần gũi sa đà trời tháng
bảy
Gió xa
xôi từ mạn lãng quên
về
8. Trưa
giao mùa trên đồi cọ
Gió
sang mùa reo lộng đồi cọ
Rào rạt
mướt xanh ngỡ mưa lay
Nhìn
nắng lóa trắng ngoài tàn
lá
Cơn sốt
tình rực rỡ đắm say
9. Thơ
làm khi đi nuôi cá
Cánh cỏ
trên vai thơ trong
đầu
Trời
chớm thu hạ mường tượng
hồng au
Tung hê
cỏ vụn trên hồ vắng
Băm nát
tình si đều nhịp dao
*
Lào Cai
(1977-1978)
10.
Trên đồi sắn mùa đông
Trời
thấp gió nhốn nháo
Tai ù
buốt huyên náo
Chống
cuốc đứng sườn đồi
Đói,
mệt, thở khò khạo
11.
Trong tù
Trăng
lạnh soi mái ngoài
Lênh
đênh đâu chẳng thấy
Gió hú
rợn núi đồi
Đêm sâu
nín khắc khoải
12. Chủ
nhật trời mưa
Chờ cơm
ôm bụng lép đo giường
Muốn
sang chơi bạn sợ người
trông
Đổ trận
mưa giông trời tối
sập
Buông
sách ngồi lên ngó trống
không
13.
Sinh nhật trong tù
Vợ con
không ở gần
Bạn bè
xa tất cả
Cùng
đôi bạn tù thân
Uống
trà ăn “bánh đá”
Trời có
mấy độ xuân
Đất bao
nhiêu miền lạ
Chưa
ngấy tiệc trần gian
Hồn
rung xanh búp lá
*
14. Bài
nhớ thi sĩ
Tặng
già Ung
Gửi
M.T.
Sáng
nay thức giấc trong nhà
giam
Anh nhớ
những câu thơ viết
thời trẻ
Bừng
cháy trong lòng anh bấy
lâu u ám quạnh quẽ
Ánh lửa
mênh mang buồi tình
đầu
Mưa bụi
rì rào
Gió náo
nức mù tối
Trễ
muộn mùa xuân trên miền
cao
Đang
lay thức rừng núi biên
giới
Đã qua
đã qua chuỗi ngày lạnh
lẽo, anh tự nhủ
Cũng
qua cơn khô cạn khác
thường
Tắt
theo ngọn nắng chon von
mê hoặc đầu óc quái gở
Từng
thiêu đốt anh trên đồi,
theo vào đêm dập vùi anh đớn đau
Từ lúc
nào anh đứng trân trối
cô đơn
Hôn ám
trời sơ khai nhìn qua
song cửa ngục
Hoang
vu thơ hát lời lá cỏ
heo hút
Dẫn anh
về tận nẻo nguồn hừng
đông lẩn lút
(Hừng
đông Hừng đông ôi Hừng
đông anh kêu khẽ cảm động muốn khóc
Mai,
Mai xa, Mai như hoa, Mai
hoa. Mai về tình thơ hôm nay)
Em có
hay kẻ tội đồ biệt xứ
một buổi về ngang cố quận
Xao
xuyến ngây ngô hắn dò hỏi
lớp bóng mờ tàng ẩn
Đêm vây
hãm lụn dần
Thủ thỉ
mưa ru ngày khốn đốn
Em, soi
bóng em hồn nhiên
ngược lối thời gian
Lặng lẽ
anh gầy lửa tinh mơ
đầm ấm.
(Lào
Cai 5/77,
Vĩnh
Phú 1/78)
*
Vĩnh
Phú (1978 – 1982)
Tân Lập
K 2 (1978 – 1980)
15.
Chiều cuối năm qua xóm
nghèo
Mưa bay
lất phất gió căm căm
Đường
lầy trơn nhà cửa tối
tăm
Trốn
đâu lũ trẻ mặt lem luốc
Co ro
đứng xem tù qua thôn
Vác bó
cuốc nặng bước loạng
choạng
Về
trong xây sẩm buổi tàn
đông
Lạnh
lẽo nhà ai không đèn lửa
Ảm đạm
lòng ta chiều cuối năm
16. Đêm
đông ở k 2 Tân Lập
Tặng
L.V.T.
Đêm
lạnh nằm co quắp
Thân
xương sầu trơ khấc
Bụng
trống ruột ục sôi
Đếm hơi
thở lay lắt
Hòa
trong tiếng gió bấc
Suối
chảy siết bồi hồi
Lẫn
trong nỗi giá buốt
Thoáng
rùng rợn xa xôi
Nhớ đã
hơn năm trời
Tin nhà
trông vắng bặt
Chốc đã
ba đông rồi
Lưu đày
trên đất Bắc
Còn qua
bao cửa ngục?
Đây quê
mình quê người?
Chốn
nào về thân thiết?
Ngày
nào được thảnh thơi?
Trở
mình trên ván chật
Ru dỗ
giấc đơn chiếc
Rõi mắt
đốm mộng vời
Thương
vợ con khôn nguôi
17. Thư
gửi P.L.P. ở K 5
Thiếu
bạn như đang thiếu
thuốc lào
Đường
gần nhưng cách trở biết
bao
Mấy năm
không gặp nhau rồi
nhỉ?
Râu tóc
long đong hẳn bạc
phau?
“Đằng
ấy” còn chăng nét “tiếu
ngạo”?
“Tớ
đây” vẫn một vẻ “tiêu
dao”
Mong
ngày hội ngộ nằm chung
chiếu
Tán gẫu
qua đêm như độ nào
18. Nhổ
cỏ Hương Nhu nhớ bạn
Tặng
C.T.
Giữa
ruộng hương nhu lùm tỏa
rợp
Lấp
mình ẩn kín bóng cô đơn
Bờ xa
thấp thoáng người trò
chuyện
Kế gần
cành rậm rạp bông lơn
Nhớ bạn
phiêu du trời xứ lạ
Mình
hát mình nghe mãi điệu
buồn
19.
Chiều nắng hanh trên đồi
Hương Nhu
Tuốt
những chùm bông hạt già
khô
Động
nhánh cành lá úa xác xơ
Hè
thiêu đốt sót hoa nắm lửa
Chiều
gió hanh soi mát im ngơ
Mùi
hương thoảng nồng hắc bắt
nhớ
Mái tóc
dầy đầu thềm phơi
hong
Đồi rực
chiếu nắng quái mê
mệt
Đêm
lạnh về thao thức theo
trăng
20. Thơ
tình trong tù
Vẫn em
của thuở trăng nào
Đêm hôm
nở đón chiêm bao xanh
ngần
Vẫn em
tình của trăm năm
Đoan
trang nét hạnh, thâm
trầm dáng thơ
Vẫn em
mối kết thiên thu
Vẫn em
xoa dịu sầu tư cõi
này.
21.
Sinh nhật húy nhật
Les
morts de Lofoten sont
moins morts que moi
Oswald
L. de Milosz
Giữa
trưa mệt té xỉu trên đồi
Quanh
mình vẳng tiếng cuốc
liên hồi
Đào
huyệt chôn ư? Ơi chúng
bạn
Cứ để
yên xác tù nằm phơi
Nhìn
xem gương mặt hắn thanh
thản
Lộng
nắng bừng say chợp ngủ
vùi
Người
mang cầm hãm đặng bêu
riếu
Hắn
“cũng đành xấp ngửa theo
đời
Cho hết
cuộc ham mê rồ dại”
[1]
Hắn tự
chôn huyệt gió đáy
trời.
22.
Vang vang trời vào xuân
Mặt
trời hồng như trăng
Thức
lòng ta buổi sớm
Gió núi
thổi rộn ràng
Gọi
nghe biển dậy sóng
Chống
cuốc đứng vững chân
Trên
mảnh đất khốn khổ
Thở hít
đến vô cùng
Mãi mê
ngắm hồng rợ
Vang
vang trời vào xuân
Ta bật
kêu mừng rỡ
Ơi bè
bạn xa xăm
Tim ta
cũng cháy đỏ
Rực tựa
bóng trăng rằm
23. Ngã
trên núi Việt Hồng
Yên Bái khi đi lấy nứa
Tuột
dốc té nhào trên hẻm núi
Chết
điếng toàn thân trong
giây lâu
Mưa rơi
nhẹ hạt, mưa phơi
phới
Chiều
đang tàn hiu quạnh rừng
sâu
Ngửa
duỗi chân tay gối trên
nứa
Ngó
trời nhá nhem nghe mưa
mau
Tưởng
chừng thi thể đang thối
rữa
Hồn
viển vông chẳng chút oán
sầu
Mưa
tung tấm lưới trắng dầy
khít
Làng
xóm dưới núi ở phương
nào?
Gió rét
tái tê bó liệm chặt
Thiếp
lịm hồn quên bãng sước
đau
Dầm
mình trong hạnh ngộ ẩn
mật
Hoen
nhòa mắt hứng giọt thiên
thâu
Dò bước
lối mờ nhắm ánh đuốc
Tiếng
người lùng kiếm gọi
dưới sâu
*
Tân Lập
K 5 (1980-1982)
24.
Tháng mười cấy rau lấp
Bước
xuống ruộng bỏ hồn trên
bờ
Chân
dẫm bùn tay cấy thẩn thơ
Tháng
mười sương giá trắng
trời đất
Gió hớp
hồn bay đỉnh núi mờ
25.
Trưa, tù, bướm
Trưa
cháy mắt lóa đồng đất
rung
Chênh
chao trong nắng tỏa
bướm hoang
Ẩn hiện
chờn vờn quanh tay
cuốc
Đáp đậu
lòng tay xòe ngửa im
26. Tắm
suối ngày hè
Nước
xoáy chảy siết nhào trên
đá
Táp đẩy
xô hụt chân ngửa
nghiêng
Kỳ cọ
nhớp tanh ngày gớm
ghiếc
Nhạo
cười theo bọt sóng ngông
cuồng
27. Chủ
nhật lên núi kiếm củi
Một tay
dao quắm, tay cầm gậy
Bò leo
dốc đứng, thở mang tai
Lên cao
trông xuống xanh rợp
lũng
Lâng
lâng lòng chẳng buồn nhớ
ai
28.
Trà, sớm và tối
Ngồi
xệp đầu hè
Uống
chén trà sớm
Đợi
kẻng lao động
Quanh
mình chộn rộn
Trông
trời nín khe
Trên
giường tầng cao
Hớp cặn
trà đắng
Ngó đêm
đằng đẵng
Ngày
không âm hao
Bập
bềnh mưa nắng
Còn ai
chiêm bao
Bỗng
gặp ta về từ quên lãng?
29. Bão
muộn
Trăn
trở đêm chớp bể
Mệt
thiếp lúc cuối đêm
Cuồng
giông ùa điên đảo
Nước
trút sập mông mênh
Ngủ
giữa luồng bão
Hồn
phách dập dềnh
30.
Gương mộng
Tặng
P.K.T.
Trờ tới
bến sông
Trăng
lõa vằng vặc
Ngâm
mình giữa dòng
Lãnh
cung đáy nước
Rớt
theo mênh mông
Trong
suốt đáy khác
Trời
cao hiện hoặc
Vô vàn
lồng trăng
Lẻ góa
nhan sắc
Đêm
lộng gương tạc
Nhẹ
thênh hình dung
Kỷ hà
mộng lạc
(K 5.
80
R.G.
88)
31. Bài
tặng họa sĩ
I. NẮNG
TRONG VEO NGÀY ĐÔNG
CUỐI NĂM
1.
Nắng
trong veo ngày đông cuối
năm
Vàng
sũng thung lũng cầm hãm
Xanh,
xanh
rừng rú lì lợm nghèo nàn
Vây bọc
ghì riết ngày tháng
Bỗng
sực tỉnh choàng thức
dưới nắng
Đồng
trải vàng diệp im lấp
loáng
Đất cày
lật bạc phếch trơ cằn
Đồi già
trọc bừng hoảng vô
vọng
Đá xám
khuyết lở hủi mòn
Đứng,
đứng
trần trụi cây chết đỉnh
non
Dị dạng
tự nhiên tượng trừu
tượng
Triền
rậm lục mê muội dốc
đứng
Thoáng
hút trời sụp ngã quạnh
không
2.
Trở về
dịu dàng điệu màu sắc
Vàng xa
gợn gió rét hoang
mang
Xanh
thất thần xanh ngây hạnh
phúc
Mặt
tình nhân tươi rói kinh
hoàng
Trên
lối mòn sâu của tưởng
tượng
Gió bay
lả tả bóng hoàng hôn
Thanh
thoát cơn say rũ tro
mộng
Rừng
đêm bật rực đắm cháy
hồng
II.
NGÀY XUÂN TRÊN ĐỒNG NỨA
Ô chào
cô bé áo hồng
Chào cô
buổi sáng đầu năm
Trên
cánh đồng nhàm mắt ngày
tháng
Cô xuất
hiện cùng mùa xuân
Cô đi
bừa với con trâu trắng
Trâu
hiền thong thả bước
ngoan
Ngày tẻ
lạnh đìu hiu nhớ nắng
Áo màu
đào ngời ấm không gian
Vầng
hồng di chuyển tỏa lung
linh
Giấc mơ
trong trẻo của quãng
im
Cô đẹp
tựa lời thơ cổ
Mặc áo
xuân đuổi trâu cười
hồn nhiên
Chào
tạm biệt cô bé áo hồng
Cũng
chào con trâu trắng
thong dong
Ngày
vơi nhẹ thênh trăng mọc
sớm
Ngỡ
nhạn lai hồng lạc cuối
thôn
Trở về
trại ngang qua vườn
cam
Hoa rộ
trắng thơm lừng đồng
nội
Vẫn
chập chờn sắc hồng trôi
nổi
Ngọt
ngào hương đắm đuối
chiều tàn
32. Thơ
tặng bạn đi cày
Người
tù như đất tảng trì
độn, hít hơi
Mắt đờ
đẫn vô giác thiếu ngủ
Đêm qua
trời trở rét khô sau
những ngày nắng dữ
Đất hóa
thạch cứng đày ải
người
Người
nghe tiếng thở phì phò
của trâu
Tiếng
tim dội ù tai, ngực
nhói
Con vật
đói và người cũng đói
Bước
mộng du theo nắng lao
đao
Hồi hôm
trăng lạnh ngời thanh
vắng
Đêm
nay, và bao đêm nữa,
người tù cũng sẽ thức trắng
Chong
mắt dòm đêm rõi lối
trăng muộn về
Bất
thần ánh sáng tỏ lộ tịch
mịch dội vang trầm thống
Bừng
thoát cơn bải hoải người
thúc lưỡi cầy bước mau
Thở dồn
hương loãng nhạt của
đồng ruộng nhẫn nhục
- Luống
cuối cùng, thật ngay.
Luống tặng lời chính trực.
Soi
bóng mắt nghênh, đen ướt
màu bùn, hiền giả, người vỗ về trâu
Trên
những cánh đồng đất khốn
dạn dầy
Suốt
mùa đông ác nghiệt bạo
ngược
Trời
đất tối tăm giá buốt địa
cực
Vẫn
lãng du kỳ ảo lời gió
khuất mặt đêm trăng xanh bóng tù khổ sai và trâu cày.
(11/81
– 4/88)
33. Ba
bài sinh nhật con gái
1. TỪ
NHỮNG Ý THƠ THẤP THOÁNG
Lững
thững tôi về. Con gái
tôi đón đợi ở cửa. Nó mặc áo bà ba trắng giống mẹ nó hồi xưa. Tươi cười
đỡ
chiếc cuốc trên vai tôi, lượm cọng rơm khô vướng trên nón, nó hỏi:
Chiều
nay bố làm được những
gì?
Hả? Bố
làm được những gì? Để
xem nào...
Tôi ra
bộ nhíu mày.
Trước
tiên bố rãy cỏ đồi sắn.
Nắng chang chang đốt gáy và lưng bố, làm mắt bố quáng. Không sao. Hồi
sau gió
quạt dịu nắng. Bố nghe gió nhẹ hắt bên tai, quanh vành nón đội. Thoạt
đầu bố
tưởng nghe tiếng huýt gió miệng của con thường khi làm bếp. Bố sực nhớ
ra tiếng
gió vẫn lẩn quẩn đâu đây từ mùa đông qua. Bố lột nón cầm ở tay, ngó
kiếm. Bố
không thấy gì cũng không nghe gì nữa. Cái nón cứng ròn như bánh tráng
nướng. Bố
ngó lui những đống cỏ rẫy vun phía sau đã khô quắt xẹp lép. Thế là bố
chống cuốc
đứng nghỉ trong dáng một ông thi sĩ đứng giữa ruộng của ông bố đã được
trông
thấy hồi chưa có con. Ai vậy cà? Bố tự hỏi. Bố chịu thua sau khi đã
loay hoay
lục tung trí nhớ hết cả buổi. Rốt cuộc bố đã chẳng làm gì cả.
Ông thi
sĩ? Con gái tôi hỏi:
Ông thi sĩ làm gì bố? Ông ta ở đâu?
Con
ngốc. Đừng hỏi. Đừng có
ngắt lời. Ông thi sĩ làm gì? Làm gì nào? Ông ta chẳng làm gì cả, ông ta
là thi
sĩ. Ông ta ở đâu? Ở đâu xa. Không ai biết, bố cũng không biết. Không
quan
trọng.
Khi bố
thả bước xuống đồi,
đến gặp những đám gió, bố nhớ thấy bàn chân con không mang dép, tới lui
trong
nhà, bố nhớ chựng hôm qua là sinh nhật của con. Bố khựng mình, lầm bầm:
Làm gì
bây giờ? Tôi phải làm gì bây giờ đây? Tôi thật đáng bị nguyền rủa.
Không
quan trọng. Con tôi
nhái giọng tôi, nghiêm nghị. Có gì đâu bố. Đó toàn là sự thật. Con có
huýt gió
gọi bố ở nhà khi con nhớ bố đã nhiều. Con có tụt dép, giẫm đất, nhảy
chân sáo.
Con cũng quên lửng hôm qua là sinh nhật con nên con đã không nhắc bố.
Trong
các điều bố kể chỉ có
ông thi sĩ là con không biết có thật hay không. Còn tất cả là thật, sự
thật.
Ha, ha.
Tôi bật cười to. Bố
mày, con ngốc. Lắm mồm miệng. Sự thật. Bố đã nhằn cắn rất nhiều sự
thật, nên
răng mới mẻ gẫy long lơ đây, như kẻ đói khát khốn nạn vồ chụp ngấu
nghiến những
mẩu sắn hư thối sót trên đồng. Sự thật như rắn rết, chuột bọ, như rau
cỏ, trái
quả được ăn nuốt vội vàng bất chấp mọi phép tắc. Bố đã nhai nghiền,
trệu trạo
đau nhức mọi sự thật bắt gặp. Ha, cô mình ơi, ở đời có đủ thứ sự thật
cũng như
có đủ thứ hạnh phúc, cô hiểu không? Ông thi sĩ ở đâu xa... Mà thôi bỏ
mấy
chuyện ấy đi. Cũng không quan trọng.
Bố
xuống suối tắm. Nước đầy,
chảy đục. Mưa lớn trên nguồn đêm qua, hẳn vậy. Tắm xong bố ngồi tựa gốc
cây,
ngắm chiều đi sang bên kia núi. Bố thấy bố đã ở phía bên ấy. Trong đầu
bố lặp
đi lặp lại một câu nói của con ngày hôm qua, ngày hôm kia, (hay bữa
nay, hay
chỉ do bố bày đặt ngay lúc ấy). Thục cà lùi. Thục cà lùi. Thục cà
lùi... Bố lại
lầm bầm: Làm gì bây giờ? Tôi phải làm gì bây giờ đây? Tôi thật đáng
nguyền rủa...
Nào có
gì đâu bố. Sao bố lại
khóc?
Bố mày.
Tôi cười chảy nước
mắt. Con ngốc. Bố mày chảy nước mắt thật ư? Hồi nào?
Thật
chứ. Sự thật bố à.
Nó cười
ròn tan, trong trẻo.
Bàn tay chai dạn của tôi được nắm chặt, dắt đưa. Tôi thấy mình đứng
giữa nhà.
Chiếc áo cứng ngắc, loang lổ mồ hôi, được cởi. Một chiếc áo mới nguyên
vải sù
sì quyện mùi nắng được mặc vào.
Tôi
được ẩn ngồi trên chiếc
ghế đẩu, được ngắm nghía.
Chiều
xẩm. Nhập nhoạng bóng
mờ trong nhà. Mắt tôi như còn vướng quáng lóa ban trưa. Con gái tôi
bỗng hiện
loanh quanh như vệt sáng đi động trên nền vách đất đang tỏa mát.
Tẩu
thuốc ngậm trễ bên mép,
cắn giữ bằng mấy cái răng chưa đến nỗi, được bật quẹt châm. Tiếng ho
sặc rũ
rượi. Chiếc tẩu đã cháy được trả lại cho cái miệng móm.
Tôi hít
dài, thổi phù khói
vào con gái tôi. Khói loang trắng um, mùi khét cháy quen thuộc. Không
trông
thấy nó đâu nữa, tôi nói:
Con gái
yêu của bố, hai mươi
năm nữa...
Tôi
ngưng ngang, lẩm bẩm:
Ha,
những tình điên... Quả
thật đáng nguyền rủa, phỉ nhổ.
(Lào
Cai 5/78)
Ghi
chú:
Cọng
rơm vướng trên nón: thơ
St. J. Perse
Ông thi
sĩ chống cuốc: R.
Char.
Rồi hai
mươi năm nữa...
Câu mở
“Tình điên” của Breton
Ở đâu
xa
Nguyên
người quanh quất đâu
xa
Cũng
người một hội một thuyền
đâu xa.
Nguyễn
Du
2. SINH
NHẬT THỨ CHÍN CỦA TH.
Chiều
nay chú Th. mang cho bố
miếng sữa đặc để chấm ăn bánh bột hấp. Bố đưa chú ra ngoài thềm ngồi.
Trên
sân còn đọng vũng bùn
nước do những trận mưa dầm tuần qua, tù từng nhóm xúm xít chia phần ăn.
Chú Th.
phân vân rụt rè lấy từ túi áo trao cho bố một phiến đá nhỏ “để anh gửi
cho cháu
Th.”. Chú đã nhắc bố đến ngày sinh của con.
Mặt đá
tròn, chú lượm khi ở
trên Sơn La, kỳ khu mài nhẵn, dùi lỗ, chẳng biết để làm gì. Chú chẳng
có ai để
gửi tặng. Chú mang đưa bố để bố cho con. Đá đen có vân giống như màu
đêm -
những đêm nào trong thơ bố hửng lên huyễn hoặc trong tiếng hát say của
bác C.
T. ngồi trước đàn, hát cho riêng mình bạn nghe, tiếng hát giữa hai
người, bây
giờ cũng đang hửng trên mặt đá.
Bố nói
trong xách tay của bố
cũng đã có một món quà cho con mang theo từ Long Giao. Đó là chiếc vòng
đeo tay
bằng nhôm vỏ đạn do chú Tr. khắc họa, chạm trổ. Vòng ghi tên con nguyên
vẹn, vẽ
hình một giàn nhạc. Bố cũng nói bố không biết làm gì để gửi làm quà cho
con
gái. Bố chỉ biết làm những bài thơ, và từ đây mỗi lần sinh nhật con bố
sẽ làm
một bài.
Ngày bố
gặp lại con, con sẽ
có chiếc vòng của chú Tr., phiến đá của chú Th., và những bài thơ của
bố. Ngày
nào bố con gặp lại nhau? Bao giờ con được đọc và đọc được những bài thơ
này? Bố
không thể biết.
Dù sao
bố vẫn viết.
(31-5-79)
Cô sinh
mùa hạ, ngày cuối
tháng Năm, ở Thành phố miền núi.
Mùa hạ.
Mùa hạ đó. Mùa ửng cỏ
mướt. Như sóng dồi, biển gió động, thông rừng nô nức. Muốn bay biến.
Nắng đùa
nhẩy, tuôn nhầu, luông tuồng, từ núi thẫm rủ xuống vực lục diệp rối
bời. Trong
vườn tược rậm rịt lối, lúc trưa bằn bặt như sẽ chẳng khi nào thức dậy
giữa ráo
riết gió nắng, chĩu rớt quả chín. Ô, trái quả ngậm nồng cay hương lửa
tinh mật.
Mùa hạ.
Mùa hạ cháy im ắng
bất tuyệt.
Cuối
tháng Năm, chiều thất
tán quay cuồng. Mưa tráng trời ngập phố xá. Hư ảo cây cối vật vã. Gió
trở giọng
không ngớt gọi lồng lộng; từng chập thốc quật xàm xở khiếp đảm, từng
chập quẫn
bách lao đao như thần trí bị vô hồi truy nã. Rồi cũng nguôi ngoai mưa.
Đêm đến
sâu hoắm như thạch động trong điệu ru riêng lẻ cùng cực tiếng gió lẫn
trốn.
Bấy giờ
bố cố thức nghe sự
nín biệt mọi ngân nga, đồng vọng.
Bao giờ
cô trở lại thành phố
miền núi? Hãy trở về đúng ngày sinh của cô, thiếu nữ thân tình và lạ
hoắc với
thành phố như những ánh mặt trời xa tắp lóng lánh trong mắt cô. Trở về
cùng lúc
với gió nắng trải óng và bóng rợp lượn lờ triền núi. Mưa rào, giông lốc
sẽ vẫn
đúng hạn, tưng bừng. Sẽ vẫn những trò hội xưa, điệu hát cũ của của rừng
thông,
thung quả bát ngát chào đón.
Hạnh
ngộ. Hạnh ngộ.
Cô
thủng thẳng bước trong
chiều mưa mờ đục. Không trú ẩn. Nước đẫm mặt tương tư trầm tĩnh. Đường
phố của
mình cô. Cô choàng áo màu đêm núi tím than hay che chiếc dù màu trăng
đỏ úa? Cô
có nhớ đeo trên cổ mặt đá đen như tròng mắt chết thời chiến tranh mà bố
cô, chú
cô bị giạt đắm? Cô có nhớ đeo chiếc vòng tay bằng vỏ đạn chạm khắc nhũ
danh và giàn
nhạc cổ? Nhạc tấu khúc định mệnh bi tráng bố cô từng nghe, nghe thấu
hết thảy
mọi nỗi trong cõi mông muội đày ải. Cô có nghe?
Cô có
đi ngược những con dốc,
thở mau, ước cảnh ấm cúng gia đình trong ngôi nhà ẩn cuối lối mòn? Cô
có ngồi
lại bên hồ, nhìn mặt nước phơ phất sương lam dưới trăng non yếu? Cô có
đứng
trông giải phố thấp dưới chân đồi, gió ở đấy vẳng lên mãi điệp khúc phù
du thủ
thỉ.
Cô có
bỗng thấy mình lố bịch,
kệch cỡm, thẹn thùng và cũng thấy mình vòi vọi kiêu hãnh tuyệt trần? Và
lúc ấy cô
có nhớ đến bố mẹ anh em ruột thịt?
Cô có
nhớ ...
Ghi
chú:
Để đọc
bài thơ này cô Th. nên
nghe lại đoạn Presto trong “Hạ khúc” của Vivaldi, đọc lại The Phoenix
and the
Turtle của Shakespeare và bài sau đây của S. Beckett:
Je
voudrais que mon amour meure
et qu’
il pleuve sur le
cimetìere
et sur
les ruelles où je vais
pleurant
celle qui crut
m’aimer
Ghi chú
tiếp
Cô Th.
Năm 80 không có bài
thơ nào cho cô như đã hứa. Cuối tháng 5 mẹ ra thăm bố. Tháng 8 chuyển
trại. Đồ
đạc bị khám xét, những bài thơ bị mất. Bố đành cố nhớ, chép lại, đồng
thời làm
lại hai bài của những năm 78, 79. Vậy coi như bài năm 80 là hai bài cũ
sửa
chữa, thêm thắt, khác tí chút với những lần viết đầu.
(Tân
Lập K5 9/80)
*
Bài ru
tháng 5
Tháng
Năm mưa núi nhộn nhịp
phố
Khúc
dạo xanh tươi mở vào hạ
Hè cao
nguyên chín mùi độ
xuân
Dòng
nhạc tuôn tràn điệu niềm
nở
Tháng
Năm nắng trong ủ mật
hương
Óng
biếc sau mưa những rừng
thông
Thiếp
mê tình tứ trên đồi cỏ
Ngày
nhởn nhơ khoác áo huy
hoàng
Tháng
Năm nườm nượp gió xa lạ
Rủ rê
mặt trời về hớn hở
Trong
vườn nhốn nháo giọng
trăm miền
Ngất
khuya còn nỉ non hàn
huyên
Tháng
Năm ghé tạt cánh bão tố
Giông
trốt buông lung đến
suồng sã
Thú dữ
từng bày động cỡn đêm
Hoan
lạc reo quần thảo Rừng
Đen
Tháng
Năm về dặt dìu quên nhớ
Mưa sao
trút sáng biển soi im
Tháng
Năm về nhặt khoan điệu
vũ
Mây bão
xô lồng, trăng lênh
đênh
Tháng
Năm về, đong đưa tâm sự
Võng ru
qua lại vực thời gian
Tháng
Năm về du dương tình mở
Sinh
nhật con mẹ khóc mơ
màng.
(5 – 81)
Ghi chú
của nhóm thực hiện
bản điện tử cho talawas
Chúng
tôi dựa vào bản đánh
máy chữ do nhà văn Phạm Kiều Tùng thực hiện từ bản thảo viết tay của
nhà thơ
Thanh Tâm Tuyền, khoảng đầu năm 1985. Bản này đã được Thanh Tâm Tuyền
xem lại
từng bài, trước khi đóng thành tập Thơ ở đâu xa để lưu giữ, xem như bản
đầu
tiên, và chuyền tay trong giới bạn đọc. Vào năm 1990, Trầm Phục Khắc
tại Mỹ
cũng xuất bản Thơ ở đâu xa, cơ sở Văn phát hành, bìa 1 của Duy Thanh,
bìa 4 của
Ngọc Dũng. Bản quyền đề cơ sở Văn và Thanh Tâm Tuyền. Điều đáng lưu ý
là 2 bản
này có nhiều bài, nhiều đoạn, nhiều câu khác nhau, chúng tôi chưa xác
minh được
nguyên do.
[1]Tư
Mã Thiên – “Thư gửi bạn”