Thơ mỗi ngày
November 18, 2010 5:49:49 AM
Kính bác Gấu:
Thơ
mỗi ngày mỗi dày đặc, trên Tản Viên,
nhưng thơ thứ thiệt, thì bao nhiêu cho đủ? Hầu như bài nào cũng hay,
thích nhất
mấy bài của Adam Zagajewski, câu:
Gió tháng Chạp
giết hy vọng, nhưng đừng để nó lấy
mất... niềm hứng khởi của GNV!
À, từ đầu đến cuối thấy bác
lèm bèm hoài hoài về Brodsky, sao không giới thiệu thơ của ông?
Rất cảm ơn sự miệt mài của
bác.
DV
*
Tks
Tôi thích giới thiệu những
essays của Brodsky hơn. Chúng có gì liên quan tới cái xứ Bắc Kít ngày
nào của tôi.
Hồi mới ra được hải ngoại, tôi biết đến Brodsky là nhờ đọc Coetzee viết
về ông
trên tờ NYRB, 1 bài viết về những tiểu luận của B. Khi đó, vốn liếng
tiếng Anh
quá ít ỏi, đọc cái được, cái mất, bây giờ, đọc lại, cũng là để mong có
hứng viết
về xứ Bắc Kít, những ngày đi tù VC của tôi "vs" của Brodsky!
Nhưng trên TV cũng có 1 bài
thơ thật là tuyệt vời của Brodsky, gửi cô con gái.
Post lại ở đây, trong khi chờ
hứng, dịch tiếp Phận lưu vong
Thân
NQT
To
My Daughter
Give
me another life, and I”ll be singing
in Caffè Rafaella. Or simply sitting
there. Or standing there, as furniture in the corner,
in case that life is a bit less generous than the former.
Yet
partly because no century from now on will ever manage
without caffeine or jazz, I’ll sustain this damage,
and through my cracks and pores, varnish and dust all over,
observe you, in twenty years, in your full flower.
On
the whole, bear in mind that I'll be around. Or rather,
that an inanimate object might be your father,
especially if the objects are older than you, or larger.
So keep an eye on them always, for they no doubt will judge you.
Love
those things anyway, encounter or no encounter.
Besides, you may still remember a silhouette, a contour,
while I'll lose even that, along with the other luggage.
Hence, these somewhat wooden lines in our common language.
1994
Joseph Brodsky
Gửi
Con Gái Tôi
Cho
tôi một đời khác, và tôi vẫn hát
ở Caflè
Rafaella. Hay giản dị ngồi
ở đó. Hay đứng
ở đó, như cái bàn cái ghế ở góc phòng,
trong trường
hợp cuộc đời sau không rộng lượng bằng cuộc đời trước.
Mà có lẽ, một phần, là còn do
điều này:
không một thế
kỷ nào kể từ nay, mà lại có thể xoay sở, nếu thiếu cà-phê-in và
nhạc jazz,
bố sẽ cố chịu
chuyện đó, như cái bàn cái ghế, với những vết nứt, nẻ, véc ni, mớ
bụi bặm trên mình,
ngắm con gái
của bố, trong hai mươi năm, nở hết những cánh hoa, và trở thành một
đóa hoa rạng rỡ.
Thôi
thì thôi, cũng thế thôi, nhưng hãy nhớ điều này,
rằng bố
vẫn quanh quẩn bên con,
cái bàn
cái ghế vô hồn, bất động,
có thể
là bố đó
nhất là
khi chúng già nua, cồng kềnh, kịch cợm hơn con
Vậy thì
hãy để mắt tới chúng
bởi vì,
không nghi ngờ chi, chúng sẽ cân nhắc mọi chuyện giùm cho con,
[hoặc
cau mày nhắc nhở con, một điều gì đó].
Yêu
mọi điều, mọi chuyện ở trên đời, dù gì đi chăng nữa, dù gặp hay không
gặp.
Ngoài ra còn điều này:
Con vẫn còn nhớ một hình bóng, một dáng vẻ,
Trong khi bố mất tất cả, cùng với cả một hành lý khác.
Thí dụ như là những dòng đời khô héo,
của cái tiếng nói chung,
của cha con ta...
Trang
Joseph
Brodsky

TO THE
READER
Don't
you hear me
Bang my head
Against your wall?
Of
course, you do,
So how come
You don't answer me?
Bang your head
On your side of the wall
And keep me company.
*
Gửi độc
giả TV
Bạn có
nghe GNV đập đầu
ình ình vô tường bạn không?
Ồ, tất
nhiên, bạn có nghe,
làm sao không?
Vậy mà sao không trả lời GNV?
Hãy đập
đầu bạn ình ình vô
tường,
Phiá bên bạn
Và hãy cứ thế, chúng mình là
bạn
*
IN A LITTLE APARTMENT
I ask
my father, "What
do you do all day?" "I remember.”
So in that dusty little
apartment in Gliwice,
in a low block in the Soviet
style
that says all towns should
look like barracks,
and cramped rooms will defeat
conspiracies,
where an old-fashioned wall
clock marches on, unwearied,
he relives daily the mild
September of '39, its whistling bombs,
and the Jesuit garden in Lvov,
gleaming
with the green glow of maples
and ash trees and small birds,
kayaks on the Dniester, the scent of
wicker and wet sand,
that hot day when you met a
girl who studied law,
the trip by freight car to
the west, the final border,
two hundred roses from the students
grateful for
your help in'68,
and other episodes I'll never
know,
the kiss of a girl who didn't
become my mother,
the fear and sweet
gooseberries of childhood, images drawn
from that calm abyss before
I
was.
Your memory works in the
quiet apartment - in silence,
systematically, you struggle
to retrieve for an instant
your painful century.
-Adam Zagajewski
(Translated, from the
Polish,
by Clare Cavanagh)
The New Yorker, April 4, 2007
[In lại trong Eternal Enemies]
Trong căn phòng nhỏ
Tôi hỏi
cha tôi, cha làm gì
cả ngày?
Nhớ!
Và như thế, trong căn phòng
nhỏ bụi bặm ở Gliwice,
trong dẫy nhà thấp lè tè, xây
theo kiểu Xô Viết,
theo nghị quyết, tất cả các
thành phố đều phải giống như trại lính, hoặc trại tù,
với những căn phòng rúm ró,
nhằm đập nát mọi mưu toan, diễn tiến hoà bình!
một căn phòng, trên tường, có
một cái đồng hồ cổ lỗ sĩ,
cứ tí ta tí tách, chẳng hề
mỏi mệt.
chẳng lo đói, chẳng lo bắt
bớ!
Ông sống lại từng ngày, những
ngày giữa tháng Chín 1939,
những tiếng bom réo,
và khu vuờn Jesuit ở Lvov
thì rực rỡ,
với đám phong xanh, cây tro,
và những con chim nhỏ,
những con thuyền trên dòng Dniester,
và mùi wicker, mùi cát ẩm,
một ngày trời nóng, đó là bữa
cha tôi gặp một cô sinh viên luật,
chuyến đi bằng xe tải tới
phương tây, biên giới chót,
hai trăm bông hồng, từ những sinh viên,
cảm ơn sự
giúp đỡ của ông vào năm 1968,
và những đoạn đời khác, tôi
sẽ chẳng bao giờ biết,
nụ hôn của cô gái đã không
trở thành mẹ của tôi,
nỗi sợ, và những trái
gooseberries ngọt ngào của thời con nít, những hình ảnh chiết ra
từ cái khoảng
trầm lắng trước khi có tôi.
Hồi ức của ông làm việc trong
căn phòng trầm lặng – trong im lặng,
một cách thật là hệ thống,
cha tôi chiến đấu để níu lại, trong chốc lát,
nỗi đau thế kỷ của ông.
-Adam Zagajewski
*
ORDINARY LIFE
TO CLARE CAVANAGH
Our life is ordinary,
I read in a crumpled paper
abandoned on a bench.
Our life is ordinary,
the philosophers told me.
Ordinary life, ordinary days and cares,
a concert, a conversation,
strolls on the town's outskirts,
good news, bad-
but objects and thoughts
were unfinished somehow,
rough drafts.
Houses and trees
desired something more
and in summer green meadows
covered the volcanic planet
like an overcoat tossed upon the ocean.
Black cinemas crave light.
Forests breathe feverishly,
clouds sing softly,
a golden oriole prays for rain.
Ordinary life desires.
-Adam Zagajewski
Eternal Enemies
Đời thường
Gửi CLARE CAVANAGH
Đời chúng ta thì là đời thường,
Tôi đọc trong tờ báo bị vò nát
trên băng ghế.
Đời chúng ta đời thường,
những triết gia phán như vậy.
Đời thường, ngày thường, chăm
lo thường thường,
một cuộc hoà nhạc, một cuộc
chuyện vãn,
dạo chơi nơi ngoại vi thành
phố,
tin lành, - không lành
nhưng sự vật và tư tưởng
thì không hiểu ra làm sao, không
làm sao cho suôn sẻ cho được,
như một mớ hổ lốn
Nhà và cây
muốn một điều gì hơn thế nữa
và vào mùa xuân những cánh đồng
xanh
phủ lên hành tinh núi lửa
giống như một cái áo choàng
phủ lên mặt biển
Rạp xi nê đen thèm ánh sáng.
Rừng thở hừng hực,
mây hát nhè nhẹ,
một con chim vàng anh cầu
nguyện mưa.
Đời thường thèm, muốn.
-Adam Zagajewski
Eternal Enemies
*

MUSIC
for D.D.S.
A flame burns within her,
miraculously,
While you look, her edges
crystallize.
She alone will draw near and
speak to me
When others are afraid to
meet my eyes.
She was with me even in my
grave
When the last of my friends
turned away,
And she sang like the first
storm heaven gave,
Or as if flowers were having
their say.
1958
Dimitri D. Shostakovitch:
1906-1975, great Russian composer.
[Anna Akhmatova: Poems,
selected and translated by Lyn Coffin; introduction by Joseph Brodsky]
*
poésie
par Jean-Yves Masson
LA RUSSIE INCARNÉE
Anna Akhmatova, l'une des
grandes voix du xxe siècle
*
La Musique
à D. D. Ch.
Il y a en elle un miracle qui
brûle.
Sous nos yeux, elle forme un
cristal.
C'est elle-même qui me parle
Quand les autres ont peur de
s'approcher.
Quand le dernier ami a
détourné les yeux
Elle est restée avec moi dans
ma tombe.
Elle a chanté comme le
premier orage
Ou comme si les fleurs se
mettaient toutes à parler.
Anna Akhmatova (1889-1966)
*
Âm nhạc
Tặng Shostakovitch
Có ở trong nàng một phép lạ
rực cháy
Dưới mắt chúng ta nàng tạo
thành một khối pha lê
Chính là nàng đang nói với
tôi
Trong khi những kẻ khác không
dám tới gần.
Khi người bạn cuối cùng quay
mặt
Nàng ở với tôi trong nấm mồ.
Nàng hát như cơn dông bão đầu
tiên
Như thể tất cả những bông hoa
cùng một lúc cùng cất tiếng.
*
This woman is ill,
This woman is alone,
Husband in the grave, son in
prison,
say a prayer for me.
Người đàn bà này bịnh,
Người đàn bà này cô đơn,
Chồng ở trong mồ, con, trong
tù,
Hãy cầu nguyện cho tôi,
Một lời.
Anna Akhmatova
TV sẽ
dịch bài giới thiệu tập
thơ Anna Akhmatova, của Brodsky, một trong những bài viết tuyệt vời về
nữ thần
thi ca Nga, và về thơ